Đức Phật Thầy Tây An (BSKH) và Đức Huỳnh giáo chủ (PGHH) có phải là một hay không?

Thảo luận trong 'Trao-Đổi Đạo Vị' bắt đầu bởi Tamtran, 24/5/18.

  1. Tamtran

    Tamtran Administrator


    Đức Phật Thầy Tây An (Bửu Sơn Kỳ Hương) và Đức Huỳnh giáo chủ (Phật Giáo Hòa Hảo)

    --oOo--

    Tịnh Lạc cư sĩ
    [​IMG]

    Thật ra đây là vấn đề khá quen thuộc đối với hai khối tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo vì mối liên hệ khắng khít như hình với bóng đã được hai bên thừa nhận qua những chứng minh về sự kiện và chứng tích lịch sử được thể hiện từ trong căn bản giáo điều và phương pháp tế độ quần sanh cho đến ngôn từ sấm ký v.v...tất cả đều giống nhau như một phiên bản đã đủ yếu tố xác minh sự hóa thân chuyển kiếp của các Ngài ở vào thời kỳ cận hiện đại, đều có một sứ mạng hoằng pháp độ sinh trong thời kỳ mạt tận của buổi hạ nguơn, khi mà nền chân lý Phật đạo của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni đã bị lu mờ và trống vắng nhằm dẫn dắt chúng sanh bước sang một kỷ nguyên của chu kỳ Thượng Nguơn Thánh Thiện và mở đại hội Long Hoa để nghênh đón Đức Di Lặc tôn Phật ra đời chấp chưởng quyền năng của một vị Phật tương lai trong Tam Thế chư Phật.

    Do đó, chúng ta nên hiểu rằng, đây không phải là vấn đề đơn giản, bởi khi Đức Phật Thầy Tây An xuất hiện cứu thế đã có một khoảng cách không gian và thời gian không phải ngắn đối với chúng ta. Thành thử muốn chứng minh giá trị đích thực của lịch sử về mối tương quan mật thiết của sự chuyển tiếp trước và sau giữa hai hiện thân và hai hệ phái, lẽ tất nhiên nó đòi hỏi người thực hiện phải hết sức dày công sưu tầm, khảo cứu một cách tinh tế, xác thực dựa trên tinh thần sử liệu khách quan khả dĩ mới mong đáp ứng được mục đích theo yêu cầu đặt ra, bởi nó còn hàm chứa cả hai lĩnh vực hiện thực và tâm linh.

    Cho nên, ngoài việc căn cứ vào các dữ kiện trong tác phẩm Thất Sơn Mầu Nhiệm của đồng tác giả Trần Văn Nhựt (Dật Sĩ) và giáo sư Nguyễn Văn Hầu, người cầm bút còn phải ra công sưu tầm sử liệu của các sử gia tên tuổi đồng thời còn phải đi khảo sát thực địa để trực tiếp tham vấn các vị lão thành tiền bối ở ngay bản địa làng Tòng Sơn và các vùng phụ cận thuộc các tỉnh An Giang, Sa Đéc và Đồng Tháp để thu thập về khẩu chứng, và hôm nay bút giả xin được đúc kết và trình bày khái quát những dữ kiện lịch sử trọng yếu nhằm để chứng minh giữa Đức Phật Thầy Tây An (Bửu Sơn Kỳ Hương) và Đức Huỳnh giáo chủ (Phật Giáo Hòa Hảo) tuy hai mà chỉ có một được lược dẫn dưới đây:
    Trước hết, ta hãy nghe lời tự xác nhận sau đây của Đức Huỳnh giáo chủ, rằng Ngài là hiện thân của Đức Phật Thầy Tây An tái sinh lần cuối cùng của dòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương:
    Lần thứ chót lựa lời kêu thúc,
    Thầy nhắc cho bổn đạo rõ lòng...


    Ngài còn thổ lộ căn tích, lai lịch của Ngài để cho mọi người được hiểu chính Ngài là Đức Phật Thầy Tây An năm xưa đã viên tịch tại núi Sam trở lại:
    Thương lê thứ bày tường trong đục,
    Mặc ý ai nghe phải thì làm.
    Lời của người di tịch núi Sam,
    Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc...

    Và:
    Khùng thời quê ngụ núi Sam,
    Còn Điên chẳng có chùa am dưới này...


    Cũng như trước đây, tất cả tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương khi cúng lạy hai bàn tay đều úp xuống (lật úp) để biểu tỏ Đức Phật Thầy Tây An đã tịch diệt (nằm xuống), nhưng hôm nay Ngài đã chuyển sanh (tái sanh) qua hiện thân của Đức Huỳnh giáo chủ cho nên toàn thể tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều thực hành theo lời chỉ giáo của Đức Huỳnh giáo chủ khi bái lạy bàn tay phải lật ngửa, bởi vì:
    Bàn tay lật ngửa vậy mà,
    Chứ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.


    Hơn nữa, trong 04 bài thi thất ngôn tứ tuyệt mang tựa đề Lý Lịch, trong đó bài thi cuối cùng Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khéo dùng ẩn từ để chỉ rõ Ngài mang họ Huỳnh tự là Bửu Sơn Kỳ Hương. Ta hãy đọc theo chiều dọc và chiều ngang từ câu thứ nhứt đến câu thứ ba tất sẽ thấy rõ:
    Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
    Tự giác âm thầm kiến tiên bang.
    Bửu ngọc sơn trung kỳ hương chí,
    Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

    Thật ra còn rất nhiều dẫn chứng cho lãnh vực này, song ở đây chỉ nêu lên một vài trường hợp điển hình, bởi còn những chứng tích lịch sử xác nhận tính cụ thể rõ ràng và xác thực hơn, tất nhiên dễ thấy, dễ hiểu và dễ nhìn nhận sự thực của vấn đề về mối liên hệ tương đồng gắn chặt giữa Đức Phật Thầy Tây An trước đây và Đức Huỳnh giáo chủ hôm nay.

    I - Sự tương quan mật thiết qua các sự kiện.

    A – Nhân thân:

    * Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ tuy là giáo chủ của một chi phái đạo Phật nhưng các Ngài đều để râu tóc chứ không thế phát (cạo tóc) như các vị tổ Thiền Lâm vì lý do để khế hợp thời cơ và phong tục, tập quán của xã hội Việt Nam đương thời, hay muốn nói xa hơn là nguồn cội của giống nòi như lời biểu thị của Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    Noi tục cổ xác Khùng để tóc
    Phải đua chen tập tánh ông cha.


    Tuy nhiên, vì sự bắt buộc của triều đình nhà Nguyễn nên Đức Phật Thầy Tây An phải chấp nhận cạo tóc để nhập vào hàng tăng lữ của Phật giáo, nhưng Ngài vẫn để được bộ râu (có một giai thoại về vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết vào dịp khác) và cũng như trường hợp của Đức Huỳnh giáo chủ buộc phải cắt tóc khi ra tham chánh trong Ủy Ban Hành Kháng Nam Bộ.

    * Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh giáo chủ đều không có lập gia đình...

    B – Nghi thức thờ phượng và công phu bái sám.

    * Cùng thờ trần điều (1) thay cho tượng cốt để tượng trưng cho Tam Bảo nhằm thể hiện nền đạo vô vi, chánh pháp vô thượng của Đức Thích Ca Mâu Ni như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ đã hằng minh thị:
    Đạo Vô Vi của Phật ân cần,
    Nối theo chí Thích Ca ngày trước.

    Hoặc:
    Làm vô vi chánh đạo mới mầu,
    Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu
    Hãy tìm kiếm cái không mới có
    Ngôi Tam Bảo hãy thờ trần đỏ
    Tạo làm chi những cốt với hình
    Khùng nói cho già trẻ làm tin
    Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.


    Và cũng thờ ba nơi: ở trong nhà thì thờ hai cấp, trên là ngôi Tam Bảo, dưới là bàn thờ Cửu Huyền và một bàn Thông Thiên trước sân nhà.

    * Việc công phu bái sám (cúng lạy và cầu nguyện) thường lệ ở gia đình mỗi ngày hai thời sáng và chiều theo lời chỉ dạy của các Ngài.

    Đức Phật Thầy Tây An dạy bảo:
    Điều thứ sáu thiết tha Thầy dặn,
    Ngày hai thời lẳng lặng công phu...

    Việc chi dù quá cần cù,
    Cũng nhơn vài phút tập tu nguyện cầu...


    Đức Huỳnh Giáo Chủ thì:
    Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì mới được tòa chương dựa kế...


    Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai...


    Và khi cúng lạy hay cầu nguyện không xướng đọc ra thành tiếng mà chỉ thầm nguyện trong tâm, cũng như không có tụng kinh gõ mõ.

    C – Phương pháp độ đời cũng dùng phương châm “Tam Độ Nhất Như ".


    * Trị bịnh độ đời: các Ngài đều chỉ dùng một phương pháp đơn giản là tro nhang, giấy vàng và nước lã v.v... mà không dùng dược liệu của Đông y và Tây y;
    * Thuyết giáo độ đời: hoặc do sự thỉnh mời hoặc khi bịnh nhân đến xin trị bịnh, nhân đó các Ngài thuyết đạo chỉ dẫn cho họ thấy hiểu về luật nhân quả tội phước để khuyên bảo họ sớm lo ăn năn hối cải và thức tỉnh tu hành, cải ác tùng thiện;
    * Sáng tác sấm kinh: bằng hai thể loại văn xuôi (tản văn) và văn vần (vận văn) để quảng bá giáo pháp của Phật đạo vào quảng đại quần chúng. Nhưng phần lớn là các Ngài dùng vận văn để dễ gần gũi thích nghi với mọi giai tầng xã hội, nhứt là giới bình dân để họ dễ nhớ và dễ lãnh hội trên bước đường tu học v.v...

    D – Nền tảng giáo lý,

    * Cùng lấy Tứ Ân làm giềng mối, như lời Đức Phật Thầy Tây An đã bảo:
    Loài cầm thú còn hay biết ổ,
    Huống chi người nỡ bỏ Tứ ân!


    Và Đức Huỳnh giáo chủ cũng đã từng dạy bảo, nhắc nhở:
    Một câu quân lý Tứ ân,
    Ta đừng phai lạt Phong thần bảng ghi...

    Và:
    Nào là luân lý Tứ ân,
    Phải lo đền đáp xác thân mới còn...


    * Lấy Học Phật Tu Nhân làm nền tảng;
    * Đồng thời hiển thị các pháp thiền tông và tịnh độ để dẫn dắt người tu tập đạt đến quả vị tu chứng Niết Bàn và liễu sanh về cõi Tây Phương Phật quốc.

    II – Sự kiện và các trại ruộng.

    A – Vào đầu năm Canh Thìn (1940), trong chuyến đi thuyết giáo ở làng Nhơn Mỹ, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang do bổn đạo và quần chúng ở đây cũng như các vùng lân cận thỉnh mời, Đức Huỳnh giáo chủ đã ngỏ ý đi bằng ghe chèo và đi phía sông Tiền vào cù lao ông Chưởng. Trong chuyến đi này có hai ông Hương quản Chiến và Ngô Tường Hoa (tức Năm Lài) đều là người ở làng Long Kiến cùng đi để bảo vệ và dẫn đường. Khi chiếc ghe đi ngang qua chùa Tây An Cổ Tự, Đức Huỳnh Giáo Chủ nhìn lên chùa và nói: "Người dời mà bến không dời!”; ở đây ta phải hiểu câu nói ẩn ý sâu xa của Ngài đã ám chỉ ngôi chùa này trước kia chỉ là cái cốc của ông Kiến, chính Ngài (là Đức Phật Thầy) đã đến đây để dùng làm phương tiện trị bịnh cứu đời và sau đó đã lập nên ngôi chùa bằng gỗ lợp ngói. Rồi thời gian Ngài đã bao lần tái kiếp, tức "người dời" cho đến hôm nay (1940), dù ngôi chùa đã phải trải qua bao lần dâu bể nhưng cũng vẫn còn nằm yên ở vị trí của năm xưa, tức "mà bến không dời!". Đây là câu chuyện mà bút giả được ông Năm Lài kể lại vào năm 1967, tại văn phòng Đại diện Giáo hội PGHH, số 114, đường Bùi Thị Xuân, quận I Sài Gòn. Lúc bấy giờ ông Năm Lài là đương kim thành viên trong BCH đảng Dân Xã (chữ Vạn) do cụ Phan Bá Cầm đảm trách.

    B – Vì để khuếch trương nền đạo, Đức Phật Thầy từ chùa Tây An núi Sam đã đi vào vùng Thới Sơn, tức thôn Thới Sơn, tổng Quy Đức, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc (dưới chân núi ông Két). Nơi đây Ngài có cho xây dựng ngôi chùa nhỏ rất đơn giản lấy tên là Phước Điền Tự để làm cơ sở thờ tự và có nơi thu nhận tín đồ đến quy y thọ giáo. Đồng thời để được danh chánh ngôn thuận của một trại ruộng, Đức Phật Thầy có sắm đôi trâu đặt tên là ông Sấm và ông Sét (vì đôi trâu này chỉ có Đức Phật Thầy sử dụng sai khiến được mà thôi) để lo việc cày bừa trông trọt ruộng nương nuôi sông với nhau bằng tự lực cánh sinh chứ không chủ trương đi khuyên tởi cậy nhờ vào của cải của bá tánh thập phương.
    Khi trại ruộng đã hoàn thành, Đức Phật Thầy giao trách nhiệm cho hai ông Tăng Chủ và ông Đình Tây trông coi và lo việc phát huy đạo pháp để Ngài còn đi xuống vùng Láng Linh thuộc thôn Thạnh Mỹ Tây, tổng An Lương, quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, một vùng đất trũng, sình lầy nước đọng (Cầm Thủy) đa số là rừng cây Bảy Thưa (nơi quê hương của Đức Cố Quản Trần Văn Thành và đây cũng là căn cứ địa, tức tổng hành dinh của ông chống Pháp sau này). Đến đây Đức Phật Thầy đã quy tụ dân chúng cùng nhau khai hoang và lập trại ruộng để tạo điều kiện cuộc sống cho đa số nông dân nghèo khổ có đất đai để canh tác. Đồng thời Ngài còn cho xây cất ở đây ngôi chùa Bửu Hương Các để cho tín đồ và bá tánh thập phương có nơi để phụng tín ngưỡng chiêm bái. Ngài còn ứng khẩu bài thi Khoán thủ bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương như bốn câu liễn đối và Ngài bảo Đức Cố Quản ghi chép và vẽ lên bốn hàng cột ở mặt tiền của chùa. Nội dung của bài thi như sau:
    Bửu điện Long Châu khải triệu Nam phương Phật pháp hoằng khai huyền bí
    Sơn xuyên Hưng Thới cơ đồ Bắc khuyết Thiền môn chiếu diệu anh linh
    Kỳ nguyện thiên nhiên vạn tải lưu phương Phật giáo sùng tu cổ tự
    Hương dương địa thới thiên thu phổ đức sư truyền đạo lập tân dân.

    Dịch:
    Điện báo ở Long Châu khai mở ở Nam phương Phật pháp hoằng khai huyền bí
    Nơi chốn núi sông Hưng Thới là cơ đồ ngôi báu cửa thiền chói rạng anh linh
    Kỳ nguyện thiên nhiên muôn thuở lưu danh Phật giáo sùng tu chùa cổ
    Hương dậy đất yên ngàn năm phổ đức noi theo chơn truyền của thầy đêm đạo lập tân dân.


    Sau khi hoàn tất công trình đại quy mô ở đây, Đức Phật Thầy đã phó thác toàn bộ cho Đức Cố Quản quán xuyến, đồng thời Ngài còn giao giáo ấn của Ngài cho Đức Cố Quản, trong đó vỏn vẹn có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương để làm ấn tín khi thu nhận tín đồ (vì từ trước tới nay mỗi người khi đến phát nguyện quy y thọ giáo thì Đức Phật Thầy chỉ phát cho có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương). Do đó sau này Đức Huỳnh giáo chủ ra đời Ngài đã không quên nhắc lại căn nguyên, nguồn gốc cho toàn thể bổn đạo thấu hiểu để lấy đó làm tin và lấy thêm yếu tố để xác định sự liên quan giữa Ngài và Đức Phật Thầy tuy hai mà chỉ có một, Ngài bảo:
    Muốn xem bốn chữ Long Châu, (2)
    Bền gan sắt đá sòng nâu tu trì.
    Tu hành mà mãi nan nghi,
    Sợ Ta gạt gẫm cũng kỳ cho dân.
    Chim ô đã dựa cầu Ngân,
    Người xưa trở gót mấy lần ai hay?


    Trước khi rời khỏi vùng Láng Linh (ấp Long Châu) Đức Phật Thầy gọi Đức Cố Quản và đông đảo tín đồ hiện diện, Ngài bảo: "Chừng nào ở đây có con sông đó là ngày Thầy trở lại!". Thật quả đúng như lời báo trước của Ngài, tức vào năm 1939, khi Đức Huỳnh Giáo Chủ khai mở đạo thì cũng là năm chánh quyền thực dân Pháp thực hiện kế hoạch mở mang, xây dựng cơ sở chiến lược ở hạ tầng nên bọn chúng đem xáng đến múc con kinh (tức kinh xáng Vịnh Tre) khởi đầu từ phía hữu ngạn Hậu Giang đi ngang qua hướng Tây Bắc chùa Bửu Hương Các và chạy thẳng vào xã Tân Lập, quận Tri Tôn, tỉnh Châu Đốc (nay là huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) đúng như lời tiên tri của Đức Phật Thầy và đã được Đức Huỳnh giáo chủ xác nhận:
    Nay Khùng đã hết già hóa trẻ,
    Nên giữa đồng bỗng lại có sông!


    Đây là một sự kiện rõ ràng ứng hợp lời sấm cơ báo trước bởi khi Đức Phật Thầy Tây An viên tịch đã ở vào tuổi 50, tức đã "già" đến lúc chuyển thân qua Đức Huỳnh giáo chủ để khai lập nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo thì chỉ mới vừa tròn 20 tuổi, nên đã "hết già hóa trẻ". Đồng thời cũng đúng lúc con kinh Vịnh Tre mới vừa được hình thành ứng hiện với câu "Nên giữa đồng bỗng lại có sông!"
    Tưởng cũng nên hiểu thêm về sự kiện này. Khi Đức Phật Thầy đã báo trước về con kinh Vịnh Tre và Ngài còn bảo Đức Cố Quản và bổn đạo hãy nên xem kỹ bài thi bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương để hiểu biết tiến trình khai mở vùng địa linh của Bảy Núi sau này. Tất nhiên trong bối cảnh nhứt thời chưa ai hiểu được Thánh ý huyền thâm cơ mật của Ngài. Rồi lần hồi theo năm tháng, mọi người trong bổn đạo đã dốc tâm nghiên cứu tìm hiểu mới thấy được ý nghĩa tiềm ẩn ở câu thứ hai là "sơn xuyên Hưng Thới", có nghĩa là núi sông Hưng Thới, như vậy Đức Phật Thầy muốn nói sẽ còn một con sông nữa mang tên Hưng Thới sẽ xuất hiện ở khu vực Thất Sơn này. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy trong Kim Cổ Kỳ Quan ông Ba Thới cũng đã có đề cập tới con sông qua câu: "Con sông Hưng Thới ai đâu biết gì"! Thế là mọi người cùng bàn tán và tự đặt ra các câu hỏi con sông này đã có hay chưa, và nếu có thì ở đâu, vì đã phối kiểm kỹ trong phạm vi lãnh địa của Thất Sơn coi như hoàn toàn là chưa có. Người ta còn nghĩ rằng không hiểu Đức Phật Thầy muốn nói nghĩa đen hay nghĩa bóng nữa? v.v... Tựu trung câu trả lời vẫn còn bị bỏ ngỏ!

    Thế nhưng, ai có ngờ được rằng cho đến thập niên 90 của thế kỷ 20, đã trải qua bao thế hệ đời người mới chứng minh được lời sấm ký của Đức Phật Thầy và ông Ba Thới đã hiển bày qua hiện thực, khi mà chánh quyền của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa xáng đến múc con kinh mới ở đây. Con kinh này được khởi điểm từ cầu Cần Thảo thuộc xã Mỹ Đức, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang chạy thẳng vào núi Voi.

    Theo người dân ở đây cho biết, họ đã chứng kiến một hiện tượng kỳ bí đó là trong lúc đào múc con kinh tự nhiên đã lòi ra một tấm thẻ đá có mang hàng chữ "Hưng Thới Hà" (chữ Hán), có nghĩa là sông Hưng Thới. Và được biết thời gian đầu chánh quyền vẫn giữ cái tên ấy nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì mà chánh quyền lại cải tên là kinh Mới (?). Thế nhưng hiện nay toàn thể người dân ở khu vực này đều gọi là kinh Hưng Thới.
    Trường hợp này rất giống với việc cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có lời tiên tri trước hàng trăm năm là ông Nguyễn Công Trứ sẽ vâng lịnh triều đình nhà Nguyễn để đào con kinh trúng ngay đền của ông qua câu: "Minh Mạng thập tứ, thằng Trứ phá đền..."
    Ngoài ra cũng còn bài thi bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Phật Thầy sáng tác, mục đích cũng để đề danh cho tông phái. Bài thi thất ngôn tứ tuyệt thể khoán thủ tung hoành đọc, nghĩa là đọc hàng ngang, hàng dọc cả bảy chữ đều có ý nghĩa:
    Bửu ngọc quân Minh thiên Việt nguyên
    Sơn trung Mạng địa Nam tiền
    Kỳ niên trạng tái tân phục quốc
    Quân xuất Trình sanh tạo nghiệp yên.


    Còn Đức Huỳnh giáo chủ thì đã có hàng chục bài thi để nói về Bửu Sơn Kỳ Hương, song ở đây chỉ đơn cử vài bài tiêu biểu:
    Bửu Ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
    Sơn đài lộ vẻ liễu huyền vi.
    Kỳ thâm tá giả thi hành thủy,
    Hương vị âm thầm mộc túy vi.
    Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử,
    Non lịch đài mây rạng tu mi.
    Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ,
    Núi ngự hoàng san tự Đĩnh Chi...


    * * *
    Bửu ngọc vãng lai rõ đạo mầu,
    Sơn tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
    Kỳ giả thức tâm tầm đạo lý,
    Hương tuyệt đăng lai bãi phục cầu...


    * * *
    Bửu ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
    Sơn đài hồ hải luyện tứ phang.
    Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục,
    Hương giải thao tồi thị Bảo Giang...


    III – Đức Phật Thầy trở lại chùa Tây An núi Sam và những dữ kiện về hậu lai chuyển kiếp.

    Sau một thời gian đi khai mở các trại ruộng nhằm mục đích vừa quảng bá đạo mầu đồng thời cũng vừa thực hiện công cuộc khai hoang mở đất để cải tạo đời sống an sinh xã hội cho dân nghèo, và có lẽ đã gần ngày nhập diệt nên Đức Phật Thầy đã trở về chùa Tây An núi Sam để an dưỡng. Lúc bấy giờ ông đạo Thắng là một trong số mưởi hai vị đại đệ tử (thập nhị hiền thủ) của Đức Phật Thầy có đặt ra mấy câu hỏi liên quan về hậu lai chuyển kiếp vì trước đây thỉnh thoảng ông đã được nghe Đức Phật Thầy hay đề cập đến chuyện "Thầy ra đi rồi sẽ trở lại" nên ông hỏi: "Bạch Thầy, như Thầy thường bảo sau khi tịch diệt rồi có một thời gian Thầy sẽ trở lại, vậy điều mà con muốn biết là bao giờ và Thầy trở lại bằng hình thức nào để con nhận ra Thầy?" Đức Phật Thầy liền trả lời rằng: "Ngày thầy trở lại là con không còn đâu... mà chỉ có cháu đích tôn (cháu nội) của con mới gặp được thầy mà thôi!" Ông đạo Thắng bèn hỏi tiếp: "Bạch Thầy, như vậy phải trải qua ba đời người thì lấy gì làm bằng chứng để cháu nội của con được biết và nhận ra Thầy?" Đến đây Đức Phật Thầy không trả lời mà Ngài bảo ông đạo Thắng lấy giấy bút ra để rồi Ngài viết một mạch xong hai bài thi, đó là bài Bát Nhẫn và bài thi thất ngôn bát cú có tám chữ: "Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận" (Ngài viết bằng chữ Hán theo thể khoán thủ cách cú và mang bộ sước) rồi Ngài còn dặn ông đạo Thắng đây là hai bài thi thuộc mật nhiệm bí truyền chỉ có cha truyền con nối, tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài. Nếu sau này có ai họa vận được hai bài thi này đó tức là Thầy trở lại đó! (3)
    Thế rồi mấy hôm sau Đức Phật Thầy tìm được ở đâu đó bốn cây dầu con và Ngài cũng trao cho ông đạo Thắng và bảo ông này đem xuống trồng ở chùa Tây An Cổ Tự (làng Long Kiến, nay là xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) trồng ở trước sân chùa một cây và phía sau chùa ba cây để làm tín vật về sau, kèm theo những lời khẩu truyền của Đức Phật Thầy qua hai câu sấm như lời tiên báo về sự trở lại của Ngài:
    Chừng nào gốc mục lên chồi,
    Ta vưng sắc lịnh tái hồi trần gian...

    và:
    Chừng nào trâu rống dưới sông,
    Lòng Ông bảy chợ thì Ông trở về.

    Qua hai câu chuyện vừa kể, chúng ta thấy có hai sự kiện cần phải được lý giải và kiểm chứng qua những sự kiện siêu nhiên nhưng rất cụ thể và xác thực như sau:

    * Về hai bài thi của Đức Phật Thầy trao cho ông đạo Thắng

    Sau khi trao truyền các tín vật cho ông đạo Thắng, chỉ trong thời gian ngắn Đức Phật Thầy đã viên tịch rồi lần lượt ông đạo Thắng cũng ra đi về bên kia thế giới vĩnh hằng. Trước khi nhập thánh, ông đạo Thắng đã trao truyền hai bài thi gia bảo của Đức Phật Thầy cho người con trai của ông với lời dặn dò cẩn mật. Và hai bài thi này đến đời thứ ba, tức người được thọ nhận sau cùng đó là ông Nguyễn Phước Còn, cháu đích tôn của ông đạo Thắng (ông Bảy Còn ở chợ Cà Mau, nằm phái tả ngạn sông ông Chưởng, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang, cho nên người ta thường gọi ông là ông Bảy Cà Mau, ông cũng giỏi nghề hốt thuốc trị bịnh).

    Khi Đức Huỳnh giáo chủ giáng thế lập đạo ở làng Hòa Hảo thì ông Bảy Còn có nằm mộng thấy chư thần đến mách bảo với ông Đức Phật Thầy đã trở lại tại làng Hòa Hảo rồi... nhưng ông không tin vì cho rằng đó chỉ là mộng mị do ảo giác mà ra. Rồi qua đêm thứ hai ông cũng thấy điềm mộng giống y như vậy nhưng ông vẫn phớt lờ, và mãi đến đêm thứ ba ông đã bị chư thần quở trách rất nghiêm khắc nên buộc lòng ông phải đi với một tâm trạng phân vân và hoài nghi, không tin đó là sự thật (có một lý do là lúc còn niên thiếu, Đức Huỳnh giáo chủ lâm trọng bịnh, Đức Ông có chở Ngài đến ông Bảy Còn để nhờ điều trị, do đó nay nghe rằng ông này là Đức Phật Thầy Tây An trở lại thì bảo sao ông có thể tin được?). Cho nên ông đi với mục đích muốn thử xem chuyện thực hư, chân giả thế nào mà thôi. Do đó, khi đến nơi ông Bảy thay vì đi thằng vào nhà của Đức Ông để tiếp kiến Đức Huỳnh Giáo Chủ thì ông lại ghé tạt qua nhà của ông Út (tức ông Huỳnh Công Quốc, bào đệ của Đức Ông) để đàm đạo uống trà với ông Út, bởi giữa hai người đã có chỗ thâm tình với nhau từ trước. Trong khi đó Đức Huỳnh giáo chủ dang thuyết pháp cho mọi người nghe thì bỗng dưng Ngài tuyên bố tạm dừng trong giây lát để Ngài tiếp một vị khách đặc biệt, rồi Ngài đi thẳng qua nhà của ông Út và không một chút ngần ngại, Ngài đến nắm tay ông Bảy Còn và bảo: "Ông đợi chư thần quở trách rồi mới đến phải không, và mục đích ông đến để thử tôi chứ gì?". Câu hỏi đột ngột của Đức Huỳnh Giáo Chủ như một luồng điện đánh thẳng vào tâm thức làm cho ông Bảy vô cùng ngạc nhiên đến sững sờ bởi ông tự hỏi, tại sao sự chiêm bao của mình chưa bao giờ nói ra cho bất cứ ai nghe mà ông này lại biết ý nghĩ và chuyện thầm kín của mình. Đó là cái cảm giác đầu tiên đã làm cho ông thầm kính phục bởi sự quán thông siêu việt của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Đến khi ông được Đức Huỳnh Giáo Chủ nắm tay dẫn qua nhà của Đức Ông (Tổ Đình) và được Đức Huỳnh Giáo Chủ mời ngồi ngay bộ ghế trường kỷ rất trang trọng ở giữa nhà.
    Lúc này mọi người nhìn thấy sự kiện lạ đều xúm nhau chen chúc vây quanh trước cửa nhà để theo dõi vụ việc trong đó có ông Nguyễn Duy Hinh (sau này năm 1967 là đệ nhứt phó Hội trưởng Ban Trị Sự Trung ương Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo thuộc hệ phái thứ II của tôn giáo). Bây giờ người ta ghi nhận Đức Huỳnh giáo chủ mở đầu câu chuyện bằng câu hỏi với ông Bảy Còn, Ngài hỏi: "Ông Bảy à, hai bài thi mà tôi để lại cho nội tổ của ông (tức ông đạo Thắng) hiện đang nằm trong túi của ông phải không? Thôi để tôi họa lại cho ông xem coi có đúng không?". Rồi Ngài viết một mạch xong hai bài thi (Ngài viết bằng Việt ngữ) và trao cho ông Bảy Còn xem. Ông Bảy nhìn thấy toàn chữ Việt nên liền kính cẩn thưa rằng: "Thưa cậu Tư, tôi không mấy rành chữ quốc ngữ, vậy nhờ cậu viết bằng Hán tự thì tôi mới biết". (Thật ra đây là cơ hội tốt nhứt để ông Bảy thử tài Đức Huỳnh Giáo Chủ vì ông đã biết Ngài chưa bao giờ học chữ Nho thì làm gì viết được hai bài thi theo thể khoán thủ cách cú mà phải viết theo bộ sước nữa, đó là chưa nói đến tính chất mật nhiệm bí truyền của hai bài thi!) Thế là Đức Huỳnh giáo chủ không một chút chần chừ suy nghĩ, Ngài liền hạ bút viết ngay hai bài thi bằng chữ Hán đáp ứng theo lời yêu cầu của ông Bảy. Sau khi xem xong hai bài thi, ông Bảy liền rời khỏi ghế ngồi và quỳ xuống bái lạy Đức Huỳnh Giáo Chủ xin được thọ giáo quy y vào đạo. Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa hai tay ra đỡ ông Bảy đứng dậy và bảo: "Xác trần của tôi còn nhỏ lắm ông Bảy ơi, ông hãy đến lạy trước ngôi Tam Bảo kìa!"

    Đây là sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại mà bút giả đã có được cái cơ duyên may mắn đã đến tận tư gia của các ông Bảy Còn, ông Út (bào đệ của Đức Ông) và ông Nguyễn Duy Hinh để thăm hỏi cho tỏ tường sự việc đều đã được các ông tường thuật đúng y tính chất của vấn đề. Riêng ông Bảy Còn (nhân vật chính của cốt truyện) chẳng những đã trình bày câu chuyện mà ông còn nói lên tâm tư kính phục về thần cách siêu phàm của Đức Huỳnh Giáo Chủ khi ông đã trực diện tiếp kiến.

    * Về năm cây dầu Đức Phật Thầy giao cho ông đạo Thắng trồng ở Tây An Cổ Tự.


    Sau khi được Đức Phật Thầy giao phó trách nhiệm, ông đạo Thắng đem năm cây dầu con xuống trồng ở chùa Tây An Cổ Tự, làng Long Kiến, nay là xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông trồng hai cây ở trước sân chùa và ba cây phía sau chùa đúng theo lời dặn bảo của Đức Phật Thầy. Năm cây dầu này phát triển rất nhanh nhưng rồi thời gian trải qua bao cuộc thăng trầm binh biến nên ngôi chùa đã mấy lần bị thiêu rụi, và năm cây dầu cũng chịu chung số phận, đều bị chết cháy và mục rũ theo năm tháng. Tất nhiên ngôi chùa đã qua mấy lần xây đi cất lại còn năm cây dầu coi như đã hoàn toàn bị xóa sổ không còn ai lưu tâm nghĩ đến. Thế nhưng, có một hiện tượng lạ kỳ xuất hiện đó là gốc của hai cây dầu bị cháy ở trước sân chùa lại có một góc bỗng nhiên mọc lên cái chồi non mượt mà xanh tốt khiến cho một số người nhạy cảm tò mò, họ bèn xúm nhau đem cuốc xẻng đến để đào bới xung quanh gốc của cái chồi để xem cho biết có phải cây dầu tự nhien mọc lên hay có liên quan gì đến cây dầu đã bị chết? Kết quả cho thấy, cái gốc của cây dầu bị chết chỉ có ba cái rễ lớn, hai cái thì đã bị mục rã thành phân đất hết rồi, chỉ còn lại duy nhứt một cái vẫn còn xanh tươi để mọc lên cái chồi ấy. (Theo mấy cụ bô lão ở đây kể lại thì sự phát hiện cái chồi ấy vào đầu năm 1939, chỉ vài tháng trước ngày Đức Thầy khai mở nền đạo tại làng Hòa Hảo).. Trong nhứt thời mọi người đều xôn xao thắc mắc và tự hỏi nhau tại sao cái rễ của một gốc cây đã chết cả trăm năm rồi mà vẫn còn tươi xanh và điều lạ nhứt là để đến bây giờ cái chồi mới mọc lên? Họ mới bắt đầu bàn tán và nhớ lại mấy câu khẩu ứng như lời sấm tiên tri của Đức Phật Thầy xưa kia đã nói với ông đạo Thắng và trong bổn đạo đều ghi nhớ nằm lòng nên họ cùng bảo với nhau rằng: "Gốc mục đã lên chồi rồi!" còn "Ta vưng sắc lịnh tái hồi trần gian" hiện đã có hay chưa, hoặc đã có thì đang ở đâu và bằng hình thức nào??? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong tâm trí của mọi người nhưng chưa hết, người ta còn bàn tán đến hai câu nữa của Đức Phật Thầy đó là:
    Chừng nảo trâu rồng dưới sông,
    Lòng ông Bảy Chợ thì Ông trở về!


    Tất nhiên các câu hỏi cần phải được đặt ra thế nào là trâu rống dưới sông? Và lòng ông Bảy Chợ là ở đâu? Nhưng cuối cùng người ta cũng đã tìm được lời giải xuyên qua hai sự kiện sau:
    - Thứ nhứt: người ta thấy không chỉ ở lòng sông ông Chưởng mà còn rải rác ở một vài nơi khác, tất cả những người lái đò (đò ngang hay đò dọc) lúc bấy giờ, thay vì dùng phương tiện nào khác để thông báo cho khách hàng mà họ dùng sừng trâu làm thành ống tù và để thổi nghe inh ỏi trên các con sông, thì người ta mới nhận ra đây quả đúng là "trâu rống dưới sông" như Đức Phật Thầy đã bảo;
    - Thứ hai: câu "Lòng ông Bảy Chợ thì Ông trở về!". Bấy giờ mọi người mới làm cái việc kiểm chứng lại các chợ trong lòng sông ông Chưởng để xác minh tường tận cho vấn đề, nghĩa là người ta bắt đầu đếm từ trên xuống thì quả nhiên có trúng bảy cái chợ, gồm có:
    1/ Chợ Mương Lớn
    2/ Chợ Cả Xoài
    3/ Chợ Bà Vệ
    4/ Chợ Mương Tịnh
    5/ Chợ Cà Mau
    6/ Chợ Chưn Đùn
    7/ Chợ Sóc Chét

    Riêng cái chợ thứ tám (8) là chợ Cái Hố đã lập lên ba lần đều đã bị cháy, ứng hợp với cơ huyền định đoạt khi Đức Huỳnh giáo chủ ra đời lập đạo năm 1939 thì sự hiện hữu ở đây chỉ có đúng bảy cái chợ như đã nêu trên.

    Tóm lại, tổng quan các dữ kiện đã lược dẫn trên đây là những minh chứng điển hình một cách rõ ràng, chân xác từ địa hạt tâm linh cho đến những bằng chứng cụ thể về mối liên hệ gắn chặt của sự hóa thân chuyển kiếp giữa hai thánh thể qua lại của Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ, tất cả đó là những yếu tố khẳng định giữa hai Ngài tuy hai mà chỉ có một mà thôi!!! (4)

    * Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ và con của Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) như trong tác phẩm "Thân thế Đức Phật Thầy Tây An và Ngọc Hân công chúa qua Kim Cổ Kỳ Quan" của tác giả Sripolieu không?

    Lẽ ra vấn đề này không nên đặt lại vì nó đã quá lỗi thời và đã bị đào thải theo quy luật của thời gian, nói chung là nó đã bị nhấn chìm trong quên lãng bởi tính chất của nó chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng không có cơ sở dữ liệu nào trong các giáo sử và lịch sử của dân tộc! Ấy vậy mà thời gian gần đây thỉnh thoảng đâu đó cũng còn lẻ tẻ một vài luồng dư âm tiếng vọng xuất phát từ những phần tử nhẹ dạ cả tin hoặc những thành phần thiếu hiểu biết, nhứt là có một vài tác phẩm chào đời của những ngòi bút chợ trời muốn hâm nóng lại vấn đề đã gây nên làn sóng phản ứng quyết liệt trên các phương tiện sách báo, bài viết và cả trên các trang mạng internet v.v... Hệ quả đã làm nhiều giá trị đích thực của lịch sử, chẳng hạn như tác phẩm của Sripolieu là một ví dụ!
    Thực ra cư sĩ Sripolieu chỉ dựa vào tác phẩm tiểu thuyết Phi Lạc sang Tàu của cố học giả Hồ Hữu Tường (đúng là câu chuyện tiểu thuyết giả tưởng cũng tương tự như tiểu thuyết huyền thoại của Kim Dung vì nó không thuộc về sử liệu mà nó chỉ là chuyện hư cấu được dàn dựng theo ý đồ chủ quan nhằm phục vụ cho tham vọng cá nhân mà thôi!). Chủ tâm của ông Hồ Hữu Tường muốn gán ghép Đức Phật Thầy Tây An vào hệ gia phả của họ Hồ và cấu kết Đức Phật Thầy là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ (tục danh là Hồ Thơm) nhằm để hợp thức hóa cho cái họ Hồ của ông cũng nằm trong miêu duệ (ngọc phả) của nhà vua và một đấng giáo chủ. Mục đích của ông Tường là muốn nắm được ảnh hưởng của cả hai khối tín đồ lớn mạnh của Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo làm hậu thuẫn vì đó là nấc thang để ông bước lên vũ đài chính trị!
    Nhưng rất tiếc thay!Cư sĩ Sripolieu muốn chứng tỏ là người có học thức thì chí ít ông cũng phải am hiểu phần nào về sử Việt, nhứt là các bộ sử của thời kỳ cận hiện đại như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Đại Nam thực lục, biên niên sử triều Nguyễn; Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Việt Nam sử đại cương của Nguyễn Văn Hầu; bộ Thành ngữ Điển tích và Danh nhân Tự điển của Trịnh Vân Thanh; và Lịch sử An Giang của Sơn Nam v.v... để giúp cho ông thấy và hiểu được về chính sử của việc khai mở và xâm thực phần lãnh thổ ở phía Nam trên bản đồ đất nước. Coi như hầu hết các bộ sử liệu này đều không thấy điểm nào có đề cập đến chuyện Đức Phật Thầy Tây An là họ Hồ hoặc là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa cả!!!
    Chính vì không hiểu hoặc không chịu sưu tầm tra cứu lịch sử nên cư sĩ Sripolieu chỉ dựa vào cốt truyện tiểu thuyết hoang đường, viễn tưởng của cố học giả Hồ Hữu Tường và xem đó như là tài liệu để biên khảo và viết ra thành sách đem phổ biến khắp nơi cả trong và ngoài nước. Nhưng ông có biết đâu rằng đưa con tinh thần mà ông cưu mang, chắt chiu nuôi dưỡng lại là cái quái thai đối với tôn giáo và cả trên văn đàn sử học! Và chính nó là hệ quả vô cùng tác hại đến danh dự và uy tín của một người biết cầm bút như ông! Do đó, bút giả xin phép được hỏi ông, cái tác phẩm Phi Lạc sang Tàu đã là cái xác chết bị thối rữa rồi mà nay ông muốn làm phù thủy hà hơi tiếp sức cho nó sống lại để nhằm mục đích gì vậy? Cái tham vọng của cố học giả Hồ Hữu Tường thì đã thấy quá rõ rồi đó, còn ông thì sao?! Câu trả lời để ông tự suy nghĩ và sự phán xét của công luận!

    Vậy để làm sáng tỏ hơn cho vấn đề, bút giả xin dẫn ra đây một câu chuyện cụ thể về tác phẩm Phi Lạc sang Tàu của cố học giả Hồ Hữu Tường nhằm giúp thêm cho cư sĩ Sripolieu nhận ra sự thật lịch sử để không còn lý do biện luận một cách vớ vẩn làm tổn thương danh dự và uy tín của một con người mệnh danh biết cầm bút viết sử! Tức là cuối năm 1966, một phái đoàn được cụ Lương Trọng Tường, Hội trưởng Ban Trị Sự Trung Ương giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I (1964 – 1966) đề cử gồm có giáo sư Nguyễn Văn Hầu, Trưởng ban (Viện trưởng) Phổ thông Giáo lý Trung Ương làm trưởng đoàn; ông Lê Hòa Nhựt, cố vấn Ban Trị Sự Trung Ương và tôi, giảng viên truyền bá giáo lý Trung Ương để thực thi nhiệm vụ đến gặp và làm việc trực tiếp với học giả Hồ Hữu Tường liên quan đến tác phẩm Phi Lạc sang Tàu do ông ta là tác giả.
    Qua một vài câu chuyện thăm hỏi và giới thiệu để biết nhau, ông giáo sư Nguyễn Văn Hầu với tư cách đại diện Ban Trị Sự Trung Ương giáo hội đã đặt ra mấy câu hỏi với học giả Hồ Hữu Tường về nội dung tác phẩm Phi Lạc sang Tàu có đề cập Đức Phật Thầy Tây An nằm trong dòng tộc họ Hồ và là con của Quang Trung Nguyễn Huệ (tộc danh là Hồ Thơm) và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) để yêu cầu ông Tường giải thích và chứng minh bằng tư liệu lịch sử. Bấy giờ chúng tôi thoáng ghi nhận qua cử chỉ và thái độ của ông Tường đã biểu lộ trạng thái như có vẻ ngột ngạt, lúng túng nhưng ông cũng cố giữ sự bình tĩnh để trả lời rằng: "Thật sự đây là một lầm lẫn lớn về lịch sử của tôi, rất mong quý vị và Giáo hội thông cảm và bỏ qua cho". Ông giáo sư Hầu liền đáp lại: "Đứng về phương diện của chúng tôi và Giáo hội cũng có thể sẵn sàng thông cảm và bỏ qua cho ông nhưng còn độc giả và công luận thì sao? Ít ra ông cũng có lời cáo bạch để xin lỗi công khai sự sai lầm của ông trước công luận khách quan mới hợp tình hợp lý chứ!" Trong lúc ông Tường còn đang trầm tư suy nghĩ chưa kịp trả lời thì ông giáo sư Hầu bèn tiếp thêm ý kiến: "Nếu ông cảm thấy có gì trở ngại thì giáo hội chúng tôi sẽ ban hành một thông tư coi như thay cho ông để bạch hóa vấn đề trước dư luận quần chúng; có thể được chứ?". Qua câu hỏi tế nhị nhưng cũng hàm chứa điểm nhấn này khiến cho ông Tường như bị giật mình nên ông ta liền trả lời rằng: "Thôi xin quý vị bình tĩnh và yên tâm, tôi sẽ phải làm việc đó!". Tóm lại, nội dung của buổi gặp gỡ và làm việc được kết thúc bằng lời xin lỗi trực tiếp và lời hứa sẽ thực hiện một bức thư cáo lỗi với độc giả và công luận của học giả Hồ Hữu Tường.

    Một sự thật hiển nhiên đã được vạch trần ra ánh sáng, vậy xin hỏi cư sĩ Sripolieu ông nghĩ gì khi học giả Hồ Hữu Tường là cha đẻ của tác phẩm đã thừa nhận sự sai lầm của mình như thế đã đủ chứng lý để ông (chỉ là người thừa kế) có chịu nhìn nhận sự thật của vấn đề hay chưa?! Thú thật với ông rằng, qua nghiên cứu theo dõi trên diễn đàn văn học sử xuyên suốt nửa thế kỷ qua rồi, bút giả mới ghi nhận trường hợp duy nhứt chỉ có ông là người đầu tiên đồng tình, rập khuôn với tác phẩm này của cố học giả Hồ Hữu Tường mà thôi!!
    Đó là lý do tất yếu mà bút giả thấy cần trao đổi với ông qua bút thoại để đả thông cho ông am hiểu rõ ràng chân xác hơn về thân thế và sự nghiệp cứu đời của Đức Phật Thầy Tây An nhằm để tránh cho ông những lỗi lầm vấp phải vô cùng hệ trọng và đáng tiếc!

    A – Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ và con của Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) hay không?

    Để lý giải cho câu hỏi này, bút giả xin chia ra thành hai vế sau:

    1./- Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ không?

    Xin khẳng định rằng, Đức Phật Thầy Tây An chính thống họ Đoàn chứ không phải họ Hồ như học giả Hồ Hữu Tường và cư sĩ Sripolieu gán ghép và bịa đặt với ý đồ bất chánh sẽ được phân tích chứng minh qua những dữ kiện lịch sử sau đây:
    * Thứ nhứt: Sau một thời gian dài vắng mặt mà cả gia đình tộc họ và làng xóm đều không ai rõ tông tích và lý do Ngài đi đâu, ở đâu và làm gì...(?) nhưng rồi bỗng nhiên Ngài xuất hiện trở về bổn quán làng Tòng Sơn vào mùa thu năm Kỷ Dậu (1849) đúng vào lúc bịnh dịch đang hoành hành đã cướp đi biết bao sinh mạng con người, gây nên thảm cảnh kinh hoàng khiến cho đời sống nhân dân luôn bị đe dọa; họ lo sợ đến nỗi phải nói với nhau rằng: "Hôm nay mình đi chôn hộ cho người ta rồi biết đâu một lát nữa hoặc ngày mai sẽ đến lượt mình?". Cảnh trạng này không chỉ ở Tòng Sơn mà còn tràn lan ở nhiều địa phương khác như lời xác nhận của Đức Phật Thầy:
    Tháng tám bịnh dịch rất nhiều,
    Thật năm Kỷ Dâu liêu điêu dương trần!


    Đầu tiên, Đức Phật Thầy vào ngôi đình thần Tòng Sơn để tá túc và rồi mượn nơi đây làm địa điểm để phát phù trị bịnh. Lúc bấy giờ dân chúng ở khắp nơi khi nghe có Phật Thầy giáng thế cứu bịnh, chữa đâu hết đó, họ bèn ùn ùn kéo nhau đến để xin Ngài cứu mạng, đã diễn ra quang cảnh náo nhiệt trên bộ dưới thuyền, người đông như trẩy hội như lời của Đức Phật Thầy đã mô tả:
    Rầm trời thiên hạ như mưa,
    Ban mai đến tối phát chưa rồi bùa. (5)
    Người đi đến trước vô chùa,
    Mấy người đến trễ lại lùa ngoài sân.
    Kẻ lui người tới rần rần...

    Qua thời gian cứu khỏi nạn dịch tả, đem lại cuộc sống bènh yên cho hàng vạn dân lành, phải nói rằng chỉ có ông Phật mới làm được việc này và cũng từ đó đã tạo cho họ niềm tin tuyệt đối vào sự huyền diệu nhiệm mầu của Phật pháp như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ đã minh thị trong bài sứ mạng "...Nên phương pháp của ta tùy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam, trên thì nói Phật pháp cho kẻ có lòng mộ đạo quy căn gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ. Dưới dùng huyền diệu của tiên gia độ bịnh cho kẻ ít căn lành, nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với Trăm Quan...". Để rồi Đức Phật Thầy đã nhờ ông quan Thị Sự của làng Tòng Sơn mua hộ cho Ngài một đôi đèn cầy để Ngài long trọng tổ chức buổi lễ công khai tuyên bố lý lịch của Ngài trước sự chứng kiến của quan làng và dân chúng địa phương, nhứt là có sự hiện diện của hai người anh em chú bác ruột trong gia phả họ Đoàn, đó là ông Đoàn Văn Điểu và Đoàn Văn Viên là nhân chứng sống đều đã xác nhận sự thật lời công bố của Đức Phật Thầy!
    Điều này chúng ta nên ngầm hiểu rằng, sở dĩ Đức Phật Thầy phải làm cái công việc mà từ trước tới nay chưa có tiền lệ như vậy có phải chăng Ngài là bậc siêu phàm quán thế đã thấy trước tình trạng sau này sẽ có người lợi dụng danh nghĩa của Ngài, tức là họ sẽ tìm cách thay tên đổi họ của Ngài với ý đồ tư lợi bất chánh mà hiện thực đã và đang diễn ra đúng như Ngài đã tiên liệu! Và cũng trong trường hợp này, Đức Phật Thầy đã chính thức công bố khai sanh một dòng phái đạo Phật của thời đại cận kim lấy tôn danh là Bửu Sơn Kỳ Hương!
    * Thứ hai: Ngoài sổ bộ về hộ tịch của Đức Phật Thầy Tây An đã được lưu chiếu đầy đủ trong tàng thư nhà Nguyễn (triều vua Tự Đức), và còn được lưu dấu những chứng tích cụ thể ở các chùa Tây An núi Sam, chùa Phước Điền Tự ở trại ruộng Thới Sơn và chùa Bửu Hương Các ở Láng Linh... qua các câu liễn đối biểu trưng do Đức Phật Thầy khẩu ứng và bảo các môn đệ viết ra để dán trước của ngõ và ở chánh điện (bàn thờ chánh). Ngoài ra, sau khi Đức Phật Thầy diệt độ, một linh vị ghi khắc rõ lý lịch của Ngài trên các mộ bia và bàn thờ ở các chùa Tây An núi Sam và chùa Phước Điền Tự ở Thới Sơn (Nhà Bàng – Tịnh Biên).

    Đôi liễn trước cửa ngõ chùa Phước Điền Tự:
    "Nhứt trần bất nhiễm Bồ Đề địa,
    Vạn thiện đồng quy Bát Nhã môn"


    Đôi liễn thờ ở bàn chánh:
    Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vi thường phổ chiếu
    Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền"


    Bài linh vị:
    "Nguơn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế,
    "Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng, tánh Đoàn, pháp danh húy: Huyên, đạo hiệu Giác linh chi vãn tọa, "Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhật, ngọ thời thị tịch diệt"


    Đó là những minh chứng xác thực về họ tộc chính danh của Đức Phật Thầy, không còn lý do để nghi ngờ và bàn cãi, bởi đã là sự thật của lịch sử thì không ai có quyền phủ nhận và bóp méo!!!

    Còn như cư sĩ Sripolieu cho rằng Đức Phật Thầy Tây An vì bị triều đình nhà Nguyễn ra lệnh truy nã gắt gao bởi nguyên nhân Ngài là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa nên chi buộc lòng Ngài phải cải danh từ họ Hồ sang họ Đoàn để lánh nạn, thật là sự suy diễn theo trí tưởng tượng chủ quan vô cùng phi lý hết chỗ nói! Phần này xin được giải thích sau. Điều trước mắt bút giả thấy cần phân tích đại khái một vài sự kiện để cư sĩ không còn phạm phải sai lầm không nên có như vậy:
    * Thứ nhứt: Nếu như Đức Phật Thầy Tây An nằm trong diện bị lệnh tầm nã gắt gao của triều Nguyễn theo kiểu suy luận hàm hồ, võ đoán của cư sĩ thì Ngài chỉ còn cách duy nhứt là phải ẩn trốn đi biệt tăm biệt tích chứ làm gì có chuyện Ngài lại dám trở về bản quán Tòng Sơn để minh thị công khai lý lịch từ tổ tiên cha mẹ trước sự chứng kiến của các quan làng chức việc và công chúng ở địa phương mà không sợ tông tích sẽ bị bại lộ hay sao?! Có lẽ cư sĩ đã quên rồi về nguyên tắc pháp lý, dù ở bất kỳ thời đại nào và chế độ nào cũng vẫn thế, khi một đối tượng phạm pháp ở mức độ nghiêm trọng cần phải phát lệnh truy nã vì lý do đương sự đã tại đào (bỏ trốn), tất nhiên cái văn bản lệnh đó (gồm có lý lịch và hình ảnh) phải được yết thị đem dán khắp nơi trên toàn quốc, nhứt là nơi sanh quán và trú quán của phạm nhân để cho chánh quyền các cấp và nhân dân cùng nhận dạng theo dõi (có những loại tội phạm nghiêm tọng hay đặc biệt nghiêm trọng, nó sẽ không có giới hạn về thời hiệu được miễn lệnh truy cứu). Như vậy thử hỏi làm thế nào Đức Phật Thầy dám ngang nhiên tổ chức buổi lễ ra mắt trọng thể như vậy mà vẫn không bị phát hiện, đúng là chuyện hết sức ngớ ngẩn đáng buồn cười phải không?! Chưa hết, bút giả muốn dẫn chứng thêm cho cư sĩ thấy trường hợp của bà Ngọc Hân công chúa cùng dẫn hai đứa con đi vào Quảng Nam để lánh nạn, tuy đã thay tên đổi họ và được có người bảo bọc che giấu nhưng chẳng bao lâu sau cũng vẫn bị bại lộ và bị bắt nên bà đã phải uống thuốc độc tự tử và hai con bà cũng phải bị thắt cổ chết theo, như vậy thì hà cớ gì Đức Phật Thầy đã công khai xuất đầu lộ diện mà cả hệ thống tai mắt của chánh quyền lại không truy tìm ra manh mối???
    * Thứ hai: Hơn nữa, từ khi Đức Phật Thầy trở về làng Tòng Sơn, trước hết Ngài đã thực hiện ba vấn đề chính được xem như là bước hành trình tiên khởi mở đường cho công cuộc "lợi sanh nhi hoằng pháp" của Ngài đó là:
    * Trị bịnh để gieo lấy đức tin;
    * Công bố lý lịch để chứng tỏ sự minh bạch về hành vi của nhân thân và gia đình tộc họ;
    * Chính thức thành lập dòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương.

    Để rồi từ đó Ngài bắt đầu cuộc hành trình đi các nơi để chữa bịnh và lo hoằng dương chánh pháp để khuếch khai nền đạo. Và chính tự thân Ngài chỉ đi một mình trên chiếc xuồng bơi ba lá với một cây dầm bằng thanh tre đơn giản. Dù Ngài bơi một cách tự nhiên thư thả nhưng cả một đoàn người cố bám bơi theo mà không tài nào theo kịp. Ngài đi từ làng Tòng Sơn đến rạch Trà Bư rồi đình thần Kiến Thạnh (rạch Xẻo Môn) và sau cùng là cốc ông Kiến (xã Kiến An, là vị trí chùa Tây An Cổ Tự ngày nay). Nói chung, Ngài nghe ở bất cứ nơi nào có xảy ra bịnh dịch nhiều là Ngài đều đến để cứu chữa, bởi đây là sứ mạng tối cao và lòng đại bi vô tận của vị bổ sứ lâm phàm để cứu độ và giác ngộ sanh linh trong biển mê sông khổ của thời kỳ tận diệt này. Ngài đã hoạt động đạo sự một cách đường đường chính chính chứ nào có phải thầm lén gì đâu mà gọi là bị tầm nã gắt gao nên phải cải danh đổi họ để lẫn trốn như giả thuyết ngụy tạo của cư sĩ Sripolieu đâu?! Mãi đến khi các nhà chức trách địa phương bắt đầu hốt hoảng kinh sợ trước thanh thế bành trướng rầm rộ và quá nhanh chóng của nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (vì chỉ trong thời gian không mấy chốc mà đã gieo ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với quảng đại quần chúng, và bởi họ thấy Đức Phật Thầy đặt chân đến đâu dân chúng đều lũ lượt tìm đến để vừa xin trị bịnh và vừa thọ giáo quy y, khiến cho các cấp chánh quyền sở tại nghi ngại có thể Ngài là gian đạo sĩ đang quy tụ quần chúng đông đảo để một ngày nào đó sẽ nổi lên làm loạn chống triều đình giống như các vụ nổi dậy của Sâm Lâm và sư sãi ở Trà Vinh vào thời Thiệu Trị nguyên niên 1840 – 1841.) do đó, họ mật báo về tỉnh để xin xem xét và có biện pháp ngăn ngừa. Thế là quan Tổng trấn tỉnh An Giang lúc bấy giờ là Huỳnh Mẫn Đạt liền ra lịnh cho cai Trung và đội Bồng đột nhiên đến bắt Đức Phật Thầy trong lúc Ngài đang chuẩn bị cúng Ngọ, cũng như chưa kịp nói lời từ giã với bổn đạo!
    Đức Phật Thầy được đưa về tỉnh, nơi đây chánh quyền đã dàn dựng sẵn một chương trình làm việc hẳn hoi với nhiều hình thức nhằm để thử thách và tìm cách buộc tội Ngài, cho nên Đức Phật Thầy phải đối đáp với những điều tra xét hỏi rát gay gắt từ lĩnh vực an ninh chính trị rồi hạch vấn về Phật pháp cũng như trắc nghiệm về trạng thái huyền năng linh diệu của Ngài (*), cho đến áp dụng các biện pháp nhục hình như giam cầm Ngài trong ngục tối v.v... Và cuối cùng triều đình Tự Đức còn phái một vị hòa thượng chánh tông gần như là Quốc sư đi xuống để cật vấn Đức Phật Thầy về chân lý Phật đạo, tất cả đều được Ngài giải đáp tận tường thông suốt. Chẳng những thế mà Ngài con thuyết giảng trở lại về pháp môn Đại thừa thiền cho vị hòa thượng nghe. Ngài giảng giải pháp môn tối thượng nhứt thừa vô vi bí pháp của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni làm cho vị hòa thượng hết sức ngạc nhiên và kính phục trước tài biện thuyết trôi chảy và sự thông đạt diệu lý uyên thâm Phật pháp của Ngài, vì chỉ có hàng thượng thủ Bồ Tát trở lên mới ngộ nhập được yếu pháp vô thượng bồ đề này. Và cuộc điều tra thử thách đến đây đã kết thúc.

    Chánh quyền tỉnh An Giang đã dâng tấu sớ về triều đình để kể rõ mọi diễn biến của vụ việc và xin quyết định của nhà vua. Triều đình đã ban chiếu chỉ công nhận Đức Phật Thầy xứng đáng là bậc chân tu đạo cao đức trọng được quyền hành đạo và truyền đạo theo nguyên lý truyền thống của Phật giáo. Bấy giờ quan Tổng trấn tỉnh An Giang có ngỏ ý muốn Đức Phật Thầy nên đến chùa Tây An núi Sam để ở và hòa nhập vào tăng lữ cho phù hợp danh nghĩa của một nhà tu theo pháp quy của nhà Phật. Điều này đúng như ý định của Đức Phật Thầy bởi đây là bước đầu đối với một địa bàn chưa quen thuộc nên Ngài muốn chọn nơi đây làm điểm tựa để tránh bớt sự nghi ngờ dòm ngó của chánh quyền. Mà thật vậy, cũng nhờ địa điểm an toàn này nên Ngài mới có điều kiện và cơ hội để phát huy nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được lan tỏa khắp nơi điển hình như các trại ruộng ở Thới Sơn và Láng Linh...

    Tóm lại, nếu điểm lại trong suốt quá trình từ khi Đức Phật Thầy trở về làng Tòng Sơn để tế thế độ dân cho đến khi được triều đình công nhận tư cách một nhà tu chân chính và cho về ở tại chùa Tây An núi Sam thì có khoảng thời gian nào Đức Phật Thầy phải lẩn trốn như lởi ngụy biện méo mó của cư sĩ?! Còn nếu ông vẫn cố tình muốn cưỡng lý rằng Đức Phật Thầy đã cải họ từ khi Ngài bỏ trốn ra đi cả hằng chục năm trước khi trở về làng, thì giờ đây bút giả mới chính thức chỉ ra cho ông thấy điểm sai lầm nghiêm trọng của ông qua bối cảnh của không gian, thời gian và sự kiện lịch sử sẽ được dẫn giải sau đây, xin ông cư sĩ hãy bình tĩnh để lắng nghe.

    2./- Đức Phật Thầy Tây An có phải là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa không?

    Thực ra trên căn bản vấn đề này đã được giải tỏa một cách hài hòa và ổn thỏa thông qua sự thừa nhận sai lầm của học giả Hồ Hữu Tường như đã dẫn ở phần trên. Tuy nhiên, cũng cần có sự phân tích và chứng minh chi tiết để cho vấn đề được rõ ràng, cụ thể hơn nên bút giả xin được trình bày tóm lược về thân thế và sự nghiệp của hai nhân vật lịch sử này, dựa theo tài liệu của các sử gia danh giá cận đại.

    A – Thân thế của Nguyễn Huệ

    Theo sử liệu và các nhà gia phả học thì lai lịch nguồn gốc tổ tiên của Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) thuộc dòng dõi họ Hồ nằm trong phả hệ của Hồ Quý Ly, nguyên quán ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông tổ bốn đời của ông là Hồ Phi Khanh. Vì sống trong bối cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn phân tranh hay còn gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài, nên khi chúa Nguyễn mở cuộc tấn công đánh chúa Trịnh vào những năm 1653 – 1657, chiếm được bảy huyện của trấn Nghệ An, và khi rút quân về Nam thì ông Hồ Phi Khanh cùng nhiều binh tướng bại trận, kể cả thường dân đều bị bắt đưa về Đàng Trong để quy khu và chỉ định đến khai phá vùng rừng núi hoang địa ở ấp Tây Sơn thuộc địa phận phủ Quy Nhơn (sau đó là thôn An Khê, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).. Từ đó dòng họ Hồ đổi sang họ Nguyễn (có lẽ vừa muốn che giấu tông tích và cũng vừa để thích nghi với dòng tộc họ Nguyễn trong Nam?)
    Đến đời thân sinh của Nguyễn Huệ là ông Hồ Phi Phúc lại di dời đến ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Nơi đây ông Phúc đã kết duyên với bà Nguyễn Thị Đống hạ sanh tám người con, ba trai và năm gái. Ba trai là Nguyễn Nhạc (con cả), Nguyễn Huệ (thứ hai) và Nguyễn Lữ (thứ ba)...
    Nguyễn Huệ sinh năm 1752 (có sử chép 1753) và mất năm 1792, thọ 40 tuổi.
    Gia đình sống theo nghề truyền thống là đi buôn trâu, cũng thuộc hàng trung lưu khá giả. Ba anh em Nguyễn Huệ đều được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng cả văn lẫn võ. Nguyễn Nhạc tuy là người có trình độ, kiến thức và mưu trí nhưng cũng không sao so sánh tài năng thiên phú vượt trội của Nguyễn Huệ bởi nhân vật lịch sử này có đủ cả ba yếu tố bi, trí, dũng; đó là những nhân tố giúp cho ông ta làm nên cơ nghiệp vĩ đại ở tuổi thanh xuân khó có người sánh kịp.

    B – Sự nghiệp của Nguyễn Huệ

    Sự nghiệp vĩ đại của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ được gắn liền trên yên ngựa và đánh dấu qua những chặng đường vạn lý trường chinh từ Nam chí Bắc đầy gian khổ nhưng rất hào hùng oanh liệt được khái quát như sau:
    – Năm Tân Mão (1771) ba anh em Nguyễn Nhạc quay lại ấp Tây Sơn để lo xây thành đắp lũy, lấy nơi đây làm căn cứ tổng hành dinh cho bước đầu khởi nghiệp;
    – Mùa thu năm Quý Tỵ (1773) Tây Sơn bắt đầu đánh chiếm ấp Kiên Thành (nơi trú quán của gia đình) và phân chia địa bàn để kiểm soát và cai trị;
    – Năm Bính Thân (1776) theo cơ mưu sắp đặt của Nguyễn Nhạc, dùng chiến thuật trá hàng quân Nguyễn ở căn cứ Quy Nhơn nên chỉ có một đêm anh em nhà Tây Sơn đã lấy được thành này, và tiếp tục đánh chiếm Quảng Ngãi và Phú Yên, để rồi Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, đống đô ở thành Đồ Bàn (cố đô của Chiêm Thành), phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính và Nguyễn Lữ làm Thiếu phó;
    – Năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Nhạc bắt tay thỏa hiệp với chúa Trịnh và được phong làm Quảng Nam trấn thủ nên từ đó anh em Tây Sơn đã dốc hết toàn lực để đánh chúa Nguyễn ở phía Nam. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã thống xuất hai đạo quân thủy – bộ

    Chương II

    Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ và con của Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) như trong tác phẩm "Thân thế Đức Phật Thầy Tây An và Ngọc Hân công chúa qua Kim Cổ Kỳ Quan" của tác giả Sripolieu không?

    Lẽ ra vấn đề này không nên đặt lại vì nó đã quá lỗi thời và đã bị đào thải theo quy luật của thời gian, nói chung là nó đã bị nhấn chìm trong quên lãng bởi tính chất của nó chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng không có cơ sở dữ liệu nào trong các giáo sử và lịch sử của dân tộc! Ấy vậy mà thời gian gần đây thỉnh thoảng đâu đó cũng còn lẻ tẻ một vài luồng dư âm tiếng vọng xuất phát từ những phần tử nhẹ dạ cả tin hoặc những thành phần thiếu hiểu biết, nhứt là có một vài tác phẩm chào đời của những ngòi bút chợ trời muốn hâm nóng lại vấn đề đã gây nên làn sóng phản ứng quyết liệt trên các phương tiện sách báo, bài viết và cả trên các trang mạng internet v.v... Hệ quả đã làm nhiều giá trị đích thực của lịch sử, chẳng hạn như tác phẩm của Sripolieu là một ví dụ!
    Thực ra cư sĩ Sripolieu chỉ dựa vào tác phẩm tiểu thuyết Phi Lạc sang Tàu của cố học giả Hồ Hữu Tường (đúng là câu chuyện tiểu thuyết giả tưởng cũng tương tự như tiểu thuyết huyền thoại của Kim Dung vì nó không thuộc về sử liệu mà nó chỉ là chuyện hư cấu được dàn dựng theo ý đồ chủ quan nhằm phục vụ cho tham vọng cá nhân mà thôi!). Chủ tâm của ông Hồ Hữu Tường muốn gán ghép Đức Phật Thầy Tây An vào hệ gia phả của họ Hồ và cấu kết Đức Phật Thầy là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ (tục danh là Hồ Thơm) nhằm để hợp thức hóa cho cái họ Hồ của ông cũng nằm trong miêu duệ (ngọc phả) của nhà vua và một đấng giáo chủ. Mục đích của ông Tường là muốn nắm được ảnh hưởng của cả hai khối tín đồ lớn mạnh của Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo làm hậu thuẫn vì đó là nấc thang để ông bước lên vũ đài chính trị!
    Nhưng rất tiếc thay! Cư sĩ Sripolieu muốn chứng tỏ là người có học thức thì chí ít ông cũng phải am hiểu phần nào về sử Việt, nhứt là các bộ sử của thời kỳ cận hiện đại như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Đại Nam thực lục, biên niên sử triều Nguyễn; Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Việt Nam sử đại cương của Nguyễn Văn Hầu; bộ Thành ngữ Điển tích và Danh nhân Tự điển của Trịnh Vân Thanh; và Lịch sử An Giang của Sơn Nam v.v... để giúp cho ông thấy và hiểu được về chính sử của việc khai mở và xâm thực phần lãnh thổ ở phía Nam trên bản đồ đất nước. Coi như hầu hết các bộ sử liệu này đều không thấy điểm nào có đề cập đến chuyện Đức Phật Thầy Tây An là họ Hồ hoặc là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa cả!!!

    Chính vì không hiểu hoặc không chịu sưu tầm tra cứu lịch sử nên cư sĩ Sripolieu chỉ dựa vào cốt truyện tiểu thuyết hoang đường, viễn tưởng của cố học giả Hồ Hữu Tường và xem đó như là tài liệu để biên khảo và viết ra thành sách đem phổ biến khắp nơi cả trong và ngoài nước. Nhưng ông có biết đâu rằng đưa con tinh thần mà ông cưu mang, chắt chiu nuôi dưỡng lại là cái quái thai đối với tôn giáo và cả trên văn đàn sử học! Và chính nó là hệ quả vô cùng tác hại đến danh dự và uy tín của một người biết cầm bút như ông! Do đó, bút giả xin phép được hỏi ông, cái tác phẩm Phi Lạc sang Tàu đã là cái xác chết bị thối rữa rồi mà nay ông muốn làm phù thủy hà hơi tiếp sức cho nó sống lại để nhằm mục đích gì vậy? Cái tham vọng của cố học giả Hồ Hữu Tường thì đã thấy quá rõ rồi đó, còn ông thì sao?! Câu trả lời để ông tự suy nghĩ và sự phán xét của công luận!

    Vậy để làm sáng tỏ hơn cho vấn đề, bút giả xin dẫn ra đây một câu chuyện cụ thể về tác phẩm Phi Lạc sang Tàu của cố học giả Hồ Hữu Tường nhằm giúp thêm cho cư sĩ Sripolieu nhận ra sự thật lịch sử để không còn lý do biện luận một cách vớ vẩn làm tổn thương danh dự và uy tín của một con người mệnh danh biết cầm bút viết sử! Tức là cuối năm 1966, một phái đoàn được cụ Lương Trọng Tường, Hội trưởng Ban Trị Sự Trung Ương giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I (1964 – 1966) đề cử gồm có giáo sư Nguyễn Văn Hầu, Trưởng ban (Viện trưởng) Phổ thông Giáo lý Trung Ương làm trưởng đoàn; ông Lê Hòa Nhựt, cố vấn Ban Trị Sự Trung Ương và tôi, giảng viên truyền bá giáo lý Trung Ương để thực thi nhiệm vụ đến gặp và làm việc trực tiếp với học giả Hồ Hữu Tường liên quan đến tác phẩm Phi Lạc sang Tàu do ông ta là tác giả.
    Qua một vài câu chuyện thăm hỏi và giới thiệu để biết nhau, ông giáo sư Nguyễn Văn Hầu với tư cách đại diện Ban Trị Sự Trung Ương giáo hội đã đặt ra mấy câu hỏi với học giả Hồ Hữu Tường về nội dung tác phẩm Phi Lạc sang Tàu có đề cập Đức Phật Thầy Tây An nằm trong dòng tộc họ Hồ và là con của Quang Trung Nguyễn Huệ (tộc danh là Hồ Thơm) và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) để yêu cầu ông Tường giải thích và chứng minh bằng tư liệu lịch sử. Bấy giờ chúng tôi thoáng ghi nhận qua cử chỉ và thái độ của ông Tường đã biểu lộ trạng thái như có vẻ ngột ngạt, lúng túng nhưng ông cũng cố giữ sự bình tĩnh để trả lời rằng: "Thật sự đây là một lầm lẫn lớn về lịch sử của tôi, rất mong quý vị và Giáo hội thông cảm và bỏ qua cho". Ông giáo sư Hầu liền đáp lại: "Đứng về phương diện của chúng tôi và Giáo hội cũng có thể sẵn sàng thông cảm và bỏ qua cho ông nhưng còn độc giả và công luận thì sao? Ít ra ông cũng có lời cáo bạch để xin lỗi công khai sự sai lầm của ông trước công luận khách quan mới hợp tình hợp lý chứ!" Trong lúc ông Tường còn đang trầm tư suy nghĩ chưa kịp trả lời thì ông giáo sư Hầu bèn tiếp thêm ý kiến: "Nếu ông cảm thấy có gì trở ngại thì giáo hội chúng tôi sẽ ban hành một thông tư coi như thay cho ông để bạch hóa vấn đề trước dư luận quần chúng; có thể được chứ?". Qua câu hỏi tế nhị nhưng cũng hàm chứa điểm nhấn này khiến cho ông Tường như bị giật mình nên ông ta liền trả lời rằng: "Thôi xin quý vị bình tĩnh và yên tâm, tôi sẽ phải làm việc đó!". Tóm lại, nội dung của buổi gặp gỡ và làm việc được kết thúc bằng lời xin lỗi trực tiếp và lời hứa sẽ thực hiện một bức thư cáo lỗi với độc giả và công luận của học giả Hồ Hữu Tường.

    Một sự thật hiển nhiên đã được vạch trần ra ánh sáng, vậy xin hỏi cư sĩ Sripolieu ông nghĩ gì khi học giả Hồ Hữu Tường là cha đẻ của tác phẩm đã thừa nhận sự sai lầm của mình như thế đã đủ chứng lý để ông (chỉ là người thừa kế) có chịu nhìn nhận sự thật của vấn đề hay chưa?! Thú thật với ông rằng, qua nghiên cứu theo dõi trên diễn đàn văn học sử xuyên suốt nửa thế kỷ qua rồi, bút giả mới ghi nhận trường hợp duy nhứt chỉ có ông là người đầu tiên đồng tình, rập khuôn với tác phẩm này của cố học giả Hồ Hữu Tường mà thôi!!

    Đó là lý do tất yếu mà bút giả thấy cần trao đổi với ông qua bút thoại để đả thông cho ông am hiểu rõ ràng chân xác hơn về thân thế và sự nghiệp cứu đời của Đức Phật Thầy Tây An nhằm để tránh cho ông những lỗi lầm vấp phải vô cùng hệ trọng và đáng tiếc!

    A – Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ và con của Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Bắc cung Hoàng hậu (Ngọc Hân công chúa) không?

    Để lý giải cho câu hỏi này, bút giả xin chia ra thành hai vế sau:

    1./- Đức Phật Thầy Tây An có phải họ Hồ không?


    Xin khẳng định rằng, Đức Phật Thầy Tây An chính thống họ Đoàn chứ không phải họ Hồ như học giả Hồ Hữu Tường và cư sĩ Sripolieu gán ghép và bịa đặt với ý đồ bất chánh sẽ được phân tích chứng minh qua những dữ kiện lịch sử sau đây:
    * Thứ nhứt: sau một thời gian dài vắng mặt mà cả gia đình tộc họ và làng xóm đều không ai rõ tông tích và lý do Ngài đi đâu, ở đâu và làm gì...(?) nhưng rồi bỗng nhiên Ngài xuất hiện trở về bổn quán làng Tòng Sơn vào mùa thu năm Kỷ Dậu (1849) đúng vào lúc bịnh dịch đang hoành hành đã cướp đi biết bao sinh mạng con người, gây nên thảm cảnh kinh hoàng khiến cho đời sống nhân dân luôn bị đe dọa; họ lo sợ đến nỗi phải nói với nhau rằng: "Hôm nay mình đi chôn hộ cho người ta rồi biết đâu một lát nữa hoặc ngày mai sẽ đến lượt mình?". Cảnh trạng này không chỉ ở Tòng Sơn mà còn tràn lan ở nhiều địa phương khác như lời xác nhận của Đức Phật Thầy:
    Tháng tám bịnh dịch rất nhiều,
    Thật năm Kỷ Dâu liêu điêu dương trần!


    Đầu tiên, Đức Phật Thầy vào ngôi đình thần Tòng Sơn để tá túc và rồi mượn nơi đây làm địa điểm để phát phù trị bịnh. Lúc bấy giờ dân chúng ở khắp nơi khi nghe có Phật Thầy giáng thế cứu bịnh, chữa đâu hết đó, họ bèn rùm rùm kéo nhau đến để xin Ngài cứu mạng, đã diễn ra quang cảnh náo nhiệt trên bộ dưới thuyền, người đông như trẩy hội như lời của Đức Phật Thầy đã mô tả:
    Rầm trời thiên hạ như mưa
    Ban mai đến tối phát chưa rồi bùa (5)
    Người đi đến trước vô chùa
    Mấy người đến trễ lại lùa ngoài sân
    Kẻ lui người tới rần rần...


    Qua thời gian cứu khỏi nạn dịch tả, đem lại cuộc sống bènh yên cho hàng vạn dân lành, phải nói rằng chỉ có ông Phật mới làm được việc này và cũng từ đó đã tạo cho họ niềm tin tuyệt đối vào sự huyền diệu nhiệm mầu của Phật pháp như lời của Đức Huỳnh giáo chủ đã minh thị trong bài sứ mạng: "...Nên phương pháp của ta tùy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam, trên thì nói Phật pháp cho kẻ có lòng mộ đạo quy căn gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ. Dưới dùng huyền diệu của tiên gia độ bịnh cho kẻ ít căn lành, nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với Trăm Quan...". Để rồi Đức Phật Thầy đã nhờ ông quan Thị Sự của làng Tòng Sơn mua hộ cho Ngài một đôi đèn cầy để Ngài long trọng tổ chức buổi lễ công khai tuyên bố lý lịch của Ngài trước sự chứng kiến của quan làng và dân chúng địa phương, nhứt là có sự hiện diện của hai người anh em chú bác ruột trong gia phả họ Đoàn, đó là ông Đoàn Văn Điểu và Đoàn Văn Viên là nhân chứng sống đều đã xác nhận sự thật lời công bố của Đức Phật Thầy!

    Điều này chúng ta nên ngầm hiểu rằng, sở dĩ Đức Phật Thầy phải làm cái công việc mà từ trước tới nay chưa có tiền lệ như vậy có phải chăng Ngài là bậc siêu phàm quán thế đã thấy trước tình trạng sau này sẽ có người lợi dụng danh nghĩa của Ngài, tức là họ sẽ tìm cách thay tên đổi họ của Ngài với ý đồ tư lợi bất chánh mà hiện thực đã và đang diễn ra đúng như Ngài đã tiên liệu! Và cũng trong trường hợp này, Đức Phật Thầy đã chính thức công bố khai sanh một dòng phái đạo Phật của thời đại cận kim lấy tôn danh là Bửu Sơn Kỳ Hương!

    * Thứ hai: Ngoài sổ bộ về hộ tịch của Đức Phật Thầy Tây An đã được lưu chiếu đầy đủ trong tàng thư nhà Nguyễn (triều vua Tự Đức), và còn được lưu dấu những chứng tích cụ thể ở các chùa Tây An núi Sam, chùa Phước Điền Tự ở trại ruộng Thới Sơn và chùa Bửu Hương Các ở Láng Linh... qua các câu liễn đối biểu trưng do Đức Phật Thầy khẩu ứng và bảo các môn đệ viết ra để dán trước của ngõ và ở chánh điện (bàn thờ chánh). Ngoài ra, sau khi Đức Phật Thầy diệt độ, một linh vị ghi khắc rõ lý lịch của Ngài trên các mộ bia và bàn thờ ở các chùa Tây An núi Sam và chùa Phước Điền Tự ở Thới Sơn (Nhà Bàng – Tịnh Biên).

    Đôi liễn trước cửa ngõ chùa Phước Điền Tự:
    "Nhứt trần bất nhiễm Bồ Đề địa,
    Vạn thiện đồng quy Bát Nhã môn"


    Đôi liễn thờ ở bàn chánh:
    Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vi thường phổ chiếu
    Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền"


    Bài linh vị:
    "Nguơn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế,
    "Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng, tánh Đoàn, pháp danh húy: Huyên, đạo hiệu Giác linh chi vãn tọa, "Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhật, ngọ thời thị tịch diệt"


    Đó là những minh chứng xác thực về họ tộc chính danh của Đức Phật Thầy, không còn lý do để nghi ngờ và bàn cãi, bởi đã là sự thật của lịch sử thì không ai có quyền phủ nhận và bóp méo!!!

    Còn như cư sĩ Sripolieu cho rằng Đức Phật Thầy Tây An vì bị triều đình nhà Nguyễn ra lệnh truy nã gắt gao bởi nguyên nhân Ngài là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa nên chi buộc lòng Ngài phải cải danh từ họ Hồ sang họ Đoàn để lánh nạn, thật là sự suy diễn theo trí tưởng tượng chủ quan vô cùng phi lý hết chỗ nói! Phần này xin được giải thích sau. Điều trước mắt bút giả thấy cần phân tích đại khái một vài sự kiện để cư sĩ không còn phạm phải sai lầm không nên có như vậy:

    * Thứ nhứt:
    Nếu như Đức Phật Thầy Tây An nằm trong diện bị lệnh tầm nã gắt gao của triều Nguyễn theo kiểu suy luận hàm hồ, võ đoán của cư sĩ thì Ngài chỉ còn cách duy nhứt là phải ẩn trốn đi biệt tăm biệt tích chứ làm gì có chuyện Ngài lại dám trở về bản quán Tòng Sơn để minh thị công khai lý lịch từ tổ tiên cha mẹ trước sự chứng kiến của các quan làng chức việc và công chúng ở địa phương mà không sợ tông tích sẽ bị bại lộ hay sao?! Có lẽ cư sĩ đã quên rồi về nguyên tắc pháp lý, dù ở bất kỳ thời đại nào và chế độ nào cũng vẫn thế, khi một đối tượng phạm pháp ở mức độ nghiêm trọng cần phải phát lệnh truy nã vì lý do đương sự đã tại đào (bỏ trốn), tất nhiên cái văn bản lệnh đó (gồm có lý lịch và hình ảnh) phải được yết thị đem dán khắp nơi trên toàn quốc, nhứt là nơi sanh quán và trú quán của phạm nhân để cho chánh quyền các cấp và nhân dân cùng nhận dạng theo dõi (có những loại tội phạm nghiêm tọng hay đặc biệt nghiêm trọng, nó sẽ không có giới hạn về thời hiệu được miễn lệnh truy cứu). Như vậy thử hỏi làm thế nào ĐPTđã dám ngang nhiên tổ chức buổi lễ ra mắt trọng thể như vậy mà vẫn không bị phát hiện, đúng là chuyện hết sức ngớ ngẩn đáng buồn cười phải không cư sĩ?! Chưa hết, bút giả muốn dẫn chứng thêm cho cư sĩ thấy trường hợp của bà Nhcc cùng dẫn hai đứa con đi vào Quảng Nam để lánh nạn, tuy đã thay tên đổi họ và được có người bảo bọc che giấu nhưng chẳng bao lâu sau cũng vẫn bị bại lộ và bị bắt nên bà đã phải uống thuốc độc tự tử và hai con bà cũng phải bị thắt cổ chết theo, như vậy thì hà cớ gì Đức Phật Thầy đã công khai xuất đầu lộ diện mà cả hệ thống tai mắt của chánh quyền lại không truy tìm ra manh mối???
    * Thứ hai: Hơn nữa, từ khi Đức Phật Thầy trở về làng Tòng Sơn, trước hết Ngài đã thực hiện ba vấn đề chính được xem như là bước hành trình tiên khởi mở đường cho công cuộc "lợi sanh nhi hoằng pháp" của Ngài đó là:
    * Trị bịnh để gieo lấy đức tin;
    * Công bố lý lịch để chứng tỏ sự minh bạch về hành vi của nhân thân và gia đình tộc họ; và
    * Chính thức thành lập dòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương.


    Để rồi từ đó Ngài bắt đầu cuộc hành trình đi các nơi để chữa bịnh và lo hoằng dương chánh pháp để khuếch khai nền đạo. Và chính tự thân Ngài chỉ đi một mình trên chiếc xuồng bơi ba lá với một cây dầm bằng thanh tre đơn giản. Dù Ngài bơi một cách tự nhiên thư thả nhưng cả một đoàn người cố bám bơi theo mà không tài nào theo kịp. Ngài đi từ làng Tòng Sơn đến rạch Trà Bư rồi đình thần Kiến Thạnh (rạch Xẻo Môn) và sau cùng là cốc ông Kiến (xã Kiến An, là vị trí chùa Tây An Cổ Tự ngày nay). Nói chung, Ngài nghe ở bất cứ nơi nào có xảy ra bịnh dịch nhiều là Ngài đều đến để cứu chữa, bởi đây là sứ mạng tối cao và lòng đại bi vô tận của vị bổ sứ lâm phàm để cứu độ và giác ngộ sanh linh trong biển mê sông khổ của thời kỳ tận diệt này. Ngài đã hoạt động đạo sự một cách đường đường chính chính chứ nào có phải thầm lén gì đâu mà gọi là bị tầm nã gắt gao nên phải cải danh đổi họ để lẫn trốn như giả thuyết ngụy tạo của cư sĩ Sripolieu đâu?! Mãi đến khi các nhà chức trách địa phương bắt đầu hốt hoảng kinh sợ trước thanh thế bành trướng rầm rộ và quá nhanh chóng của nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (vì chỉ trong thời gian không mấy chốc mà đã gieo ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với quảng đại quần chúng, và bởi họ thấy Đức Phật Thầy đặt chân đến đâu dân chúng đều lũ lượt tìm đến để vừa xin trị bịnh và vừa thọ giáo quy y, khiến cho các cấp chánh quyền sở tại nghi ngại có thể Ngài là gian đạo sĩ đang quy tụ quần chúng đông đảo để một ngày nào đó sẽ nổi lên làm loạn chống triều đình giống như các vụ nổi dậy của Sâm Lâm và sư sãi ở Trà Vinh vào thời Thiệu Trị nguyên niên 1840 – 1841.) do đó, họ mật báo về tỉnh để xin xem xét và có biện pháp ngăn ngừa. Thế là quan Tổng trấn tỉnh An Giang lúc bấy giờ là Huỳnh Mẫn Đạt liền ra lịnh cho cai Trung và đội Bồng đột nhiên đến bắt Đức Phật Thầy trong lúc Ngài đang chuẩn bị cúng Ngọ, cũng như chưa kịp nói lời từ giã với bổn đạo!

    Đức Phật Thầy được đưa về tỉnh, nơi đây chánh quyền đã dàn dựng sẵn một chương trình làm việc hẳn hoi với nhiều hình thức nhằm để thử thách và tìm cách buộc tội Ngài, cho nên Đức Phật Thầy phải đối đáp với những điều tra xét hỏi rát gay gắt từ lĩnh vực an ninh chính trị rồi hạch vấn về Phật pháp cũng như trắc nghiệm về trạng thái huyền năng linh diệu của Ngài (*), cho đến áp dụng các biện pháp nhục hình như giam cầm Ngài trong ngục tối v.v... Và cuối cùng triều đình Tự Đức còn phái một vị hòa thượng chánh tông gần như là Quốc sư đi xuống để cật vấn Đức Phật Thầy về chân lý Phật đạo, tất cả đều được Ngài giải đáp tận tường thông suốt. Chẳng những thế mà Ngài con thuyết giảng trở lại về pháp môn Đại thừa thiền cho vị hòa thượng nghe. Ngài giảng giải pháp môn tối thượng nhứt thừa vô vi bí pháp của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni làm cho vị hòa thượng hết sức ngạc nhiên và kính phục trước tài biện thuyết trôi chảy và sự thông đạt diệu lý uyên thâm Phật pháp của Ngài, vì chỉ có hàng thượng thủ Bồ tát trở lên mới ngộ nhập được yếu pháp vô thượng bồ đề này. Và cuộc điều tra thử thách đến đây đã kết thúc.

    Chánh quyền tỉnh An Giang đã dâng tấu sớ về triều đình để kể rõ mọi diễn biến của vụ việc và xin quyết định của nhà vua. Triều đình đã ban chiếu chỉ công nhận Đức Phật Thầy xứng đáng là bậc chân tu đạo cao đức trọng được quyền hành đạo và truyền đạo theo nguyên lý truyền thống của Phật giáo. Bấy giờ quan Tổng trấn tỉnh An Giang có ngỏ ý muốn Đức Phật Thầy nên đến chùa Tây An núi Sam để ở và hòa nhập vào tăng lữ cho phù hợp danh nghĩa của một nhà tu theo pháp quy của nhà Phật. Điều này đúng như ý định của Đức Phật Thầy bởi đây là bước đầu đối với một địa bàn chưa quen thuộc nên Ngài muốn chọn nơi đây làm điểm tựa để tránh bớt sự nghi ngờ dòm ngó của chánh quyền. Mà thật vậy, cũng nhờ địa điểm an toàn này nên Ngài mới có điều kiện và cơ hội để phát huy nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được lan tỏa khắp nơi điển hình như các trại ruộng ở Thới Sơn và Láng Linh...

    Tóm lại, nếu điểm lại trong suốt quá trình từ khi Đức Phật Thầy trở về làng Tòng Sơn để tế thế độ dân cho đến khi được triều đình công nhận tư cách một nhà tu chân chính và cho về ở tại chùa Tây An núi Sam thì có khoảng thời gian nào Đức Phật Thầy phải lẩn trốn như lởi ngụy biện méo mó của cư sĩ?! Còn nếu ông vẫn cố tình muốn cưỡng lý rằng Đức Phật Thầy đã cải họ từ khi Ngài bỏ trốn ra đi cả hằng chục năm trước khi trở về làng, thì giờ đây bút giả mới chính thức chỉ ra cho ông thấy điểm sai lầm nghiêm trọng của ông qua bối cảnh của không gian, thời gian và sự kiện lịch sử sẽ được dẫn giải sau đây, xin ông cư sĩ hãy bình tĩnh để lắng nghe.
     
  2. Tamtran

    Tamtran Administrator


    2./- Đức Phật Thầy Tây An có phải là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa không?


    Thực ra trên căn bản vấn đề này đã được giải tỏa một cách hài hòa và ổn thỏa thông qua sự thừa nhận sai lầm của học giả Hồ Hữu Tường như đã dẫn ở phần trên. Tuy nhiên, cũng cần có sự phân tích và chứng minh chi tiết để cho vấn đề được rõ ràng, cụ thể hơn nên bút giả xin được trình bày tóm lược về thân thế và sự nghiệp của hai nhân vật lịch sử này, dựa theo tài liệu của các sử gia danh giá cận đại.

    A – Thân thế của Nguyễn Huệ

    Theo sử liệu và các nhà gia phả học thì lai lịch nguồn gốc tổ tiên của Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) thuộc dòng dõi họ Hồ nằm trong phả hệ của Hồ Quý Ly, nguyên quán ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông tổ bốn đời của ông là Hồ Phi Khanh. Vì sống trong bối cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn phân tranh hay còn gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài, nên khi chúa Nguyễn mở cuộc tấn công đánh chúa Trịnh vào những năm 1653 – 1657, chiếm được bảy huyện của trấn Nghệ An, và khi rút quân về Nam thì ông Hồ Phi Khanh cùng nhiều binh tướng bại trận, kể cả thường dân đều bị bắt đưa về Đàng Trong để quy khu và chỉ định đến khia phá vùng rừng núi hoang địa ở ấp Tây Sơn thuộc địa phận phủ Quy Nhơn (sau đó là thôn An Khê, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).. Từ đó dòng họ Hồ đổi sang họ Nguyễn (có lẽ vừa muốn che giấu tông tích và cũng vừa để thích nghi với dòng tộc họ Nguyễn trong Nam?)

    Đến đời thân sinh của Nguyễn Huệ là ông Hồ Phi Phúc lại di dời đến ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Nơi đây ông Phúc đã kết duyên với bà Nguyễn Thị Đống hạ sanh tám người con, ba trai và năm gái. Ba trai là Nguyễn Nhạc (con cả), Nguyễn Huệ (thứ hai) và Nguyễn Lữ (thứ ba)...

    Nguyễn Huệ sinh năm 1752 (có sử chép 1753) và mất năm 1792, thọ 40 tuổi.

    Gia đình sống theo nghề truyền thống là đi buôn trâu, cũng thuộc hàng trung lưu khá giả. Ba anh em Nguyễn huệ đều được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng cả văn lẫn võ. Nguyễn Nhạc tuy là người có trình độ, kiến thức và mưu trí nhưng cũng không sao so sánh tài năng thiên phú vượt trội của Nguyễn Huệ bởi nhân vật lịch sử này có đủ cả ba yếu tố bi, trí, dũng; đó là những thành tố giúp cho ông ta làm nên cơ nghiệp vĩ đại ở tuổi thanh xuân khó có người sánh kịp.

    B – Sự nghiệp của Nguyễn Huệ

    Sự nghiệp vĩ đại của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ được gắn liền trên yên ngựa và đánh dấu qua những chặng đường vạn lý trường chinh từ Nam chí Bắc đầy gian khổ nhưng rất hào hùng oanh liệt được khái quát như sau:
    – Năm Tân Mão (1771) ba anh em Nguyễn Nhạc quay lại ấp Tây Sơn để lo xây thành đắp lũy, lấy nơi đây làm căn cứ tổng hành dinh cho bước đầu khởi nghiệp;
    – Mùa thu năm Quý Tỵ (1773) Tây Sơn bắt đầu đánh chiếm ấp Kiên Thành (nơi trú quán của gia đình) và phân chia địa bàn để kiểm soát và cai trị;
    – Năm Bính Thân (1776) theo cơ mưu sắp đặt của Nguyễn Nhạc, dùng chiến thuật trá hàng quân Nguyễn ở căn cứ Quy Nhơn nên chỉ có một đêm anh em nhà Tây Sơn đã lấy được thành này, và tiếp tục đánh chiếm Quảng Ngãi và Phú Yên, để rồi Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, đống đô ở thành Đồ Bàn (cố đô của Chiêm Thành), phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính và Nguyễn Lữ làm Thiếu phó;
    – Năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Nhạc bắt tay thỏa hiệp với chúa Trịnh và được phong làm Quảng Nam trấn thủ nên từ đó anh em Tây Sơn đã dốc hết toàn lực để đánh chúa Nguyễn ở phía Nam. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã thống xuất hai đạo quân thủy – bộ 1. tiến thẳng vào Sài Gòn để đánh chiếm thành Gia Định, rồi đánh rốc xuống Long Xuyên giết chết chúa Nguyễn Phúc Thuần và Đông cung Dương, chỉ còn có Nguyễn Ánh chạy thoát được mà thôi.(Nguyễn Ánh đi vào Thất Sơn lánh nạn trong một gia đình nông dân vùng sơn địa và gặp được cô Như Liên là con gái của gia đình này. Một cô gái miền Sơn Cước vẻ đẹp hồn nhiên thùy mị làm cho Nguyễn Ánh ước mơ say đắm, song vì chỉ tá túc qua đêm rồi bị quân của Tây Sơn bủa vây, truy lùng nên cô này phải dẫn đường cho Nguyễn Anh thoát nạn để rồi từ đó cô ta đã bỏ nhà ra đi mà cả gia đình cũng không còn ai tìm ra tung tích?)
    - Năm Mậu Tuất(1778) sau khi giết được chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Thái Đức, lập nên một vương triều mới ở phía Nam Tổ quốc, phong cho Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân (coi như nguyên soái), trong lúc Nguyễn Huệ vừa tròn 26 tuổi.
    - Năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đập tan 2 vạn thủy binh với 300 chiến thuyền của quân Xiêm xâm lược ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), v.v...
    Với ngần ấy thành quả đã đạt được trong công cuộc bình định trận địa phía Nam của Nguyễn Huệ mà điểm quan trọng nhất trong cuộc đời chinh chiến đã đưa tên tuổi và sự nghiệp của ông đi vào trang sử oai hùng rạng chói của dân tộc, đó là 3 lần ông đưa quân ra Bắc Hà sau đây đánh dẹp dứt điểm thế lực chuyên quyền hàng mấy trăm năm của dòng dõi họ Trịnh và đập tan 20 vạn quân Thanh xâm lược để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho giang sơn Tổ quốc Đại Việt:
    - Lần thứ nhất: năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ thực hiện khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh" đem quân ra Bắc đánh Trịnh, chỉ trong 01 tháng Nguyễn Huệ đã xóa sổ thế lực chuyên quyền xuyên suốt 11 đời với 248 năm làm lãnh chúa khống chế Lê triều, quyền hạn của nhà vua chỉ là hư vị bù nhìn để bọn chúng tự do tung hoành, thao túng. Giờ đây vua Lê chính thức ban chiếu phong cho Nguyễn Huệ làm nguyên soái của vương triều. Và cũng trong dịp này, nhờ nhịp cầu mối lái của Nguyễn Hữu Chỉnh nên Nguyễn Huệ đã kết hôn với Ngọc Hân Công Chúa, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên, lễ tân hôn của họ tổ chức linh đình trọng thể ở kinh thành Thăng Long vào ngày 11 tháng 7 năm Bính Ngọ (nhằm ngày 4 tháng 8 năm 1786). Và một tháng sau Nguyễn Huệ đưa Ngọc Hân về Phú Xuân, năm ấy Ngọc Hân vừa tròn 16 tuổi.
    Đến tháng tư năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc phong vương, đặt niên hiệu là Bắc Bình Vương và phân chia lãnh địa để cai trị từ núi Hải Vân ra Bắc; từ Gia Định trở vào thuộc Đông Định Vương Nguyễn Lữ và Nguyễn Nhạc đóng đô ở Quy Nhơn tự xưng là Trung Ương hoàng đế.
    - Lần thứ hai: vào tháng 4 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ thân chinh ra Bắc cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh để diệt trừ Vũ Văn Nhậm quá lộng quyền và có âm mưu tạo phản, đồng thời quét sạch đám tàn quân còn sót lại của họ Trịnh;
    - Lần thứ ba: tháng 10 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ được tin vua Lê Chiêu Thống cầu viện vua Càn Long nhà Thanh đem quân sang đánh chiếm thành Thăng Long dưới quyền thống suất của Tôn Sĩ Nghị. Mặc dù tình thế ở phía Nam đang căng thẳng do Nguyễn Ánh đã củng cố lực lượng từ bên Xiêm kéo quân về đánh đuổi Nguyễn Lữ để chiếm lại thành Gia Định vào tháng 8 năm này (1788). Nguyễn Lữ đã thua chạy còn Nguyễn Nhạc thì bất lực chỉ khẩn thiết cầu cứu ở Nguyễn Huệ, song vì quan niệm chọn lựa đanh thép của Nguyễn Huệ là đánh đuổi giặc ngoại xâm để cứu nước là việc đại hệ trọng cần phải đặt lên hàng đầu, ông quyết định ra Bắc để cứu vãn triều đại nhà Lê và giải phóng cho đồng bào dân tộc không phải chịu cảnh tôi đòi nô lệ của ngoại bang.
    Rồi vì muốn có đủ sức mạnh niềm tin đối với quần chúng và cũng để đáp lại lời yêu cầu cấp thiết của ba quân tướng sĩ nên trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ đã long trọng tổ chức buổi lễ đăng quang tế cáo trời đất để ông chính thức lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung, đồng thời ông cũng đã chuẩn bị sẵn sàng về chiến lược, chiến thuật cho trận đánh và qua đó ông đã dõng dạc tuyên bố một câu đại để rằng "năm nay chúng ta sẽ đón Tết khai Hạ (ngày mùng 07) tại kinh thành Thăng Long!".
    Quả đúng như vậy! Nguyễn Huệ ra lệnh xuất phát từ ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (nhằm ngày 22 tháng 12 năm 1788) phải trải qua chặng đường dài hàng ngàn cây số băng rừng vượt suối và phải mất cả tháng trường mới tới Tam Điệp để dừng quân. Để rồi ngày 30 tháng chạp, Nguyễn Huệ đã phát pháo lệnh xung quân vào trận với khí thế bừng bừng sục sôi căm thù giặc, toàn quân thủy bộ 5 mũi giáp công (tiền, hậu, tả, hữu và trung quân) ào ào như thác lũ, đánh thần tốc chỉ có 5 ngày (đến mùng 5 tết Kỷ Dậu) đã quét sạch 20 vạn quân Thanh lấy lại giang sơn bờ cõi, chấm dứt vĩnh viễn giấc mộng xâm lăng cuối cùng của bọn đế quốc phong kiến phương Bắc! Trong trận này, tên thống soái Tôn Sĩ Nghị phải bỏ của chạy lấy người và tướng Sầm Nghi Đống vì đường cùng phải thắt cổ tự vận.
    Như vậy, Nguyễn Huệ đã kết thúc trận chiến sớm hơn 02 ngày so với lời tuyên bố và dự định của ông. Phải trung thực nhìn nhận rằng đây là một trận chiến lẫy lừng oanh liệt có một không hai của vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn, một thiên tài quân sự kiệt xuất đã đi vào lịch sử ngàn đời bất diệt của dân tộc và đất nước!
    Sau khi bình định an dân và lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc và cắt cử các quan cận thần ở lại trông coi việc nước xong xuôi, Nguyễn Huệ lại lui quân về Phú Xuân và cũng trong năm này (1789) ông đã tấn phong cho bà vợ cả là Phạm Thị Liên ( tộc danh là Bùi Thị Nhạn) làm Chánh Cung hoàng hậu. Bà này có với Nguyễn Huệ tất cả là năm người con, ba trai và hai gái. Nguyễn Quang Toản là con trai lớn (con cả) được lập ngôi hoàng thái tử... Bà Ngọc Hân Công Chúa được phong làm Bắc Cung hoàng hậu, năm ấy bà vừa tròn 18 tuổi, vẫn sống sát cánh với Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Bà sinh hạ được hai người con, một trai là hoàng tử Nguyễn Quang Đức và một gái là công chúa Nguyễn Thị Ngọc.
    Tuy công lao hạn mã đã đưa Nguyễn Huệ đạt đến đỉnh vinh quang của ngôi vị hoàng đế như vậy, nhưng trái tim và khối óc vĩ đại của Nguyễn Huệ vẫn chưa thấy hài lòng mãn nguyện bởi tâm tư của ông còn nặng mang canh cánh một hoài bão thiết tha, là làm thế nào để lấy lại được Quảng Đông và Quảng Tây thuộc lãnh thổ của nước ta được khai dựng từ thời Bách Việt đã bị bọn cường quyền Hán tộc Trung Hoa xâm chiếm.
    Thực ra mọi phương sách, kế hoạch đều đã được Quang Trung Hoàng Đế và quan cận thần Nguyễn Hữu Chỉnh sắp đặt đâu đó xong xuôi, đã hoàn bị bằng một cuộc hôn nhân chính trị giữa Nguyễn Huệ và công chúa của vua Càn Long nhà Thanh, coi như mọi việc giao ước giữa hai bên đều đã đi đến thỏa thuận êm đẹp như yêu cầu mong muốn. Nhưng than ôi! Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên; tạo hóa đã cay nghiệt và tàn nhẫn cướp đi mạng sống của một vị đại anh hùng dân tộc đã vẽ lên trang sử oai hùng cho giang sơn gấm vóc. Quang Trung Nguyễn Huệ đã vĩnh viễn ra đi hãy còn mang theo một ước nguyện chưa thành, đó là khôi phục lại vùng biên cương lãnh địa cho bản đồ Tổ quốc, và còn để lại cho dân tộc đồng bào cả nước một niềm tiếc thương vô hạn!!!
    Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ băng hà lúc 11 giờ khuya đêm 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), thọ 40 tuổi và ở ngôi 5 năm (1787 – 1792).

    Thân thế và sự nghiệp của Ngọc Hân Công Chúa

    Công chúa Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long. Bà là công chúa thứ 21 trong số 23 người công chúa Con của vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng. Mẹ là bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền ở xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, quận Gia Lâm, thành phố Hà Nội), con gái của ông Nguyễn Đình Giai thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc.
    Ngọc Hân có một nhan sắc diễm kiều, lại có đủ tài cầm, kỳ, thi, họa và còn là một danh nhân văn hóa dân tộc được lịch sử và các nhà văn học đánh giá cao. Thơ văn do bà sáng tác trong đó bài 'Ai tư vãn' một bài văn tế khóc chồng rất thê lương, áo não làm xúc động lòng người!
    Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ với cương vị Long Nhương tướng quân thống lãnh binh nhung ra Bắc để tận trừ thế lực độc đoán của dòng dõi chúa Trịnh, nhân cơ hội này Nguyễn Hữu Chỉnh đứng ra làm mai mối để Ngọc Hân công chúa được sánh duyên cùng vị nguyên soái anh hùng Nguyễn Huệ vốn đã được vua cha Lê Cảnh Hưng hết sức bằng lòng và hơn nữa, vua Lê Hiển Tông rất cần có 1 phò mã tài ba kiệt xuất như Nguyễn Huệ để bảo vệ giang sơn triều chính. Rồi chỉ mấy hôm sau hôn lễ, vua Lê đã băng hà ở tuổi 70.
    Ngọc Hân công chúa và Nguyễn Huệ cùng lo việc hậu sự tang chế cho vua cha xong, bà phải đi theo Nguyễn Huệ vào sống ở đất Lưỡng Quảng (Phú Xuân – Huế). Do đánh đổ họ Trịnh nên bấy giờ Nguyễn Huệ đã được phong vương, niên hiệu là Bắc Bình Vương, và Nguyễn Huệ phong cho công chúa Ngọc Hân làm Hữu Cung hoàng hậu.
    Năm Kỷ Dậu (1789), sau khi Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ thân chinh đem đại binh ra Bắc để đập tan 20 vạn quân Thanh và chiến thắng trở về Phú Xuân, Ngọc Hân đang là Hữu Cung hoàng hậu của triều đình nhà chúa đã được Nguyễn Huệ tấn phong lên thành Bắc Cung hoàng hậu của vương triều oai phong lừng lẫy. Năm ấy bà vừa ở tuổi 19.
    Mặc dù được Nguyễn Huệ ân sủng dành cho bà cái tình nghĩa quý yêu say đắm, cũng như dù ở cương vị cao sang quyền quý của một bà hoàng nhưng chưa bao giờ Ngọc Hân tỏ ra kiêu căng ngạo mạn, mà trái lại bà vẫn luôn luôn thể hiện thái độ hài hòa từ tốn trong cung cách ứng xử với mọi người cho nên từ trong triều nội đến ngoài thứ dân ai ai cũng đều trân quý, cảm phục trước đức độ cao quý của bà.
    Ngọc Hân vừa là người vợ ngoan hiền mà cũng vừa là người bạn đồng hành chẳng những giúp Nguyễn Huệ từ việc điều hòa giữa hai triều đình Lê - Nguyễn cho đến quốc sách ngoại giao và bình trị thiên hạ. Bà sống với Nguyễn Huệ chỉ có 6 năm ngắn ngủi (1786 - 1792) và sanh hạ hai người con như đã đề cập ở phần trên.
    Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp của bà cũng nằm trong cái định mệnh vốn khắt khe, cay nghiệt của tạo hóa như câu thành ngữ dân gian thường hay nói "hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh". Thật quả không sai, cho cả vận số của bà và Nguyễn Huệ. Vì nếu Nguyễn Huệ đã sớm vĩnh viễn ra đi ở tuổi 40 thì bà cũng phải trải qua một khúc quanh truân chuyên gian khổ để rồi kết thúc cuộc đời bằng cái chết đau thương cay đắng khi tuổi đời mới vừa tròn 29. Hai cái tuổi còn nhiều hứa hẹn với một tương lai huy hoàng rạng rỡ không chỉ dành riêng cho người trong cuộc mà còn cho cả vận mệnh đất nước mong chờ!
    Đứng về mặt tình nghĩa yêu thương trong đạo vợ chồng, Ngọc Hân luôn biểu tỏ một người đàn bà trung trinh tiết liệt đến lúc lìa đời. Trong lúc Nguyễn Huệ lâm cơn bạo bệnh, bà đã hết lòng lo lắng, chạy chữa thuốc thang từ quan Ngự y triều đình cho đến các danh y trong cả nước đều được bà triệu thỉnh, rước mời. Thậm chí bà còn tự thân đi đến chùa miếu để cầu khẩn Phật Trời và thần linh gia hộ cho chồng, được thể hiện qua nội dung bài thơ sau đây diễn tả tâm trạng tận cùng lo lắng của bà:
    Từ nắng hạ mưa thu trái tiết,
    Xót mình Rồng mỏi mệt chẳng yên.
    Xiết bao kinh sợ ưu phiền,
    Miếu thần đã bảo, thuốc tiên lại cầu.
    Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
    Phương pháp nào đổi được cùng chăng?

    Thế mà vẫn không thoát được mệnh số của tử thần đã gọi, nên hoàng đế Nguyễn Huệ đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 11 giờ khuya ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) tại kinh đô Phú Xuân để lại cho Ngọc Hân nỗi đau thương mất mát cùng tột cuộc đời của một hoàng hậu mới vừa 22 tuổi, chỉ sống hạnh phúc với nhau qua thời gian 6 năm ngắn ngủi. Vâng! Còn nỗi đau nào hơn cảnh sanh ly tử biệt! Ngọc Hân đã phải khóc chồng một cách thống Thiết qua bài Ai tư vãn nghe rất não nùng bi thảm:
    Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt
    Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa!
    Tưởng lời di Chúc thiết tha,
    Khóc nào nên tiếng thức mà cũng mê.

    Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở!
    Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
    Quyết liều mang vẹn chữ tòng,
    Trên rừng nào ngại giữa dòng nào e!

    Còn trứng nước thương vì đôi chút,
    Chữ tình thâm chưa thoát được đi.
    Vậy nên nấn ná đợi khi...
    Hình thì tuy ở, phách thì đã theo...!


    Đây là bài văn tế khóc chồng của Ngọc Hân có thể so sánh với Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu và Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm theo thể loại song thất lục bát, sáng tác bằng văn Nôm, một áng văn bất hủ đã đóng góp phong phú cho kho tàng văn học nước nhà ở thế kỷ XVIII.
    Năm Quý Sửu (1793) Nguyễn Quang Toản kế nghiệp vua cha lên ngôi hoàng đế lúc mới tròn 10 tuổi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Bà Bắc Cung hoàng hậu được sắc phong lên ngôi Hoàng Thái Hậu, tuy nhiên bà chỉ giữ vai trò này trong thời gian không lâu. Sau đó, bà rời khỏi hoàng cung đi vào chùa Kim Tiên (Dương Xuân, bên cạnh điện Đan Dương - Huế) để lo tu niệm, thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy hai con. Giai đoạn này bà cũng gặp cảnh huống khó khăn rối rắm vì nội bộ của triều đình đang có sự biến. Quan Thừa tướng Bùi Đắc Tuyên, cậu ruột của vua Cảnh Thịnh lộng quyền, làm mưa làm gió gây xáo trộn cả triều đình và náo loạn thần dân khiến cho mẹ con bà ăn ngủ cũng không được yên. Có giả thuyết cho rằng vì bị ảnh hưởng tình trạng này nên mẹ con bà phải thay tên đổi họ đi vào Quảng Nam để lẩn trốn (?)
    Số phận của mẹ con Ngọc Hân lúc bấy giờ đại khái có hai loại ý kiến của hai nhóm sử gia theo góc nhìn qua chính sử (quốc sử) hoặc do truyền khẩu, đại để như:
    - Nhóm thứ nhất: bà Ngọc Hân và hai người con vẫn tiếp tục ở chùa Kim Tiên cho đến lúc bà mất vào ngày mùng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4/12/1799) khi bà mới vừa 29 tuổi. Quan Lễ Bộ Thượng Thư Phan Huy Ích vâng lệnh triều đình đã viết bài điếu văn cho vua Cảnh Thịnh đọc trước linh sàn của bà (trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có ghi rõ). Thế nhưng, sử liệu này không nói rõ nguyên nhân cái chết của bà vì bệnh tật hay vì lý do nào khác. Riêng trường hợp hai người con của bà thì sau đó hai năm khi Nguyễn Ánh tiến quân ra đánh chiếm Phú Xuân vào tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đều đã bị bắt chung trong nhóm hoàng tộc Tây Sơn còn sót lại trong Hoàng thành, vì tháo chạy không kịp nên tất cả 31 người đều bị tống giam vào ngục cho đến sáu tháng sau, tức tháng 11 năm ấy đều bị đem ra xử lăng trì trong đợt đầu tiên theo sắc lệnh tru di để trả thù của Nguyễn Ánh. Còn Nguyễn Quang Toản và gia quyến cùng một số cận thần chạy lánh nạn ở vùng cao Kinh Bắc cũng đã bị đám thổ hào nơi đây bắt và đem dâng nạp khi Nguyễn Ánh đem quân ra đánh lấy thành Thăng Long thống nhất sơn hà từ Nam chí Bắc năm Nhâm Tuất (1802). Và Nguyễn Ánh đem nhóm Nguyễn Quang Toản ra làm lễ Hiến phù trước Thái miếu rồi xử trảm bêu đầu giữa chợ trong đợt cuối cùng. Như vậy, hoàng tộc Tây Sơn đã bị tuyệt diệt vào tháng 11 năm ấy (1802). Theo sử liệu Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn và chính nhà giáo sĩ người Pháp là Barizy đã cùng sát cánh với vua Gia Long cũng đã xác nhận sự kiện này.
    - Nhóm thứ hai: gồm có các tác phẩm Các triều đại Việt Nam của đồng tác giả Huỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng; Lược sử công chúa Ngọc Hân của Ngô Tất Tố và Phan Khanh; Viện bảo tàng sử học...đều cho rằng bà Ngọc Hân và hai con phải thay tên đổi họ đi vào Quảng Nam để lánh nạn nhưng rồi cũng bị phát hiện và bà bị bắt buộc phải uống thuốc độc quyên sinh, và hai người con của bà cũng bị thắt cổ chết, cũng đúng vào năm Kỷ Mùi (1799), lúc ấy bà mới vừa tròn 29 tuổi, và hai con của bà hãy còn niên thiếu (Nguyễn Thị Ngọc 11 tuổi vào Nguyễn Văn Đức 9 tuổi).

    Mãi đến mấy năm sau bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền là mẹ đẻ của công chúa Ngọc Hân, quê ở Phù Ninh (tục gọi là làng Nành, tỉnh Bắc Ninh). Khi nắm được tin tức con gái cùng hai cháu ngoại bị chết thảm và bị chôn cất nơi hoang vắng không người lai vãng để cho mồ hoang mả lạnh, bà rất đỗi đau lòng nên phải nhờ một viên quan là một cựu đô đốc tên Hài (vốn là quan đô đốc của thời Nguyễn Huệ trước đây) âm thầm đi vào Quảng Nam để lấy trộm hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân đem về cho bà Huyền cải táng và lập miếu thờ một cách cẩn mật kín đáo.
    Ấy vậy mà cả mấy chục năm sau cũng vẫn có ông phó tổng ở địa phương về kinh dâng sớ tố cáo với triều đình về các ngôi mộ ẩn danh này. Bấy giờ là đời vua Thiệu Trị năm thứ hai (1842) bèn hạ lệnh cho quan quân đến san bằng khu mộ và luôn cả miếu thờ, đồng thời còn đem hài cốt cả ba mẹ con đổ xuống sông Dâu theo chủ trương xoá sạch tàn tích của đế hệ nhà Nguyễn Tây Sơn, coi như tuyệt hậu hoàn toàn không còn mầm mống và dấu vết gì nữa từ người sống cho đến kẻ đã chết!
    Tương truyền, hài cốt của công chúa Ngọc Hân bị nước cuốn ra sông Hồng rồi nằm lại ở mé bờ Ghềnh nên dân chúng phát hiện được, họ cùng nhặt và thỉnh lên bờ chôn cất và lập đền thờ đặt tên là đền Mẫu để tránh tiếng dư luận của dân gian, nhất là sự truy sát của chánh quyền. Đó là ngôi đền Ghềnh toạ lạc tại làng Lâm Hạ, xã Phú Viên, huyện Gia Lâm - Hà Nội như ta thấy hiện nay.

    Tóm lại qua những sự kiện đã dẫn trên đây, vì còn tồn tại một vài điểm khác biệt về yếu tố thời gian cũng như về địa điểm, nhưng nhìn chung trên bình diện thực tế cho chúng ta thấy rõ sự đồng nhất với nhau về cách nhìn nhận qua những dữ kiện lịch sử có thể tóm lược như sau:
    - Ngày mất của Công Chúa Ngọc Hân đều được xác định là ngày mùng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (04/12/1799). Có khác chăng về địa điểm ở Quảng Nam hay Phú Xuân mà thôi;
    - Hai người con đều bị treo cổ chết cùng thời điểm của bà hay bị Nguyễn Ánh xử lăng trì tập thể tại Phú Xuân vào năm Tân Dậu (1801), tức hai năm sau đó. Nhưng lịch sử đều thống nhất với nhau ở điểm: hai người con của bà Ngọc Hân đều bị chết non mà cả giáo sĩ người Pháp là Barizy cũng đã xác nhận như vậy; và
    - Việc bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền đã nhờ quan cựu đô đốc tên Hài vào Nam lấy trộm hài cốt của mẹ con công chúa Ngọc Hân đem về an táng tại quê hương của bà Huyền ở làng Nành, tỉnh Bắc Ninh và sau đó đã bị vua Thiệu Trị xuống lệnh cho quan quân đến phá hủy... cũng đã được sách sử thừa nhận là đúng, v.v...

    Thưa ông Cư sĩ Sripolieu,
    Những dẫn chứng trên đây là câu trả lời đích thực cho cái tác phẩm mà ông đã chắt chiu dàn dựng và hư cấu với ý đồ muốn làm lung lạc niềm tin của hai khối tín đồ BSKH và PGHH, nhưng ông đã quá sai lầm! Việc làm của ông không khác nào như ông ngửa mặt lên trời để phun nước bọt, coi như ông đã tự tay đốt cháy cả cuộc đời văn nghiệp và danh dự của mình một cách quá rẻ như vậy, thật đáng trách và tội nghiệp cho ông quá! Vậy thử hỏi vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân có liên quan gì đến Đức Phật Thầy Tây An đâu mà ông lại đi theo vết chân lạc lõng của học giả Hồ Hữu Tường để ngụy tạo và gán ghép một cách cực kỳ phi lý như vậy? Mà đáng lý ra trước khi viết một đề tài mang tính lịch sử thì nhất thiết ông cần phải sưu tra, khảo cứu sử liệu cho rõ ràng và chính xác rồi hẵng hạ bút, chứ có đâu lại viết bừa, viết ẩu theo sự suy tưởng chủ quan thì làm sao đúng và ai chấp nhận cho!? Ông nên nhớ rằng, điều tối kỵ của lịch sử là suy diễn theo quan điểm chủ quan. Vấn đề của Đức Phật Thầy Tây An là những dữ kiện rành rành ra đó và đã được chứng minh bằng con số biết nói của không gian và thời gian nhất định của nó không thể đảo ngược. Thế mà ông vẫn cố tình muốn vo tròn bóp méo theo ý đồ bất chính của ông, dứt khoát là điều không thể! Lý do rất dễ hiểu là Quang Trung Nguyễn Huệ đã băng hà vào lúc 11 giờ khuya, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) trong khi Đức Phật Thầy Tây An đản sinh vào giờ Ngọ ngày Rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807), thời gian cách biệt nhau tới những 15 năm, và cũng như bà công chúa Ngọc Hân mất vào ngày mùng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (1799) đối chiếu lại ngày Đức Phật Thầy Tây An giáng thế (1807) thời gian cách nhau là 8 năm! (Hoặc giả thuyết bà mất năm 1801 thì cũng là 06 năm). Với khoảng cách thời gian như vậy, nghĩa là một bên thì đã vĩnh viễn ra đi thậm chí xương tàn cốt rũ hết rồi, còn một bên thì chưa mở mắt chào đời thì làm thế nào để cột buộc người ta vào cái vòng quan hệ cha con hay mẹ con được phải không, thưa ông cư sĩ?! Ấy vậy mà cũng có ông Lương y Trần Hữu Thành ở Gò Vấp đã đồng tình viết ra tập sách nội dung coi như sao y bản chính của ông để phổ biến và ông Phạm Việt Thường trong bài Bút Ký cũng đã rập khuôn như vậy; thật là chuyện khôi hài, ngớ ngẩn!

    Điều này bút giả xin mở dấu ngoặc để lạm bàn, luận lý với ông cho vui coi như chuyện bên lề đó là bút giả muốn hỏi cư sĩ có biết cái sắc lệnh tru di cực kỳ nghiêm khắc của Nguyễn Ánh ban ra nhằm để trả thù tận gốc dòng dõi của nhà Nguyễn Tây Sơn như thế nào không? Cứ theo sổ hộ tịch kể cả việc truy tầm trên thực tế, Nguyễn Ánh không hề bỏ sót một mống nào từ già đến trẻ nằm trong dòng máu thuộc hệ tộc của nhà Tây Sơn điều bị tuyệt diệt, ngay cả đến người chết vẫn chưa yên như vụ quật mồ anh em Nguyễn Huệ, và thậm chí mấy chục năm sau vua Thiệu Trị, tức cháu nội của Nguyễn Ánh cũng vẫn còn truy tìm phần mộ của mẹ con bà công chúa Ngọc Hân ở tỉnh Bắc Ninh để san bằng, thì huống hồ gì người sống mà họ truy tìm không ra? Như vậy có phải vô cùng phi lý hay không, thưa ông cư sĩ?!
    Để nhấn mạnh những điểm sai lầm nghiêm trọng này, bút giả xin mời các ông cư sĩ Sripolieu, ông Phạm Việt Thường và ông Trần Hữu Thành hãy chú ý lắng nghe lời nói đầy khôi hài mai mỉa sau đây của một văn hào người Pháp tên Bosuet, sau khi xem qua tác phẩm của các ông nói về Đức Phật Thầy Tây An là con của Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân Công Chúa, ông đã bảo: "Từ ngày có những nhà viết sử thì không còn sử nữa!", nhà thơ Quách Tấn, một học giả uyên thâm lý giải câu nói ấy nguyên văn như: "Không còn sử nữa tức là chỉ còn những chuyện hoang đường do trí tưởng tượng của những nhà viết sử tạo nên. Chuyện của bà Ngọc Hân là một bằng chứng!"
    Thế cũng vẫn chưa hết, bởi ông cư sĩ hãy còn vấp phải quá nhiều sai lầm cần phải được điều chỉnh hoặc nghiêm khắc phê phán để giúp ông còn có cơ hội thay đổi tầm nhìn nếp nghĩ, nhất là phương thức tham khảo về dữ liệu lịch sử, ít ra ông cần phải dựa vào một số dữ liệu cơ bản có điểm tựa tin cậy nhất định nào đó để làm tài liệu biên khảo nhằm giúp cho các bài viết và tác phẩm của mình có thể thuyết phục được độc giả cũng như có thể đóng góp phần nào vào nền văn học sử nước nhà. Nếu không, ông vẫn cứ mãi đi theo lối mòn ngựa quen đường cũ, tức làm theo quán tính không có cơ sở chứng minh, như vậy sẽ vô cùng tác hại đến cuộc đời văn nghiệp của ông! Và sau đây, bút giả sẽ lần lượt đưa ra những điểm sai lầm hết sức nông nổi của ông để cho công luận và các sử gia rộng đường phán xét, đánh giá.

    Chương III

    Cách định nghĩa địa danh làng Tòng Sơn của cư sĩ Sripolieu;

    Phần này bút giả xin trích nguyên văn của cư sĩ gồm có 02 định nghĩa sau:
    1 - Tòng là cây tòng (tùng) và Sơn là núi, núi có rừng tòng.
    2 - Tòng có nghĩa là theo, nghĩa là theo núi, theo Sơn. Xét về mặt địa dư, Tòng Sơn là một làng nằm cạnh bờ sông Tiền và không có núi non gì cả, cũng chẳng có rừng tòng. Vậy ta thấy nghĩa thứ hai hợp lý hơn, tức theo núi, theo Sơn tức là theo Tây Sơn (trích theo quyển Thân thế Phật Thầy Tây An tập I, trang 43 của cư sĩ).
    Rồi ông viết tiếp:
    “Ta không rõ đích xác làng Tòng Sơn do Phật Thầy đặt tên hay có người đặt trước. Dù đúng hay không ta vẫn thấy sự xuất hiện của Ngài ở đây hoàn toàn có một ý nghĩa ẩn tàng, ám chỉ Ngài thuộc dòng dõi Tây Sơn. Ta đang liên tưởng đến bài Ai tư vãn, bà Ngọc Hân công chúa viết:

    Tưởng lời di Chúc thiết tha,
    Khóc nào nên tiếng thức mà cũng mê.

    Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở!
    Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
    Quyết liều mang vẹn chữ tòng,
    Trên rường nào ngại giữa dòng nào e!

    ( trang 44, tập I)

    Để làm sáng tỏ vấn đề, bút giả xin nêu lên những nhận xét, bình phẩm sau:
    - Thứ nhất: xin loại trừ giả thuyết cho rằng cái địa danh làng Tòng Sơn do Đức Phật Thầy khai sinh bởi lý do: khi bỏ nhà ra đi, Ngài chỉ mới ở vào độ tuổi trưởng thành, tức trước khi ngài tu chứng Phật Quả và trở về làm Tòng Sơn để trị bệnh cứu đời thì Ngài vẫn còn là một thanh niên trong hàng trai tráng, bình thường như mọi người cùng trang lứa khác, lẽ cố nhiên Ngài chưa phải là một nhân vật có tên tuổi, có đủ khả năng và vị thế để đặt tên cho ngôi làng như ai đó đã suy luận. Mà chỉ có triều đình hoặc những quan chức, hay những người có công khai hoang mở địa mới đủ tư cách thực hiện mà thôi.
    - Thứ hai: khi Đức Phật Thầy xuất thân ra đi tầm đạo để tìm phương cứu khổ sanh linh thì cái tên làng Tòng Sơn vốn dĩ đã có trước đó từ lâu đời rồi. Vả lại cả triều đại nhà Tây Sơn (gồm có bốn đời hoàng đế) đã hoàn toàn bị triệt tiêu vào năm Gia Long thứ II (1802) cho đến 5 năm sau Đức Phật Thầy mới giáng lâm (đản sanh) thì có liên quan, dính dáng gì đến Tây Sơn đâu mà dám gọi làng Tòng Sơn có ẩn tàng và ám chỉ Đức Phật Thầy Tây An thuộc dòng dõi, gốc gác của nhà Tây Sơn, cũng như Tòng Sơn có mang ý nghĩa gì như lời kêu gọi "theo Tây Sơn" đâu mà ông cư sĩ lại cố tình định nghĩa một cách bừa bãi vô căn cứ như vậy?! Dù vậy nhưng đâu đã hết, ông cư sĩ vẫn còn lắp ghép chữ tòng trong bài Ai tư vãn của bà Ngọc Hân khóc chồng cũng mang hàm ý của chữ tòng qua lý giải quái gở và phóng đại của ông?! Do đó bút giả xin được phép hỏi ông, ý nghĩa chữ tòng của bà Ngọc Hân nội dung và chủ đích của bà muốn nói lên điều gì? Chắc ông cũng hơi khó trả lời vì ông có ý đồ khác, nên bút giả xin thay ông để trả lời rằng tòng ở đây mà bà Ngọc Hân công chúa muốn nói không có ý nghĩa nào khác hơn là tam tòng tứ đức của các bậc hiền thánh Nho giáo xưa đã chỉ dạy. Chính Đức Huỳnh giáo chủ cũng đã hằng khuyên nhắc:
    Câu Tam tòng bạn gái nước ta,
    Chữ Hiếu Nghĩa trẻ trai cho vẹn.

    Bởi bà Ngọc Hân vì quá đau thương cho cái chết tức tưởi của Nguyễn Huệ người anh hùng kiệt xuất của dân tộc và là người chồng yêu quý chẳng may vắn số, để lại cho bà và hai đứa con thơ dại biết bao nỗi buồn thương mất mát giữa lúc tuổi đời của bà đang ở độ thanh xuân. Thế nhưng bà vẫn nhất quyết thệ nguyện với lòng sẽ giữ vẹn chữ tòng cho tròn câu chung thủy trong đạo vợ chồng (tòng phu). Mà thật vậy! Quang Trung Nguyễn Huệ băng hà thì sau đó bà Ngọc Hân cũng đã xin được rời khỏi hoàng cung (không ở ngôi Hoàng Thái Hậu) để ra ở chùa Kim Tiên (cho nên sau này người ta gọi bà là bà Chúa Tiên) lo tu niệm và thủ tiết thờ chồng cho đến khi bà nhắm mắt ở tuổi 29 (1799).
    Sự thật của vấn đề chỉ có thế thôi, vậy mà ông cư sĩ lại quá giàu tưởng tượng đi làm cái việc chắp vá theo kiểu "đầu Ngô mình Sở" hoặc "nhổ râu cắm càm" để cưỡng từ đoạt lý như vậy! Bút giả nghĩ rằng các nhà sử học và ngôn ngữ học khi đọc qua nội dung tác phẩm của ông chắc chắn rằng họ điều phải ngả mũ chào thua và tôn ông lên ở hàng "sư phụ" về tài “ba lông ba khơi” của ông đấy! Điều này cũng làm cho bút giả liên tưởng đến câu chuyện của kỳ thi tốt nghiệp ở một trường sở nào đó tổ chức. Khi thi tới môn vấn đáp, Ban giám khảo lần lượt gọi thí sinh lên để trả lời câu hỏi. Thí sinh đầu tiên được hỏi: “Trò hãy cho biết ý nghĩa của thơ Đường luật?” “Dạ thưa thơ Đường luật là thơ nói về luật đi đường ạ”, lời của thí sinh đáp. Ban giám khảo ngồi ngẩn ngơ và lắc đầu. Đến thí sinh thứ hai được hỏi: “Thí sinh hãy cho biết thơ thất ngôn tứ tuyệt là gì?” Thí sinh này nhanh nhảu trả lời: “Thưa, thơ thất ngôn tứ tuyệt là thơ nói về ở trên đời có bốn cái tuyệt ạ!” Cả Ban giám khảo đều le lưỡi thở dài, nhưng cũng vẫn cố gắng tiếp tục đặt câu hỏi cho thí sinh thứ ba: “Thí sinh Hãy cho biết ý nghĩa của ngôi làng ở miền Trung có tên là Mỹ Lai?” Thí sinh này liền đáp: “Dạ thưa vì ở ngôi làng này dân cư không phải là người thuần Việt Nam mà hầu hết là dân lai Mỹ ạ!” Đến đây ban giám khảo đành phải tuyên bố ngừng cuộc thi vì nếu tiếp tục sẽ còn nhiều thí sinh trả lời theo các kiểu “trời ơi đất hỡi” như vậy nữa sẽ làm mất giá trị của một khóa thi ở cấp quốc gia!...

    Riêng bút giả xin đưa ra hai giả thuyết cho làng Tòng Sơn như sau đây;

    - Thứ nhất: có lẽ vào năm 1698, khi chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho tướng Nguyễn Hữu Cảnh làm quan Kinh lược đất Chân Lạp để vừa bảo hộ cho vương triều Cao Miên thường hay bị quân Xiêm La xâm chiếm, vừa để thiết lập bộ máy hành chính ở các vùng đất mới khai mở. Đó là thời gian Nguyễn Hữu Cảnh đặt tên cho các vùng miền và làng mạc ở toàn khu vực Tây Nam Bộ trong đó có làng Tòng Sơn (nếu là tên thuần Hán Việt?) và
    - Thứ hai: rất có thể đây là cái tên xuất xứ từ nguồn gốc của người Cao Miên đặt ra bằng ngôn ngữ của họ rồi người Việt chúng ta âm ra tiếng Hán Việt, ví dụ như Preykor được Việt hóa là Sài Gòn, rồi Longhor ta âm ra là Long Hồ (Vĩnh Long), Mesa là Mỹ Tho và Thnot là Thốt Nốt v.v... Nói chung gần như đa số các địa danh của miền Tây Nam Việt điều xuất xứ từ tên gốc của người Cao Miên nên cái tên làng Tòng Sơn chắc cũng không nằm ngoài trường hợp đó chăng?

    Còn nói Tòng Sơn được kết hợp chữ tòng trong bài Ai tư vãn của bà Ngọc Hân công chúa để nói lên lời kêu gọi "theo Tây Sơn" và còn ám chỉ Đức Phật Thầy Tây An thuộc dòng dõi của Tây Sơn theo lập luận kỳ dị quái đản của cư sĩ Sripolieu coi như chuyện bịa đặt chứ không có sử sách nào công nhận. Cho đến 12 vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy đều là những bậc đạo cao đức trọng cũng chưa hề đề cập tới, và ngay cả về địa hạt dư âm huyền thoại của dân gian cũng không bao giờ có!

    Cách lồng ghép từ ngữ quá sai lầm cư sĩ Sripolieu trong Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Thới:

    Xin trích dẫn một đoạn của cư sĩ Sripolieu đã viết:
    "Ta hãy nghiên cứu những đoạn kinh sau đây để có thể tìm được bà Ngọc Hân công chúa ẩn cư và mất ở cù lao sông Cửu Long.
    Bà Ngọc Hân công chúa cùng con thơ vào mai danh ẩn tích, làm ruộng rẫy ở vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu. Hai mẹ con bà đã từng lên điện Ông Cấm lánh nạn và tu hành rất lâu. Sau đó Phật Thầy ra mở đạo ở làng Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, Sa Đéc.
    Ta hãy nghe tâm sự của bà qua đoạn thơ sau:
    Dụng chi bạc lộn với chì,
    Vàng trao dạ ngọc tu trì mới nên
    Cửa thiền khó mở hai bên
    Việc này cần mẫn chẳng nên cũng thuần
    Việc này lập ý mới nhuần
    Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư

    (trang 163)

    Thuần và Ý là hai từ trong tước hiệu. Như (Nhu) Ý Trang Thuần (Thận) Trinh nhất Võ Hoàng Hậu của bà Ngọc Hân công chúa.
    Đoạn thơ trên chứng tỏ rằng bà đã tu hành khi vào miền Nam...” và ông cư sĩ kết luận: “cuối cuộc đời bà đã yên nghỉ tại rạch Cái Nai, cách trị xã Long Xuyên khoảng 5 km, qua phà An Hòa đi về Cái Tàu Thượng..."

    Bút giả xin hỏi cư sĩ, ông có hiểu ý nghĩa của đoạn sấm ký trên đây Ông Ba muốn nói gì không, mà ông lại dám tự ý thay chữ viết thường bằng chữ hoa để biến những trạng từ, tính từ và động từ thành danh từ riêng nhằm để nhấn mạnh theo định nghĩa ba khơi không dựa vào đâu, làm lệch lạc với Kim ngôn Thánh ý cao siêu của ông Ba. Và còn chuyện đáng buồn cười hơn nữa đó là ông đã chịu khó ra công sưu tầm những chữ cách nhau ở tận chân trời góc biển không có ăn nhập gì với nhau rồi đem kết nối chúng lại để cấu thành những địa danh hoặc tên họ các nhân vật theo ý muốn của ông như một đoạn kết của ông sau đây là một ví dụ:
    "... Qua những câu thơ vừa đọc, trích trong bộ Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba, chúng ta thấy hiện rõ các danh từ: Đức Cố quản Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Hầu tử (chết) tại rạch Cái Nai, ấp An Bình, xã Hội An huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang"

    Thật hết chỗ để nói! Còn gì để phịa thêm nữa không ông cư sĩ?! Cụ thể cho đến giờ phút này có ai nhìn nhận 4 nhân vật trên đây mất tại rạch Cái Nai như ông gán ghép đâu thưa ông cư sĩ! Chỉ cần bấy nhiêu thôi cũng đã đủ để làm thước đo trình độ kiến thức và ý đồ bất chính của ông như thế nào rồi! Hành động và lời nói nào mang tính tà tâm gian ý, lẽ tất yếu là dù có cố giấu đầu rồi cũng sẽ bị lòi đuôi và dứt khoát sẽ bị triệt tiêu theo quy luật đào thải thôi ông cư sĩ ạ!!!
    Phải nói một cách nghiêm khắc rằng đây là cái trọng tội phạm thánh khó có thể tha thứ đối với việc làm phản cảm của cư sĩ Sripolieu, bởi ông đã dám lồng ghép từ ngữ theo cách tùy tiện khiên cưỡng lời sấm ký trong Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba; một việc làm vá víu như vậy không những trái với văn phạm, ngữ pháp mà còn sai lệch Thánh ý cao siêu của một bậc thoát phàm như ông Ba. Bút giả xin ông đừng bao giờ lạm dụng danh nghĩa hoặc đồng hóa sự lầm lẫn của ông lại gán cho ông Ba. Bởi vì ông Ba đã là thánh nhân thì hiển nhiên không bao giờ bị vấp phải những lỗi lầm hạ cấp tầm thường như hạng phàm phu tục tử của ông đâu. Hay muốn nói rõ hơn, bút giả xin tóm lược hai yếu tố sau:
    - Thứ nhất: là bậc thánh nhân như ông Ba, nhất định không có chuyện lầm lẫn về lịch sử và không khi nào tiên đoán sai những điều cơ lý diễn biến của thời cuộc kể cả vận số của con người;
    - Thứ hai: ông Ba thuộc hàng môn đệ của Đức Phật Thầy, tất nhiên không thể bị lẩm cẩm đến nỗi đem mộ Đức mẹ của thầy mình mà gán vào một người khác, chẳng hạn như bà Ngọc Hân công chúa để làm nhiễu loạn đức tin của hàng triệu tín đồ thuộc dòng phái BSKH!

    Vậy để có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan hơn, bút giả xin lược thuật lại trường hợp của Đoàn ký giả Báo mới đã thực hiện chuyến đi khảo sát lịch sử trong chương trình "Đi tìm sự thật về truyền thuyết mộ bà - công chúa Ngọc Hân" vào ngày 14 tháng 10 năm 2010.
    Phải ghi nhận rằng đoàn ký giả này làm việc với tinh thần nhiệt thành và tích cực không ngại khó. Vì đã phải trải qua cuộc hành trình ngược xuôi cũng khá gian nan vất vả, từ Sài Gòn xuống Rạch Cái Nai, ngược lên núi Sam rồi vào các trại ruộng Thới Sơn, Láng Linh và chùa Phi Lai núi Tượng để tìm thêm dấu vết của Đức Phật Thầy cũng như tìm kiếm tác phẩm "Theo Dấu Người Xưa" vì nghe đâu nội dung quyển sách này có nói rõ mối liên hệ giữa Đức Phật Thầy Tây An và vua Quang Trung Nguyễn Huệ và ngôi mộ của bà Ngọc Hân công chúa ở Cái Nai. Cuối cùng cũng tìm được tác giả là ông Trần Hữu Thành (thầy thuốc đông y chuyên khoa châm cứu) ở Gò Vấp. Khi gặp nhau mới biết ông này đã bỏ công sưu tầm, nghiên cứu qua 10 năm mới hoàn thành nhưng khi vừa viết xong tác phẩm thì ông đã bị bệnh tai biến nên cuộc gặp gỡ không thu thập được nhiều. Nhưng cũng may là ông còn viết được mấy chữ giới thiệu người bạn của ông là ông Bảy Thảo ở ấp Vĩnh Hòa A, xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Thế là phái đoàn phải một phen quay ngược xuống Long Xuyên để đi tìm ông Bảy Thảo. Tưởng sao, khi tiếp cận với ông Bảy chỉ nhận được một bản photo mang nội dung lắp vá một phần của cư sĩ Sripolieu và phần còn lại chỉ dựa vào yếu tố lên đồng nhập cốt để xác định vấn đề chứ không có căn bản về cứ liệu khoa học lịch sử làm cho đoàn ký giả này hết sức thất vọng, đành phải hạ bút viết lên lời bình phẩm sau:
    "... Không có chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử nào chứng minh mộ bà ở Cái Nai, An Giang là mộ của công chúa Ngọc Hân cũng như Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên là con trai của vua Quang Trung. Tất cả những điều đó chỉ là lời đồn mang tính huyền hoặc. Lịch sử không thể là thứ dùng tâm linh đồng bóng để phán đoán".
    "Hy vọng những tin đồn thiếu cơ sở khoa học lịch sử đó không còn lý do tồn tại nữa".
    Còn báo An Giang nhận xét thì: "Tôi cho rằng giai thoại này không có cơ sở chứng minh được Đức Phật Thầy Tây An là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa" - (thạc sĩ Trần Thanh Tùng).
    Như vào khoảng năm 2005 có một phái đoàn ở tỉnh Quảng Nam và Bình Định thuộc miêu duệ của hoàng tộc triều đại Hậu Lê đã đích thân đến mộ bà ở Cái Nai để tìm hiểu sự thật về ngôi mộ này. Nơi đây họ gặp và làm việc với cô Ba là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đang quản mộ, trong đó cô Ba đã khẳng định với họ rằng: "Đây là ngôi mộ bà là Thân mẫu của Đức Phật Thầy Tây An chứ không phải của bà Ngọc Hân công chúa nào hết!" câu chuyện gặp nhau cũng chỉ trao đổi có tính cách chung chung đại khái chẳng có gì đặc biệt. Nhưng khi ra về họ có nói với cô Ba một câu: "Chị có thể cho chúng tôi quản lý ngôi mộ bà có được không, vì căn cứ theo tài liệu của tập sách "Theo Dấu Người Xưa" thì ngôi mộ này là của bà công chúa Ngọc Hân?", thế rồi họ ra về và từ đó đến nay không có ai lai vãng đến nữa.

    Theo bút giả thì đây không phải là vấn đề khó hiểu qua câu nói chứa đựng ý nghĩa nhạo báng, chế giễu của những vị khách này đối với một tác phẩm vô tích sự, không mang giá trị xác tín về lịch sử thế thôi, chứ ngoài ra, họ không còn có nhu cầu nào khác. Lý do rất dễ hiểu, vì nếu quả đây là sự thật có đủ yếu tố sử liệu thì dứt khoát, họ sẽ không bao giờ làm ngơ để bỏ ra về một cách đơn giản và lặng lẽ như vậy. Vì sao? Vì bà Ngọc Hân công chúa là một biểu tượng cho cả hai triều đại Hậu Lê và Tây Sơn, nếu ngôi mộ bà còn được sót lại, thì đó là một di vật vô cùng quan trọng chẳng những đối với trong Hoàng tộc mà còn là chứng tích lịch sử cho cả quốc gia dân tộc. Và do đó, việc lo bảo vệ, phụng thờ đâu cho phép họ thờ ơ hay bỏ mặc!
    Hơn nữa, còn một khía cạnh hết sức quan trọng mà các ông cư sĩ Sripolieu và Trần Hữu Thành nên nhớ đó là: nếu có đủ chứng lý xác minh đây là ngôi mộ của bà Ngọc Hân công chúa thì lẽ tất nhiên nhà nước đã giành quyền quản lý để vừa bảo vệ di sản văn hóa của quốc gia và cũng vừa xây dựng khu thắng cảnh du lịch đầy hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước tham quan chứ đâu để cho tư nhân được tự do tổ chức thờ cúng và chiêm ngưỡng theo nghi thức tôn giáo của mình? Đó là điều không tưởng, phải không quý vị?
    Trên đây mới chỉ đả thông, lý giải đơn thuần về lĩnh vực lịch sử, còn một sự kiện tối trọng đại được chứng minh cụ thể qua lời xác nhận chính thức của Đức Huỳnh giáo chủ nói về ngôi mộ này bằng câu chuyện tình cờ đã diễn ra tại nhà của ông ký Giỏi ở Bạc Liêu vào mùa hè năm Tân Tỵ (1941). Khi hay tin Đức Thầy đã thoát khỏi sự cầm chân quản thúc tại chỗ ở Nhà thương Chợ Quán của chính quyền Pháp, đồng đạo các nơi lần lượt tìm đến thăm viếng Đức Thầy khá đông đảo tại ngôi biệt thự của ông ký Giỏi. Thấy có vẻ bất tiện, Đức Thầy có khuyên bảo rằng tình hình lúc này rất căng thẳng do Sở Mật thám Pháp đang bủa lưới để bám sát, theo dõi Thầy rất chặt nên bổn đạo "Thay vì thăm thầy ở đây mà cần nên đến viếng mộ Bà ở Cái Nai như thăm thầy vậy!"
    Chợt nghe qua lời phán của Đức Thầy khiến cho ông Lâm Thơ Cưu (xã Mỹ Hội Đông, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang) không khỏi suy nghĩ thắc mắc vì sao, ngôi mộ bà ở Cái Nai là ai, có quan hệ gì với Đức Thầy mà bỗng nhiên Ngài dặn bảo mọi người như vậy, nên ông liền hỏi: "Bạch Thầy, vừa rồi Thầy bảo bà con tín đồ nên đến viếng ngôi mộ bà ở Cái Nai như viếng Thầy là thế nào, và ngôi mộ ấy là ai vậy thưa Thầy?". Đức Thầy liền bảo: "Là mẫu thân của Đức Phật Thầy Tây An đó!". Điều này làm cho ông Lâm Thơ Cưu càng thêm khó hiểu bởi là mẹ của Đức Phật Thầy thì có dính dáng gì trong gia đình tộc họ mà Ngài phải dặn dò có tính chất quan trọng như thế? Và Đức Phật Thầy Tây An là vị Phật nào mà được gọi là Phật Thầy, ở đâu và ở thời đại nào? v.v... Với bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu ông đang phân vân muốn hỏi thêm cho rõ ngọn nguồn nhưng cũng sợ làm bận tâm Thầy vì có nhiều công việc trước mắt cần giải quyết. Song gì quá nóng lòng trước sự việc còn bao trùm những điều bí ẩn nên ông đành bạo dạn hỏi tiếp: "Thưa Thầy, Đức Phật Thầy Tây An với Thầy là thế nào, và Đức Phật Thầy Tây An nguồn gốc ở đâu, làm gì, hiện còn sống hay đã mất?” (Sở dĩ Ông Lâm Thơ Cưu phải đặt ra những câu hỏi như vậy là bởi bản thân của ông ta từ trước tới nay ít có dịp tiếp cận với đạo pháp, hay nói rõ hơn là ông ta chưa bao giờ quy ngưỡng với bất cứ tôn giáo nào ngoài Nho giáo và đạo thờ cúng ông bà. Thế mà nay ông ta chịu chấp nhận quy y thọ giáo với Đức Thầy phải được xem là điều hy hữu. Thành ra ông ta muốn tìm hiểu tận gốc những gì liên quan đến Đức Thầy cũng là lẽ dĩ nhiên). Để trả lời các câu hỏi này, Đức Thầy bảo: "Ông chủ muốn biết sự liên hệ giữa tôi và Đức Phật Thầy Tây An thế nào thì về ráng nghiên cứu thật kỹ Sấm Giảng và giáo lý của tôi rồi ông sẽ hiểu. Cũng như ông muốn rõ lai lịch và sự nghiệp cứu đời của Đức Phật Thầy Tây An Thì ông nên đến chùa Tây An núi Sam và các Trại ruộng của Người là ông sẽ biết chứ gì". Đến đây Đức Thầy không còn nói thêm gì nữa, và ông Lâm Thơ Cưu cũng cảm thấy hài lòng nên cũng giữ thái độ im lặng.
    Qua câu chuyện vừa kể trên, bút giả xin mở dấu ngoặc để nêu lên một vài nhận xét sau (phần này chỉ dành cho nội bộ):
    - Thứ nhất: Vấn đề cần phải tự hỏi vì sao trong trường hợp ngẫu nhiên mà Đức Thầy lại đề cập chuyện này với số đông tín đồ đến thăm viếng Ngài? Có phải chăng đây là dịp tốt nhất để Đức Thầy gián tiếp tiết lộ cho mọi người biết về ngôi mộ Bà ở Cái Nai chính là Thân mẫu của Ngài ở tiền kiếp (tức Thân mẫu của Đức Phật Thầy Tây An). Đồng thời Ngài còn mặc nhiên cảnh báo tín đồ cần phải cẩn thận đừng để bị lầm lạc theo bọn gian tà tìm đủ cách bóp méo sự thật để cuốn lôi;
    - Thứ hai: đến khi ông Lâm Thơ Cưu quyết cố tình vặn hỏi một cách khẩn thiết nên buộc lòng Đức Thầy thấy cần phải trực tiếp nói trắng ra mà không còn phải ẩn giấu gì nữa, bởi Đức Thầy đã thừa biết rằng nếu cứ nói úp mở như vậy sẽ tạo kẽ hở cho bọn tà sư ngoại giáo có cơ hội diễn dịch và truyền bá theo lối ngụy tạo sẽ làm vẩn đục niềm tin cho bổn đạo sau này.

    Đây là hai sự kiện từ Đức Phật Thầy Tây An khi xưa đã phải làm một việc chưa có tiền lệ đối với chư Phật và các Tổ sư khi lập đạo cứu đời; đó là việc Ngài tổ chức buổi lễ để công khai tuyên bố lý lịch trước sự chứng kiến của quan làng và dân chúng địa phương, không ngoài lý do Ngài đã biết trước sau này sẽ có người dùng đủ chiêu trò ma mãnh tìm cách thay tên đổi họ của Ngài để trục lợi cá nhân và gây hoang mang niềm tin cho bổn đạo. Đến như Đức Thầy của chúng ta cũng thế. Mặc dù Đức Thầy đã trực tiếp xác nhận ngôi mộ bà ở Cái Nai trước mặt đông đảo tín đồ trong đó có ông chủ Cưu đều là nhân chứng sống ấy vậy mà cũng vẫn còn một số đồng đạo tin tưởng nghe theo những luận điệu nhảm nhí không có điểm tựa vào đâu, thật là điều đáng buồn và vô cùng đáng tiếc!

    Qua những chứng cứ và lời xác nhận trên đây của Đức Thầy chúng ta nghĩ gì, như thế có đủ yếu tố chứng minh cho sự thật chưa, hayvẫn còn bị nhiễm độc bởi những tà thuyết mơ hồ huyễn hoặc, không có cơ sở khoa học biện chứng về giá trị lịch sử? Ở đây bút giả xin hỏi thật với quý đồng đạo này rằng: chúng ta tin tưởng Thầy và tin vào lịch sử hay tin theo những chuyện vu vơ của những thành phần trâng tráo chuyên lừa bịp và thổi phồng sự kiện để câu khách hiếu kỳ?! Còn nữa, chúng ta có tin giữa Đức Phật Thầy Tây An và Đức thầy tuy hai mà chỉ là một không? Và chúng ta có tin đức Phật Thầy là vị hoạt Phật xuống trần để cứu thế không?... Nếu tin thì ta phải ráng lo phụng hành theo giáo chỉ của Ngài để đi đến con đường cứu cánh giải thoát đó là mệnh hệ cho cả cuộc đời tu niệm của mình. Còn chuyện Đức Phật Thầy Tây An có phải là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa hay không thì chẳng có gì quan trọng và cũng không ảnh hưởng gì đến niềm tin vào chân lý cao siêu và sứ mệnh cao cả của Ngài đối với chúng ta. Điềy này chúng ta cần phải xác định một cách rõ ràng, dứt khoát chứ không thể lơ lửng ở trạng thái mơ hồ bán tín bán nghi để phải sa vào bẫy rập của những kẻ dối lừa chuyên lợi dụng tôn giáo để tạo môi trường sống và phá hoại tín ngưỡng. Thật ra chuyện đã rõ như ban ngày nhưng không hiểu tại sao lại cũng còn có người bám theo để tìm tòi nghiên cứu cho uổng phí thời gian. Thay vì đầu tư chất xám vào những chuyện vớ vẩn như vậy để tập trung đầu óc vào việc nghiền ngẫm kinh luật của Phật, của Thầy và lo chuyên tâm niệm Phật còn bổ ích hơn nhiều! Quý vị hãy nghe đây lời của thánh hiền đã chỉ dạy: "Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý, Hà tất bôn man vấn tổ tông?". Nghĩa là: "Học đạo chỉ cần biết con đường về chứ cần chi tra hỏi đến tổ tông?". Mà thật vậy! Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử để xem lại cả 33 vị Tổ của phái Thiền Tông từ Ấn Độ đến Trung Hoa nào có mấy ai tra cứu, tìm hiểu gốc gác tổ tông của các ngài đâu? Thậm chí Đức Lục tổ Huệ Năng là gần gũi chúng ta từ thời gian cho đến điều kiện địa dư (xứ Lãnh Nam cũng nằm trong lãnh địa của Văn Lang - Bách Việt) song chúng ta có hiểu về tiểu sử cuộc đời của Ngài bao nhiêu, bởi lịch sử chỉ ghi chép đại khái về hoàn cảnh cuộc sống của Ngài như: nhà nghèo, dốt chữ, hàng ngày Ngài phải vào rừng đốn củi đem về bán nuôi mẹ già. Đến khi Ngài thọ giáo quy y, được chứng ngộ và mở đạo cứu đời, cho đến ngày viên tịch nào có nghe ai nhắc nhở về số phận, tên tuổi cha mẹ của Ngài, sống thác ra sao, chôn cất nơi đâu...?

    Như vậy thiên hạ và lịch sử có bao giờ chê trách hàng môn đệ của các ngài tại sao lại quá vô tâm, thiếu trách nhiệm và bổn phận truy tìm tông tích các đấng sinh thành của các ông tổ để tôn thờ, hương khói đâu? Nhưng thực ra suy cho cùng vì họ không xem đó là điều trọng yếu cho niềm tin mà điểm then chốt là con đường đi tìm chân lý để hành đạo giải thoát. Còn chúng ta có cái đại nhân duyên được sống ngay trong thời đại Đức Thầy ra đời, Ngài đã chỉ rõ nguồn cội của năm đời chuyển tiếp trong dòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương từ Đức Phật Thầy Tây An đến Đức Thầy là sự chuyển thân cuối cùng để thực thi sứ mạng cứu khổ sanh linh trong thời kỳ mạt hạ, chuẩn bị bước sang kỷ nguyên Thượng ngươn Thánh thiện và mở hội Long Hoa để ban thưởng công đức và phẩm vị cho những người tu hành cao công quả.
    Sự xuất hiện của Đức Thầy là một thực thể được hiển bày chân xác bằng tai nghe mắt thấy mà khoa học lịch sử đã thừa nhận về trạng thái siêu nhiên Đấng Cứu Thế ở thế kỷ 20 đem giáo lý cao siêu bất nhị của Phật giáo để hóa độ chúng sanh trong thời kỳ hiện đại. Thế chưa đủ để cho số ít đồng đạo này tin tưởng hay sao mà còn đi sưu tầm gốc gác, chạy theo những Thành phần bá vơ vô tích sự để gây nên sự lẫn lộn lịch sử và làm ảnh hưởng niềm tin bất diệt đối với vị cứu tinh của nhân loại mà chúng ta đã hết lòng quy ngưỡng tôn thờ? Vấn đề cần phải được xác định là chúng ta tin Đức Thầy và tin vào lịch sử hay tin theo những chuyện vu vơ thổi phồng sự kiện để câu khách hiếu kỳ và đầu độc tư tưởng?!
    Để nhấn mạnh điều này, bút giả xin đặt thêm câu hỏi: nếu như Đức Phật Thầy Tây An là con của vua Quang Trung và bà Ngọc Hân công chúa thì sao, còn bằng ngược lại thì thế nào? Có phải chăng quan niệm của quý vị là được làm con của một ông vua và bà hoàng hậu mới xứng đáng là một vị Phật, còn trái lại là không phải hay sao mà quý vị cố công đi tìm tòi, tra cứu làm chi để mắc mưu kẻ khác??
    Ai có thể nghĩ được rằng, một con người dám ngụy tạo sự kiện để xác định ngôi mộ bà ở Cái Nai là mộ của bà công chúa Ngọc Hân; chẳng những vậy mà còn cố gán ghép việc vua Quang Trung và bà Ngọc Hân có người con trai là Nguyễn Quang Mục, vì tình trạng bị nhà Nguyễn (Gia Long) truy sát gắt gao nên phải cải danh là Đoàn Minh Huyên và rồi đi tu đắc đạo trở thành Đức Phật Thầy...Quả là sự bịa đặt trơ trẽn, nó chứng tỏ một con người không còn biết đâu là sĩ diện, đâu là lòng tự trọng khi hạ bút! Bởi sự thật không có bất cứ sử liệu nào ghi chép và nhìn nhận điều vô cùng phi lý như vậy cả! Cái tên Nguyễn Quang Mục hoàn toàn lạ lẫm đối với các sử gia bởi đó chỉ là một con người không có thật do cư sĩ Sripolieu nhào nặn đẻ ra mà thôi! Cho hay, không có sự gian dối nào có thể bưng bít được dưới ánh mặt trời, tức "kim trong bọc phải bị lòi" thôi, như lời Đức Thầy đã từng khuyến cáo:
    Dương gian chậu úp được voi,
    Giấu đầu rồi cũng lại lòi sau đuôi.


    Vậy xin được nhắc lại truyện oái oăm và buồn cười hơn nữa đó là việc ông cư sĩ cho rằng nhà đại văn hào Nguyễn Du, anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, Đức Cố quản Trần Văn Thành và Giáo sư Nguyễn Văn Hầu đều chết tại Cái Nai... Ấy vậy mà còn dám lộng ngôn cho đó là dẫn theo lời của Ông Ba Thới, thật là một sự bôi bác lố bịch vô liêm sỉ làm ảnh hưởng đến thanh danh của ông Ba là một vĩ nhân đã đi vào cõi thánh. Một con người như cư sĩ Sripolieu có xứng đáng để chúng ta tiếp xúc, kết giao hay không, thưa quý vị? Chắc quý vị vẫn không quên lời cảnh báo thống thiết của Đức Thầy về mối hiểm họa vô cùng tác hại của bọn tà gian ác đạo luôn luôn giở trò mưu ma chước quỷ để phá hoại niềm tin và thực hiện những ý đồ bất chính như Ngài đã nhiều lần răn bảo:
    Các đạo tà mưu khéo âm thầm,
    Dân ráng tránh kẻo lâm mà khổ.
    Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẫy khó mong sống sót.
    Ta chẳng phải dùng lời chuốt ngót,
    Mà làm cho dân chúng say mê.
    Nẻo chánh tà biện luận nhiều bề,
    Cho bá tánh tìm nơi cội gốc.
    Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
    Đừng để lầm thợ khéo sơn da,
    Thì sau này đến lúc phong ba,
    Giông gió lớn cột kèo khỏi gãy...

    và:
    Đạo quỷ vương rất nhiều chi ngánh,
    Khuyên dương trần sớm tránh mới mầu.
    Để ngày sau đến việc thảm sầu,
    Ráng nghe kỹ lời ta mách nước.
    Thuyền chúng nó thẳng bườm chạy lướt,
    Lọt ngoài khơi mới hết hò khoan.

    - Thứ ba: để trả lời các câu hỏi cuối cùng của ông Lâm Thơ Cưu: Đức Phật Thầy Tây An là ai, ở đâu, sự nghiệp độ đời thế nào và Ngài còn sống hay đã chết?
    Ở đây sở dĩ Đức Thầy không trả lời thẳng cho ông Lâm Thơ Cưu mà Ngài chỉ gián tiếp bảo ông này hãy đến núi Sam và các trại ruộng của ĐứcPhật Thầy thì sẽ rõ. Điều này ta nên hiểu, ý nghĩa Đức Thầy muốn cho ông chủ Cưu đi trực tiếp đến nơi để tận mắt chứng kiến một cách cụ thể qua những chứng tích lịch sử còn được lưu dấu như bia mộ, bài vị, liễn thờ, các bảo vật và sấm truyền...để chứng minh sự thật rõ ràng và khách quan hơn đó thôi. Đến đây xin đóng lại dấu ngoặc để trở lại vấn đề với cư sĩ Sripolieu.

    Thưa ông cư sĩ,
    Xuyên qua có đoạn ông cư sĩ viết: "Bà Ngọc Hân âm thầm đau khổ nuôi con thơ thành người. Sau con bà đã trở thành một vị Phật, có ảnh hưởng sâu rộng khắp miền Tây Nam Việt". (trang 165)
    Ngoài ra, ông cư sĩ còn vấp phải những sai lầm nông nổi và mang thêm một trọng tội đối với ông Ba Thới vì cho rằng: "Bộ Kim Cổ Kỳ Quan được coi như một "thánh kinh" do mẹ Phật Thầy và Phật Thầy Khai Sáng năm Kỷ Dậu 1849" v.v...
    (tập 1 trang 13)

    Nếu phải bình xét nội dung câu này thì nó vừa sai sự thật lịch sử (vì thân mẫu của Đức Phật Thầy đã qua đời trước khi Ngài khai sáng nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương hàng chục năm rồi), và vừa bị tối nghĩa bởi cách hành văn què quặt không đúng văn phạm như vậy khiến cho người đọc không hiểu ông muốn nói gì cho nên người ta phải suy ra bằng hai nghĩa sau:
    - Thứ nhất: Có thể ý ông muốn nói "Bộ Kim Cổ Kỳ Quan" đã xác nhận nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là do mẹ Phật Thầy và Phật Thầy khai sáng năm Kỷ Dậu 1849?!
    - Thứ hai: Người ta cũng có thể hiểu "Bộ Kim Cổ Kỳ Quan được coi như một thánh kinh" ấy cho mẹ Phật Thầy và Phật Thầy khai sáng (sáng tác) năm Kỷ Dậu 1849, có phải vậy không thưa ông cư sĩ?! Thật quá khổ vì cái nạn viết lách bừa bãi như ông, chỉ có một câu tiếng Việt mà viết cũng không tròn thì còn nói chi đến cái mộng mơ muốn trở thành nhà văn và nhà sử học, nhất là có ý đồ muốn đảo ngược lịch sử?!
    Để rồi ông đi đến kết luận: "Cuối cuộc đời bà đã yên nghỉ tại rạch Cái Nai..."

    Nhìn chung, có một điều rất lấy làm lạ và khó hiểu cần phải được đặt ra ở đây coi như toàn bộ thực trạng khi bà đi vào miền Nam để lánh nạn, bút giả chỉ thấy ông cư sĩ đề cập có hai mẹ con bà Ngọc Hân (bà và người con trai) còn người con gái, tức Nguyễn Thị Ngọc ở đâu, sống chết thế nào không hề nghe ông nhắc nhở gì đến, tại sao?? Dù biết rằng đó không phải là nhân vật chính để ông đi sâu vào chi tiết, song ít ra ông cũng nên trình bày phớt qua cho độc giả biết đại khái về số phận của người con gái cũng cùng chung cảnh ngộ bi thảm của cuộc đời sa cơ bất hạnh mà cả ba mẹ con cũng đồng gánh chịu, lẽ ra phải được bảo vệ, thương yêu, đùm bọc nhau trong tình máu thịt, sống chết có nhau không thể tách rời mới phải, chứ đằng này ông cư sĩ quá vô tâm, vô tư cắt bỏ một núm ruột của bà Ngọc Hân mà không hề mảy may vướng bận hay thương tiếc! Giả dụ như ông cư sĩ muốn cho rằng người con gái của bà Ngọc Hân chẳng may mắc dịch mắc gió chết dọc đường đi nữa thì ông cũng phải nêu rõ nguyên nhân bởi đây là cái kịch bản do ông dàn dựng, người con gái ấy như một mảng màu trong toàn bộ bức tranh mà ông là người họa sĩ, nếu thiếu cô ta sẽ mất đi tính logic của vấn đề. Chứ nào có phải đâu mãi cho đến khi bà Ngọc Hân đã yên giấc ngàn thu mà bóng dáng của người con gái vẫn luôn biền biệt không tìm thấy tăm hơi, thật là điều vô cùng phi lý!!! Thế đủ chứng tỏ ông cư sĩ hết sức vụng về trong lối cấu trúc sự kiện!
    Ông cư sĩ nên nhớ cho, bà Ngọc Hân thương con và vì con một cách đáo để đến nỗi khi vua Quang Trung băng hà, bà có ý định quyên sinh để chết theo cho vẹn lòng chung thủy, song gì quá thương hai con hãy còn thơ dại “con trứng nước thương vì đôi chút”, nên bà phải gượng sống nuôi con cho trọn đạo "mẫu tử chi tình", ta hãy nghe đây tiếng lòng đau thương sâu thẳm tự đáy tâm hồn của bà:
    Quyết liều mong vẹn chữ tòng
    Trên rừng nào ngại giữa dòng nào e!
    Con trứng nước thương vì đôi chút
    Chữ tình thâm chưa thoát được đi
    Vậy nên nấn ná đợi khi
    Hình thì tuy ở phách thì đã theo...

    Tình mẹ thương con không thể tách rời như thế đấy, nhưng tại sao ông cư sĩ lại đành đoạn bỏ quên?! Do đó, bút giả cho rằng ông cư sĩ "chỉ biết gian mà không biết ngoan" cho nên phải chuốc lấy cái hệ quả "giấu đầu cũng bị lòi đuôi" đó là lẽ tất yếu thôi! Bút giả xin mượn câu nói của văn hào Nguyễn Du để chia sẻ với ông cư sĩ đây:
    Đã mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng trách lẫn Trời gần trời xa
    Thiện căn ở tại lòng ta
    Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài!

    Thật vậy! Vì cái tâm của ông cư sĩ không được trong sáng thì cho dù ông có tài biến hóa đổi trắng thay đen cỡ nào đi nữa thì sự thật vẫn là sự thật mà thôi ông cư sĩ ạ!!!

    Chương IV

    Lê Hướng Thiện là ai?

    Lại thấy ông cư sĩ cũng đã đồng tình với quyển Tòng Sơn, tức ông đã chấp nhận Đức Phật Thầy là Lê Hướng Thiện, con của ông cai Sử, qua trích dẫn của ông sau:
    "Thân phụ của Đức Phật Thầy Là thầy Cai, tên Sử, họ Lê. Đức Phật Thầy tên Lê Hướng Thiện (trong đây không thấy nói rõ tên thân mẫu của Đức Phật Thầy). Một hôm Phật Thầy cùng mẹ đi góp lúa ruộng, bà thương dân nghèo, bớt cho tá điền năm giạ lúa để làm giống. Khi về nhà thấy số lúa thu bị thiếu, ông cai Sử đánh và đuổi mẹ con Phật thầy ra khỏi nhà. Từ đây Ngài cùng mẹ với chiếc xuồng bần đi bán trầu cau kiếm sống. Sau thời gian mẹ mất, Phật Thầy tu hành thành Phật, trị bệnh cho bá tánh rất tài. Tiếng vang đến tai một vị quan người Pháp, liền mời Phật Thầy về nhà chữa trị bệnh cho một bà đầm. Phật Thầy nói bệnh nhân kia đã tới số nên Ngài không chịu cứu chữa. Ông Tây nổi giận, bắt Phật Thầy bỏ vào cũi sắt quăng xuống sông".
    Qua nội dung vừa trích dẫn, đại khái nó đã hiện rõ 3 điểm sai lầm lẫn lộn không thể chấp nhận được, nhưng không hiểu sao ông cư sĩ cũng lại cũng đồng tình với những sự kiện như vậy, càng để cho công luận thấy rõ thêm bản chất giảo quyệt và bộ mặt phản biện bỉ ổi của ông nhằm để đánh lạc hướng niềm tin của khối tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhưng ông đâu ngờ được rằng đó chỉ là trò lừa quá ấu trĩ, chẳng những không ru ngủ được ai mà nó còn làm trò cười cho thiên hạ vì ông đã lộ rõ cái đuôi mâu thuẫn quá dài của chính mình bằng những lập luận và xét đoán trái chiều không nhất quán, cho nên bút giả tự thấy có trách nhiệm phải đánh thức ông lần cuối cùng bởi ông vẫn còn bị luẩn quẩn trong trạng thái mộng mơ lệch lạc được giải thích và chứng minh sau:
    - Thứ nhất: Trước đây ông cư sĩ đã theo chân học giả Hồ Hữu Tường qua tác phẩm Phi Lạc sang Tàu để khẳng định Đức Phật Thầy Tây An họ Hồ, tên Nguyễn Quang Mục, là con của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và bà Ngọc Hân công chúa, nhưng nay thì ông lại dựa theo bài vị, liễn thờ vợ chồng của ông phủ Bỉnh (Lê Văn Bỉnh và Hoàng Thị Dung, tức là Hoàng Lê Phủ đấy!) để xác nhận Đức Phật Thầy họ Lê, tức Lê Hướng Thiện, con của ông cai Sử và bà (không thấy ghi tên họ)... Tại sao lại có chuyện tréo ngoe, mâu thuẫn kỳ quặc như vậy hở ông cư sĩ??? Bút giả xin hỏi: theo luận điệu kiểu xà bần hổ lốn của ông thì ai là cha mẹ của Đức Phật Thầy? Vua Quang Trung? Ông cai Sử? Hoặc cả hai? Cái tư tưởng bệnh hoạn của ông là bài toán vô nghiệm không có đáp số! Lẽ ra, nếu ông còn có chút lương tâm và lý trí để bảo vệ sĩ diện của mình thì ông nên lấy công tâm chính trực loại bỏ cả hai hoặc trong hai chọn một cũng còn có thể dễ tha thứ hơn. Đằng này cái nào ông cũng bênh vực đều cho là đúng, thử hỏi công luận sẽ đánh giá xếp loại ông thuộc ở dạng nào của xã hội?! Ông còn dựa vào luận thuyết giả tưởng của cái gọi là Giảng Tòng Sơn để cho rằng Đức Phật Thầy là Lê Hướng Thiện đã từ chối không chịu trị bịnh cho một bà đầm, vợ của ông quan lớn Pháp nên ông quan này nổi giận ra lệnh bắt Ngài bỏ vào cũi sắt, đem quăng xuống sông...! Quả là chuyện bố láo không sách vở! Chắc ông cư sĩ còn nhớ lịch sử đã ghi chép con số rất rõ ràng của không gian và thời gian khi Đức Phật Thầy viên tịch vào năm 1856 thì 11 năm sau (1867) chính quyền pháp mới có mặt và chiếm lấy 3 tỉnh còn lại của miền Tây Nam Việt thì trước đó có ông quan, bà đầm nào ở đây mà Đức Phật Thầy từ chối không trị bịnh?! Thực không có sự lú lẫn nào bằng!
    - Thứ hai: Ong cư sĩ cho rằng mẹ của Phật Thầy đã dạy con tu thành Phật... Và cùng với con khai sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương... Nhưng nay thì ông lại bảo mẹ của Phật Thầy và Phật Thầy bị người cha xua đuổi nên phải ra đi với chiếc xuồng bần và mua bán trầu cau để kiếm sống... Đến khi bà mẹ chết đi, Đức Phật Thầy mới đi tu được đắc đạo... Vâỵ xin ông hãy cho độc giả biết: bà mẹ nào dạy con tu thành Phật và cùng với con mở ra mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, và còn bà mẹ nào đi bán trầu cau rồi chết đi nên Đức Phật Thầy mới đi tu được đắc đạo v.v...?! Điều này cho thấy ông cư sĩ đã lầm lũi đi từ sự sai lầm này đến sai lầm khác, và hết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác như bị cuốn hút vào cái vòng lẩm cẩm không lối thoát. Thực ra nếu là người tỉnh táo một chút thì không ai có thể để bị vấp phải sự nhầm lẫn quá tầm thường và nông nổi như thế cả! Do đó, bút giả có lời khuyên ông cư sĩ hãy bình tâm để xét lại tự thân, đừng cố tình theo đuổi những ý tưởng đen tối để chuốc lấy tội lỗi với các đấng thiêng liêng và tự đốt cháy danh dự của mình một cách oan uổng!!

    Bức ảnh của ông già râu dài là ai?

    Thật hết sức khổ tâm, cũng do số ít đồng đạo của chúng ta chỉ vì lòng kính thầy trọng đạo nhưng lại thiếu lý trí để xét đoán việc đúng sai, chánh tà nên hệ quả thường dẫn đến những sai lầm và rất dễ bị sự tác động lôi cuốn của người khác. Bằng chứng như thấy tấm ảnh của một ông già (không rõ nguồn gốc ở đâu) qua dáng vẻ đạo mạo, có bộ râu dài tới rốn rồi cũng do một người nào đó (không loại trừ thành phần có mưu đồ bất chính) tung tin cho đó là di ảnh của Đức Phật Thầy, nên được một số người nhẹ dạ cả tin đem ra sao chụp và phổ biến trên mạng, thậm chí còn đem ghép hình chung với chân dung của Đức Thầy và quan Thượng đẳng Đại thần hoặc ông Thanh Sĩ (ảnh của ông già râu dài ngồi cao hơn ở chính giữa), thật là một tác hại nguy hiểm khôn lường! Vậy sự thật hư của vấn đề ra sao, xin được phân giải qua những sự kiện và dữ liệu chứng cứ khoa học sau:
    - Thứ nhất: Vào trung tuần tháng 9 năm 1966, Ban trị sự Trung ương Giáo hội (nhiệm kỳ I) có mở phiên đại hội thu hẹp gồm có Ban trị sự Trung ương, Ban trị sự các tỉnh, quận, các nhà khảo cổ và hóa học do cụ Lương Trọng Tường làm Chủ toạ nhằm mục đích xác định tấm ảnh đó có phải là của Đức Phật Thầy Tây An hay không?
    Qua phân tích và thẩm định chuyên môn về khoa học kỹ thuật cho thấy từ kiểu mẫu vật liệu, Giấy cho đến nước thuốc rửa... Thì tấm ảnh này chỉ mới có hồi thập niên 60 trở lại đây mà thôi;
    - Thứ hai: Về sắc diện của ông già này đã ở trạc tuổi ngoài 80 trong khi Đức Phật Thầy chỉ mới 50 thì làm gì có một thể hình già nua và một bộ râu dài như vậy?! Vả lại, nếu Đức Phật Thầy có bộ râu dài như vậy thì không lý nào lịch sử và các hàng môn nhân đệ tử của ngài lại không đề cập đến? Bởi đây là một trong những đặc điểm (tướng hảo) của một đấng cứu thế, không thể bỏ qua được. Chẳng hạn câu chuyện Đức Phật Thầy tranh luận trên nguyên tắc giấy trắng mực đen với ông quan Trấn thủ tỉnh An Giang về chiếu chỉ của triều đình để Ngài duy trì được bộ râu điều đã được sử liệu ghi chép đầy đủ, cũng như các môn đệ của ngài thường hay nhắc tới, hà huống chi là bộ râu của Ngài?!
    - Thứ ba: ở vào thời kỳ vua Tự Đức nước ta làm gì có máy ảnh đâu mà chụp (ngoại trừ mấy ông Cố đạo ở phương Tây và các nhà buôn hải ngoại); ngay cả triều đình như vua Tự Đức còn chưa có, huống hồ chi hàng thứ dân trong Nam, nhất là ở giai đoạn mà thực dân Pháp hãy còn quây quần ở vùng ngoài chưa đặt chân tới các tỉnh miền Tây Nam Việt thì làm thế nào để có phương tiện nhiếp ảnh để ghi hình? (Có chăng là hình họa, vẽ chứ nào phải hình chụp như trong bức ảnh). Thậm chí Đức Bổn Sư núi Tượng, Đức Phật Trùm núi Tà Lơn, ông Sư Vãi Bán Khoai kinh Vĩnh Tế, Đức Cố quản Trần Văn Thành ở mặt trận Bảy Thưa - Láng Linh đang ở vào thời kỳ trực diện chống Pháp mà cũng không có bức ảnh nào huống hồ gì ở thời điểm của Đức Phật Thầy? Nói tóm lại Đức Phật Thầy không có lưu lại một di ảnh nào cả!

    Do các yếu tố trên cho nên Ban Trị sự Trung ương và toàn thể đại biểu của đại hội đều thống nhất loại bỏ bức ảnh đó, coi như nó không liên quan gì đến Đức Phật Thầy, và từ đó trong đạo của chúng ta không còn ai nghĩ tới tấm ảnh đó là gì nữa. Thế nhưng không hiểu vì sao mà thời gian gần đây bỗng dưng lại có người đem tấm ảnh ấy ra phô trương, quảng bá dưới nhiều hình thức như treo ngang chân dung Đức Thầy, có nơi còn để chung trên trang thờ ngôi Tam bảo rồi tung lên mạng v.v... Thật hết sức lầm lẫn và đáng trách!
    Vậy để tránh tình trạng sai lầm ngộ nhận này, tôi xin có lời khuyên tất cả đồng đạo chúng ta nên chấm dứt hoàn toàn từ trong ý nghĩ cho đến những hành động trưng bày, thờ kính đối với bức ảnh vô căn cứ ấy, cũng như chân dung của Đức Thầy tuyệt đối không được ghép chung với bất cứ ai để không phải bị lợi dụng tình trạng mập mờ có dự tính của những thành phần bất hảo đã và đang rắp tâm phá rối, làm nhiễu loạn niềm tin để chánh tà, trắng đen lẫn lộn!

    Tổng lược, toàn bộ nội dung trình bày qua tác phẩm “Thân thế Đức Phật Thầy Tây An và Ngọc Hân công chúa qua Kim Cổ Kỳ Quan” của cư sĩ Sripolieu (tập 1 xuất bản ngày 8 tháng 11 năm 1996) hoàn toàn là chuyện hoang đường bịa đặt dựa theo một vài giả thuyết hư cấu mơ hồ của cố học giả Hồ Hữu Tường qua tác phẩm Phi Lạc sang Tàu và quyển Giảng Tòng Sơn v.v... Đồng thời cộng thêm một mớ suy tưởng chủ quan của chính cư sĩ đã biến vụ việc vượt ra ngoài phạm vi của chứng liệu lịch sử và những dữ kiện cụ thể khách quan, tức nó không phản ánh trung thực vấn đề, cho nên bị coi là chuyện hoang tưởng nhảm nhí cần phải được dứt khoát loại bỏ!

    Thưa ông cư sĩ Sripolieu!
    Thú thật nếu ông là người có am hiểu về sử học hoặc là người có tâm địa chân chánh thì cho dù ông có vấp phải một vài điểm sai lầm nào đó thì chẳng những cá nhân tôi mà cả các độc giả khác đều sẵn sàng thông cảm và bỏ qua cho ông vì đó là những sai sót ngoài ý muốn mà hầu hết những người cầm bút đều không thể tránh khỏi. Thế nhưng ông thuộc thành phần cố tình muốn bóp méo sự thật và ngụy tạo sự kiện lịch sử theo suy tưởng chủ quan vô căn cứ của mình, cho nên hệ quả tất yếu là ông đã bị công luận lên án gắt gao; người ta coi ông như một con rối làm vẩn đục diễn đàn văn học sử! Và riêng tôi phải mất nhiều thời giờ và giấy mực để phân giải, chứng minh có lẽ hơi dài dòng, cặn kẽ từng chi tiết để ông thấu rõ sự thật của vấn đề mà đáng lý ra, đối với một người nào khác tôi chỉ tốn khoảng vài trang giấy cũng đủ làm sáng tỏ rồi!
    Vậy một lần nữa tôi xin có lời khuyên cuối cùng với ông để thay cho lời kết đó là: xin ông hãy gác bút nghỉ ngơi và lo tu dưỡng thân tâm, cho tinh thần ổn định lai, chứ ông không nên tiếp tục dấn bước vào con đường phiêu lưu hoang tưởng để không phải chuốc lấy tội lỗi với các đấng thiêng liêng! Và tự đào hố chôn mình một cách oan uổng! Ở đây tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm để ông hiểu rõ hơn, thời đại công nghệ ngày nay dân trí đã khác xưa nhiều rồi, nên ông đừng có ý tưởng dại dột như muốn “múa gậy vườn hoang”, hoặc sử dụng các chiêu trò ma mị để qua mắt và dối gạt mọi người nữa ông cư sĩ ạ! Và tôi cũng thẳng thắn nói với ông rằng: nếu tôi muốn lắp vá theo kiểu đầu Ngô mình Sở hay nhổ râu cắm càm như ông thì toàn bộ 9 bổn trong Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba tôi sẽ xâu kết cả hàng trăm nhân vật có tên tuổi một cách bài bản chứ không phải vụng về, hớ hênh để cho công luận lên án và cười chê thậm tệ như ông đâu...

    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam mô A Di Đà Phật


    -----
    Chú thích:

    (1): Năm 1940 ở Tân Châu (Châu Đốc) đã xuất hiện một tổ chức nổi lên chống Pháp do ông đạo Tưởng còn gọi là đạo Quốc (Hoàng Minh Quốc) lãnh đạo đã dùng màu đỏ làm cờ biểu tượng và giết ông cai tuần Hiếm để làm lễ tế cờ ra quân, sau đó đã bị Pháp đem quân đến tiêu diệt. Do sự kiện này làm ảnh hưởng đến nền Đạo bị chánh quyền Pháp nghi ngờ nên Đức Huỳnh giáo chủ chỉ giáo cho toàn thể tín đồ đổi lại màu dà (trần dà) để thay cho màu đỏ (trần điều). Và cũng vì tình trạng này nên đã có số ít tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã phải nhổ cả bàn Thông thiên để tránh vạ lây, nên Đức Huỳnh giáo chủ có làm bài thi đề tựa là "Nhổ bàn Thông thiên":
    Đạo ác xảy ra rất thảm phiền
    Làm cho thiên hạ nhổ Thông thiên
    Xô ngang ít bữa rồi trồng lại
    Thần thánh đi xa chớ rước liền.
    (Hòa Hảo, hạ tuần tháng giêng, năm Canh Thìn).

    (2): "Muốn xem bốn chữ Long Châu": là bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Phật Thầy xướng xuất và tuyên xưng danh hiệu cho tông phái của mình ở chùa Bửu Hương Các ở ấp Long Châu (Láng Linh), xã Thạnh Mỹ Tây, quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc. Và Ngài còn nói rõ hơn ý nghĩa và điểm xuất xứ của bốn chữ này, nhưng rất tiếc bút giả chỉ còn nhớ hai chữ cuối như sau: "... Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư, chữ Hương là hiệu Phật Trùm bốn chữ phải mang. Bửu Sơn bốn chữ rõ ràng, là hiệu của Thầy ở tại Long Châu."

    (3): Dưới đây là nguyên văn của bài thi:


    1 – Bài Bát Nhẫn.


    Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
    Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên
    Nhẫn giả hương lân hòa ý hỷ,
    Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên
    Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.


    2 – Bài thi tám chữ (Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận)

    Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
    Chư bang hành thiện hiếu vi tiên
    Ngao Du thế thới hoàn sanh chúng
    Quới tiện trí ngu trạch nhơn hiền
    Châu Di phục thỉ an bá tánh
    Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên
    Viễn Cận chư châu quy nhứt thống
    An cư lạc nghiệp phước vô biên.


    (4): Vả lại, trước khi viên tịch, Đức Phật Thầy có viết bài thi để lưu truyền cho hàng môn đệ và các thế hệ mai sau hiểu được dòng pháp chuyển luân qua năm đời kế tục của hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương mà như chúng ta đã kiểm chứng được một cách rõ ràng xác thực của ngày hôm nay đó là:

    Thất niên trụ thế độ mê tình
    Việt địa trùng trùng khổ chiến chinh
    Phật pháp hoằng dương khai ngũ hệ
    Thượng nguơn tái lập kiến thanh bình.

    Dịch:
    Bảy năm ở thế độ sanh linh
    Đất Việt dẫy đầy khổ chiến chinh
    Hoằng hóa năm đời khai Phật lý
    Thượng nguơn lập lại thấy thanh bình.


    Đúng là qua năm lần hóa thân chuyển kiếp để cùng thực thi một sứ mạng, một tôn chỉ hành đạo và một giáo lý Tứ Ân và Học Phật Tu Nhân... làm phương châm độ đời trong buổi hạ nguơn cùng rốt.

    1/ Đức Phật Thầy Tây An (1849 – 1856)
    2/ Đức Phật Trùm (1868 – 1875)
    3/ Đức Bổn Sư (1879 – 1890)
    4/ Đức Sư Vãi Bán Khoai (1901 – 1902)
    5/ Đức Huỳnh giáo chủ (1939 – 1947)

    (5): Bùa ở đây chỉ là giấy vàng, tro nhang và nước lã mà thôi chứ không phải bùa chú Lỗ ban hoặc ông lên bà xuống, sai đồng khiến quỷ như các ông thầy pháp, thầy phù thủy theo lối dị đoan mê tín.

    Hậu Giang, mừng ngày Đản sinh của Đức thầy
    25 tháng 11 năm Đinh Dậu – 11/1/18


    Thủ bút
    Tịnh Lạc cư sĩ
     

Chia sẻ trang này