Bán Đất nhà người! Bảo Giang Câu chuyện nghe ra rất lạ, nhưng thật ra là không lạ một tý nào. Đặc biệt, khi sống ở trong các nước cộng sản, người ta sẽ hiểu việc “bán đất nhà người”, được các nhà nước cộng sản quy định và thực hiện sách lược chủ yếu này ra sao. Thường thì nhà nước bán những thứ mình không có bằng “cưỡng chế” “quy hoạch” để thu tóm tài sản, bổng lộc vào tay giai cấp thống tri. Về đối ngoại, khi đủ mạnh thì đi chiếm đoạt, chế ngự, tước đoạt chủ quyền của các nước cộng sản nhỏ láng giềng. Xem ra, sách lược này là bất di bất dịch, đời đời không bao giờ thay đổi. Trừ ra là cái chết của chế độ! Thật vậy, thời cộng sản Sô Viết chưa sụp đổ, tất cả các nước láng giềng của Liên Sô như Ba Lan, Hungary, Romania... Nói chung là khối Đông Âu, trên danh nghĩa là những quốc gia có chủ quyền riêng biệt, nhưng thực tế, họ lại không được hành xử cái quyền có chủ quyền quốc gia của mình. Trái lại, mọi sách lược, đưòng lối của các nước này phải tuyệt đối thi hành theo chủ trương của Liên Sô đề ra. Anh Ba Lan, anh Hungary, Romania muốn ngắm nghé nhìn qua tây phương (dù là mua miếng bánh mỳ) là Liên Sô tự cho mình cái quyền trịch thượng. Đưa quân đội tràn qua chiếm đóng và lập lại cái thế cộng sản thuần thành theo ý của Liên Sô. Việc làm của Liên sô, một mặt là chà đạp chủ quyền của các nước cộng sản trong khối, mặt khác là nghênh ngang thách đố cái sức mạnh và lý lẽ nhân bản của Tây phương. Ta đưa quân đi chiếm đóng Ba Lan, Rumani... đấy, ai làm gì đuợc ta nào? Trước cảnh hung hãn này của Liên Sô, Tây phương đứng nhìn cho vui, và các nước cộng sản khác thì như con chuột đã nằm trong vòng tay con mèo đói. Tuy thế, trong suốt 80 năm “môi hở răng lạnh” của cộng sản, thế giới lại không được chứng kiến cảnh “cưỡng chế” hay “quy hoạch” được Liên Sô đem ra áp dụng với Trung Cộng. Và dĩ nhiên, Mao sếng Sáng cũng ... ngại, không dám đoạt chủ quyền của Liên Sô. Lý do thật dễ hiểu. Cả hai tên cộng sản này đều “tám lạng nửa cân”, không bên nào khả dĩ đấm gục đối phương, nên tự nhiên là phải cắn răng lại mà giữ lấy hòa khí! Nay Liên sô đã không còn, Việt Cộng không còn cách đu dây giữa Liên Sô và Trung cộng. Theo đó, việc Việt cộng bị Trung cộng tước đoạt chủ quyền chỉ là chuyện trong sớm tối! Tôi sẽ trở lại chuyện này sau. Đó là chuyện “đối ngoại” thuộc khối cộng sản quốc tế. Phần mỗi quốc gia bị cộng sản chiếm đóng thì tự hành xử ra sao? Từng chi tiết, từng bước nhảy vọt lớn, nhỏ trong sách lược cưỡng chế, quy hoạch, tịch thu ruộng đất tài sản của nhân nhân thuộc các nước cộng sản thế nào, tôi không nắm rõ. Có biết là biết qua báo chi mà thôi. Nhưng ở Việt Nam, không phải chỉ minh tôi biết. (biết đây là nhìn tận mắt, nghe tận tai, sờ tận tay chứ không phải bằng những bài viết trên báo chí của nhà nước). Nhưng là tất cả mọi người Việt Nam đều biết rõ việc đứng ra “bán đất nhà người”, nhà nước và cán cộng xứng đáng đứng vào hàng bậc thầy trên thế giới trong nghề kiếm ăn này. Nhắc lại, Hiệp định Geneve ký vào ngày 20-7-1954. Như một nhát dao, hơn là một hiệp định buồn thảm đã phân chia nước Việt Nam ra làm hai phần đất riêng biệt. Từ đó, hai miền của Việt Nam đã tổ chức thành hai quốc gia có chủ quyền riêng và có nền hành chánh và chế độ tự trị hoàn toàn khác nhau, đó là: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phần lãnh thổ, lãnh hải và dân số của Việt Nam ở phía bắc, từ ải Nam Quan đến bờ bắc sông Bến Hải, nằm trên vĩ tuyến 17, do Hồ chí Minh tạm thời xử lý. Việt Minh (tên gọi cộng sản VN lúc bấy giờ) đã xây dựng cơ sở, đặt các hệ thống công quyền theo chế độ cộng sản trên phần đất này và được gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nước Việt Nam Cộng Hòa Nửa phần lãnh thổ, lãnh hải và dân số của Việt Nam nằm từ phía nam bờ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu, do ông Ngô đình Diệm lãnh đạo. Tại phía nam bờ sông Bến Hải này, ông Ngô đình Diệm và quân dân miền nam đã kiến nghiệp và xây đựng đất nước theo thể chế Tự Do. Trước hết, thu hồi toàn bộ chủ quyền của đất nước từ phần lãnh thổ, đất liền, hải đảo lại cho tổ quốc từ tay của thực dân Pháp, trong đó có chủ quyên trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nằm cách bờ đất liền ngoài 200 hải lý. Thứ hai, bãi bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến còn di truyền tại miền nam. Từ đó, miền nam Việt Nam trong trường Quốc Tế có tên gọi chính thức là nước Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời phân tranh này, cả hai nước đều có tên gốc chung là Việt Nam. Mỗi bên đều được một số quốc gia trên thế giới xác minh, công nhận là một quốc gia có chủ quyền, độc lập để họ giao thương với. Nhưng cả hai đều không phải là thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, dù cả hai đã xin tư cách thành viên nhiều lần. Qua việc phân định lằn ranh tạm thời như thế, không cần phải nói thêm, mọi người đều biết, tất cả những gì thuộc về bờ phía bắc sông Bến Hải ra đến Ải Nam Quan là bờ cõi của Việt Nam mà tạm thời đảng Việt cộng đang trấn đóng. Dĩ nhiên, nhất thời họ cũng có trách nhiệm phải bảo vệ chủ quyền của tổ quốc và bảo vệ người dân Việt Nam trên phần đất này (nếu họ muốn). Hoặc gỉa, họ cũng có thể đem bán tống bán tháo phần đất ấy cho cộng sản quốc tế theo cái thuyết Tam vô mà họ đã theo đuổi. Ở trong trường hợp họ mang bán đi, chưa chắc gì người miền nam và toàn dân miền bắc làm gì được họ (thực tế đã chứng minh như thế). Bởi lẽ, cái bản hiệp định kia đã trao cho họ cái quyền quản lý trên phần đất ấy. Và họ đang có trong tay những con dao mã tấu hảo hạng. Tuy nhiên, nếu chỉ mua bán những gì mình có trong tay, đúng theo gía trị căn bản về luật lệ, về xã hội, về nhân phẩm của con người, thì chắc chắn Việt Minh đã không thể tạo nên được cái đặc tính của cộng sản mà nó được định nghĩa là gian trá, là tạo ra gian dối như hôm nay. Nhưng, có thể nói, chính nhờ việc nhà nước Việt cộng rất trổi vượt tay nghề trong việc mua và bán những cái mà họ không có, đã tạo họ thành một tập đoàn lãnh đạo tồi tệ và gian ác chưa từng thấy trong lịch sử trên dải đất đã có hơn 4000 năm văn hiến gọi là Việt Nam này. Ở đó, nhờ việt cộng, thân phận con người, bao gồm cả các cán cộng và giai cấp lãnh đạo của nó chỉ là những hạng cấp nô lệ, được thụ hưởng quyền lợi khác nhau do chủ nghĩa duy vật biện chứng ban tặng. Riêng phần tinh thần, nhân bản của con người thì bị triệt tiêu, như mất hẳn dưới ngọn giáo của chủ nghĩa đa gian trá và hướng đi vô đạo của nó bởi chủ trương: Bán đất nhà người Trước hết, sau khi nắm được công quyền, Hồ chí Minh, qua Phạm văn Đồng, đóng vai thủ tướng, rồi Ung gia Khiêm, thứ trưởng ngoại giao vai trò đi đêm, của cái gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ký giấy bán đỡ hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam trực thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho Tàu cộng vào ngày 15-8-1958. Người mua là Trung cộng đã tỏ ra cực kỳ thỏa mãn, dù biết rất rõ lý lịch của phần đất và biển trời này không thuộc chủ quyền và trách nhiệm quản lý của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mặc, họ cũng không cần biết đến lý do như là trả nợ trước, mong được giúp đỡ hoặc là cả cuộc lừa dối của đối tác. Hoặc gỉa, Trung cộng còn biết rõ ý đồ cực kỳ đểu cáng của Hồ chí Minh và Phạm văn Đồng khi ký giấy công nhận chủ quyền của Tàu cộng trên phần đất, hải đảo của Việt Nam do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là: “Tôi bán đất của người ta cho chú ba, chú có giỏi thì ra đấy mà lấy”. Hoặc gỉa, giúp tôi đánh úp nó rồi sau ra đấy mà nhận! Biết thế, Trung cộng vẫn mua. Mua bằng thách đố, hay bằng cưỡng chế như Liên Sô thực hiện tại Đông Âu! Nhưng sau cuộc sụp đổ đồng bộ của cộng sản Đông Âu, trong đó có cả đế quốc Liên Sô, tập đoàn Việt cộng Hà Nội, không còn chỗ bám tựa. Không còn phương cách đu dây. Nếu muốn giữ lại cái chế độ cộng sản gian trá ấy, họ không còn cách nào khác ngoài việc phải bám víu vào Trung cộng để mà sống còn. Kết qủa, sống còn đến hôm nay, nhưng không thể thoát ra khỏi cái cái quy hoạch, cái cưỡng chế, bị tước đoạt dần chủ quyền như các nước nằm ở trong khối cộng sản Đông Âu trước kia. Nghĩa là, việc Việt cộng bị tước đoạt chủ quyền, quyền lợi kinh tế và chính trị chỉ là trong sớm tối. Có thể vì biết rõ việc này phải đến, không bán, chúng cũng dùng sức mạnh để chiếm lấy, nên tập đoàn cộng sản Hà Nội lại đem đất đai của tổ quốc Việt Nam, chứ không phải của Việt cộng, bán cho Tàu cộng để lầy quyền lợi, danh vọng chia nhau. Đó là kết qủa của những tờ Hiệp thương, Hiệp định biên giới do Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Nguyễn Mạnh Cầm, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt... thực hiện với Tàu cộng vào các năm 1999 và năm 2000. Nếu những kẻ đi trước “bán đất của người” được lợi nhuận cao, được hanh thông danh vọng, chẳng lẽ những người kế vị không có khả năng này? Đó là lý luận và cơ sở của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội hôm nay để đưa đến kết qủa là những “khế ước” khai thác Bauxite Cao Nguyên, là những cưỡng chế, quy hoạch, là những khế ước cho thuê rừng đầu nguồn, cửa biển của Việt Nam do tập đoàn Dũng, Mạnh, Triết, Trọng và các quan cán cộng thi nhau thực hiện để lấy tiền vào túi riêng. Kết qủa, dưới sự lãnh đạo tài tình của nhà nước Việt cộng, đất đai, biển đảo của tổ quốc Việt Nam nay rơi dần vào tay ngoại bang, nhưng xem ra chưa có dấu ngừng lại. Trái lại, càng lúc càng trở nên như một phong trào thi đua trong đảng cộng. Họ đem bán đi những phần đất của non sông, những tài nguyên của đất nước chỉ vì một mục đích duy nhất, xin cho mình và phe cánh được làm những tên nô lệ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ở ngay trên quê hương của mình. Ai làm gì được nào? Mua những thứ mà người ta không muốn bán Bán những thứ mình không có, chưa lạ. Việt cộng còn có tay nghề mua những thứ mà người ta không bao giờ muốn bán với bất cứ gía nào bằng cái gía rất mạt. Việc “mua đứt” kiểu này lại cũng khởi đầu bằng cái tên Hồ Chí Minh, sau đó là đến các cháu ngoan bước theo sau. Việc mua những thứ mà người dân không muốn bán do Hồ Chí Minh và Trường Chinh thực hiện trên toàn miền bắc vào những năm 1953-1956 theo lời Hồ chí Minh công bố là một chiến thắng long trời lở đất. Mà long trời lở đất thật. Bởi lẽ, sau chuyến “mua đứt” này là có hơn 172,000 ngàn ngưòi Việt Nam bị giết, và nhà nước Việt cộng “mua” được 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. (wikipedia. CCRĐ). Bấy nhiêu đất, bấy nhiều nhân mạng, nông cụ thì lấy tiền đâu ra mà trả? Hồ Chí Minh chỉ bỏ ra có một con dao mã tấu thôi! Nếu dừng lại ở đây thì chưa thể hiểu hết cái nghĩa “long trời lở đất” mà Hồ Chí Minh công bố và ám chỉ là như thế nào. Nhưng phải chờ đến khi Hồ Chí Minh và tập đoàn Việt Minh “mua đứt” Tự Do, Công Lý. Nhân Quyền, Nhân Phẩm và “mua” luôn Tự do Tôn giáo của ngưòi dân Việt Nam, mà gía cũng chỉ bằng một con dao mã tấu thì mới thấy được toàn bộ cái nghĩa của cụm từ “long trời lở đất” ấy. Thật vậy, sau chuyến Hồ Chí Minh mua hàng trong mùa cải cách ruộng đất, toàn bộ Tự Do, Nhân Phẩm, Nhân Quyền, Công Lý, Luân Lý, Đạo Đức của xã hội. Những gía trị tinh thần Đạo đức của Tôn giáo. Tinh thần Nhân lễ Nghĩa Trí Tín của nền văn hóa dân tộc Việt Nam đều bị tập đoàn cộng sản “mua đứt” rồi đưa vào “quy hoạch” dưới cái ách cộng sản của nhà nước. Từ đó, nhà nước và tập đoàn cán cộng được tự do ra, vào hành nghề “mua, bán” một cách không lý lẽ, không luân lý. Thí dụ như, đất “mua” của các điền chủ thời đấu tố. Đem chia cho dân cày, mỗi hộ được 0.38 hec. Ngay sau đó, nhà nước phát loa “mua” lại bằng cách thúc dân cày đem ruộng đất vào hợp tác xã. Kế đến, nhà nước “mua” thêm lần nữa bằng cách quốc hữu hóa toàn diện qua bản Hiến pháp năm 1959, xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó là quyền sở hữu tập thể. Các thợ cày lại trắng tay! Ai không muốn “bán” thì cũng phải sống như là đã bán. Tuyệt đối không thể tuyên bố rằng tôi không bán. Ngay trong vấn đề Tự do Tôn giáo cũng khó có ngoại lệ. Bởi lẽ, Cổng trời, Hỏa Lò, Đầm Đùn... những địa đanh, những cái cùm lim có đế sẵn sàng “mua đứt” người về với nó trong thinh lặng. Tôi không bán! Ôi, cực kỳ can đảm. Lòng dân vẫn thế và vẫn có những cá nhân lên tiếng cho mình và thay cho ngưòi. TGM Ngô Quang Kiệt, Hoà Thượng Thích Quảng Độ... là những vị điển hình. Hay những cá nhân hoạt động trong xã hội như LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Lía, Trần Hoài Ân, Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Cù huy hà Vũ, Trần Duy Thức.... đến những địa danh làm gợi nỗi đau của người dân như Tòa Khâm Xứ, Thái Hà, Loan Lý, Tam Tòa Cồn Dâu, Đồng Chiêm, Đầm Vươn, Văn Giảng... và hẳn nhiên, còn hàng trịệu, triệu những tên tuổi và địa danh tiếp nối khác nữa. Hầu như tất cả đều không dễ dàng gì chấp nhận cái cơ chế “bán đất nhà người” và “mua” những thứ mà người ta không muốn bán bằng bạo lực của cộng sản. Một thứ “cơ chế” tạo ra bất ổn để nuôi sống chế độ, làm đảo lộn mọi trật tự và sự ổn định trong xã hội, làm đảo lộn luân thường đạo lý của con người. Nhưng tiếc rằng đến nay, cái cơ chế ấy vẫn đan chân kín kẽ, nắm giữ được bạo lực. Liệu Việt Nam có phương cách nào để thoát ra khỏi cái “cơ chế” này của Việt cộng hay không? Hay càng ngày càng bị tước đoạt hết những giá trị từ tinh thần đến vật chất của minh để trở thành một thang cấp, một hạng mục nô lệ mới? Nhất là lúc này, lúc mà Trung cộng sau những ngày cúi đầu trong thời Thanh mạt và đấu tố, đã học hỏi được ít nhiều kỹ thuật tân tiến trong công kỹ nghệ của tây phương. Họ từ gĩa cách kiếm sống bằng gánh hàng rong, vung tay ra biển lớn và thách đố xã hội bằng cách gọi thầu, đấu giá khai thác tài nguyên trên phần đất mang tên Việt Nam? Bạn trả lời đi! Việt Nam đi về đâu?
Bán đất nhà người [2] A. Trung cộng gọi thầu trên nước Việt Không phải đến hôm nay Trung cộng mới thực hiện chủ nghĩa “Bán Đất Nhà Người”, nhưng từ thời cổ đại, họ đã làm những việc ấy. Những Hàn, Triệu, Tống, Ngụy, Tần, Tấn, Sở, Vệ… chẳng bao giờ có được cuộc sống yên bình bên nhau. Trái lại, cuộc toan tính, thôn tinh lẫn nhau không bao giờ ngừng. Hết tung đến hoành. Hết hoành lại tung! Chi đến khi Tần thủy Hoàng mạnh thế hơn, diệt gọn thất hùng, đốt sách chôn học trò thì cái chuyện bán Hàn, bán Ngụy, bán Triệu ….. mới chấm dứt. Tuy thế, cái mộng bành trướng thì không bao giờ ngừng lại. Khi Thành cát tư Hãn chiếm được Trung Hoa, lập nên nhà Nguyên, đoàn chiến mã hung hãn của ông ta vùng vẫy từ Á sang đông Âu. Những tưởng là sáng dẹp biển bắc, chiều định bến Nam. Không có sông nước, thảo cỏ nào có thể ngăn cản được đoàn chiến mã hùng mạnh ấy? Kết qủa, cả người lẫn ngựa đều chìm xuống sông Bạch Đằng. Nói toạc ra là các thế lực từ Hán, Nguyên, Minh, Thanh… đã không thể tràn xuống phương Nam vì ở đó có một Nhà Nam hùng tâm tráng chí với những quân vương, danh tướng vì dân như Ngô Quyền, Lê Lợi, Hưng Đạo Vương, Nguyễn Huệ…! Đến thế kỷ 20, những lê dân của Hàn, Triệu, Tề, Ngụy, Sở, Tấn, Tần… đã bạc nhược dưới đế ngựa Mông Nguyên, thêm một thời cúi đầu cắt tóc để chỏm đuôi ngựa của Mãn Thanh. Trung quốc đã chẳng còn là chính mình. Tệ hơn thế, trở thành miếng mồi, thành những vùng tô giới của Tây Phương chia xé, hoặc chịu nhận sự thống trị của con cháu thần Thái Dương. Cuối cùng Khổng, Mạnh phải cúi đầu bái lạy Mác, Lê, một chủ thyết gian trá, và dựa vào thế lực cộng sản từ Liên Sô, Trung quốc mới có cơ may thống nhất, chấm dứt cảnh bị chia thành những vùng tô giới vào năm 1949. Rồi sau khi hoàn tất cuộc đấu tố với hơn 2 triệu người chết và hoàn thành cuộc “cách mạng văn hóa”, một kiểu đốt sách chôn học trò của bạo Tần tái diễn, chôn vùi toàn bộ những gía trị luân lý đạo đức của xã hội xuống vũng bùn nhơ, cho suy đồi tham vọng nổi lên, Trung cộng biến thành một nước cộng sản có số dân đông nhất thế giới. Tuy thế, trong suốt thời kỳ cực thịnh của chủ nghĩa CS, TC không tạo được một thế lực riêng. Tính ra, phải mất nửa thể kỷ núp dưới vạt áo của Liên Sô để thực hiện tận tình chủ nghĩa ” bán đất nhà người” đối với người dân ở trong nước, Trung Cộng mới dám vượt rào cản Liên sô, có bước đi riêng khi đón TT Nixon của Hoa Kỳ vào năm 1972. Chuyến đi này đã đưa TC sang một thế đứng hoàn toàn đổi khác. Trước tiên, họ lặng lẽ chấp nhận làm ăn gia công với gía rẻ cho thế giới tư bản. Kế đến, nhờ đó mà cóp nhặt, trau giồi kỹ thuật tân tiến từ bên ngoài. Đến nay, đặc biệt là từ khi khối CS Liên Sô tan rã vào năm 1989, TC đã nổi lên như một thế lực mới. Thế lực kinh tế của TC tuy không nằm trong hàng công kỹ nghệ nặng, nhưng hàng gia dụng từ cái đinh ốc, cái chổi quyét nhà, cái búa đóng đinh, cho đến những tiện ích cá nhân như máy tính, truyền hình…với nhãn hiệu China hầu như đã tràn ngập thế giới. Những thành phẩm này đã đem về cho Trung cộng nguồn lợi nhuận rất dồi dào. Hơn thế, họ lại trở thành chủ nợ của anh nhà nghèo hào phóng Hoa Kỳ. Trong cái thế ấy, buộc TC phải vươn vai đứng dậy. Khi đứng dậy, người ta thường có khuynh hướng nhìn lên, TC lại khác. Dù không muốn, TC không hề có ý định mở mang tầm ảnh, gây hấn với cựu ” đồng chí” Liên sô. Hơn thế lại tỏ ra thân thiện với người anh em một thời “ môi hở răng lạnh” này. Và dĩ nhiên, TC rất bực mình với cái nhóm ốc đảo là con cháu của thần Thái Dương đứng chắn trước mặt, đã có thời đạp gót giày trên phần đất của Trung Hoa vĩ đại! Nhục thì chưa quên, nhưng xem ra “ nó” còn mạnh lắm, không thể bung ra phía trước mặt được. Kết qủa, chỉ còn một hướng duy nhất. Nhìn về phương nam. Trung cộng quyết liệt ăn thua với những nước láng giềng nhỏ bé ở phương nam này. B. Phản ứng từ Phương Nam Phương Nam, mảnh đất màu mỡ và tiền rừng biển bạc, cách riêng là Việt Nam, nơi mà những Tống, Hán, Minh, Nguyên, Thanh… đã bao lần muốn nuốt gọn, thay tên đổi họ cho nó. Kết quả, mỗi lần mộng bành trướng muốn bung ra là một lần chính những kẻ mang ảo giác này ôm hận, ngậm đắng nuốt cay. Không phải một lần nhưng là nhiều đời truyền nhau, dù rằng ở nơi ấy cũng có những kẻ đưa đường, cõng rắn cắn gà nhà, bán nước cầu vinh như Trần ích Tắc, Lê chiêu Thống. Nhưng nay xem ra, Hồ chí Minh và tập đoàn cộng sản còn tồi tệ hơn những Lê chiêu Thống, Trần ich Tắc cả ngàn lần. Nó tồi tệ vì, bên ngoài, họ không thể nhìn ra từ trong đáy mắt của những quan cán Trung cộng luôn đánh gía về tập đoàn này không khác gì bọn giá áo túi cơm, bọn tay sai, nhưng lại mang ảo giác chủ nghĩa đại đồng “ anh em”. Cũng không hề biết, tuy được TC môi mép gọi là “đồng chí”, nhưng thực ra là những tôi tớ phải nương nhờ vào Trung cộng mà sống còn, nên ngày đêm chúng tranh nhau dẹp đuờng, mở lối, cởi áo ra mời báo ơn quan cán TC để cầu lợi vinh. TC không tràn xuống phuơng nam mới là lạ! Bên trong, trí khôn của con chuột nhắt ở phương Nam lại tự mãn, tự vỗ ngực cho rằng: Ta đây là đồng chí, là bằng hữu với những đồng chí vĩ đại Trung quốc. Ta ngồi cùng mâm, ăn cùng bàn với người “anh em” này. Ta và họ cùng vai, cùng vế, cùng gìn giữ 16 chữ vàng dẻo để “bên đây biên giời là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương theo chủ nghĩa cộng sản “anh em” ta sợ gì ai? Vỗ ngực kiểu tôi tớ, vay mượn như thế, nên họ buộc phải dương oai diệu võ, bạo tàn với ngưòi dân để phô trương thanh thế và che cho bớt cái phần áo nô lệ. Kết qủa của cái ảo giác “ bằng hữu” và tình “đồng chí” là sau khi đem áp dụng toàn bộ những sách lược của cộng sản, từ việc đấu tố nhân dân cho đến “thu mua”, “cưỡng chế” Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý theo ý Mao. Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng đã biến nước Nam, một dân nước với hùng tâm tráng chí qua bốn ngàn năm không còn một hình tượng nào như trước. Mặt tinh thần thì thành khối u bạc nhược, thất chí, chia rẽ, thụ động: “ mặc mẹ chúng nó, muốn làm gì thì làm” kẻo lụy vào thân! Nhà nhà, người ngưòi đều mũ nỉ che tai, áp dụng kế không nghe, không biết, không nói để tồn tại qua ngày. Riêng tấm bản đồ của mẹ Việt Nam thì mỗi ngày mỗi teo tóp lại. Đã thế, phần nội địa thì bị phân chia, quy hoạch cho thuê, cho mướn, biến thành từng mảng da beo, da cọp nằm trong tay Trung cộng kiểm soát! Nhìn quê hương bị dày xéo, chia cắt tang thương như thế, có người dân nào mà không rơi nước mắt? Nói cho ngay, đứng trước cảnh Trung cộng dùng sức mạnh áp đặt chủ quyền, công khai đặt nền hành chánh trên những quần đảo Trường Sa và Trường Sa của Vệt Nam, rồi rao gọi, bán đấu thầu tìm nguồn khai thác tài nguyên trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không có một người dân Việt Nam nào mà không tràn nước mắt, đau đớn, uất hận. Nhưng tiếc thay, người dân biết lấy gì để bảo vệ quê hương đây? Bởi vì: 1. Người ta không thể bảo vệ cái mà người ta không xác nhận là nó thuộc về mình. Trong bản công hàm của Phạm văn Đồng ký vào ngày 15-8-1958 không nhắc gì đến một chút gọi là chủ quyền của Viêt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, chỉ xác minh chủ quyền 200 Hải Lý ở vùng này là thuộc Trung Cộng. Rồi Ung văn Khiêm, thứ trưởng ngoại giao Việt cộng lúc đó còn nói rõ là, “Nó thuộc về Trung cộng theo tính lịch sử”. Nghĩa là qua văn kiện và những lời tuyên bố này, chính phủ gọi là “ việt nam dân chủ cộng hòa” do Hồ chí Minh làm chủ tịch, Phạm văn Đồng làm thủ tướng, không cần biết Trường Sa, Hoàng Sa nằm ở đâu, thuộc chủ quyền của ai. Họ chỉ biết, phía Trung cộng ra thông báo ngoại giao, bảo nó thuộc về của Trung cộng là lập tức họ đáp ứng yêu cầu, công nhận cho Trung cộng thoả lòng. Đây chính là một hình thức, một cách từ bỏ chủ quyền của Vìệt Nam trên vùng đất này, bất kể lý do là thù nghịch với tổ quốc và nhân dân Việt Nam hay với chính quyền của miền Nam Việt Nam. Hoặc là sự đổi chác, bán chủ quyền cho Trung cộng. Nghĩa là, công hàm ấy chỉ mang một ý nghĩa duy nhất. Nó không thuộc về Việt Nam. Nó thuộc về Trung quốc! Tất cả những ai, học gỉa quốc tế, hay dân thường, đọc bản văn này một cách khách quan đều nhìn thấy rõ cái nghĩa này của nó mà không cần giải thích thêm. Tưởng nên nhắc lại ở đây là hội nghị quốc tế ở San Francisco vào tháng 9-1951, đã bác bỏ đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trương Sa do Liên Sô đưa ra. Trong phiên khoáng đại ngày 5-9-1951 Andrei A. Gromyko – Ngoại trưởng Liên Xô, đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng ký kết hòa ước với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Kết qủa, 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này của phái đoàn Liên sô. Trong khi đó, phía Việt Nam ( không phải Việt cộng) đã tham dự Hội nghị San Francisco với tư cách là thành viên trong khối Liên hiệp Pháp. Đại biểu VN đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Hội nghị, mà không có sự phản đối nào của các nước tham gia. Nghĩa là hội nghị chấp nhận lời tuyên bố về chủ quyền này của phái đoàn Việt Nam một cách toàn diện. Về phía Trung cộng, tuy bị bác bỏ lời yêu cầu trong hội nghị tháng 9-1951 ở San Francisco, nhưng nội dung công hàm đề ngày 4/9/1958 của Chu Ân Lai lại đặt để chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa và sau đó được Quốc Hội Trung Quốc biểu quyết thuận theo nội dung công hàm này! Rõ ràng là một sai trái. Khốn thay, Việt cộng đã xác minh thuận theo cái ý này của TC, ta lấy gì mà đòi? Chờ lập quy bằng một luật mới chăng? 2. Việt Nam có thể tái xác minh chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa theo tính lịch sử và luật mới không? “Luật Biển” do QH/ CHXHCNVN với 495 phiếu thuận và một phiếu chống thông qua vào ngày 21-6-2012 và có hiệu lực từ ngày 01-01-2013, xem ra có phần khác biệt với cái công hàm vô trách nhiệm trước kia của Phạm văn Đồng. Trong đó có những điểm: “Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo. Điều 2. Áp dụng pháp luật 1. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.” Theo mặt chữ. Chữ “điều chỉnh” ở đây có thể được hiểu là làm lại cho đúng, hay sửa lại những điều sai trái. Nghĩa là trước đây Phạm văn Đồng, do Hồ chí Minh chỉ đạo, đã ký một cái công hàm hoàn toàn sai trái và vô trách nhiệm trong thời chiến, thì nay, QH của nước CHXHVNVN phải điều chỉnh lại những sai lầm ấy cho đúng với tính pháp lý và căn bản của sự việc? Nhìn chung thì đúng, nhưng tính thực hành của điều khoản lại tùy thuộc vào ứng dụng, không phải dựa vào vài chữ viết. Kế đến điều 2. Đề cập đến tính pháp lý của bộ luật. Xem ra, dù còn nhiều lấn cấn, vì không dám nhìn nhận và xóa bỏ giá trị sai lầm của một văn bản cũ ( hiệu lực hồi tố). Nhưng nếu điều 2 được áp dụng đứng đắn và triệt để theo luật hồi tố, bộ luật này cũng có khả năng hủy bỏ, tiêu hủy cái gía trị trong bản công hàm Phạm văn Đồng ký trước kia. Từ đó người ta có thể tìm ra khương cách để bảo vệ chủ quyền trên biển, đảo. Nhìn tổng quát, trên giấy nó có dự trù điểm tích cực để đưa đến một kết luận trong điều 19 về đảo và quần đảo: “Điều 19 Đảo, quần đảo 2. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam” Tuy thế, thời hạn “ trống” qúa dài từ ngày thông qua bộ luật cho đến khi nó có hiệu lực thi hành là một bất lợi. Người ta có thể hiểu rằng. Bộ luật muốn báo cho phía Trung quốc biết, họ vẫn có quyền gọi đấu thầu trên vùng lưỡi bò nằm trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho đến hết ngày 31-12-2012 ( theo gía trị công hàm của PVĐ), nên bên ấy muốn làm gì thì làm cho nhanh đi, đừng để phiền cho chúng tôi. Theo đó, nếu Trung cộng thành công trong vệc gọi thầu trên cái vùng lưỡi bò nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước ngày 31-12-2012 thì việc tranh chấp càng xa vào vũng lầy, không lối thoát? Việt Nam đành chấp nhận mất luôn vùng đặc quyền kinh tế mà quốc tế công nhận năm 1982 chăng? Ở trong trường hợp này, liệu cái luật biển vừa được thông qua, có khác cái kịch bản “ cưỡng chế” Đầm tôm Hải Phòng với câu tuyên bố là Sai luật, nhưng Đoàn văn Vươn( VN) chủ đất vẫn bị bắt, bị mất đất. Phần nhà nước (TC) và cán cộng vẫn đại thắng, hưởng lợi trong cả hai mặt tuyên truyền và lợi nhuận? Chờ xem. Sở dĩ có sự nghi ngờ này là vì: Ngay trong bản hiến pháp của nhà nước này đã công bố. Sửa đi sửa lại nhiều lần. Lần nào thì cũng có nhiều điều khoản bảo đảm Tự Do, Công Lý, Nhân Quyền, Quyền Sở Hữu, trong đó có quyền tự do Tôn Giáo của nguời dân, nhưng những điều khoản này chỉ có thể tồn tại trên mặt chữ viết, không bao giờ có trong thực hành. Liệu cái luật biển này có là ngoại lệ? Hay nó cũng chỉ là ván bài “ chữ viết” không có thực hành như kiểu nói của Nguyễn phú Trọng trong bài diễn văn đón bà Hillary Clinton ngày 12-7-12 cho người ta hiểu là: “ đừng nghe những gì cộng sản nói”, chắc chưa ai quên? 3. Sức mạnh bảo vệ chủ quyền của quốc gia không nằm ở trong nhóm người cầm quyền, nhưng là sức mạnh từ lòng dân. Bên cạnh sự đa trá trường kỳ của nhà nước Việt cộng, còn một nghi vấn trong thực tế nữa là: Ai cũng biết, ngoài việc phải xác minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam theo thời gian và lịch sử trên giấy trắng mực đen trong luật biển vẫn chưa đủ, nhưng còn phải vận động được sức mạnh của toàn dân mà bảo vệ lấy chủ quyền ấy nữa. Bởi vì, nếu không nhờ sức mạnh và sự hy sinh của toàn dân, không một nhóm ngưòi lãnh đạo nào có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia. Đó là quy luật, dẫu là bất thành văn, buộc phải tuân theo. Nhưng Việt cộng thì lại hành động trái ngược với quy luật ấy. Trong khoản 2 điều 4 luật biển này có ghi “ 2. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển”. Viết thế, nhưng xem ra đây chỉ là ngôn từ nhà nước vẽ vời ra cho vui mà thôi. Nó không có tính huy động người dân Việt đứng lên bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Bằng chứng là, có nhiều ngưòi Việt Nam ở trong nước đi biểu tình, bày tỏ lòng yêu nước, trong tay cầm tấm bảng TSHS/ Việt Nam là ăn no đòn của công an nhà nước Việt cộng. Lý do tại sao? Chắc họ không cần đến sức mạnh từ lòng dân, nhưng cần giữ 16 chữ vàng “ dẻo” viết trên giấy để cho TC hài lòng và họ có lợi nhuận là được? Đó là câu hỏi lớn. Bên cạnh những tiêu cực ấy, còn những bước đi tối quan trọng, cần phải làm ngay để huy động được sức mạnh của toàn dân để bảo vệ tổ quốc. Nhưng xem ra Việt cộng không muốn, hoặc không bao giờ dám làm. Đó là sự thay đổi, điều chỉnh lại cho đúng phương cách ứng xử với người dân trong nước. Nói toạc ra rằng, nếu Việt cộng có ý định bảo vệ hoặc nhờ sức mạnh của toàn đân để bảo vệ bờ cõi của tổ quốc như họ nói thì cái luật biển kia chỉ là phần phụ thuộc. Phần chính yếu phải là một văn kiện chính thức, minh bạch, xác minh tự hủy đi cái cung cách, cái bạo lực “trưng mua”, “trưng thu” “cưỡng chế”, “quy hoạch” những phần tài sàn là vật chất hay là tinh thần của toàn dân Việt Nam bằng dao mã tấu mà họ đã từng quen tay nghề. Thực hiện được “điều chỉnh” này, chẳng cần tới cái bản văn về luật biển, cái lưỡi bò của tàu cộng cũng bị cắt cụt. Bằng chứng là tiền nhân ta, từ Thống Soái Ngô Quyền, hai bà Trưng, Đức Hưng Đạo Vương, Đức Lê Lợi, Đức Quang Trung… có cần gì đến cái luật biển làm nền mà tổ quốc Việt Nam vẫn ngàn năm kiên vững, khiến bắc phương nghe đến tên là vỡ mật. Tiếc rằng cho đến nay không có dấu chỉ nào cho một cuộc đổi thay, điều chỉnh như thế. Trái lại, những đàn áp dân tình dã man, những quy hoạch, những cường chế càng lúc càng bạo ngược hơn như Văn Giảng, Con Cuông… Nhìn đó, đa phần cho rằng, khéo mà nó chỉ là cái bánh được phép vẽ ra như thế? Nếu nó chỉ là cái bánh được phép vẽ ra để phỉnh phờ. Nếu tiếng nói của người dân không được tôn trọng, không có chổ đứng và tập thể CS vẫn như những chân rết, bám chặt và đan kín kẽ lấy nhau để cùng thực hiện chủ nghiã “Bán đất nhà người”, “thu mua” những thứ mà người dân không muốn bán bằng bạo lực, bằng man rợ, thì chắc chắn, những chân rết ấy cũng sẽ bị bánh xe của lịch sử nghiền nát theo luật tái quy, hồi trả. Bởi lẽ, chế độ chỉ là một khoảng thời gian. Tổ quốc là miên viễn. Toàn dân là sức mạnh. Dân thì sống với tổ quốc. Họ sống và chết là để bảo vệ tổ quốc. Họ không chết vì một chế độ nào. © Đàn Chim Việt