"CHÁNH KỶ HÓA NHƠN" - Cư sĩ Phan Thanh Nhàn

Thảo luận trong 'Pháp-Luận' bắt đầu bởi Tamtran, 1/5/17.

  1. Tamtran

    Tamtran Administrator


    "CHÁNH KỶ HÓA NHƠN"

    Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
    Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
    Lời của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ


    ***
    Hai câu trên chúng tôi trích trong bài "Thiên Lý Ca", Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ viết vào khoảng tháng bảy năm Kỷ Mão tại Hòa Hảo.

    "CHÁNH KỶ HÓA NHƠN": là trước hết mình phải đoan chánh (ngay thẳng, đứng đắn) hành vi của mình rồi sau đó mới khuyên bảo người khác cùng nhau mở tấm lòng thiện lành làm chung việc thiện. Một khi trí tuệ đức hạnh mình chưa thành tựu, thì không thể giáo hóa người khác. Cho nên muốn hóa tha, trước hết phải tu chính bản thân mình cho tốt, đây là đạo lý nhất định. Chúng ta không chánh, muốn dạy bảo người khác tuyệt đối không thể được. Ngày nay nếu họ không chánh một phần, chúng ta phải thuần chánh mười phần hơn mới có thể cảm hóa họ. Lời nói và hành vi không ăn rập nhau, không ai tin chúng ta, dù nói hay cở nào, người ta nghe xong, chỉ mĩm cười thôi. Cho nên bất luận tại gia hay xuất gia, phải công phu tu hành chân thật; mình không đàng hoàng, kêu gọi người khác đàng hoàng, không có đạo lý nầy. Trước khi hóa tha, chúng ta phải chánh kỷ. Như vậy việc đầu tiên chúng ta phải tu hành. Chúng ta phải làm thế nào cho đúng với nghĩa của chân chính tu hành. Hành là hành vi, trong Phật pháp đem chữ hành nầy chia thành ba loại lớn: Thân, Ngữ, Ý. Nhất cử nhất động do thân thể tạo tác là hành vi của thân nghiệp. Khẩu phát ra ngôn ngữ lành dữ tạo khẩu nghiệp. Về khẩu nghiệp, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ hằng khuyên dạy:"Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người."(trích trong "Lời Khuyên Bổn Đạo). Ý là tư tưởng kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn của chúng ta là hành vi tạo ý nghiệp, khởi tâm động niệm. Nếu như tâm niệm của chúng ta, niệm vì lợi ích của chúng sanh, đây là thiện. Nếu như niệm vì lợi ích cho riêng mình, như thế là ác. Lợi ích mình cũng là lợi ích chúng sanh, như thế trong ác có thiện. Lợi ích tất cả chúng sanh, trong đó vẫn có riêng mình, đây là trong thiện có ác. Những điều nầy phải phân biệt rõ ràng, chúng ta mới có cửa vào để đoạn ác tu thiện.
    Chúng ta đừng bao giờ hiểu sai lầm nghĩa của việc tu hành, mỗi ngày tụng vài lần kinh, niệm vài câu Phật hiệu, đó gọi là tu hành. Đó chỉ là hình thức, không phải thực chất. Hình thức là để làm cho người chưa học Phật, chưa biết tu hành, làm gương cho họ. Biết sửa lỗi, là công phu bước thứ nhất để đoạn ác tu thiện; tiến thêm một bước phải biết nhẫn nhục, như thế công phu của chúng ta mới có thể bảo trì không mất. Cho nên trong Lục Độ Ba La Mật, bố thí có thể tu phước, nhẫn nhục có thể tích đức. Tu phước mà không làm được nhẫn nhục, phước đức tuy còn, công đức không có.
    Trong Tứ hoằng thệ nguyện, Lục Tổ Huệ Năng dạy:"Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", còn chúng ta luôn luôn đọc "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", như vậy ai độ chúng ta, hay chúng ta độ ai? Tổ bảo không phải là Ngài độ chúng ta được. Tổ dạy:"Chúng sanh đây là chúng sanh ở trong tâm, chớ không phải chúng sanh ở bên ngoài. Chúng sanh trong tâm là gì? Tức là tâm tà mê, tâm cuồng vọng, tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm độc ác ... những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên tự tánh tự độ, ấy gọi là chơn độ". Độ hết tất cả những chúng sanh ấy, gọi là tự tánh tự độ, tức là chúng ta độ ngay trong tự tánh của mình, chớ không phải độ ở ngoài, gọi là chơn độ, mới thật là cái độ chơn chánh vậy. "Sao gọi là tự tánh tự độ? Tức tự trong tâm mình, những chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si, chúng ta sẽ đem chánh liến mà độ; đã có chánh kiến bèn xử dụng trí Bát Nhã (trí tuệ) đánh phá hay đập vỡ những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến dùng chánh độ, mê đến dùng ngộ độ, ngu đến dùng trí độ, ác đến dùng thiện độ, độ như thế gọi là chơn độ". Hằng ngày chúng ta có độ chúng sanh không? Trong chúng ta, ai ai cũng có lòng vị tha độ chúng sanh bên ngoài, nhưng chúng sanh trong tâm mình không độ. Độ được chúng sanh trong tâm mới độ được chúng sanh ở ngoài. Chúng sanh trong tâm mà không độ được, thì chúng sanh bên ngoài không bao giờ độ được. Tại sao? Tỉ như chúng sanh tật đố, chúng sanh sân hận mà chúng ta chưa độ hết, lại độ ở ngoài; rồi một khi tật đố hay sân hận dấy lên muốn đánh họ muốn giết họ thì làm sao độ họ cho được. Như vậy, không thể nào độ được chúng sanh ở ngoài nếu chúng sanh ở trong chưa đô. Vì thế chúng ta phải độ chúng sanh ở trong trước, đó mới là thật độ. Ngưòi tu chúng ta hiện nay, nguời nào cũng muốn làm nhiệm vụ của Bồ Tát, lo độ chúng sanh ở ngoài mà quên độ chúng sanh ở trong. Ban đầu thì tốt, nhưng sau đó hết tốt sanh lòng sân hận, đó là chỗ lầm lẫn của chúng ta. Thế nên chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng độ chúng sanh, mà gần nhất chúng sanh trong tâm mình phải rán độ trước, rồi sau đó độ chúng sanh ở ngoài mới được. Độ chúng sanh trong tâm mới là chơn độ, đó là tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy chúng ta:"Ta phải thương yêu nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức; nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh."(trích "Lời Khuyên Bổn Đạo").Như vậy chúng ta phải tự độ chúng ta cho được viên thành Phật đạo, có như vậy chúng ta mới cứu độ chúng sanh được. Đức Phật dạy:"Lòng ham muốn là nguồn gốc của mọi thống khổ ở thế gian, cũng là nguyên nhân của sự luân hồi sanh tử" và "Không có lửa nào bằng lửa tham lam, không có tội nào bằng lòng đố kỵ, ganh ghét". Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ nói cho chúng ta rõ, những tài vật trong thế gian đều là gỉa tạm, như hạt sương buổi sáng, mau rã mau tan. Dù chúng ta có ham muốn, dùng đủ mưu gian kế độc giành lấy tiền của cho nhiều, nhưng đến khi tử thần gỏ cửa cũng chẳng đem đặng vật nào, lại còn vương mang tội khổ để rồi phải luân chuyển báo đền:

    Tham của tạm làm điều tàn nhẫn,
    Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.

    Khuyến Thiện

    Lòng ham muốn về vật chất như danh, lợi, tình..., rồi bằng mọi cách để tóm thâu. Đó là một tội ác trong ý nghiệp, nên gọi là lòng tham hiểm. Kẻ có lòng tham thường hay ganh ghét đố kỵ những người có tài đức hơn mình, cho nên tánh tham lam thường đi với tật đố. Kinh Phật liệt kê nó là một trong tam độc hay một trong ba món phiền não (Tham, Sân, Si). Nó cũng đứng đầu trong năm cái ngu độn (Ngũ độn sử: Tham,Sân, Si,Mạn, Nghi).
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ đưa ra hai phương cách diệt trừ lòng ham muốn: Phương cách thứ nhứt là bố thí tài vật tức đem bạc tiền, cơm áo, thuốc men, chu cấp những kẻ nghèo đói, bịnh tật “Giúp người đói khó nhu mì”, hoặc là đem kinh pháp giác tỉnh mọi người biết tu hành hay dùng phương tiện giúp người không còn sợ hãi “Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay”. Trong lúc giúp ích cho đời, chúng ta không nên khởi tâm mong cầu danh lợi hay phước báo và cũng chẳng phân biệt giữa người bố thí và kẻ thọ thí mà chỉ vì lòng từ mẫn và bổn phận mà thôi. Được như vậy thì lòng vị kỷ tham lam sẽ dứt hẳn. Ngài dạy:

    Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.

    Khuyến Thiện

    Có một nữ tín đồ đến chùa thắp nhang, cúng dường hai văn tiền. Hai văn tiền thật sự qúa ít (vào cuối thời nhà Thanh bên Trung Hoa, gía trị mười văn tiền chỉ có một phân, mười phân mới thành một hào). Chúng ta có thể tưởng tượng gia cảnh của người nầy cực kỳ nghèo khổ. Cho nên hòa thượng trụ trì chùa đích thân làm pháp sự tiêu tai cho nàng. Về sau nữ thí chủ nầy giàu có, đến chùa lần nữa thắp nhang hoàn nguyện (cúng trả lễ sau khi thành công như lời vái). Lần nầy cúng dường ngàn vàng, hòa thượng trụ trì chỉ kêu một người xuất gia làm pháp sự tiêu tai cho nàng. Pháp sự làm xong, nàng hỏi hòa thượng:"Trước kia con bố thí hai văn tiền, thầy đích thân làm pháp sự tiêu tai cho con. Bây giờ con cúng dường nhiều như vậy, tại sao thầy tùy tiện sai một vị xuất gia tiếp con, giống như làm cho có lệ?" Hòa thượng trả lời:"Trước kia con tuy bố thí ít, lòng của con chân thành, thầy không đích thân làm pháp sự tiêu tai cho con, thầy có lỗi với con; hôm nay tuy con cúng dường nhiều, lòng thành kính của con không bằng năm đó, tùy tiện kêu một người xuất gia làm pháp sự tiêu tai là đủ rồi."
    Từ câu chuyện nầy, chúng ta nhìn thấy, không tại chỗ cúng tiền nhiều hay ít mà tại chỗ chân thành của tâm địa. Không phải có tiền, có sức mạnh mới có thể tu công đức lớn, tu công đức viên mãn, như thế người bần tiện không có cơ hội tu rồi. Hiểu biết đạo lý nầy, chúng ta biết tại sao người bần tiện thường hay có thể tu công đức viên mãn, tích lũy tu hành của người giàu sang luôn luôn chỉ được một nữa công đức. Chúng ta thấu hiểu đạo lý, thấu hiểu chân tướng sự thực, mới biết người giàu sang không thể có giàu sang đời đời kiếp kiếp, người bần tiện không thể đời đời kiếp kiếp đều bần tiện, người bần tiện kiếp sau được giàu sang, người giàu sang kiếp sau trở thành bần tiện. Trong một hiện tượng bình thường có thể thấy được, người giàu sang đa số ngạo mạn, người bần tiện đa số khiêm nhường cung kính. Biết kính nhường là đức, ngạo mạn chiết giảm phước báo, cho nên tu cách nào cũng chỉ được một nữa không đạt tới viên mãn.
    Cũng trong việc bố thí, câu chuyện về ngài Lữ Đồng Tân, là một trong Bát tiên. Vào năm Lữ Đồng Tân gặp được Chung Ly. Chung Ly dạy Lữ Đồng Tân một pháp thuật gọi là ‘’Điểm Thiết Thành Kim’’, biến sắt thành vàng. Ông muốn bố thí những người nghèo khổ, khi có bản lĩnh này thì rất tiện lợi. Lữ Đồng Tân liền hỏi tiên sinh Chung Ly: Sau năm ‘’Tôi biến sắt thành vàng, vàng này có thể trở thành sắt không’’, Ngài Chung Ly trả lời: ”Sau năm trăm năm, nó biến thành sắt trở lại”. Lữ Đồng Tân suy nghĩ một hồi, như vậy không phải tôi sẽ làm hại những người sau năm trăm năm? Ông nói: ”Tôi không học pháp thuật này đâu”. Chung Ly tán thán ông: ”Tu thành tiên cần tích lũy ba ngàn công đức, tấm lòng này của ông là lòng tốt, ba ngàn công đức này của ông đã viên mãn rồi”.
    Từ câu chuyện này, chúng ta thấu hiểu một điểm, chư Phật, chư Tiên, đều lấy lòng thương yêu đối với chúng sanh sau trăm ngàn năm, nhất định không có ý niệm tổn thương. Điểm này chúng ta phản tỉnh sâu sắc, cần làm theo. Còn đối với người thời nay thì sao? Họ không có tấm lòng như vậy, họ không có trách nhiệm, người trước mắt họ còn dám làm hại, huống hồ hại người năm trăm sau. Điều quan trọng trong bố thí nơi lòng chân thành, lòng thanh tịnh, lòng từ bi, bố thí một quan tiền có thể tiêu trừ tội ác ngàn kiếp. Từ chỗ này chúng ta biết, bố thí không ở nơi nhiều hay ít mà ở nơi tâm niệm, tâm chân thành. Nếu tâm niệm không chân thành, tuy cúng dường hoàng kim vạn lượng 'vàng bạc vạn ức', phước chỉ một nửa không tròn đầy.
    Trong lúc giúp ích cho đời, chúng ta không nên khởi tâm mong cầu danh lợi hay phước báo và cũng chẳng phân biệt giữa người bố thí và kẻ thọ thí mà chỉ vì lòng từ mẫn và bổn phận mà thôi. Được như vậy thì lòng vị kỷ tham lam sẽ dứt hẳn. Phương cách thứ hai dùng tâm tưởng nhớ chơn chính để xét rằng vạn vật trong thế gian như làn mây bọt nước, dễ tan dễ rã. Đến như thân xác của ta do bốn chất: đất, nước, gió, lửa hợp thành nên không thể giữ mãi được mà một ngày nào đó nó sẽ tan biến” Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ, Vật ở trần như bọt nước làn mây. Thân ta còn rày đó mai đây, Của ấy cũng khi tan khi hợp”. Đã nhận rõ thân xác này không thật của ta thì bao nhiêu gia tài sản nghiệp, vợ đẹp con ngoan hay danh vị tước quyền kia chỉ là ảo mộng và tất đi theo định luật hợp tan. Nếu chúng ta quán xét được như thế, tức màn lưới danh, lợi, tình không còn trói buộc trong luân hồi khổ lụy “Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao” (Khuyến Thiện).
    Bố thí nằm trong “tích lũy công đức”, một ngày có thể làm một việc lành 'nhất hành nhất thiện'. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đừng keo kiết tiền tài, nên ưa thích bố thí. Bố thí tức là đem ý niệm keo kiết buông xuống. Đừng sợ ai chê cười, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    “Mặc ai nhạo báng khinh khi,
    Phần ta niệm chữ từ bi độ đời”

    Sám Giảng.

    Có người không rõ đạo lý này, chê cười như vậy là họ hiểu lầm. Có một loại người vì ganh tị, cố ý chướng ngại để phá hoại. Bất luận họ dụng tâm như thế nào, chúng ta đều không lo ngại, không để ý; y cứ của chúng ta là kinh giáo, là dạy dỗ của Phật Đà, y giáo phụng hành. Cho nên tuyệt đối không ngại người khác chê cười, lòng tin chúng ta nhất định không lung lay, lại càng nỗ lực gắng lên. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng khuyên tấn chúng ta: “Ta nên bố thí, nhẫn nhục, trì giới (để độ tham, sân, si) (trích Lời Khuyên Bổn Đạo). Giúp đỡ người khác phải làm gì chủ yếu? Giúp họ khai trí huệ, phải lấy chỗ này làm chủ, mới thật sự từ bi cứu giúp chân chính. Giúp họ lìa khổ được vui, vĩnh viễn thoát luân hồi, như vậy mới cứu họ, giúp họ. Giúp họ, không phải thiếu áo tặng áo để mặc, thiếu ăn tặng đồ ăn để ăn; chúng ta cứu họ một thời, nhưng không cứu họ được đời đời. Chúng ta giúp họ đời này, đời sau ai đến giúp. Cho nên trong việc khuyên người giàu lòng phước thiện, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Giúp người đói khó nhu mì,
    Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.

    Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện

    “THIỆN ÁC”: Xưa kia một số học trò đến thỉnh giáo Thiền sư Trung Phong, nhà Phật nói về “Thiện Ác”, bảo rằng “cái báo thiện ác, như bóng theo hình”. Hiện nay thấy có người làm thiện, nhưng gia đạo suy sụp; ngược lại có người làm ác, gia nghiệp hết sức hưng thịnh. Nhìn thấy hiện tượng như vậy, có thể nhận thấy báo ứng thiện ác của nhà Phật, là giả, không phải thật. Thiền sư Trung Phong trả lời, Ngài nói: “Phàm phu, tình thức chưa đoạn sạch, phiền não tập khí vẫn còn, trí tuệ chưa có, đạo nhãn chưa khai, đem thiện cho là ác, đem ác cho là thiện, những thứ thị phi điên đảo này, luôn luôn xảy ra. Chính mình không biết phản tỉnh, không biết hồi đầu, ngược lại oán trời trách người, bảo rằng ông trời không công bằng, không có báo ứng, như vậy là sai.” Lời nói này của Thiền sư Trung Phong rất hay, rất chính xác.
    Như chúng ta đây, người chân chính hiểu biết thiện ác mới biết đoạn ác tu thiện, vì chúng ta thực sự chưa hiểu biết sâu xa hai chữ này. Ý nghĩa hai chữ này sâu rộng, cho nên những người học trò hỏi Thiền sư Trung Phong: “Theo nhận xét của ông, thế nào là thiện? Thế nào là ác?”
    Thiền sư Trung Phong trả lời: “Đánh người mắng người là ác, tán thán người, lễ kính người là thiện, bạn nói có đúng không?”
    Họ đều gặt đầu, trả lời: ”Phải, đúng như vậy.”
    Thiền sư Trung Phong bảo: “Sai rồi, bạn chỉ nhìn trên sự tướng, trên tướng hiện, bạn không quan sát kỷ càng. Nếu người này với tấm lòng chân chính thương mến bảo vệ, đánh họ, mắng họ là bảo họ hồi đầu, cái đánh mắng đó là thiện. Tán thán họ, lễ kính họ, nếu là để nịnh hót họ, để cầu khẩn họ, để lo lót họ, đó là ác. Chỉ dựa vào bên ngoài trên hình thức bạn không nhìn ra, bạn phải vào sâu nhận xét, bạn mới biết thế nào là thiện, thế nào là ác.”
    Các học trò này hỏi thêm: “Tham tài, vọng thủ là ác, liêm khiết, có thao thủ là thiện.” Đây là nhìn vào bề ngoài.
    Thiền sư Trung Phong lắc đầu, trả lời: “Chưa hẳn như vậỵ”
    Thiện ác có một tiêu chuẩn, không phải tiêu chuẩn rất cao, là tiêu chuẩn thông thường. Chúng ta phải biết, phàm có ích lợi đối với người, có ích với xã hội, có ích với chúng sanh, gọi là thiện; phàm có ích riêng cho bản thân mình tức là ác. Nịnh hót người, dùng lời lẽ dịu ngọt để lấy lòng kẻ khác, lễ kính như vậy là ác vì cầu danh văn lợi dưỡng cho riêng mình, đây là tư, không phải công. Cho nên niệm vì lợi ích chúng sanh, lòng này là lòng thiện, là lòng tốt, quyết không có tư dục trong đó, quyết không mong cầu báo đáp, đây là chân thiện. Hơn nữa làm thiện không có điều kiện, không có điều kiện là chân thiện, có điều kiện là giả thiện.
    Chúng ta phải mạnh tin nơi luật nhơn quả, hể ai chứa điều hiền lương đạo đức thì gặp điều phúc lành đưa đến, bằng chứa hung ác, ắt các tai họa đeo đẳng bên thân và kéo mãi đến đời sau, bởi “Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”(Giác Mê Tâm Kệ). Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng dạy:

    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.

    Khuyến Thiện

    LỄ KÍNH CHƯ PHẬT: Phật dạy người, không gì khác hơn để khôi phục tánh đức. Tánh đức là những gì chúng ta vốn đã có, nhưng hiện tại chúng ta bị mê, trí tuệ đức năng không thể hiện tiền, vì mê hoặc, ngu si. Từ trong si mê dậy lên vọng tưởng phân biệt chấp trước, thị phi, nhân, ngã, tham, sân, si, mạn. Những thứ này đang tạo nghiệp, phá hoại hoàn cảnh tự nhiên, làm cho đức năng vốn có trong tự tánh của chúng ta nảy sinh chướng ngại, không thể hiện tiền. Phật gọi những người này là phàm phu. Chỉ cần chướng ngại này tiêu trừ, thì đức năng trí tuệ khôi phục trở lại. Phật, Bồ Tát khác chúng sanh tại chỗ này. Chúng ta cần tin lời Phật dạy, lý giải lời nói của Phật, làm theo lời dạy của Phật, thì có thể khôi phục tánh đức. Tánh đức là lòng kính trọng, kính ái; dùng sự kính ái chân thành đối đãi tất cả chúng sanh, không còn phân biệt nữa, không còn chấp trước, đây là lưu xuất của tánh đức, đó chính là “Lễ kính chư Phật”. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khỗ hải” và “Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài”(trích “Ân Tam Bảo”).


    NIỆM PHẬT: Trong Phật pháp, pháp môn niệm Phật là khắc kỳ cầu chứng (khắc kỳ là hạn định). Trong kinh đưa ra, thí dụ “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật đến nhược thất nhật”. Kinh Đại thừa thường hay nói tới mười ngày, trăm ngày, mới thấy rõ rệt về hậu quả. Trong Tịnh Độ tông, chúng ta thường nghe pháp sự Phật thất có bảy ngày (Phật nói bảy ngày trong kinh điển là bảy ngày đêm). Hiện nay chúng ta có niệm Phật bảy ngày, nhưng thực ra công phu của chúng ta còn lơ là, không làm đúng hoàn toàn, phải bảy ngày, bảy đêm. Bảy ngày đêm một lòng nhất trí, nhứt định có cảm ứng, có thành tựu. Phải thật sự vạn duyên buông xuống, công phu mới có thể đắc lực. Có một chút tạp niệm thì công phu không thể đắc lực. Chỉ một mảy may xen tạp, trong lòng không thể buông xuống, rất nhiều chướng ngại sẽ xuất hiện, chúng ta gọi là ma chướng. Không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước, câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, chúng ta niệm đến cùng thì có gì làm ngăn trở chúng ta không đắc lực.
    Người xưa bảo tình dục sinh ra từ chỗ cực kỳ bé nhỏ, dễ chế ngự vào lúc vừa nảy sinh. Tổ sư Đại đức Tịnh Độ tông dạy chúng ta, một niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” có thể đánh mất ý niệm nhỏ bé này, Đức Tôn Sư HUỲNH GÁO CHỦ dạy: “Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp, Thuyền từ Thầy rước lại non Bồng.”Kinh điển thường nói, chúng ta trong vòng luân chuyển từ kiếp này qua kiếp khác, không thời hạn thoát ra khỏi, khổ vô cùng. Đời này gặp Phật pháp và được pháp môn Tịnh Độ tông, một pháp môn tối thù thắng, như vậy chúng ta có cơ hội siêu việt (vượt qua) lục đạo luân hồi, có cơ hội thoát ly thập pháp giới.
    Chúng ta có thoát ly được hay không là do tại một niệm. Niệm này cần phải giữ cho được, niệm niệm giác ngộ. Kinh điển dạy niệm Phật là để giữ cho được niệm giác ngộ. Tại sao người niệm Phật thì nhiều nhưng không thể thành tựu? Chỉ vì chúng ta không biết lợi hại, được mất, cho nên ý niệm vẫn nối liền với ngũ dục lục trần, không thể buông xuống triệt để, như vậy bỏ lỡ cơ hội trong đời này. Tại sao chúng ta phải đọc Kinh Giảng và cầu nguyện? Đạo lý này rất đơn giản, tức là sợ chúng ta quên, nhất thời không cẩn thận, lại làm việc sai trái nữa. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy chúng ta luôn luôn ghi nhớ lời Phật dạy bằng phương cách công phu hai thời cúng lạy hằng ngày trước ngôi Tam Bảo và bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ: “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi, Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.”
    Niệm Phật vãng sanh bất thối thành Phật, đây là chuyển biến thù thắng không gì sánh bằng. Chúng ta phải hiểu rỏ, không những buông xuống thế duyên, Phật pháp cũng phải buông xuống, tám vạn bốn ngàn pháp môn, hoàn toàn buông xuống, lấy tấm lòng thanh tịnh không gì hơn, tín nguyện niệm Phật, đời này của chúng ta mới có thể thành công “Rán cần chuyên niệm Phật làm lành” (Khuyến Thiện).
    Niệm Phật không thể vãng sanh, nguyên nhân từ đâu? Nguyên nhân chúng ta không buông xuống, trong lòng của chúng ta vẫn còn nghĩ nhớ vấn vương, vẫn còn các loại ngoại duyên dụ dỗ, bên trong, bên ngoài đều không thanh tịnh thì làm sao có thể vãng sanh. Cho nên người tu, cuộc sống càng đơn giản càng tốt “Cõi hồng trần các việc mến ưa, Sự giả tạm ta nên rứt bỏ” (Giác Mê Tâm Kệ) và Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng dạy: ”Niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh, vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt; vì cái vọng niệm về việc thế trần ấy mà không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che, chân tâm mờ ám. Nên nay, hể thành tâm niệm Phật, thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nảy sanh ra được?
    “Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trượt nhiễm trần ai. “Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp)” (trích chư Phật có bốn đại đức).
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: "Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc”(trích “Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia”).
    Pháp sư Quán Đỉnh Từ Vân nói: “Chúng sanh tạo tác nghiệp tội cực nặng, ngũ nghịch thập ác, nghiệp tội mà tất cả kinh luận tiêu trừ không nổi, sau cùng vẫn còn một câu Nam Mô A Di Đà Phật, có thể trừ diệt”. Từ đó chúng ta mới biết một câu Nam Mô A Di Đà Phật này, vượt hẳn ngàn kinh muôn luận, vượt hẳn tất cả lời chú, là chú của các chú, kinh của tất cả các kinh, không gì có thể thù thắng hơn câu Phật hiệu này. Tiếc thay vẫn có người chưa tin, cho rằng câu “Nam Mô A Di Đà Phật quá dễ dàng, quá đơn giản, sợ rằng không hiệu quả, rồi tìm kiếm những thứ khác xen vào. Vãng sanh quyết định bởi “Có tín nguyện hay không”, không có chân tín thiết nguyện, phẩm vị vãng sanh sẽ tuột giảm.
    Niệm Phật là để tu định, nghe kinh là để tu huệ. Tuy mỗi ngày niệm Phật, nghe kinh, công phu vẫn không đắc lực, rốt cuộc sự thiếu sót đó sinh ra từ chỗ chúng ta không chịu làm theo. Niệm Phật tâm không có Phật; miệng thì niệm Phật, lòng thì chế tạo vọng tưởng, công phu đương nhiên không thể đắc lực. Tuy ngày ngày nghe kinh, giống như hiểu rõ hết, nhưng không chịu làm theo. Kinh giảng dạy chúng ta bố thí, dạy chúng ta trì giới, dạy chúng ta nhẫn nhục; một việc cũng không làm được, vẫn thuận theo phiền não tập khí trong đời sống hằng ngày, công phu như vậy đương nhiên không thể đắc lực.
    Trong phần cuối của kinh giảng nào cũng dạy chúng ta phải y giáo phụng hành. Chúng ta không làm theo, công phu làm sao có thể đắc lực được. Thế nên khi giải (hiểu) rõ ràng một phần thì làm một phần và cứ như thế tăng lên, cứ hiểu thêm mấy phần thì làm thêm mấy phần. Giải giúp hành, hành giúp giải, làm được như vậy mới có thể đi đến viên mãn. Hiểu mà không hành có ích gì đâu, nên mới có câu “Tri hành hợp nhứt” và nên nhớ “có giải không hành, tăng trưởng tà kiến; có hành không giải tăng trưởng vô minh”.
    Chướng ngại lớn nhất của hành là không chịu buông xuống. Buông xuống không được những gì chúng ta ưa thích, đây là căn bản của chướng ngại, cho nên lòng ham muốn về vật chất, nhất định phải buông xả sạch mới hy vọng vãng sanh.
    HIẾU DƯỠNG PHỤ MẪU: Tu hành bắt đầu bằng chữ “Hiếu”, tới viên mãn vẫn là hiếu đạo. Phật pháp dạy trước sau không nói gì khác hơn thực hành hiếu đạo, tận hiếu mà thôi. Từ đó chúng ta phải nhận thức rõ ràng chữ “Hiếu”, rồi sau đó đem áp dụng vào đời sống. Đó là thực hành hiếu đạo. Đức Tôn Sư dạy:

    Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp
    Mượn Cây Đuốc Huệ
    Hay:
    Mẹ cha là kẻ trọng ân,
    Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu gầy.

    Sám Giảng
    Hay:
    Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc.

    Kệ Dân
    Hay:
    Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,
    Một ngày hiệp mặt lập nền từ bi.

    Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ

    Nếu mọi người chúng ta làm rõ ràng đạo lý này, không người nào không chịu quy y Phật pháp. Quy y Phật pháp là quy y hiếu đạo. Phật pháp là sư đạo, dùng sư đạo để viên mãn hiếu đạo. Hiếu là bản thể, sư đạo là trí tuệ, pháp thân huệ mạng của chúng ta có từ sư đạo.
    Ân đức của cha mẹ đối với chúng ta quá lớn lao, sinh mạng của chúng ta có từ cha mẹ. Cho nên hiếu dưỡng phụ mẫu là thiên kinh địa nghĩa (đạo lý muôn đời không thay đổi), làm được như vậy mới có thể xưng là người . Tu học từ trên cơ sở này mới có thể thành Bồ Tát, thành Phật. Hiếu dưỡng phụ mẫu là dùng lòng hiếu thảo để phụng dưỡng cha mẹ. Thực hiện từ hiếu dưỡng phụ mẫu, sau đó nới rộng hiếu dưỡng đến tất cả chúng sanh. Trong kinh Bồ Tát Giới, Đức Phật nói rõ ràng với chúng ta: “Tất cả nam nhân là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta”. Đây là đem hiếu dưỡng phụ mẫu nới rộng đến hư không pháp giới, như thế mới có thể tận hiếu và bằng mọi cương lĩnh không ngoài chữ “hiếu hạnh”.
    Làm học trò của Phật, không có gì khác, Phật dạy chúng ta đạo hiếu, dạy chúng ta hết lòng hiếu thảo với cha mẹ mà thôi.
    SÁM HỐI: Nếu chúng ta thực sự hiểu rõ đạo lý câu “Pháp từ tâm tưởng sanh”, chúng ta biết khởi tâm động niệm thì chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh. Hoàn cảnh là y báo, y báo chuyển theo chánh báo.
    Chúng ta chuyển đổi hoàn cảnh bằng cách sám hối triệt để, hồi đầu chân chánh, mới có thể cứu vãn “Ai mà xét đến ăn năn, Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm” (Bóng Hồng). Chỉ sám hối ở miệng, không giúp được gì. Sám hối thật lòng, lời nói và việc làm tự nhiên trở đầu theo lành. Bây giờ từ rày trở về sau, lấy lòng tốt thật thà đối người tiếp vật, thương người, thương vật, tấm lòng không cầu đền bồi, hết lòng hết sức bố thí cúng dường tất cả chúng sanh, như vậy mới là sám hối chân chính “Chữ tự hối nào ai có lạ, Là ăn năn cải sửa tâm lành” (Giác Mê Tâm Kệ). Chúng ta biết rằng “người không phải thánh, ai không có lỗi, lỗi mà biết sửa, không gì thiện bằng”. Việc tu hành của thế gian pháp và Phật pháp, không có gì khác hơn là sửa lỗi. Chúng ta mỗi ngày phản tỉnh, biết lỗi nhất định sửa. Biết được tức là khai ngộ, đem lỗi lầm sửa chửa cho đúng gọi là tu hành.
    HÓA CHÚNG: Trong việc phục vụ chúng sanh, chúng ta phải làm được “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, nghĩa là chúng ta phải lìa bỏ được tứ tướng này.
    Người mê ỷ có tiền tài, học vấn, vọng tộc, coi thường hết thảy mọi người, đó gọi là ngã tướng. Tuy có giữ theo khuôn phép, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, nhưng cống cao ngã mạn, đó gọi là nhân tướng. Việc tốt quy về mình, việc xấu đẩy cho người, đó gọi là chúng sanh tướng. Đối cảnh phân bệt yêu, ghét, đó gọi là thọ giả tướng. Hạng phàm phu thường có bốn tướng này.
    Có những cương lĩnh chung để phục vụ chúng sanh:
    TỐT VỚI NGƯỜI: Khi khởi tâm động niệm, là biết lấy lòng tốt đối với người, dùng lòng tốt để xử thế. Dù đối với người ác cũng dùng lòng tốt, lời tốt, hành tốt. Kẻ thù địch cũng dùng lòng tốt, lời tốt, hành tốt; như thế mới xứng đáng là người con Phật. Kinh điển dạy chúng ta ”Nhơn chi sơ, tính bản thiện”(tánh người vốn là thiện lúc ban sơ).
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng dạy:

    Sách Thánh Đạo ghi trong Tam Tự,
    Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
    Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
    Nên tật xấu che mờ thiện tánh.

    Giác Mê Tâm Kệ

    Tại sao họ làm ác, bởi vì họ còn mê chưa giác. Chính họ cũng không biết, nhưng chúng ta rất rõ. Họ lấy lòng ác, hành ác đối đầu với chúng ta. Chúng ta không thể lấy lòng ác, hành ác đối đãi với họ. Với lời khuyên dạy của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cho bổn đạo trong thời kỳ Nhật đảo chánh Pháp:"… trước kia chúng nó hà khắc ta, chúng nó đành; ngày nay ta hà khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự hung tàn, còn lòng ta lại đầy nhân ái…” Nếu chúng ta luôn luôn giữ tấm lòng như vậy, không thể có việc họ và ta không thể sống chung nhau được. Giả dụ như người ta không thể sống chung với tôi, đừng trách người ta, phải quay đầu trở lại chính mình phản tỉnh tại sao người ta không thể sống chung với tôi, nếu mình không có lỗi, “Bắt lỗi người phải xét lỗi mình”(Giác Mê Tâm Kệ).
    Luôn luôn phản tỉnh đừng đổ lỗi cho người khác, phải tìm hiểu đúng lý lẻ để xem mình có lỗi lầm hay không và sai lầm này ở đâu. Dùng lòng tốt và hành tốt đối với người khác, đối với oan gia, đây là việc làm rất khó; phải bắt tay từ chỗ này làm lên, chúng ta mới thật sự giác ngộ chân chính.
    *HẾT LÒNG YÊU KÍNH: Xã hội loài người có nhiều quần thể khác nhau, tôn giáo khác nhau, thường hay hiểu lầm ngăn cách, nguyên nhân là khi đối với quần thể khác, tôn giáo khác không có sự hết lòng yêu kính. Nếu đối với quần thể khác, tôn giáo khác, vẫn còn phân biệt, vẫn còn chấp trước, chúng ta không bao giờ chứng được pháp thân, vì hư không pháp giới tất cả chúng sanh là một thể, là chính mình, không yêu kính người khác tức là không yêu kính chính mình, như vậy chúng ta không thể viên thành Phật đạo. Kinh điển nhà Phật dạy chúng ta đừng tin tưởng ý tứ của mình, không nên tin tưởng kiến giải của chính mình, không nên tin tưởng tư tưởng của mình. Khi nào chúng ta đoạn xong kiến tư phiền não, không còn “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”, như trong kinh Kim Cang nói rõ ràng cho chúng ta. *HOAN HỶ VIỆC NGƯỜI LÀM TỐT: Có người làm việc tốt, chúng ta nhìn thấy, nghe được, nhất định không ganh tị, nhất định không làm hại, phải phát tâm tùy hỷ công đức, hết lòng hết sức giúp đỡ họ, giúp họ thành công tức là giúp mình thành công, thành công đức hạnh của chính mình. Người khác, bất luận người nào, làm sự nghiệp từ thiện xã hội, chúng ta đều tán tụng, vui mừng, tùy hỷ công đức, thành nhân chi mỹ, không thành nhân chi ác.
    *KHUYÊN NGƯỜI LÀM THIỆN: Không những khuyên người bằng miệng, còn phải khuyên thân. Khuyên bằng miệng là dùng lời nói, viết thành sách, cũng là khuyên bằng miệng. Nhất định phải dùng thân thể ra sức để làm, làm ra một gương tốt, đây là khuyên bằng thân. Việc đầu tiên khuyên bằng thân biểu hiện bằng cách giữ gìn ngũ giới trong nhà Phật. Chúng ta đoạn ác tu thiện không sát sanh bằng hành vi không ăn thịt các loại động vật, chỉ dùng thuần rau quả là thể hiện lòng từ bi thương người mến vật. Rồi đến không gian tham, không tà dâm, không vọng ngữ, không say sưa.
    *CỨU NGƯỜI CẤP BÁCH: Việc cứu người trong cơn nguy cấp là phải biết ngừa trước khi xảy ra, cũng giống như việc ngừa bịnh phải thực hiện trước khi bịnh phát ra.
    Những việc nguy cấp nảy sinh đều từ tạo tác nghiệp ác. Như vậy cứu người nguy cấp là việc cần thiết, tức là dạy họ đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ; từ đó nguy cấp mới có thể tiêu trừ. Nhưng chúng ta nghĩ lại xem, dạy người ta đoạn ác tu thiện, chính mình không đoạn ác tu thiện, người ta làm sao tin? Khuyên người ta chuyển mê thành ngộ, chính mình vẫn còn mê, người khác làm sao có thể giác ngộ? Cho nên chư Phật, chư Bồ Tát là những tấm gương tốt vì mọi việc đều từ chính bản thân làm nên. Các Ngài dạy chúng ta buông xuống danh căn lợi dưỡng, chính các Ngài làm được rồi, du hóa nhân gian, lục căn thanh tịnh, nhất trần bất nhiễm. Chúng ta cảm nghĩ như thế nào khi chúng ta nhìn thấy từ tấm gương này, có giác ngộ được chăng? Nếu chân chính giác ngộ, nhất định hoan hỷ làm theo, như vậy là giác ngộ rồi. Còn như chúng ta chưa làm nổi, chưa giác ngộ, ngay cả ý niệm chưa chuyển; hơn bao giờ, việc đầu tiên phải chuyển ý niệm trở lại (chuyển mê thành ngộ), rồi sau đó lần lần học tập làm theo.
    Trong chúng ta cũng có nhiều người rất muốn tu Bồ Tát đạo, học Bồ Tát hạnh, nhưng tiếc thay học không giống. Nguyên nhân từ lòng tham chưa chuyển, vẫn còn tâm mê, vẫn sống trong tình chấp như xưa. Cho nên việc tu học gian nan, dễ dàng thối chuyển.
    Chính vì nguyên nhân trên, nên chư Phật, chư Bồ Tát mới thị hiện giảng kinh nói pháp để làm hình tượng thứ nhứt. Mục đích giảng kinh nói pháp là để giúp phá mê khai ngộ; khai ngộ rồi việc gì làm cũng dễ. Chưa ngộ quá khó. Vì vậy trong Phật pháp tu theo các tông phái, người tu học ngộ rồi mới tu, ngoại trừ tông phái Tịnh Độ, giải hành cùng tiến một lúc. Đặc thù của Tịnh Độ tông, chưa ngộ, cũng có thể dùng câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” này huân tu thực niệm, vừa niệm Phật, vừa cầu giác ngộ song song tiến hành. Đừng nghĩ người niệm Phật không cần cầu giác ngộ. Đối với người phát tâm hoằng pháp, không giác ngộ lấy gì để hoằng pháp, lấy gì để dạy người. Cho nên giác ngộ rất quan trọng. Chân chính giác ngộ, chúng ta mới có khả năng cứu người nguy cấp.
    TU PHƯỚC: Người thế gian ai cũng thích tài phú, không bao giờ biết đủ. Tiền tài để dành một chỗ không biết dùng nó đó chỉ là tạo nghiệp “Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân” (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Thế giới ngày nay vẫn còn rất nhiều địa phương, dân chúng đang lâm cảnh đói khát, chúng ta vẫn cứ để dành, nhìn người khác bị đói, làm sao chúng ta tu phước được. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Ngày nay tốt phước sang giàu, Xin thương kẻ khó giúp hào một khi” hay “Khá thương những kẻ bần cùng, Tâm lành dư của hãy dùng vào đây” (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).
    Đối với tài vật, Cổ Thánh Tiên Hiền dạy chúng ta cần phải lưu thông mới có thể lợi ích chúng sanh, cho nên quyết không thể để dành. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    “Con hiền khá sớm hồi quy,
    Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân.
    Dòm xem kẻ khó tảo tần,
    Rộng tâm san sớt dắt lần với nhau”

    Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện.

    Của cải tiêu dùng vào việc từ thiện, tâm chúng ta trở nên thanh tịnh, tự tại biết bao, khỏi phải “Sợ gian phi trộm cướp rình mò” (Khuyến Thiện), lại được tiếng “hảo tâm nhơn”, “Chết rồi bỏ của bơ vơ, Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời” (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).
    Trong việc bố thí, người ta gọi là xả tài, đồng thời chúng ta nên suy nghiệm hai chữ “xả đắc”. Hai chữ này có hai ý nghĩa, thứ nhứt nói về nhân quả, xả tài là nhân, đắc tài là quả báo. Nhưng sau khi đắc tài cần phải xả, đem những gì chúng ta thu hoạch được bố thí, như thế chúng ta sẽ khai trí tuệ. Cho nên xả pháp được thông minh do trí tuệ; chúng ta nghĩ xem xả gì được nấy, nhân quả báo ứng chẳng sai.
    Chư Phật, chư Bồ Tát vì chúng ta thị hiện mọi cách, trong thị hiện nhiều nhất, rõ ràng nhất là bố thí tức là xả. Kinh pháp dạy chúng ta tất cả đều có thể xả, xả cho sạch sẻ, đó gọi là Phật, là Bồ Tát, đó gọi là người thật sự giác ngộ chân chính. Người mê được cũng lo, mất cũng lo “Cầu Chẳng Thành những việc thích ham. Người trên đời ai cũng lòng tham, Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của. Nào vợ đẹp, hầu xinh, là lụa, Không được thì bực tức ưu phiền. Cả tâm thần điêu đứng đảo điên, Vậy có phải khổ hay là chẳng?”(Khuyến Thiện). Cuộc sống được mất của người thế gian này nghĩ thật đáng thương bị lưới mê ràng buộc. Chư Phật, chư Bồ Tát trong lòng không có ý niệm được mất, niệm niệm vì tất cả chúng sanh. Chúng ta giúp tất cả chúng sanh, phục vụ tất cả chúng sanh, nhưng tứ tướng “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng" chúng ta chưa buông xuống, thì chúng ta vẫn chưa buông xả, những gì chúng ta tu chỉ là phước báo thế gian, không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nếu chúng ta đem tứ tướng xả bỏ, phát tâm phục vụ chúng sanh vô điều kiện, làm như vậy, chúng ta đang thực hành vai trò của đại thánh xuất thế gian, chúng ta chính là Phật, là Bồ Tát. Một khi xả tài làm phước, chúng ta đừng sợ rằng “Tiền tài của tôi bố thí hết rồi, ngày mai sống bằng cách nào?” Cuộc sống ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay nếu chúng ta tin như vậy, bằng ngược lại, nếu chúng ta không tin thì không biết phải làm sao bây giờ? Nhưng khẳng định một điều tất cả chúng ta đều biết đạo lý này, đạo lý nhân quả báo ứng, thiện quả thiện báo, ác quả ác báo chẳng sai.
    HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP: Trong Phật pháp, tương ưng với vũ trụ nhân sinh gọi là chánh pháp, đi ngược lại chân tướng sự thật là tà pháp, cho nên Đức Tôn Sư HÙYNH GIÁO CHỦ khuyên: “Tà với chánh còn đang trà trộn, Người muốn tu hãy rán lọc lừa”(Giác Mê Tâm Kệ). Muốn nhận ra chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh phải thường đọc tụng đại thừa kinh luận thì không phải dễ hiểu cần phải suy nghiệm nhiều. Nói như vậy, dù phức tạp, nhưng cũng có đầu mối để theo. Kinh Kim Cang nói với chúng ta, chân tướng sự thật là gì? Chính là “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô chúng sanh tướng”, đó là chân tướng sự thật. Ngược lại nếu chấp có “ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”, như thế là sai. Tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm là nguyên nhân của thiên tà. Phật dạy chúng ta “mộng ảo bào ảnh” là chân tướng sự thật. Tồn tại của hiện tượng này là “như sương như điện” không tồn tại lâu dài. Nếu chúng ta hiểu thấu nó rõ ràng, minh bạch, chúng ta sẽ được tự tại. Phàm phu không biết sự thật này, phân biệt mình, phân biệt người, cho nên Đức Tôn Sư HÙYNH GIÁO CHỦ khuyên: “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt” (Tỉnh Bạn Trần Gian). Mỗi khi ý niệm đều dùng tâm mê làm chuyện hồ đồ để lợi mình, làm tổn hại người; thế nên, hộ trì chánh pháp, việc trước tiên phải biết chân tướng sự thật, phải hộ trì đức tánh của chính mình. Người học đạo, đặc biệt là người học Phật; học Phật là học giác ngộ, học chân thành, học thanh tịnh, học từ bi bình đẳng. Học từ bi, người thứ nhứt chúng ta thương là chính mình, bảo vệ lòng thiện của chính mình, bảo vệ hành thiện của chính mình, như thế mới gọi là hộ trì chánh pháp. Bảo vệ bằng cách chúng ta phải buông xuống ý niệm tự tư tự lợi, buông xuống ý niệm kềm chế chiếm hữu người, vật, lẫn sự việc; như thế tâm của chúng ta thanh tịnh, chân tâm mới lộ ra. Nếu như chúng ta vẫn còn một chút ý niệm, tâm chúng ta dùng là vọng tâm, tâm hư dối, không phải chân tâm. Chư Phật, chư Bồ Tát dùng tâm thuần chân đối với tất cả mọi người, tất cả sự, tất cả vật vì lợi lạc của chúng sanh. Vì các Ngài đã giác ngộ, các Ngài hiểu biết tất cả chúng sanh tức là chính mình. Nếu chúng ta minh bạch, hiểu thấu, tự nhiên có thể hoan hỷ y giáo phụng hành, nhận chân học tập. Học tập trong sinh hoạt, học tập trong xử thế đối người tiếp vật.
    THƯƠNG TIẾC MẠNG SỐNG, KHÔNG SÁT SANH ĐỘNG VẬT: Nho giáo, Phật giáo đều khuyên dạy chúng ta phải biết “ái tiếc vật mệnh”, vật mệnh nầy đặc biệt để nói mạng sống của động vật. Câu này với hàm ý không sát sanh, không ăn thịt chúng sanh là tiếc phước. Phật nói trong kinh, chúng ta ăn nó tám lạng, sau này phải trả nó nửa cân. Đừng nói rằng ăn xong không gì đâu, ăn rồi phiền phức lắm. Đời này chúng ta ăn bao nhiêu thịt động vật, chúng ta phải dùng bao nhiêu đời mới có thể trả hết món nợ này. Chúng ta cũng đã nghe câu “thân người khó gặp nhưng dễ mất”, mất thân người rồi, muốn được trở lại không dễ dàng. Đơn giản chúng ta hiểu, kiếp này chúng ta ăn hết bao nhiêu thịt chúng sanh, kiếp sau trở thành súc sanh, đời đời kiếp kiếp làm súc sanh để đền bồi, trả xong hết rồi, mới có thể được thân người trở lại. Chúng ta nghĩ xem, quá ư phiền phức.
    Một điều chúng ta cũng nên quan tâm, những gì thiếu người ta trả cho sớm, trả cho thoải mái, trên đường bồ đề chúng ta sẽ không còn chướng ngại, vãng sanh đi một cách tự do, đi một cách tự tại, oan thân trái chủ không đến làm khó, chư Phật hộ niệm, Long Thiên Thiện Thần che chở.
    Thánh nhân xuất thế gian dạy chúng ta nuôi dưỡng tâm từ bi. Thương tiếc các loài động vật lớn và nhỏ. Riêng loài động vật nhỏ, đó cũng là một sinh mạng, nó nhận lấy một thân thể nhỏ bé như vậy bởi vì quá khứ tạo nghiệp bất thiện. Nghĩ lại trong thời quá khứ cuả chúng ta cũng chẳng khác gì chúng đã nhận lấy không biết bao nhiêu lần giống như nó. Thân tướng nhỏ bé cở nào, cũng là một thần thức, làm sao có thể giết hại? Không những không giết hại, làm cho chúng phiền não, chúng ta cũng có lỗi.
    Trong kinh Lăng Già, Phật khuyên mọi người, đừng ăn thịt chúng sanh. Trong kinh Phật nói rõ ràng, căn nguyên của chiến tranh thế gian là do ăn thịt chúng sanh, oan oan tương báo, không cùng tận. Nhưng người thế gian ngày nay ít ai tin lời như vậy. Nếu chúng ta có khuyên người ta, người ta nói chúng ta mê tín, cười mỉa mai, cũng cam chịu biết làm sao bây giờ.
    Động vật dù có nhỏ bé cở nào đi nữa cũng giống hệt như con người, nó không may bị luân hồi với cái thân tướng như vậy, chúng ta quyết không thể thấy nó nhỏ yếu mà ăn hiếp nó, việc làm này là sai lầm. Trong kinh, Phật có nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, rõ ràng không những nó có linh tánh, mà còn có Phật tánh. Đã có Phật tánh, đương nhiên có thể thành Phật, chúng ta làm sao có thể hại Phật? Làm sao có thể giết Phật? Chính chúng ta tu hành để muốn thành Phật, còn đi hại Phật, giết Phật, chúng ta làm sao thành Phật cho được. Cho nên Phật chế ra giới luật, điều thứ nhứt là không sát sanh. Vậy chúng ta là người tu hành, khi nhìn thấy những động vật dù bé nhỏ, chúng ta không nên giết hại hay làm chúng sợ sệt. Với tâm từ bi, chúng ta nên chấp tay niệm Phật, làm lễ tam quy cho chúng nó: “Quy y Phật, không đọa địa ngục; quy y Pháp, không đọa ngạ quỷ; quy y Tăng, không đọa bàng sanh (súc sanh)”. Thật sự ba câu này chúng ta thường hay quên; ba câu này là lời chúc phúc chúng nó. Tuy chúng nó lời nói không biết, nhưng linh tính quán thông. Tấm lòng chí thành của chúng ta, chúc phúc chí thành, chúng nó thiết thực cảm nhận được.
    Tâm chân thành phải bồi dưỡng, không phải chỉ một sự việc trong ngày, “Chân thành tâm, thanh tịnh tâm, bình đẳng tâm, chánh giác tâm, từ bi tâm”, đây là tâm chân thành của chúng ta, đức tánh của tự tánh chúng ta có sẵn; chư Phật, chư Bồ Tát có; tất cả chúng sanh đều có. Đối với chư Phật, chư Bồ Tát, đức tánh của các Ngài hiện ra, là đức tánh tự tại; đức tánh của chúng ta bị chôn dấu trong phiền não tập khí, tuy có, nhưng không khởi tác dụng. Cho nên chư Phật, chư Bồ Tát dạy chúng ta phải khắc phục phiền não, khắc phục chướng ngại, để đức tánh hiện ra.
    Căn tánh của mỗi người khác nhau, người với thiện căn sâu dầy thì dễ. Người có thiện căn sâu dầy, khi nghe thì hiểu ngay, họ có thể làm nổi. Người có phước đức sâu dầy, tuy chưa thông đạt đạo lý, nghe xong, cũng sinh lòng hoan hỷ, chịu làm theo. Chúng ta ngày ngày nghe kinh, đọc tụng, nhưng không làm nổi; chính chúng ta phải biết, thiện căn, phước đức của chúng ta còn quá mỏng manh. Vậy chúng ta phải nghe thêm, đọc thêm, nuôi dưỡng thiện căn phước đức cuả mình. Duyên thành thục rồi, tự nhiên hoan hỷ triệt để không sát sanh, làm tới cứu cánh viên mãn. Không những không sát hại chúng sanh, quyết không làm chúng sanh phiền não. Không sát hại chúng sanh, được quả báo sống lâu; không phiền hại chúng sanh, được quả báo khoẻ mạnh an lành. Khoẻ mạnh an lành thì thân tâm an lạc, một người đời sống không có chuyện buồn phiền, chuyện phiền não thì là người khoẻ mạnh an lành. Khoẻ mạnh an lành là quả báo, bởi không muốn làm tất cả chúng sanh sinh phiền não, nhân nào quả nấy, tơ hào không sai.
    Chúng ta phải làm việc tốt, phải dầy công, nhiều người ganh ghét, nhiều người muốn chướng ngại, người phá hoại nhiều. Chúng ta biết hạng người đó đang tạo nghiệp chướng. Chúng ta quyết không nên vì sự hủy báng hay nhục mạ của họ mà bỏ việc không làm nữa, nếu như vậy chúng ta bị ma vương khuất phục. Chúng ta làm tiếp tục, quyết không buông, chúng ta vì lợi cuả chúng sanh, cho xã hội, không vì lợi ích cho riêng mình. Họ tạo nghiệp tội cuả họ, chúng ta làm công việc chúng ta phải làm, như vậy mới đúng.
    Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương trong sáng của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ, trên con đường khai hóa nhơn sanh dầu cho người đời có nhạo chê phỉ báng, Ngài vẫn không màng. Lúc nào Ngài cũng lấy lòng từ bi đối với vạn loại chúng sanh và hằng lo cứu độ. Ngài khuyên bá tánh, ai muốn sau này được diện kiến Phật Trời, thì nay hãy nhe theo lời răn dạy cuả Ngài:

    Mặc ai nhạo báng khinh khi,
    Phần ta niệm chữ từ bi độ đời.
    Muốn xem được Phật được Trời,
    Thì là phải rán nghe lời dạy răn.

    Sám Giảng

    Chúng ta làm đúng, hành đúng, sẽ được Tam Bảo gia trì. Thường thường trong cuối Giảng Kinh, chư Phật, chư Bồ Tát có lời chúc phúc chúng ta. Phật nguyện chúng ta thọ mạng lâu dài, chăm chỉ làm tất cả thiện pháp; chúc chúng ta đủ trí tuệ, phước đức, có thể giúp tất cả chúng sanh qua cơn khổ nạn. Trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ chúc vạn dân bá tánh:

    Tới đây cũng dứt giảng kinh,
    Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.
    Nam mô lòng sở nguyện cầu,
    Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan.

    Sám Giảng
    Hay:
    Tỏ ít câu cầu chúc cho đi,
    Mong bá tánh vạn dân giải thoát.

    Giác Mê Tâm Kệ
    Hay:
    Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát.

    Khuyến Thiện

    Chúc phúc cuả chư Phật, chư Bồ Tát chúng ta có tiếp nhận không? Những lời chúc phúc, văn tự chúc phúc, chúng ta nghe xong, thấy rồi, nếu không để ý tới, bao giờ khởi tác dụng. Thế nào gọi là để ý tới? Nghe xong, thấy rồi, lưu giữ trong ý thức cuả chúng ta. Chúng ta phải ghi nhớ, luôn luôn phải thấu đáo, thiết thực cố gắng phụng hành, đem nó thực hiện trong đời sống, như vậy lời cúc phúc cuả chư Phật, chư Bồ Tát, chúng ta mới thực sự tiếp nhận. Cho nên tất cả nghĩ vì chúng sanh, nếu vì riêng mình thì hoàn toàn sai lầm. Với tâm nguyện chân thành cuả chúng ta thì tương lai sẽ sáng tỏ:

    Nữ nam muốn rõ âm hao,
    Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường.

    Khuyến Thiện

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô A Di Đà Phật

    Ngày 28 tháng 4 năm 2017
    Cư sĩ PHAN THANH NHÀN[
     

Chia sẻ trang này