Chú giải cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn Đạo

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Ngoctruc, 19/1/15.

  1. Ngoctruc

    Ngoctruc Member

    Chú giải cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn Đạo
    (Quyển Thứ Sáu)
    XUẤT XỨ - VĂN THỂ - NỘI DUNG

    Quyển thứ sáu xuất xứ từ phần nhứt “SẤM GIẢNG GIÁO LÝ” trong “THI VĂN GIÁO LÝ TOÀN BỘ”, do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác khoảng tháng 5, năm Ất Dậu (1945) lúc còn ở Sài Gòn.
    Ngài viết Quyển Sáu bằng thể văn xuôi, lối thuyết giáo. Còn bài “Lời Nói Đầu”, trước kia là một văn thư Đức Giáo Chủ viết gởi kèm theo Quyển Sáu và có ký biệt danh là “HÒA HẢO”.

    Nội dung bài “Lời Nói Đầu” Đức Thầy cho biết các lý do khiến Ngài sáng tác và khuyên mọi người cần gìn giữ, tu tập đúng theo qui tắc của Đạo, để xứng đáng là một tín đồ hầu khỏi phụ công trình khai hóa của Đức Phật.
    Vì thế, ban sưu tập sắp bài nầy đứng đầu Quyển để thay lời tựa.


    CHÁNH VĂN - LỜI NÓI ĐẦU


    Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải bày tường tận tôn-chỉ hành Đạo của tôi.

    Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song chẳng qua vì sư bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Đạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xảy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát.

    Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật
    HOÀ HẢO


    LƯỢC GIẢI

    (Bài lời nói đầu)

    NGUYÊN NHÂN ĐỨC THẦY VIẾT QUYỂN SÁU

    Bởi hiện tình người Pháp dùng chánh sách đàn áp các Đạo giáo, nhứt là PGHH, nên sau khi khai Đạo chưa đấy một năm thì họ bắt Đức Thầy lưu đi. Suốt thời gian 5 năm Ngài không được trực tiếp hướng dẫn tín đồ. Tuy nhiên, phần đông bổn đạo có thiệt thì đúng theo giáo điều, nhưng cũng còn một số hành động trái với tinh thần cao cả của Đạo Phật.
    Do đó, Ngài viết Quyển Sáu gởi về khuyên khắp môn đồ, từ nay phải hành sử đúng theo các qui điều ấn định trong đây, hầu tránh những việc sơ suất và khỏi phụ công ơn hoằng Đạo của Tổ Thầy.


    CHÚ THÍCH
    NĂM NĂM TRƯỜNG: Năm năm dài. Ý chỉ từ tháng Tư năm Canh Thìn (1940), Đức Thầy bị người Pháp lưu đày. Đến khi Ngài viết quyển Sáu là tháng 5 năm Ất Dậu (1945), tính theo thời gian ấy là 5 năm Ngài phải xa cách tín đồ.
    CHÁNH SÁCH: Cũng gọi là chính sách. Có nghĩa phương cách và kế hoạch của một chánh quyền.

    ÁP BỨC: Ép buộc, bức hiếp bằng sức mạnh của người có quyền thế. Ví dụ: dùng quyền lực áp bức dân chúng.
    TÔN GIÁO: Tiếng dùng gọi chung các nền Đạo có tín ngưỡng và đường hướng dẫn dắt nhân sanh hành thiện tránh ác.
    Thuở loài người chưa tiến bộ, họ lấy cục đá, gốc cây...làm vật thờ cúng, sau mới thờ các vị thần. Tôn giáo lúc đó cho rằng các vị thần cũng có hình thể, tâm tánh như con người, nhứt là ở các nước như Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã... Bấy giờ người ta lấy sự thờ kính của một vị thần (Độc thần giáo), hay nhiều vị (Đa thần giáo) làm chủ đích để tin theo. Đó là họ chỉ chú trọng về phần tín ngưỡng thôi.
    Lần lượt khoa học tiến bộ, các vị Thánh triết ra đời, mở rộng con đường đạo lý. Vào đầu Tây lịch kỷ nguyên Chúa Gia Tô xuất hiện, lập nên Tôn Giáo Cơ Đốc truyền bá ở Âu Châu.
    Riêng về Á Châu có Phật Giáo là nền Đạo thuần nhứt, do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập, đem giáo thuyết từ bi bình đẳng giáo hóa chúng sanh, đến nay có trên 2.500 năm mà nhân loại khắp thế giới, càng lúc càng phụng hành đông đảo.
    Xét cho kỹ Phật Giáo không thể gọi là Tôn Giáo như các Đạo nói trên, vì Phật Giáo có một nền giáo lý thực tế, áp dụng vào đời sống thiết thực cho nhân sinh. Nói rõ hơn giáo lý Phật Giáo gồm đủ: Tâm, vật, lý mà siêu tâm, vật, lý và lúc nào Phật Giáo cũng tiến trước khoa học.(Trước đây 25 thế kỷ, Phật đã biết trong nước có vi trùng và ngoài địa cầu ta ở có vô số địa cầu và hành tinh khác. Còn khoa học mới phát sinh và thấy được sau đó rất lâu.)

    TÔN CHỈ: Ý chỉ chính xác. Cũng có nghĩa đường lối vạch sẵn, để thực hành theo hầu tiến tới mục đích. Đây ý nói cách ăn ở và phương thức tu hành trong quyển sách nầy là “Tôn chỉ’ của PGHH, nếu ai trì hành đúng theo sẽ đạt đến mục đích (giải thoát) của Đạo.
    CƯỜNG QUYỀN: Quyền thế mạnh mẽ. Ý chỉ nhà đương cuộc Pháp bấy giờ (1939-1945).

    TRUNG THÀNH: Ngay chánh và thành thật, tức người có lòng thành thật trước sau như một chẳng hề thay đổi. Ví dụ: trung thành với tổ quốc, trung thành với Đạo pháp.
    Đức Thầy có câu:
    Ghi biên những kẻ quá lương hiền,
    Một mực trung thành với Phật Tiên.

    ĐẠO ĐỨC: Đạo có nhiều nghĩa. Đạo là con đường của tâm hồn; Đạo là bổn phận của con người; Đạo là bản thể tuyệt đối. Đức là tâm lành, là thể hiện của nhân lành: từ bi, bình đẳng. Tinh thần đạo đức là tinh thần cao thượng:Từ bi, bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng, đại độ..“.( ĐT)
    Hoặc là: Đạo đức gắng công nên cách mặt.
    Ơn nhà Đạo đức quyết đền ân. (ĐT)
    CHỦ NGHĨA: Cái tiêu chuẩn căn bản về lý tưởng của một tôn giáo hay một học thuyết mà người ta đang tín ngưỡng và quyết định thực hành theo.

    TỪ BI: (Xem CT chữ Từ Bi trong ân Đồng Bào và Nhân Loại, tập 1, Q.6)
    BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn:
    Bác ái xả thân tầm Đạo chánh. (ĐT)
    GIÁO PHÁP: Cũng gọi là Pháp giáo hay Phật pháp tức là do vô số lời lẽ của Đức Phật thuyết ra suốt 49 năm để giáo hóa chúng sanh. Sau đó các đại đệ tử kết tập lại thành Tam tạng: Kinh, Luật, Luận. Như tất cả Kinh Giảng lời lẽ chỉ dạy của Đức Thầy hiện giờ cũng gọi là giáo pháp. Giáo Pháp là một trong 3 ngôi quí báu: Phật, Pháp, Tăng. Xưa nay người tu Phật đều nhờ nương theo Giáo pháp mà được tỏ ngộ chân tánh, thành Đạo giải thoát:
    Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
    Cho đời hiểu rõ lý chơn không. (ĐT)

    TRÍ HUỆ: Phạn ngữ Prajna, phiên âm là Bát nhã, dịch là trí tuệ hay trí huệ. Có nghĩa sáng suốt: hiểu rành các sự việc về hình tướng (hữu vi) gọi là trí. Sáng thông mọi lẽ, mọi pháp về nội tâm (vô vi) gọi là huệ. Nghĩa chung là sự thấy biết thông suốt các pháp vô vi, hữu vi và cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai một cách rõ ràng, không hề bị một sự vật nào làm ngăn ngại. Trí huệ đối với mê si (vô minh) và phiền não. Vì các món ấy là mê tối, lầm lạc và tội ác. Còn trí huệ là sáng suốt, chơn chánh ví như ngọn đèn soi tan bóng tối. Trí huệ khác hơn thế trí biện thông (kiến thức) bởi thế trí do học mà biết, còn trí huệ do nơi tu hành mà thông đạt, rốt ráo cùng tột.
    Trí huệ là một trong Lục độ vạn hạnh của chư Bồ tát: Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ; nhưng trí huệ siêu việt hơn và bao gồm 5 độ kia. Đức Thầy hằng dạy:
    Trí huệ trau giồi kiếm nẻo thanh.
    Hoặc: Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý.
    QUI TẮC: Do chữ qui củ chuẩn thằng. Qui là cái đồ vẽ hình tròn (compa), củ là cây thước vuông dùng để đo góc. Chuẩn thằng là sợi dây tiêu, dây mực. Nhờ các món ấy người thợ mới làm nên món đồ ngay thẳng khéo đẹp. Nghĩa rộng chỉ cho luật lệ, phép tắc.
    Chữ qui tắc ở đây Đức Thầy chỉ cho quy luật nghi thức của Đạo mà mỗi tín đồ phải hành trì cho đúng theo đó.

    BỔN SƯ: Ông Thầy căn bản. Theo Phật Giáo thì Đức Thích Ca Như Lai là vị Thầy căn bản (cội gốc), vì Ngài là đấng Giáo Chủ khai sáng Đạo Phật.
    Nam Mô Thích Ca Như Lai,
    Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh. (ĐT)
    THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ Sakya, họ của Phật. Tàu dịch là Năng Nhơn. Có nghĩa: người có năng lực từ bi rộng lớn, Ngài dùng mọi phương tiện giáo độ tất cả chúng sanh. Đức Thầy có câu: Khùng huyền cơ Khùng Đạo Thích Ca. (Xem thêm phần CT quyển 2, câu 390, tập 2, quyển Thượng).
    MÂU NI: Phiên âm của Phạn ngữ Mouni, dịch là Tịch Mặc. Có nghĩa trong sáng và lặng lẽ. Tuy làm các hạnh lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên trong sạch, không hề xao động thiên chấp.
    GIẢI THOÁT: Cởi mở sự ràng buộc, đeo níu; chỉ cho người giải thoát khỏi sáu nẻo luân hồi sanh tử. Giải thoát là một trong nhiều nghĩa của chữ Niết Bàn. Đức Thầy có câu: Mong bá tánh vạn dân giải thoát.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy cho biết xuất xứ và văn thể Quyển sáu ?
    2/-Xuất xứ và nội dung bài Lời Nói Đầu ra sao ?

    3/-Nguyên nhân nào Đức Thầy viết Quyển Sáu ?
    4/-Giải nghĩa hai từ ngữ Tôn chỉ và Giáo pháp ?

    5/-Chữ Giải thoát có nghĩa như thế nào ?

    Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền (Quyển Sáu)
    Đây là quyển thứ sáu mà Đức Thầy đã viết hồi tháng 5 dl 1945 tại Sài Gòn.


    ĐẠI Ý VÀ TIÊU ĐỀ

    Đại lược quyển sáu gồm có nhiều đề ngắn như: Tứ ân, Thập ác, Bát chánh đạo, Những nghi thức thờ phượng, hành lễ, tang ma, giá thú…Các bài cúng, cầu nguyện; mọi cách xử thế tiếp vật và tám điều giới răn, mà cả thảy tín đồ PGHH đều xem đây là “Tôn chỉ”, là giáo lý căn bản và có bổn phận chấp hành nghiêm chỉnh.


    CHÁNH VĂN (Đoạn mở đề)
    Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người:
    1.- Hạng xuất gia.

    2.- Hạng tại gia.

    HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn toàn ly khai với gia-đình, quê-hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am-cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau-luyện đức lành, dồi-mài trí-tuệ hầu giảng-giải cho bá-tánh, thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình nhà-cửa của nhà sư là cả thế-gian, thân-quyến nhà sư là khắp cả nhân-loại đại-đồng.
    Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật-quả, thoát kiếp luân-hồi.

    HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại-chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất- gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ-quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý- tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và luật Nhân-Quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện quy-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các nhà sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.


    Đây là hạng người học Phật tu Nhân.

    Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại-gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.
    Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy-y đầu Phật tu niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.

    Đức Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn.
    1.- Ân Tổ-Tiên cha mẹ,

    2.- Ân Đất-Nước,
    3.- Ân Tam-Bảo,

    4.- Ân Đồng-Bào và Nhơn-loại (với kẻ xuất gia thì ân đàn-na thí-chủ).

    LƯỢC GIẢI (Đoạn mở đề)

    Bởi tùy theo căn cơ và hoàn cảnh thích hợp với người tu hiện thời, nên Đức Thầy lược kể những cương yếu, cho mỗi tín đồ tiện bề tu học đúng theo tôn chỉ của Đạo.
    Trước hết Ngài nhận xét về hai hạng tu: xuất gia và tại gia đã có trong Đạo Phật từ trước. Để rồi Ngài xác định hầu hết môn đồ PGHH đều là hạng “tại gia cư sĩ học Phật tu Nhân”, mà chính Ngài đã nêu gương hạnh, trong một đoạn giảng:
    Ta là cư-sĩ canh điền,
    Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.

    Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,
    Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.

    Gắng công trì niệm sớm khuya,
    Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.

    Vì rằng xuất gia với hình thức suông, cũng chưa giải thoát luân hồi mà phải xuất gia bằng nội tâm, mới ra khỏi nhà lửa tam giới. Sở dĩ Ngài đề vạch tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, là vì nếu người riêng tu Nhân mà không tu Phật thì chỉ tiến tới bực siêu nhân thôi, chớ chưa thoát vòng sanh tử. Bằng chỉ tu Phật, chẳng hành xử Đạo Nhân, tuy được phần tự giác và nhàn tịnh, nhưng dễ bị kẹt vào tư tưởng tiêu cực, yếm thế; không thực hiện được tình từ bi cao thượng trong quảng đại quần chúng. Đã không đền được nợ thế, lại thiếu phần nhân nghĩa phước đức, như Đức Thầy hằng khuyên:
    Tu đền nợ thế cho rồi,
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.
    Và: “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
    Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần”.
    Vậy nhà tu có lập thân cõi trần mới trả xong nợ thế, và thiệt thi được lòng giác tha để đạt đến giác hạnh viên mãn, chứng thành Phật quả.
    Lại nữa, Đạo Nhân như nấc thang đầu, Đạo Phật như nấc thang chót, nếu hành giả bước nấc đầu rồi đứng đó, ắt không bao giờ đạt được mục đích. Bằng muốn leo lên nấc thang chót mà chẳng chịu bước nấc đầu, cũng không khi nào kết quả. Cho nên cả Đạo Nhân và Đạo Phật, người tín đồ PGHH phải đồng hành cho trọn vẹn.
    Tóm lại, có tu nhân mới trả xong nợ thế, dứt nghiệp sanh tử và tạo được vô lượng phước đức để làm nền tảng trên đường giải thoát. Và có tu Phật mới diệt tận phiền não vô minh, để trí huệ phát khai, kiến tánh thành Phật, hoặc siêu sanh về Lạc quốc. Đức Thầy đã viết một bài thi hàm chứa cả tu Nhân lẫn tu Phật:

    Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
    Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền.
    Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.

    (Câu 1 và câu 2 của Bài thi dạy về tu Nhân. Câu 3 là dạy cách học Phật và tu Nhân. Câu 4 chỉ cho sự kết quả của người tu.)

    CHÚ THÍCHSƠ LƯỢC:
    Lược qua những phần cương yếu, cần thiết, chớ không lý luận dài dòng chi tiết. Đức Thầy nói: Lấy yếu lược đôi câu mà trần tố”.
    TU HIỀN: Trau giồi những điều phước lành tốt đẹp và chừa bỏ những điều xấu xa tội ác, rèn luyện cả khả năng và đức hạnh. Nên chữ tu hiền ở đây gồm cả tu Nhân và tu Phật. Kinh Minh Thánh có câu:“Bất du Thánh Đạo, an đắc vị hiền”. (Không vào Thánh Đạo sao gọi là người hiền) đó là tu Nhân. Còn trong bài qui y, Đức Thầy dạy: “Qui y theo mấy Ngài tu hiền theo Phật Đạo”. Bởi có tu hành theo Phật Đạo mới được trọn lành, trọn sáng; ấy là tu Phật.
    ĐẠO PHẬT: Cũng gọi là Phật Đạo hay Phật Giáo, là một nền Đạo lớn nhứt trong thế giới. Phát khởi từ cõi Thiên Trước (Ấn Độ), do Đức Thích Ca làm Giáo Tổ, trước Tây lịch 563 năm. Là nền Đạo dạy người tự tu, tự ngộ, tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn, tức là thành Phật, nhằm mục đích giải khổ cho toàn thể chúng sanh.
    Sau Đức Thích Ca tịch diệt thì các vị Tổ kế truyền, và những nhà tu đắc đạo tiếp tục quảng bá Đạo Phật lan rộng trong nhân gian. Hiện nay có hơn 800 triệu tín đồ sùng ngưỡng, chiếm tỷ số hơn một phần ba thế giới.
    NHÀ SƯ: Ông Thầy tu theo Đạo Phật, chỉ cho các cao tăng tu Phật, hoặc các Thầy giảng giải giáo lý Đạo Phật. Nhà Sư là danh từ thông dụng để gọi chung trong giới Tăng Đồ, vừa tu vừa giảng dạy Đạo Phật cho đại chúng nghe.
    NI CÔ: Giới nữ tu hạnh xuất gia, thường ở chùa hay am cốc.
    CỬA THIỀN: Do chữ Thiền môn. Có nghĩa cửa chùa hay cửa Phật, cũng chỉ cho cửa Đạo:“Đạo cả nào trông đến cửa Thiền”.( ĐT)
    AM CỐC: Am là cái nhà nhỏ, có trang trí thờ phượng như cái chùa; cốc là hang trên núi hoặc cái lều nhỏ không cần thờ phượng. Am cốc là nơi các nhà tu ở.
    KINH KỆ: Kinh, phiên âm Phạn ngữ “Tu Đà La” Tàu dịch là tuyến, nghĩa như sợi dây xâu các hột châu lại thành chuỗi. Tức là Phật nói ra các pháp rồi những đệ tử kết tập lại thành Kinh, lưu truyền đời sau. Kệ là một thể văn trong Kinh Phật, thường cứ một thiên kinh là có một bài Kệ, để tán tụng hoặc tóm tắt đại ý hay diễn dịch ra. Chữ Kinh Kệ nói chung là chỉ cho tất cả lời của Phật của Thầy nói ra để giáo hóa chúng sanh.

    Kệ Kinh tụng niệm đêm thanh,
    Ấy là châu ngọc để dành về sau”. (ĐT)

    DÀ LAM: Cũng viết là già lam, nói cho đủ là Tăng già lam. Có nghĩa là cảnh vườn chùa, chỉ chung cho các ngôi chùa.
    BÁ TÁNH: Trăm họ, chỉ chung cho tất cả mọi người trong thế gian.
    THẬP PHƯƠNG: Mười phương hướng, chỉ cho 8 hướng chung quanh và 2 hướng trên và dưới, tức là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương. Thập phương là tiếng chỉ chung cho khắp thế giới hoặc khắp chư Phật hay chúng sanh.
    Nguyện mười phương chư Phật đáo lai”.(ĐT)

    QUI Y: Qui là nương về. Y là làm theo. Nghĩa chung là nương về với Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và trì hành theo lời pháp giáo của Tổ Thầy đã dạy. Đức Thầy có giải:
    Quy là về, mà về đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu. Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng, thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”.
    Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
    ( ĐT)

    PHẬT PHÁP: Giáo pháp của chư Phật. Tất cả tam tàng: Kinh, Luật, Luận đã có trong Đạo Phật từ trước và Kinh giảng của Đức Thầy hiện giờ đều gọi chung là Phật Pháp. Người tu Phật phải nương theo đó mà tu tập cho đến khi thành Đạo. Giáo pháp là một trong Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Đức Thầy từng khuyên:
    Phật pháp thiền na dốc thật hành”.
    ĐẠI ĐỒNG: Rộng lớn, bình đẳng, không phân biệt giới hạng, giai cấp. Chữ đại đồng ở đây chỉ cho sự bình đẳng rộng lớn khắp cả nhân loại chúng sanh. Đức Thầy thường cho biết:
    Dựng cuộc hòa minh khắp đồng”.( ĐT)
    PHẬT QUẢ: Cũng gọi là quả Phật, chỉ cho các bậc tu hành đã thành Phật, tức là hoàn toàn giác ngộ; gồm đủ tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
    LUÂN HỒI: Luân là bánh xe, hồi là xoay trở lại. Ý nói chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hết sống rồi chết, chết rồi đầu thai trở lại; cứ thế mà lăn lộn xuống lên mãi trong 6 cõi phàm, như bánh xe xoay tròn không có đầu mối. Đức Thầy đã bảo:

    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
    Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.
    ĐẠI CHÚNG: Số dân chúng rộng lớn. Ý chỉ cho hầu hết dân chúng.
    ĐIỀU KIỆN: Điều phụ vào, nhưng bắt buộc phải có trong sự cam kết định đoạt.
    XÃ HỘI: Những đoàn thể loài người có mối quan hệ sinh hoạt chung với nhau.
    HOAN NGHINH: Cũng viết là hoan nghênh. Có nghĩa tiếp đón và hoan hô, ca ngợi một cách vừa lòng vui thích.

    LÝ TƯỞNG: Tư tưởng cao cả và quí đẹp nhất về một vấn đề gì. Ví dụ; Lý tưởng đạo đức trên hết.
    LUẬT NHÂN QUẢ: Cũng gọi là “Luật quả báo”, tức là định luật trả vay của nhân và quả. Hễ mình làm việc lành hay dữ thì sớm muộn gì cũng có trả lại quả vui hay khổ. Đức Thầy cho biết:
    Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

    Sự quả báo có nhiều cách, tạm chia làm 5 phần:
    1-Hiện Báo: Quả báo trong một đời, hễ ai tạo việc lành hay dữ trong kiếp nầy thì sớm muộn gì cũng kết quả vui hoặc khổ trong kiếp nầy.
    2-Sanh Báo: Quả báo hai đời, là người gây nhân lành hay dữ trong đời nầy, qua đời kế đó mới kết quả vui hay khổ, hoặc gây tạo ở kiếp vừa qua mà kiếp nầy thọ hưởng.
    3-Hậu Báo: Quả báo nhiều đời, là nghiệp gây tạo ở nhiều kiếp trước, kiếp nầy trả, hoặc hành động ở kiếp nầy đợi tới nhiều kiếp sau mới trả.
    4-Nhồi Báo: Là nghiệp nhân đã gây tạo nhiều lần trong nhiều tiền kiếp, bây giờ phải trả dồn một lượt.
    5-Dư Báo: Là những nghiệp nhân yếu ớt hay thiếu trợ duyên từ vô lượng kiếp dẫn tới giờ còn sót lại. Vì hành giả tu hành tinh tấn, nên hạt giống đó không có cơ hội phát khởi, nhưng nó không úng chết. Đợi tới kiếp hành giả đắc Đạo mới bị trả một cách nhẹ nhàng.

    GIỚI LUẬT: Cũng gọi là giái cấm, giới luật do Thầy Tổ lập ra để răn cấm môn đồ không cho quấy phạm, như tám điều răn cấm, hay 10 điều ác...Gìn giới luật nghe Kinh trọng Phật”.( ĐT)
    HỌC PHẬT TU NHÂN: Hiểu theo văn tự là học cho thông suốt Đạo Phật và hành sử cho trọn vẹn Đạo Nhân, nhưng hiểu theo ý pháp của Đức Thầy thì tôn chỉ PGHH gồm có Đạo Nhân và Đạo Phật, mà mỗi tín đồ cần phải thực hành cả hai mới đạt đến mức cứu cánh, hoặc lấy tâm Phật mà hành Đạo Nhân mới siêu thoát.
    HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa, cũng giải là thích làm việc phải, có ích lợi cho mọi người. Chữ hiếu nghĩa ở đây còn có nghĩa là thi hành việc Đạo nghĩa, tức là lo đền đáp tứ ân và đối xử cho tròn cái Đạo làm người: “Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên”.( ĐT)
    ĐỨC THẦY TÂY AN: Ngài quê ở làng Tòng Sơn, thuộc Cái Tàu Thượng, nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Sa Đéc (Nam phần Việt Nam). Ngài sanh vào giờ Ngọ, ngày Rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807), niên hiệu Gia Long thứ VIII. Ngài khai Đạo đầu mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1849). Viên tịch vào giờ Ngọ, ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856). Ngài chính danh là Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh, người trong Đạo cũng như ngoài đời, đều xưng tụng Ngài là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài khai sáng Tông Phái Bửu Sơn Kỳ Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ (Xem thêm phần CT chữ Đức Thầy Bửu Sơn bên Q.1, T-1, Quyển Thượng.)
    MÔN NHƠN ĐỆ TỬ: Môn nhơn là người học trò, đệ tử là con em. Trí năng do Thầy đào tạo ra nên gọi là con. Sự hiểu biết sau Thầy nên gọi là em. Hiểu chung bốn chữ “Môn nhơn đệ tử” là những người học trò trong một trường Đạo hay một môn phái.
    HY SINH: Con vật toàn một màu sắc, đem làm thịt dùng vào việc cúng tế. Ý nói người dám bỏ tất cả quyền lợi, danh vị, tài sản lẫn tánh mạng để làm được việc công nghĩa. Hy sinh vì Đạo là người dám liều thân hoặc dồn hết tâm lực để làm tròn việc Đạo pháp.

    GẮNG GỔ: Cố gắng làm để nên việc.

    CÂU HỎI
    1- Đại ý và tiêu đề Quyển Sáu ra sao ?
    2- Từ xưa đến nay người tu Phật có mấy hạng ?
    3- Hạng xuất gia là người như thế nào ?
    4- Hạng tại gia gồm những ai và tại sao họ không xuất gia ?
    5- Phật Giáo Hoà Hảo chúng ta hiện nay tu như thế nào ?
    6- Tôn chỉ PGHH ra sao ?
    7- Tất cả Kinh sách của Phật Thánh Tiên dạy việc gì trước hết ?

    8- Đức Phật Thầy khuyên dạy môn đồ nên làm gì ?
    9- Sự và lý xuất gia ra sao ?
    10- Hãy lược kể tiểu sử Đức Phật Thầy Tây An ?

    LƯỢC GIẢI (Nguồn gốc)
    Bốn điều ân Đức Thầy rút nơi phẩm “Báo Tứ Ân” trong Kinh “Tâm Địa Quán Đại thừa Bồ Tát Đạo”:“Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.Và cũng nối theo sự truyền giáo của Đức Phật Thầy trước kia:
    Loài cầm thú còn hay biết ổ,
    Huống chi người nỡ bỏ tứ ân”.
    Ngày nay Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn Nhân Đạo phải giữ vẹn tứ ân…”. Đó là phần ân nợ (nợ do mình thọ ơn).

    I.- ÂN TỔ TIÊN CHA MẸ

    CHÁNH VĂN
    ÂN TỔ-TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, Cha Mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra Cha Mẹ là nhờ có Tổ-Tiên, nên khi biết ơn Cha Mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn Tổ-Tiên nữa.
    Muốn đền ơn Cha Mẹ, lúc Cha Mẹ còn đang sanh-tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải, ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng Cha Mẹ. Nếu Cha Mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho Cha Mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau; gây sự hòa hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia đình cho Cha Mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho Cha Mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc Cha Mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.
    Còn đền ơn Tổ-Tiên, ta đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục tông môn, nếu Tổ-Tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục Tổ đường


    LƯỢC GIẢI
    Cổ Đức từng bảo:“Trời đất có bốn mùa, mùa Xuân là đứng đầu. Người có trăm hạnh, Hiếu là trước nhứt”.(Thiên địa tứ thời Xuân tại thủ, nhơn sanh bách hạnh Hiếu vi tiên.) Đức Thầy nay đã dạy:Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu”.
    Nhà tu muốn vẹn tròn hạnh hiếu trước phải biết công ơn Tổ Tiên cha mẹ.
    1.-LÝ DO THỌ ƠN CHA MẸ
    Cây có cội, nước có nguồn, con người sở dĩ có thân, không phải chuyện ngẫu nhiên mà phải nhờ bao nhiêu công ơn của cha mẹ. Từ khi còn nằm trong bào thai, sanh ra và nuôi dưỡng cho đến lúc nên người. Công ơn ấy sách Thánh gọi là chín chữ Cù Lao:“Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã; ai ai phụ mẫu sanh ngã Cù lao dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực”.(Chín chữ Cù Lao là:Sinh: Cha sanh. Cúc: Mẹ đẻ. Phủ (?): vổ về. Dục: nuôi dạy cho khôn biết. Cố: trông nom. Phục: quấn quít. Phủ (?): nâng nhắc. Súc: nuôi cho lớn vóc.Phúc: bồng ẳm.) Còn Kinh Phật đã diễn tả qua 10 điều ơn của người con thọ nơi cha mẹ.(Mười điều ơn gồm có: 1- Thập ngoạt hoài thai: Mười tháng cưu mang thai nghén. 2- Lâm sản thọ khổ: Sanh đẻ chịu khổ. 3-Sanh tử vong ưu: Sanh được con mừng mà quên lo rầu. 4- Yến khổ thổ cam: Uống đắng nhổ ngọt. 5-Hồi can tựu thấp: Nhường chỗ khô nằm chỗ ướt. 6-Nhũ bộ dưỡng dục: Bú mớm và nuôi nấng. 7- Tẩy trạc bất tịnh: Rửa ráy mọi điều dơ bẩn. 8- Viễn hành ức niệm: Con đi xa cha mẹ nhớ tưởng. 9- Vị tạo ác nghiệp: Vì con mà làm điều chẳng lành. 10- Cứu cánh lân mẫn: Tình thương cha mẹ không có cái thương nào bằng.) Chẳng thế, cha mẹ còn lo dạy dỗ cho con được khôn ngoan ngay thảo, đạo đức đối xử, nghề nghiệp sanh sống và gầy dựng tài sản để lại cho con. Ơn ấy thật sánh tày non biển:

    Công cha như núi Thái Sơn,
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
    .(Ca dao)
    2.- THỌ ÂN TỔ TIÊN
    Xét ra, cha mẹ chẳng phải tự nhiên sanh mà phải nhờ tổ tiên, tức là nhờ ông bà từ trước sanh thành dưỡng dục, như cha mẹ sanh dưỡng ta hiện giờ. Rồi ông bà trước nữa sanh ông bà kế đó…Cứ tiếp tục tương liên từ vô thỉ đến nay. Tổ tiên còn lo tu bồi phước đức, danh thể và tài sản để lại cho con cháu:
    Khen ai kiếp trước khéo tu,
    Ngày nay con cháu võng dù xuê xang”.
    (Ca dao)
    Vì thế chúng ta phải mang ơn Tổ Tiên.
    3.- PHƯƠNG CÁCH ĐÁP ƠN CHA MẸ
    A)- HIẾU THẾ GIAN: Gồm có vật chất và tinh thần.
    1- Về vật chất là cung cấp cho cha mẹ mọi phương tiện cơm ăn, áo mặc, nhà ở và thuốc thang, chăm sóc khi có bịnh; sớm viếng tối thăm, đắp lạnh quạt nồng. Đức Thầy dạy:

    Mộ Khan thần tỉnh cần triêu,
    Khỏi cơn hoạn nạn Lam Kiều được lên”.
    2- Về tinh thần: không nên hủy hoại thân xác hay vì sân si buồn khổ mà tự sát. (Buồn giận cha mẹ anh em mà tự sát là có tội lớn. Còn chết vì tổ quốc, và đạo pháp hay bảo vệ tiết nghĩa là tốt.)
    -Làm cho cha mẹ an vui bằng cách: Vâng lời dạy bảo chánh đáng của cha mẹ, gây niềm hòa thuận trong anh em gia tộc, tạo hạnh phúc cho gia đình và khuyên cha mẹ hành thiện, tránh ác.
    B)- HIẾU XUẤT THẾ GIAN: gồm có các điều:
    1- Tu cầu và hồi hướng công đức cho cha mẹ: sống đặng phúc thọ, chết đặng siêu thăng Phật đài.
    2- Tạo lập thân danh tốt lành và quyết chí tu hành đắc đạo để độ rỗi Tổ tiên, cha mẹ ra khỏi sanh tử luân hồi, như Đức Thầy đã dạy:
    Mục Liên cứu mẹ bằng nay,
    Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ bi”.
    Và: “Rán tu đắc đạo cứu Cửu huyền,

    Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.
    Ngõ đáp ơn dày công sang tạo,
    Cho ta hình vóc học cơ huyền”.

    4.-CÁCH ĐÁP ƠN TỔ TIÊN
    a)- Chẳng làm điều gì xấu ác, tệ hại có ảnh hưởng không tốt cho Tổ tiên tộc họ.
    b)- Nếu trước kia Ông Bà ta có lỡ làm điều chi tội lỗi hay tà nghiệp…Giờ đây ta phải chuyển đổi theo chánh nghiệp và hy sinh tinh thần, thể xác vào việc tu thân hành Đạo hầu rửa nhục Tổ Tiên nòi giống.

    5.-LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI CÓ HIẾU
    Người đáp ơn Tổ Tiên cha mẹ tất được kết quả:
    a)- Hiện tại được mọi người kính nể mến thương. Địa vị cao quý trong xã hội, như Vua Thuấn đời Ngũ Đế…(Ông Thuấn xưa kia nhờ lòng hiếu thảo rất mực, nên được vua Nghiêu mến đức rước về truyền ngôi.)
    b)- Tương lai chứng đắc Đạo quả và độ được Cửu Huyền Thất Tổ, như Thái Tử La Đề Xà…(La Đề Xà là tiền thân của Đức Phật. Lúc bị vong quốc, Ông cùng Phụ Mẫu bôn đào. Nửa đường bị đói khát, ông lóc thịt nuôi cha mẹ. Trước khi chết còn nguyện hiến bộ xương và gan ruột cho côn trùng. Cảm động đến Trời Phật cho xác thân ông bình phục và sau thâu hồi được đất nước, nhiều kiếp sau thành Phật Thích Ca Mâu Ni.) Đức Thầy hằng bảo:
    Hiếu trung lòng nhớ chớ quên,
    Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên Đài”.

    6.-TAI HẠI CỦA NGƯỜI BẤT HIẾU
    Đức Thầy trách thiện (?) những người không lo đáp ơn Tổ Tiên cha mẹ:
    Ham công danh quên chữ sanh thành,
    Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.
    Hoặc là: “Nào chưởi cha mắng mẹ lăng xăng,
    Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu”.

    Cho nên người bất hiếu phải vương các khổ lụy:- Sống bị người đời khinh rẻ. - Địa vị thấp hèn. - Chết đọa 3 đường ác.

    KẾT LUẬN
    Tóm lại. công ơn Tổ Tiên cha mẹ rất lớn, và hạnh hiếu là đứng đầu trăm hạnh, nên Đức Thầy thường giác tỉnh chúng ta:

    “Vẹn mười ơn mới Đạo làm con,
    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”.

    Hoặc là: “Ở ăn cho vẹn mười ơn,
    Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn”.


    CHÚ THÍCH
    TRƯỞNG THÀNH: Lớn khôn, người đã lớn từ 18 tuồi trở lên, gọi là trưởng thành.
    TỔ TIÊN: Ông Bà đời trước, và nhiều đời trước nữa.
    BỔN PHẬN: Phận sự, phần việc của mình. Một phần nghĩa của chữ Đạo (Đạo là bổn phận).
    SANH TIỀN: Lúc sống, tiếng dùng nhắc lại một người đã chết.
    CHĂM CHỈ: Chuyên vào một việc, không lo tính chuyện gì khác.
    LẦM LẪN: Cũng gọi là lầm lộn, tức lộn cái nầy qua cái khác.
    HÒA HẢO: Thuận hòa tốt đẹp (lành).
    HẠNH PHÚC: Phước lành, vận may phúc tốt, tức gặp nhiều may mắn, mọi sự được như ý.
    THỎA MÃN: Hài lòng vừa ý, vừa đúng với ý muốn của mình.
    PHƯỚC THỌ: Được hạnh phúc và sống lâu.

    QUÁ VÃNG: Qua đời, chết rồi.
    LINH HỒN: Phần khôn biết trong con người. Linh hồn đối với thể xác, có nhiều tên gọi khác nhau: Bửu Quang, Thần hồn, Tâm hồn, Tâm thức, Hữu hay Ấm…Tất cả đều chỉ cho phần tinh thần của con người.

    SIÊU THĂNG: Vượt cao lên. Ý chỉ sự siêu thoát lên cõi Tiên Phật.
    PHẬT CẢNH: Cảnh giới của chư Phật, đây chỉ cho cõi Cực Lạc:“Cả vạn vật đồng về Phật cảnh”.( ĐT)
    TRẦM LUÂN: Chìm trong bánh xe luân hồi sanh tử. Chỉ cho con người còn luân hồi chưa được giải thoát.
    ĐIẾM NHỤC: Điếm là hòn ngọc có vết; nhục là xấu hổ. Nghĩa chung là làm điều lầm lỗi xấu hổ, ví như hòn ngọc có vết.

    TÔNG MÔN: Dòng họ nhà mình.
    ĐẠO NGHĨA: Đạo đức và nhân nghĩa.
    TỔ ĐƯỜNG: Ông Bà cha mẹ.

    CÂU HỎI
    1.-Hãy cho biết nguồn gốc xuất xứ Pháp Tứ Ân ?
    2.-Lý do nào ta thọ ơn Cha Mẹ ?
    3.-Tại sao ta phải mang ơn Tổ Tiên ?
    4.-Muốn đền ơn cha mẹ có mấy cách, giải ra ?
    5.-Muốn đền ơn Tổ Tiên phải làm sao ?

    6.-Đáp ơn Tổ Tiên cha mẹ xong được lợi ích như thế nào ?
    7.-Kẻ bất hiếu có tai hại gì ?
    8.-Hãy tóm tắt Ân Tổ Tiên Cha Mẹ ?

    II- ÂN ĐẤT NƯỚC

    CHÁNH VĂN
    ÂN ĐẤT NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ Tiên, Cha Mẹ, sống ta cũng nhờ Đất Nước, Quê Hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ-dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ Đất Nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.
    Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đổi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.
    Đó là ta đền ơn Đất Nước vậy.


    LƯỢC GIẢI
    Xưa kia Đức Phật dạy là Ân Quân Vương. Hiện giờ Đức Thầy đổi lại là Ân Đất Nước cho phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Là một công dân, dù ai cũng có bổn phận đối với đất nước (Tổ Quốc).
    Kẻ phu tá cũng là trọng trách,
    Cứu giống nòi quét sạch non sông”.( ĐT)
    1.- LÝ DO THỌ ƠN

    Kể từ đời Hồng Bàng dựng nước, ông cha ta đã dày công khai quốc và kiến quốc:
    Bắc Nam một dãy san hà,
    Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi”.( ĐT)
    Và ra công gìn giữ đất nước, ngày nay chúng ta mới hưởng được tấc đất, ngọn rau và mọi sản phẩm…Cho nên ai cũng phải thọ ơn.
    2.- PHƯƠNG CÁCH ĐÁP ƠN
    Mỗi công dân đều có trách nhiệm:

    a)- Thời bình lo củng cố cho đất nước được phú cường (dân giàu nước mạnh).
    b)- Khi có giặc ngoài thống trị, ta phải góp công vào việc đánh đuổi xâm lăng. Đức Thầy cho biết “Hễ nước mất thì cơ sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước còn nền Đạo được phát khai rực rỡ”.
    c)- Hãy tùy tài, tùy sức và tùy thời cơ giúp nước. Đức Thầy hằng dạy:Nếu chưa đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ suất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến Đất nước”.
    3.- QUAN NIỆM YÊU NƯỚC
    Người tín đồ PGHH, lúc đáp ơn Đất Nước không đặt nặng về lợi danh quyền tước mà bị nó trói trăn trong luân hồi sanh tử, nên khi nước nhà được tự chủ (độc lập) thì trở lại vị trí tu hành để được giải thoát.
    Đền xong nợ nước thù nhà,
    Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô”.
    ( ĐT)
    Ta hãy noi gương nguyên soái Đổng Vân, Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Vạn Hạnh, Sư Đỗ Pháp Thuận và Tuệ Trung Thượng Sĩ…và gần đây có Nguyễn Đa, tức ông Cử Đa…
    4.- LỢI ÍCH NGƯỜI BIẾT ĐÁP ƠN ĐẤT NƯỚC
    Người đáp ơn Đất nước sẽ được các điều lợi ích:

    a)- Được người đương thời ca ngợi, con cháu hiển vinh.
    b)- Khi chết được thành Thần Thánh:
    Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.
    ( ĐT)
    c)- Sách sử chép ghi, dân chúng muôn đời thờ kính, nhắc nhở:
    “Tử vì nước còn ghi linh miếu,
    Thác vì đời thanh sử danh bia”.( ĐT)
    Nước ta từ xưa có rất nhiều vị đã thành công, như: Nam thì có Trần hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt…Nữ có hai Bà Trưng, Bà Triệu…Thời cân đại có Nguyễn Trung Trực và Trần Văn Thành…
    5.- TẠI SAO KHÔNG ĐÁP ƠN
    Người không đáp ơn Đất Nước là kẻ bất trung, sống cuộc đời tiêu cực, ích kỷ. Bị người đời khinh rẻ, sách sử chê bai; chết còn phải bị đọa vào chỗ thấp hèn.

    KẾT LUẬN
    Nếu ai đáp ơn Đất Nước đúng theo quan niệm PGHH nói trên, chẳng những được lợi ích hiện tại mà tương lai còn được siêu thoát sanh tử:
    Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.( ĐT)

    CHÚ THÍCH

    TRUYỀN THỤ: dạy lại, để tài nghệ lại. Ý nói người trước dạy lại người sau, rồi người sau nữa…
    XÂM LĂNG: Đánh phá để cướp nước người.
    CƯỜNG THẠNH: Cũng viết là cường thịnh. Có nghĩa mạnh mẽ và thịnh vượng, sung túc.
    THỐNG TRỊ: Cai trị, nắm hết quyền cai trị trong nước.
    SƠ SUẤT: Cẩu thả, vô ý. Không cẩn thận.

    CÂU HỎI
    1.-Lý do gì từ Ân Quân Vương, Đức Thầy đổi lại là Ân Đất Nước ?
    2.-Vì sao ta phải thọ ơn Đất nước ?
    3.-Muốn đáp ơn Đất Nước ta phải làm sao ?
    4.-Đáp ơn Đất Nước ta được lợi ích gì ?
    5.-Nếu không đủ tài lực và gặp thời cơ, ta phải đền ơn Đất Nước bằng cách nào ?
    6.-Quan niệm yêu nước và cứu nước của người tín đồ PGHH ra sao ?

    III.- ÂN TAM BẢO

    CHÁNH VĂN
    ÂN TAM BẢO: Tam Bảo là gì ? Tức Phật, Pháp, Tăng.
    Con người nhờ Tổ-Tiên, Cha Mẹ sanh ra, nuôi dưỡng nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật chất.
    Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp-đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần-sanh thoát miền mê-khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-Tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy, đã vun trồng bồi-đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một toà lầu đài Đạo hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu-thế.

    Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẩn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa-cơ và nhứt là phải tiếp-tuc khai thông nền Đạo-đức để cái tinh thần từ-bi bác ái được gieo rải khắp nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

    LƯỢC GIẢI
    Ân Tam Bảo là một trong tứ đại trọng ân, đây thuộc về phần tinh thần.
    1/- LÝ DO THỌ ÂN TAM BẢO
    Nhờ có Tam Bảo đánh thức, giáo hóa chúng ta mới tỉnh ngộ tu hành, cải ác tùng thiện:
    a)- Vì cảm phục tâm đại hùng, đại lực, đại từ bi và đại nguyện độ tận chúng sanh của Đức Phật.
    b)- Diệu năng của Pháp giới ví như thuyền bè, đèn đuốc, đưa người tu ra khỏi sông mê bể khổ.
    c)- Đức độ và lời thệ nguyện cứu độ chúng sanh lớn lao của Chư Tăng, chúng ta mới trọn niềm kính tin và quyết tâm trì hành theo lời giáo huấn của các Ngài.
    2/- TỔ TIÊN TA ĐỐI VỚI TAM BẢO
    a)- Tổ Tiên ta đã nhận thức lòng quảng ái và sự nghiệp cứu đời của Tam Bảo.
    b)- Đã hành động đúng theo Kinh, Luật, Luận. Cũng đã vun bồi nền Đạo được vững chắc và roi truyền đến ngày nay.

    3/- CÁCH ĐÁP ƠN TAM BẢO
    a)- Ta có bổn phận kính tin và vâng lời Phật pháp. Noi gương Phật và chư Tăng để học hỏi và hành trì giáo pháp cho mình có trí huệ và giải thoát sanh tử.
    b)- Tiếp tục khai thông Đạo pháp bằng cách: Giảng dạy Đạo lý, ấn tống kinh sách, trợ giúp các tổ chức truyền Pháp để giác tỉnh quần chúng tu hành. Truyền pháp có hai phần: thuyết giáo và hạnh giáo…
    Đức Thầy hằng kêu gọi:
    Cả tiếng kêu cùng khắp chư Tăng,
    Với tín nữ thiện nam Phật giáo.

    Nên cố gắng trau thân gìn Đạo,
    Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành”.

    Và hãy:“…Giảng giải Đạo Phật cho đại chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật”.
    4.- LỢI ÍCH SỰ ĐÁP ƠN TAM BẢO
    Người nào đáp được ơn Tam Bảo, sẽ được các điều lợi ích đáng kể:
    a)- Không đắc tội với Tam Bảo, tiền nhân và hậu thế.
    b)- Phước đức siêu thượng, trí huệ sớm phát khai.
    c)- Gieo duyên lành với nhiều người và độ được vô số chúng sanh chứng chơn giải thoát.
    d)- Sớm hoàn thành quả Tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
    “Từ đây đến buổi thanh bình,

    Muôn người niệm Phật quả mình biết bao”.( ĐT)
    5.- TAI HẠI NGƯỜI KHÔNG ĐÁP ƠN TAM BẢO
    Người đã thọ ơn Tam Bảo mà chẳng lo tu học hoặc không đền đáp, tất vương các điều hại:
    a)- Đắc tội với tiền nhân và hậu thế.
    b)- Mang tội ngũ nghịch và chôn lấp thiện căn.
    c)- Vô lượng kiếp tối dốt, chết đọa 3 đường ác.

    KẾT LUẬN
    Là môn đồ nhà Phật, chúng ta phải đáp đền ơn Tam Bảo bằng cách cố gắng phụng hành và phổ truyền chánh pháp để tất cả chúng sanh có cơ thức tỉnh tu hành, vượt khỏi vòng khổ đau sanh tử.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TAM BẢO: Ba ngôi quí báu, tức: Phật, Pháp, Tăng. Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, toàn thiện, toàn mỹ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Pháp là lời của Phật thuyết ra để giáo hóa chúng sanh. Tăng là các đại đệ tử của Phật, bậc giới hạnh tinh nghiêm, thường nối tiếp ngọn đuốc huệ của Phật mà giác tỉnh chúng sanh.
    Đó là phần sự tướng và lịch sử Tam Bảo. Còn phần lý tánh Tam Bảo gồm có: Tự tâm giác ngộ là Phật Bảo. Tự tâm chơn chánh là Pháp Bảo. Tự tâm thanh tịnh là Tăng Bảo.
    PHƯƠNG DIỆN: Một mặt, một khía cạnh hay một phần.
    VẬT CHẤT: Những cái gì có hình tướng, rờ nắm được, thấy được.
    TINH THẦN: Linh hồn hay thần thức…phần vô hình.
    TOÀN THIỆN TOÀN MỸ: Hoàn toàn tốt lành sáng suốt.
    KHỔ HẢI: Biển khổ. Ý nói sự khổ của chúng sanh quá nhiều mênh mông như bể cả. Đức Thầy bảo:

    Thoát nơi khổ hải liên đài được lên”.
    BAN BỐ: Cấp phát truyền rải cho đều.
    QUẦN SANH: Chỉ chung các giới chúng sanh.
    TÍN NHIỆM: Tin cậy, trọn lòng tin tưởng.
    NHIỆM MẦU: Cũng gọi là mầu nhiệm. Có nghĩa sâu kín và mầu diệu vô cùng:“Đạo mầu thâm diệu nan tri lão bày”.( ĐT)
    QUẢNG ÁI: Thương yêu rộng lớn. Đức Thầy từng nói:Lòng quảng ái xót thương nhân chủng”.
    CHÚNG SANH: Chỉ chung các loài có tri giác, có mạng sống. Phân làm 4 loại:
    1/-Thai sanh: các loài sanh bằng bào thai.

    2/-Noãn sanh: các loài sanh bằng trứng.
    3/-Thấp sanh: các loài sanh nơi ẩm thấp.
    4/-Hóa sanh: các loài sanh bằng cách hóa sanh.
    PHÁT TRIỂN: Mở mang ra.
    SÙNG BÁI: Kính trọng và tôn thờ lễ bái.
    VÔ THƯỢNG: Cao tột, không có gì cao hơn. Đức Thầy bảo:“Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền”.
    VÔ SONG: Không có tới hai, không có gì bì kịp.
    ROI TRUYỀN: Cũng gọi là truyền roi. Có nghĩa truyền dạy lại cho người sau noi theo.
    Lời lành của Phật truyền roi”.( ĐT)
    HẬU THẾ: Đời sau, người sau.
    CHÍ ĐỨC: Chí nguyện và đức độ cao cả.
    Noi chí đức Hoàng Thang luật chế”.( ĐT)

    TIỀN NHÂN: Người đời trước.
    MINH MẪN: Sáng suốt thông hiểu:Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện”.( ĐT)
    KHAI THÔNG: Mở mang thông suốt.
    VĨ ĐẠI: To lớn.
    GIẢI THOÁT: Cởi mở sự ràng buộc đeo níu, thoát khỏi 6 nẻo luân hồi sanh tử. Đức Thầy nói:“Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”.
    SA CƠ: Cũng viết là sơ cơ. Chỉ cho kẻ mới phát tâm tu hành, hoặc những người bị sa ngã theo tứ đổ tường hay chìm đắm trong biển sanh tử.

    CÂU HỎI
    1/-Tam Bảo là gì, hãy giải cả sự và lý ?
    2/-Tại sao ta thọ ơn Phật Bảo ?
    3/-Lý do nào ta mang ơn Pháp Bảo ?
    4/-Tại sao ta mang ơn Tăng Bảo ?
    5/-Khi hiểu ân Tam Bảo, ta có quyết định thế nào ?
    6/-Tổ Tiên ta đối với Tam Bảo ra sao, và có hành động gì ?
    7/-Muốn đáp ơn Tam Bảo ta phải làm sao ?
    8/-Đáp ơn Tam Bảo xong ta được kết quả gì ? Bằng ngược lại ta phải làm sao ?

    9/-Hãy tóm tắt ân Tam Bảo ?

    IV.- ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI

    CHÁNH VĂN
    ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh, và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.
    Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chịu với ta.
    Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc-Gia đó. Họ là ai ? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.

    Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp-đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
    Chẳng những thế thôi, ngoài đồng-bào, ta còn có thế-giới người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào ? Ta có đủ vật-liệu để dùng chăng ? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng ? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

    Vả lại cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng huợt. Cái tính ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xoá bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân Loại Chúng Sanh.
    Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình gây ra tai hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hoà, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.

    Đối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo tâm cung-cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại, họ phải nhờ sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.
    Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu dắt sinh linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của Thiện tín.

    LƯỢC GIẢI
    Ở đời không ai có thể sống riêng biệt, mà phải có sự tương quan với các dân tộc trong đất nước mình và với các dân tộc các nước bạn có mặt trong quả địa cầu. Ấy gọi là đồng bào và nhân loại.
    1.- LÝ DO THỌ ƠN ĐỒNG BÀO
    a)- Kẻ thiếu vật nầy, người thiếu vật khác nên cần phải mua bán trao đổi nhau.
    b)- Tương trợ lẫn nhau khi có tai nạn: thiên tai, địa ách, chiến tranh, đau yếu…
    2.- LÝ DO THỌ ÂN NHÂN LOẠI
    a)- Bởi phong hóa và nếp sống giữa nhân loại khác nhau và sự phát minh có mau chậm; không đủ vật liệu cần dùng, nên cần có mua bán và viện trợ lẫn nhau khi thiếu hụt hoặc tai nạn.
    b)- Cùng nhau trao đổi mọi mặt: văn hóa, xã hội, khoa học, kinh tế…
    3.- CÁCH ĐÁP ƠN ĐỒNG BÀO
    a)- Phải biết thương yểu liên kết và giúp đỡ đồng bào từ tinh thần lẫn vật chất.
    b)- Không nên vì lòng tham lam, vị kỷ mà gây khổ cho đồng bào, Đức Thầy đã cảnh giác:

    “Đồng bào nỡ giết nhau chi,
    Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông”.
    Cho nên Ngài hằng khuyên:
    Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống,
    Tha thứ nhau để sống cùng nhau.
    Quí nhau từng giọt máu đào,

    Để đem máu ấy tưới vào địch quân”.
    4.- CÁCH ĐÁP ƠN NHÂN LOẠI
    a)- Hãy nhận thức và thi thố lòng từ bi, bình đẳng của Đức Phật đối với cả nhân loại.
    b)- Đặt tình thương yêu đoàn kết, không phân biệt màu da, chủng tộc:
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.
    ( ĐT)
    c)- Nỗ lực phát triển tinh thần lẫn vật chất.
    d)- Không nên vì mình hay đồng bào mình gây đau thương cho dân tộc khác hay nhân loại.
    e)- Hãy lấy đức nhân hòa, bình đẳng, hỉ xả, từ bi đối xử với cả nhân loại để xây dựng nền an vui hạnh phúc và bác ái đại đồng.
    Đem nguồn sống mới cho nhân loại,

    Để tiến, tiến lên cõi đại đồng”.
    5.- LỢI ÍCH
    Người đáp được ân đồng bào và nhân loại sẽ được nhiều lợi ích đáng kể:
    a)- Đem lại nếp sống tự do, bình đẳng cho đồng bào và nhân loại, thế giới hết chiến tranh.
    b)- Được đời ca ngợi là bực Hiền Thánh.
    c)- Khi lâm chung đặng siêu thoát.
    6.- TAI HẠI
    Nếu người không đáp ân đồng bào và nhân loại, sẽ gặp nhiều tệ hại:
    a)- Đưa dân tộc mình đến chỗ lạc hậu.
    b)- Sống lối ích kỷ tổn nhân.
    c)- Chết đọa ba đường ác.

    KẾT LUẬN
    Đại lược, con người không ai sống đơn độc. Nếu có tương quan tất có thọ ơn đồng bào nhân loại. Thế nên ta cần phải lo đền đáp cho trọn vẹn để được phúc báo trong hiện tại, và tương lai sẽ đặng siêu thoát khổ đau sanh tử.

    CHÚ THÍCH
    ĐỒNG BÀO: Cùng một bọc, một bào thai sanh ra. Đồng bào có hai nghĩa:
    1/-Nghĩa rộng là những người cùng sống chung một vòm trời, một giồng đất hay một giống dân (cũng gọi là Trời cha Đất mẹ).
    2/-Nói riêng về giống Việt Nam thì do bà Âu Cơ, vợ vua Lạc Long Quân sanh ra một cái bọc, có 100 trứng, nở ra 100 người con. Tương truyền 100 người con ấy sản sanh giống Việt Nam, nên dân tộc ta thường gọi nhau bằng đồng bào:
    Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông.
    Nắm tay trở lại cánh đồng,
    Cần lao nhẫn nại Lạc Long Tổ truyền
    .( ĐT)
    NHÂN LOẠI: Loài người. Chỉ cho các dân tộc sống chung trong quả Địa cầu.
    NIÊN KỶ: Số năm, tuổi tác.
    PHONG VŨ: Gió và mưa, chỉ cho thời tiết.
    QUỐC GIA: Nhà nước hay nước nhà.
    CHỦNG TỘC: Nòi giống.
    OANH LIỆT: Khí khái anh hùng hay công nghiệp lừng lẫy.
    TƯƠNG TRỢ: Giúp đỡ lẫn nhau.
    TIỀN ĐỒ: Con đường tương lai.
    NGUY BIẾN: Tai biến ngặt nghèo.
    GIANG SAN: Sông núi. Ý chỉ cho đất nước.

    LIÊN QUAN: Liên hệ giữa nhau.
    MẬT THIẾT: Gần sát nhau, thân mật nhau.
    MUÔN MỘT: Một phần trong muôn phần.
    THẾ GIỚI: Cũng viết là thế gian. Có nghĩa gồm cả không gian và thời gian. Nghĩa thứ hai là vũ trụ hoàn cầu, chỉ chung cho các nước trên mặt đất. Ví dụ: Thế giới ta bà chúng ta đang sống.
    CẬM CỤI: Cần cù, cố gắng.
    CẦN LAO: Siêng năng khó nhọc.
    CUNG CẤP: Tiếp giúp cho, cấp phát cho.
    NHU CẦU: Cần dùng mà tìm kiếm.
    CẦN THIẾT: Cần có mới được.
    ĐỊA CẦU: Trái đất.
    TỰ TÚC: Tự làm cho mình được đầy đủ.
    NHIỆT HÀN: Nóng nực và rét lạnh.
    ĐỒNG CHỦNG: Cùng chung một nòi giống.
    TỪ BI: Hai trong bốn đại đức của chư Phật. Hán học giải là hiền lành thương xót. Phật học giải là ban vui cứu khổ; do câu:Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh chi lạc, Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ”. Đức Thầy có giải:
    1- Đức Từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến hết lòng dìu dắt dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não”.
    “2- Đức Bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe làm điều độc ác để phải tội, thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng”.

    BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn.
    THÂM HUYỀN: Sâu kín mầu nhiệm.

    QUẢNG HƯỢT: Rộng rãi bao la.
    NHÂN HÒA: Lòng thương yêu hòa hài tốt đẹp và thích hợp. Đức Thầy có câu:
    Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa,
    Chữ thuận thảo hay hơn là tranh đấu”.

    HỈ XẢ: Thường an vui và không câu chấp, vướng mắc. Là hai trong bốn đại đức của chư Phật. Đức Thầy có giải:
    “3- Đức Hỉ: thường thường an vui mà làm những việc lành, dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã”.
    “4- Đức Xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh tài sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái”.
    HOẠN NẠN: Tai nạn, gian lao khổ sở.

    THIỆN NAM: Phiên âm Phạn ngữ Ưu Bà Tắc, dịch là Cận sự Nam. Có nghĩa: hàng nam giới tu tại nhà, thọ tam qui ngũ giới, thường thân cận các chùa lễ Phật nghe Pháp và giúp đỡ các Tăng Ni.
    TÍN NỮ: Phiên âm Phạn ngữ là Ưu Bà Di, dịch là Cận sự Nữ, tức chỉ cho hàng nữ giới tu tại gia thọ tam qui ngũ giới. Thường thân cận các chùa lễ Phật nghe Kinh pháp và giúp đỡ các Tăng Ni.
    HẢO TÂM: Lòng tốt đối với mọi người.
    CHƠN LÝ: Lý lẽ chơn thật, lẽ phải. Chơn lý cũng gọi là Đạo. Đức Thầy có viết:
    Bàn với luận đặng coi chơn lý”.
    CHIẾU CỐ: Đoái tưởng và chăm sóc đến.


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa chữ đồng bào và nhân loại ?
    2/-Tại sao ta thọ ơn đồng bào ?
    3/-Đồng bào ta và ta có liên quan mật thiết như thế nào ?
    4/-Muốn đáp ơn đồng bào phải làm sao ?

    5/-Lý do nào ta mang ơn nhân loại ?
    6/-Tại sao ta không nên gây tai hại cho dân tộc khác ?
    7/-Tư tưởng ta đối với nhân loại như thế nào ?

    ÂN ĐÀN NA THÍ CHỦ

    CHÁNH VĂN
    Đối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo tâm cung-cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại, họ phải nhờ sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.
    Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu dắt sinh linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của Thiện tín.

    LƯỢC GIẢI
    Các Tăng Ni xuất gia ngoài việc thọ bốn điều ân vừa kể qua, còn phải chịu thêm ân “Đàn Na Thí Chủ”.
    1- LÝ DO THỌ ƠN
    a)- Chư thiện tín quan niệm rằng: Các Tăng Sư không có sinh hoạt đời sống, chỉ lo Phật sự, tự giác, giác tha. Là bậc đại phước điền của chúng sanh.
    b)- Nên các nhà hảo tâm thường giúp đỡ các Tăng, Ni mọi phương tiện: cơm ăn, thuốc uống, y phục và các phương tiện nghỉ ngơi.
    2- CÁCH ĐÁP ƠN

    a)- Mỗi Tăng Ni đều phải noi gương Đức Phật tu hành cho đến khi thành quả.
    b)- Phát đại nguyện độ tận chúng sanh.
    c)- Cố gắng học và hành trì Kinh pháp.
    d)- Giác tỉnh thiện tín tầm ra chơn lý tu hành.
    3- LỢI ÍCH ĐÁP ƠN ĐÀN NA
    Người đáp được ân Đàn Na sẽ đặng lợi ích:
    a)- Gieo duyên lành với khắp cả.
    b)- Độ đặng vô số chúng sanh tu hành giải thoát.
    c)- Chính mình cũng mau đạt quả vô thượng Bồ đề.
    4- TAI HẠI KHÔNG ĐÁP ƠN ĐÀN NA\

    a)- Bị xa lần Chánh Đạo, chôn lấp thiện căn.
    b)- Luân hồi vô lượng kiếp báo đền nghiệp nợ. Kinh xưa đã bảo:
    Thập phương nhứt lạp mễ,
    Như đại Tu Di sơn.

    Thực liễu bất tu Đạo,
    Phi mạo đái giác hườn”.

    (Một hột cơm của “Đàn na thí chủ” nặng như hòn núi Tu Di. Nhà tu dùng rồi mà chẳng lo tu cho đắc Đạo thì phải luân hồi mang lông đội sừng (thú) để đền trả.)

    KẾT LUẬN
    Hạnh tu xuất gia là hạnh giải thoát cao cả, song ân “Đàn na thí chủ” cũng nặng lớn vô biên. Hành giả phải hy sinh từ vật chất lẫn tinh thần và thực hiện lòng tự giác, giác tha cho đến khi giác hạnh viên mãn.
    Nếu xuất gia thì phải hy sinh,
    Cả vật chất tinh thần lo Đạo”.( ĐT)

    TỔNG KẾT
    Phẩm báo “Tứ Đại Trọng Ân” khi xưa Đức Phật đã dạy chư Bồ Tát trì hành để đạt đại thừa trong Phật Đạo. Ngày nay Đức Giáo Chủ PGHH đặt Tứ Ân trong phần Nhân Đạo thì đủ biết Đạo Nhân của Ngài dạy siêu thượng đến chừng nào !
    Căn cứ theo tôn chỉ PGHH, Tứ Ân là phần ân nợ. Nếu ai thi hành được, chẳng những đáp đặng phần ân nợ mà còn tạo được vô lượng phước đức để làm món tư lương bước lên thuyền trí huệ, tiến sang bờ giác:

    Tu đền nợ thế cho rồi,
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.( ĐT)

    CÂU HỎI
    1/-Các tăng ni xuất gia có thọ mấy ân ?
    2/-Lý do nào thọ ân Đàn na thí chủ ?

    3/-Muốn đáp ân Đàn na thí chủ phải làm sao ?
    4/-Người đáp ơn Đàn na thí chủ được lợi ích gì ?
    5/-Kẻ không đáp ơn Đàn na thí chủ tai hại ra sao ?
    6/-Cho biết mục kết luận của Ân Đàn na thí chủ ?
    7/-Phần tổng kết phẩm đáp Tứ Ân ra sao ?

    LUẬN VỀ TAM NGHIỆP
    Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay không, cũng phải chịu sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một chữ Đạo. Đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân”, và nó là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật tất chết.
    Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập Ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng thiếu nợ.
    Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:

    - Thân-nghiệp: tội lỗi do xác thịt gây nên.
    - Khẩu-nghiệp: tội lỗi do miệng gây nên.
    - Ý-nghiệp: tội lỗi do ý tưởng gây nên.
    Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:

    - Thân-nghiệp sanh 3 điều ác :
    1.- Sát-sanh,

    2.- Đạo-tặc,
    3.- Tà-dâm.
    - Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác:
    1.- Lưỡng-thiệt,

    2.- Ỷ-ngôn,
    3.- Ác-khẩu,
    4.- Vọng-ngữ.
    - Ý-nghiệp sanh 3 điều ác:
    1.- Tham-lam,
    2.- Sân-nộ,

    3.- Mê-si.

    LƯỢC GIẢI
    Mỗi chúng sanh trong trần, ai ai cũng phải đi theo định nghiệp của Nhân và Quả. Định nghiệp ấy cũng gọi là Đạo, tức là do thân tâm của mình tự tạo rồi hưởng lấy. Cho nên cũng gọi nó là con đường, nếu làm lành, tức đi trúng thì sống, bằng tạo hung dữ, tức là đi trật ắt chết.
    Vậy ai muốn cho mình được trọn lành để sống thì đồng thời với đáp tứ ân, cần phải trừ ba nghiệp chướng và tránh 10 điều ác.

    CHÚ THÍCH
    CHI PHỐI: Cầm giữ sai khiến, chỉ huy, điều khiển.
    ĐỊNH LUẬT: Luật lệ đã định sẵn không sai chạy. Đây chỉ cho định luật nhân quả.
    THIÊN NHIÊN: Tự nhiên, phải như vậy. Cũng chỉ cho luật tạo hóa hay luật nhân quả.
    ĐẠO: Chữ Đạo có ba nghĩa.
    1/-Đạo là con đường của tâm hồn: Có nghĩa ai tạo nghiệp nào, khi thác sanh về cảnh giới ấy. Đức Thầy bảo:
    “Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,
    Về thiên đàng tâm ấy tạo ra.
    Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó”.

    2/-Đạo là bổn phận: Có nghĩa: người ở vào địa vị nào thì sử dụng đúng theo phận sự nấy, như: Đạo vua tôi, thầy trò, cha con, chồng vợ, huynh đệ và bè bạn. Đó là về phần “tu Nhân” xử thế. Còn phần nội tâm “tu Phật” Đức Thầy có dạy:“Cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với trời Phật, của mình đối với mình”.
    3/-Đạo là bản thể tuyệt đối: Tức là cái chơn tâm diệu minh của mỗi người, tạm chia làm 3 phần: TƯỚNG, DỤNG và THỂ:
    -Với cặp mắt thường nhân ta nhìn vào cái Đạo thấy có vị trí chùa am, Kinh văn giáo điển; nhưng thật thể của nó là chẳng có hình tướng, sắc màu hay ngữ ngôn đối đãi, nên gọi có mà không là TƯỚNG của ĐẠO.
    -ĐẠO vốn không có hình tướng sắc màu hay văn từ ngôn ngữ, nhưng vì có nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên phải vào đời áp dụng mọi phương tiện tổ chức và Kinh Pháp để giáo hóa nhân sanh; nên gọi không mà có là DỤNG của ĐẠO.
    -ĐẠO tuy không có hình tướng sắc màu hay văn từ ngôn ngữ và cũng chẳng có tên chi gọi được:(Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thườnh Danh). Nhưng trong cái không nầy nó hàm chứa cái mầu nhiệm sáng suốt vô cùng tận, chẳng thể nghĩ lường được, cho nên gọi Không mà chẳng Không là THỂ cuả ĐẠO.
    Do đó, hễ nói tới Đạo tức nói tới tâm.“Đạo không rời bản tâm”.
    Đạo tại tâm, tâm Đạo tích tùng,
    Tùng tâm Đạo mới là Phật Đạo
    .(Giảng Xưa)
    ĐẠO NHÂN: Cũng gọi là Nhân Đạo. Có nghĩa Đạo làm người, bổn phận làm người. Đức Thầy khuyên:Rán tu nhân Đạo cho tròn mới hay”.
    ĐI TRÚNG THÌ SỐNG, BƯỚC TRẬT TẤT CHẾT: Câu nầy có nghĩa ai thi hành đúng theo con đường nhân đạo của Đức Thầy đã vạch, tuy xác thân cũng chết, nhưng linh hồn được siêu thoát và danh tốt được muôn đời nhắc nhở, nên gọi là sống. Bằng hành sai con đường Đạo thì xác thể chết, linh hồn bị đọa lạc trầm luân và tiếng xấu lưu mãi tới đời sau. Ấy gọi là chết.
    NGHIỆP CHƯỚNG: Nghiệp là việc làm, là nguyên nhân gây tạo; chướng là quả, là ngăn che trở ngại. Kinh Phật giải nghiệp chướng có ba món: - Phiền não chướng, Nhân chướng và Báo chướng. Đức Thầy giải là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp.
    Do ba nghiệp chướng ấy, gây tạo 10 điều ác rồi bị quả báo trả lại làm chướng ngại con đường giải thoát của mình:“Nghiệp chướng lăng loàn hại xác thân”.( ĐT)

    CÂU HỎI
    1/-Định luật thiên nhiên là định luật gì ?
    2/-Hãy cho biết ý nghĩa của chữ Đạo ?
    3/-Ta phải tu làm sao mới tròn Nhân Đạo ?
    4/-Đức Thầy bảo:“ Đi trúng thì sống, bước trật thì chết” hãy cho biết sự sống chết ấy như thế nào ?


    1.- ÁC SÁT SANH

    CHÁNH VĂN
    SÁT SANH.- Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.
    Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng … nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.
    Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với người.
    Người đối với thú cầm, sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế-lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời Đất có thể sát sanh hại vật cúng tế cầu cho tội-quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm, huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên-nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền các tội ác trước được.

    Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú-vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân-loại vậy.
    Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia-súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo … chẳng khá sát-hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cử hẳn.

    LƯỢC GIẢI
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Sát sanh là giết hại mạng sống của loài hữu tình. Kể cả loài người và các sanh vật.
    2- NGUYÊN NHÂN SANH HUNG ÁC:
    -Vì sống chungvới người hung dữ ở chung quanh, rồi ô nhiễm những điều xấu xa, con người trở nên độc ác. Đức Thầy đã bảo:
    Sách Thánh Đạo ghi trong Tam Tự,
    Người mới sanh tánh thiện trời dành.
    Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
    Nên tật xấu che mờ thiện tánh”.

    3- LÝ DO NGƯỜI GIẾT NGƯỜI:
    a)- Vì muốn đạt được danh, lợi, tình hay vì thù hềm, hoặc háo thắng.
    b)- Vì mưu cầu lợi ích riêng cho mình, cho phe nhóm, quốc gia mình mà sanh tâm sát hại kẻ khác, nước khác.
    4- CẢNH TRẠNG:
    a)- Nhân loại khắp thế giới: dân tộc nước nầy đánh giết dân tộc nước khác.
    b)- Trong trào nội: Vua tôi, quan lính giết nhau.
    c)- Ngoài lê thứ: Thầy trò, chủ tớ, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn cùng xâu xé, giết hại lẫn nhau.
    Đức Thầy đã diễn tả cảnh trạng ấy:
    “Viết đến đây động lòng rào rạt,
    Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.

    Nào kể chi là Đạo Quân thần,
    Tôi giết chúa, con đành sát phụ.

    Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
    Trò giết thầy, tội ấy đáng không ?
    Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
    Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.

    Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
    Giành của tiền cốt nhục giết nhau.

    Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,
    Tình nhân loại phân chia yểm bách”.

    4- LÝ DO NGƯỜI GIẾT VẬT:
    a)- Vì muốn ăn ngon (thỏa thích khẩu dục).
    b)- Vì sự mê tín và cúng tế ông bà.
    c)- Vì sự vui thích, ỷ mạnh hiếp yếu mà sát hại các sanh vật.
    6- TÁC HẠI:
    a)- Người tạo nghiệp sát hại thì kiếp nầy hoặc kiếp khác thường bị thân hình xấu xí, bệnh tật, chết yểu.(Xưa có đứa bé bắn một con chim mà phải ba kiếp chết yểu. Còn 3 người lái buôn vui vẻ ca ngợi tài bắn của đứa bé mà phải làm cha để chịu khổ cùng đứa bé.)
    b)- Luôn gặp nạn chiến tranh binh lửa.(Dân chúng thôn Chi Việt bắt tôm cá dưới hồ Đa Ngư ăn thịt, sau tiến lên là dân chúng dòng họ Thích. Còn loài thủy tộc dưới hồ Đa Ngư, sau tiến lên là vua Lưu Ly, Háo Khổ và binh lính của Lưu Ly, sau cùng kéo quân đến tiêu diệt dòng họ Thích để thanh toán món nợ từ trước.)
    c)- Nghiệp báo lưu truyền nhiều đời nhiều kiếp.
    7- GIẢI TRỪ:
    Để giải trừ ác sát sanh, ta nên thi hành các phương cách như sau:
    a)- Phát sanh lòng từ bi bình đẳng, tin luật nhân quả rất nghiêm minh. Đối với nhân loại thì “Chớ sát hại mạng người như thế” và :Nếu thiệt người thì biết thương người”.( ĐT)
    b)- Đối với sanh vật chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” mà phải xét rằng sanh vật cũng có linh hồn, thân xác, tham sống, sợ chết như ta. Nên không giết vô cớ mà phải hạn chế thức ăn vừa đủ nhu cầu, nếu trường chay được càng tốt.
    c)- Không vì mê tín dị đoan, hoặc cúng tế ông bà hay vì sự vui thích mà giết vật. Đức Thầy hằng khuyên dạy:
    “Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
    Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
    Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
    Phải ăn năn phước điền tạo tác,
    Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời.
    Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
    Xuống phước rộng Từ Bi Hỉ Xả.
    Đấnh Thần minh công bình trực dạ,

    Đâu ăn lo đổi họa làm may.
    Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,
    Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.
    8- LỢI ÍCH:
    a)- Ai chừa được ác sát sanh thì thân hình đẹp đẽ, ít bệnh tật, sống lâu và thoát khỏi luân hồi quả báo. Cửu Huyền Thất Tổ bớt tội, mau siêu thăng.(Xưa, có lần Phật dắt A Nan đi đến mé biển. Thấy có đám ngạ quỉ vừa đi, vừa bị lửa đốt than khóc thảm thiết. A Nanbạch hỏi lý do ? Phật đáp: Vì con cháu của họ chẳng những không tu nhơn tích đức, lại còn sát sanh hại vật cúng tế theo lối dị đoan, nên họ bị nghiệp quả bức bách mà than khóc như vậy. Đi một đỗi nữa lại gặp số ngạ quỉ khác, vừa đi vừa ca hát vui mừng. ANan cũng bạch Phật hỏi lý do ? Phật đáp: Sở dĩ số ngạ quỉ nầy vui mừng là vì con cháu của họ trên dương thế biết lo tu hành trường chay giới sát, làm phước phóng sanh hồi hướng phước đức cho họ, nên họ sắp được vãng sanh mà vui mừng như vậy.)
    b)- Lòng từ bi bình đẳng ngày càng vượng lớn và sớm trổ quả Bồ đề. (Phật kể tiếp: Tiền thân xa xưa có lần Ngài bị đọa làm thân quỉ sứ, cùng quỉ sứ bạn đẩy xe cho quỉ sứ chúa đi. Quỉ sứ bạn làm xe nghiêng, Quỉ chúa nghiềm xà mâu đâm quỉ sứ bạn. Quỉ tiền thân động lòng nhơn can gián. Quỉ chúa liền trở xà mâu đâm quỉ tiền thân chết tốt…Nhờ đó mà thoát được kiếp quỉ sứ. Nhờ hạt giống từ bi ấy mà nhiều kiếp sau thành quả Bồ đề.)

    KẾT LUẬN
    Đại lược ác sát sanh là đứng đầu trong thập ác. Nó cũng là hạt giống trong luân hồi sanh tử. Hành giả có diệt trừ được nó thì quả đạo sớm trọn lành, lòng từ bi, bình đẳng phát sanh, để tiến đến ngôi chánh đẳng chánh giác.

    CHÚ THÍCH
    BẠO NGƯỢC: Hung dữ ngang ngược.
    Ô NHIỄM: Cũng gọi là nhiễm ô. Có nghĩa đắm nhiễm theo việc nhơ xấu đen tối.
    LỢI DANH: Tài lợi và danh vị (hai điều trong Lục dục). Con người vì tham danh lợi, mãi đắm chìm trong biển khổ sanh tử. Đức Thầy hằng khuyên:
    Xin đừng đeo đắm lợi danh,
    Bỏ trôi Đạo đức hư danh dạy truyền”.

    THÙ HỀM: Chứa mối thù trong lòng hầu làm cho lợi gan:“Cứ lo tranh đoạt thù hềm với nhau”.( ĐT)
    HÁO THẮNG: Thích tranh đua, muốn ra mặt hơn người, không khiêm nhượng:
    Bị háo thắng việc người không thấy,
    Rồi mảng lo gièm siểm nhiều lời”.
    ( ĐT)
    TƯƠNG TÀN TƯƠNG SÁT: Giết hại lẫn nhau. Giữa thân bằng, đồng bào, cốt nhục giết chóc lẫn nhau.
    CẦM THÚ: Thú là gồm các loài thú sống trên mặt đất. Cầm là các loài chim. Chỉ chung cho các giới súc sanh.
    DỊ ĐOAN: Dị là lạ; Đoan là manh mối. Chỉ cho các tà đạo hay bày ra những điều mị dối lạ lùng để gạt gẫm người đời (Chuyện Vô Não bị Thầy Bà La Môn gạt gẫm…). Đức Thầy khuyên:
    Bỏ dị đoan mới thấy Đạo mầu,
    Bớt giả dối gặp người thượng cổ”.

    MÊ TÍN: Sự tin tưởng mù quáng, nhắm mắt tin càn, không suy xét cẩn thận.
    HOANG PHÍ: Xài lãng phí, dùng quá nhiều, quá dư, không đúng nhu cầu cần thiết.
    TỘI QUẢ: Gây nhân tội lỗi rồi bị quả báo.
    HUYỄN HOẶC: Lừa dối để gạt người dễ lầm.
    SIÊU HÌNH: Phần chơn linh, không có hình tướng.
    THÁNH THẦN: Thánh là bậc sáng suốt, tài năng, đạo đức hơn người và hay giúp đời; nên sau khi từ trần được người đời tôn kính là Thánh.
    THẦN: là các vị trung quân ái quốc, nhân nghĩa công bằng, nên khi quá vãng được mọi người xưng tụng là Thần:
    Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.
    ( ĐT)
    NGUYÊN NHÂN: Cái cớ, cái gốc đầu tiên, do đó mà sanh ra một kết quả gì.
    HỌA HOẠN: Tai nạn, sự rủi ro.
    CĂN TIỀN: Gốc trước:
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền”.( ĐT)
    ĂN NĂN: Nghĩa của chữ “Sám hối”, tức là ăn năn lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau (Sám kỳ tiền khiên, Hối kỳ hậu quá). Đức Thầy thường dạy:
    Chữ tự hối nào ai có lạ,
    Là ăn năn cải sửa tâm lành”.

    PHƯỚC ĐIỀN: Ruộng phước. Ý chỉ sự tu phước, như: bố thí, giúp đời, làm các việc từ thiện…Bởi các việc ấy có năng lực tăng trưởng phước đức cho nhà tu. Ví như nhà nông gieo lúa xuống ruộng tốt, đến mùa thu hoạch lúa được nhiều. Phật dạy có ba miếng ruộng tốt nhất:
    1-ÂN ĐIỀN, cũng gọi là “Báo ân phước điền” có nghĩa đáp ơn rộng lớn của Tổ Tiên cha mẹ.
    2-KÍNH ĐIỀN, cũng gọi là “Công đức phước điền” có nghĩa đền đáp hồng ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).
    3-BI ĐIỀN, cũng gọi “Từ bi phước điền” có nghiã mở lòng thương và cứu tế vạn loại chúng sanh. Đức Thầy dạy:Phải ăn năn phước điền tạo tác”.
    CAO HỨNG: Hứng thú cao mạnh hơn lúc thường.
    SINH HOẠT: Làm ăn sanh sống.
    SÁT SANH VÔ CỚ: Giết hại sanh vật không có duyên cớ chánh thức, như đủ ăn rồi mà còn giết thêm, hoặc giết quá dư rồi bỏ (lãng phí).


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa chữ sát sanh ?
    2/-Nguyên nhân nào người ta sanh hung dữ ?
    3/-Lý do nào người ta hay giết người ?
    4/-Cảnh trạng người giết người ra sao ?
    5/-Người giết vật có mấy trường hợp, kể ra ?
    6/-Kẻ tạo nghiệp sát sanh có tai hại gì ?
    7/-Muốn không giết người ta phải làm sao ?
    8/-Muốn không giết vật ta cần có những điều kiện gì ?
    9/-Người chừa ác sát sanh được lợi ích như thế nào ?

    2- ÁC ĐẠO TẶC

    CHÁNH VĂN
    ĐẠO TẶC.- Câu “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chửa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ này ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã-hội này, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội-nhân gây ra những tai biến trong những gia-đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh-phúc của con người.
    Cơ-hàn đói khổ, thay vì phải làm-lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới Trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu ăn-năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi-nghĩa.

    LƯỢC GIẢI
    (Đây là ác thứ hai trong Thân nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Đạo tặc là trộm cướp gian lừa. Vô công mà lấy của quốc gia hay của người khác về làm của mình đều gọi là Đạo tặc.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Vì ý muốn không làm có ăn, không lo có mặc, nên kẻ trộm cướp thường mượn câu:“Bần cùng sanh đạo tặc, Phú quới tác lễ nghi” để chữa mình.
    3- HÀNH TRẠNG:
    a)- Hành động kẻ đạo tặc là gây nên thảm trạng: trộm cướp sát nhân, sống ngoài vòng pháp luật, phá rối an ninh và hạnh phúc mọi người.

    b)- Lường gạt, chiếm đoạt của công hoặc tư, đến như những đồ vặt vụn: củi đuốc, trái cà, trái ớt cũng vơ vét về làm của mình.
    4- TAI HẠI:
    Những kẻ hành nghề đạo tặc là lớp người cặn bã của xã hội, sống bị đời khinh miệt, luật pháp phân xử, chết bị luân chuyển báo đền…(như câu chuyện “Thập Bát La Hán”…hoặc “Anh học trò thi rới và con lừa” của ông Bàn Công Cư sĩ)
    “Tội chập chồng đâu biết ở mô,
    Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”.( ĐT)
    5- GIẢI TRỪ:
    a)- Muốn giải trừ ác đạo tặc, trước nhứt ta phải nghĩ đến công mồ hôi nước mắt của người tạo ra tiền của.
    b)- Phải ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân và bỏ điều phi nghĩa. Luôn nhớ lời cảnh tỉnh của Đức Thầy:
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
    Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
    Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

    6- LỢI ÍCH:
    Người chừa đặng ác Đạo tặc sẽ được lợi ích:
    a)- Tiền của không bị nạn nước lửa, lường gạt, cướp giựt hay con cháu phá tán.
    b)- Được mọi người chung quanh yêu kính và thân tâm thường phúc lạc yên ổn.
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
    Cứ bền chí có ngày thong thả”.
    ( ĐT)
    KẾT LUẬN
    Nói tóm lại, ác Đạo tặc là một trong 10 điều ác, cũng là một trong ngũ giới. Nhà tu diệt trừ được nó chẳng những an vui trong kiếp sống hiện tại mà tương lai còn đặng giải thoát luân hồi sanh tử.

    CHÚ THÍCH
    BẦN CÙNG SANH ĐẠO TẶC: Người nghèo khổ cùng quẫn thường sanh ra trộm cướp gian lừa.
    BẤT LƯƠNG: Chẳng hiền lành.
    VÔ ĐẠO: Không có đạo đức nhân nghĩa.
    LƯƠNG DÂN: Dân lành, chỉ chung cho dân chúng biết lo làm ăn chơn chất.
    KIỆM TIẾT: Kiệm là bồi chỗ thiếu, tiết là bớt chỗ dư. Đây chỉ cho người ăn xài có chừng mực.
    CƠ HÀN: Đói lạnh (rét). Nghĩa bóng là cảnh nghèo đói khổ sở.

    LƯỚI TRỜI: Luật trừng phạt tự nhiên của tạo hóa (nhân quả). Sách Thánh có câu:
    Thiên võng khôi khôi phân khúc trực,
    Thần linh hích hích định khuy vinh”.
    (Lưới trời lồng lộng chia ngay vạy,
    Thần linh tỏ xét việc đầy vơi).
    Đức Thầy bảo:
    Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”.
    LUẬT HÌNH: Cũng gọi là hình luật hay hình pháp. Có nghĩa luật pháp để trừng trị người có tội.
    BÁO ỨNG: Trả lại, làm lành trả lành, làm dữ trả dữ.
    VÔ NGHÌ: Không có tình nghĩa, Đạo nghĩa.
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì”.( ĐT)
    PHI NGHĨA: Chẳng phải nghĩa, chẳng đúng với lẽ phải.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa ác Đạo tặc ?
    2/-Thâm ý của kẻ đạo tặc ra sao ? Và họ mượn câu gì để chữa mình ?
    3/-Hành động kẻ đạo tặc như thế nào ?
    4/-Tai hại kẻ đạo tặc ra sao ?
    5/-Muốn chừa ác đạo tặc ta phải làm thế nào ?
    6/-Trừ xong ác đạo tặc ta được lợi ích gì ?
    7/-Cho biết kết luận của ác đạo tặc ?

    3- ÁC TÀ DÂM

    CHÁNH VĂN
    TÀ DÂM.- “Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.

    Lần dở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan-diễn khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia-đình đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-Lộc-Sơn với Dương-Quý-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế ? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng-bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
    Muốn tránh sự bại-hoại nền luân-lý nước nhà, muốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục-tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau-giồi lòng hiếu trung, trinh tiết.

    LƯỢC GIẢI
    (Đây là ác thứ ba trong Thân nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    TÀ DÂM: Phá hoại tiết trinh của nữ giới, hoặc thông dâm với vợ con hay chồng của kẻ khác, không phải vợ chồng chánh thức.
    2- SO SÁNH LÀNH DỮ:
    Đức Thầy bảo:
    “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu,
    Ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”.

    2- CẢNH TRẠNG TÀ DÂM:
    -Từ trào nội Vua quan, trong gia đình quyến thuộc, đến các giới dân chúng tội ác nầy xưa nay đều có xảy ra. Đức Thầy đã diễn tả:
    “Ác tà dâm thứ năm càng tệ,
    Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần.
    Làm đảo huyền tất cả quốc dân,

    Tôi bất chánh Hoàng cung dâm loạn.
    Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
    Từ xưa nay trời đất đâu dung.
    Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,

    Quan lấn thế dâm ô dân khó”.
    4- TAI HẠI:
    a)- Kẻ dâm loan thường gây chiến tranh thù hận, thanh toán lẫn nhau, tiêu tan sự nghiệp. Như vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quí Phi.
    b)- Thân xác bệnh tật, trí huệ mờ lu, chết đọa ba đường ác. Như Trung Hoa có vua Trụ, vua Kiệt…ViệtNam có Lê Ngọa Triều…
    5- GIẢI TRỪ:
    a)- Để diệt trừ tệ trạng tà dâm, mỗi người nên làm chủ tâm hồn, đừng để dục tình lôi cuốn.
    b)- Noi gương các bậc trung trinh tiết liệt; giữ gìn luân lý, lễ nghi và thuần phong mỹ tục của nước nhà. Đức Thầy thường cảnh giác người đời:
    Trai liều lĩnh điều nầy nên bỏ,
    Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
    Gái lẳng lơ tiếng quyển lời đờn,
    Hoa có chủ đèo bòng tình mới.
    Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi !

    Bỏ những điều điếm nhục tông môn,
    Đấng nam nhi học lấy điều khôn,

    Lòng trung hiếu gìn theo Đạo lý.
    Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,
    Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền”.

    6- LỢI ÍCH:
    Người chừa được ác tà dâm thì được các điều lợi ích:
    a)- Tông môn không bị đời biếm nhẻ, quyến thuộc chẳng bị kẻ khác gạt gẫm dâm loạn.
    b)- Thân hình tốt đẹp trang nghiêm và trường thọ.
    c)- Trí huệ mau sáng suốt và đoạn lần hột giống sanh tử.
    KẾT LUẬN
    Tóm tắt, tà dâm là ác đứng đầu trong các tội ác. Chính nó làm nảy sanh muôn ngàn tội ác khác. Nó cũng là nghiệp nhân ràng buộc con người trong luân hồi sanh tử. Cho nên nhà tu quyết định phải trừ dứt để được tự tại an vui trên đường sang cõi Phật.

    CHÚ THÍCH
    THẢM TRẠNG: Tình trạng thê thảm, những sự trạng xảy ra rất đau buồn, thảm thiết.
    VUA TỀ VỚI VỢ TỬ THÔI: Vua Tề tức Tề Trang Công, thời Chiến Quốc (trung Hoa). Nguyên là Thái Từ Quang. Bấy giờ Thôi Tử làm quan Thượng Khanh cho Vua Tề. Tử có người vợ là Đường Khương, sắc đẹp hơn người. Vua Tề dâm loan với nàng Đường Khương, nên sau bị Thôi Tử gạt vua vào nhà rồi giết chết.

    AN LỘC SƠN VỚI DƯƠNG QUÍ PHI: Dương Quí Phi sanh đời Đường (Trung Hoa), hiệu là Thái Chân. Nàng có sắc đẹp khuynh thành và trí thông minh, được Thái Tử Long Cơ yêu, cưới về làm vợ. Song Vua cha là Đường Huyền Tông quá say mê sắc đẹp Thái Chân, bèn đoạt lấy phong làm Dương Quí Phi. Còn An Lộc Sơn làm Tiết Độ Sứ cho Vua Đường (gốc là rợ Khiết Đan). Sơn a tùng với Lý Lâm Phủ (tôi gian nịnh) vào làm con nuôi của Quí Phi, để cùng Quí Phi dâm loan và mưu đồ cướp ngôi nhà Đường. Cuối cùng việc bại lộ, quan quân nhà Đường buộc vua Đường xử Quí Phi phải thắt cổ mà chết để đền tội. Sau cánh quân của An Lộc Sơn bị tan rã và Sơn cũng chết.
    CƯỠNG BỨC: Cũng viết là cường bức. Có nghĩa dùng sức mạnh hoặc quyền thế hiếp dâm người.
    GIAN PHU: Đàn ông trai gái với vợ con người khác.
    DÂM PHỤ: Đàn bà lấy trai hoặc lấy chồng người khác.
    BẠI HOẠI: Hư hỏng tồi tàn.
    GIA THẾ: Thế hệ của một gia đình thân tộc.
    LUÂN LÝ: Những lý lẽ Đạo đức của phận làm người, sự giáo dục con người theo một tập tục tốt lành.
    Rán giữ gìn luân lý tam cang,
    Tròn đức hạnh mới là báu quí”.
    ( ĐT)
    DỤC TÌNH: Cũng gọi là tình dục. Có nghĩa sự ham muốn về xác thịt nam nữ gần nhau cho thỏa lòng dâm.
    HIẾU TRUNG: Hai việc then chốt của Đạo làm người. Trung thành với Tổ quốc và hiếu thảo với ông bà cha mẹ (xem hai điều trong Tứ Ân). Đức Thầy hằng khuyên:
    Hiếu trung lòng chớ vội quên,
    Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên Đài”.

    TRINH TIẾT: Cũng gọi là tiết trinh. Có nghĩa sự trong sạch, trọn tiết, không để thất thân.
    Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,
    Gái tiết trinh mới gái Nam Trào
    .( ĐT)

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa chữ Tà dâm ?
    2/-Lầy câu gì chứng minh cho tà dâm là tội lớn ?
    3/-Sự trạng tà dâm ra sao, có sự tích nào chứng minh ?
    4/-Người phạm ác tà dâm có tai hại gì ?
    5/-Muốn trừ tà dâm phải làm sao ?
    6/-Diệt được ác tà dâm ta đặng lợi gì ?
    7/-Tóm tắt ác tà dâm ra sao ?






     
  2. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    4- ÁC LƯỠNG THIỆT

    CHÁNH VĂN

    LƯỠNG THIỆT.- Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt này đã làm duyên-cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi vã, gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất hoà, hiềm-khích.
    Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành-thật, chánh đáng, được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác-cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.


    LƯỢC GIẢI

    (Đây là ác thứ nhứt trong Khẩu nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:

    LƯỠNG THIỆT: Hai lưỡi, lời nói hai chiều, nói đâm thọc cho đôi đàng xích mích thù oán nhau. Lưỡng thiệt cũng gọi là ly gián ngữ.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Vì muốn bảo thủ lợi danh quyền tước theo ý mình nên họ dùng lời nói đâm thọc thêm bớt cho đôi đàng hiểu lầm nhau. Đức Thầy bảo:
    “Ác nơi khẩu nhứt là lưỡng thiệt,

    Với người nầy dùng lời tha thiết,
    Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”.

    3- SỰ TRẠNG:
    Người hay nói lời lưỡng thiệt, thường xảy ra những cuộc cãi vã, đôi chối, gây thù, trả oán.

    Xưa Đức Thánh luận bàn cái lưỡi,
    Ngài nói rằng các việc tại mầy.
    Thuận với hòa hay ghét với rầy,
    Cũng cái lưỡi làm thầy các việc”.
    ( ĐT)

    4- TAI HẠI:
    Dùng lời lưỡng thiệt thường kết quả những sự ngờ vực, chia rẽ phân tranh, mất đoàn kết. Đó là gốc sanh ra bất hòa hiềm khích, giết hại lẫn nhau.
    Người choảng nhau tại mình gia vị,
    Mà cũng không hưởng được lợi danh.

    Sau rõ ra chúng hại ghét ganh,
    Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa”.( ĐT)
    (Xưa, thời mạt Trụ hưng Châu (Trung Hoa) có Thân Công Báo đi non nầy động nọ, dùng lời lưỡng thiệt, khiến các Địa Tiên nổi nóng xuống trần phạm sát giới; kết cuộc công tu luyện phải thả trôi theo dòng nước. Sau cùng hồn xác Thân Công Báo đều bị sa vào Địa ngục một lượt, tiếng xấu lưu để muôn đời.)
    5- CÁCH GIẢI TRỪ:
    Muốn diệt trừ ác lưỡng thiệt, nhà tu quyết định không nói hai chiều, đâm thọc, để giữ lời nói mình cho được minh chánh trong sạch. Đức Thầy hằng dạy:
    Khá chừa đi hương đảng bớt rầy,

    Dùng sự thiệt giải bày tâm trí”.
    6- LỢI ÍCH:

    Người chừa được ác lưỡng thiệt sẽ tránh đặng sự rầy rà xích mích, chính mình không còn bị ác cảm hay kẻ khác khinh miệt và lời mình nói ra được mọi người tin tưởng nghe theo.
    7- KẾT LUẬN
    Đại khái ác lưỡng thiệt là một trong Thập ác và đứng đầu Khẩu nghiệp. Xưa, Đức Phật đã bảo:“Khẩu nghiệp đa ư thân ý nhị nghiệp”. Nay Đức Thầy cũng dạy:“Khẩu nghiệp của các trò còn nặng nề hơn hết”. Cho nên hành giả cần diệt trừ lưỡng thiệt, để đem lại sự hòa hài cho cả nhân loại và tránh khỏi luân hồi quả báo.

    CHÚ THÍCH
    DUYÊN CỚ: Nguồn gốc của sự việc hay lý do đầu tiên.
    ĐOÀN KẾT: Đồng lòng kết hợp thành khối thành nhóm chặt chẽ:“ Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.(Tục ngữ) Đức Thầy từng kêu gọi:
    Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết,

    Phí xác phàm mê mệt đâu nài”.
    HIỀM KHÍCH: Giận thù toan ăn thua, luôn luôn muốn gây chuyện.
    GIẢI TRỪ: Chừa bỏ, dứt hẳn, chẳng còn xảy ra nữa.
    THÀNH THẬT: Thật lòng không dối trá thêm bớt.
    CHÁNH ĐÁNG: Chơn chánh không trái lẽ.
    ÁC CẢM: Cảm tình không tốt.

    HƯƠNG ĐẢNG: Thôn xóm.
    MIỆT KHINH: Cũng gọi là khinh miệt. Có nghĩa khi dể, chê bai ra mặt.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa ác lưỡng thiệt ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh lời lưỡng thiệt ?

    3/-Sự trạng ác lưỡng thiệt xảy ra như thế nào ?
    4/-Muốn giải trừ ác lưỡng thiệt phải làm sao ?
    5/-Trừ xong ác lưỡng thiệt được lợi ích gì ?
    6/-Tóm tắt ác lưỡng thiệt ra sao ?

    5- Ỷ NGÔN

    CHÁNH VĂN
    Ỷ NGÔN.- Nói đến tội này tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi (chửi) dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xể người nghèo, kẻ xảo quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn-ngoan dùng lời nói hạ-nhục người dốt nát.
    Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội-lỗi.


    LƯỢC GIẢI

    (Ác thứ nhì trong Khẩu nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Ỷ ngôn cũng gọi là ỷ ngữ. Có nghĩa là ỷ thị và thêu dệt. Ý nói người cậy vào học thức, khôn lanh, quyền tước, giàu có mà nhiếc xài kẻ dưới tay, kém thế hoặc là dệt thêu xảo quyệt, khiến người hiểu sai sự thật. Hay trau chuốc lời lẽ hát ca tình tứ, làm mờ đục tâm trí kẻ khác.
    2- NGUYÊN NHÂN:

    - Vì bảo thủ cái ta, lúc nào cũng xem ta là trọng, là xứng đáng hơn người, nên sanh ra lời lẽ ỷ ngôn.
    3- SỰ TRẠNG:
    - Người ta thường ỷ vào quyền thế, tiền của, khôn lanh, học thức; khi thị kẻ thấp kém, ngu dốt một cách thậm tệ. Đức Thầy đã diễn tả:
    “Ác thứ nhì ỷ ngôn chất chứa,

    Đợi cho người lầm lỗi xéo vày.
    Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,
    Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
    Lắc léo chi có ba tấc lưỡi,

    Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.
    Nghèo ỷ lanh láo xược lu bù,

    Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt”.
    4- TAI HẠI:
    - Người phạm ác ỷ ngôn thường bị mọi người căm phẫn, thù hận, bạn thân xa lánh…Vua Tề thời Chiến Quốc ỷ quyền thế khinh khi Trường Vạn, nên bị Vạn đập cho một bàn cờ chết tốt.
    - Qua nhiều kiếp sau còn phải luân hồi trả quả, như xưa có một tiểu Tăng trẻ tuổi chê vị sư già tụng Kinh tiếng ồ ề giống tiếng chó sủa, sau bị đọa 500 kiếp làm chó…
    5- CÁCH GIẢI TRỪ:
    - Muốn diệt trừ ác ỷ ngôn, ta phải tự xét kẻ dưới tay mình cũng có trí nghĩ suy, song tại phước mỏng nghiệp dày, nên họ phải chịu thấp kém hơn mình.

    - Thế nên ta có bổn phận thương yêu, dung thứ họ. Dùng lời ngọt dịu tốt lành chỉ bảo, không nên chê bai thêu dệt mà mang tội lỗi. Đức Thầy khuyên:
    “Dùng từ ngôn nói tận đáy lòng,
    Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
    Chúng vô phước đời nầy dốt nát,

    Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là.
    Lời trang nghiêm êm ái thốt ra,

    Đừng bao biếm mới là nhơn thiện”.
    6- LỢI ÍCH
    - Ai chừa được ác ỷ ngôn không còn bị kẻ khác thù oán, bất mãn.
    - Người trí đều khen ngợi và khỏi quả báo thấp hèn, nhơ xấu.

    7- KẾT LUẬN
    Đại để ỷ ngôn là lời nói vô cùng lợi hại. Nhà tu nên cương quyết trừ bỏ cho kỳ được; để khẩu nghiệp sớm thanh tịnh và an vui trên đường giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    XÀI XỈ: Mắng nhiếc thậm tệ.
    XẢO QUYỆT: Gian xảo dối trá.

    THẤT THIỆT: Không chơn thật.
    HỌC THỨC: Học lực và kiến thức. Chỉ cho người có học và hiểu biết nhiều.
    BẠC PHƯỚC VÔ PHẦN: Phước mỏng nên không có phần cao tốt bằng người.
    LỤY MÌNH: Hạ mình, chịu thấp kém hơn người.
    CAM NGÔN MỸ TỪ: Lời nói dịu ngọt tốt lành.
    TRANG NGHIÊM: Nghiêm chỉnh, đứng đắn, không vô lễ bỡn cợt.
    BAO BIẾM: Khen và chê. Ý nói khen chê nhạo báng.

    CÂU HỎI
    1/-Chữ ỷ ngôn có nghĩa như thế nào ?

    2/-Do đâu người ta sanh ỷ ngôn ?
    3/-Hành trạng của ỷ ngôn ra sao ?
    4/-Người thường dùng ỷ ngôn có tai hại gì ?
    5/-Muốn chừa ỷ ngôn ta phải nhận xét thế nào ?
    6/-Phương cách trừ ỷ ngôn ra sao ?
    7/-Trừ ỷ ngôn xong, ta được lợi ích gì ?
    8/-Cho biết mục kết luận ác ỷ ngôn ?

    6- ÁC KHẨU

    CHÁNH VĂN
    ÁC KHẨU.- Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi (chửi) mắng tục tằn làm ra tội này; con chưởi (chửi) mẹ mắng cha, không kể luân thường thảo hiếu, mạnh bạo hăm he đánh giết kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chửi gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.
    Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm-dịu thanh bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ-độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy-dỗ chúng.

    LƯỢC GIẢI
    (Ác thứ ba trong Khẩu nghiệp)

    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Ác khẩu cũng gọi là ác ngôn hay ác ngữ. Có nghĩa những tiếng thô lỗ độc ác, tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh.

    2- NGUYÊN NHÂN:
    - Do hoàn cảnh nghịch ý đưa đến liền phát ra những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi mắng, tục tằn, trù rủa hoặc kêu réo Trời Phật, Thần Thánh.
    3- SỰ TRẠNG:
    Chưởi mắng cha mẹ, hăm đánh giết mọi người từ gia đình đến xã hội, trù rủa con cháu, xóm chòm, kêu réo khiến sai cả Thần Thánh đủ cõi. Đức Thầy đã diễn tả trạng huống nầy trong một đoạn giảng:

    “Tới ác khẩu thứ ba bày biện,
    Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng.

    Nào chưởi cha mắng mẹ lăng xăng,
    Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu.

    Hăm đánh giết những người hèn yếu,
    Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng.
    Trong gia đình chưởi rủa liên miên,
    Hết dương thế kêu sang Thần Thánh.

    Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
    Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày”.

    4- TAI HẠI:
    a)- Người phạm ác khẩu tội lỗi ngày càng thêm chồng chập, nghiệp quả báo đền.
    b)- Nhiều kiếp sau mắt, tai, miệng, lưỡi bị đui, điếc, câm, ngọng. Nói ra điều gì bị nghiệp báo y như vậy, như trường hợp trong tiền thân Đức Phật có anh chàng buôn ngọc “hăm móc cặp mắt của cô Tiểu thơ”. Tiểu thơ và người đánh xe hăm lại:“Nếu ngươi còn cượng lý sẽ sai lính bắt đánh cho rách da, rồi lấy mủ nấu sôi thoa vào và đem chôn tại ngã ba đường cho người tởn”. Những lời thề thốt hăm he nầy, nhiều kiếp sau 3 người đều bị trả báo y như vậy.
    5- CÁCH GIẢI TRỪ:
    a)- Muốn diệt trừ ác khẩu, hành giả hãy bỏ tiếng tục tằn thô lỗ; chỉ nói những lời êm dịu thanh bai, tôn trọng đạo luân thường thảo hiếu:
    Trọng mẹ cha kính nể Phật Trời,

    Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi”.(ĐT)
    b)- Đối với mọi người cần giữ lễ độ khiêm cung, kính nể Trời Phật Thánh Thần, không nên kêu réo khiến sai.
    c)- Bỏ những lời ác đức, cần nói những lời dịu dàng hiền hậu. Đức Thầy đã hằng khuyên:
    Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
    Tích thiện thì thường có phước dư,

    Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.
    6- LỢI ÍCH:
    Người tu chừa đặng ác khẩu được nhiều lợi ích:
    a)- Lời mình nói ra được mọi người ưa thích, tin tưởng và vâng nghe.

    b)- Không còn quả báo xấu và đến khi thành Đạo, được đầy đủ tiếng Phạm âm của Như Lai. (Phạm âm của Như Lai có 5 đặc tính cao thắng: 1- Tiếng nói ra nghe thâm trầm như tiếng nhạc sấm. 2- Tiếng trong trẻo, nghe rất xa. Ai nghe đến cũng lấy làm vui vẻ sung sướng. 3- Ai nghe đến cũng đầy lòng kính mến, vâng theo. 4- Tiếng thuyết giảng Đạo lý rất gọn ghẽ, dễ nghe, dễ hiểu. 5- Mọi người nghe đều tin cẩn, không chán mỏi.)
    7- KẾT LUẬN
    Tóm tắt, ác khẩu là ác thứ ba trong Khẩu nghiệp, nó là một tai hại lớn lao, nhứt là giới nữ dễ vi phạm. Cho nên nhà tu cương quyết trừ bỏ, để tránh khỏi nghiệp báo luân hồi và đặng an vui tự tại trên đường giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    LUÂN THƯỜNG: Giềng mối và phép tắc chính của mọi người nên noi theo, gồm có Ngũ luân và Ngũ thường. - Ngũ luân là Đạo Vua tôi, Đạo Thầy trò, Đạo Cha con, Đạo Chồng vợ, Đạo Huynh đẹ và bè bạn. –Ngũ thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy thường dạy:

    Luân thường nặng nợ phải vai mang,
    Nhuần gội thừa ân của Phật đàng”.

    THẢO HIẾU: Cũng gọi là hiếu thảo. Có nghĩa tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ. Đây là đức tánh quan trọng mà bổn phận làm con ai cũng phải có, không thể thiếu được. Đức Thầy luôn nhắc nhở;
    Sách có chữ thâm ân dục báo,
    Phận làm người hiếu thảo noi gương”.
    LONG CUNG: Cảnh và cung điện của Long Vương (Vua Rồng) ở sâu nơi đáy biển. Đó là đền đài do thần lực của Long Vương hóa hiện ra.
    TỤC TẰN: Bẩn thỉu, nhơ nhớp, lời lẽ có tánh cách thô tục, dâm ô, trây trúa.
    THÔ LỖ: Cộc cằn lỗ mãng.
    LỄ ĐỘ: Phép lịch sự, ăn nói xử sự biết kính người trên, nhường kẻ dưới.
    THANH BAI: Trong sạch dịu dàng và lịch sự.

    ĐOAN TRANG: Nghiêm chỉnh, đàng hoàng.
    NGHIÊM CHỈNH: Nghiêm trang tề chỉnh.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa ác khẩu ?
    2/-Nguyên nhân nào có ác khẩu ?
    3/-Hành trạng ác khẩu ra sao ?
    4/-Người phạm ác khẩu có tai hại gì ?
    5/-Muốn chừa ác khẩu phải làm sao ?
    6/-Trừ xong ác khẩu được lợi ích gì ?
    7/-Kết luận ác khẩu ra sao ?

    7- ÁC VỌNG NGỮ

    CHÁNH VĂN
    VỌNG NGỮ.- Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chửa, giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị.

    Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ-trêu. Chẳng nên tráo chác với người, bỏ tiếng xảo ngôn và phải dùng lời chơn chất.

    LƯỢC GIẢI
    (Đây là ác thứ tư trong Khẩu nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Vọng ngữ cũng gọi là vọng ngôn. Có nghĩa nói dối, nói huyễn hoặc, có nói không, không nói có.

    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
    Nói với ai chớ có sai lời”.
    ( ĐT)
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Vì ham muốn danh lợi, quyền tước và nhiều người tin tưởng mà sanh vọng ngữ.
    3- SỰ TRẠNG:
    - Hành trạng của vọng ngữ là có nói không, không nói có, thương ai thì kiếm cách bào chữa, ghét ai thì đặt điều nói xấu, khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn. Đức Thầy đã bảo:
    Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm,
    Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.
    Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,
    Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.

    Đời bất công mấy ai xem sửa,
    Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tòng”.
    4- TAI HẠI:
    - Người còn vọng ngữ thường gây nhân bất công cho nhân loại.
    - Mọi người trong xã hội khinh miệt và nhân cách bị giảm hạ, khi chết đọa vào địa ngục.
    5- CÁCH GIẢI TRỪ:
    Để diệt trừ ác vọng ngữ nhà tu nên tập lời nói cho được chân chánh ngay thẳng. Bỏ lối láo xược trớ trêu, xảo ngôn tráo chác; nên nói toàn lời chơn thật ngay chánh. Đức Thầy hằng khuyên nhủ:
    “Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
    Mà ăn ở nói năng chơn chất”.
    Và: Người dương thế chẳng ưa bốc xước,

    Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn.
    Đã tu hành đừng có bôn chôn,
    Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán.
    Người hiểu rành mới càng thêm chán,
    Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu.
    Nói với ai cũng phải lựa điều,

    Đừng tráo chác cho người khinh dể”.
    6- LỢI ÍCH
    - Người chừa được ác vọng ngữ, sẽ đặng mọi người trọn tin và kính phục.
    - Khẩu nghiệp sớm thanh tịnh và còn an ủi người bớt đau khổ.
    - Phá tan được tà thuyết và khi thành Đạo sẽ đắc chơn thật ngữ của Như Lai.
    7- KẾT LUẬN:
    Nói tóm lại Vọng ngữ là một trong Thập ác, cũng là một trong Ngũ giới cấm, là một tội ác lớn lao. Cho nên nhà tu quyết định trừ bỏ cho kỳ được, để khẩu nghiệp thanh tịnh và tiến thẳng đến nơi an vui giác ngạn.

    CHÚ THÍCH
    THÊM THỪA: Nói dư, nói nhiều hơn, quá với sự thật.
    HUYỄN HOẶC: Dối trá, nói không thật, làm cho người khác hiểu lầm.
    Miệng dương thế hay bày nói huyễn,
    Sách thánh hiền ghét kẻ nhiều lời”.( ĐT)
    BÀO CHỮA: Biện hộ, tìm cách bênh vực che chở cho ta và người thân của ta.
    TỰ ĐẮC: Tự cho mình hay giỏi hơn người.
    XẢO TRÁ: Giả dối không thật.

    ĐIÊU NGOA: Xảo trá, giả dối, lừa đảo. Chỉ cho người già miệng, hay đặt điều nói dối làm sai hẳn sự thật.
    KHINH KHI: Khi dể, coi không ra gì.
    MIỆT THỊ: Xài xể, nói nặng, khi dể.
    TƯ CÁCH: Cử chỉ dáng dấp, cách ăn ở đời hoặc là tài năng và trình độ. Ví dụ: Tư cách đứng đắn hoặc tư cách chẳng ra gì.
    NHÂN QUẦN: Đoàn người hợp lại.
    GIẢM HẠ: Bớt thấp xuống, mất giá trị.
    CHÂN CHÁNH: Cũng viết là chân chính. Có nghĩa ngay thẳng thật tình, không giả dối gạt gẫm.
    TRÁO CHÁC: Lừa dối khéo nói láo.
    CHƠN CHẤT: Cũng gọi là chân chất. Có nghĩa lời nói thật thà.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa chữ vọng ngữ ?
    2/-Lý do nào người ta hay nói vọng ngữ ?
    3/-Sự trạng ác vọng ngữ ra sao ?
    4/-Người hay vọng ngữ có tai hại gì ?
    5/-Diệt trừ vọng ngữ ta phải dùng phương cách nào ?

    6/-Chừa vọng ngữ ta được lợi ích gì ?
    7/-Kết luận ác vọng ngữ ra sao ?


    8- ÁC THAM LAM

    CHÁNH VĂN

    THAM LAM.- Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người ... tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế ... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác-liệt, gây nên những thảm họa tày trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối-lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận.... Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những cuộc nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung-hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không thì ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng – Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru ? Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham-lam, lo vun trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.

    LƯỢC GIẢI
    (Đây là ác thứ nhứt trong Ý nghiệp)

    1- ĐỊNH NGHĨA:
    THAM LAM là lòng ham muốn quá độ, nó là một trong Tam độc: Tham, Sân, Si. Đức Thầy bảo:
    “Biết sao đầy được túi tham,
    Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

    2- NGUYÊN NHÂN:
    Vì lòng ham muốn quá độ, không biết tri túc thường lạc. Chính nó là hột giống, là nguyên nhân làm cho chúng sanh luân hồi trong 6 nẻo, từ vô thỉ tới nay chưa thoát ly ra được.

    3- SỰ TRẠNG:
    -Người có lòng tham lam, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt danh lợi, sắc tình, quyền thế về cho mình. Đức Thầy đã diễn tả sự trạng ấy:
    Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
    Muốn bao gồm của thế một mình.

    Tham nhà cao cửa rộng thân vinh,
    Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.

    Thấy của người thèm khô nước miếng,
    Tính làm sao lường gạt lấy đi.

    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
    Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa”.

    4- TAI HẠI :
    a)- Kẻ bị lòng tham sai khiến, thường gây ra biết bao thảm khổ cho mình và mọi người: chiến tranh, cướp trộm, giết người, tương tàn ttương sát. Ôm mối hận thù, bực tức dẫn đến liều mình tự sát.
    b)- Hột giống oan oan tương báo, kéo dài từ kiếp nầy sang kiếp khác rồi kiếp khác nữa. Đức Thầy đã diễn tả tai hại của lòng tham:
    Tham của tạm làm điều tàn nhẫn.
    Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
    Tham tiền tài thường vướng nạn eo.

    Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
    5- GIẢI TRỪ:
    Nhà tu muốn diệt trừ lòng tham lam ích kỷ cần thi hành các phương cách như sau:
    a)- An nhẫn trong sự nghèo túng, biết “tri túc thường lạc” để giữ lòng trong sạch và vun trồng cội phước.
    Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
    Lo vun trồng cội phước về sau”.
    ( ĐT)

    b)- Mở lòng thương yêu mọi người, mọi giới như mình thương mình, tùy phương tiện mà bố thí cho họ từ vật chất lẫn tinh thần. Đức Thầy dạy:
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào?
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.
    c)- Dùng tâm chánh niệm quán xét vạn vật trong thế gian, đến thân xác của ta cũng đều là vô thường, vô ngã, chẳng có vật chi để lòng mến tiếc:
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.

    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.
    ( ĐT)
    6- LỢI ÍCH
    Hành giả khi diệt trừ được lòng tham lam ích kỷ, tất tiêu diệt hột giống tội lỗi và khổ đau sanh tử. Phước đức càng lúc càng gia tăng và tâm hồn được tự tại an vui trên đường giải thoát.

    7- KẾT LUẬN
    Đã biết lòng tham là nguyên nhân của mọi sự đau khổ và sanh tử luân hồi: Nhà tu muốn diệt trừ nó phải biết sám hối tội căn “Tri túc thường lạc”. Từ bi bố thí và quán xét lý vô thường vô ngã, tất đặng thành công viên mãn, đạt quả Cực lạc hoặc Niết bàn.

    CHÚ THÍCH
    THẢM KHỔ: Thê thảm và khổ sở đau đớn.
    Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,
    Sao dân còn triếu mến trần mê”.( ĐT)
    ÁC LIỆT: Dữ dội, kịch liệt.
    THẢM HỌA: Tai họa ghê gớm.
    HỐI LỘ: Ăn của lo lót.
    ĐIÊU LINH: Long đong khổ sở, vất vả.
    THỰC HIỆN: Làm cho thành ra sự thật.
    QUYÊN SINH: Liều bỏ kiếp sống (tự tử).
    NỒI DA XÁO THỊT: Lấy vỏ rùa làm chảo xào thịt rùa. Ý chỉ thân bằng ruột thịt hoặc đồng bào nỡ tranh giành hoặc giết hại lẫn nhau.
    THẠCH SÙNG VƯƠNG KHẢI: Hai người đồng sanh trào nhà Tấn thời Đông Châu. Sùng trước làm quan Thứ Sử, tánh tham lam xảo trá, thâu góp của dân, hối lộ với thượng cấp, sau thăng chức Thái Bộc giàu to. Còn Vương Khải là em của Hoàng Hậu, cũng là tay cự phú. Cả hai đều lấy sự xa xí khoe của để tranh hơn thua; không làm được việc gì ích nước lợi dân, ai khuyên can cũng chẳng nghe. Cuối cùng hai người chết chẳng mang theo được gì, lại còn để tiếng đời biếm nhẽ, sách sử chê bai. Đức Thầy có cảnh tỉnh:
    Lòng nhơn xin khá tập rèn,

    Thạch Sùng Vương Khải sách đèn ai ưa”.
    VỊ KỶ: Vì mình, chỉ biết lợi cho mình, chớ không nghĩ đến người khác.
    CÔNG PHU: Sức dùng để làm việc, người chịu nhọc để làm việc. Ví dụ: Công phu hành Đạo.
    SÁM HỐI: (Xem chữ Ăn năn, ác Sát sanh, trong Tập nầy).
    CỰC LẠC: Rất vui, tột vui. Cũng gọi là An Dưỡng Quốc hay Tịnh độ. Cõi nầy do nguyện lực và công đức của Phật A Di Đà tạo nên và chính Ngài là Giáo chủ. Cõi Cực lạc hoàn toàn an vui trong sạch, không có những nỗi khổ đau, trần trược như cõi Ta bà.
    Ai tu hành dứt lòng tham luyến cõi Ta bà và chuyên tâm niệm Phật, làm lành gồm đủ: tín, nguyện, hành thì khi lâm chung được vãng sanh về Cực Lạc. Đức Thầy khuyên:

    Trông chúng sanh nghĩ tận đuôi đầu,
    Về Cực Lạc mới là hết khổ”.

    CÂU HỎI
    1/-Chữ tham lam có nghĩa gì ?
    2/-Lý do nào sanh ác tham lam ?
    3/-Cảnh trạng ác tham lam ra sao ?
    4/-Lòng tham đưa đến tai hại gì ?
    5/-Muốn giải trừ tánh tham ta phải làm sao ?
    6/-Diệt được lòng tham ta được lợi ích gì ?

    7/-Cho biết mục kết luận của ác tham lam ?
    8/-Kể lại chuyện Thạch Sùng Vương Khải?

    9- ÁC SÂN NỘ

    CHÁNH VĂN
    SÂN NỘ.- Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ thắng kiêu hãnh, người bại hổ ngươi nên sự hiềm thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.
    Diệt được nó tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở rộng lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm khích.


    LƯỢC GIẢI
    (Ác thứ hai trong Ý nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    SÂN NỘ : Cũng gọi là sân hận hay hận sân hoặc sân nhuế. Có nghĩa nóng giận, hờn ghét, thù hận, Đức Thầy khuyên:
    “Chữ gây gổ là sân hãy diệt,
    Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng”.

    2- NGUYÊN NHÂN:

    - Sở dĩ có sân nộ là do bị người khinh rẻ, húng hiếp, đàn áp mình; hoặc phạm lỗi hay làm hư hao tài vật của mình.
    3- CẢNH TRẠNG:
    - Khi tánh nóng giận nổi lên thì người ta làm những chuyện bất công sái phép, chém giết, đánh chửi, la ó; đập phá đồ đạc, tức bực khó chịu, oán thù càng lan rộng. Kinh xưa đã bảo:“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”.(Một đốm lửa sân hận nổi lên thì trăm cửa nghiệp chướng đều mở rộng). Đức Thầy đã diễn tả cảnh ấy:
    “Ác thứ chín Hận Sân luận tiếp,
    Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
    Nổi lôi đình đâu có định chừng,

    Cho ta biết mà toan giữ trước.
    Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
    Nên loài người ở cõi thế gian.
    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,

    Mới có cuộc tranh tài đấu lực”.
    4- TAI HẠI:
    - Người nóng giận cực độ sẽ cuồng loạn tâm trí, không làm chủ được thâm tâm, con người trở nên hung bạo, chẳng còn nghĩ đến sự công bình phải trái. Đức Thầy đã bảo:
    “Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức,
    Phải bị người hềm khích ghét ganh.
    Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,

    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
    Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
    Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
    Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,

    Phân từng mảnh mới là thỏa dạ”.
    5- GIẢI TRỪ
    Để giải trừ tánh sân hận, nhà tu phải dùng trí huệ mà quán xét mọi sự trạng xảy ra, rồi áp dụng ba phương cách như sau:
    a)- Mở lòng khoan dung cho những người lầm lỗi “..hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận”.(ĐT)
    b)- Nhẫn nhịn những kẻ muốn hơn hoặc hiếp đáp chưởi mắng mình.
    “Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
    Đợi cho người hết giận ta khuyên.
    Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,

    Thì đâu có mang câu thù oán.( ĐT)
    c)- Lấy lòng tử bi bình đẳng đối xử với mọi người và sanh vật. Đức Thầy thường răn dạy:
    “Diệt được nó tâm trần thong thả,
    Ta thường nên tập tánh khoan dung.

    Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.

    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.

    Nay ta đã qui y cầu Đạo,
    Gây gổ là trái thuyết từ bi”.

    Hoặc là:
    Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,

    Chữ từ bi ta diệt nó liền.
    Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
    Thì thù oán tiêu tan mất hết”.
    Ba phương cách nói trên ví như cây quạt Ba tiêu, có diệu năng quạt tắt Hỏa Diệm Sơn:
    Chúng sanh nên tìm quạt Ba Tiêu,
    Chữa Hỏa Diệm nơi tâm cho tắt”.
    ( ĐT)
    Xưa thầy trò Tam Tạng đi Tây Phương thỉnh Kinh, giữa đường bị hòn “Hỏa Diệm Sơn” cản đường. Nhờ Tôn Ngộ Không (tượng trưng cho trí huệ) tìm ra quạt Ba Tiêu, quạt tắt núi lửa, Thầy trò mới đạt được mục đích thỉnh đặng Tam Tạng Kinh. Nhà tu diệt được ác sân nộ, cũng được chứng quả như thế.
    6- LỢI ÍCH
    - Khi diệt trừ được tánh nóng giận, hành giả không còn bị người hiềm khích thù hận.
    - Tâm trí được thảnh thơi sáng suốt, công đức chẳng hao mòn và không hề mê tín theo tà đạo.
    - Đời sống luôn gặp chánh Đạo, trí huệ sớm phát khai và đắc thành Đạo quả.
    7- KẾT LUẬN

    Đại khái lòng sân hận là một trong Ngũ độn sử (Năm món phiền não ngu độn căn bản). Nó nảy sanh muôn ngàn phiền não khác. Và cũng là một trong Tam độc (Ba điều độc hại), chúng sanh vì nó mà phải đọa trong Tam đồ Lục đạo. Cho nên nhà tu quyết định phải trừ dứt để lòng được thanh tịnh, an vui trên đường tiến sang bờ giác.

    CHÚ THÍCH
    CUỒNG TRÍ: Mất trí, không còn biết phải quấy.
    KHOAN HỒNG: Đại lượng rộng rãi hay tha thứ kẻ lầm lỗi.
    NHẪN NHỊN: Nhịn thua dằn lòng xuống để cho kẻ khác hơn mình. Xưa, Nhẫn Nhục Tiên nhờ nhẫn nhịn vua Ca Lợi Vương mà cảm hóa được nhà vua và cả thần dân trong nước hồi tâm hướng thiện. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
    Phải nhẫn nhục chờ người cổ tích,
    Phật với Trời phân định cho ta”.


    CÂU HỎI
    1/-Hãy giải nghĩa chữ Sân nộ ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh nóng giận ?
    3/-Cảnh trạng tánh Sân nộ ra sao ?
    4/-Người hay Sân nộ có tai hại gì ?
    5/-Muốn trừ tánh sân nộ ta phải làm sao ?
    6/-Trừ xong lòng sân hận ta được lợi ích gì ?

    7/-Kết luận ác sân nộ ra sao ?

    10- ÁC MÊ SI

    CHÁNH VĂN
    MÊ SI.- Tội ác này do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự suy nghĩ mà ra; vì vậy, con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân-lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo những vật chất nhỏ nhen, mau tan mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.
    Hãy xoá bỏ các điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo đức, lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh.

    LƯỢC GIẢI
    (Ác thứ ba trong Ý nghiệp)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    Mê si cũng gọi là vô minh. Có nghĩa lòng mê mờ không nhận rõ lý sự, khởi lên vọng hoặc điên đảo (tà kiến), khiến người lầm lũi trong tội lỗi, như người đi đêm không có đèn đuốc nên phải lạc vào hầm hố. Mê si là đối tượng của trí huệ.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Xưa Đức Phật bảo rằng:“Tâm trí mê muội tội lỗi chập chồng, không biết đường giải thoát. Đó là nguyên nhân của sanh tử luân hồi, không bao giờ dứt”.
    Đức Thầy nay cho biết:“Tội ác nầy do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự suy nghĩ mà ra”. Ngài đã nói:
    Ác thứ mười đoạn chót mê si,
    Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
    Màn vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.

    3- CẢNH TRẠNG:
    Người còn mê si không phân biệt được lẽ phải trái, nên hay bảo thủ những thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân lý. Họ chỉ biết:
    “Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
    Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức”.( ĐT)
    4- TAI HẠI:
    a)- Người còn mê si suốt đời ngu muội, chỉ biết đua đòi theo vật chất nhỏ nhen, mau tan mau rã.
    b)- Tin bướng nghe càng, không tìm hiểu chơn lý và con đường giải thoát; khiến cho màn vô minh càng lúc càng dầy, lưới nghi ngờ càng thêm bao phủ. Đức Thầy đã chỉ rõ:

    “Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức,
    Bịn rịn đời cực khổ tang thương.
    Khi nói làm ít chịu suy lường,
    Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác”.

    5- CÁCH GIẢI TRỪ:
    Để giải trừ ác mê si, hành giả phải thi hành các phương cách:
    a)- Nương theo tinh thần đạo đức, giác ngộ và tu tập trí tuệ. Vì mê si như đêm tối, trí tuệ như ngọn đèn. Có đèn thì bóng tối tiêu tan, nên khi có trí trí huệ thì vô minh (mê si) dục vọng chẳng còn, thấu đạt chơn lý. Đức Thầy dạy:
    Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,
    Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.

    b)- Dùng trí huệ xóa bỏ những mê tín dị đoan, mê lầm mộng ảo, phá tan lòng nghi ngờ giải đãi. Nhứt tâm tinh tấn theo con đường giác ngộ để tiến tới Niết Bàn:
    Lúc Đức Thầy mới khai đạo, ông Đặng Thành Tựu có đến Tổ Đình hỏi Ngài:
    -Bạch Thầy con muốn trừ diệt mê si phải làm sao ? Đức Thầy đáp:
    - Muốn diệt mê si tâm mình phải giác.(Xem thêm quyển Chuyện Bên Thầy II, có giải câu chuyện đầy đủ.)
    Sau nầy trong KHUYẾN THIỆN, Quyển V Đức Thầy có dạy rõ:
    “Diệt mê si phải nương thuyền giác,
    Muôn việc làm chánh trực khôn ngoan.

    Đừng bạ đâu tin bướng nghe càng,
    Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.
    6- LỢI ÍCH:
    a)- Nhà tu khi trừ được mê si, tức trí huệ sáng mầu.
    b)- Nhận được đâu là mê tín, ngụy tà để tránh và đâu là chánh tín, chơn thật nên theo.
    c)- Tâm ý luôn thuần thiện, trên đường độ đời, giác chúng đều đầy đủ nhân duyên và thường gặp bạn Thiện trí thức.
    7- KẾT LUẬN:
    Tóm lại, mê si là một trong 10 món phiền não căn bản. Chính nó sanh ra 8 vạn 4 ngàn trần lao phiền não và nghiệp nhân luân hồi sanh tử. Dù cho các bực Tiên gia, có ngũ thông mà chưa trừ dứt mê si cũng phải huờn tục, như Thiên Bồng Nguyên Soái bị đọa làm Trư Bát Giái.(Bát Giái (dụ cho tâm mê si): Mê ăn, mê ngủ, mê sắc dục. Tam Tạng nhờ có Tề Thiên (dụ cho Trí huệ) mới thâu phục được Bát Giái cải tà qui chánh cùng đi thỉnh Kinh Tây phương. Sau Thầy trò mới thành chánh quả.) Cho nên nhà tu muốn trừ nghiệp nợ luân hồi sanh tử, là 10 điều ác mà gốc của nó từ mê si, tất phải dùng trí giác ngộ soi tan bóng tối (mê si). Như Đức Thầy đã dạy:“Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”, tất nhiên hành giả sẽ được tự tại mà tiến đến nơi bất diệt bất sanh (Niết Bàn).
    Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

    TỔNG LUẬN
    Căn cứ theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của PGHH, chúng ta đã nghiên cứu và tu học qua loạt bài Tứ Ân và Tam nghiệp thập ác là hết phần “Tu Nhân”. Tuy Đức Giáo Chủ giảng Tứ Ân trước Tam nghiệp thập ác, nhưng đến đoạn chuyển đề, Ngài lại dạy tránh Tam Nghiệp, chừa Thập ác trước khi đáp “Tứ Ân”. Bởi Tam Nghiệp và Thập Ác là hột giống sanh tử, là nghiệp nợ luân hồi, nên cần diệt trừ trước. Còn đáp Tứ Ân là tạo vô lượng phước đức, để làm phương tiện tiến đến bờ giải thoát.
    Tam Nghiệp, Thập Ác có thể ví như những cây cỏ dại. Còn Tứ Ân ví như các giống lúa. Nhà nông muốn lúa trúng, trước phải nhổ sạch cỏ rồi mới gieo lúa. Song đó mới là nấc thang đầu (Tu Nhân) là nền tảng vậy thôi. Cho nên người tín đồ PGHH cần phải tiến lên giai đoạn học Phật và tu Phật nữa mới ra khỏi sanh tử và chứng quả Bồ đề. Vẫn biết hột giống Bồ đề đã có sẵn trong ruộng tâm của mỗi người, song phải nhờ nguồn mưa pháp rưới vào nó mới nảy mầm đâm tược.
    “Suối Tiên Thanh* đổ ra cuồn cuộn,
    Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên”.
    ( ĐT)
    *(Có bản chép là Suối Tiên Thánh)
    Bấy giờ hành giả phải ra công vun tưới và kiên trì, bắt sâu sửa nhánh (dẹp sạch vô minh phiền não) thì quả giác ngộ mới đạt thành.
    “Phật Đạo trau giồi tâm tánh lại,
    Giác thuyền chuyên chở lúc can qua”.
    ( ĐT)
    Cho nên, tới đây Đức Thầy dạy chúng ta tu học “Bát Chánh Đạo và niệm Phật”.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy địng nghĩa chữ Mê si ?
    2/-Lý do nào bị mê si ?
    3/-Cảnh trạng mê sir a sao ?
    4/-Người còn mê si có tai hại gì ?
    5/-Muốn diệt mê si phải làm sao ?
    6/-Trừ mê si xong được lợi ích gì ?
    7/-Cho biết mục kết luận ác mê si ?
    8/-Phần Tổng Luận từ Tam Nghiệp qua Bát Chánh Đạo ra sao ?

    TU PHẬT LUẬN VỀ BÁT CHÁNH


    CHÁNH VĂN
    Trừ xong ba nghiệp-chướng hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Những sự tấn bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục-đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn triển trên đường Giải-Thoát.
    Bát Chánh gồm có :
    1.- Chánh kiến
    2.- Chánh tư duy
    3.- Chánh nghiệp
    4.- Chánh tinh tấn
    5.- Chánh mạng
    6.- Chánh ngữ
    7.- Chánh niệm
    8.- Chánh định.


    LƯỢC GIẢI
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    - Luận về tám điều chánh, tức là “Bát Chánh Đạo”. Có nghĩa: Tám nẻo ra, là tám con đường đưa người ra khỏi luân hồi sanh tử, đạt đến Thánh quả A La Hán và Bồ Tát, chứng đắc Niết Bàn. Bát Chánh là một trong “Tứ Diệu Đề” có năng lực điều trị bát tà. Đức Thầy đã dạy:

    “Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,
    Xa thẳm Tứ Đề tiếng giục ông”.
    2- NGUỒN GỐC
    Về nguồn gốc Bát Chánh Đạo, Đức Thầy luôn cho biết:

    Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
    Non tuyết rèn ra Bát Chánh kìa.

    Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
    Hoàn cầu bốn biển khắc danh bia”

    Hoặc là:
    “Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,

    Là chơn truyền của Phật Thích Ca”.
    Vì muốn chúng sanh giải thoát khổ đau sanh tử, Đức Phật thuyết ra “Bát Chánh Đạo”. Pháp nầy giản dị và thích trung với mức sống tinh thần, thể xác cho các giới tu hành.
    Mục đích là cải thiện tư tưởng, hành động, ngôn ngữ con người trở thành chí chơn, chí mỹ để giải thoát khổ đau sanh tử. Xưa, sau khi đắc Đạo, Phật đến “Khổ hạnh lâm”(rừng Lộc giả) thuyết pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo cho năm anh em Kiều Trần Như nghe; nghe xong năm vị nầy đều chứng quả A La Hán.
    3- HIỆN TẠI:

    Ngày nay Đức Thầy bảo:“Diệt được 10 điều ác tự nhiên 10 điều lành hiện ra”. Song chưa đạt được mục đích của người tu. Vì thế, cần hành luôn Bát Chánh Đạo. Vậy ai muốn giải thoát mê đồ, sanh tử thì hằng ngày phải đọc tụng và trì hành Bát Chánh Đạo sẽ được kết quả như ý.
    4- BÁT CHÁNH gồm có:

    Tư tưởng: 1.- Chánh kiến.
    2.- Chánh tư duy.

    Hành động 3.- Chánh nghiệp.
    Tư tưởng 4.- Chánh tinh tần.
    5.- Chánh mạng.
    Ngôn ngữ 6.- Chánh ngữ.

    Tư tưởng 7.- Chánh niệm.
    8.- Chánh định.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    NGHIỆP CHƯÓNG: (Xem phần mở đầu bài Luận về Tam nghiệp)
    MƯỜI ĐIỀU LÀNH: Do chữ “Thập Thiện Nghiệp) gồm có:
    1- Không Sát sanh, lòng luôn thương người mến vật.
    2- Không Đạo tặc, thường làm việc nghĩa giúp đời.
    3- Không Tà dâm, tâm hạnh thường trong sạch, lễ độ và tôn trọng luân thường Đạo lý.
    4- Không Lưỡng thiệt, luôn nói lời thành thật chánh đáng.

    5- Không Ỷ ngôn, thường nói lời tốt lành êm dịu.
    6- Không Ác khẩu, nói toàn lời thanh bai hiền đức.

    7- Không Vọng ngữ, hằng nói lời chơn chánh đúng với sự thật.
    8- Không Tham lam ích kỷ, luôn có lòng bố thí vị tha.
    9- Không Sân hận tật đố, tâm hằng hoan hỉ, từ bi, nhẫn nhục và khoan dung.
    10- Không Mê si tà kiến, luôn phát sanh trí huệ và chánh kiến. Đức Thầy bảo:

    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
    MỤC ĐÍCH: Cái mục tiêu để nhắm và tiến tới.
    KINH NHỰT TỤNG: Quyển Kinh để cho môn đồ đọc tụng, truy cứu và trì hành hằng ngày.

    MÊ ĐỒ: Đường mê, đường tối tăm tội ác và khổ não. Đối với giác lộ: đường về cảnh Phật sáng suốt và giải thoát an vui. Đức Thầy có câu:“Thoát mê đồ thường phóng quang minh”.
    TẤN TRIỂN: Tấn tới mau chóng và mạnh mẽ.
    GIẢI THOÁT: (Xem Ân Tam Bảo, T-1, Q.Trung).

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Bát Chánh Đạo ?

    2/-Cho biết nguồn gốc Bát Chánh Đạo ?
    3/-Giải nghĩa Mười điều lành ?
    4/-Muốn đạt mục đích trên đường Đạo hạnh, Đức Thầy dạy phải làm sao ?
    5/-Hãy phân tích Bát Chánh, cái nào là tư tưởng, cái nào là hành động và ngôn ngữ ?

    !.- CHÁNH KIẾN


    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
    Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự-thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công-bình.

    Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.

    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ nhứt trong Bát Chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    - Chánh Kiến: Chánh là đúng sự thật; Kiến là thấy, xem xét. Chánh Kiến là dòm thấy xem xét đúng sự thật (ở đây phải thấy cả mắt lẫn tâm, chớ chẳng phải thấy bằng mắt suông)

    - Tà Kiến là thấy biết, nhận xét lầm lạc tà vạy.
    2- NGUYÊN NHÂN SANH TÀ KIẾN:

    Mỗi chúng sanh vì bị bản ngã lôi cuốn, làm mờ ám tâm trí, nên sự thấy biết, nhận xét lầm lạc ngược lại Chánh kiến.
    3- HÀNH TRẠNG TÀ KIẾN:
    - Bởi thiếu sáng suốt nên hành giả thấy biết và xét đoán mọi việc theo tư thù, hay lợi kỷ…
    - Do đó mà phân định mọi vấn đề: từ hành động, ngôn ngữ và vạn vật bên ngoài, đến bên trong của tâm ý đều chẳng đúng chơn lý. Như năm người mù rờ một con voi…Sau khi rờ xong, mỗi người đều tả được một bộ phận con voi theo nhận xét của mình (biên kiến); chớ không tả được toàn diện con voi. Chỉ người sáng mắt (có chánh trí và chánh kiến) mới thấy toàn diện của nó…

    4- TAI HẠI:
    - Bởi thiếu chánh kiến, nên nhà tu thường “nhận ngụy làm chơn” phân xét mọi việc đều sai chơn lý hoặc thấy một bên, hoặc nhận thấy ngược lại (biên kiến và tà kiến).
    - Vì thế, mà sự phán đoán không công bình, chánh đáng, làm bao nhiêu kẻ khác chịu oan tình. Xưa, có Trí Huyền Ngộ Đạt, tiền kiếp của ông là Viên Án, xử oan Triệu Thố…Nghiệp oan đó trải 10 kiếp sau, vẫn còn bị trả quả…
    5- HÀNH CHÁNH KIẾN:

    Muốn hành trì Chánh kiến hành giả phải đem hết trí năng truy cứu mọi vấn đề, để:
    -Dẹp tan bản ngã bằng cách quán lý vô thường, vô ngã.
    -Cẩn thận, quán xét tận tường các việc; từ việc làm, lời nói và ý nghĩ cho đến chỗ cực điểm, đúng với chơn lý. Đức Thầy từng dạy:
    “Đạo mầu Bát Chánh rán ghi,
    Thứ nhứt Chánh Kiến việc chi xem nhìn.
    Luận bàn chơn lý cho minh.

    Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.
    Hoặc là:
    “...Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,
    Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.

    Dầu việc người hay việc của ta,
    Nên phán đoán cho tường cho tận.

    Tội với phước xét coi nhiều bận,
    Mới khỏi lầm tà kiến đem vào”.

    6- LỢI ÍCH
    Khi hành giả tu rèn được Chánh kiến, sẽ đặng kết quả:
    a)- Tránh được tà kiến và diệt trừ đặng bản ngã.
    b)- Hiểu rõ ràng các việc chân giả, không hề lầm lạc và phán đoán mọi việc được chí công, bình đẳng.
    c)- Không còn say mê tục lụy, thấu đạt lý nhiệm mầu của đạo pháp.
    d)- Đoạn trừ được “kiến hoặc”(Kiến hoặc là thấy hiểu sai lầm) tức là Ngũ lợi sử. (Năm món phiền não lanh lợi: 1- Thân kiến: Chấp thân ngũ uẩn thật có và của ta vĩnh cửu. 2- Biên kiến: thấy một bên. 3- Tà kiến: thấy ngược lại chánh kiến. 4- Kiến thủ: bảo thủ ý kiến của mình là đúng hơn hết. 5- Giới cấm thủ kiến: Chấp giữ những giới lặt vặt mà các giới chánh lại không gìn giữ.)
    7- KẾT LUẬN
    Tóm lại, người hành được Chánh kiến, không còn kiến thức sai lầm, thường được tâm vô úy tự tại và tiến hành phương pháp lợi lạc cho các tầng lớp chúng sanh; thẳng đến khi thành Đạo Bồ đề.


    CHÚ THÍCH
    BẢN NGÃ: Cái ta, chấp cái ta là trên hết, đáng yêu đáng quí hơn hết.
    TƯ THÙ: Mối thù hận riêng của cá nhân mình.
    LỢI KỶ: Lợi ích riêng mình.
    TRÍ NĂNG: Năng lực và trí huệ, nó rất mầu diệu sáng suốt.

    TRUY CỨU: Theo dõi để tìm hiểu tận gốc.
    CỰC ĐIỂM: Điểm cao hơn hết, tới chỗ cùng tột.
    TỤC LỤY: Những điều phiền lụy thống khổ trong cõi trần tục:
    Nếu mãi mê mang mùi tục lụy,
    Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.( ĐT)
    HỒNG TRẦN: Bụi đỏ. Ý chỉ cõi đời đầy bụi bặm, nhớp nhơ đau khổ:Hồng trần biển khổ thấy rồi.( ĐT)

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa hai từ: Chánh kiến và Tà kiến ?
    2/-Bản ngã là gì và muốn dẹp nó phải làm sao ?

    3/-Do đâu tâm sanh Tà kiến ?
    4/-Hành trạng của tà kiến ra sao ?
    5/-Người sống tà kiến có tai hại gì ?
    6/-Muốn mình được Chánh kiến phải làm sao ?
    7/-Hành Chánh kiến được lợi ích gì ?
    8/-Kết luận người tu được Chánh kiến ra sao ?

    II- CHÁNH TƯ DUY

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh.
    Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng ...; cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy là phần tà.
    Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật-Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh.

    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ nhì trong Bát Chánh)

    1- ĐỊNH NGHĨA:
    -CHÁNH TƯ DUY: Tư tưởng chơn chánh trong sạch tốt lành.

    -TÀ TƯ DUY: Tư tưởng tà vạy xấu ác.
    2- NGUYÊN NHÂN SANH TÀ TƯ DUY:
    -Bởi không làm chủ được tâm hồn, nên thường bị thị dục cám dỗ, sai khiến.
    3- HÀNH TRẠNG:

    Vì tâm trí mãi mơ tưởng theo danh lợi, quyền tước, tình yêu, màu sắc,v.v…và đam mê “Đeo tuồng mộng huyễn lập lòe sắc hương”.( ĐT)
    4- TAI HẠI:
    Do tư tưởng tà vạy, suy nghĩ sai lầm làm mờ đục trí huệ, rồi bị những tư tưởng ấy rù quến tâm trí quay cuồng trong ngũ dục, nên mãi luân hồi sanh tử. Đức Thầy từng cho biết:
    “Gây ra lắm nợ phong trần,

    Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
    5- HÀNH CHÁNH TƯ DUY
    Nhà tu muốn thành đạt Chánh Tư Duy, cần thi hành những điểm như sau:
    a)- Dù sống trong hoàn cảnh nào, hay làm việc gì cũng phải giữ cho tâm tánh luôn được bình tịnh (yên lặng và trong sạch sáng suốt).
    b)- Giữ tư tưởng cho thanh cao. Nghĩa là tập trung và thay đổi tư tưởng. Đức Thầy đã dạy:“Việc đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa Đạo đức”.
    c)- Trí rán tầm chơn lý, tức là cái Đạo, gốm có ba phần:“…là cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình…”

    d)- “Sống lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. Đức Thầy bảo:
    Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ.
    Trên cùng dưới dù thầy hay tớ,
    Cũng tưởng điều trung chánh mới mầu.

    Việc vui say mèo mả đâu đâu,
    Hãy dẹp gát nhớ câu Lục Tự”.

    6- LỢI ÍCH:
    -Người hành được Chánh Tư Duy sẽ đặng các phần lợi ích đáng kể:
    a)- Dứt hết tư tưởng tà vạy và hoặc nghiệp phiền não.
    b)- Không bị ngũ dục làm điên đảo trí năng.
    c)- Trí huệ sáng suốt, như xưa kia cậu bé Sa Di Suy Ca chỉ tu chuyển đổi tư tưởng trong một buổi mai gần đúng ngọ, sạch hết phiền não…Tâm cậu thanh tịnh và chứng quả A La Hán; trong lúc thầy Xá Lợi Phất đi khất thực vừa về đến, Thầy trò vui vẻ trong buổi ngọ trai chứng Đạo. (Xem thêm câu chuyện “Chuyển đổi tư tưởng” bên quyển Triết Văn chọn lọc.)
    d)- Cảm thông mọi thống khổ của mỗi chúng sanh, để tùy phương tiện thích trung mà giáo hóa.
    e)- Trừ được “tư hoặc”, tức “Ngũ độn sử”.(Năm món ngu độn là Tham lam, Sân nộ, Mê si, Ngã mạng, Cống cao và nghi ngờ do dự.)
    7- KẾT LUẬN
    Tóm tắt khi hành đước Chánh Tư Duy thì chẳng còn tư tưởng mê mờ, suy nghĩ bất chánh làm tổn hại cho mình và kẻ khác.
    Tâm trí luôn được bình tịnh sáng mầu và đối với mọi sự vật đều thấu đạt chơn lý, dẫn đến khi thành quả Bồ đề.


    CHÚ THÍCH
    THỊ DỤC: Các sự ham muốn.
    CÁM DỔ: Rù quến, quyến rũ làm làm cho người say mê theo.
    QUAY CUỒNG: Xoay vòng theo không thoát ra được, cũng chỉ cho sự xoay trở một cách vất vả.
    BÌNH TỊNH: Bình là yên lặng, bình đẳng không phân biệt thiên chấp. -Tịnh là trong sạch, sáng suốt.

    “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
    Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.
    ( ĐT)
    CHƠN LÝ: (Xem chữ Chơn lý trong Ân Đồng bào và Nhân loại).
    ĐẠO: (Xem chữ Đạo đoạn mở đề bài “Luận về Tam nghiệp”).
    SANH LINH: Sanh mạng, chỉ cho giới hữu tình, tức là loài có mạng sống, có tri giác.
    OAN NGHIỆP: Mầm móng tai hại tự mình gây ra rồi tự hưởng lấy.
    ĐẤNG THIÊNG LIÊNG: Người đáng tin tưởng và sùng kính. Chỉ cho chư vị: Phật, Tiên, Thần, Thánh.
    NHÂN CHỦNG: Giống người, loài người.
    LẠC ĐẠO AN BẦN, XẢ THÂN TU TỈNH: Là an vui trong cảnh sống nghèo (tri túc thường lạc) để dồn hết thân tâm vào việc tu hành Đạo đức. Không ích kỷ, gây tạo vật chất bồi bổ cho giả thân và cũng không tiếc công năng trí lực, trong cuộc giúp đỡ quần sanh.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh tư duy và Tà tư duy ?
    2/-Lý do nào sanh tư tưởng tà vạy ?
    3/-Hành trạng Tà tư duy như thế nào ?
    4/-Tai hại của Tà tư duy ra sao ?
    5/-Muốn được Chánh tư duy phải làm như thế nào ?
    6/-Hành Chánh tư duy được lợi ích gì ?
    7/-Kết luận người tu được Chánh tư duy như thế nào ?
    8/-Chữ Đạo trong Chánh tư duy có nghĩa ra sao ? Và muốn thực hiện cho đúng ta phải làm gì ?

    III- CHÁNH NGHIỆP

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng.
    Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.
    Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn: kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ .. v..v..

    Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang-đàng, trà đình tửu điếm …Họ là đồng loã mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.
    Thế nên mục Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.
    Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ ba trong Bát Chánh)

    1- ĐỊNH NGHĨA:
    - Chánh nghiệp là việc làm chánh đáng ngay thẳng.
    - Tà nghiệp là việc làm tà vạy gian ác.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    a)- Các Tăng ni xuất gia nhờ làm nhiều công việc Đạo, nên ít gây ác nghiệp (tà nghiệp).
    b)- Nhưng hàng cư sĩ vì phải va chạm với đời và lo cuộc sống còn, nên dễ sanh ác nghiệp.
    3- HÀNH TRẠNG ÁC NGHIỆP:
    a)-Hành động gian ác tổn thương đến quyền lợi, danh dự và mạng sống các loài khác, như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm; đầu cơ cho vay cắt cổ…
    b)- Tạo những việc khiến cho kẻ khác đam mê tội lỗi, như: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu…
    4- TAI HẠI:

    a)- Người còn tà nghiệp, hiện tại không xứng là một Tăng Ni hay thiện tín, vì bị coi như phạm giới.
    b)- Tương lai hột giống Đạo bị lấp vùi, lâu gặp cơ thức tỉnh.
    c)- Chết đọa ba đường ác còn phải luân chuyển báo đền nghiệp quả.
    5- HÀNH CHÁNH NGHIỆP:
    a)- Người tu Chánh nghiệp trước hết phải: giới hạnh tinh nghiêm và chừa bỏ những ác nghiệp vừa kể trên. Đức Thầy dạy:
    Dầu nghề chi làm việc ngay đường,
    Ta đừng nên theo kẻ bất lương.
    Học ngón xảo để lừa đồng loại”.

    b)- Làm những điều chơn chánh hiền từ.
    c)- Tôn trọng mạng sống, quyền lợi, danh dự, hạnh phúc của nhân loại và các giới chúng sanh.
    d)- Sử dụng đúng lẽ công bằng, từ bi, bác ái, tích đức, khoan dung. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    “Thứ tư Chánh nghiệp mặc dầu,
    Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay”.

    6- LỢI ÍCH
    Hành giả tu Chánh nghiệp xong sẽ đặng các điều lợi ích đáng kể:
    a)- Gia đình hạnh phúc, thân thể khỏe mạnh, sống lâu và no ấm đời đời. Tâm trí sáng suốt, mau thành Đạo giải thoát.

    b)- Được mọi người kính phục và hướng theo.
    c)- Nghiệp oan tội khổ tiêu dần, khỏi đọa ba đường ác.
    7- KẾT LUẬN:
    Đại để, người hành được Chánh nghiệp, không còn bị các oan trái cay nghiệt, đời đời thanh tịnh an vui và thẳng đến khi thành quả Bồ đề.

    CHÚ THÍCH
    THAM THIỀN: Tham là suy gẫm; Thiền là tịnh lự, là tư duy. Ý nói để tâm yên tịnh, suy gẫm Đạo lý mầu nhiệm:“Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền”.( ĐT)
    NHẬP ĐỊNH: Vào chánh định, bằng cách ngồi yên lặng hay trong Tứ tướng oai nghi (là: đi, đứng, nằm, ngồi) tâm trí luôn trong lặng thuần chánh và sáng suốt.
    TRÌ TỤNG: Trì là gìn giữ và làm theo; tụng là đọc, xem. Ý chỉ cho việc công phu bái sám, hoặc đọc tụng Kinh sách hằng ngày. Đức Thầy dạy:
    Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.

    KINH HÀNH: Đi một cách thung dung quanh chùa tháp, hoặc chỗ tịch mịch để niệm Phật hay suy gẫm (thiền định) việc Đạo lý để phát sanh trí huệ.
    CÔNG QUẢ: Công là việc làm hay hạnh đức hoặc trí năng của mình làm. Quả là kết quả. Đức Thầy có câu:
    Nguyện đem công quả tu hành,
    Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài”.

    BUÔN TẢO BÁN TẦN: Tần là một loại rau; Tảo là rong biển (rau tần rau tảo). Ý nói bận lo buôn bán hoặc làm nhiều việc vất vả:“Tảo tần lo liệu năm ba”.(ĐT)

    Hay là:Ta thương xót lo tần lo tảo”.( ĐT)
    BẤT NHÂN: Không có nhân đức, không thương người mến vật.
    ĐẦU CƠ: Đầu là ném lại; Cơ là cơ hội. Thừa cơ hội làm lợi cho mình, bằng cách không hợp lý hợp pháp:“Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.( ĐT)
    TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ hư hèn, như “Tứ đổ tường” (tửu sắc tài khí).
    HOANG ĐÀNG: Cũng gọi là hoang đường. Ý nói người hoang chơi theo “tứ đổ tường” (tửu sắc tái khí), không kể đến nhà cửa, vợ con, cha mẹ…
    TRÀ ĐÌNH TỬU ĐIẾM: Phòng trà quán rượu có chứa gái điếm. Đây chỉ cho hạng người quá đam mê tửu sắc, hằng ngày la lết nơi nhà điếm, quán rượu, không kể đến gia đình, cha mẹ, vợ con..

    CÂU HỎI
    1/-Định nghĩa Chánh nghiệp và Tà nghiệp ?
    2/-Lý do gì người Cư sĩ dễ sanh Tà nghiệp ?
    3/-Hành trạng tà nghiệp như thế nào ?
    4/-Người còn tà nghiệp có tai hại gì ?
    5/-Muốn hành Chánh nghiệp ta phải làm sao ?
    6/-Hành Chánh nghiệp xong được lợi ích như thế nào ?
    7/-Tóm tắt người hành được Chánh nghiệp có kết quả gì ?

    IV- CHÁNH TINH TẤN

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH TIN-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới.
    Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.
    Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo.


    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ tư trong Bát Chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:

    - CHÁNH TINH TẤN: là tín ngưỡng chơn chánh, bền chắc và lướt tới một cách hăng hái mạnh mẽ.
    - TÀ TINH TẤN: là mê tín theo tà thuyết, chần chờ, giải đãi, nghi ngờ Trời Phật.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Bởi óc dễ tin, nghi ngờ và hột giống giải đãi, yếu ớt có sẳn trong tâm thức con người từ vô thỉ, nên khi gặp sự tuyên truyền của các tà thuyết, vô thần hoặc dục tình cám dỗ, vật chất cuốn lôi, liền nghe theo.
    3- HÀNH TRẠNG TÀ TINH TẤN:
    a)- Không tin có Trời Phật Thần Thánh, quả báo luân hồi, tội phước hay thiên đường, địa ngục hoặc linh hồn.

    b)- Chỉ lo tranh đấu mạnh được yếu thua.
    c)- Tạo những tội lỗi, mánh khoé gian hùng, điêu ngoa xảo trá, tàn bạo ngược ngang.
    d)- Áp bức mọi người để có quyền uy và thụ hưởng trên hết.
    4- TAI HẠI TÀ TINH TẤN:
    Người sống theo tà tinh tấn có những tai hại:
    a)- Mất chánh tín.

    b)- Gây đau khổ muôn loài.
    c)- Bị nghiệp chướng kéo dài trong luân hồi sanh tử.
    d)- Dù có tu, song giải đãi yếu ớt nên rất lâu thành đạo giải thoát.
    5- HÀNH CHÁNH TINH TẤN:
    Muốn đạt được Chánh tinh tấn, ta cần phải:
    a)- Giữ chánh tín mạnh mẽ, sáng suốt, không để uy quyền hay thị dục lôi cuốn. Đức Thầy khuyên:
    “Chánh Tinh tấn dầu thành hay bại,
    Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
    Dầu cho ai phá rối đức tin,
    Ta cũng cứ một đường đi tới”.

    b)- Luôn nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh của Đức Thế Tôn.
    c)- Chúng sanh còn khổ thì ta cũng đồng khổ với họ.
    d)- Xét vì ta có bổn phận giác ngộ trần gian, xa rời tục lụy. “Muốn thế trước hết phải tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả”.
    e)- Cương quyết dẹp các điều tà vạy và lục căn, lục trần.
    g)- Rèn luyện các đức tánh:“Thiện mỹ, yên tịnh, hỷ lạc, nghiêm trang”:
    “Thứ năm tinh tấn hội đàm,

    Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan”.( ĐT)
    6- LỢI ÍCH:
    Người hành được chánh tinh tấn sẽ đặng nhiều điều lợi ích:
    a)- Đường tu không còn nghi ngờ do dự, luôn thi hành chánh tín một cách mạnh mẽ.
    b)- Không còn bị tà thuyết, vô thần hay thị dục lôi cuốn.
    c)- Được chư Thiên và mười phương Phật hộ trì.
    d)- Tế độ được vô số chúng sanh tu hành giải thoát.
    e)- Sớm đạt được diệu trí và vào bực bất thối.
    g)- Được lực vô úy và chóng thành Đạo Bồ đề.
    7- KẾT LUẬN

    Tóm lại khi hành được chánh tinh tấn không còn thối đọa trong ba đường ác, tâm hồn luôn tự tại trong cuộc hóa độ chúng sanh các cõi.

    CHÚ THÍCH
    VÍA: Một phần trong linh hồn con người lúc còn sống. Người ta thường nói hết hồn hết vía, hay nhẹ bóng vía.
    MÁNH KHÓE: Mưu mô xảo trá.
    GIAN HÙNG: Dối trá xảo quyệt. Đức Thầy có câu:
    Lũ gian hùng mang lấy họa ương,
    Trời đất xử những người bội phản”.
    ĐỨC TIN: Sự tin tưởng về Đạo đức cao cả.
    BỨC BÁCH: Ép buộc thúc giục.
    TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và ngưỡng mộ.
    ĐỨC THẾ TÔN: Một trong 10 hiệu của Phật Thích Ca, có nghĩa cả ba cõi thế gian đều tôn Ngài là Thầy, là đấng Cha lành:
    Ngài là vua Pháp tột cao,
    Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tài.
    Tiên người đồng kính Đạo Thầy,
    Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh
    .( ĐT)

    GIÁC NGỘ: Nghĩa của chữ Phật (đấng Giác ngộ), nhưng bốn chữ “Giác ngộ trần gian” ở đây có nghĩa là tỉnh thức kẻ còn mê trong cõi trần.
    OAN TRÁI: Nghiệp nợ do mình tạo tội ác, oan nghiệp kiếp trước mà kiếp nầy phải trả.
    TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ sáng biết, tự giác là một trong tam giác của Phật (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).
    Lòng tự giác xả thân tầm Đạo”.( ĐT)
    NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ, Tàu dịch có nhiều nghĩa. Ở đây chỉ giải một ít nghĩa:
    1-DIỆT ĐỘ: Một nơi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.

    2-VIÊN TỊCH: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần gọi là Viên; trí huệ cụ túc, dứt sạch nghiệp chướng khổ lụy gọi là Tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch để thoát trầm nịch khổ hải.
    3-BẤT SANH BẤT DIỆT: Chẳng còn một niệm sanh, nên chẳng còn sự chết khổ:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh.( ĐT)
    Ngoài ra Niết Bàn cũng còn có nghĩa là vô vi, tịch diệt, giải thoát và an lạc…
    LỤC CĂN: Sáu căn, tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó hay xúi giục tâm hồn người ô nhiễm theo sáu trần. Nó cũng gọi là 6 con giặc (lục tặc).
    LỤC TRẦN: Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Thầy dạy:
    Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.
    YÊN TỊNH: Lặng lẽ trong sạch.
    HỈ LẠC: Vui mừng vì không còn các nỗi khổ làm bận tâm, chẳng phải như chữ hỉ lạc trong thất tình.
    NGHIÊM TRANG: Đoan trang nghiêm chỉnh.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn ?
    2/-Lý do nào sanh Tà tinh tấn ?
    3/-Hành trạng Tà tinh tấn ra sao ?
    4/-Người còn tà tinh tấn có tai hại gì ?
    5/-Muốn có Chánh tinh tấn phải làm sao ?
    6/-Người có chánh tinh tấn được lợi ích gì ?
    7/-Hãy giải nghĩa chữ Niết Bàn ?
    8/-Lục căn lục trần là gì ? Và muốn dẹp nó phải làm sao ?
    9/-Muốn được yên tịnh phải rèn luyện bằng cách nào ?

    V- CHÁNH MẠNG

    CHÁNH VĂN

    CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chơn chánh, trong sạch.
    Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao.

    Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.
    Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối, bỏ tất cả đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.

    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ năm trong Bát chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    CHÁNH MẠNG: là sanh mạng chơn chánh trong sạch, sống theo trí huệ đạo đức.
    TÀ MẠNG: Đời sống tà vạy nhơ xấu, sống theo vô minh dục vọng.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Người đời vì quá quí trọng xác thân và lo bảo vệ săn sóc nó, nên tạo nếp sống nhơ bẩn tà ác…
    3- HÀNH TRẠNG:
    Bởi tâm hồn sống theo tà mạng, nên để lục căn ô nhiễm lục trần, như:
    -“Mắt ưa xem sắc đẹp – Tai ưa nghe tiếng hay.
    - Mũi ưa ngửi mùi thơm - Lưỡi ưa đồ ngon béo.
    - Thân ưa sự sung sướng – Ý ưa chức phận cao”.
    4- TAI HẠI:

    Người sống theo Tà mạng nên thường chuốc lấy những tai hại:
    a)- Trí huệ mờ ám ngu đần.
    b)- Không còn lo nghĩ đến sự tiêu diệt giống sanh tử.
    c)- Gây nhiều nghiệp tội để phải luân hồi đền trả.
    5- HÀNH CHÁNH MẠNG:
    Để sống đúng theo chánh mạng, hành giả phải ghi nhớ những điểm như sau:
    a)- Đối với bên ngoài ta phải xa lánh những điều làm cho tinh thần bị đen tối, như: lục trần, lục dục, đài các xa hoa. Lục căn đối với lục trần, tâm không hề ô nhiễm, lúc nào cũng vẫn như như bất động.
    b)- Bên trong tự chủ thân tâm, nhắm mục tiêu bất diệt, bất sanh tiến tới. Đức Thầy dạy:
    Mục chánh mạng chúng sanh ơi hỡi,
    Cho linh hồn cai quản châu thân.
    Lấy chơn nhơn dẹp tánh phàm trần,
    Mới có thể mong về Cực Lạc”.

    c)- Muốn đạt đến Cực lạc tự tánh ta phải tu tập Thiền định làm thể chất căn bản. Thiền định được, tức trí huệ sáng mầu, từ đó ta cứ sống theo trí huệ, nên khỏi bị khách trần lôi kéo, gạt gẫm.
    6- LỢI ÍCH:
    Tu chánh mạng hành giả sẽ được các điều lợi ích:
    a)- Linh hồn đặng nhập liên hoa tự tánh (thể thanh tịnh).
    b)- Siêu sanh vào cõi Niết Bàn (bất diệt bất sanh).
    Tóm lại hai phần: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng là cái nhân tu hành; còn linh hồn nhập liên hoa và siêu sanh vào cõi Niết Bàn là cái kết quả.

    7- KẾT LUẬN:
    Đại khái khi hành được chánh mạng, không còn ác duyên trầm trệ trong lục đạo, thân tâm khinh khoái mà vào cõi giải thoát và hóa độ đặng vô số chúng sanh.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TRÍ TUỆ: (Xem chữ Trí huệ NĐSL, T-1, Q.7).(?)
    XA HOA: Chưng diện lòe loẹt tốn kém. Đức Thầy dạy: “Khuyên đừng xài phí xa hoa,
    Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.
    THIỀN ĐỊNH: Do chữ Thiền na. Có nghĩa để tâm trong sạch, yên lặng mà suy gẫm việc Đạo lý mầu nhiệm, không phân biệt ngồi nằm hay đi đứng, cách nào cũng thiền định được cả. Đức Thầy khuyên:

    Sớm tối đi nằm y chánh pháp”
    Và: “Quay về cội phúc đường chân Đạo,
    Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.
    THỂ: là gốc, là bản chất của mọi sự vật. Ví như tất cả bàn, ghế, giường, ngựa…thể chất nó bằng cây làm ra. Các món nữ trang, thể chất nó bằng vàng. Các loại bánh ngọt, thể chất nó bằng bột và đường. Thể chất tốt thì các món làm ra đều tốt. bằng thể chất xấu thì cái gì cũng xấu.
    THIỀN ĐỊNH ĐẶT LÀM THỂ: Nhà tu muốn tiến đến Niết Bàn trước phải tu Thiền định làm căn bản. Có thiền định được trí huệ mới sáng tỏ và mọi suy nghĩ nói làm đều được trọn lành trọn sáng, tiến đến giải thoát. Bằng thiếu thiền định thì ý nghĩ hay nói làm đều xấu ác, quả Đạo bất thành.
    TRÍ TUỆ ĐẶT LÀM MẠNG: Người tu khi trí huệ được sáng tỏ, từ ấy mạng sống nương theo trí huệ mà vào Niết Bàn, không hề sai lệch. Như người đi đêm có đèn đuốc không lầm đường hay va chạm vào cây đá làm thiệt hại thân mạng.
    LINH HỒN NHẬP LIÊN HOA: Thần thức được hòa vào bản lai thanh tịnh tự tánh. Ý nói khi tâm hồn nhà tu được vào thể thanh tịnh, thì đối với các cảnh tượng lành dữ hay danh, lợi, tình…tâm mình vẫn an nhiên tự tại. Cũng như hoa sen dầu sống trong bùn vẫn không bị bùn làm hoen ố. “Cư trần bất nhiễm”, “Lẫn tục đừng mê”.
    SIÊU SANH VÀO CÕI NIẾT BÀN: Cũng gọi là nhập Niết Bàn, tức là siêu thoát vào cõi bất sanh bất diệt. Người tu thiền định được, tuy còn mang xác phàm như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tâm hồn đã dứt sạch hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, nên gọi là vào Niết Bàn. Đức Thầy từng nói:
    Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.
    Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh mạng và Tà mạng ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh Tà mạng ?
    3/-Hành trạng của tà mạng ra sao ?
    4/-Người sống theo tà mạng có tai hại gì ?
    5/-Muốn được Chánh mạng ta phải tu cách nào ?
    6/-Hành chánh mạng xong được lợi ích gì ?
    7/-Thiền định là gì ? Và tại sao Đức Thầy dạy ta phải đặt nó làm thể chất ?
    8/-Tại sao trong Chánh mạng nói linh hồn nhập liên hoa tự tánh mà không nói nhập liên hoa cõi Cực Lạc ?
    9/-Kết luận mục Chánh mạng ra sao ?

    VI- CHÁNH NGỮ

    CHÁNH VĂN

    CHÁNH-NGỮ.- Lời nói chơn thật.
    Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.

    Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt: làm cho thiên hạ bất hoà nhau. Ỷ-ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay. Ác-khẩu: tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh. Vọng-ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc.
    Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn. Phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức-hạnh, những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.


    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ sáu trong Bát Chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    -CHÁNH NGỮ: Lời nói chơn chánh thành thật.
    -TÀ NGỮ: Lời nói xảo ngôn dối trá, tà vạy.
    2- NGUYÊN NHÂN SANH TÀ NGỮ:
    Người sống theo Tà ngữ vì muốn nuôi dưỡng xác thân, mới sanh ra các lời nói tà vạy. Chính nó là nguồn cội của các tội lỗi, nên gọi là nghiệp chướng của miệng lưỡi:
    Việc tráo chác ấy là nguồn cội,
    Lời xảo ngôn đo đó mà ra”.
    ( ĐT)
    3- HÀNH TRẠNG:
    Hành trạng của Tà ngữ có bốn phần:
    “1- Lưỡng thiệt: làm cho thiên hạ bất hòa nhau.
    2- Ỷ ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay.
    3- Ác khẩu: tiếng độc ác tục tằn chưởi rủa thần thánh.
    4- Vọng ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc”.
    4- TAI HẠI:
    Người còn Tà ngữ tất còn vương mang các họa hại:
    a)- Bị mọi người chán chê xa lánh.
    b)- Chư Thiên và Thần Thánh không ủng hộ.
    c)- Gây nhân luân hồi quả báo, từ đời nầy sang đời khác, rồi đời khác nữa.
    5- HÀNH CHÁNH NGỮ:
    Để thi hành Chánh ngữ, Đức Thầy dạy:
    Thứ sáu Chánh ngữ liệu toan,

    Nói năng điều chánh thì an chớ gì”.
    Hoặc là:
    “Câu Chánh ngữ lòng son ghi tạc,
    Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường.

    Nói những điều đức hạnh hiền lương,
    Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi”.

    Do đó, nhà tu phải chuyển đổi ngôn ngữ từ tà ra chánh:
    a)- Hãy tập sửa lời nói mình cho được “chơn chánh đúng với sự thật”.
    b)- Chừa bỏ những tiếng xảo ngôn tráo chác, thô lỗ, tục tằn.
    c)- Khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng.
    d)- Nên khuyên “Kẻ khác làm theo lẽ phải, đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hợp với tinh thần Đạo đức”.
    6- LỢI ÍCH:
    Khi hành được chánh ngữ hành giả sẽ đặng các điều lợi ích:
    a)- Khẩu nghiệp thanh tịnh.
    b)- Được mọi người tin tưởng nghe theo.
    c)- Chư Thiên và Quỉ thần thường ủng hộ.(Xưa, có một nhà Sư đang ngồi thiền định, thấy 2 Sa di đang trò chuyện trước hành lang chùa, các Thiên thần kẻ quì, người ngồi chung quanh lắng nghe một cách cung kính. Lát sau, thấy họ phun nước miếng tỏ vẻ khinh bỉ rồi bỏ đi…Khi xuất định, Sư kêu hỏi: Lúc nãy 2 người nói chuyện gì thế ? Hai Sa di không dám dấu, vì biết Thầy đã đắc nhãn quan, nên nói thật: Lúc đầu chúng tôi thảo luận bài Giáo lý mà Thầy đã giảng hôm qua. Kế đó chúng tôi bàn về việc thế tục. Sư liền kể cho 2 đệ tử biết việc bị Chư Thần khinh bỉ, và khuyên: Từ đây hãy rán ngăn chừa tà ngữ mà phải luôn nói chánh ngữ.)

    d)- Miệng lưỡi thơm tho, ngôn ngữ siêu thắng, thuyết phục được nhiều người hướng thiện.
    7- KẾT LUẬN
    Tóm tắt ai hành được chánh ngữ, không còn bị quả báo về khẩu nghiệp. Thường nói lời hiền lành Đạo đức, đem lại sự lợi lạc cho mọi người, mọi giới và đường về Niết Bàn, Cực Lạc không còn bị chướng ngại.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LỤC TRẦN: (Xem CT chữ Lục trần mục Chánh Tinh tấn).
    NGHIỆP CHƯỚNG: (Xem CT chữ Nghiệp chướng bài “Luận về Tam nghiệp”).
    ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành, từ bi và bình đẳng; Hạnh là nết tốt, cử chỉ đoan trang lễ phép. Đức Thầy dạy: “Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh ngữ và Tà ngữ ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh ra Tà ngữ ?
    3/-Hành trạng tà ngữ ra sao ?
    4/-Người nói không chánh ngữ có tai hại gì ?
    5/-Muốn được chánh ngữ phải làm sao ?
    6/-Lợi ích của Chánh ngữ như thế nào ?
    7/-Tóm tắt khi hành được chánh ngữ ra sao ?

    VII- CHÁNH NIỆM

    CHÁNH VĂN

    CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân chánh.
    Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng ... Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não phụng sự cho nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quý ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.
    Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.


    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ bảy trong Bát Chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    -CHÁNH NIỆM: là ghi nhớ sự chơn chánh.
    -TÀ NIỆM: là ghi nhớ sự tà vạy nhơ xấu.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Do thất tình lục dục sai khiến làm cho con người đem hết tâm cơ trí lực phụng sự nó, nên nảy ra sự nhớ tưởng tà vạy nhơ xấu.

    3- HÀNH TRẠNG:
    Người còn tà niệm thường ghi nhớ những:“danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí…”và các điều: còn mất, có không, thành bại, thương ghét không phút nào yên tĩnh.
    4- TAI HẠI:
    Người sống theo tà niệm tất còn vương phải tai hại là “niệm niệm mê lầm chẳng dứt” nên phải lăn lộn mãi trong sáu nẻo luân hồi không thoát khỏi vòng sanh tử.
    5- HÀNH CHÁNH NIỆM:
    Muốn đạt được chánh niệm, nhà tu cần phải thi hành các phương cách như sau:
    a)- Luôn tưởng niệm những phương pháp hành Đạo, gạt bỏ các điều phù phiếm ra khỏi tâm tưởng.
    b)- Ghi nhớ công lao và lời chỉ dạy của Phật của Thầy.
    c)- Xét nghĩ đến thân tứ đại giả hợp, để lòng không còn chấp trước. Đức Thầy đã dạy:
    “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.

    d)- Hãy tiến tu để chứng được chơn tâm thường trụ bất hoại.
    6- LỢI ÍCH:
    Người hành chánh niệm được kết quả:

    a)- Đối với mọi trần cảnh, tâm không xúc động và luôn được an nhiên tự tại.
    b)- Dứt hết cuộc đời lầm than khổ lụy.
    c)- Tâm hạnh, phúc trí càng ngày càng vượn lớn, khiến ai cũng kính tin.
    7- KẾT LUẬN:
    Tóm tắt người hành được chánh niệm, sẽ đạt quả giải thoát, dứt sanh tử luân hồi và sớm thành bậc Chánh giác.

    CHÚ THÍCH
    THẤT TÌNH: Bảy cái tình trong tâm tưởng con người, tức là:“Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục”. Có nghĩa: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn. Bảy cái tình ấy ví như bảy con ma, hay xúi người làm quấy. Đức Thầy hằng khuyên:“Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung”.
    LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn của vọng tâm đối với sáu trần cảnh là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục dục cũng gọi là: sắc trang, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng, tật đố. Nó ví như sáu con ma hay khơi gợi người đam mê ưa thích làm điều xằng bậy. Đức Thầy răn dạy:
    Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.
    TÂM CƠ: Cơ mưu riêng trong lòng.
    TRÍ NÃO: Trí óc. Nói riêng về sự hiểu biết tính toán.
    SÁU ĐƯỜNG: Nghĩa của chữ “Lục đạo”. Cũng gọi là 6 nẻo luân hồi, gồm có: cõi Trời, cõi người, cõi Thần, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Đức Thầy có câu:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
    PHÙ PHIẾM: Bâng quơ, không thiết thực.
    XÚC ĐỘNG: Động lòng, mủi lòng, cảm động nhiều.
    LỤY KHỔ: Tai hại khổ sở.


    CÂU HỎI
    1/-Định nghĩa chữ Chánh niệm và Tà niệm ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh tà niệm ?
    3/-Hành trạng của tà niệm ra sao ?
    4/-Người còn tà niệm có tai hại gì ?
    5/-Muốn được chánh niệm phải làm sao ?
    6/-Hành chánh niệm được lợi ích gì ?
    7/-Giải nghĩa chữ thất tình và lục dục ?
    8/-Đức Thầy bảo hãy tưởng niệm phương pháp hành Đạo, nên kể một vài phương pháp chứng minh ?
    9/-Cho biết mục kết luận chánh niệm ?

    VIII- CHÁNH ĐỊNH

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-ĐỊNH.- Suy gẫm chơn-chánh.

    Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên ... nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác ... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quý, đi theo những vặt-vụn, tiểu ti, eo-hẹp.
    Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-Thoát.

    LƯỢC GIẢI
    (Chánh thứ tám trong Bát Chánh)
    1- ĐỊNH NGHĨA:
    -CHÁNH ĐỊNH: Suy gẫm chơn chánh tốt lành.
    -TÀ ĐỊNH: Suy gẫm tà vạy, lầm lạc, nhơ xấu.
    2- NGUYÊN NHÂN:
    Do lòng ích kỷ muốn hưởng mọi dục lạc giả tạm trong cõi trần, mới sanh ra tà định.
    3- HÀNH TRẠNG:
    Tâm trạng của người sống theo tà định:
    a)- Thường có những ý định làm cho mình được cao sang, giàu có, sung sướng và sáng biết nhỏ nhen thấp thỏi.
    b)- Không nhận thấy cuộc đời tạm giả, đổi dời; thân vô thường theo định luật: sanh, già, bịnh, chết, cả nhân loại không một ai thoát khỏi.
    4- TAI HẠI
    -Người còn tà định thì tâm trí mãi cuống cuồng theo bả lợi danh, mồi phú quí.

    -Chạy theo những vặt vụn tiểu ti eo hẹp, nên mãi gây nghiệp trần mê, luân hồi sanh tử.
    5- HÀNH CHÁNH ĐỊNH:
    Muốn tu cho đạt được chánh định, hành giả phải thực hiện các điều:
    a)- Hãy suy gẫm nhận xét ngoài cảnh phù du trần thế, còn có cảnh bất sanh bất diệt, vĩnh viễn trường tồn.
    b)- Cõi ấy không còn buồn khổ hay quả báo, luân hồi.
    c)- Hãy thiền định phá tan màn vô minh phiền não và các làn sóng thị dục.
    Về pháp thiền định Đức Thầy dạy:
    “Thứ tám Chánh định chớ lầm,
    Từ bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
    Ngồi đâu cũng định mới nên,

    Đừng cho công việc hớ hênh với người”...
    Hoặc là:
    Mục Chánh định thật là rất khó,
    Giữ tấm lòng bất động như như.
    Cho hồn linh yên lặng an cư,
    Thì mới được huờn nguyên phản bổn”.

    6- LỢI ÍCH
    Người hành được chánh định sẽ đặng nhiều lợi ích đáng kể, như:
    a)- Bên trong tâm chẳng còn xao động, các món phiền não tiêu tan, trí tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt:“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật”.( ĐT)
    b)- Bên ngoài không duyên nhiễm theo các trần cảnh. Tuy sống chung với mọi người, mọi hoàn cảnh, nhưng lòng vẫn như như bất động, tự tại giải thoát:
    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)
    7- KẾT LUẬN

    Tóm lại khi hành được chánh định tâm ta chẳng còn loạn động vì phiền não gây ra, lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt. Thấy biết phân tách vạn pháp được rõ ràng, như thấy chỉ trong bàn tay và chứng đại định Niết Bàn.

    TỔNG KẾT
    Đại khái Bát Chánh Đạo là một trong “Tứ Diệu Đề”, là tám pháp Đạo phần trong 37 phẩm trợ Đạo. Là pháp tu căn bản duy nhứt của các bậc Bồ Tát và La Hán. Khi xưa, Đức Phật đã di chúc:“Nơi nào có Bát Chánh Đạo là Chánh Đạo, nơi nào không có Bát Chánh Đạo là tà đạo”. Cho nên ngày nay Đức Thầy mới bảo:
    Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,
    Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.
    Do đó, người tu Phật hiện nay, không một ai chẳng trì hành Bát Chánh Đạo.

    CHÚ THÍCH
    LẠC LUÂN: Lưu lạc rày đây mai đó, hoặc lên xuống theo bánh xe luân hồi.
    PHÙ VÂN: Mây nổi. Ý chỉ cái gì không bền chắc, thấy đó rồi mất đó. Đức Thầy có câu:
    “Cuộc phù vân phú quí nay mai,
    Luân với chuyển dời qua đổi lại”.

    PHÙ DU: Một thứ côn trùng nhỏ như chuồn chuồn bay trên mặt nước. Tối lại, thấy ánh sáng của bóng đèn bay quanh theo, rồi bị lửa nóng chết. Ý nói kiếp sống con người quá ngắn ngủi, dù có tham luyến vật chất tiền tài cũng chẳng hưởng lâu bền mà lại phải chết vì nó. Đức Thầy đã nói:
    Con phù du hẫng hờ nào biết,
    Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.
    Thảm thương thay chết héo chết khô,
    Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.
    Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
    Đeo danh lợi như con vật ấy”.

    BẢ LỢI DANH: Bả là đồ ăn có tẩm thuốc độc. Ý nói ai tham danh lợi như người tự uống thuốc độc mà chết.
    MÙI PHÚ QUÍ: Cũng viết là mồi phú quí. Ý nói sự phú quí vinh hoa như miếng mồi có mùi thơm, tức có lưỡi câu trong đó, ai tham phú quí như cá tham mồi thì phải mắc câu, tất có hại.
    KHÔNG DI KHÔNG DỊCH: Chẳng dời chẳng đổi. Chỉ cho cái gì còn hoài không mất.
    U MINH: Tối tăm mù mịt, cũng gọi là vô minh.
    PHIỀN NÃO: Hán học giải là buồn rầu, lo sợ, sân si. Phật học giải là cái vọng niệm tà quấy sai lầm. Phiền não kể ra có vô lượng, nhưng tóm tắt lại gồm có ba món căn bản, là:“Tham, Sân, Si”, nó có thể nảy sanh muôn ngàn trần lao phiền não khác. Trong bài “Các câu chú” Đức Thầy có dịch:
    Nghe chuông phiền não tiêu tan,

    Bồ đề tâm mở trí toan huệ mầu”.

    CÂU HỎI
    1/-Định nghĩa Chánh định và Tà định ?
    2/-Lý do nào sanh tà định ?
    3/-Hành trạng tà định ra sao ?
    4/-Người sống theo tà định tai hại như thế nào ?
    5/-Muốn được chánh định ta phải làm sao ?
    6/-Hành chánh định được lợi ích gì ?
    7/-Cho biết mục kết luận của chánh định ?
    8/-Phần tổng kết Bát Chánh Đạo ra sao ?

    ***
    - Đến đây hết phần I Môn Giáo lý căn bản.
    - Hãy học tiếp phần II Môn nghi thức, thờ cúng và giới luật.

     
  3. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    CÁCH THỜ PHƯỢNG, HÀNH LỄ VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT TÍN ĐỒ PGHH


    LƯỢC GIẢI

    Như đã biết, vừa qua là phần một của QUYỂN SÁU mà từ trước trong Đạo đã ấn định là môn học “GIÁO LÝ CĂN BẢN”. Còn tiếp đây là phần hai của QUYỂN SÁU, thuộc về môn học “NGHI THỨC THỜ CÚNG và GIỚI LUẬT”. Trong đây gồm có 8 đề mục:
    I- THỜ PHƯỢNG.

    II- HÀNH LỄ.
    III- TANG LỄ.

    IV- CÁCH CẨU NGUỆN CHO NGƯỜI CHẾT.
    V- HÔN NHƠN.

    VI- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ, HOẶC NÊN LÀM.
    VII- SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA.
    VIII- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO (Tám điều răn cấm).
    Nội dung có nhiều tiết mục mà người đã vào Đạo, hoặc ai muốn qui y cũng phải học hỏi nghiên cứu chính xác để thi hành theo. Đức Thầy luôn giác tỉnh:

    Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.

    Hay là:
    “Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý,

    Một ngày hiệp mặt hết mờ lu”.

    !.- CÁCH THỜ PHƯỢNG

    CHÁNH VĂN
    Từ truớc đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình-tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm-hồn hơn ở vào sự hào nháng (nhoáng) bề ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần điều là di-tích của Đức PHẬT THẦY TÂY-AN để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức PHẬT, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân. Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô-thượng của nhà Phật.
    Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt PHẬT trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.
    Về cách cúng PHẬT, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng.

    Ngoài sự thờ PHẬT, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh-hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.

    LƯỢC GIẢI
    A- CÁC NGÔI THỜ
    Theo nghi thức thờ phượng của PGHH thì trong gia đình của mỗi tín đồ đều có ba ngôi thờ cúng.
    1- BÀN THỜ PHẬT, cũng gọi là Ngôi Tam Bảo, thờ ở giữa nhà, cao hơn bàn Cửu Huyền Thất Tổ. Theo Đức Thầy cho biết: các chùa trong Đạo Phật từ trước tới giờ, người ta trang trí quá nhiều hình tượng; tuy vì sự tôn kính Phật, Pháp, Tăng, song cũng có người lợi dụng nơi ấy để sanh sống. Bây giờ chúng ta không nên thờ hình tướng như vậy nữa, đây không có ý hủy báng sự thờ phượng của các chùa, đó là tùy theo điều kiện của các Tăng sư, chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng.

    Riêng về cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không nên thờ theo hình thức đó, mà nên thờ đơn giản lại, để cho lòng tín ngưỡng xoay về tâm hơn là sắc tướng bên ngoài.
    Lúc Đức Giáo Chủ PGHH mới khai Đạo (1939) Ngài dạy tín đồ trang trí ngôi Tam Bảo một bức trần điều, là vì noi theo truyền thống của Đức Phật Thầy Tây An. Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1940) có người tự xưng cùng một Tông phái, cũng thờ Trần đỏ như vậy, nhưng họ làm sai tôn chỉ của Đức Phật, nên Đức Thầy cho toàn thể trong Đạo đổi lại bức trần màu dà. Ngài cũng cho biết ý nghĩa:

    Từ trước tới giờ các nhà tu hay dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục, bởi màu dà do sự kết hợp với các màu khác mà thành, nên dùng nó cũng để tượng trưng cho sự hòa hợp, bình đẳng nhân loại…Chính bức trần dà ấy cũng tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật. Là một tín đồ PGHH, chúng ta không nên thờ phượng cách nào khác.
    2- BÀN THÔNG THIÊN: Bàn này dựng trước sân nhà, hoặc dựa mái nhà cũng được. Theo ý Đức Thầy, nếu trong nhà chật hẹp, chỉ một bàn Thông Thiên cũng được.
    -Cốt Phật đã có từ trước, để y cũng đặng hoặc hiến vào chùa hay cho người Tông phái khác thỉnh. Còn hình tượng bằng giấy nên đốt đi, không nên chừa lại. (Có người hỏi sao tượng bằng giấy thì đốt, còn chơn dung Đức Thầy còn để lại ? – Xin trả lời: Để chơn dung Đức Thầy là kỷ niệm, chớ không phải thờ như tượng Phật. Như đã thấy chỉ để 2 bên, chớ chẳng để trong ngôi Tam Bảo.)
    -Trường hợp ở đậu với người không cùng một Đạo, tới thời cúng chỉ niệm thầm đủ các bài nguyện trong tâm cũng được.

    3- BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Bàn nầy đặt giữa ngay giữa nhà, thấp hơn ngôi Tam Bảo, hoặc dưới ngôi Tam Bảo, nhà nhỏ thì làm nhị cấp.
    CÁC VẬT DÂNG CÚNG: Phật Trời không hề dùng vật thực thế gian, chỉ chứng tấm lòng thành mà thôi:
    “Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
    Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.

    Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,
    Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”.
    Cho nên Đức Giáo Chủ dạy: bàn Phật và bàn Thông Thiên chỉ được cúng 3 món tiêu biểu mà thôi:
    1-“Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch”
    2-“Bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết.
    3-“Còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược”.

    Ngoài ra không nên cúng một món gì khác cả.
    -Còn bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ cúng món chi cũng đặng (có chi cúng nấy).
    -NÊN THỜ HOẶC KHÔNG NÊN THỜ AI ? Người tín đồ PGHH chỉ được thờ:“Phật, Tổ Tiên, Ông Bà, Cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích”.
    B- Ý NGHĨA BA NGÔI THỜ CÚNG
    Theo truyền thống Quốc dân Việt Nam chúng ta đều sùng ngưỡng Tam Giáo “Phật, Thánh, Tiên”. Vào thời nước nhà tự chủ qua các triểu đại: Đinh, Lê, Lý, Trần; đều có mở những cuộc thi tổng hợp tam giáo, để tuyển chọn các bậc hiền tài, ra giúp nước vùa dân.
    Do truyền thống đó, PGHH đã hình thành trong lòng dân tộc và cũng mang màu sắc dân tộc. Tất nhiên là lời giáo huấn của Đức Giáo Chủ cũng dung thông cả Tam giáo để khế hợp với tinh thần dân tộc. Như Ngài đã cho biết.

    Trong Tam Giáo ân cần mở đạo,
    Trường ngoại bang phục đáo như xưa”.

    Và những câu:
    “Phật, Thánh, Tiên Đông Độ lướt sang,
    Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.
    Hoặc là:
    “Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải,
    Những ước ao thế giới hòa bình”.

    Vì thế, trong nghi thức thờ cúng, Đức Thầy dạy: nơi tư gia của mỗi tín đồ có 3 ngôi thờ cúng là tượng trưng cho tam giáo: Phật, Tiên, Thánh.
    Vào năm 1968, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương có họp bàn và soạn thảo chương trình tu học Đạo pháp Khai Tâm. Trong đó có bài “Ý nghĩa ba chỗ thờ cúng”. Nay chúng tôi cũng căn cứ vào đó mà lược giải ra đây:

    1- BÀN THỜ PHẬT: Cũng gọi là “Ngôi Tam Bảo”. Nơi đây tôn thờ vị giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta Bà và mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, cùng Phật Tổ, Phật Thầy…Nên bàn thờ nầy có ý nghĩa tượng trưng cho Phật Đạo.
    2- BÀN THÔNG THIÊN: Có ý nghĩa: bàn thờ thông lên Trời. Vì trong câu nguyện thứ nhứt có 3 vị: Thiên hoàng (vua các cõi Trời), Địa hoàng (vua các cõi địa ngục), Nhơn hoàng (vua các cõi người). Cũng gọi là vị Chuyển Luân ThánhVương của cõi đời Thượng ngươn Thánh Đức tới đây:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc” “Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”.(ĐT). Nói chung các vị ấy đều là bậc: Phật Thánh Tiên.

    Lúc Đức Thầy mới khai Đạo (1939), Đức Ông (thân sinh của Ngài) thấy Ngài sửa lại cái bàn Thông Thiên mà Đức Ông đã thờ từ trước có 2 cấp. Đức Thầy dẹp bỏ cấp dưới và 2 ly gạo muối, chỉ chừa lại 1 cấp, 1 lư hương, 1 chung bông và 3 chung nước.
    Đức Ông liền hỏi:
    -Theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương thì thờ Bàn Thông Thiên 2 cấp: Hoàng Thiên và Hậu Thổ, nay Thầy Tư bỏ hết 1 cấp làm sao đủ ?
    Đức Thầy vui vẻ hỏi lại:

    -Ông Cả nói thờ cấp trên là Hoàng Thiên, tức Thiên Hoàng, cấp dưới là Hậu Thổ, tức Địa Hoàng, còn Nhơn Hoàng thờ ở đâu ? Đoạn Ngài nói tiếp:
    -Thờ thống nhứt lại một cấp là đủ hết 3 vị, còn thờ 2 cấp lại bị thiếu !
    Vả lại, các danh từ: Trời, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, non Bồng nước Nhược, non Tiên, Tiên bang…mà Đức Thầy có dùng trong Sấm thi của Ngài đều chỉ cho cảnh Tiên, người Tiên:
    “Kể từ Tiên cảnh Ta về,

    Non Bồng Ta ở dựa kề mất năm”.( ĐT)
    Xét qua lời chỉ giáo của Đức Thầy và các lý lẽ vừa luận trên, chúng ta có thể hiểu chung một ý nghĩa: Bàn Thông Thiên là Bàn thờ thông lên trời, cũng gọi là bàn thờ Cộng đồng Tam Giáo, dùng để tưởng niệm bốn phương Trời Phật. Nó hàm chứa tinh thần tín ngưỡng Phật Trời muôn thuở, của người dân Việt Nam chúng ta “Thiên tại óc thềm đầu” ra khỏi mái nhà thân mật, người lương dân đã tưởng nhớ Phật Trời. Đức Thầy dạy rành mạch:
    “Đi xa thì phải dặn rành,
    Bàn Thông Thiên cũng thiệt hành như y.

    Bốn phương đều đọc vậy thì,
    Cúi đầu bái tạ từ bi Phật Trời”.

    Hoặc là:
    “Cầu Trời Phật độ tiêu tai,
    Cứu trong thiên hạ Đạo khai khắp trời”.
    (Những chữ “…bái tạ từ bi Phật Trời” và “Cầu Phật Trời độ…”, thầy rõ Đức Thầy dạy cầu nguyện nơi Bàn Thông Thiên, chẳng phải Phật không mà luôn cả Trời (Tiên ).)
    Tóm lại, qua các lý do kể trên, chúng ta có một nhận định chung là bàn Thông Thiên có ý nghĩa tượng trưng cho Tiên Đạo.
    3- BÀN THỜ ÔNG BÀ hay CỬU HUYỀN THẤT TỔ, tượng trưng cho Thánh Đạo. Bàn thờ nầy do truyền thống của Tổ Tiên ta từ thời Hùng Vương lập quốc tới giờ. Trong đây là tôn thờ Tổ Quốc và Ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp. Theo Tôn chỉ của PGHH thì hai điều TRUNG và HIẾU là then chốt:

    “Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,
    Quân thần nghĩa trọng hữu thiên niên”.
    ( ĐT)
    Hoặc là:
    “Hiếu trung lòng chớ vội quên,
    Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên đài”.( ĐT)
    Là một nền Đạo xuất phát trong lòng dân tộc, người tín đồ PGHH với tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” không thể thiếu bàn thờ ông bà được. Cho nên bàn thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” (ông bà) có ý nghĩa tượng trưng cho “Thánh Đạo”.

    CHÚ THÍCH
    THỜ PHƯỢNG: Cũng gọi là phượng thờ hay phụng thờ. Có nghĩa thờ kính và vâng chịu làm theo. Đức Thầy bảo:
    “Hiếu trung truyện tích sờ sờ,

    Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha”.
    LỢI DỤNG: Thừa cơ hội mưu lợi cho mình mà có hại cho người khác.
    HỦY BÁNG: Phỉ báng, gièm pha nói xấu người ta.
    ĐƠN GIẢN: Đơn sơ, giản dị, không rườm rà phiền phức.
    TRẦN ĐIỀU: Bức trần đỏ, tức tấm tranh màu đỏ, tượng trưng cho sự tốt đẹp. Khi xưa Đức Phật Thầy Tây An khai sáng Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài dạy mỗi tín đồ thờ trên ngôi Tam Bảo một bức trần điều (đỏ) chớ không thờ tượng cốt chi hết, để tượng trưng cho tinh thần vô vi và tình thương yêu nhân loại muôn thuở của dân tộc ta, qua câu Ca dao:
    “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

    Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
    Thời nay lúc mới khai Đạo, Đức Thầy cũng theo di tích nói trên. Ngài dạy nơi nhà của mỗi tín đồ:
    Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ,
    Tạo làm chi những cốt với hình”.

    TÔNG PHÁI: Cũng gọi là Tôn phái, có nghĩa một chi nhánh của Đạo Phật, như Tịnh độ Tông hay Thiền Tông, Mật Tông,v.v…
    MÀU DÀ: Sắc hơi nâu nâu. Hồi trước từ tấm vải trắng, người ta lấy vỏ cây dà nấu ra nước rồi nhuộm lại thành màu dà. Sau nầy người ta dùng các màu: đỏ, trắng, đen…hòa hợp lại thành màu dà tươi đẹp.
    Xưa, lúc Thái Tử Sĩ Đạt Ta mới đi tu, Ngài đem bộ nhung phục, đổi lấy bộ đồ dà của anh thợ săn mặc vào, để không còn vướng bận chút mùi cao sang vương giả nào trong người nữa. Bởi thế, từ đó đến giờ các nhà tu thường dùng màu dà, để biểu hiện cho sự thoát tục của mình. Đức Thầy từng nói:
    “Từ mang một tấm áo dà,
    Mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai”.

    Thế nên dùng màu dà là vừa biểu hiện cho sự siêu thoát và cũng vừa tượng trưng cho sự hòa hiệp, thương yêu, đoàn kết và bình đẳng cả nhân loại không phân biệt chủng tộc hay cá nhân:

    “Dứt trần mang bộ sồng nâu,
    Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm”.( ĐT)
    Cho nên Đức Thầy dạy tín đồ dùng màu dà trong chỗ thờ phượng là để tiêu biểu cho tinh thần từ bi, bình đẳng và vô thượng của nhà Phật.
    BIỂU HIỆN: Hiện ra, bày ra rõ rệt.
    THOÁT TỤC: Thoát khỏi vòng trần tục, không bị các vật dục: danh, lợi, tình chi phối hay ràng buộc.
    TIÊU BIỂU: Cây nêu hoặc tấm bảng nêu lên cho người ta trông vào mà thấy được tinh thần bên trong.
    TINH KHIẾT: Trong sạch cao cả, không chút bợn nhơ, tà quấy. Đức Thầy nói:
    Mài gươm trí cho tinh cho khiết”.
    UẾ TRƯỢC: Dơ bẩn, hôi thúi.
    ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Chỉ bực hào kiệt, tài giỏi xuất chúng.
    TÀ THẦN: Các vị thần không chơn chánh hay phá phách dân chúng, đặng ăn đồ cúng tế.
    CĂN TÍCH: Gốc tích rõ ràng, có lịch sử chính xác.

    CÂU HỎI
    1/-Từ trước tới giờ các chùa thờ Phật ra sao ? Và có ý nghĩa gì ?
    2/-Thờ như vậy có sao không ?

    3/-Bây giờ Đức Thầy dạy chúng ta thờ thế nào ?
    4/-Riêng người Cư sĩ, Đức Thầy dạy thờ phượng ra sao ? Và có ý nghĩa gì ?

    5/-Lúc mới khai Đạo, Đức Thầy bảo thờ Trần Điều là theo di tích của ai ? Và có nghĩa ra sao ?
    6/-Lý do nào Đức Thầy cho đổi Trần điều ra Trần dà ?
    7/-Trần dà có nghĩa ra sao và tiêu biểu cho cái gì ?
    8/-Nếu nhà nào chật, ta thờ như thế nào ? Và tại sao ?

    9/-Nhà nào đã có cốt Phật và hình tượng phải làm sao ?
    10/-Trường hợp ở đậu với người không có Đạo ta phải thờ cúng như thế nào ?
    11/-Đức Thầy dạy nên cúng Phật bằng các vật gì, cấm món nào và cho biết sự tiêu biểu của các vật được cúng ?
    12/-Bàn thờ Ông bà, ta nên cúng như thế nào ?

    13/-Đức Thầy cho ta thờ những ai ? Và không cho thờ ai ?
    14/-Ba ngôi thờ cúng là thờ ai ? Và tượng trưng cho những gì ?

    II- HÀNH LỄ

    CHÁNH VĂN

    Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu-quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi.
    Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính-toán một cách cẩn-thận, đừng làm chuyện ngông-cuồng vô-ý-thức. Một đừng ỷ-lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ-lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ-lại vào sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn-Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đổi thất bại đem đến sự khó- khăn, khổ-não rồi trách-cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm-lạc ấy rất đáng thương hại.
    Mỗi người hãy nên lấy trí thông-minh nhận xét Đạo-lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn-hóa trên con đường Đạo-đức.
    Những điều sơ-lược giải-thích trên đây, mong rằng toàn-thể trong Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực-hiện để bài-trừ sự mê-tín ngông-cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau chóng.


    LƯỢC GIẢI

    Hành lễ, tức là sự lễ bái (lạy lục) gồm có các phần:
    1/- THỜ LẠY NHỮNG AI LÚC CÒN SỐNG:
    Theo ý Đức Thầy dạy trong đoạn nầy, chúng ta cũng được lễ bái những vị còn sống, như “Đức Phật, Tổ Tiên, Ông bà, Cha mẹ và các vị anh hùng cứu quốc”.
    “Với những kẻ khác nên bỏ hẳn sự lạy người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi”.
    2/- HÀNH ĐỘNG:
    Mỗi người trước khi làm việc gì, dầu đối với người trong Đạo hay ngoài đời, cần phải suy xét, cân nhắc kỹ lưỡng rồi sẽ thi hành không nên làm việc “ngông cuồng vô ý thức”:
    “Một là đừng ỷ lại vào kẻ mạnh.
    Hai là đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh. Ba là đừng ỷ lại vào sự binh vực của Thầy mình”.

    Lúc nào cũng tin sâu vào luật Nhân Quả:
    Tích thiện thì thường có phước dư,

    Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.( ĐT)
    Còn những ai trước khi thi hành mà chẳng chịu suy tính cẩn thận, bàn xét chu đáo, cứ làm càng nói bướng để việc bất thành hay gặp tai nạn khó khăn, rồi vội trách cứ người thân, Đức Thầy hay Trời Phật, Thần Thánh sao không cứu giúp mình. Điều sai lầm ấy thật là đáng tiếc và đáng thương hại !
    3/- NHẬN XÉT ĐẠO LÝ ĐỂ TRÁNH MÊ TÍN:
    Đoạn nầy Đức Thầy dạy chúng ta, mỗi người phải lấy trí huệ mà nhận xét kỹ càng, những lời chỉ giáo của Ngài, rồi sẽ tin và làm theo. Chớ không nên “lấy đức tin thọ lãnh những lời đó mà trong khi mình chưa hỏi tường tận”.Như thế, mình mới có thể tấn hóa trên con đường Đạo đức.
    Đức Thầy còn nhắc nhở chúng ta, hãy suy gẫm, xét đoán kỹ càng những lời của Ngài giải thích trong đây để bài trừ sự “mê tín ngông cuồng” hãy “làm cho tư tưởng thiện hòa của Đạo Phật” được lan rộng khắp bàng nhân bá tánh.

    CHÚ THÍCH
    NGÔNG CUỒNG: Nói hay làm một cách quá đáng trong lúc bồng bột, nóng nảy quá dại dột.
    VÔ Ý THỨC: Không có ý thức, không chịu suy xét, cân nhắc cẩn thận.
    NHÂN QUẢ: (Xem CT chữ luật Nhân quả bài NĐSL, Q.6)
    TOÀN THIỆN: (Xem CT chữ Toàn thiện trong Ân Tam Bảo, Q.6)
    ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo hay cái nghĩa lý đương nhiên hợp với lẽ phải mà ai cũng công nhận.
    Học Đạo lý như đờn trúng điệu,
    Hòa bản rồi thì cứ làm theo
    .( ĐT)
    THỌ LÃNH: Vâng chịu, nhận lấy.
    TƯỜNG TẬN: Rành rẽ, cặn kẽ rõ ràng.

    TẤN HÓA: Cũng gọi là tiến hóa. Có nghĩa bỏ cái cũ, đổi lấy cái mới cao hơn, hay hơn, tốt lành hơn.
    BÀI TRỪ: Trừ bỏ đi, dẹp cho tan hết.
    MÊ TÍN: (Xem CT chữ Mê tín trong Ác Sát Sanh, Q.6).
    THIỆN HÒA: Hoà hợp tốt lành.

    CÂU HỎI
    1/-Đức Thầy cho ta lễ bái những ai lúc còn sống ?
    2/-Muốn làm việc đời hay Đạo đức, Đức Thầy dạy trước hết phải làm sao và đừng ỷ lại vào việc gì ?
    3/-Trước khi hành động, Đức Thầy bảo luôn nhớ đến câu gì ?
    4/-Kẻ nào không suy xét cẩn thận phải ra sao ?
    5/-Muốn tấn hóa trên đường Đạo, Đức Thầy dạy ta phải nhận xét Đạo lý như thế nào ?
    6/-Các điều sơ lược nói trên, Đức Thầy dạy toàn thể trong Đạo phải làm sao?

    III- TANG LỄ

    CHÁNH VĂN

    Lúc Ông Bà Cha Mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:
    Bây giờ chúng ta đã quy-y đầu Phật, thì phải do sự thành-tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong-linh người chết được siêu-sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận-định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành-tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn.
    Việc cúng kiếng Ông Bà, Cha Mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm.

    LƯỢC GIẢI
    Về MỤC TANG LỄ gồm có các phần:

    1-TỤC ĐỂ TANG:
    Về tang lễ, Đức Thầy dạy: Nếu trong nhà có người từ trần thì tục để tang được giữ theo cổ lệ. Tức là phong tục từ xưa do Tổ tiên của đất nước ta truyền lại, như : may y phục tang, khăn tang (vải trắng), bàn thờ tang, tổ chức lễ an táng; ba ngày cũng cúng khai mộ, cầu siêu 7 thất, tuần 100 ngày (bá nhựt), tuần giáp năm, tuần mãn khó (xả tang) và hằng năm cúng giỗ (kỷ niệm).(Tuần 7 thất tuy tục lệ từ trước nhưng xét đây là tục lệ chân chánh nên chúng ta còn giữ.)
    2-NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM:
    Theo ý Đức Thầy bảo: bây giờ chúng ta đã qui y đầu Phật thì trong cuộc an táng nên thi hành lễ cầu siêu trước giờ động quan. Nơi đây gồm có những bà con, thân bằng quyến thuộc và nhờ đồng đạo xa gần, thành tâm cầu nguyện cho hương linh người quá vãng được siêu thoát. Rồi mỗi người chấp nhang vào ngực hộ niệm đưa linh cữu đến nơi an táng.
    3-CÁC ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM:
    Căn cứ theo đây thì Đức Thầy không cho rước các ông thầy nhưn bông, làm đám; không đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, xá phướn lầu kho; không dùng đờn kèn trống phách, chiêng đẩu..., không cho Đạo tỳ hò hét vang rân: ngày khai mộ không nên bắt gà kéo chung quanh mộ, làm cầu thang giả hay trồng mía lau; không dùng 5 ống tre gạo muối cắm theo năm hướng. Chỉ dùng nhang đèn, bông, nước, bánh trái mà cúng thôi. Vì các sự kiện trên đều là dị đoan mê tín.
    Đức Thầy đã nhiều lần mách bảo:
    Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
    Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.
    Giấy quần, giấy áo không nên đốt,

    Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.
    4-NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ CHẾT VÀ HIẾU SỰ:
    Xét rằng: con người có sanh tất có tử, có hình thành tất có hoại diệt, nên khi có người chết hãy đem chôn xác thể, đừng để hôi thúi mất vệ sinh chung.
    Còn sự báo hiếu là mình lo nuôi dưỡng ông bà cha mẹ lúc sanh tiền và lo tu hành, tác phước thiện duyên, để hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ đặng siêu thoát. Chẳng nên liệm vàng bạc theo, hoặc sát sanh hại vật mà cúng tế. Đức Thầy hằng cảnh giác:
    Của tiền chớ có bỏ theo,
    Chết rồi tế lễ bò heo làm gì ?

    Nếu ai biết chữ tu trì,
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
    Không làm để ở lung lăng,
    Chưởi cha mắng mẹ lăng xăng thiếu gì”.

    5-VIỆC TIẾP ĐÃI THÔN XÓM:
    Theo cổ lệ dân tộc Việt Nam xưa nay, không phân biệt tôn giáo hay giai cấp nào, hễ một gia đình có việc “Hôn, quan, tang, tế” thì các gia đình khác đều đến tiếp giúp qua lại với nhau.“Nhứt gia hữu sự bá gia ưu”.(Tục ngữ), cho nên trong đám tang tất phải có chòm xóm. Quan khách hoặc chánh quyền, tôn giáo bạn đến tham dự, kể như là những người ân nghĩa. Muốn đáp lại, Đức Thầy dạy: không phải đợi mâm cao cỗ đầy, mà nên đáp từ theo lễ nghĩa:“Tiếng chào cao hơn cỗ”(Tục ngữ). Còn việc tiếp đãi thì xét ra điều nào giản tiện, ít lãng phí cứ làm”.( ĐT) Ngài có dặn rõ:
    “Bỏ bớt rình rang một khi,
    Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
    Là lời truyền giáo của thầy,
    Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.

    Còn mình muốn đãi làng thôn,
    Thì là tùy ý đáp ngôn cho người”.

    CHÚ THÍCH
    CỔ LỆ: Lệ xưa, tục lệ từ xưa lưu truyền lại.
    THÀNH TÂM: Lòng chí thành chí thật. Cổ Đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.( Ý nói sức mạnh sự thành tâm khẩn thiết hướng đến đâu có thể chẻ núi phá vàng đến đó). Cho nên Đức Thầy hằng dạy:
    Thứ bảy Chánh niệm vậy thì,
    Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.

    CÕI THỌ: Cõi sống lâu. Đây chỉ cho cõi Cực Lạc.
    THẦY DƯNG BÔNG: Cũng gọi thầy Nhưn bông. Tức là những người ăn mặc như nhà sư, nhưng chỉ chuyên đi làm đám, cầu siêu và tụng kinh mướn để lấy tiền công đức, làm hoen ố Đạo Phật. Đức Thầy bảo:
    Kinh với sám tụng nghe thảnh thót,
    Lũ nhưn bông tập luyện đã rành.
    Đẩu với đờn kèn trống nhịp sanh,
    Làm ăn rập đặng đòi cao giá”.

    GIẤY TIỀN VÀNG BẠC: Tờ giấy trắng họ in hình đồng tiền kẽm hồi xưa giáp (?) trong đó. Loại khác thì phết một khúc màu vàng, một khúc màu bạc, rồi gọi là giấy tiền vàng bạc.
    Từ lâu, có vô số người còn theo tục lệ dùng giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo và xá phướn lầu kho để đốt cho người chết mang theo hoặc gởi xuống âm phủ, mê tín rằng làm như vậy người chết xài được. Chớ họ có biết đâu những sự vật ấy là do bọn Vương Luân đời Đường (Trung Hoa) chế ra để phỉnh gạt người đới mà trục lợi.Đến bây giờ các thầy nhưn bông cũng còn tiếp tục làm theo, nên Đức Thầy mới khuyên:

    Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
    Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.

    XÁ PHƯỚN LẦU KHO: Là hình xá hạt, xá ngựa, lầu kho, phướn sớ làm toàn bằng giấy và cỏ sậy nho nhỏ, do các thầy nhưn bông làm ra, để khi có lễ làm tuần, cầu siêu thì đem đốt. Họ mị dối với tang chủ rằng đốt đồ đó người chết ở âm phủ xài được và xá hạt xá ngựa sẽ mang phướn sớ ấy đến Trời Phật. Thật là giả dối lạ lùng. Đức Thầy thường giác tỉnh mọi người:
    “Xá với phướn là trò kỳ quái,
    Làm trai đàn che miếng thế gian.
    Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
    Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
    Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
    Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.
    Thấy lạc lầm đây động lòng son,

    Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ”.
    HIẾU THUẬN: Tôn kính, bảo dưỡng và thảo thuận vâng lời cha mẹ để làm tròn bổn phận con người.
    KỶ NIỆM: Ghi nhớ, tưởng nhớ. Đồng nghĩa với ngày cúng giỗ hay ngày kỵ cơm ông bà.
    HƯƠNG ĐẢNG: Thôn xóm, chỉ chung những người ở chung quanh.
    LÃNG PHÍ: Xài hao phí tiền của vô ích.

    CÂU HỎI
    1/-Trong nhà có người từ trần, việc tang lễ Đức Thầy dạy làm sao ?

    2/-Nay đã qui y Phật, việc tang lễ nên làm và nên bỏ những gì ?
    3/-Mỗi tín đồ PGHH đối với xác người chết, có nhận định như thế nào ?
    4/-Việc cúng tế ông bà cha mẹ ra sao ? Và đãi đằng thôn xóm như thế nào ?
    5/-Đức Thầy dạy: cầu nguyện rồi im lặng đi chôn, nhưng tại sao niệm bài chú vãng sanh lớn tiếng, vậy im lặng đây là im lặng cái gì ?


    IV- CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT

    CHÁNH VĂN

    Mỗi người đứng trước bàn thờ Phật niệm: “Nam-mô Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT” (ba lần) và “Nam-mô A-DI-ĐÀ PHẬT” (ba lần).
    Vái: “PHẬT TỔ, PHẬT THẦY, nay mình thành-tâm cầu nguyện cho tên ... (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-Lạc ! ” Trong lúc ở nhà hay lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chấp tay niệm: “Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-DI-ĐÀ PHẬT”. Nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp-dẫn đạo-sư A-DI-ĐÀ PHẬT”.
    NÊN LƯU Ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

    LƯỢC GIẢI
    Trong mục cầu nguyện cho người chết gồm có ba phần:

    1-ĐẶT BÀN CẦU NGUYỆN:
    Đức Thầy dạy:“Chỉ vọng bàn giữ nhà hay giữa Trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn”. Nghĩa là nếu nhà sân rộng thì đặt bàn ngoài sân. Còn gặp nhà không có sân thì đặt ngay giữa gần mái nhà trước cũng được. Trên bàn chỉ để một lư hương, 3 ly nước lạnh, 1 bình bông hoặc 3 chung bông. Tuyệt đối không nên để bánh trái hay món gì nữa hết.
    2-CÁCH ĐỌC BÀI NGUYỆN:
    Mấy lúc gần đây trong Đạo chúng ta có nhiều vị đọc bài nguyện cho người chết, hoặc thêm hoặc bớt không đồng nhất, là vì không chịu nhận xét chính xác ý văn của Đức Thầy. Để tránh sự bất nhất ấy, chúng ta nên nghiên cứu kỹ lại.Những chữ ngoài vòng ngoặc kép (“) thì không nên đọc, như…Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm. Và chữ Vái hay các chữ trong vòng ngoặc đơn (ba lần) cũng không nên đọc. Vì những chữ ấy đều là lời chỉ dẫn và cũng đứng thêm vào tuổi tác hay ngày giờ người chết. Bởi những ý nầy chủ nhà hoặc người xướng ngôn đã tuyên bố lý do trong lời nói đầu.
    Xin nhắc lại vào khoảng năm 1965, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương, có soạn thảo chương trình tu học Giáo lý sơ cấp. Trong môn Nghi thức có bài “Cầu nguyện cho người chết”. Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương có mở phiên họp bàn thảo về các chữ trong bài nguyện…Bàn thảo xong tất cả đều đồng ý bỏ những lời chỉ dẫn ra không đọc.
    Trước chữ Phật tổ, Phật thầy thêm vào hai chữ Nam Mô, bởi hai lý do: - Một là vì đọc chữ Phật Tổ Phật Thầy trơn, nghe hình như thiếu khiêm cung. – Điểm hai là vì bên bài nguyện Qui y, Đức Thầy có viết “Nam Mô Phật Tổ Phật Thầy”, thì bên nầy mình dùng chắc không sao, chớ không phải dám nghĩ Đức Thầy viết thiếu.

    Còn câu: “Nay mình thành tâm..” thì đồng ý thay chữ “Mình” ra và thế vào chữ “Con”, bởi lẽ nói, cầu với Phật với Thầy mà xưng Mình nghe không được. Nếu cầu nguyện cá nhân thì đọc “Nay con thành tâm…”còn xướng ngôn tập thể, thì đọc “Nay chúng con thành tâm…” vì đại diện chỗ đông người nên phải dùng đúng chữ. Đến chữ “tên” cũng thay vào chữ Ông hay Bà (tên họ luôn), nếu người chết nhỏ tuổi quá thì gọi Cô hoặc Em, Cháu gì cũng được.
    Sau khi bàn thảo kỹ lưỡng, Ban Phổ thông đều đồng ý đưa ra một bài Nguyện mẫu, đã có in trong Tài liệu sơ cấp và toàn thể trong Đạo đều áp dụng từ đó đến nay. Chúng tôi xin chép lại bài Nguyện đó sau đây:
    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
    Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
    Nam mô Phật Tổ Phật Thầy, nay chúng con thành tâm cầu nguyện cho (ông hoặc bà, họ và tên) nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong linh được thoát chốn mê đồ vãng sanh miền Cự Lạc”.(Lưu ý: các chữ trong vòng ngoặc đơn không đọc)
    (Vừa niệm Phật xá ba xá, góp hết nhang cắm lên bàn rồi lạy bốn lạy).
    (Đức Thầy không có dạy cố định là cầu nguyện 1 lần hay 3 lần, mà tùy theo thời gian và chương trình cuộc lễ rộng hẹp, dài ngắn…mà Ban tổ chức linh động 1 hay 3 lần tùy ý.)
    Nghiên cứu qua lời dạy của Đức Thầy thì bài “Tây phương Cực Lạc thế giới…” lúc cầu nguyện không nên đọc, mà chỉ dùng khi người bịnh vừa tắt thở. Lúc đó người hộ niệm hoặc đứng hay ngồi chung quanh vẫn tiếp tục niệm…Và niệm lúc đi theo bàn Phật ra tới huyệt.
    Sở dĩ chúng tôi đưa nhận xét và biên soạn ra đây là vì muốn khi cầu nguyện cho người chết, trong Đạo chúng ta không còn chênh lệch nhau quá. Chớ thật ra, cầu nguyện có được kết quả là do chỗ thành tâm, chớ không phải do hình thức văn tự:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.( ĐT)
    3-CÁCH HỘ NIỆM:

    Hộ niệm có 2 giai đoạn:
    A)- Lúc bệnh nhơn chưa tắt thở: Theo cổ lệ Phật giáo, người tu Pháp tịnh độ, nếu có người bịnh sắp lâm chung đều tổ chức hộ niệm. Hiện giờ trong PGHH chúng ta vẫn áp dụng, vì đây là chánh lý.
    Người sắp chết có những trạng thái không giống nhau: có người bấn loạn tâm thần, đau nhức rên than, đập mình lăn lộn, thở không muốn kịp; có người lại nằm mê man, thở dài và nhẹ lần cho đến khi chấm dứt…Cho nên rất cần có người hộ niệm.
    Lúc đó con cháu và đồng đạo ngồi hoặc đứng chung quanh, chấp tay vào ngực niệm liên tục 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, giúp cho bệnh nhơn nghe và niệm theo, hoặc nhớ tưởng từ tiếng hầu giữ được chánh niệm, hướng về Đức Phật Đức Thầy. Dầu người bịnh có nằm mê hay cứng hàm không niệm được, hoặc thần thức chập chờn sắp rời khỏi xác, cũng nghe được tiếng niệm Phật mà hướng về Đức A Di Đà và Cực Lạc quốc…Nên nhớ tiếng niệm Phật phải trầm đều, nhưng rõ ràng. Chớ không nên niệm bổng và lớn hay lẹ quá, vì người bịnh đang mệt, nghe niệm theo không kịp.
    B- Khi người bịnh tắt thở: Lúc người bịnh sắp tắt thở, những người không hộ niệm nên lên nhang đèn các bàn thờ và quì sắp hang thành tâm cầu nguyện (3 lần), rồi cũng tiếp tục hộ niệm, đến khi người bệnh tắt thở thì tất cả xoay qua niệm câu “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới…” Cứ thay phiên niệm liên tục.
    4- CÁCH CẦU NGUYỆN THỐNG NHỨT:

    Theo thông lệ, khi tẩn liệm người chết xong, những người đến dự đám tang đều được cầu nguyện và lễ bái cá nhân. Nhưng khi gần giờ di quan thì có tổ chức cầu nguyện thống nhứt, một lần 3 lượt, hoặc một lần 1 lượt là tùy theo sắp đặt của Ban tổ chức. (Lưu ý: người phát hương phải dè dặt cẩn thận, không nên trao hết cho mỗi người có tánh cách ép buộc, mà ai xin nhận mới trao. Nhứt là đối với quan khách, chánh quyền và những người không có Đạo.) Cầu nguyện thống nhứt xong, nếu có điếu văn, cảm tạ, hoặc cảm tưởng, nên cho đọc trong giờ nầy, có đầy đủ người dự đám. Khi ra đến phần mộ nên cầu nguyện thống nhứt 1 lần 1 lượt thôi.
    5- HÌNH THỨC ĐƯA LINH CỮU RA HUYỆT:
    Tới giờ di quan Ban tổ chức cho khiêng bàn Phật đi trước. Kế đó là một số người hộ niệm có mặc áo lễ, rồi các tràng hoa (nếu có). Tiếp theo là vãng lỵ, bàn vong và linh cữu. Tang gia và thân quyến đi khít linh cữu. Còn những người dư ra đều đi tiếp theo đó. Mỗi người đưa đám đều cầm 1 cây hương và đọc bài “Nam Mô Tây Phương…”(hộ niệm).Tuyệt đối là không nên nói chuyện ngoài hoặc khóc kể, như Đức Thầy đã cho biết: thế sẽ“…trở ngại sự siêu thoát anh linh của người chết”.
    (Hộ niệm lớn tiếng hay niệm thầm là tùy nơi, tùy người, nhưng nếu niệm lớn thì phải nương theo cho ăn rập, đừng niệm lỏi chỏi.)

    CHÚ THÍCH (từ ngữ bài Cầu nguyện cho người chết)
    NAM MÔ: Phiên âm của Phạn ngữ (Namal). Tàu dịch là qui mạng và cứu ngã (tiếng dùng cầu khẩn), tức là mình chịu qui phục với Đức Phật…và cầu Ngài cứu độ mình. Nam mô cũng có nghĩa qui y:“Hai chữ Nam mô ấy lẽ hằng”.( ĐT)
    BỔN SƯ: Ông thầy căn bản (gốc). Thầy cả ba giới, bốn loài. Đây chỉ cho Đức Thích Ca là đấng sáng lập Đạo Phật đầu tiên.
    THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ (Sakya) họ của Phật, dịch là Năng nhơn. Nghĩa là người có năng lực từ bi rộng lớn, thương xót và cứu độ vạn loại chúng sanh.
    MÂU NI: (phiên âm của Phạn ngữ), dịch là Tịnh mặc. Có nghĩa là trong sáng lặng lẽ. tuy làm các hạnh lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên, trong sạch, không xao động thiên chấp.

    PHẬT: (Xem CT trong Ân Tam Bảo, T-1, Q.6).
    Tóm lại câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là cả tam giới đều tôn xưng công đức siêu thắng của Ngài.
    A DI ĐÀ PHẬT: (Phiên âm Phạn ngữ), dịch là “Vô Lượng Thọ Phật”, tức là Ngài thọ mạng dài đặt vô lượng vô biên triệu ức kiếp. Và “Vô Lượng Quang Phật” tức là hào quang của Ngài sáng vô cùng chiếu khắp mười phương, không bị sự vật nào ngăn che.
    A Di Đà Phật là vị giáo chủ ở cõi Tây phương Cực Lạc, có nguyện lực tiếp dẫn chúng sanh 10 phương vãng sanh về cảnh giới của Ngài, nếu ai biết niệm Phật, làm lành và có đủ Tín, Nguyện, Hạnh. (Xem thêm Ct câu 187 Q.1, T-1. Q.Thượng).
    PHẬT TỔ: Tức Đức Phật Thích Ca (Xem Khuyến Thiện, Q.5, hoặc Chú giải).
    PHẬT THẦY: (Xem CT chữ Đức Phật Thầy Tây An), đoạn mở đề “Những điều sơ lược cần biết”, Q.6).
    TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI: Thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà ở về hướng Tây, đối với cõi Ta bà chúng ta. Kinh Di Đà, Đức Thích Ca bảo:
    “Cách đây mười muôn ức cõi Phật về hướng Tây có cõi Cực Lạc, do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và Ngài đang thuyết pháp độ sanh tại đó”.
    TAM THẬP LỤC VẠN ỨC: Ba mươi sáu vạn ức.
    NHỨT THẬP NHỨT VẠN: Mười một vạn.
    CỬU THIÊN NGŨ BÁ: Chín ngàn năm trăm.
    Đọc chung lại là Ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn, chín ngàn năm trăm. Theo Phật Học từ điển, có thể tạm viết con số ấy như vầy 36.000.119.500, nhưng nhà nghiên cứu Kinh điển nên lưu ý không nên chấp văn tự. Vì con số nầy là số tượng trưng, chỉ cho con số vô lượng, là vì chư Phật ở cõi Cực Lạc không một ai có thể đếm hết con số. Bởi công đức và nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta hiểu con số có quyết định bằng văn tự là bị thiếu. Do đó, Đức Thầy dạy niệm nguyện câu nầy là có dụng ý: dạy chúng ta nguyện hết chư Phật ở cõi Cực Lạc, không sót một vị nào.
    ĐỒNG DANH ĐỒNG HIỆU ĐẠI TỪ ĐẠI BI: Bởi vị Phật nào cũng chứng đắc “Tứ vô lượng tâm” (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và hoàn toàn giác ngộ. Cho nên nói đến đại từ, đại bi thì Phật nào cũng cảm thông tất cả, mới gọi là đồng danh đồng hiệu.
    TIẾP DẪN: Rước đưa về cõi Phật. Đức Thầy có câu:“Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
    Tóm lại bài:“Tây Phương Cực Lạc…” theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể là Đức Thầy viết cho tín đồ trì niệm là để thay cho bài chú Vãng sanh trong kinh Phật thời xưa.
    Đại ý là chúng ta cầu nguyện Đức Phật A Di Đà và hầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc tiếp dẫn linh hồn người chết hoặc tất cả chúng sanh đều được siêu sanh về cõi Tây phương Cực Lạc.

    (Theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại: Vào năm 1939, lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hòa Hảo. Một hôm ông và một số tín đồ có mặt tại đó, Đức Thầy kêu hỏi:
    -Trong các ông có ai thuộc bài chú Vãng sanh trong kinh Phật từ trước không ?
    Có một ông lão đứng lên nói: Bạch Thầy ! Tôi còn nhớ. - Đức Thầy bảo: Đọc thử nghe ! Ông lão liền đọc: “Nam mô A Di Đà…”. Đọc xong, ông ngồi xuống, bị sai ít chữ.
    Đức Thầy nói: - Bài chú nầy phiên âm của Phạn ngữ, học lâu thuộc và không biết nghĩa, nên đọc bị sai chữ. Vậy để tôi đọc bài chú Vãng Sanh khác cho mấy ông nghe. Nói rồi Ngài đọc lên:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…”
    Đọc xong Ngài giải thích: - Bài nầy dùng vào 3 việc:
    1-Dùng niệm trong giờ niệm Phật, hoặc đi đứng nằm ngồi. Nó có ý nghĩa như câu lục tự Di Đà, nhưng có ý vị tha (cầu cho tất cả chúng sanh). Còn 6 chữ Di Đà có ý vị kỷ (chỉ niệm cầu cho mình). Song 2 câu nầy đều niệm hết.

    2-Là dùng trong lúc hộ niệm cho người chết từ lúc vừa tắt thở đến đưa đám tang ra tới huyệt.
    3-Là khi thấy bất cứ người hay các sanh vật chết, không cần quen lạ, đều hướng tâm niệm thầm cho họ. Nhứt là trong mọi sự sinh hoạt và đi đứng của Cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không khỏi va chạm làm đau đớn hoặc thiệt hại đến sanh mạng của các sanh vật (cả bốn loài: noãn, thai, thấp, hóa) như: cày ruộng cuốc đất, nấu ăn, uống nước.v.v…Tuy là nghiệp sát sanh vô tình, song ta cũng phải mắc nghiệp nợ đó. Cho nên giờ phút nào chúng ta cũng phải niệm bài chú nầy, hoặc niệm Phật liên tục, để vừa biết ơn và thương xót tất cả:“Tu biết thương vốn thiệt chay trường” (đó là tâm chay); “Chay được tánh chay tâm mới quí” (ĐT). Cũng vừa cầu tất cả chúng sanh được siêu sanh tịnh độ và nguyện tu hành đắc đạo để độ các linh hồn đó. Ấy là chúng ta tự đổi cái nghiệp nợ oán thù ra cái ân và kết duyên lành với họ. Sau nầy nếu tu đắc Đạo trước sẽ độ được họ, bằng họ đắc quả trước cũng độ được ta.
    Đức Thầy giải thích xong, mọi người lấy giấy viết, nhờ Ngài đọc lại, đặng ghi chép học. Nhưng mãi đến năm 1945 Ngài mới viết vào Quyển 6 nầy.)

    CÂU HỎI
    (Bài cầu nguyện cho người chết)
    1/-Cách đặt bàn cầu nguyện ra sao ?
    2/-Cách đọc bài nguyện cho người chết ?
    3/-Hãy đọc Bài nguyện cho người chết ?
    4/-Khi đọc bài nguyện có đọc thêm bài Tây phương nữa không ? Tại sao ?

    5/-Bệnh nhân gần chết, ta có nên hộ niệm không ? Và tại sao ?
    6/-Lúc người bịnh gần chết có những trạng thái gì ?
    7/-Người bịnh chưa tắt thở ta phải hộ niệm câu gì ? Và sắp xếp ra sao ?
    8/-Khi biết người bịnh sắp tắt thở, người không có hộ niệm phải làm sao ?
    9/-Khi bệnh nhơn tắt thở, ta nên hộ niệm câu gì ?
    10/-Hãy cho biết cầu nguyện thống nhứt giờ nào ?
    11/-Hình thức đưa linh cữu ra mộ ra sao ?
    12/-Đức Thầy cấm tuyệt đối việc gì ?
    13/-Cho biết ý nghĩa bài hộ niệm đưa đám ?
    14/-Đại ý bài chú Vãng sanh Tây phương ra sao ?

    V- HÔN NHƠN

    CHÁNH VĂN
    Bổn phận Cha Mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng-đáng bằng sự quan-sát tường-tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép-uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu sự kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.
    Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ-vật. Thông-gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ.


    LƯỢC GIẢI
    Trong Đạo PGHH chúng ta tu với hình thức tại gia Cư sĩ, tuy cũng có số lập chí tu độc thân, nhưng chỉ một phần ít, còn hầu hết là có gia đình. Cho nên Đức Thầy mới đề cập đến việc Hôn nhơn cho con cháu.
    1- Theo Đức Thầy dạy: trước nhất là Đạo làm cha mẹ, có bổn phận định đôi gả bạn cho con mình khi đúng tuổi. Song nếu con bằng lòng mới lo, chớ không nên ép. Việc nầy có hai trường hợp:
    - Một là con muốn tu độc thân để sớm ra khỏi vòng sanh tử, mà mình ép nó lập gia đình là tội nghiệp. Tuy nhiên, mình phải nhận xét trình độ, khả năng và ý chí của con, nó tu cách đó được không ?
    - Hai là vì ham chỗ giàu sang, quyền tước mà ép con phải ưng chịu chỗ đó thì điều nầy lại càng không nên làm.
    2- Thứ nhì là không nên để con tự do quá trớn, vì trong lúc nó còn trẻ, chưa kinh nghiệm việc đời là bao, nên dễ bị lầm lạc. Cũng có nhiều gia đình học theo thời nay, cho con mình tự do làm quen, tìm hiểu nhau trước. Vấn đề nầy có lắm đôi trai gái bị lừa đảo nhau, hoặc yêu nhau trước mới cho cha mẹ hay. Việc lỡ ra, cha mẹ buồn tức không đồng ý, nên con thì đòi tự tử, còn cha mẹ thì tuyên bố từ con, vì nó “đặt cây cày trước con trâu”.
    3- Đức Thầy bảo: Hãy bỏ hẳn “Tục lệ thách giá đòi tiền”, hoặc đôi bên xuôi gia gây khó khăn với nhau. Nhứt là không nên bày tiệc lễ linh đình, sát sanh hại vật…Làm thế, chẳng những tốn kém cả hai bên, mà còn gây thêm nghiệp tội cho mình và con cháu về sau, đường tu cũng khó tiến mau tới đích.
    Là một tín đồ PGHH, chúng ta nên xử thế đúng theo lời chỉ giáo của Đức Thầy để xứng đáng là một gia đình gương mẫu, ngoan đạo.

    CHÚ THÍCH
    ĐỨC TÁNH: Đức hạnh tài năng và tánh nết con người.
    KINH NGHIỆM: Điều mình đã có thực nghiệm, có từng trải và nghe thấy rõ.
    TỤC LỆ: Thói quen từ trước lưu lại tới giờ.
    THÔNG GIA: Sui gia. Hai nhà làm sui với nhau.

    CÂU HỎI
    1/-Việc hôn nhân Đức Thầy dạy cha mẹ có bổn phận như thế nào ?
    2/-Con chưa bằng lòng có nên bắt ép không ? Hãy cho biết lý do ?
    3/-Có nên để con quá tự do không ? Tại sao ?
    4/-Chọn nơi kết thông gia, Đức Thầy bảo bỏ những gì ?
    5/-Làm tiệc lễ lớn và giết hại sanh vật có tai hại gì ?

    VI- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM.

    CHÁNH VĂN
    UỐNG RƯỢU.- Phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay-lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa phải tội lỗi.
    THUỐC PHIỆN.- Phải cử tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo, phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm chế đặng.
    CỜ BẠC.- Phải cử tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng.
    ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ .- Tất cả bổn-đạo nên cung-kính các tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh-lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.
    ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN.- Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều).
    Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng.

    ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHƠN SANH .-
    Đối với những người theo tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn họ.

    Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng phải rán hết sức giúp-đỡ họ.
    ĐỂ TÓC.- Tất cả bổn-đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn-đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu-hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong-trào tiến-hoá của nước nhà. Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách hầu hòa-hợp với lương dân cùng tôn-giáo khác.
    SỰ HỌC.- Sự học hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn-hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như bàn đoán thiên cơ chẳng hạn …)
    Vậy, hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ … ) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật Đạo một cách rành-rẽ.


    LƯỢC GIẢI
    1- UỐNG RƯỢU VÀ THUỐC PHIỆN:
    -Trong khoản nầy có 2 vấn đề: Uống rượu và hút á phiện. Đức Thầy bảo phải cữ tuyệt. Cho đến người đã hút mà muốn vô Đạo, phải tự nguyện bỏ hút mới được vào và trong Đạo mới chứng nhận. Chỉ khi nào có bịnh nặng, thầy thuốc bảo phải để vô chút ít cho hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm chế.

    2- CỜ BẠC:
    -Cờ bạc có nhiều dạng: Các loại bài, me, đề, tài xỉu và các loại đổ hột, đá gà, đánh cờ, đánh cá.v.v…Bất cứ chơi loại nào có ăn thua bằng tiền bạc, sát phạt lẫn nhau đều gọi là cờ bạc và phải cữ tuyệt. Đến như đánh tiêu khiển, phạt uống nước, uống rượu cũng không nên chơi:“Phàm hí vô ích chớ chơi”(?) vì nó sẽ quen tánh đi, và mất thời giờ. Đức Giáo Chủ thường giác tỉnh:
    “Cuộc trần ôi quá khổ !
    Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.

    Biết bao người vì nó phải bơ vơ,
    Sự nghiệp hết gia đình tan nát,

    Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát.
    Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân,

    Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
    Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.

    Chi cho bằng:
    Qui y thì khá làm y,

    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
    3- ĐỐI VỚI CÁC TĂNG SƯ:
    Với các Tăng sư đã có trong Đạo Phật, không luận tông phái nào, nếu ai tu hành chơn chánh và luận giải Đạo Pháp đúng chơn lý của Đạo Phật, chúng ta nên cung kính nghe theo. Còn những Sư tu giả dối: làm hay nói điều sai lạc chơn lý của Đạo thì chẳng những mình không nghe, còn nói lên cho mọi người hiểu biết để xa lánh.
    -ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN:
    Trong đoạn nầy thì Đức Thầy dạy: những ngày sóc vọng, ngày vía chư Phật, mình muốn đi chùa lễ Phật dâng hoa cũng tốt. Chùa nào bị hư dột cũng được ủng hộ trùng tu cho kín đáo, có điều là không nên mua sắm hình tưọng thêm cho nhiều.
    -Khi thấy cách thờ phượng của các chùa không giống tông phái của mình thì không nên hủy báng mà phải luôn luôn tôn kính. Khi nào người trong Đạo mình thờ sai nghi thức, mới có ý kiến xây dựng.
    4- ĐỐI VỚI TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SINH:
    Mỗi quốc gia đều có nhiều tôn giáo. Ấy gọi là tôn giáo bạn. Mục đích của tôn giáo nào cũng giống nhau, là dẫn dắt người đi đến chỗ tốt đẹp. Nhưng nghi thức thờ phượng và phương cách hành Đạo chẳng giống nhau. Vậy chúng ta không nên kỳ thị, chê bai lẫn nhau và cũng không được ỷ mạnh thế, ỷ đông lấn hiếp họ. Nếu người ta có đối xử sai quấy với mình, mình nên nhẫn nhịn và luôn xử sự hòa hài thuận thảo với họ.
    -Phần đối với các tầng lớp nhân sinh trong xã hội, Đức Thầy chủ trương “Đời đạo liên quan rạng chói ngời” và “Nhập thế cứu đời”. Cho nên người tín đồ PGHH lúc nào cũng sống hòa hợp với mọi người, mọi giới. Hãy đặt tình thân yêu và tận tâm giúp đỡ:“Nếu thiệt người thì biết thương người”.( ĐT)
    5- ĐỂ TÓC: (Điều nầy Đức Thầy nói tách bạch, nên xin miễn lược giải).
    6- SỰ HỌC: Từ trước có nhiều người hiểu muốn tu chẳng cần học, vì tu cho tâm thanh tịnh thì trí huệ sáng. Hoặc cứ niệm 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, thì được vãng sanh về Cực Lạc. Thậm chí đến Kinh Giảng giáo lý của Đạo cũng không cần học, nói gì đến sự học văn hóc, khoa học. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:
    “Sự học hành không làm trở ngại cho Đạo đức. Trái lại, nhờ nó mà mình được biết rõ ràng giáo lý cao siêu của Tôn giáo, nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn hoặc, không bàn bạc những chuyện xa với (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn)…”
    Cho nên Ngài ra lịnh cho các tín đồ:“Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ…) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học không cản trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ”.

    CHÚ THÍCH
    RƯỢU: Do nước cốt của gạo trắng hoặc nếp hay trái cây ủ với men làm ra. Trong men có các vị chua, cay, đắng, mặn, ngọt…Có thể dùng chút ít làm thuốc nhưng nếu ai uống nhiều sẽ bị say và ghiền, khó bỏ: tánh tình nóng nảy, mất trí khôn, sanh thêm tội lỗi. Trong người mang nhiều bệnh tật và chết yểu. Cổ Đức từng bảo:“Người ghiền rượi thường sanh 10 điều lỗi như sau:

    1-Sắc diện ra vẻ khác thường.
    2-Cử chỉ chẳng ra gì.
    3-Mắt thấy không tỏ.
    4-Hiện ra tuồng giận dữ.
    5-Phá hoại sản nghiệp không lấy gì nuôi sống.
    6-Hay sanh bệnh hoạn.
    7-Gây thêm sự kiện cáo.
    8-Danh xấu đồn khắp.
    9-Trí huệ hao kém.
    10-Chết bị đọa vào 3 đường ác.
    THUỐC PHIỆN: Cũng gọi là a phiến. Do một thứ nhựa, lấy ở mủ cây Thẩu nấu thành, đốt lên có mùi thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất làm cho người say nghiện, con người tiều tụy từ tinh thần lẫn thể xác, sự nghiệp tiêu tan. Vì thế, tất cả Tôn giáo đều cho thuốc phiện là một trong tứ đổ tường (bốn bức tường đổ). Đức Thầy từng bảo:
    Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
    Nào trùm đĩ ma cô nghề hút máu”.

    CHÂM CHẾ: Làm cho bớt tội phần nào.
    CHÁNH LÝ: Lẽ phải, lý lẽ đứng đắn, ngay thật chân chánh.
    TÀ MỊ: Gian dối không chánh đáng.
    NGÀY VÍA: Ngày kỷ niệm của chư Phật. Ví dụ: Vía Đức Thích Ca thành Đạo hay vía Phật Di Đà.v.v…
    TÔN GIÁO: (Xem CT bài Lời nói đầu Q.6).
    NHẬN NHỊN: (Xem CT chữ NN, trong Ác Sân Nộ, Q.6).
    THIỆN CẢM: Cảm tình tốt lành.

    CÂU HỎI
    1/-Rượu phải cữ hay uống như thế nào ?
    2/-Thuốc phiện có nên dùng không ? Tại sao ?
    3/-Việc cờ bạc phải giữ như thế nào ?
    4/-Đức Thầy dạy đối với Tăng Sư ra sao ?

    5/-Đối với các chùa ta phải làm gì ?
    6/-Ta phải đối xử với các Tôn giáo bạn ra sao ?
    7/-Đối xử với các giới nhân sanh như thế nào ?
    8/-Sự để tóc, Đức Thầy phân tách ra sao ?
    9/-Sự thiếu học có tai hại gì ?
    10- Người tu không chịu học Kinh giảng ra sao ?
    11/-Hiểu biết về văn hóa, khoa học có trở ngại cho sự tu không ?

    VI- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM.

    CHÁNH VĂN
    UỐNG RƯỢU.- Phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay-lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa phải tội lỗi.
    THUỐC PHIỆN.- Phải cử tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo, phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm chế đặng.
    CỜ BẠC.- Phải cử tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng.
    ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ .- Tất cả bổn-đạo nên cung-kính các tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh-lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.
    ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN.- Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều).

    Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng.
    ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHƠN SANH .-
    Đối với những người theo tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn họ.
    Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng phải rán hết sức giúp-đỡ họ.

    ĐỂ TÓC.- Tất cả bổn-đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn-đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu-hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong-trào tiến-hoá của nước nhà. Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách hầu hòa-hợp với lương dân cùng tôn-giáo khác.
    SỰ HỌC.- Sự học hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn-hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như bàn đoán thiên cơ chẳng hạn …)

    Vậy, hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ … ) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật Đạo một cách rành-rẽ.

    LƯỢC GIẢI
    1- UỐNG RƯỢU VÀ THUỐC PHIỆN:
    -Trong khoản nầy có 2 vấn đề: Uống rượu và hút á phiện. Đức Thầy bảo phải cữ tuyệt. Cho đến người đã hút mà muốn vô Đạo, phải tự nguyện bỏ hút mới được vào và trong Đạo mới chứng nhận. Chỉ khi nào có bịnh nặng, thầy thuốc bảo phải để vô chút ít cho hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm chế.
    2- CỜ BẠC:
    -Cờ bạc có nhiều dạng: Các loại bài, me, đề, tài xỉu và các loại đổ hột, đá gà, đánh cờ, đánh cá.v.v…Bất cứ chơi loại nào có ăn thua bằng tiền bạc, sát phạt lẫn nhau đều gọi là cờ bạc và phải cữ tuyệt. Đến như đánh tiêu khiển, phạt uống nước, uống rượu cũng không nên chơi:“Phàm hí vô ích chớ chơi”(?) vì nó sẽ quen tánh đi, và mất thời giờ. Đức Giáo Chủ thường giác tỉnh:
    “Cuộc trần ôi quá khổ !
    Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.
    Biết bao người vì nó phải bơ vơ,

    Sự nghiệp hết gia đình tan nát,
    Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát.

    Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân,
    Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
    Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.

    Chi cho bằng:
    Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    3- ĐỐI VỚI CÁC TĂNG SƯ:
    Với các Tăng sư đã có trong Đạo Phật, không luận tông phái nào, nếu ai tu hành chơn chánh và luận giải Đạo Pháp đúng chơn lý của Đạo Phật, chúng ta nên cung kính nghe theo. Còn những Sư tu giả dối: làm hay nói điều sai lạc chơn lý của Đạo thì chẳng những mình không nghe, còn nói lên cho mọi người hiểu biết để xa lánh.
    -ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN:
    Trong đoạn nầy thì Đức Thầy dạy: những ngày sóc vọng, ngày vía chư Phật, mình muốn đi chùa lễ Phật dâng hoa cũng tốt. Chùa nào bị hư dột cũng được ủng hộ trùng tu cho kín đáo, có điều là không nên mua sắm hình tưọng thêm cho nhiều.
    -Khi thấy cách thờ phượng của các chùa không giống tông phái của mình thì không nên hủy báng mà phải luôn luôn tôn kính. Khi nào người trong Đạo mình thờ sai nghi thức, mới có ý kiến xây dựng.
    4- ĐỐI VỚI TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SINH:
    Mỗi quốc gia đều có nhiều tôn giáo. Ấy gọi là tôn giáo bạn. Mục đích của tôn giáo nào cũng giống nhau, là dẫn dắt người đi đến chỗ tốt đẹp. Nhưng nghi thức thờ phượng và phương cách hành Đạo chẳng giống nhau. Vậy chúng ta không nên kỳ thị, chê bai lẫn nhau và cũng không được ỷ mạnh thế, ỷ đông lấn hiếp họ. Nếu người ta có đối xử sai quấy với mình, mình nên nhẫn nhịn và luôn xử sự hòa hài thuận thảo với họ.
    -Phần đối với các tầng lớp nhân sinh trong xã hội, Đức Thầy chủ trương “Đời đạo liên quan rạng chói ngờivà “Nhập thế cứu đời”. Cho nên người tín đồ PGHH lúc nào cũng sống hòa hợp với mọi người, mọi giới. Hãy đặt tình thân yêu và tận tâm giúp đỡ:“Nếu thiệt người thì biết thương người”.( ĐT)

    5- ĐỂ TÓC: (Điều nầy Đức Thầy nói tách bạch, nên xin miễn lược giải).
    6- SỰ HỌC: Từ trước có nhiều người hiểu muốn tu chẳng cần học, vì tu cho tâm thanh tịnh thì trí huệ sáng. Hoặc cứ niệm 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, thì được vãng sanh về Cực Lạc. Thậm chí đến Kinh Giảng giáo lý của Đạo cũng không cần học, nói gì đến sự học văn hóc, khoa học. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:
    “Sự học hành không làm trở ngại cho Đạo đức. Trái lại, nhờ nó mà mình được biết rõ ràng giáo lý cao siêu của Tôn giáo, nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn hoặc, không bàn bạc những chuyện xa với (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn)…”
    Cho nên Ngài ra lịnh cho các tín đồ:“Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ…) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học không cản trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ”.

    CHÚ THÍCH
    RƯỢU: Do nước cốt của gạo trắng hoặc nếp hay trái cây ủ với men làm ra. Trong men có các vị chua, cay, đắng, mặn, ngọt…Có thể dùng chút ít làm thuốc nhưng nếu ai uống nhiều sẽ bị say và ghiền, khó bỏ: tánh tình nóng nảy, mất trí khôn, sanh thêm tội lỗi. Trong người mang nhiều bệnh tật và chết yểu. Cổ Đức từng bảo:“Người ghiền rượi thường sanh 10 điều lỗi như sau:
    1-Sắc diện ra vẻ khác thường.
    2-Cử chỉ chẳng ra gì.
    3-Mắt thấy không tỏ.
    4-Hiện ra tuồng giận dữ.
    5-Phá hoại sản nghiệp không lấy gì nuôi sống.
    6-Hay sanh bệnh hoạn.
    7-Gây thêm sự kiện cáo.
    8-Danh xấu đồn khắp.
    9-Trí huệ hao kém.

    10-Chết bị đọa vào 3 đường ác.
    THUỐC PHIỆN: Cũng gọi là a phiến. Do một thứ nhựa, lấy ở mủ cây Thẩu nấu thành, đốt lên có mùi thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất làm cho người say nghiện, con người tiều tụy từ tinh thần lẫn thể xác, sự nghiệp tiêu tan. Vì thế, tất cả Tôn giáo đều cho thuốc phiện là một trong tứ đổ tường (bốn bức tường đổ). Đức Thầy từng bảo:

    Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
    Nào trùm đĩ ma cô nghề hút máu”.
    CHÂM CHẾ: Làm cho bớt tội phần nào.
    CHÁNH LÝ: Lẽ phải, lý lẽ đứng đắn, ngay thật chân chánh.

    TÀ MỊ: Gian dối không chánh đáng.
    NGÀY VÍA: Ngày kỷ niệm của chư Phật. Ví dụ: Vía Đức Thích Ca thành Đạo hay vía Phật Di Đà.v.v…
    TÔN GIÁO: (Xem CT bài Lời nói đầu Q.6).
    NHẬN NHỊN: (Xem CT chữ NN, trong Ác Sân Nộ, Q.6).

    THIỆN CẢM: Cảm tình tốt lành.

    CÂU HỎI
    1/-Rượu phải cữ hay uống như thế nào ?
    2/-Thuốc phiện có nên dùng không ? Tại sao ?
    3/-Việc cờ bạc phải giữ như thế nào ?

    4/-Đức Thầy dạy đối với Tăng Sư ra sao ?
    5/-Đối với các chùa ta phải làm gì ?
    6/-Ta phải đối xử với các Tôn giáo bạn ra sao ?
    7/-Đối xử với các giới nhân sanh như thế nào ?
    8/-Sự để tóc, Đức Thầy phân tách ra sao ?
    9/-Sự thiếu học có tai hại gì ?

    10- Người tu không chịu học Kinh giảng ra sao ?
    11/-Hiểu biết về văn hóa, khoa học có trở ngại cho sự tu không ?

    7- THỂ DỤC, 8- ĂN Ở, 9- CÁCH LÀM ĂN.

    CHÁNH VĂN
    THỂ DỤC.- Người trong bổn-đạo nam nữ bất-luận, phải giữ- gìn thân-thể cho khoẻ-mạnh. Như thế nên luyện- tập những môn thể-dục nào hợp với sức khoẻ nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khoẻ mạnh tinh-thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc-lực.
    ĂN Ở.- Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon song nấu toàn đồ độc cho cơ-thể, ăn vào sanh bịnh.
    Phải giữ-gìn thân-thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ-sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác-thịt dơ dáy thì tinh-thần không thể nào mở-mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.
    CÁCH LÀM ĂN.- Cách làm ăn phải y như trong mục Bát Chánh đã dạy.

    - Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, bán rượu, bán thuốc phiện,..
    - Làm những nghề lương-thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo.

    LƯỢC GIẢI
    Ba đề mục:“Thể dục, ăn ở, cách làm ăn” chúng tôi xin miễn lược giải, song mỗi người nên nghiên cứu học hiểu cho tường tận để giữ gìn, ăn ở và sống cho đúng với tinh thần của người có Đạo…

    CHÚ THÍCH
    PHONG TỤC: Thói quen trong cuộc sống hằng ngày từ xưa của ông cha ta truyền lại.
    VĂN MINH CẶN BÃ: Riêng chữ Văn minh là văn vẻ sáng sủa, nhưng ở đây có ghép thêm chữ Cặn bã là Đức Thầy muốn chỉ các nước Âu Tây càng văn minh vật chất để thỏa mãn dục vọng. Do đó, sự ăn mặc họ càng tiến tới hở hang bày dạng khêu gợi tình dục, khiến tánh tình trở nên gian dối xấu ác. Đức Thầy đã bảo:
    “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa,
    Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

    CẢI CÁCH: Thay đổi cách thức lề lối cho được tốt đẹp hơn.
    DỊ ĐOAN MÊ TÍN: (Xem CT mục Ác Sát sanh, Q.6).
    KHOA HỌC: Gồm các môn học: Toán, lý hoá, vạn vật, giúp cho ta nhận thức mọi vấn đề có phương pháp thực tiễn, rõ ràng, chính xác, không còn tin chuyện huyễn hoặc.
    NGHIÊN CỨU: Tìm tòi tra cứu, nghiền mgẫm, so sánh để nhận ra mọi vấn đề đúng lý.

    THỂ DỤC: Phương cách luyện tập thân thể cho nở nang và thêm sức mạnh, cũng giúp cho tinh thần thêm sáng suốt, siêng năng.
    ĐẮC LỰC: Sức làm nổi được việc.
    VỆ SINH: Sạch sẽ để giữ gìn sức khỏe đời sống.
    TIẾP ĐỘ: Dẫn dắt và đưa đến nơi đến chốn.
    LƯỜNG CÂN TRÁO ĐẤU: Mua cân già, đổi bán cân non; mua gịa già đổi bán gịa non. Đức Thầy có câu:
    Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
    Chớ tập tánh lận lường tráo đấu”.

    CÂU HỎI
    (Từ câu 1 đến câu 4 đã bị xóa trong nguyên bản (?)).
    5/-Về thể dục, Đức Thầy dạy như thế nào ?
    6/-Sự ăn ở của ta phải gìn giữ ra sao ?
    7/-Đức Thầy dạy cách làm ăn sanh sống như thế nào ?

    10- ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO


    CHÁNH VĂN
    ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO.- Người nào muốn quy-y phải có hai người bổn-đạo cũ, có đức-hạnh tiến-cử và bảo-lãnh, đến Ban Trị-Sự trong làng cho người làm đầu biết, và người làm đầu phải đọc hết thể-lệ về sự tu hành cho người quy-y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy-y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông Bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ-tiên rằng: Ngày … tháng … con chịu quy-y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu (Hội-Trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị-Sự, hai người bổn-đạo cũ phải dìu dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị-Sự gần đó, không bắt-buộc thề-thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến-cử hay để bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật-lệ trong sự đạo-đức, dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách- nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.
    Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu-dắt và ủng-hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo-lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng-hộ những kẻ gian-tà xảo-quyệt, làm các việc hung-ác ngông-cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy.

    LƯỢC GIẢI
    Mục “Điều kiện vào Đạo”, thấy rằng ai muốn tu phải có điều kiện, nhưng điều kiện ở đây rất tự do bình đẳng và giản dị công bằng, thực tiễn.

    -TỰ DO ở chỗ tự ý mỗi người muốn tu thì vào Đạo, không muốn thì thôi, chớ không nài ép một ai.
    “Tu không tu cũng không mời thỉnh,
    Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”.( ĐT)
    Và:
    Tùy thiện tín hiểu ta giả thiệt,
    Làm hay không chẳng dám ép nài
    .( ĐT)
    -Có điều là bằng lòng giữ theo tám điều răn cấm của Đạo là được. Cũng chẳng bắt buộc phải thề thốt chi cả. Khi nào không muốn tu nữa thì chỉ cho Hội Trưởng hay, để bôi tên mình là đủ.
    -BÌNH ĐẲNG ở chỗ không phân biệt sang hèn, già trẻ, thông minh hay dốt nát hoặc tật nguyền hay giàu khó…tất cả đều tu được hết:
    Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.
    ( ĐT)

    Hoặc là:
    Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.( ĐT)
    -GIẢN DỊ ở chỗ “không bắt buộc thề thốt chi hết”; chỉ cần thưa với ông bà cha mẹ hay và cần người hướng dẫn đến người lớn trong Đạo ở xã biết để chứng kiến. Nhứt là không cần có lễ vật rườm rà, như Đức Giáo Chủ đã cho biết:
    Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
    Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.

    Chẳng có cần trà quả hương nồng,
    Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ.
    Kẻ xa xuôi có lòng ái mộ,
    Xem Kệ nầy tu tỉnh tại nhà.

    Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,
    Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc”.
    -Vẫn biết chủ trương của Đạo Phật cũng như PGHH là từ bi và bình đẳng, song chư Phật bao giờ cũng dìu dắt những người thật tu và làm ăn chân chất, chớ không bao giờ ủng hộ những kẻ dối tu, hành động ngông cuồng hung ác. Lẽ công bằng thực tiễn đương nhiên là phải như vậy.

    CHÚ THÍCH

    TIẾN CỬ: Giới thiệu, kể rõ thành phần tài năng đức hạnh của người đó, để được cấp trên hiểu biết hoặc sử dụng.

    THỂ LỆ: Các thức qui định.
    QUY Y: (Xem CT trong bài “Những điều sơ lược cần biết”. Q.6).

    CÂU HỎI
    1/-Người muốn qui y theo PGHH trước hết phải làm sao ?
    2/-Có người muốn qui y, trong Đạo hướng dẫn như thế nào ?
    3/-Khi họ bằng lòng qui y, trước hết phải làm gì ?
    4/-Người theo Đạo có bắt thề chăng ? Và khi họ muốn thôi phải làm sao ?
    5/-Người đã qui y thì đối với giới luật phải thế nào?
    6/-Phật dìu dắt và ủng hộ ai ? Hoặc không dìu dắt ủng hộ ai ?
    7/-Hãy nhận định tính chất Tự Do trong điều kiện qui y ?
    8/-Hãy phân tách tinh thần Bình đẳng trong bài “Điều kiện vào Đạo” ?
    9/-Điều kiện qui y theo PGHH giản dị ra sao ?

    VII- SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA

    A- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ.

    CHÁNH VĂN
    Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán nguyện:
    Cúi kính dưng hương trước Cửu-Huyền,
    Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng.

    Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật,
    Chí dốc tu hiền tạo phước-duyên.

    Cấm hương, đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:
    Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông,
    Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn.
    Rày con xin giữ Đạo hằng,

    Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài.
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày;
    Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên.
    Mong nhờ Đức Cả bề trên,

    Độ con yên ổn vững bền cội tu”. (lạy 4 lạy)

    LƯỢC GIẢI
    -BÀI DƯNG HƯƠNG: (Theo ông Lâm Thế Xương cho biết: Lúc ông chép các bài nguyện tại Tổ Đình (1939), Đức Thầy mới viết bài dưng nhương như vầy:“Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền, Cùng trên Thất Tổ chứng lòng thiếng…”.Nghĩa là chữ đầu của câu thứ nhì là chữ CÙNG chớ không phải chữ CẦU. Có lẽ sau nầy chép hoặc in lại nhiều lần nên trại ra chữ Cầu. Theo ông thì 1 thành ngữ 4 chữ Cửu Huyền Thất Tổ dính liền nhau, nên Đức Thầy viết câu trên có 2 chữ Cửu Huyền thì chuyển tiếp xuống câu dưới là “cùng Thất Tổ”. Chẳng lẽ cầu Thất Tổ mà không cần Cửu Huyền sao ? Chúng tôi ghi vào đây để sau nầy có dịp chúng ta cứu xét lại.)
    1-Dưng hương cầu Cửu Huyền Thất Tổ chứng minh:
    Con quì trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, thành tâm kính dâng nén hương, nguyện cầu ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp xin chứng dám tấm lòng thành thật của con.
    2-Nguyện hứa trước Cửu Huyền Thất Tổ:
    Hôm nay con thức tỉnh qui y Phật pháp, quyết chí lo tu hiền, làm lành lánh dữ để gây tạo phước duyên từ đây đến ngày kết quả.
    -BÀI NGUYỆN LẠY CỬU HUYỀN THÁT TỔ:
    Bài nầy gồm có 4 phần:

    1-Lo cúng lạy tu hành để đáp ơn sanh dưỡng(câu 1 và 2): Con cúi lạy Tổ tiên, Ông bà cha mẹ trong tộc họ để lo đền đáp công khó nhọc, sanh dưỡng cho con nên hình vóc từ trước tới giờ.
    2-Dốc tu theo Tôn chỉ để cầu Tông Tổ siêu sanh Cực Lạc (câu 3 và 4): Từ nay con luôn luôn phụng hành theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Đức Thầy đã đề vạch và nguyện cầu Tông Tổ được siêu sanh Cực Lạc an tọa trên đài sen báu.
    3-Vừa tu cho đẹp mặt Tông môn, vừa cho mình thoát trần về Phật (câu 5 và 6): Phần con chí nguyện trau dồi tài đức để làm rạng rỡ Tông môn và quyết tu thoát khỏi bể trần thống khổ, hầu vãng sanh về Cực Lạc.
    4-Mong nhờ Cửu Huyền Thất Tổ gia hộ cho con bền chí tu hành đến ngày kết quả (câu 7 và 8): Cuối cùng con tha thiết mong cầu Cửu Huyền Thất Tổ ban ơn bố đức ủng hộ cho con được yên ổn thân tâm, kiên chí tu hành mãi mãi cho đến ngày thành quả.

    CHÚ THÍCH
    CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Là thành ngữ chỉ chung cho Tổ Tiên ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ.
    CỬU HUYỀN: Theo Nho Giáo (Hán học) thì Cửu Huyền tức là Cửu tộc. Gồm có: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Có nghĩa trên mình bốn bực là Ông Sơ, ông Cố, ông Nội, Cha, giữa là mình và dưới mình bốn bực là con, cháu, cháu chắt, cháu chít.
    Xưa, đời Hạ Võ có đúc 9 cái đỉnh bằng đồng để thờ Tổ Tiên tộc họ. Trào nhà Nguyễn, Việt Nam ta cũng có tạo ra Cửu đỉnh đặt tại nhà Thái Miếu, ý cũng để nhớ đến Tổ Tiên, nòi giống. Song nên nhớ là thờ lạy 4 bực trên, đã qua đời, còn cứu độ và liên đới trách nhiệm thì luôn cả 4 cấp dưới. (Dẫn theo ý Đức Thầy đã giải cho ông Huỳnh Hữu Phỉ nghe. Ông Phỉ giữ trang giấy ấy, đã ép vào giấy kiếng và giữ còn tới bây giờ. Cũng đã có nhiều anh em ép hoặc photo để kỷ niệm.)
    THẤT TỔ: Theo Phật Giáo (Phật học) thì Thất Tổ là “Tổ tông bảy đời”, do chữ “Thất Thế Phụ Mẫu” có nghĩa mỗi lần sanh ra xác thân đều có tổ tiên cha mẹ mà bảy lần như vậy gọi là “Tổ Tông bảy đời”. Theo phong tục ở Ấn Độ, con số 7 là số tượng trưng cho con số nhiều (vô lượng). Bởi từ vô thỉ tới giờ con người chết đi, sanh lại không biết bao nhiêu lần. Cho nên Thất Tồ là chỉ cho ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ. Đức Thầy đã bảo:
    Ngày nào đắc được lục thông,
    Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.

    Căn cứ hai lý giải trên, tựu trung là một thành ngữ, ghép hai từ ngữ Hán học “Cửu Huyền” và Phật học “Thất Tổ” lại thành một thành ngữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Ban sơ là tiếng cầu chúc nhau (chúc cầu Cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại), sau thành thói quen, nên dùng làm thành ngữ chỉ chung cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp. Đức Thầy đã xác định:“Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp”. Và:
    Đầu cúi lạy Cửu Huyền Thất Tổ,
    Ngõ đáp ơn báo bổ sanh thành”.
    LÒNG THIỀNG: Lòng thành.
    TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ. Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo Đạo lý. Đức Thầy từng kêu gọi:
    Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
    Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.

    PHƯỚC DUYÊN: Phước đức và nhân duyên, (nghỉa của chữ phước điền) tức là làm những việc phước thiện để gây duyên lành về sau. Đức Thầy có câu:
    “Ông bà có sẵn của tiền,
    Lại thường làm ruộng phước duyên để dành”.

    SANH DƯỠNG: Cũng viết là sinh dưỡng, tức sanh ra và nuôi cho lớn khôn, do chữ “Cúc Dục”. Kinh thi của Thánh giáo có câu:“Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hạo nhiên võng cực”. (Cha sanh ta, mẹ đẻ ta, thương thay cha mẹ sanh ta khó nhọc, muốn đáp ơn sâu, thật ơn ấy như trời cao chẳng cùng).
    Còn Kinh Phật có giải mười điều ơn của cha mẹ như sau:
    1-Thập ngoạt hoài thai: Mười tháng cưu mang.
    2-Lâm sản thọ khổ: Sanh đẻ chịu khổ.
    3-Sanh tử vong ưu: Sanh được con mừng mà quên lo rầu.
    4-Yến khổ thổ cam: Uống đắng nhổ ngọt.

    5-Hồi can tựu thấp: Nhường chỗ khô, nằm chỗ ướt.
    6-Nhũ bộ dưỡng dục: Bú mớm và nuôi nấng.
    7-Tẩy trạc bất tịnh: Giặt rửa mọi điều dơ bẩn.
    8-Viễn hành ức niệm: Con đi xa thì cha mẹ nhớ tưởng.
    9-Vị tạo ác nghiệp: Vì con mà cha mẹ làm điều chẳng lành.
    10-Cứu cánh lân mẫn: Cha mẹ thương con không có cái thương nào bằng.
    Đức Thầy thường khuyên:
    Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”.

    DÀY CÔNG:Công phu nhiều lắm khó lường được.
    NHỌC NHẰN: Vất vả cực nhọc.
    ĐẠO HẰNG: Đạo thường xưa nay, tức mọi phép tắc mà người người đều tuấn theo để ăn ở xử thế cho phải lẽ, phải phép đúng với bổn phận con người; phân làm 5 mối thường hằng (ngũ thường) là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chữ “Đạo hằng” ở đây còn có nghĩa Đức Thầy dạy tín đồ thường ngày đều thực hành đúng theo con đường Đạo mà mỗi người đã hứa nguyện với Cửu Huyền Thất Tổ như trong bài nguyện đã nói trên.
    PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự, đây chỉ cho đài sen báu ở cõi Cực Lạc.
    LIÊN ĐÀI: Đài sen, cũng có ý nghĩa như trên.
    ĐỨC CẢ: Đức lớn, tiếng tôn xưng và cậy nhờ bề trên. Đây chỉ cho Cửu Huyền Thất Tổ.
    CỘI TU: Gốc tu hành. Ý nói sự tu hành như trồng cây, ai bền tâm vun phân tưới nước thì cây ắt đơm bông kết quả tốt.
    Đức Thầy bảo:
    “Trồng cây lành vị quả thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất”.


    CÂU HỎI
    1/-Bài dưng hương bàn Cửu Huyền Thất Tổ có mấy phần ? Hãy cho biết ý nghĩa từng phần ?
    2/-Hãy giải nghĩa 4 chữ Cửu Huyền Thất Tổ ?
    3/-Bài “Cúi đầu lạy tạ Tổ Tông…” có mấy đoạn ? Mỗi đoạn có ý nghiã ra sao ?
    4/-Giải nghĩa 2 từ ngữ: Sanh dưỡng và Mười điều ơn ?
    B- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN PHẬT.


    CHÁNH VĂN
    1- BÀI QUI Y
    Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán đọc bài Quy y:

    Nam-Mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm)
    Nam-Mô Thập Phương Phật.
    Nam-Mô Thập Phương Pháp.
    Nam-Mô Thập Phương Tăng.
    “Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn- thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng, chứng-minh, nay con nguyện cải-hối ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”.


    Cắm hương, lạy 4 lạy cũng được, hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:

    LƯỢC GIẢI
    -BÀI QUY Y (1)
    Bài Qui y trước Bàn Phật có hai phần:

    -PHẦN NHỨT: Mỗi người của chúng ta nguyện với vị Giáo chủ Đạo Phật. Kế tiếp là khắp mười phương chư Phật Pháp Tăng, rồi Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Chư Quan Cựu Thần, Chư Vị Sơn Thần và Năm Non Bảy Núi chứng minh cho lời phát nguyện Qui y của chúng ta.
    -PHẦN NHÌ: Chúng ta tự quyết cải hối những việc sai lầm vừa qua và tự nguyện từ đây ngăn tránh các điều quấy ác và làm hết các việc tốt đẹp thiện lương. Nhứt tâm nương theo con đường Phật Đạo, tức là giáo pháp và giới luật cho các Ngài chỉ dẫn để tu tiến cho đến ngày thành Đạo.

    CHÚ THÍCH

    NAM MÔ: (Xem CT bài “Cầu nguyện cho người chết”, Q.6).
    TA BÀ: Phiên âm của Phạn ngữ, dịch là Kham nhẫn hay Đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy kham chịu mọi điều thống khổ, tức là cõ chúng ta đang ở. Đức Thầy từng bảo:
    “Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
    Có bao người xét cho tột chỗ”.

    GIÁO CHỦ: Vị đầu tiên khai sáng Đạo Phật. Đây chỉ cho Đức Thích Ca, bởi Ngài là Giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta bà. Cho nên gọi chung là Ta Bà Giáo chủ. Đức Thầy có câu:
    Nam Mô Thích Ca Như Lai,
    Ta bà giáo chủ xin Ngài chứng minh”.

    BỔN SƯ: (Xem CT bài “Cầu nguyện cho người chết”, Q.6).
    MÂU NI: (Xem CT như chữ trên).
    PHẬT: (Xem CT như chữ trên).
    THẬP PHƯƠNG PHẬT, THẬP PHƯƠNG PHÁP, THẬP PHƯƠNG TĂNG: Mười phương thế giới đều có chúng sanh, tất có Phật giáo hóa, mà Phật muốn hóa độ chúng sanh phải dùng Kinh Pháp nên gọi là Thập phương Phật và Thập phương Pháp. Hễ có Phật có Pháp tất có Chư Tăng tức là các Đại đệ tử của Phật, nên gọi là Thập phương Tăng. Nói chung là 10 phương thế giới đều có Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Bài Qui y Đức Thầy dạy rộng như thế, Ngài đã từng bảo:
    “Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát”.
    PHẬT TỔ: (Xem CT bài “Cầu nguyện cho người chết”, Q.6).
    PHẬT THẦY: (Xem CT như chữ trên).
    QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN: là Ngài Nguyễn Trung Trực. Ông sanh năm 1837 tại tỉnh Bình Định (Trung phần Việt Nam), trong một gia đình chài lưới ở cặp bờ biển. Con của Cụ Nguyễn trung Thăng. Cũng có thuyết nói tên Ông là Chơn hay Lịch (Quản Chơn, Quản Lịch), ở tỉnh Tân An (Nam phần) song vì bà Cụ, mẫu thân ông nói tiếng hơi cứng nên xác định quê ông ở Bình Định đúng hơn.
    Vì căm thù quân Pháp nên gia đình ông và số người đồng hương di cư vào Định Tường (Nam phần). Trong đoàn có Cụ Quản Cơ Lê Đình Vạn đứng ra chiêu tập nghĩa binh trên 200 người chực chờ đánh Pháp. Sau vì già bịnh Cụ Vạn giao binh quyền cho ông Nguyễn Trung Trực, từ đấy ông lập được nhiều chiến công oanh liệt như sau:
    1- Ngày mùng 10-9-1861, Thủy sư Đô Đốc Charner cho quân đổ bộ lên bờ sông Bảo Định. Chính Cụ Nguyễn điều động nghĩa binh tiêu diệt hơn 30 binh sĩ Pháp và tên chỉ huy Bondais bị hạ ngay tại chỗ.
    2- Ngày 22-6-1861 Tướng Paulin Vial tiến đánh Định Tường, bị Cụ Nguyễn dùng kế không thành đánh tướng Paulin trọng thương và quân Pháp chạy bán sống bán chết.
    3- Kế tiếp quân Pháp gom toàn lực bao vây đồn Thuộc Nhiêu. Cụ liền phân binh trong một đêm đánh triệt hạ 7 đồn binh của chúng.
    4- Ngày 11-12-1861 Ngài dùng hỏa công đánh đốt chiếc tàu Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo. Ngọn lửa cháy ngất trời cả một khúc sông. Chính Cụ chém được đầu Trung Tá Parfait xách lên bờ cho dân chúng xem.
    5- Đêm 5-6-1866, Ngài tiến đánh đồn Kiên Giang (Rạch Giá) giết được 5 võ quan Pháp và 67 lính Tây, bắt sống 6 tên, đoạt được 100 khẩu súng và vô số đạn dược.
    Sau cùng bị số người theo Pháp bày mưu bắt mẹ Ngài và cả trăm đồng bào giam giữ; chúng buộc Ngài ra mặt mới trao trả. Bấy giờ Ngài thấy cuộc kháng Pháp không thể kéo dài thêm nữa. Vả lại cần cứu sống hằng trăm nạn nhân, nên Ngài giải tán nghĩa binh rồi tự trói mình ra nạp cho Pháp để chuộc mẹ và số đồng bào ra. Quân Pháp dùng đủ cách dụ hàng, nhưng không lay chuyển được lòng trung nghĩa của Ngài. Cho nên họ đem Ngài ra hành quyết vào ngày 28-8 năm Mậu Thìn (27-8-1868). Trước khi tử hình Ngài có làm bài thơ tuyệt mệnh, lời lẽ khí khái và thống thiết như sau:
    “Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
    Yêu giang đởm khí hữu long tuyền.
    Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,
    Báo hận thâm cừu bất đái thiên”.

    Thi sĩ Đông Hồ dịch:

    Theo việc binh nhung tự thuở trai,
    Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.

    Anh hùng gặp phải hồi không đất,
    Thù hận chan chan chẳng đội trời”.

    Sau khi vị quốc vong thân, Ngài được vua Tự Đức sắc tứ truy phong là “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”. Hiện giờ đền thờ chánh của Ngài tại xã Vĩnh Thạnh Trung, tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá).
    (Về công nghiệp của Ngài, sau nầy Cụ Huỳnh Mẫn Đạt có viết hai câu đối:
    Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
    Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần
    .)
    Trong một bài thơ có đề cập đến Quan Thượng Đẳng Đại Thần do Đức Thầy sáng tác năm Canh Thìn (1940) với tựa đề “Lý lịch”.
    THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,
    ĐẲNG đẵng hãy làm chớ để lâu.
    ĐẠI pháp vô vi là chơn lý,
    THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu”.
    Thẩm xét bài thơ trên thấy hàm dung bao ý nghĩa chúng minh rằng Ngài Nguyễn Trung Trực theo Đức Phật Thầy chuyển kiếp độ đời qua bốn chữ khoán thủ.
    CHƯ QUAN CỰU THẦN: Chư là số nhiều. Quan Cựu thần là các vị quan văn võ trung cang nghĩa khí, tận tâm bảo vệ tổ quốc. Đây chỉ cho các quan cựu thần, từ hội lập quốc (Hùng Vương) tới giờ đã được ghi vào lịch sử. Đức Thầy bảo:
    “Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.
    CHƯ VỊ SƠN THẦN, CHƯ VỊ NĂM NON BẢY NÚI: Chỉ cho các vị thần có nhiệm vụ trong vùng Năm Non Bảy Núi, đã qui y Phật tu hành và theo Đức Thầy cứu dân độ thế trong thời nầy. Đức Thầy có câu:
    Chư sơn bảy núi đều qui tựu,
    Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày”.

    Và:
    “Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
    Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”.

    NĂM NON: Năm cái chỏm cao, tức năm cái Vồ trên núi, gồm có:
    1-Vồ Bò Hong: cao 716m, coi như đỉnh chót của núi Cấm, ở về hướng Tây (vì khi xưa người ta ít lui tới, giống bò hong sinh nở ở đây nhiều nên có tên ấy).
    2-Vồ Đầu: cao 584m, ở về hướng Tây Bắc (phải chăng vì là cái Vồ đầu tiên người ta gặp được khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn).
    3-Vồ Bà: cao 579m, ở về hướng Nam (vì ở đây có điện thờ Bà Chúa Xứ)
    4-Vồ Ông Bướm: cao 480m, ở về hướng Bắc (vì khi xưa có 2 đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An là ông Bướm và ông Vôi ẩn náu nơi đây tu hành đắc Đạo)
    5-Vồ Thiên Tuế: cao 514m, ở về hướng Đông,(vì nơi đây có mọc nhiều cây thiên tuế).
    BẢY NÚI: Nghĩa của chữ Thất Sơn, tức bảy ngọn núi ở vùng tỉnh Châu Đốc, gần biên thùy Miên Việt gồm có:
    1-Anh Vũ Sơn: Núi Két cao 225m, thuộc xã Thới Sơn, quận Tịnh Biên (Châu Đốc). Vì trên chót núi nầy có mỏm đá giống hình mỏ chim Két.
    2-Ngũ Hồ Sơn: Núi Giày Năm Giếng gần núi Két, chưa rõ số thước.

    3-Thiên Cẩm Sơn: tức núi Gấm trời, cũng có tên núi Cấm. Cao 716m, dài 7.500m, ngang 6.800m, nằm giữa quận Tịnh Biên và Tri Tôn (Xem thêm phần CT Q.1, T-1, Quyển Thượng).
    4-Liên Hoa Sơn: núi Tượng, cao 156m, dài 600m. ngang 400m, thuộc xã Ba Chúc, quận Tri Tôn, vì núi nầy đứng xa nhìn lên đỉnh thầy giống hình con Voi.
    5-Thủy Đài Sơn: núi Nước gần núi Tượng, cao 50m, cùng thôn với nuí Tượng.
    6-Ngọa Long Sơn: Núi Dài, cao 580m, dài 8.000m, thuộc quận Tri Tôn. Vì núi nầy dài tới 8 cây số ngàn, giống con rồng nằm.
    7-Phụng Hoàng Sơn: núi Tô, cao 614m, dài 5,800m, ngang 3.700m, thuộc quận Tri Tôn.
    Trên đây là dẫn theo tài liệu có nhiều người kể lại, nhưng xét ra miền Bảy Núi còn có nhiều ngọn núi khác nữa, như: núi Trà Sư, Bà Đội Om, Nam Vi…
    Vì vậy nên danh từ “Thất Sơn”(Bảy Núi) có nghĩa chỉ chung cho tất cả đồi núi thuộc tỉnh Châu Đốc. Ông Ba Thới có đề cập đến:
    “Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất Sơn,
    Ngùi ngùi nhớ Chúa đội ơn lộc Thầy”.

    Đức Thầy nay cũng bảo:
    “Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
    Miền Bảy Núi mà sau báu quí”.

    QUI Y THEO MẤY NGÀI: Nương về và tu đúng theo lời chỉ dạy của các Ngài từ: Đức Thích Ca, mười phương Tam Bảo dẫn đến Quan Thượng Đẳng và Chư Quan Cựu Thần…Nếu ta hành động đúng theo hạnh đức của bậc nào thì chứng đắc đến bậc đó, chớ chẳng phải cố định một hạng. Có điều nên lưu ý là chúng ta “Tu hiền theo Phật Đạo”, chớ không phải tu theo Thần Đạo. Đức Thầy đã hằng khuyên:
    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.


    CÂU HỎI
    1/-Cho biết đại ý từ phần trong bài Qui y ?
    2/-Định nghĩa các chữ Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ ?
    3/-Giải nghĩa các chữ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ?
    4/-Thập phương là gì ? Và tại sao gọi Thập phương Phật, Thập phương Pháp, Thập phương Tăng ?
    5/-Hãy sơ lược tiểu sử Đức Phật Tổ ?
    6/-Hãy cho biết tiểu sử Đức Phật Thầy Tây An ?
    7/-Cho biết lược sử Quan Thượng Đẳng Đại Thần ?
    8/-Chư Quan Cựu Thần là người như thế nào ?
    9/-Kể rõ địa danh Năm Non Bảy Núi ?



     
  4. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    2- BÀI TÂY PHƯƠNG NGŨ NGUYỆN

    CHÁNH VĂN

    Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ Đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.

    Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-Hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ chúng, thế-giới bình-an.
    Nam Mô nhị nguyên cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh.

    Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương.
    Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát mê-ly.

    Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thông-minh, giai đắc đạo quả.
    Lạy 4 lạy rồi xá:

    1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
    1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-Thế Chí Bồ-Tát.
    1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan Thế-Âm Bồ-Tát.

    LƯỢC GIẢI
    Hai hàng chữ in nghiêng kế bài Qui Y trước bàn Phật là lời chỉ dẫn của Đức Thầy rất rành. Ngài chỉ dạy nguyện một bài Qui y, hoặc nguyện luôn bài Tây phương ngũ nguyện cũng được, song chỉ lạy một lần 4 lạy mà thôi !

    Đại ý câu mở đề bài Tây phương Ngũ nguyện là chúng ta cầu nguyện Đức Phật A Di Đà, tức là vị Giáo chủ Thế giới Cực Lạc mở lòng từ bi tiếp độ tất cả chúng sanh trong cõi Ta bà được Vãng sanh về cảnh giới của Ngài. Dụng ý của Đức Thầy muốn dạy tín đồ noi gương Đức Phật thể hiện lòng bác ái vị tha cứu khổ vạn loại chúng sanh để đáp ơn Tam Bảo.
    1- Câu nguyện thứ nhứt: Chúng ta cầu ba vị Vua ba cõi (Tam hoàng) và Đức Phật chủ tọa “Liên hoa hải hội” cùng vị Phật vương độ hộ cho thế giới sớm hòa bình, nhân loại an cư vui sống.

    Ngụ ý là Ngài dạy đáp ân Đất nước và đồng bào nhân loại.
    2- Câu thứ nhì: Chúng ta cầu nguyện cho Tổ tiên Ông bà từ vô thỉ đến nay đều được siêu sanh Tịnh Độ.
    Có dụng ý đền ơn Tổ tiên tộc họ.
    3- Câu thứ ba: Chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ còn hiện tiền được sống lâu, hạnh phúc và cha mẹ đã qua đời từ vô lượng kiếp đều được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.

    Có dụng ý là đáp ơn sanh dưỡng của cha mẹ.
    4- Câu thứ tư: Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể dân chúng đều phát tâm tu hành, rèn lòng từ bi bác ái, để giải thoát cảnh mê đồ thống khổ.
    Có dụng ý là đáp ơn Đồng bào nhân loại và ơn Đàn na thí chủ.
    5- Câu thứ năm: Chúng ta cầu nguyện Đức Phật Tổ, Phật Thầy từ bi xá tội cho hầu hết đệ tử, được tai qua nạn khổ, tật bịnh tiêu trừ, trí huệ sáng suốt và tất cả được chứng đắc Đạo quả.

    Câu nầy Đức Thầy cũng có dụng ý dạy tất cả môn đồ noi gương hạnh của Tổ Thầy mà nuôi chí tu tiến cho đến ngày thành đạo giải thóat hầu đáp ơn Tam Bảo.
    Tóm lại, bài Tây phương Ngũ nguyện, Đức Thầy có dụng ý dạy tín đồ thành tâm khẩn nguyện và noi gương Đức Phật A Di Đà cùng Phật Tổ, Phật Thầy thể hiện lòng từ bi cứu khổ vạn loại chúng sanh; lo đền đáp Tứ Đại trọng ân để xứng đáng với hạnh Bồ Tát, như: trong Kinh “Tâm Địa Quán” Phật đã dạy:“Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.

    CHÚ THÍCH
    PHỔ ĐỘ: Cứu độ khắp cả, tế độ các giới chúng sanh thoát khỏi cảnh mê đồ thống khổ, Đức Thầy có câu:
    “Oai thần đem Đạo huyền thâm,

    Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”.
    THIÊN HOÀNG: Cũng gọi là Thiên đế. Có nghĩa vua cai quản các cõi Trời. Chỉ cho Đức Ngọc Đế hay Thiên Đế Thích.

    ĐỊA HOÀNG: Diêm la Vương. Vị vua cai quản các cõi Địa ngục.
    NHƠN HOÀNG: Vua cõi người. Chỉ cho vị Thánh Vương đời Thượng ngươn sắp tới. Trong Giảng Mười Một Hồi, Ngài Huệ Lựu có nói:
    Minh Vương xuất thế ngôi cao,
    Lập đời thượng cổ anh hào hiền lương”.

    Đức Thầy nay cũng bảo:
    Đức Minh Vương ngự chốn Nam thành,
    Đặng phân xử những người bội nghĩa”.
    Các từ ngữ Tam hoàng nói trên, Đức Thầy có diễn giải một đoạn như sau:

    “Hiền lành chừng đó sum vầy,
    Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
    Đến đó ta mới mừng cười,
    Nhìn xem Ngọc Đế giữa trời định phân.

    Thiên Hoàng mở cửa các lân,
    Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.

    Mười cửa xem thấy ghê hồn,
    Cho trần coi thử có mà hay không ?
    Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
    Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.

    Ấy là đến lúc xuê xang,
    Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Ngươn”.

    LIÊN HOA HẢI HỘI: Liên hoa là hoa sen. Có nghĩa trong sạch và thanh tịnh. Chỉ cho người tu đắc Đạo; Hải hội là hội lớn, chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn đều cu hội rất đông như biển không thể đếm hết con số. Hiểu chung từ ngữ “Liên Hoa Hải Hội” là số người tu chứng, cu hội về đông như biển cả. Từ xưa Đức Phật nào xuất thế đều có cu hội số đệ tử thành Đạo, để xướng danh và thọ ký. Như thời Đức Thích Ca có lập “Linh Sơn Hội” để truyền tâm ấn cho Ngài Ca Diếp. Cho nên Đức Kim Sơn Phật hiện nay cũng sẽ có “Liên Hoa Hải Hội”.
    THƯỢNG PHẬT TỪ BI: Vị Phật chủ tọa Liên Hoa Hải Hội tới đây, đứng đầu chư Phật chứng đắc hiện tại, chỉ cho Đức Kim Sơn Phật.
    PHẬT VƯƠNG: Vua Phật, vị Giáo Chủ cõi Phật ở tương lai, cũng như hiện tại các giới đều tôn xưng Đức Thích Ca là Vua Pháp, vua Phật:“Ngài là vua Pháp tột cao”.( ĐT)
    -Ở đây còn có ý nghĩa chỉ cho vị Chuyển Luân Thánh Vương (tu gần đắc quả Phật). Ngài có trách nhiệm, đem lại sự hòa bình an lạc cho nhân loại khắp thế giới.
    TỊNH ĐỘ: Cũng gọi là Tịnh Thổ, tức cõi đất hoàn toàn trong sạch an nhiên, cũng gọi là Cực Lạc hay An Dưỡng Quốc. Đức Thầy có câu:
    “Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã,
    Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn”.

    SIÊU SANH: Vượt khỏi cảnh thế tục luân hồi, được trở về cõi bất sanh bất diệt. Bốn chữ “Tịnh Độ Siêu Sanh” có nghĩa: người được Vãng sanh về quốc độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Đức Thầy cho biết:
    “Có người tu niệm đáng thương,
    Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh”.

    PHỤ MẪU TẠI ĐƯỜNG: Cha mẹ lúc còn sống.
    TĂNG LONG PHƯỚC THỌ: Sống lâu, thêm tuổi và hưởng đầy hạnh phúc.

    PHỤ MẪU QUÁ KHỨ: Cha mẹ qua đời từ vô lượng kiếp đến nay.
    TRỰC VÃNG TÂY PHƯƠNG: Vãng sanh thẳng về cõi Tây Phương Cực Lạc.
    VẠN DÂN: Muôn dân, chỉ chung cho tất cả dân chúng loài người.
    TỪ TÂM: Lòng lành, khởi tâm bỏ dữ làm lành và thương xót muôn loài vạn vật.

    BÁC ÁI: (Xem CT chữ nầy ở “Ân Tam Bảo”).
    MÊ LY: Say mê đắm đuối theo một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Đây chỉ cho sự mê luyến cõi hồng trần.
    XÁ TỘI: Tha tội.
    TỊNH SỰ: Yên tịnh không việc gì bận rộn lo sợ.

    TIÊU TAI: Hết tai họa bệnh tật.
    THÔNG MINH: Sáng suốt, hiểu biết mọi sự rõ ràng, không lầm lạc.
    GIAI ĐẮC ĐẠO QUẢ: Đều được chứng thành Đạo quả. Chỉ cho người tu đạt được mục đích giải thoát.
    ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT: Vị Bồ Tát đã chứng đắc lâu đời, có nghị lực oai thần to lớn cùng cực biểu hiện cho đại trí huệ và đứng hầu bên hữu Đức Phật A Di Đà.
    Trong Kinh Bi Hoa, nguyên Ngài là Thái Tử Ni Ma, con của Vua Vô Tránh Niệm. Khi nghe Bảo Tạng Như Lai thuyết pháp, Vua Cha ngộ đặng chơn lý phát tâm hành Đạo thì Thái Tử cũng phát tâm tu hành, theo phụng sự Phật Bảo Tạng và chúng tăng trọn 3 tháng. Ngài phát nguyện cầu thành Phật Đạo. Đức Bảo Tạng liền thọ ký cho Ngài sẽ thành Đại Thế Chí Bồ Tát ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
    Khi tu chứng quả Ngài dùng oai thần rộng lớn, trí huệ sáng mầu soi khắp mười phương, khiến cho chúng sanh cảm đức mà tu tỉnh thoát khổ. Ngài đặt bước đến đâu Chư Thiên chấn động, chúng Ma Vương khiếp sợ, cung điện nghiêng ngã. Vì Ngài có oai thần như vậy nên được đời tôn xưng là Đại Thế Chí. Khi Đức Phật Thích Ca xuất thế, Ngài có hiện thân đến làm đệ tử, đặng trợ duyên Phật sự, giáo hóa chúng sanh.

    Trong Hội Lăng Nghiêm, Ngài Đại Thế Chí có trình bày pháp tu trước Phật Thích Ca như vầy:
    “Tôi còn nhớ trước kia thuở Phật Siêu Nhựt Quang ra đời. Ngài có dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội (chánh định), tôi nhờ niệm Phật theo pháp ấy, nên chứng được “vô sanh pháp nhẫn”. Từ ấy tôi theo sát Phật A Di Đà, đứng hầu bên hữu và tiếp độ chúng sanh về cõi Cực Lạc của Ngài”.
    QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT: Có nghĩa nghe xét tiếng của cả chúng sanh trong pháp giới hầu dùng thần thông cứu độ. Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa thủ. Là một vị Bồ Tát rất có lòng từ bi hay cứu khổ nạn nên có danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ở đâu cũng có thờ và tụng niệm đến danh hiệu của Ngài. Vì Ngài biểu hiện cho lòng từ bi và đứng hầu bên tả Đức Phật A Di Đà.
    Kinh Phật có chép: lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi Vua cha phát tâm hành Đạo theo Đức Bảo Tạng Như Lai thì Ngài cũng thức tỉnh tu hành; phát lời Đại nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo, và các món thiện căn tôi đã từng tu tập pháp mầu xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh khổ đau họa hoạn, khi có ai niệm đến danh hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ khỏi khổ và đặng an vui”.
    Vì vậy, trong thế gian nầy, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau, chúng ta niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu độ chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quan Thế Âm đang hầu một bên Đức Phật A Di Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh khắp mười phương về cõi ấy.
    Bởi Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đồng có nguyện lực tiếp dẫn chúng sanh mười phương vãng sanh về Cực Lạc như Đức Phật A Di Đà. Cho nên Đức Thầy dạy chúng ta: Khi xá chính giữa niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì cũng xá hai bên niệm danh hiệu hai vị Bồ Tát nói trên. (Cũng cần lưu ý Ngài Đại Thế Chí đứng bên phải của Đức A Di Đà là phía trái của ta. Còn Ngài Quan Thế Âm đứng bên trái của Phật, nhằm phía phải của ta. Vì mình đứng đối diện).

    CÚNG LẠY: Do chữ “lễ bái”. Có nghĩa thành tâm cung kính nguyện, vái, xá hay lạy. Kinh Phật xưa có giải 7 cách lạy, từ thô sơ đến tinh tế, người tu hành cần phải hiểu để lạy cách nào cho kết quả. Xin đại lược như sau:
    1-Ngã mạn lễ: Lạy cách ngã mạn, tức là thân tuy đứng lạy, song chẳng thật lòng thành tín.
    2-Cầu danh lễ: Lạy cách cầu danh, tức dối bày oai nghi, thường lạy Phật, niệm Phật, chớ lòng luôn theo đuổi ngoại cảnh, hoặc vọng cầu sự linh thính, để người khác khen ngợi mình có tu có chứng..
    3-Thân tâm lễ: Thân tâm đồng lạy, tức ngoài thân tướng trang nghiêm, cung kính, tinh tấn siêng năng, trong tâm luôn tưởng nhớ chư Phật, không một niệm sai khác.
    4-Trí huệ thanh tịnh lễ: Lúc lạy tâm trí yên lặng, trong sáng. Bên trong định huệ gồm đủ, không mảy may tán loạn. Bên ngoài trần cảnh không làm chướng ngại hay chi phối được.
    5-Bình đẳng lễ: Thân tâm đều bình đẳng, đối với vạn pháp lúc nào cũng chẳng rời tánh bổn lai; nhưng cũng không còn tướng nhơn ngã, xem vạn vật đồng nhất thể. Cho nên khi lạy một Đức Phật, tức cảm thông hết mười phương chư Phật.
    6-Chánh quán lễ: Lạy Phật bằng cách quán xét pháp thân toàn giác của mình, tức nhiếp tâm chánh niệm; tuy lễ bái chư Phật mà cũng lễ bái Phật thân của mình, lòng không còn nhiễm ô trần trược. Pháp thân mình cùng Phật đều hòa nhau tự tại giải thoát.
    7-Thật tướng lễ: Lạy cách trở về thật tướng chơn như. Các cách lạy trước đây còn thấy có lễ, có quán, có tu, mình và chư Phật có khác; giờ đây gom về một, mình và Phật cũng không, phàm Thánh một nguồn, thể dụng chẳng phải hai “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản”.
    Tóm lại trong bảy cách lễ bái trên đây, hai cách đầu gọi là Tà lễ, hành giả nên diệt trừ. Vì nếu khi lạy tâm còn cầu danh, ngã mạn thì dù có lạy cũng luống công. Còn năm cách sau gọi là Chánh lễ, tức từ “Thân tâm đồng nhứt, trí huệ thanh tịnh, bình đẳng, chánh quán và thật tướng”. Nhà tu rán rèn tập cho lòng có được như vậy tức mình và Phật không sai khác, ấy là kết quả. Đức Thầy nay cũng dạy từ chỗ:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”, đi lần đến chỗ:“Vô Pháp tướng mới là thiệt tướng”. :“Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu”.

    CÂU HỎI
    1/-Giải nghĩa từ câu trong bài “Tây phương Ngũ nguyện” ?
    2/-Hãy cho biết dụng ý trong bài Tây phương Ngũ nguyện ?
    3/-Tại sao xá chính giữa và hai bên niệm danh hiệu Phật lại khác nhau như thế ?
    4/-Hãy sơ lược sự tích Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát ?
    5/-Sự tích Quan Thế Âm Bồ Tát như thế nào ?

    6/-Giải nghĩa chữ cúng lạy, kể rõ 7 cách lạy ?

    3- BÀN THÔNG THIÊN

    CHÁNH VĂN
    Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.
    Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Qui-Y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-phương ngũ nguyện. (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).
    (Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá)

    Lạy đứng hay lạy quỳ tùy theo lúc yếu mạnh.

    LƯỢC GIẢI
    Lạy bàn Phật (Tam Bảo) xong, ra bàn Thông thiên cũng cầm hương xá 3 xá, quì xuống chấp tay đưa lên trán nguyện đọc bài Qui y; rồi xá xuống, cắm hương đứng ngay thẳng chấp tay vào ngực đọc tiếp bài “Tậy phương ngũ nguyện” và lạy 4 lạy rồi cũng xá 3 xá chính giữa và 2 bên…Nên nhớ khi xoay lạy 4 hướng cũng phải xoay theo chiều thuận từ phải sang trái.
    Lạy thì có 2 cách:“Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh”. Lạy 4 hướng và mỗi hướng lạy 4 lạy cũng có ngụ ý là đền đáp “Tứ Ân”.
    -THỜI GIAN LỄ BÁI:
    Căn cứ vào các đoạn Giảng, Đức Thầy đã dạy, như:
    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.
    Và:
    “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.

    Vậy là người tín đồ PGHH mỗi ngày lễ bái hai thời: Sáng và Chiều. Lúc mới khai Đạo, Đức Thầy chưa ấn định hai thời cúng từ giờ nào đến giờ nào, nên sau nầy trong Đạo có người cúng thời chiều quá sớm (mặt trời chưa lặn). Còn thời sáng thì quá trễ (6-7 giờ còn đứng ngoài bàn Thông thiên). Do đó, đến thời kỳ Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương, có họp bàn và phân định giờ cúng:
    SÁNG: Vào khoảng 4 giờ đến 6 giờ.
    CHIỀU: Vào khoảng 18 giờ đến 20 giờ (tức 6 giờ tới 8 giờ tối).
    Thấy ra cúng khoảng các giờ nầy rất thích hợp và phương tiện cho người Cư sĩ tại gia ! (Theo lời Đức Ông – thân sinh Đức Thầy – và các ông Nguyễn Chi Diệp, Huỳnh Hữu Phỉ…kể lại thì Đức Thầy không cho lễ bái 12 giờ đêm (giờ Tý). Còn giờ Ngọ (12 giờ trưa) thì Ngài mặc nhận, không ép mà cũng không cấm tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Miễn 2 giờ chánh: sáng và chiều đừng bỏ sót là tốt.)

    CHÚ THÍCH

    BÀN THÔNG THIÊN: Bàn thờ thông lên Trời cũng gọi là bàn thờ cộng đồng Tam Giáo (Phật Thánh Tiên). (Xem thêm phần CT ý nghĩa 3 ngôi thờ cúng ở đoạn dưới: Mục thờ phượng).
    LẠY ĐỨNG: Lúc lạy đứng bàn tay trái để nơi ngực, bàn tay mặt chỏi nghiêng rồi từ từ cúi mình xuống, lật ngửa hai bàn tay lên, trán úp sát xuống, hai cùi chỏ xuống tới chiếu và đụng 2 đầu gối, hai chơn xuôi thẳng ra sau và khít lại:“Ngũ thể đầu địa” (cái đầu và 2 đầu gối, 2 cùi chỏ, 5 cái đều sát chiếu).

    Lúc đứng lên, bàn tay trái đem vào ngực, bàn tay mặt chống để nương mình lên. Khi đứng thẳng hai tay liền chấp vào ngực xá 1 xá rồi mới lạy tiếp theo như trước cho đủ 4 lạy.
    LẠY QUÌ: Hai tay chắp từ trên trán lạy xuống, lúc ngẩng lên cũng cho đến độ thẳng lưng (quì thẳng chớ không phải quì ngồi), hai bàn tay chắp vào ngực rồi đưa lên tới trán đoạn đem vào ngực mới lạy xuống.
    CÁCH XÁ: Khi muốn xá chắp tay vào ngực rồi đưa lên trán, tay cũng để sát ngực, mỗi xá niệm một câu niệm Phật. Không nên xá lia lịa niệm Phật theo không kịp.

    CÂU HỎI
    -Khi đến Bàn Thông Thiên phải nguyện và lạy như sao ?
    -Cách lạy đứng ra sao ?
    -Cách lạy quì như thế nào ?

    -Cách xá ra sao ?

    4- NIỆM PHẬT

    CHÁNH VĂN
    Cúng xong, muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

    Hay niệm: Nam Mô Tây-Phương Cực-lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.
    (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm)
    Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc.

    LƯỢC GIẢI
    Bài niệm Phật tạm chia làm 4 phần:

    1- Niệm Phật theo thời khắc: Sau mỗi thời cúng thường lệ, mỗi tín đồ đều ngồi niệm Phật với tư thế bán già, tức chân mặt gác lên chân trái, hai tay chấp vào ngực hoặc xòe ra để chồng lên nhau như hai chân. Lưng phải thẳng, vì nếu lưng cong thì ngồi lâu bị bịnh tức ngực và dễ hôn trầm. Ngồi tư thế nầy tức là theo cách hàng ma của Ngài Văn Thù Bồ Tát. Thời gian niệm Phật lâu hay mau, tùy theo sức khỏe của mỗi hành giả, chớ không cố định, nhưng có điều là:“Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi”.( ĐT)
    2- Niệm liên tiếp không ngừng nghỉ: Tức đi, đứng, nằm, ngồi, uống ăn ngủ nghỉ và trong mọi công tác sinh hoạt: cuốc đất, làm cỏ, quét nhà, nấu cơm…người tu đều niệm Phật được cả. Đức Thầy hằng khuyên:
    “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.

    Thì hiền lương quên mất điều tà,
    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.

    Và:
    “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.
    3- Niệm Phật thầm: “Lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm”. Đây là Đức Thầy dạy chúng ta niệm Phật trong tâm tức niệm thầm, niệm bằng tâm tưởng; khi đó tâm ta mắc tưởng nhớ Phật còn rảnh đâu mà vọng nghĩ chuyện khác. Hơn nữa lúc niệm Phật thầm, mắt ta xoay cái ngó vào trong để kiểm soát tâm ý mình một cách chặt chẽ không hề để vọng niệm xen tạp. Tai ta cũng xoay cái nghe vào trong để nghe rõ từ câu, từ tiếng niệm Phật. Lúc ấy dầu có bao nhiêu tiếng động bên ngoài, tâm ý mình cũng không xao động tán loạn. Đây là lối tu “Phản văn, văn tự tánh” của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thực hành và đã kết quả.

    Tóm lại, Đức Thầy có thực nghiệm và chứng đắc mới dạy tín đồ cách niệm Phật thầm. Nếu ai cố gắng thực hành, chắc chắn tâm trí mau thanh tịnh và sáng tỏ.
    4- Niệm Phật cả hai câu “Lục tự” và Tây phương Cực Lạc Thế Giới tam…: Sở dĩ Đức Thầy dạy tín đồ niệm Phật như vậy, là vì nếu chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì chúng ta chỉ cầu Đức Phật A Di Đà tiếp độ cho cá nhân mình thôi. Như vậy mới được phần tự giác.
    Còn chúng ta niệm luôn câu:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…” là cầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc và Đức Phật A Di Đà tiếp độ cả vạn loại chúng sanh. Đây là được thêm phần giác tha. Bởi Đức Thầy dạy chúng ta vừa tu cho mình (tự giác) và vừa tu cầu cho mọi người mọi giới (giác tha) để đạt đến “Giác hạnh Viên mãn”.
    Tự giác, giác tha Ta phải nói”.( ĐT)
    Tóm lại, Đức Thầy dạy tín đồ bài niệm Phật nầy có dụng ý: tuy người tu mang hình thức tại gia, nhưng thực hành pháp Đại thừa Bồ Tát Đạo, như Ngài từng bảo:
    “Say Đạo huyền vi nước tịnh dương,

    Say câu Bồ Tát rưới cho thường”.

    CHÚ THÍCH
    NIỆM PHẬT: Do chữ “niệm Phật ức Phật”. Có nghĩa niệm Phật để tưởng nhớ Phật và làm theo hạnh Phật. Song chữ niệm Phật có hai nghĩa: Sự và Lý,
    1-VỀ SỰ: là dùng tâm tưởng nhớ Phật để chừng bỏ xác được sanh về cõi Phật, như Đức Thầy đã bảo:
    “Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,
    Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.

    Ví như hai người, người nầy nhớ người kia mà người kia không nhớ lại thì chẳng khi nào gặp nhau. Bằng hai người đồng nhớ thì sớm muộn gì cũng gặp. Phật lúc nào cũng nhớ thương chúng sanh mãi trôi lăn trong vòng khổ, nên hằng tìm kiếm cứu vớt đem về. Thế mà chúng sanh không chịu nhớ Phật thì chẳng bao giờ được gặp. Bằng chúng sanh biết nhớ Phật liên tục, tức đặng gặp Phật tiếp độ.
    Theo nghĩa nầy người niệm Phật phải thành tâm khẩn thiết, nhớ Phật như con nhớ cha mẹ, kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu thì điều vãng sanh Cực Lạc sẽ chắc chắn như lấy đồ trong túi.
    2-VỀ LÝ: là mượn tiếng niệm Phật để trừ hết vọng niệm phiền não, tức tâm bình tịnh, huệ nhựt hiện bày, và được trở về với tánh toàn giác, hay bản lai thanh tịnh của chính mình. Ví như ly nước đục lọc hết cặn cáu, còn lại chất nước trong. Bởi ngoài vọng tâm không có Phật, ngoài phiền não không có “Bồ Đề”, “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”.(ĐT)

    Người niệm Phật theo nghĩa nầy sẽ trực kiến:“Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” mà thành quả giải thoát tại thế gian. Như Đức Thầy đã dạy:
    “Tu cầu Phật hóa tánh tình,
    Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.

    CÂU HỎI
    1/-Tạo sao Đức Thầy dạy khi cúng xong muốn niệm Phật cũng được mà không bảo cần phải niệm Phật ?
    2/-Đức Thầy dạy cách ngồi niệm Phật ra sao ?
    3/-Ngoài câu Nam Mô A Di Đà Phật, Đức Thầy còn dạy niệm câu gì nữa ?
    4/-Lý do nào Đức Thầy dạy niệm luôn 2 câu như vậy ?
    5/-Niệm Phật sau thời cúng, Đức Thầy còn dạy niệm lúc nào nữa chăng ?
    6/-Niệm Phật có mấy phần, hãy cho biết phần 1 và 2 ?
    7/-Phần 3 và 4 của sự niệm Phật ra sao ?
    8/-Cho biết ý nghĩa của từ niệm Phật, sự lý ra sao ?

    5- KHI ĂN CƠM – 6- ĂN CHAY – 7- ĐI XA NHÀ.

    CHÁNH VĂN
    Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy, đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo.

    ĂN CHAY.
    Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy
    Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29-1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không.

    Hàng năm, đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi.
    ĐI XA NHÀ.

    Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.

    LƯỢC GIẢI
    Ba đề mục trên đây, chúng tôi chỉ chú thích các từ ngữ, nhưng cũng bàn về tục lệ chung quanh ba ngày Tết. Theo ý Đức Thầy dạy thì hãy bỏ các tục lệ dị đoan mê tín, chỉ giữ lại những tục lệ chơn chánh như:
    -Chiều 29 hoặc 30 năm cũ (tùy theo tháng 12 đủ thiếu) giữ tục cúng ông bà (CHTT) (cúng chay), 12 giờ đêm 30 Tết cúng rước giao thừa, nhưng không nên dựng nêu, treo bùa hay đốt pháo…Ngày mùng ba chỉ dùng bông hoa cúng tế Trời Phật, chớ không nên sát sanh gà vịt, coi giò, coi đầu chi hết. Không nên đốt hoặc dán giấy vàng bạc. Không rượu chè say sưa, cờ bạc, đá gà…

    CHÚ THÍCH
    ĂN CHAY: Cũng viết là ăn trai, tức là không ăn những vật có mạng sống (hữu tình), mà chỉ ăn những vật không có mạng sống (vô tình), như: rau cải, trái củ và tương chao, đậu hủ…

    Ăn chay đối với ăn mặn, cho nên mục đích của sự ăn chay là để tăng trưởng lòng nhơn, nuôi dưỡng đức tánh từ bi, diệt tâm tham sát để tránh luân hồi quả báo.
    1- Chay kỳ: Ăn mỗi tháng 4 ngày, như Đức Thầy dạy những người mới tu, hạng thấp nhứt là cũng phải giữ đúng qui tắc:“Chay bốn bữa ấy là qui tắc”.
    Rồi lần lần tiến lên mỗi tháng 6 ngày hoặc 10 ngày hay mỗi năm ăn ba tháng, có 3 cái rằm lớn là: Thượng ngươn (tháng giêng), Trung ngươn (tháng 7), Hạ ngươn (tháng 10). Rồi tùy theo trình độ và lòng nhơn của mình mà tiến lên.
    2- Chay trường: Cũng viết là trường chay, tức là ăn chay suốt luôn không có ngày giờ nào ăn mặn.
    Song nhà tu không chỉ có khẩu chay mà cần phải có tâm chay mới kết quả trọn vẹn. Người giữ tâm chay là giới hạng tinh nghiệm, những tư tưởng tà vạy, bợn nhơ dứt sạch, lòng luôn thanh tịnh ngay chánh:“Từ bi, bác ái. dĩ đức, háo sanh…” Đức Thầy từng dạy:“Tâm chay hậu tấn rán tu thân”. Và:
    Chữ Nam Mô trì giái giữ chay,
    Chay được tánh chay tâm mới quí
    ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là giỗ quảy, đơm cúng trong ngày giỗ. Có nghĩa đem cỗ (các thức ăn) dâng lên bàn thờ cúng ông bà cha mẹ đã qua đời. Đức Thầy có câu:
    “Giường linh đơm quảy mới là,
    Có chi cúng nầy vậy mà dân ôi !”

    BA NGÀY XUÂN NHỰT: Ba ngày Tết, vì ba ngày Tết nhằm đầu mùa Xuân (Tiết nguyên đán). Chữ Tết do chữ tiết đọc trại, xưa người ta kể mùng một, mùng hai và mùng ba, tiếng dùng chỉ chung cho các ngày Tết. Nhưng hiện nay Đức Thầy dạy là 29-30 và mùng một (hai ngày cuối một năm và một ngày đầu năm) Ngài từng nói:
    Nhắn nhủ khắp nơi hỏi một bài,
    Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai”.

    NGUYỆN TƯỞNG TRONG TÂM: Cầu nguyện và niệm Phật thầm trong tâm chớ không đọc lớn tiếng,

    CÂU HỎI

    1/-Người tín đồ PGHH ăn chay kỳ như thế nào ?
    2/-Ba ngày xuân nhựt ta nên giữ và bỏ tục lệ nào ?
    3/-Ăn chay có mấy cách ? Giải ra ?
    4/-Trường hợp đi xa nhà tới giờ cúng làm sao ?

    VIII- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO
    (Tám điều răn cấm)

    CHÁNH VĂN
    Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa-sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn-cấm sau đây:
    Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ-bạc, á-phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân-lý tam- cang ngũ-thường.


    LƯỢC GIẢI
    PHẦN MỞ ĐỀ
    Xưa người tu Phật khi đặt chân vào cửa Đạo, ai cũng chuyên trì giới luật, như hàng Cư sĩ thì giữ Ngũ giới. Còn hàng xuất gia, tỳ kheo giữ 250 giới, tỳ kheo ni giới 348 giới.
    Đúc Thầy nay trong bài “Lời khuyên Bổn đạo”, Ngài dạy toàn thể tín đồ giữ Bát giới, tức “Tám điều răn cấm”. Ngài bảo: Khi xem Kệ Giảng và qui y thì mỗi người phải tự xét thân tâm mình, nếu còn xấu xa tội lỗi thì chừa hẳn và giữ gìn đừng để vi phạm Tám điều răn cấm như sau:

    1-ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NHỨT
    Trong điều thứ nhứt, Đức Thầy dạy có 2 phần:
    a)- Phần thứ nhứt: Phải xa lánh Tứ đổ tường tức: tửu, sắc, tài, khí, và nếu ai còn đắm mê các món đó thì sống cuộc đời hư hỏng, bê tha vất mã, trụy lạc, hoang đàng, trà đình tửu điếm, rồi nảy sanh muôn điều tội lỗi khác.
    Sa bốn vách mang điều nhơ nhuốc”.( ĐT)
    Bằng ai thánh được nó, tức chận đứng được các hột giống tội lỗi trở thành con người tốt đẹp, vượt trên người thường. Đức Thầy từng dạy:
    Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
    Với bốn ma mới đặng an nhàn”.

    b)- Phần thứ nhì: Phải ăn ở đúng theo Đạo lý và xử vẹn ba giềng mối lớn là “Tam Cang”: “Rán giữ gìn luân ký tam cang” và “Ngũ Thường” “Thân làm Đạo ba giềng năm mối”( ĐT) để được xong toàn phần Nhân đạo.
    Chủ đích điều răn cấm thứ nhứt, Đức Thầy muốn răn dạy tín đồ xa lánh Tứ đổ tường và hoàn thành Nhân đạo để làm nền tảng tiến lên Phật Đạo.

    CHÚ THÍCH
    UỐNG RƯỢU: (Xem CT bài “Những điều nên tránh…”, T-1, Q.6).
    CỜ BẠC: Do chữ “Đổ bác”, cũng gọi là bài bạc chơi ăn thua bằng tiền bạc, như: me, đề, tài xỉu, đánh các loại bài, đá gà, đá cá…còn chơi cờ và đua ngựa mà đánh cá bằng tiền bạc cũng gọi là cờ bạc. Tục ngữ thường nói:
    Cờ bạc là bác thằng bần,
    Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm”.

    Bởi cờ bạc hay sanh trộm cướp, nên Cư sĩ Bàn Uẩn Công có răn đời”

    Phàm nhơn bá nghệ hảo tùy thân,
    Đổ bác môn trung mạc khứ thân.

    Năng sử anh hùng vi hạ tiện,
    Giải giao phú quí tác cơ bần”.
    (Phàm người có trăm nghề đều nên đem theo, nhưng cửa cờ bạc thì đừng gần. Vì nghề ấy khiến bậc anh hùng trở nên hèn hạ, kẻ giàu sang thành nghèo khổ, thiên hạ chê cười). Đức Thầy hằng khuyên:“ Đừng chơi cờ bạc đừng làm ác gian”. Và:
    “Cuộc trần ôi quá khổ !

    Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.
    Biết bao người vì nó phải bơ vơ,

    Sự nghiệp hết gia đình tan nát.
    Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát,

    Lành xa trường đổ bác chớ chen chân.
    Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
    Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.
    Chi cho bằng:
    Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    Á PHIỆN: (Xem CT chữ Thuốc phiện bài “Những điều cần TH….T-1, Q.6).
    ĐÀNG ĐIẾM: Cũng gọi là điếm đàng. Trai thì gian tà xảo quyệt, lường gạt chơi bời. Gái thì đĩ thõa, dâm ô, trai gái, bán dâm. Đức Thầy khuyên:
    Điếm đàng đĩ thõa chớ gần,
    Để sau xem thấy non Tần xôn xao”.

    LUÂN LÝ: (Xem CT chữ Luân lý, bài “Ác tà dâm”, T-1, Q.6)
    TAM CANG: Ba giềng mối lớn, tức Vua tôi, Cha con, Chồng vợ. Người chưa có gia đình thì giềng thứ ba là Sư đệ (Thầy trò). Cách đối xử:

    -Một công dân phải tận trung với Đất nước (Tổ Quốc).
    -Con phải hiếu thảo với cha mẹ…(Xem 2 ân trong Bốn ân, T-1, Q.6).
    -Vợ chồng thì ân nghĩa song toàn.
    -Thầy thì tận tâm dạy dỗ, trò phải hết dạ tôn kính phụng hành. Đức Thầy từng dạy:
    Rán giữ gìn luân lý tam cang,
    Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

    NGŨ THƯỜNG: Năm mối thường hằng, gồm có: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy có câu:“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng”.
    NHÂN: là lòng hiếu đạo hay thương người mến vật và tận tâm giúp đỡ những gì lợi lạc cho kẻ khác, không phân biệt đẳng cấp…Đức Thầy dạy:
    Lòng nhơn xin khá tập rèn,
    Thạch Sùng Vương Khải sách đèn ai ưa”.

    NGHĨA: Lòng tốt, hay làm việc phải có ích lợi cho mọi người, đúng theo con đường đạo lý mà không hề vụ lợi. Đức Thầy từng khuyên:
    Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
    Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.
    LỄ: kính ý của con người, từ cách chào hỏi đối đáp với mọi người, dầu nam hay nữ đều có khuôn phép bặt thiệp. Kính người trên, nhường kẻ dưới. Đầy lòng tôn kính các bậc: Phật, Trời, Thần, Thánh.
    TRÍ: Sự sáng suốt. Trước khi nói hay làm việc gì đều dùng trí suy xét cẩn thận, phán đoán công bằng ngay chánh. Như lấy trí nhận xét các thứ: rượu chè, cờ bạc, đàng điếm, hút xách đều có hại cho cơ thể, danh dự, gia đình, đất nước nên nhứt định không đắm nhiễm. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    “Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,

    Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà”.
    TÍN: là lòng tín thành chơn thật đối với Đạo lý chân chánh, với Thầy Tổ sáng lành, với bạn bè trung thực. Trước sau như một không hề thay đổi.
    Tóm lại, khi hành được Ngũ Thường thì không còn vi phạm Ngũ giới, như:
    -Hành được chữ NHÂN thì không Sát sanh.
    -Hành được chữ NGHĨA thì không Đạo tặc.
    -Hành được chữ LỄ thì không Tà dâm.
    -Hành được chữ TRÍ thì không ô nghiễm Tửu, Sắc, Tài, Khí.
    -Hành được chữ TÍN thì không Vọng ngữ.

    CÂU HỎI

    1/-Cho biết lược ý đoạn mở đề Tám điều răn cấm ?
    2/-Ý nghĩa điều răn cấm thứ nhứt ra sao ?
    3/-Chủ đích của điều răn cấm thứ nhứt như thế nào ?
    4/-Định nghĩa chữ Tam cang ?
    5/-Ngũ thường là gì ? Giải ra ?
    6/-Hành được Ngũ thường đặng lợi ích gì ?

    2- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NHÌ

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ nhì: Ta chẳng nên lười-biếng, phải cần-kiệm, sốt-sắng, lo làm ăn và lo tu-hiền chơn chất, chẳng nên gây-gổ lẫn nhau, hãy tha-thứ tội-lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

    LƯỢC GIẢI
    Đại lược điều răn cấm thứ nhì có hai ý:
    a)- Ý thứ nhứt: Đức Thầy dạy tín đồ trong việc làm ăn cần bỏ tánh biếng lười, giải đãi và phải siêng năng tiết kiệm. Vì nếu siêng năng mà không tiết kiệm thì dầu làm được bao nhiêu tiền của cũng xa hoa phung phí hết. Điều cần nhớ tiết kiệm không phải là hà tiện, mà là biết cách xài tiền, việc nào đáng xài thì xài, việc không đáng xài thì dành lại để thi hành việc công ích.
    Song không chỉ có làm ăn suông, mà phải tinh tấn tu hành, vì lo làm ăn mà chẳng lo tu hiền thì suốt đời chỉ đem thân phục vụ cho vật chất, rồi vương nhiều nghiệp tội, rốt cuộc:“Nhắm mắt cũng nắm hai tay”( ĐT). Còn linh hồn phải luân chuyển báo đền. Bằng tu hành mà không lo làm ăn thì đâu có tiền của để sống và giúp đời, thế cũng không an tâm tu niệm, nên Đức Thầy dạy:“Hãy sốt sắng làm ăn cần thiết”.

    b)- Ý thứ hai: Là không nên oán hận, thù hiềm hoặc gây gổ với mọi người dù ở trong thân tộc hay ngoài xã hội. Hãy mở lòng thương yêu, nhẫn nhịn và khoan dung những kẻ lầm lỗi. Đức Thầy khuyên:
    “Ta thường nên tập tánh khoan dung,
    Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.

    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.

    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo”.

    Chủ đích điều răn cấm thứ nhì là, Đức Thầy dạy tín đồ bỏ tánh lười biếng, giải đãi, hẹp hòi, sân hận, mà phải rèn luyện các đức tánh: tiết kiệm, tinh tấn, bi mẫn, khoan dung.

    CHÚ THÍCH
    CẦN KIỆM: Siêng năng và tiết kiệm. Chỉ cho người biết xài tiền, gặp việc đáng xài mới xài, chớ không xài hoang phí. Đức Thầy hằng khuyên:
    Khuyên đừng xài phí xa hoa,
    Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.

    TU HIỀN: (Xem CT chữ nầy, bài “Những điều ….”, T-1, Q6)
    NÓNG GIẬN: (Xem CT chữ nầy, bài LVTN…, T-1, Q.6).


    3- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ BA.

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ ba: Ta chẳng nên ăn-xài chưng dọn cho thái-quá và lợi-dụng tiền tài mà đành quên nhơn-nghĩa và đạo- lý, đừng ích-kỷ và xu-phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

    LƯỢC GIẢI
    Đại lược điều răn cấm thứ ba có ba ý:
    a)- Ý thứ nhứt: Đức Thầy răn tín đồ không nên ăn xài phung phí, chưng diện lòe loẹt từ y phục đến nhà cửa, vì:
    “Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh,
    Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt”.( ĐT)
    Đành rằng người ta phải ăn để sống, mặc để kín thân. Song nếu ăn diện thái quá thì có hại về sau:“Khi lành dành khi đau”, tục ngữ thường nói như vậy. Như Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:
    “Lo ăn xài trà rượu xình xoàng,
    Chừng khổ não phàn nàn căn số”.

    Và: “Nào lụa là lãnh nhiễu tố sô,
    Chớ ham mến mà sau lao lý”.

    Hơn nữa trong thời đại chiến tranh loạn lạc, địa ách thiên tai xảy ra liên tiếp, biết bao người cửa nhà tan nát, đói đau rách rưới mà chúng ta là người có trách nhiệm thương yêu đùm bọc:“Lá lành đùm lá rách”(Tục ngữ) Đức Thầy hằng cảnh giác:
    Mảng điểm tô huy hoàng nhà cửa,
    Ai khốn cùng để mặc đất trời xây”.
    Thế nên người biết Đạo không nên ăn diện thái quá mà nên sống thanh đạm, để có thì giờ tu học và dư tiền của bố thí, giúp đời.
    b)- Ý thứ hai: Việc làm ích kỷ. Từ chỗ ăn xài chưng diện con người đâm ra ham muốn lợi ích riêng tư rồi nghĩ cách lợi dụng tiền của. Họ lợi dụng lòng tốt của mọi người, của quốc gia, Đạo giáo, không màng nghĩ nhân nghĩa đạo lý là gì. Cho nên Đức Thầy khuyên tín đồ dầu gặp cảnh nào cũng rèn lòng chân chánh ngay thật ăn ở đúng theo đạo lý:
    “Ở trần xử trọn nghĩa nhân,
    Quyết làm tôi Phật gởi thân liên đài”.
    c)- Ý thứ ba: Bởi lòng tham lam ích kỷ có sẵn, lúc nào người ta cũng muốn danh cho lớn, lợi cho nhiều. Nên thường bưng bợ kẻ giàu sang, quyền tước, phụ bạc người nghèo khổ, thấp kém. Để chừa tánh xấu ấy, Đức Thầy dạy chúng ta:
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào ?
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.

    Và giữ lòng cương trực đối với mọi người, dù giàu sang hay nghèo khó, đều xem bình đẳng như nhau:
    “Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.
    ( ĐT)
    -Chủ đích điều răn cấm thứ ba, Đức Thầy dạy tín đồ rứt bỏ các tật ăn xài chưng diện, lợi dụng tiền tài, tham lam ích kỷ, xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó. Hãy tu tập cho mình có những đức tánh: thanh đạm, chơn thật, ngay chánh và cương trực, bố thí.

    CHÚ THÍCH

    THÁI QUÁ: Quá chừng mực, vượt lên mức thường.
    NHƠN NGHĨA: (Xem CT chữ nầy ở “Điều răn cấm thứ nhứt”).
    ĐẠO LÝ: (Xem CT chữ nầy bài “Cách thờ phượng” T-1, Q.6).
    ÍCH KỶ: Cũng gọi là vị kỷ. Có nghĩa chỉ lo lợi riệng cho mình, ai sao cũng mặc.
    XU PHỤNG: Hùa theo tâng bốc.
    PHỤ: Ở bạc, búng rảy, khinh thường.

    CÂU HỎI
    1/-Điều răn cấm thứ ba có mầy ý và ý thứ nhứt ra sao ?
    2/-Ý thứ nhì là gì ?
    3/-Ý thứ ba như thế nào ?
    4/-Chủ đích của điều răn cấm thứ ba ra sao ?

    4- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ TƯ

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hoặc nguyền-rủa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta.

    LƯỢC GIẢI
    Đại lược điều răn cấm thứ tư gồm có hai phần:
    1)- Phần thứ nhứt là những lời nói ác: Từ lâu người nước ta, nhứt là giới nữ hễ giận hoặc ghét ai hay con cháu thì thường có tật kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai khiến hoặc trù rủa. Đức Thầy đã diễn tả sự trạng ấy:
    “Trong gia đình chửi rủa liên miên,
    Hết dương thế kêu sang Thần Thánh.
    Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
    Cõi Long Cung mời thỉnh tối ngày…”

    Họ dùng lời lẽ như thế đã phạm ác khẩu rất lớn. Bởi:

    Thánh Thần đâu có thiếu tiền,
    Mà kêu mà réo xuống trần mà sai..”.( ĐT)
    Tuy lời lẽ suông, song chuốc lấy tai hại chẳng nhỏ, và sau còn bị trả quả, nên Đức Thầy khuyên:
    “Đời ám u tội trạng thảm thay,
    Khuyên bá tánh bá gia rán bỏ”.
    2)- Phần thứ nhì là phương cách chừa bỏ: Muốn chửa bỏ lời xấu ác nói trên ta phải thay vào lời nói hiền lương đức hạnh, tao nhã thanh bai để đối xử với mọi người. Đức Thầy dạy:
    “Kể từ nay phải giữ cho tròn,
    Không chừa dứt ắt mang tai ách.

    Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.

    Chủ đích của điều răn cấm thứ tư Đức Thầy dạy tín đồ chừa Ác khẩu và hành Chánh ngữ.

    CHÚ THÍCH
    NGUYỀN RỦA: Chưởi rủa, dùng lời độc địa để trù rủa người khác phải chết hay bị tai nạn.
    CAN PHẠM: Dính dáng hay mắc vào.

    CÂU HỎI
    1/-Đại ý điều răn cấm thứ tư có mấy phần ? Và phần thứ nhứt ra sao ?
    2/-Phần thứ hai như thế nào ?
    3/-Chủ đích điều răn cấm thứ tư Đức Thầy dạy ta những gì ?

    5- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NĂM

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát-sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối-lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.

    LƯỢC GIẢI
    Điều răn cấm thứ năm có ba ý:
    a)- Ý thứ nhứt là bớt sát sanh: Bởi hạng sơ cơ hành Đạo chưa thể trường chay giới sát được, nên phải còn ăn chay kỳ, tất phải còn làm thiệt hại mạng sống các sanh vật hoặc nhiều hoặc ít. Cho nên Đức Thầy dạy tín đồ, trước tiên nên cữ ăn những con vật quan trọng có công ơn với đời:“ Đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo chẳng khá sát hại vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sinh hoạt hằng ngày”. Từ chỗ biết ơn tiến tới lòng nhơn và từ bi, bình đẳng (trường chay).
    b)- Ý thứ nhì là không giết sanh vật cúng tế: Vì các bậc Thần Thánh ở cảnh giới siêu hình chẳng có xác thể như loài người, và mọi cảnh giới đều có thức ăn riêng, đâu dùng vật thực như chúng ta. Hơn nữa các Ngài từ nơi có lòng ngay thẳng công bình yêu dân ái quốc mới thành. Các Ngài có bổn phận ủng hộ chúng sanh, chớ đâu có vì ăn đồ cúng kiếng mà ban phước, hay thiếu lo lót mà giáng họa:
    “Đấng thần minh công bình trực dạ,
    Đâu ăn lo đổi họa làm may
    .( ĐT)
    Căn cứ vào luật nhân quả, ai làm lành hưởng phước, tạo ác mang tai, sát sanh hay bịnh tật và chết yểu:
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
    Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác”.
    ( ĐT)
    Cho nên Đức Thầy hằng khuyên dạy môn đồ:
    “Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,
    Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.
    ( ĐT)
    c)- Ý thứ ba là nhận định tà chánh: Nếu chúng ta còn mê tín giết sanh vật cúng Thần Thánh để cầu phước thì chỉ có Tà thần hưởng thôi ! Mà hễ họ hưởng được một lần tất ăn quen, tìm cách phá khuấy ta nữa. Thử xét việc thế gian là biết: hễ có quan thanh liêm thì cũng có hạng quan ăn hối lộ. Họ mang hình thức giống nhau, nhưng tâm ý có kẻ tà, người chánh. Vì thế, Đức Thầy khuyên:
    “Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
    Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”.

    -Chủ đích điều răn cấm thứ năm là Đức Thầy muốn dạy tín đồ bớt sát sanh và bỏ sự tin mù quáng. Hãy tập đức hiếu sanh và tin đúng lý nhân quả.

    CHÚ THÍCH
    THÁNH THẦN: (Xem CT bài “Ác sát sanh”,T-1, Q.6).
    NHIỄU HẠI: Khuấy rối, gây khổ nạn.

    CÂU HỎI
    1/-Điều răn cấm thứ năm có mấy ý ? Và ý thứ nhứt Đức Thầy dạy làm gì ?
    2/-Ý thứ nhì Ngài dạy ra sao ?
    3/-Ý thứ ba Đức Thầy bảo làm gì ?
    4/-Chủ đích điều răn cấm thứ năm ra sao ?


    6- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ SÁU

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng-bạc, giấy quần-áo mà tốn tiền vô-lý, vì cõi Diêm-Vương không bao giờ ăn hối-lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng-phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường, đói rách, tàn tật.

    LƯỢC GIẢI
    Điều răn cấm thứ sáu có hai phần:
    a)- Phần thứ nhứt là bỏ mê tín thành chánh tín:
    Điều nầy trước hết Đức Thầy cấm: Không cho tín đồ đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo cho người chết. Trước năm Kỷ Mão (1939) dân ta còn tin tưởng điều rất vô lý là tục lệ đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, vì chưa chịu xét nét rõ ràng. Tục lệ ấy do người Tàu bày ra trong thời nước ta bị họ thống trị.
    Nguyên khởi là do Vương Luân (cháu của Vương Dư) lập mưu với người bạn giả chết, đợi khi đem chôn, Luân bèn đem giấy tiền vàng bạc đến đốt, nói để xin chuộc mạng. Khi đốt xong, bạn của Vương Luân sống lại. Do đó người đời tin theo; thậm chí tín đồ Phật Giáo và Nho Giáo cũng mê tín, thật là điều đáng tiếc. Đức Thầy thường cảnh tỉnh:
    Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
    Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.

    Theo Kinh Phật: Âm Phủ tức là cảnh giới Địa ngục, do Diêm La Vương cai quản rất công bình ngay chính. Những kẻ ở thế gian làm điều tội lỗi có khi qua mắt pháp luật, nhưng lúc chết tới trước Diêm Vương, không dấu được điều nào cả, thế thì làm sao hối lộ cho được. Đức Thầy bảo:
    Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác.
    Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm đình.

    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ”.
    Đã tu hành thì ai cũng muốn cho mình và ông bà cha mẹ được về Tiên Phật, lúc đó lại lo gởi tiền xuống Địa ngục. Tu để đi lên mà tâm nguyện đi xuống, thử hỏi có trái ngược và vô lý không ? Đức Thầy còn giác tỉnh thêm:
    Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
    Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.
    Giấy quần giấy áo không nên đốt,

    Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.
    b)- Phần thứ hai: tiết kiệm để bố thí: Suốt cuộc đời của con người, số tiền dùng vào việc mê tín nói trên không ít, nên Đức Thầy khuyên nhân sanh đừng làm nữa; hãy để dành số tiền lãng phí đó dùng vào việc phước thiện
    “Muốn cho rắn đặng hóa cù,
    Xả thân làm phước Diêm Phù vượt qua”.

    Và:
    “Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
    Mở lòng nhơn tiếp rước mới là”.

    Hoặc là:
    “Nếu đã xả thân tầm Đạo đức,
    Mở lòng bố thí ngộ thần ca”.

    Chủ đích điều răn cấm thứ sáu, Đức Thầy dạy tín đồ phá óc mê tín tà kiến, hãy rèn luyện cho mình được chánh tín, đúng với chơn lý và mở lòng bố thí, vun trồng cội phúc.
    Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông”.( ĐT)

    CHÚ THÍCH
    GIẤY TIỀN: (Xem CT mục Tang lễ, T-1, Q.6).
    VÔ LÝ: Không có lý, không hợp với lẽ phải, không đúng với sự thật (chơn lý).
    CÕI DIÊM VƯƠNG: Cảnh giới địa ngục. Diêm Vương cũng gọi là Diêm chúa hay Diêm La Pháp Vương hoặc là Bình Đẳng Vương. Ngài là vua cõi Thiên ma tức là cõi Địa ngục, Ngài thường khuyên kẻ làm lành và trừng trị kẻ gian ác, nên có danh xưng là Pháp Vương. Ngài luôn lấy lòng bình đẳng, công bằng mà xử trị tội nhân, không hề tư vị một ai nên được xưng tụng là Bình Đẳng Vương. Đức Thầy bảo:
    “Ngục môn đầy quỉ vô thường,
    Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng”.

    TRỢ CỨU: Cũng gọi là cứu trợ. Có nghĩa đem tiền của, vải sồ, lúa gạo, thuốc men giúp cho những người đói rách, bệnh tật, tai nạn…

    CÂU HỎI
    1/-Điều răn cấm thứ sáu có mấy phần, phần thứ nhứt ra sao ?
    2/-Phần thứ nhì Đức Thầy dạy thế nào ?
    3/-Chủ đích điều răn cấm thứ sáu, Ngài muốn dạy tín đồ những gì ?

    7- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ BẢY

    CHÁNH VĂN
    Điều thứ bảy: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo-đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán-đoán việc ấy.

    LƯỢC GIẢI
    Điều răn cấm thứ bảy gồm có hai phần:
    a)- Phần thứ nhứt là suy nghĩ nghiệm xét: Điều nầy Đức Thầy dạy tín đồ hãy dùng chánh trí và chánh kiến mà suy xét, nhận định mọi việc đời cũng như Đạo cho rõ ràng, đúng với sự thật. Việc đời là việc cư xử với mọi người, từ trong gia đình thân tộc, đến ngoài xã hội quốc gia. Đây thuộc phần tu Nhân.
    Việc đạo đức là dùng trí huệ xét nghĩ mọi tư tưởng: lành dữ, chơn vọng, tà chánh trước khi nói hay làm. Đây thuộc phần tu Phật.
    b)- Phần thứ hai là quyết định để thi hành: Tức là sau khi đã suy xét và nhận định một cách sáng suốt, chín chắn hành giả mới nói hay làm, nên không hề bị lầm lẫn đáng tiếc. Việc đời thì phán đoán theo nhân đạo công bình và chánh nghĩa. Còn việc Đạo thì đúng theo chơn lý và vô vi thật tướng không còn lầm lộn trong “Ngũ độn sử” và “Ngũ lợi sử”. Đức Thầy luôn chỉ dạy:
    “Dầu việc người hay việc của ta,
    Nên phán đoán cho tường cho tận.
    Tội với phước xét coi nhiều bận,
    Mới khỏi lầm tà kiến đem vào”.

    Tóm lại, điều răn cấm thứ bảy là chìa khóa giúp cho hành giả mở rộng cửa tâm chơn lý để chứng thành Phật Đạo. Ví như người đi đêm có sẵn ngọn đuốc tột sáng không hề lầm đường lạc nẻo.
    -Chủ đích điều răn cấm thứ bảy là Đức Thầy dạy tín đồ dẹp phá Tà kiến, mê lầm và diệt trừ mười món phiền não căn bản, để rèn luyện cho mình được chánh trí và chánh kiến. Với sức tự lực (Thiền tông) ấy giúp ta tiến tới đạt thành Phật Đạo).


    CHÚ THÍCH
    ĐẠO ĐỨC: (Xem CT trong “Lời nói đầu”, T-1, Q.6).
    MINH LÝ: Dùng như chữ Chánh trí và Chánh kiến. Có nghĩa suy xét mọi việc một cách sáng suốt, chân chánh, không lầm ác kiến và tà kiến gọi là chánh trí (Minh). Phân định mọi việc một cách công bằng đúng với chơn lý, không thiên chấp theo ngụy tà, ác kiến, ấy là chánh kiến (Lý).

    Đức Thầy có câu:
    “Luận bàn chơn lý cho minh,

    Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.
    NGŨ ĐỘN SỬ: Năm món phiền não ngu độn; gồm có:

    1-THAM: Lòng ham muốn quá độ.
    2-SÂN: Tâm nóng nảy thù hận.

    3-SI: Lòng mê tối lầm lỗi (Ba món nầy xem thêm phần Ý nghiệp trong bài “Luận về Tam nghiệp”: háo thắng (?)).
    4-MẠN: Tánh ngã mạn cống cao, tự phụ, háo thắng.
    5-NGHI: Lòng nghi ngờ do dự, không quyết đoán.
    NGŨ LỢI SỬ: Năm món phiền não lanh lợi là:

    1-Thân kiến: Chấp thân ngũ uẩn giả hợp là thật.
    2-Biên kiến: Chấp một bên, như chấp thân nầy còn hoài, hay chấp thân nầy chết đi là hết hoặc chấp có, chấp không…

    3-Tà kiến: Chấp theo các chủ thuyết tà, như mê tín dị đoan, chẳng tin lý nhân quả, ngược lại Chánh kiến.
    4-Kiến thủ: Bảo thủ các điều hiểu biết sai lầm của mình, cho các ý kiến đó là đúng, là phải.

    5-Giới cấm thủ: Chấp thủ các giới lặt vặt vô lý, như: ép xác hành khổ, bớt ăn bớt ngủ hoặc ngủ ngồi không nằm…
    CÂU HỎI
    1/-Điều răn cấm thứ bảy có mấy phần ? Phần thứ nhứt Đức Thầy dạy những gì ?
    2/-Phần thứ nhì Ngài dạy ra sao ?

    3/-Tóm tắt điều răn cấm thứ bảy như thế nào ?
    4/-Hãy cho biết chủ đích điều răn cấm thứ bảy ?

    8- ĐIỀU RĂN CẤM THỨ TÁM


    CHÁNH VĂN
    Điều thứ tám: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu-dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây- phương an-dưỡng mà học Đạo cho hoàn-toàn đặng trở lại cứu vớt chúng-sanh.

    LƯỢC GIẢI
    Điều răn cấm thứ tám gồm có ba ý:

    1)- Ý thứ nhứt là tinh thần thương yêu đoàn kết:
    Bởi Đạo Phật là Đạo từ bi, tình Đạo Phật là tình thương yêu đoàn kết. Chẳng những có tình thương yêu giữa đồng Đạo mà còn thương cả nhân loại:“Nếu thiệt người thì biết thương người”.

    Vả lại, cây từ bi được mọc lên từ hạt giống tình thương (lòng nhơn), rồi trổ quả Bồ đề (chánh giác). Cho nên muốn được kết quả Phật, hành giả phải có tình thương là trước nhất, song tình thương yêu phải đặt cho đúng chỗ. Đức Thầy cho biết:
    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.
    Tình thương phải thương nhau như ruột thịt: như một bàn tay có năm ngón, rủi có một ngón bị đứt hay gãy đi, cả bàn tay đều bị đau. Thế nên ta và mọi người không thể phân chia thù ghét mà phải thương yêu đoàn kết lẫn nhau:“Ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy”.( ĐT)

    2)- Ý thứ hai: thể hiện lòng giác tha: tức là:“…dìu dắt lẫn nhau vào con đường Đạo đức…”.Bởi chỉ có con đường Đạo đức mới giúp cho ta và mọi người hết khổ. Nếu ta có được lòng tự giác và tình thương mà không thể hiện với mọi người thì còn trong vòng ích kỷ tu thân, nên ta phải thấy rằng:“Ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt…”(ĐT) để ta cùng mọi người cùng nương nhau tiến tới chỗ trọn lành trọn sáng, chứng thành Đạo quả như nhau.
    3)- Ý thứ ba: Tu cho mình được trọn lành trọn sáng: Điều nầy Đức Thầy dạy có hai cách:
    I- Cách thứ nhứt: Đáp Tứ ân và diệt Thập ác là Trọn lành. Hành Bát Chánh Đạo là Trọn sáng.
    a)- Vậy ai muốn cho mình được trọn lành phải ngăn ác và hành thiện. Vì nguyên nhân của luân hồi sanh tử là do 10 điều ác, chính nó là nghiệp nợ (nợ do mình gây tạo), nên khi trừ dứt nghiệp nợ gọi là ngăn ác. Còn đáp Tứ ân là trả được ân nợ (nợ do mình thọ ân) và còn tạo được vô lượng phước đức nên gọi là hành thiện.

    Lại nữa người tu ví như kẻ làm ruộng:“Phải ăn năn phước điền tạo tác”, song muốn ruộng kết quả, trước phải nhổ cỏ (ngăn ác) rồi mới đem lúa gieo vào (hành thiện thì ruộng mới trúng). Bằng gieo lúa mà không làm sạch cỏ thì cỏ ăn hết lúa. Thế nên Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn nhân Đạo phải giữ vẹn Tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”. Đây thuộc phần tu nhân, và có ngăn ác và hành thiện được mới gọi là trọn lành.
    b)- Muốn được trọn sáng hành giả phải hành “Bát Chánh Đạo” và “Niệm Phật”. Đây thuộc phần “Học Phật” tức tu Phật. Bởi hành giả có diệt trừ vọng niệm phiền não tâm mới thanh tịnh và trí huệ phát khai (trọn sáng) nên phải trì hành Bát chánh. Vì trong đây có những Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định. Sáu cái chánh nầy giúp ta diệt hết phiền não, tán loạn, tức:“Tâm bình tịnh được thì phát huệ”. Hoặc hành giả chuyên tâm niệm Phật để trừ vọng niệm chúng sanh (phiền não) cho đến khi “Nhứt tâm bất loạn” và được đồng hòa với “Bản lai thanh tịnh” tức trí huệ sáng mầu, ấy gọi là Trọn sáng.
    II- Cách thứ hai là tu theo ba điều cần yếu của Đức Thầy chỉ dạy:“Làm hết các việc từ thiện” và “Tránh tất cả điều độc ác” là trọn lành. Còn “Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch” là trọn sáng.
    -Đại lược ý thứ ba là nếu người tu được trọn lành trọn sáng, dù chưa đắc Đạo tại thế gian cũng được vãng sanh về Cực Lạc và sau khi hoàn thành Bồ Tát Đạo thì trở lại cứu độ chúng sanh.
    -Chủ đích điều răn cấm thứ tám, Đức Thầy dạy tín đồ tu pháp môn Tịnh Độ: Niệm Phật làm lành, tránh ác và diệt trừ phiền não…Đồng thời hãy mở lòng thương yêu đoàn kết, tự giác, giác tha, để tiến tới trọn lành trọn sáng (giác hạnh viên mãn).

    ĐOẠN KẾT TÁM ĐIỀU RĂN CẤM

    CHÁNH VĂN
    Tất cả thiện nam tín nữ trong Tôn-giáo nhà Phật lúc rảnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ-gìn phong-hóa nước nhà, giữ những tục-lệ chơn- chánh, bỏ tất cả những sự dị đoan mê tín thái quá mà làm cho đạo-đức suy-đồi.
    Đạo pháp thường hay dung với hoà,
    Xét người cho tột, xét thân ta.

    Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
    Ta thứ được người, người thứ ta.


    LƯỢC GIẢI
    Theo chúng tôi được biết cũng như nhiều đồng Đạo xác định thì đoạn kết của Tám điều răn cấm trước kia, không có bài thi “Đạo pháp thường hay dung với hòa…” mà sau chót bài “Lời khuyên bổn đạo” bên “Thi Văn Giáo Lý” lại có bài thi nói trên; nên ở đây chúng tôi không lược giải, để sau nầy sẽ giải chung với bài “Lời khuyên bổn đạo”.
    -Còn điều nữa: Theo Ông Đặng Thành Tựu cho biết: lúc ông chép “tám điều răn cấm” tại Tổ đình (1939) thì đoạn kết bây giờ còn thiếu ba hàng, gồm 33 chữ. Có lẽ Ban sưu tập làm sót. Nay tôi xin chép vào đây để chư tín hữu nghiệm xét, ai muốn học hay không tùy ý (sau nầy có dịp chúng ta sẽ nghiên cứu, bàn thảo lại). 33 chử đó như sau:
    “Trong các điều răn cấm và yếu lý chỉ dạy trên đây, mong rằng các thiện nam tín nữ rán ghi nhớ mà hành y hầu có lần bước lên đường giải thoát”.

    CHÚ THÍCH
    THIỆN NAM TÍN NỮ: (Xem CT bài “Ân đồng bào…” T-1, Q.6).

    PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa tốt đẹp của nước nhà từ trước. Đức Thầy dạy:
    “Rán giữ gìn phong hóa nước nhà”.

    SUY ĐỒI: Sụp đổ, tệ hại.
    YẾU LÝ: Lý lẽ cốt yếu. Tuy nói ít, nhưng gom hết phần cần yếu trong đó.

    CÂU HỎI

    1/-Điều răn cấm thứ tám có mấy ý ? Ý thứ nhứt ra sao ?
    2/-Ý thứ hai Đức Thầy dạy những gì ?
    3/-Ý thứ ba có nghĩa như thế nào ?
    4/-Hãy cho biết chủ đích của điều cấm thứ tám ?


    CÔNG DỤNG TÁM ĐIỀU RĂN CẤM
    Nghiên cứu qua Tám điều răn cấm của Đức Thầy chỉ dạy, tuy thấy đơn giản, nhưng công năng và diệu dụng rất sâu rộng và mầu diệu vô cùng. Tạm chia làm bốn phần như sau:
    1-Bảo trợ “Tôn chỉ Học Phật Tu Nhân”: Một con lộ có hai bờ lề, cây cầu có hai hàng lan can để bảo vệ người đi và xe cộ khỏi vượt ra ngoài, phải sa xuống hầm hố hiểm nguy…
    Con đường đạo mà Đức Thầy đã khai vạch:
    Đạo là vốn thiệt cái đàng,

    Ta ra sức dọn cho toàn chúng sanh”.
    Ấy là tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” cho toàn thể tín đồ, y cứ theo đó mà tu tiến không bị lệch lạc. Ngài cho đóng hai bên lề hai hàng rào, để bảo trợ tức là Tám điều răn cấm. Như đã thấy điều răn cấm thứ nhứt vừa giúp cho hành giả hoàn thành Nhân Đạo, vừa làm nền tảng bước lên Phật Đạo, như xa lánh Tứ đổ tường và giữ tròn luân lý “Tam cang ngũ thường” mà trong ngũ thường lại có chữ Nhân, chữ Trí. Nhân là hột giống từ bi (Phật). Còn Trí là ngọn đuốc soi sáng lối đi ra khỏi sanh tử.
    “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,
    Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.
    ( ĐT)
    Đã có nền tảng căn bản (điều 1) thì từ điều 2 tới điều 6 Ngài dạy tín đồ phá trừ dị đoan mê tín và rèn luyện các đức tánh thiện mỹ khác để chuyển sang điều 7 và điều 8 hoàn thành Phật Đạo.
    2-Tóm lược yếu pháp PGHH: Nghiên cứu qua Giáo lý PGHH ai cũng thấy Đức Thầy đưa ra một diệu pháp cốt yếu cho chương trình tu Phật (Học Phật) là “Thiền Tịnh song tu”. Tức là hành giả vừa tu tự lực và vừa tu cầu tha lực. Thế nên trong điều 7 Ngài dạy tín đồ dùng sức tư duy (suy xét) của mình mà phát triển chánh trí, mới phá tan các phiền não ác kiến để được cái nhìn Chánh kiến, đúng với sự thật (chơn lý) không còn lầm lạc trong luân hồi sanh tử. Ấy gọi là “Thiền Tông”.

    Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.
    ( ĐT)
    -Đến điều răn thứ tám Đức Thầy dạy tín đồ tu cầu tha cứu, tha độ (Tịnh độ). Trước nhứt mở lòng vị tha bác ái, thương yêu đoàn kết với mọi người, để dìu dắt lẫn nhau cùng tu cùng tiến. Nhứt là chuyên tâm niệm Phật, làm lành cho đến khi được trọn lành trọn sáng. Nếu chưa thành Đạo tại thế gian cũng được oai đức của Phật A Di Đà tiếp độ về cõi Cực Lạc. Đức Thầy từng dạy:
    “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ.
    Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
    Nếu như ai cố chí làm lành

    Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.
    Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
    Dầu Tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh.
    Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

    Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”.
    3- Gồm đủ giới luật cho các hàng tu chứng: Xưa nay người tu có nhiều hạng, sự trì giới tất có nhiều ít khác nhau, như hạng tại gia thì giữ ngũ giới, mà trong điều một nếu ai thi hành được Ngũ thường thì không phạm Ngũ giới.
    Hạng xuất gia giữ 10 giới hay 250 giới hoặc 348 giới…Song dầu có bao nhiêu giới cũng giúp cho hành giả tánh tướng đều thanh tịnh, tức được trọn lành trọn sáng. Thì đây trong điều 7 và 8 giúp cho hành giả tu đạt chánh trí và chánh kiến, dẹp hết 10 món phiền não căn bản (Ngũ lợi sử và Ngũ độn sử). Được vậy thì 8 vạn 4 ngàn trần lao nhiễm não đâu còn. Cho nên nói 8 điều răn cấm có diệu dụng: gồm đủ giới luật cho các hàng tu chứng.
    4- Hàm Nhiếp Tam Tụ Giới của Chư Bồ Tát: Thuở Đức Thích Ca còn trụ thế, Ngài có lên cung Trời Phạm Võng thuyết Kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới” cho chư Bồ Tát nghe và trì hành Đại cương trong đó gồm có 3 phần: “Nhiếp Luật nghi giới, Nhiếp Thiện nghiệp giới, Nhiêu ích hữu tình giới”.

    Nghiên cứu qua Tám điều răn cấm của Đức Thầy dạy rất phù hợp với Tam Tụ giới nói trên.
    a)- Nhiếp luật Nghi Giới: Giữ giới để tránh các điều xấu ác. Trong tứ tướng oai nghi và 3 nghiệp Thân, Khẩu, Ý người tín đồ PGHH lúc nào cũng gìn giữ không để quấy phạm một điều tội ác nào. Như điều 1: tránh xa tửu, sắc, tài, khí; điều 2: bỏ tánh lười biếng, giải đãi, thù hận, sân si; điều 3: trừ lòng tham lam ích kỷ, lợi dụng tiền tài, tham sang phụ khó; điều 4: chừa ác khẩu; điều 5 và 6; không sát sanh và mê tín dị đoan; điều 7: diệt sạch mê si tà kiến (gốc tội lỗi).
    b)- Nhiếp Thiện Nghiệp Giới: Giữ giới để hoàn thành hạnh nghiệp tốt lành. Như điều 1: xử vẹn Tam cang, Ngũ thường; điều 2: tu được các đức tánh thanh đạm, cương trực và chơn chánh; điều 4: hành được chánh ngữ; điều 5: được đức hiếu sanh và chánh tín; điều 6: được tánh tiết kiệm và bố thí; điều 7: được chánh trí và chánh kiến; điều 8: được lòng từ bi và đoàn kết; tự giác giác tha và trọn lành trọn sáng.
    c)- Nhiêu Ích Hữu Tình Giới: Nương giới để làm lợi ích cho các giới chúng sanh. Như điều 5: thể hiện lòng nhơn nghĩa và đức hiếu sanh; điều 5: thực hành pháp bố thí; điếu 8: thi thố đức bác ái vị tha, phát tâm thi hành Bồ tát hạnh, lúc nào cũng muốn mình và mọi người, mọi giới đều được an vui giải thoát.
    Tổng kết Tám điều răn cấm tuy thấy giản dị, nhưng nếu người trì hành chín chắn, sẽ được công dụng vô biên. Như có lần Đức Thầy sắp 8 con số 8 thành bài toán cộng rồi Ngài cộng xuống ra đáp số 1.000, Ngài nói:“ Đây là phần sự của bài toán thôi, còn phần lý của nó là tám điều răn cấm”. Ngài dạy tiếp:“Nếu ai giữ đúng không vi phạm sẽ được 1.000 việc phước nhân. Một ngàn việc phước nhân ấy có diệu năng đưa mình đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực Lạc, giải thoát sanh tử”.
    Tóm tắt, tám điều răn cấm bao hàm đủ muôn hạnh, muôn giới cho người tu. Từ Cư sĩ đến xuất gia từ hàng Thinh Văn đến Bồ Tát, tùy theo tâm đức và công năng thọ trì của mỗi hành giả mà hạng nào cũng được kết quả như ý.

    CÂU HỎI
    -Công dụng tám điều răn cấm có mấy phần ? Phần thứ nhứt ra sao ?
    -Phần thứ nhì như thế nào ?

    -Phần thứ ba có ý nghĩa gì ?
    -Phần thứ tư ra sao ?
    -Tổng kết tám điều răn cấm như thế nào ?
    -Tóm tắt tám điều răn cấm ra sao ?

    Quyển Trung - Tập 2
    “Khá chí tâm học hành kinh sám,
    Thoát nơi miền hắc ám phong ba”.

    Lời Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
    Cố công gìn giữ tánh thuần lương”.

    Lời Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ

    Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi (tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn bài Đức Phật Đối Với Chúng Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)


    1-ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG SANH

    (Bài nầy Đức Thầy viết vào ngày 24/8 năm Nhâm Ngũ (1942)

    CHÁNH VĂN
    Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao ? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất để cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa. Tại sao vậy ? Vì đứa nào hiếu-thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ biểu, thì ông cha âu-yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn-thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo-tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia-môn ! Những đứa ấy, ông cha có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.


    Cũng mường tượng như trên, hỡi các người ! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng-sanh, dầu kẻ ngu, người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật-tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần-gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.

    Bạcliêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)

    DÀN BÀI
    A-KHAI ĐỀ: Lý do tin Phật.
    B-DIỄN ĐỀ : So sánh tình thương.
    I- TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.
    1- Tình thương của cha mẹ đối với các con.
    2- Bổn phận người cha.

    3- Đối với những đứa con ngỗ nghịch.
    4- Đối với các con tốt lành.
    II- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY.
    1- Phật đối với chúng sanh và môn đồ.
    2- Bổn phận của Phật và Thầy.
    3- Với tín đồ biết vâng lời.

    4- Với tín đồ không vâng lời.
    C-KẾT ĐỀ.

    LƯỢC GIẢI
    Xưa nay sở dĩ người ta tin Phật, qui y Phật là vì nhận nơi Ngài có đức độ cao cả, trí tuệ siêu mầu vượt hẳn hàng phàm phu và Tiên Thánh. Có nhận thức một cách chính xác như vậy, người ta mới vui lòng hăng hái, vâng làm theo lời dạy bảo và giới hạnh của Ngài. Cũng nhằm mục đích đó, Đức Thầy dạy môn đồ bài “Đức Phật Đối Với Chúng Sanh”. Căn cứ theo chánh văn gồm có các phần như sau:
    I-TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.
    1-Tình thương của cha mẹ đối với các con:
    Vì muốn cho tín đồ dễ hiểu, trước nhứt, Đức Thầy đưa ra một bằng chứng cụ thể trước mắt mọi người, là tình thương của người cha đối với đàn con trong gia đình. Tuy trong số các đứa con ấy có chênh lệch lớn nhỏ, thông minh hay ngu dốt, tật nguyền hay nguyên vẹn, nhưng cha mẹ vẫn thương đồng đều.
    Bởi xét rằng do duyên nghiệp quá khứ và hiện tại của mỗi người con không giống nhau như kẻ sanh trước thì lớn, sanh sau thì nhỏ. Người con nào biết siêng năng học hành, tìm tòi những cái hay cái đẹp thì thông minh, còn kẻ nào lười biếng ham chơi sẽ bị ngu dốt. Người nào thời quá khứ hoặc hiện tại biết lo trau giồi tâm đức, ăn ở hiền lành thì được thân hình tốt đẹp, các căn đầy đủ. Còn kẻ nào tư tưởng hành động hung ác thì mang thân tật bệnh, xấu xa. Tuy thân tâm của các đứa con có khác biệt, song cùng đồng do huyềt nhục của cha mẹ sanh ra và cũng uống chung một dòng sữa cho nên tình thương của cha mẹ đối với các con không khác biệt.
    2-Bổn phận người cha:

    Do lòng thương yêu tha thiết ấy, nên người cha có trách nhiệm nuôi cho con lớn, dạy dỗ cho con khôn ngoan, lo cho con có nghề nghiệp căn bản sanh sống và đạo đức đối xử. Thậm chí cha mẹ còn phải lo tạo sự nghiệp, tiền của, ruộng vườn giành để cho con trước khi nhắm mắt,
    Tóm lại, tình thương và sự lo lắng của cha mẹ đối với các con là đồng đều, nhưng sự âu yếm và ban thưởng vẫn có khác, vì phải tùy theo tánh chất tốt lành hay ngỗ nghịch của mỗi đứa con.
    3-Đối với đứa con ngỗ nghịch:
    Đối với các đứa con bất hiếu, không vâng lời dạy bảo của cha mẹ, hung ác bạo tàn, lười biếng hoang chơi, phá hoại sự nghiệp; làm những điều xấu xa mất cả danh giá của gia đình, thân tộc. Bấy giờ ông cha chỉ biết than thở và nén lòng mà nhận sự chê bai, thống trách của kẻ khác, chớ không thể nào âu yếm và ban thưởng đặng.
    4-Đối với đứa con tốt lành:
    Những người biết hiếu thuận từ hòa, siêng năng tiết kiệm, cẩn ngôn cẩn hạnh, lo giữ gìn sự nghiệp, giá phẩm của cha mẹ để lại, thì người con ấy sẽ được ông cha hằng ngày âu yếm và ban thưởng.


    II- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY
    1)-Phật đối với chúng sanh và môn đồ:
    Lòng từ bi của Phật và Thầy lúc nào cũng thương xót khắp cả, từ nhơn sanh đến muôn loài vạn vật hữu tình; và môn đồ của các Ngài rất bình đẳng. Cũng như người cha đối với các hạng con vừa nói trên. Bất luận kẻ trí người ngu, tinh tấn hay giải đãi; hoặc phát tâm tu cao thấp, trước sau, song mỗi chúng sanh đồng có Phật tánh như nhau, nên Phật và Thầy đều thương yêu tất cả. Kinh xưa thường nói:“Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”(Phật thương chúng sanh như mẹ thương con).
    Ngày nay Đức Thầy dạy:
    “Phật thương bổn đạo như con,
    Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời”.

    Nhưng:
    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.

    2)-Bổn phận của Tổ Thầy:
    Bởi đầy lòng từ bi bác ái, nên Đức Phật, Đức Thầy lúc nào cũng có bổn phận giáo độ chúng sanh ra khỏi vòng trầm luân oan nghiệt.
    Phật Tổ xưa còn ở nơi trần,
    Ngài gắng sức ra công hoằng hóa”.

    Và:
    “Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.
    Tuy lòng thương và sự giáo độ của Đức Phật và Đức Thầy rất bình đẳng, vô tư, song sự gần gũi và ban phúc huệ có khác, vì phải tùy theo duyên nghiệp và tâm hạnh của mỗi tín đồ.
    3)-Đối với tín đồ biết vâng lời:
    Đối với những tín đồ biết tuân thủ lời chỉ dạy của Đức Phật, Đức Thầy; lo học hành Kinh Giảng để tìm hiểu lý mầu trong đạo pháp:
    “Khá chí tâm học hành Kinh sám”.
    Hoặc: “Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý”.( ĐT)
    Và hằng lo vẹn gìn giới luật, quyết chí tu hành, thận trọng từ: ý nghĩ, lời nói, việc làm, tránh điều xấu ác và bảo vệ thân danh chung cho Đạo thì Đức Phật, Đức Thầy luôn luôn gần gũi, ủng hộ và ban phúc huệ cho các tín đồ ấy.
    Xưa có một kỹ sư, gia đình rất giàu có. Ông bà sanh được ba người con trai, khi lớn lên đều được đi học, nhưng hai cậu lớn thường hay biếng trễ, duy có cậu Út là chăm chỉ.
    Hôm nọ, kỹ sư thấy mình đã già yếu, nên kêu ba người con đến bảo:
    -Chắc chẳng còn bao lâu nữa ba sẽ từ biệt cõi đời, vậy mỗi con nên nói rõ ý muốn của mình để ba phân chia của cải cho !

    Người con lớn đứng lên nói:
    -Thưa Ba ! Ý con muốn trước khi từ trần, Ba giao cái gia tài đồ sộ nầy cho con !
    -Thưa Ba ! Phần con muốn được Ba giao hết đất vườn cho con. Người con giữa nói như thế.
    Ông Kỹ sư nhìn qua người con Út nãy giờ đứng làm thinh hỏi:
    -Còn con Út muốn gì, cứ nói ?
    Cậu Bé đứng khoanh tay thưa:

    -Thưa Ba ! Nguyện vọng của con là chỉ mong Ba cho con ăn học để trở thành một Kỹ sư như Ba. (Quả nhiên, đứa con Út của ông Kỹ sư sau thi đậu Kỹ sư và trở nên giàu có hơn trước).
    Ông Kỹ sư mỉm cười tỏ vẻ hài lòng, rồi ông nhìn ba người con phân trần: Trước kia, sau khi ba ăn học thành tài, tiền của hết sạch. Chỉ còn lại hai bàn tay trắng với mớ kiến thức và biết siêng năng tiết kiệm mà ba tạo nên sự nghiệp như thế nầy.
    Hôm nay hai con lớn muốn ba giao hết gia tài, vườn ruộng nầy cho hai con cũng được, nhưng hai con nên biết dầu có tiền của bao nhiêu đi nữa, hai con ăn xài thời gian rồi cũng hết.
    Còn thằng Út, em của hai con, nó nuôi chí và siêng năng học hành để thành một Kỹ sư thì sau nầy nó sẽ tạo ra sự nghiệp có thể giàu gấp mấy lần như hiện nay.
    Câu chuyện trên giúp cho người tu nhận rằng: Đức Phật và Đức Thầy lúc nào cũng muốn cho tín đồ thành Đạo giải thoát, song với điều kiện là phải thực hành y theo lời dạy của các Ngài. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    Và: “Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy”.
    Vậy nhà tu muốn kết quả tốt, mỗi người của chúng ta nên ghi nhớ và thực hành các điểm căn bản như sau:
    a)- Bốn cách phát tâm:

    1-Phát tâm kính tin Đức Phật, Đức Thầy tất phải vâng lời chỉ dạy của Phật và Thầy.
    2-Phát tâm thương kính Phật và Thầy, tất chẳng phụ công ơn của các Ngài.
    3-Phát tâm tưởng nhớ Phật và Thầy, tất muốn gặp các Ngài.
    4-Phát tâm phụng hành theo lời giáo huấn của Phật và Thầy, tất phải độ tất cả chúng sanh tự tánh (phiền não) và chúng sanh bên ngoài.
    b)- Bốn điều tự quyết:
    1-Vâng lời Phật và Thầy phải tự quyết tâm qui.
    2-Chẳng phụ công ơn của Phật và Thầy ta phải tự quyết hành y.
    3-Muốn được gặp Phật và Thầy ta phải tự quyết tinh tấn tu hành.
    4-Độ chúng sanh ta phải tự quyết từ bi bình đẳng.
    C)- Bốn điều duy nhứt:
    1-Tự quyết tâm qui tất phải duy nhứt Niết Bàn.
    2-Tự quyết hành y tất phải duy nhứt Chánh Đạo.
    3-Tự quyết tiến tu tất phải duy nhứt giải thoát mê ly.
    4-Tự quyết từ bi bình đẳng, tất phải duy nhứt cứu khổ muôn loài.
    Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    Phật từ bi độ tử độ sanh,

    Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.
    4)- Đối với tín đồ dối tu:
    Những kẻ tín đồ không thật tâm tu niệm, chẳng phụng hành theo lời giáo huấn của Tổ Thầy, phá giới thôi chay, hành động nhiều điều xằng bậy; làm mất phẩm giá chung cho Đạo, thì Đức Phật cũng như Đức Thầy “Chỉ lấy lòng từ bi mà nhận sự trách cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào gần gũi và ban phước huệ cho kẻ chẳng thành tín kia đặng”.
    Thuở Đức Thầy mới khai Đạo (1939). Hôm nọ, Ngài đang đứng trước sân nhà của Ông Nguyễn Duy Hinh, phía dưới Tổ Đình khoảng 100m, lúc đó có mặt Ông Năm Chơn, ông Lê Văn Diệp và ông Nguyễn Duy Hinh.
    Đức Thầy nhìn các ông nói:
    -Các ông bây giờ là bà con thân tộc với tôi, và cũng là tín đồ lớn nữa. Nhưng sau nầy có việc tôi phải vắng mặt trong một thời gian; chừng trở lại chưa chắc gì các ông được gặp tôi, nếu các ông chẳng tự lo tu hành.
    Ngưng lại một phút, Ngài nói tiếp:
    -Đến ngày ấy không phân biệt người dưng hay thân tộc, không phân biệt tìn đồ lớn hay nhỏ, hoặc già trẻ, sang hèn, sau trước…Nếu ai tu hành đúng theo giáo lý của tôi thì được gặp tôi. Bằng không sẽ bị lọc ra hết !
    Điều nầy trong Sám Giảng quyển Ba, Ngài đã nói:
    “Ai mà ta dạy chẳng gìn,
    Thì sau đừng trách mất tình yêu đương”.

    Cho nên Ngài hằng khuyên:
    “Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
    Làm theo lời dạy ngày rày gặp ta”.

    Đại khái bài “Đức Phật đối với chúng sanh” thấy rằng lòng thương yêu giáo độ của Tổ Thầy, đối với chúng sanh và môn đồ thật bình đẳng, bao la vô bờ bến; nhưng cũng rất thực tế và công bình đáo để. Có làm có ăn, có tu có hưởng, không hề vị tư cá biệt. Là một tín đồ nhà Phật, chúng ta phải chú ý ở điểm nầy, để trọn niềm tin và lo tu thân lập hạnh, đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy, hầu đáp lại tình từ ái rộng sâu của các Ngài.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HUYẾT NHỤC: máu và thịt, nghĩa của chữ cốt nhục (thịt). Ý nói đàn con cùng một dòng tinh huyết, cốt tủy của cha mẹ sanh ra, và cũng cùng uống một dòng sữa của mẹ mà lớn lên, nên gọi là tình ruột thịt.
    “Cũng đồng cốt nhục hoài thai,
    Nên ta rán sức miệt mài dạy khuyên”.

    BỔN PHẬN: (Xem CT chữ nầy bài NĐSL, Q.6).
    GIA CƯ: Nhà ở.
    ÂU YẾM: Quấn quít, quyến luyến, thương yêu không rời.
    HIẾU THUẬN: (Xem CT chữ nầy mục Tang lễ, Q.6)
    TỪ HÒA: Hiền lành hòa huỡn, không nóng nảy, hung hăng, quá khích.
    GIA SẢN: Nhà cửa và tài sản của cải.
    ĐIẾM NHỤC: (Xem CT chữ nầy, bài NĐĐSL, Q.6).
    MÔN ĐỒ: Học trò (nghĩa của chữ tín đồ).
    DUYÊN NGHIỆP: Cũng gọi là nghiệp duyên. Nghiệp là việc làm hay tạo tác, là hột giống. Duyên là những cái trợ trưởng cho việc làm hay hạt giống ấy, lên cây kết trái. Ý nói những thành quả xấu tốt ở hiện tại, là do nhân duyên tạo tác lành dữ của mỗi người ở quá khứ mà ra. Đây là định luật nhân duyên nghiệp báo.
    Phải rõ nghiệp duyên trần cấu tạo”.( ĐT)
    PHẬT TÁNH: Tánh giác ngộ, tức là hột giống Phật. Đức Phật bảo mỗi chúng sanh đều có tánh giác ngộ như nhau (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh). Đức Thầy cũng nói:
    “Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,

    Các chúng sanh đều có như ta”.
    ĐẠO MẦU: Sự mầu nhiệm sâu kín trong giáo pháp Đạo Phật. Đức Thầy có câu:
    “Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.
    Và:
    “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
    Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.

    KINH LUẬT: Kinh giảng và giới luật. Hai tạng trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận.
    Chi cho bằng ta sớm lo toan,
    Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật”.
    ( ĐT)
    THÀNH TÍN: Cũng gọi là tín thành. Có nghĩa là tin tưởng và hành Đạo một cách thành thực chơn chánh, không hề lãng tâm dối trá.
    Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
    Chớ nào dụng hương đăng trà quả”.
    ( ĐT)

    CÂU HỎI
    1/-Tình cha mẹ thương con ra sao ?
    2/-Bổn phận người cha phải làm gì ?
    3/-Đối với các con ngỗ nghịch ra sao ?
    4/-Với những đứa con tốt lành như thế nào ?
    5/-Tình thương của Phật đối với chúng sanh và môn đồ ra sao ?
    6/-Bổn phận của Phật và Thầy như thế nào ?
    7/-Số tín đồ biết nghe lời, các Ngài đối xử ra sao ?
    8/-Số tín đồ không vâng lời, Thầy Tổ làm gì ?
    9/-Tóm tắt bài “Đức Phật đối với chúng sanh” ra sao ?
     
  5. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    2- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO

    CHÁNH VĂN

    Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân-hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đắm lục trần; ý-thức lầm-lạc ấy khiến các trò nhận lấy cái thân ô-trược nầy là thật, cái cảnh phú-quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô-thường tạm mượn do tứ-đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù-vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội-chướng thì linh-hồn phải chịu luân chuyển báo đền.
    Ngày nay đã tỉnh ngộ qui y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường-sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí-huệ, ly xuất phàm-trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch-tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về, mà về đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu.

    Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác-ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Trong đường tu nương theo tam nghiệp, thì khổ lắm. Chúng-sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp (đọc lại trong cuốn Khuyến-Thiện).
    Nhưng Thầy xét lại cái khẩu nghiệp của các trò nặng-nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan-dung mà đối-đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác-ái nhân-đạo mà cư-xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô-ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng-hộ.


    Kệ rằng

    Đạo pháp thường hau dung với hòa,
    Xét người cho tột xét thân ta.

    Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
    Ta thứ được người, người thứ ta.

    DÀN BÀI

    A- KHAI ĐỀ: Nguồn gốc của chúng sanh.
    B- DIỄN ĐỀ: Vì vọng niệm sanh đau khổ.

    I- Đam Mê:
    1-Các nỗi khổ của chúng sanh.

    2-Nguyên nhân luân hồi.
    3-Ý thức sai lầm.
    4-Vô thường, vô ngã.
    II- Tỉnh ngộ:

    1-Nương đèn trí tiến tới Niết Bàn.
    2-Nhận xét chữ qui y.
    3-Xét về sự lễ bái.
    4-Nghiêm trì giới luật.

    5-Xét về tam nghiệp.
    III- Phương cách thoát khổ đạt Niết Bàn.
    1-Tu tâm trí, dẹp ma lòng.
    2-Đối xử với thế nhân.
    3-Hành đạt lý vô ngã.
    C- KẾT LUẬN.

    BÀI KỆ BỐN CÂU:
    Đạo pháp thường hay dung với hòa,

    Xét người cho tột xét thân ta.
    Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
    Ta thứ được người, người thứ ta.

    LƯỢC GIẢI
    Xưa, Đức Phật dạy: từ vô thỉ tất cả chúng sanh đồng một bản thể như chư Phật. Song vì vọng niệm mê lầm mà phải chuyển luân trong bể trần thống khổ. Để đánh thức những linh hồn ấy sớm hồi tâm tỉnh ngộ, Phật thường thuyết bài pháp “Khổ não, vô thường và vô ngã”. Thời nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng muốn ý thức mọi người nhận rõ sự mê khổ của chúng sanh không ngằn mé như sông dài biển rộng nên Ngài trùng tuyên đề tài ấy qua bài “LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO” gồm có những phần chính như sau:
    I- ĐAM MÊ
    1/- Các nỗi khổ của chúng sanh:

    Tại sao gọi là “sông mê bể khổ” ? Vì có “Mê man danh lợi cõi hồng trần”, nên bị hồng trần làm khổ lụy, không một ai tránh khỏi. Thân đã gánh chịu các sự khổ về: sanh, già, bịnh, chết. Còn tâm thì vương các nỗi khổ: ham muốn không thành, oán ghét gặp nhau, những người thân thương lại chia ly, và buồn phiền lo nghĩ không hề dứt. Chẳng thế, còn bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến như: chiến tranh, thiên tai, địa ách…Đã mang thân sống trong cõi trần, dù bất cứ hạng người nào cũng đều chịu chung kiếp sống khổ, một nhà thơ Việt Nam công nhận:
    “Bể khổ mênh mông sóng lụt trời,
    Khách trần chèo một chiếc thoàn khơi.
    Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,

    Gẫm lại cùng trong bể thảm thôi !”
    Tỏ rõ hơn, Đức Thầy đã xác định:

    Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù,
    Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng”.
    2/- Nguyên nhân sanh khổ
    Điểm thứ hai Đức Thầy cho biết, sở dĩ có những nỗi khổ là do “chướng nghiệp nhiều đời” của mỗi chúng sanh hoặc nhiều chúng sanh tạo nên “nghiệp chướng lăng loàn hại xác thân”.Nghĩa là từ nghiệp tội đời nầy lưu truyền qua đời khác, cứ tiếp nối nhau luôn.
    Nguyên khởi từ phiền não chướng: tham, sân, si (ý nghiệp), mới sanh ra nghiệp chướng (của thân khẩu). Đó cũng gọi là nhân chướng, rồi bị báo chướng trả lại, tức là bị trả quả. Chính nó làm trở ngại con đường giải thoát nên gọi là chướng. Cũng như kẻ gieo giống, trồng cây thì phải có ngày ăn trái. Trong khi đó vừa bị trả quả những nghiệp cũ lại tạo tác nghiệp mới, để rồi bị luân chuyển qua kiếp sau trả nữa; cứ thế mà tiếp nối mãi mãi. Sự luân chuyển nầy tùy theo nghiệp lành dữ, nặng nhẹ của mỗi chúng sanh. Có khi lên được ba cõi trời: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, có khi vào các cõi: Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục. Song cũng đồng nằm trong định luật nghiệp báo luân hồi nơi ba cõi, sáu đường. Cho nên Đức Thầy gọi là “Xuống xuống lên lên luân hồi chuyển kiếp”.
    3/-Ý thức sai lầm

    Đã hiểu luân hồi qua xác thân khác, là bị chi phối bởi nghiệp chướng của vô minh phiền não từ trước, nên hột giống ô nhiễm mê lầm sẵn có trong tiềm thức (A Lại Da Thức). Từ đó sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thường mê nhiễm theo sáu trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự sung sướng, danh vị cao sang. Nhận lầm xác thân ô uế giả hợp cho là thật, là trong sạch thơm tho. Bao nhiêu sự: giàu sang, của tiền, sự nghiệp, hạnh phúc tình yêu, sẽ giữ còn vĩnh cửu; mãi đến khi sắp lìa đời mà lòng tham ái vẫn còn, nên linh hồn phải luân hồi trở lại, để tiếp tục con đường mê lầm khổ não nữa. Cho nên: “Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
    Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.( ĐT)
    4/- Vô thường vô ngã
    Muốn tránh khổ và tận diệt nguyên nhân sanh khổ, hành giả trước phải quán xét lý vô thường, vô ngã.
    a)- Xác thân vô thường: Xét rằng bởi do nhân duyên hòa hợp, từ linh hồn và sự cấu tạo tinh huyết của cha mẹ, cùng bốn chất: đất, nước, gió, lửa tạo thành, nên khi các nhân duyên ấy hết thì xác thân phải tan rã và trả về cho tứ đại. Từ nhỏ đến lớn, thân ta cũng luôn biến đổi theo thời gian, huống chi là đến già chết.
    Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
    Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát
    .( ĐT)
    b)- Cảnh vật vô thường
    Xác thân là vô thường thì cảnh vật cũng theo thời gian mà biến đổi và tan mất:
    “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)

    Thế thì bao nhiêu cuộc phú quí vinh hoa, ruộng vườn, tiền của, vợ đẹp con ngoan, thân bằng bạn hữu cũng không giữ mãi được. Chỉ là:
    “Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần,”

    Hay là:
    “Công danh phú quí chung huờn mộng”.( ĐT)
    c)- Vọng tâm vô thường:
    Đã từ vọng tâm mà sanh thì kiếp sống cũng do vọng tâm sai khiến. Cho nên bao sự vui buồn, ghét thương, giận tức…làm đảo lộn tâm trí con người, không lúc nào bình yên dừng nghỉ; như con vượn chuyền cây, hết cành nầy sang cành khác.

    Thế thì từ xác thân, cảnh vật đến vọng tâm đều là ảo ảnh, vô thường và vô ngã, chẳng có cái gì là còn mãi và thật của ta:
    Thế thượng vạn ban đô thị giả,
    Nhơn gian Đạo đức quả duy chơn”.(Tỉnh Thế Ngộ Chơn)
    (Trên đời không vật chi là thật,

    Chỉ có Đạo mầu mới thật chơn).
    Kinh Kim Cang, Phật bảo:
    “Nhứt thiết hữu vi pháp,
    Như mộng huyễn bào ảnh.

    Như lộ diêc như điển,
    Đương tác như thị quán”.

    Tạm dịch:
    Phật rằng muôn pháp trong đời,
    Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
    Chiêm bao, điện chớp, tiếng vang,

    Đến như thân xác hơi tàn còn đâu.
    Đức Thầy nay cũng xác định:

    “Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo,
    Cuộc truy hoan thường giết khách tài hoa”.

    Cho nên Ngài kêu gọi:
    “Nghe chuông linh sớm dứt bể ái hà,
    Kẻo vật dục cuốn lôi vào bể khổ”.
    Hoặc là:
    “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,
    Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm”.

    II- TỈNH NGỘ
    1)- Nương đuốc huệ tiến tới Niết Bàn

    Nhờ tiếng chuông Đạo pháp của Đức Thầy, chúng ta sực tỉnh giấc mộng trần gian, nhận được kiếp sống đầy khổ đau, vô thường và vô ngã, mới thức tỉnh tu hành, qui y tam bảo. Thế là ta được bước vào ngưỡng cửa của con đường tiến tới Niết Bàn. Nơi ấy, trường tồn bất diệt, có đủ bốn đức: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Nhưng muốn tiến tới mục đích ấy, Đức Thầy dạy môn đồ phải “Nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần”. Vậy đèn trí huệ ở đâu ?
    Chúng ta mới tu chưa có trí huệ, nên phải nương đèn trí của Đức Thầy:
    “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,
    Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.
    Đức Thầy dùng trí huệ viết ra Kệ Giảng giáo hóa môn đồ, trong đó có đủ phương cách giúp cho ngưòi tu: rèn trí huệ, đạt chơn lý và diệt lòng dục nhiễm danh lợi tình để bước tới:
    “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

    2)- Nhận xét chữ qui y
    Con đường từ ngưỡng cửa đến mục đích của Đạo không phải bước một cái mà tới được, hành giả phải đi từ thứ lớp:“ Đường đạo đức bước đi từ nấc”( ĐT). Cho nên sau khi thức tỉnh và vạch một hướng nhắm tới Niết Bàn, Đức Thầy dạy tín đồ cần xét lại bước đầu, cho thấu đạt ý nghĩa hai chữ qui y.(Xem thêm phần Chánh văn của Đức Thầy)
    Bởi có nương về với Tam Bảo, có hành trì theo hạnh đức và lời giáo huấn của Phật, Pháp, Tăng; có cải hối ăn năn làm lành lánh dữ và có giữ tròn giới luật mới xứng đáng là một tín đồ của Đạo. Chính đó là nấc thang đầu là nền tảng của Tam Thừa Tứ Quả. (Tam thừa: Thượng, Trung, Hạ; hoặc Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn.-Tứ quả: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn. Cũng giải là: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán). Thế nên nhà tu muốn đạt đến quả vị nào trong Đạo Phật, cũng phải khởi hành từ hai chữ Qui Y.
    Để tóm kết đề mục nầy ta nên tâm niệm hai câu giảng gồm đủ sự lẫn lý, tự giác, giác tha:
    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
    ( ĐT)
    3- Nghiêm trì giới luật
    Xưa nay người tu Phật hễ phát nguyện qui y thì phải thọ giới. Cho nên sau phần nhận xét về chữ qui y, Đức Thầy đề cập đến sự trì giới:“Cần nhứt là ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”. Bởi sự nghiêm trì giới luật sẽ ngăn chận được các điều tội ác của thân, khẩu, ý và nội ma, ngoại cảnh không còn xúi giục, khơi gợi. Giới luật như hai hàng rào không cho heo gà phá rẫy, là hai bờ lề của con lộ giúp cho các loại xe khỏi chạy rớt xuống hố; cũng là hai hàng lan can cầu, để xe và hành khách qua cầu khỏi bị rơi xuống sông. Cho nên Đức Thầy hằng dạy:
    “Đồ lao muốn lánh sớm nghe Ta,
    Bố thí trì chay giữ giới mà”.

    Hoặc là:
    “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”.
    Diệu năng của giới luật thật vô lượng, vô biên; nên Cổ Đức hằng bảo:
    Giới minh nhu nhựt nguyệt, diệc như anh lạc châu.
    Vi trần Bồ Tát chúng, Do thị thành chánh giác”.

    (Giới sáng như mặt trời, mặt trăng và cũng như hột châu anh lạc. Chư Bồ Tát đông như số vi trần đều nhờ trì giới mà thành tựu ngôi Chánh giác).
    Và các Ngài luôn xác định:
    “Tam giới Phật Pháp, Giới vi căn bản.
    Bản chi bất tu, Đạo viễn hồ tai”.
    Tạm dịch: “Ngàn xưa chư Phật ba đời,

    Đều tu giới luật làm thời bản căn.
    Bản căn nếu chẳng trì hằng,
    Ắt là tánh Đạo khó bằng nên công”.

    -Vì thế, quả quyết rằng nếu nhà tu không gìn giữ giới luật tất không xứng đáng là một môn đồ hay Phật tử, thì trông gì đến hàng “Tứ quả Tam thừa”.
    Tóm lại, là một tín đồ PGHH, chúng ta nên cố gắng gìn giữ nghiêm chỉnh tám điều răn cấm. Chính nó là then chốt, là căn bản đầu tiên, rồi lần lượt tiến tới “Thập bát giới”, tức sáu căn, sáu trần và sáu thức, để đắc lục thông thành quả A La Hán. “Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị hiện giả dã”. (Sáu căn đối với sáu trần mà lòng vẫn như như bất động, không phân biệt nhiễm ô, tức đắc được sáu pháp thần thông).
    4)- XÉT VỀ SỰ LỄ BÁI

    Đây là nói đến hai thời cúng lạy: sáng và chiều của mỗi tín đồ PGHH, hễ qui y thì có lễ bái, nhưng tại sao Đức Thầy cho biết:“Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm”. Vì hồi chưa tu, lúc nào tâm ý ta cũng buông lung theo vọng trần, xấu xa, ích kỷ…Suốt ngày đêm không phút nào dừng lặng (tâm viên ý mã). Giờ đây muốn cải đổi cho lòng thanh tịnh, tốt lành, từ bi bác ái thì nhờ hai thời lễ bái, nhắc nhở ta trở lại tâm hồn đó. Rồi tập dần đến lúc đi, đứng, ngồi, nằm đều được yên lặng chánh chơn “Sớm tối đi nằm y chánh pháp”( ĐT), tức từ phàm phu trở thành Phật Thánh:
    “Thì hiền lương quên mất điều tà,

    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.( ĐT)
    Vì thế, sự lễ bái gọi là món trợ đạo, còn tu sửa là chánh. Cũng như đất và phân nước giúp cho hạt giống được nên cây trái. Cho nên sự lễ bái cũng rất cần cho sự hành đạo, hành giả phải áp dụng cho đến khi thành quả:
    Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

    Và:
    “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.( ĐT)
    Tam nghiệp là thân, khẩu, ý sanh ra mười điều ác. Mỗi chúng sanh đã gây tạo nó từ vô lượng kiếp, rồi vay trả, trả vay lưu truyền tới giờ. Chính nó là hột giống sanh tử, là nghiệp nợ nặng nề hơn hết, nhứt là khẩu nghiệp người tu dễ vi phạm. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử phải tịnh tam nghiệp, chừa thập ác và hành thập thiện. Đức Thầy hằng dạy:“Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:

    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.( ĐT)
    III- PHƯƠNG PHÁP THOÁT KHỔ ĐẠT NIẾT BÀN
    1)- TU TRÍ HUỆ TRỪ MA LÒNG
    Ma lòng gồm có tham, sân, si trong tâm ý của mỗi người:“Tà kiến tam độc thật Ma vương”.(Pháp Bửu Đàn Kinh)
    Ma ngũ ấm (uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay tham, sân, si, nhân, ngã.

    Ma thất tình, lục dục (thập tam ma). Ma là một danh từ đối với Phật, hễ lòng có Phật thì không có Ma, lòng Ma thì không có Phật. “Ma Phật trong lòng lựa phải tìm đâu” (Giác Mê của Đức Phật Thầy). Đức Thầy xác định:
    “Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó”.
    Mà nếu:
    “Làm gian ác là quỉ là ma,
    Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.

    Hiểu được Ma lòng ra sao, hành giả hãy lấy trí huệ mà dẹp nó. Lúc mới vào Đạo ta phải nương theo trí huệ của Tổ Thầy để mồi qua cây đuốc huệ của ta, bằng cách là trì giới cho “Tâm bình tịnh được thì phát huệ”. Hoặc diệt si mê, phá vô minh thì trí huệ lần lần sáng tỏ, đây là pháp môn “Vô tận đăng”. Khi có “Giới định huệ” thì ma phiền não: tham, sân, si chẳng còn và soi tan luôn ngũ uẩn:“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”(Bát Nhã Tâm Kinh). Đức Thầy đã dạy:“Hươi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng”. Sở dĩ trí huệ như lưỡi gươm, vì nó có diệu năng chẳng những diệt được “Tam độc”: tham, sân, si, mà còn trừ được ma Thất tình Lục dục.
    Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,
    Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.( ĐT)
    Thật hành được như thế, nhà tu sẽ tự tại giải thoát.
    2)- ĐỐI XỬ VỚI THẾ NHÂN
    Về mặt ăn ở giao tiếp với mọi người, Đức Thầy dạy nên mở lòng rộng lượng tha thứ những ai tối tăm lầm lỗi. Thể hiện tinh thần nhân Đạo, bác ái vị tha, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn hay giai cấp; hoặc người hay sanh vật, mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo, toàn hòa an vui hạnh phúc:
    “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”.
    Và:
    “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,
    Để tiến, tiến lên cõi đại đồng”.
    ( ĐT)

    3)- HÀNH ĐẠT LÝ VÔ NGÃ
    Vô ngã là không chấp có ta, là danh từ đối tượng với chấp có ta, tức là ngã. Hễ có ngã là còn mê lầm sanh tử, mà vô ngã là giác ngộ, Niết Bàn. Có thể xác định rằng: đứng đầu tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não là ngã, còn dẫn đầu 8 vạn bốn ngàn pháp tu là Vô ngã.
    Vậy chấp ngã là gì ?
    - Chấp ngã là lòng tham chấp từ xác thân, tiền của, vợ con, thân bằng, tộc họ; đến đất nước đồng bào, danh dự, tước quyền và giai cấp…đều là có thật của ta, phân biệt hơn thua, cao thấp, rồi lo đấu tranh chiếm hữu và bảo thủ mãi mãi. Chính đó là nguyên nhân của nghiệp báo luân hồi.
    “Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,
    Thì làm sao thoát khỏi luân hồi”.(
    ĐT)

    Vậy hành giả muốn thoát ly sanh tử, để tiến tới Niết Bàn. Trước nhứt, phải nhận rõ qua kiếp sống của con người và sanh vật đều nằm trong vòng khổ đau, bất tịnh, vô thường và vô ngã để diệt sạch lòng tham chấp.
    “Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
    Nhân ngã, sân si cũng dẹp đành”.( ĐT)
    Tu tới đây, hành giả không nên tự mãn mà phải kẹt trong vòng đối đãi: có không, chấp tâm, chấp pháp; hoặc còn thấy mình có tu, có chứng đắc. Hành giả phải rán vượt lên bước nữa là tu rèn cho được tâm bình đẳng, xem ta và mọi người cũng như vạn vật đồng nhứt thể:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”. Và bởi:
    “Từ không bày có, có huờn không,
    Có có không không rốt vẫn đồng”.

    (Ngữ Lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
    Để sáng tỏ thêm, Đức Thầy dạy:
    Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
    Sắc không, không sắc chớ lìa xa”.

    Nhà tu một khi xả bỏ được lòng chấp ngã, xem mọi người, mọi giới và vạn vật đều bình đẳng như nhau. Tất cả đều nằm trong một thể “đại ngã”. Không còn phân biệt: sai khác, cao thấp, trước sau:“Trước sau tuy khác thiện căn vẫn đồng”( ĐT). Tuy đã co tu, có chứng đắc, nhưng tâm không còn chấp co tu, có chứng đắc: (vô tu, vô chứng, vô sở đắc), đó tạm gọi là hành đạt lý vô ngã.
    Là bình đẳng an nhiên.
    Là Phật hóa tánh tình.
    Là Niết Bàn giải thoát.
    Đúc Thầy còn sách tấn tín đồ:
    Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ”.
    Đó là Ngài trợ duyên cho chúng ta có một đức tin vững chắc, một sức mạnh vạn năng để đạt đến thành quả.
    Tổng kết bài “Lời Khuyên Bổn Đạo” là một phẩm Kinh, Đức Thầy dạy môn đồ từ bực sơ cơ tiểu thừa đến Tối Thượng thừa…Tuy thấy tu Tiệm, nhưng thực chứng là Đốn. Trong đây chia làm hai phần:
    - Thứ nhứt là phần quán xét và nhận thức kiếp sống con người là ô trược, khổ đau và vô thường, vô ngã.
    - Thứ nhì là phần thực hành, nhà tu phải vẹn gìn: qui y lễ bái, tránh Tam nghiệp chừa Thập ác, hành Thập thiện và dùng trí huệ dọn sạch Ma lòng để diệt mầm sanh tử. Chót hết là hành đạt lý vô ngã vào Niết Bàn.

    PHỤ ĐỀ
    BÀI THI TỨ CÚ
    (Đạo pháp…)

    LƯỢC GIẢI
    - Câu thứ nhứt: Đức Thầy dạy người quyết tâm tu học Đạo pháp, nên rèn luyện cho mình có được hai đức tánh: khoan dung và hòa hảo. Bởi có rộng lượng tha thứ cho những người lầm lỗi mới đem lại sự hài hòa tốt đẹp và dễ bề cảm hóa họ trở lại con đường lành.

    - Câu thứ hai: Ngài dạy đối xử với mọi người, phải dùng tâm bình đẳng và chánh kiến mà xét đoán cho cùng tột các việc của những người đối diện và bản thân ta.
    - Câu thứ ba: Nếu người có lỡ lầm lỗi mà biết cải hối, ta nên vui lòng tha thứ cho họ.
    - Câu thứ tư: Ngài dạy, ở đời mấy ai trọn vẹn không lầm lỗi. Nay ta sẵn lòng tha thứ sự lỗi lầm của mọi người thì mai chiều những người khác cũng thông cảm, tha thứ sự lỗi của ta.
    - Chủ đích của bài thi nói trên, Đức Thầy muốn dạy tín đồ tu tập cho mình có những đức tánh: khoan dung, hòa hảo, bình đẳng chánh kiến. Và tôn trọng công bằng nhân quả, tất trên đường hành đạo sẽ được an vui mỹ mãn.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    THÂN Ô TRƯỢC: Xác thân dơ bẩn không sạch. Thân xác của mỗi con người, tuy bên ngoài bao bọc lớp da trơn láng, mịn màng nhưng bên trong chứa đầy chất ô uế. Hằng ngày có chín lỗ (cửu khiếu) tiết ra chất bất tịnh, như: đôi mắt có ghèn, hai lỗ tai có cứt ráy, hai lỗ mũi có cứt mũi, miệng có đàm dãi, đường đại, đường tiểu, mỗi nơi đều tiết ra chất hôi hám khó chịu. Chẳng thế, còn các chơn lông cũng thường rịn chảy mồ hôi dơ nhớt, thật là:
    Thân hôi tanh muỗi ruồi đón rước,
    Thêm nhọt u ghẻ lác phong cùi.
    Đâu lúc nào toàn vẹn an vui,

    Là kiếp trược ta xin kể trước.( ĐT)
    THÂN VÔ THƯỜNG: Xác thân chẳng thường còn. Bởi nó là sắc tướng, là hữu hình nên không trường tồn đặng:“Trên dương thế hữu hình tắc hoại”.( ĐT)
    TỨ ĐẠI: Bốn chất lớn, tức là: đất, nước, gió, lửa:
    Chốn Ta bà tim lụn, dầu mòn,
    Thân tứ đại của người cũng thế”.
    ( ĐT)
    PHÙ VÂN: Đám mây nổi, chốc lát bị gió thổi bay mất. Ý chỉ cuộc đời phú quí ngắn ngủi, không bền chắc lâu dài:“Một cuộc phù vân có mấy hơi”( ĐT).

    TỘI CHƯỚNG: Nghiệp tội và báo chướng, có nghĩa như chữ nghiệp chướng.
    LINH HỒN: (Xem CT chữ nầy bài NĐSL, Q.6).
    TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ tu hành:
    Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
    Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.( ĐT)
    TRƯỜNG SANH BẤT DIỆT: Sống hoài không chết mất. Chỉ cho cảnh Niết Bàn.
    ĐÈN TRÍ HUỆ: Ánh sáng của trí huệ. Đây chỉ cho Kinh Giảng và lời lẽ của Tổ Thầy:
    Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.( ĐT)
    LY XUẤT PHÀM TRẦN: Lìa xa cảnh trần ai phàm tục, tức tu hành giải thoát luân hồi sanh tử. Đức Thầy hằng kêu gọi:
    “Tìm đèn trí huệ lánh thân ra,
    Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai,
    Tầm nẻo cao siêu đến Phật đài”.

    PHỒN HOA: Cũng gọi là phiền ba, chỉ nơi đô thị nhộn nhịp, mua bán ăn chơi, đua chen theo vật chất: danh, lợi, tình. Đức Thầy có câu:
    Muốn lánh phồn hoa, lánh thị thành”.
    TỊCH TỊNH: Nơi an vui thanh tịnh và trong sạch, tức cõi Niết Bàn.
    KHUÔN MẪU: Khuôn thước, mẫu rập. Chỉ cho qui luật pháp giới, chân chánh tốt lành, tất cả môn đồ Phật tử đều phải noi theo.

    CẢNH TỈNH: Báo cho biết để thức tỉnh.
    GIÁC NGỘ: Tỉnh biết, cảnh tỉnh giác ngộ là báo cho biết để tỉnh ngộ tu hành. Giác ngộ cũng đồng nghĩa với chữ trí huệ.
    MA LÒNG: Sức mạnh vô hình của nội ma trong tâm ý con người, gồm có: ma phiền não tham, sân, si, nhân ngã; ma thất tình lục dục (Xem CT chữ Chánh Niệm, T-1, Q.6).
    KHOAN DUNG: Lòng rộng lượng hay tha thứ người lầm lỗi:“Ta thường nên tập tánh khoan dung” (ĐT).
    ĐẠO PHÁP: Giáo pháp của Phật.

    CÂU HỎI
    1/-Các nỗi khổ của chúng sanh ra sao ?
    2/-Do nguyên nhân gì có luân hồi thống khổ ?
    3/-Ý thức lầm lạc như thế nào ?
    4/-Sao gọi là vô thường, hãy chứng minh ?
    5/-Muốn tránh luật vô thường ta phải làm sao ?
    6/-Hãy xét về sự qui y ?
    7/-Tại sao Đức Thầy bảo trì giới là điều cần nhứt ?
    8/-Xét về lễ bái như thế nào ?
    9/-Xét về tam nghiệp ra sao ?

    10/-Tu làm sao cho có trí huệ ?
    11/-Ma lòng là gì ? Kể ra một ít loại ?
    12/-Muốn thắng phục Ma vương phải làm sao ?
    13/-Việc cư xử với mọi người như thế nào ?
    14/-Hãy định nghĩa chữ chấp ngã ?
    15/-Muốn đạt lý vô ngã ta phải làm sao ?
    16/-Hành đạt lý vô ngã được kết quả như thế nào ?
    17/-Lý vô ngã là pháp thiền (Tự lực) tại sao Đức Thầy bảo:“Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ ?
    18/-Cho biết tổng kết bài “Lời khuyên bổn đạo” ?
    1/-Hãy lược ý bài thi Tứ cú “Đạo pháp…” ?
    2/-Chủ đích bài thi ấy Đức Thầy muốn dạy những gì ?

    3- PHẬT LÀ GÌ?

    CHÁNH VĂN

    Phật giả là Giác giả. Giác giả là Tỉnh giả.

    Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo.
    ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:

    1.- Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được.
    2.- Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng, dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém cỏi, mệt nhọc, trí-hóa lu lờ, không đủ sức học Đạo đặng.
    Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chẳng để nó sung-suớng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa sức mình, gìn-giữ sức khoẻ mới mong học được đạo-pháp.
    Vậy, Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.


    Điều cần yếu là phải:
    Làm hết các việc từ-thiện,
    Tránh tất cả điều độc-ác,

    Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
    Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ.

    DÀN BÀI
    A- KHAI ĐỀ: Tìm hiểu ý nghĩa chữ Phật.
    B- DIỄN ĐỀ:

    I/- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO.
    Hai xu hướng sai lầm:
    1- Trưởng dưỡng xác thịt.
    2- Ép xác hành khổ.
    II/- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO?
    1- Chiết trung tránh sai lầm.

    2- Thực hiện đúng con đường Trung đạo.
    III- PHÁP TU CẦN YẾU:
    1- Làm hết các việc từ thiện.
    2- Tránh tất cả điều độc ác.
    3- Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
    C- KẾT ĐỀ: Tóm tắt toàn đề.

    LƯỢC GIẢI
    Là môn đồ nhà Phật, chắc ai cũng muốn tìm hiểu Phật là gì ? Và tại sao cả thế gian đều xưng tụng Ngài là Phật ?
    Chúng ta không thể hiểu suông bằng văn tự. Phật là đấng giác ngộ và tỉnh thức, mà phải tìm hiểu xác thực cái giác tỉnh ấy như thế nào ?

    Tỉnh thức là danh từ đối với mê lầm, từ trước tới giờ đa số chúng sanh còn trong mê lầm tăm tối (vô minh) nhận ngụy làm chơn:
    “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
    Màn vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.
    ( ĐT)
    - Ngược dòng lịch sử, ai cũng thấy Thái tử Sĩ Đạt Ta đang sống trong cảnh cung vàng điện ngọc, thụ hưởng các điều dục lạc, chẳng thiếu món chi. Thế mà Ngài nhận thức được cuộc sống ấy là giả dối, không thật, như phù hoa ảo ảnh. Mỗi người sanh ra đều phải chấp nhận sự sống khổ, tới già bịnh rồi chết mất, Ngài mới lìa bỏ cung vui tìm đường giải thoát.
    Đức Thích Ca xưa ở lầu đài,

    Nghiệm tứ khổ nên Ngài tầm Đạo.( ĐT)
    - Đó là Ngài tỉnh thức “lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn”.
    Còn phần giác ngộ là thời gian tầm thầy học Đạo, Ngài không nhắm mắt tin càng, mà tin bằng lý trí. Nghĩa là giáo thuyết nào không hợp chơn lý, không đưa mình ra khỏi sanh tử thì Ngài không theo. Cuối cùng Ngài tự mình tìm ra phương cách giải thoát và hành đạt đến hoàn toàn giác ngộ (Giác ngộ đồng nghĩa trí huệ) :
    “Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
    Lòng tự giác xả thân tầm đạo”.( ĐT)
    - Sự hiểu biết của Ngài chẳng phải như nhà Bác học (Thế trí biện thông), mà từ mọi hình thức bên ngoài, đến cái vô hình bên trong của tâm ý chúng sanh; xuyên qua vũ trụ vạn hữu và cả ba đời (Quá khứ, hiện tại, vị lai) Ngài đều thấu suốt. Do đó, khắp ba cõi sáu đường(Ba cõi: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới), đều xưng tụng Ngài là bậc tỉnh thức. Và cũng vì vậy Đức Thầy mới định nghĩa chữ Phật:“Phật giả là giác giả, giác giả là tỉnh giả”. Gọi tắt là đấng Tỉnh giác (Tỉnh thức và Giác ngộ hoàn toàn).
    I- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
    Lúc Thái tử còn tu khổ hạnh với năm người bạn tại rừng Lộc giả, một hôm Ngài đang đi bỗng bị té xỉu vì quá kiệt sức. Chừng tỉnh dậy Ngài trông thấy một người lạ, ngồi ôm cây đờn lên dây khảy. Khởi đầu người ấy lên dây thẳng quá nên dây đờn bị đứt, người liền trả dây dùn lại thì đàn không kêu đúng tiếng. Lần thứ ba người ấy lên dây vừa vặn thì khảy tiếng đàn nghe tuyệt diệu. Thái tử liền ý thức: mình dốc tu cho thành Đạo để độ chúng sanh, nếu tu ép xác hành khổ thế nầy, trí huệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân, rồi làm sao cứu độ được ai ! Liền đó, Ngài tự phát kiến được hai xu hướng sai lầm và con đường Trung Đạo. Từ đó Ngài quyết định ăn uống bình thường lại, đoạn Ngài đến cội Bồ Đề ngồi tham thiền 49 ngày, là đắc Đạo “Vô Thượng Chánh Giác”.
    Lần đầu tiên Ngài trở lại Khổ Hạnh Lâm thuyết pháp “Tứ Diệu Đề” và chỉ con đường Trung Đạo cho anh em Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm vị nầy đều chứng quả A La Hán.
    -HAI XU HƯỚNG SAI LẦM

    Muốn biết thế nào là Trung Đạo, cần phải tìm hiểu hai xu hướng sai lầm.
    1- Trưởng dưỡng xác thịt:
    Sự sai lầm trước hết là lối tu trưởng dưỡng xác thể, trong đây gồm có hai phần:
    a)- Phần thứ nhứt là do lo bồi bổ vật chất cho cuộc sống cao sang, sung sướng trong mọi sự ăn, mặc, ở quá với mức bình thường. Cách ăn, uống, ngủ, nghỉ không biết tiết chế điều độ.
    b)- Phần thứ nhì là nuôi tánh biếng lười, chẳng siêng năng học hỏi và làm việc. Người xưa từng bảo:“Nhàn cư vi bất thiện” (con người sống nhàn lạc sung sướng quá thì hay làm việc chẳng lành). Đúng thế, nếu người tu không siêng năng làm việc, cứ lo ăn uống bồi dưỡng cho xác thể quá sung mãn, thì lòng tham lam dục vọng càng nhiều, khiến cho tinh thần bạc nhược, trí huệ lu mờ, không thể nào tu hành mau sáng suốt được.
    2- Ép xác hành khổ
    Sự sai lầm thứ hai là lối tu ép xác hành khổ, gồm có hai phần nhỏ:
    - Một là không ăn, không ngủ hoặc ăn ngủ quá ít.
    - Hai là làm việc thật nhiều, chẳng kể mưa nắng, quá với sức chịu đựng của xác thể. Bởi xác thân là vật chất, cần phải có ăn uống mới đủ chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Ví như cái máy, có đủ xăng nhớt mới chạy được. Nếu ta cung cấp thức ăn cho cơ thể không đủ, hoặc làm việc quá sức, thì xác thân phải lao tổn, hay nay đau mai ốm. Hễ xác thân bệnh tật rồi thì tinh thần cũng bị yếu kém theo, không còn đủ sức dõng mãnh, hăng hái để tu học Phật pháp.
    II- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO?
    1- Chiết trung tránh sai lầm
    Đã nhận rõ hai xu hướng sai lầm vừa kể trên, Đức Thầy dạy môn đồ không nên tu theo hai lối cực đoan ấy mà phải chiết trung nó lại. Hành giả không siêng năng làm việc, học hỏi, không được; bằng làm việc nhiều quá cũng không xong. Ăn ngủ ít bị lao tổn thân xác, trí lực yếu kém. Còn ăn ngủ quá dư thì sanh biếng lười, mê tối. Cho nên nhà tu nên ăn uống điều độ, lao động vừa với năng lực của mình, để bảo vệ sức khỏe mới có đủ tâm năng, trí lực tu học đạo pháp.
    2- Thực hiện đúng con đường Trung Đạo
    Để cho sự tu hành đúng theo con đường Trung Đạo, mà xưa kia Đức Phật đã phát minh và tu hành đắc Đạo. Hôm nay Đức Thầy cũng dạy tín đồ như thế. Nghĩa là Ngài chẳng hề bắt buộc ai phải tu lối ép xác hành khổ và cũng chẳng bao giờ bảo môn đồ nào sống cảnh sung sướng, cho đến vấn đề ăn chay, ăn mặn cũng thế.
    Trên đường tiến đạo, nhà tu không nên đi mau quá (thái quá) mà cũng không bước chậm quá (bất cập). Ví như đoàn người leo núi đi mau quá thì mệt và hay vấp té nguy hiểm; bằng đi chậm quá thì không kịp đoàn, phải từ từ mà bước một cách thận trọng, tất sẽ được an toàn.
    Đức Thầy cũng không xúi biểu ai phải ăn chay kỳ cố định, hay ép buộc ai phải ăn chay trường. Ngài để tự nhiên cho trình độ giác ngộ và lòng nhân của mỗi tín đồ, tiến lên tới đâu thì tiến:

    Trong bá gia nhiều ít lòng chay”.
    Và: “Chay được tánh chay tâm mới quí”.( ĐT)
    Nhưng có điều quan trọng là mỗi hành giả phải thi hành ba điều cần yếu sau đây:
    III- PHÁP TU CẦN YẾU
    Sau khi Phật Thích Ca tịch diệt thời gian, một hôm Đại Đức Ca Diếp kêu Tôn giả A Nan hỏi:
    -Tôi có nghe trong “Tăng nhứt A Hàm Kinh” Phật thuyết gồm 37 phẩm trợ đạo, có chăng ?

    Tôn giả A Nan đáp:
    -Bạch Đại Đức ! Khỏi cần đến bộ “Tăng Nhứt A Hàm”, chỉ một bài Kệ bốn câu cũng đủ bao hàm 37 phẩm trợ đạo, bài Kệ ấy như vầy:
    “Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành.
    Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”.

    (Điều ác đừng làm, Điều lành gồm làm.
    Tự lắng lấy lòng, Phật dạy như vậy !)
    Ngày nay Đức Thầy tóm tắt bài Kệ ấy, thành ba câu cần yếu là: Làm hết các việc từ thiện. Tránh tất cả điều độc ác và Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
    1- Làm hết các việc từ thiện
    Là làm toàn những việc hiền lành, nhơn đức có ích lợi cho mọi người và vạn loại chúng sanh; tức là lo tu “mười điều lành”, để trả xong nghiệp nợ và tịnh được Tam nghiệp. Và có đáp được “Tứ Ân” mới đền xong phần ân nợ và tạo được vô lượng phước đức:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.
    2- Tránh tất cả những điều độc ác

    Là tránh hết những việc làm có thương tổn đến sanh mạng, danh vị và hạnh phúc của muôn loài, tức là giữ Tám điều răn cấm, đừng cho vi phạm và tránh “Tam nghiệp”, chừa mười điều ác. Chính những sự đó là hột giống của luân hồi sanh tử, là nghiệp nhân sanh ra mưôn ngàn tội lỗi khác. Người tu có chừa được mười điều ác mới dứt được “duyên trần cấu” và gốc tội lỗi tiêu tan, thoát khỏi nghiệp báo luân hồi. Cho nên Đức Thầy bảo: “Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:
    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
    3- Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch
    Bởi tâm ý của mỗi chúng sanh thường nghĩ tưởng việc nhơ xấu, tà ác nên bị vô minh, dục vọng chi phối, như một biển nước đầy cặn cáu. Đức Thầy cho biết: cuộc đời của chúng ta đang sống đây gọi là ác thế ngũ trược.(Kiến trược, kiếp trược, chúng sanh trược, phiền não trược, mạng trược)
    Biển hồng trần lao lý diệu vơi,
    Xô đẩy mãi trong vòng ngũ trược”.
    Hành giả muốn ra khỏi vòng ngũ trược để về nơi thanh khiết, tất phải:“Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”.
    Cho nên Đức Thầy từng kêu gọi:“Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ”.
    Hễ lòng hết bợn nhơ phiền não thì cảnh thanh khiết và Phật tánh hiện bày chớ chẳng phải tìm nơi nào khác:
    Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
    Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.
    ( ĐT)
    Vậy muốn rửa tấm lòng cho trong sạch ta phải làm sao ?
    Theo yếu chỉ PGHH thấy có hai cách rất đơn giản và quan thiết là hành Bát Chánh Đạo và Niệm Phật. Vì trong Bát Chánh Đạo có 6 chánh thuộc về tư tưởng:“Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niện và Chánh Định”. Nếu ai thực hành được sáu chánh đó thì lòng trong sạch, vào Niết Bàn:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”.
    Còn pháp niệm Phật để đối trị vọng tâm phiền não, hễ có tưởng nhớ Phật thì không còn tưởng nhớ việc xấu xa tà khúc hay tham sân si…Nếu niệm Phật được liên tục thì lòng luôn trong sạch thanh tịnh mà vào cõi “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
    Thêm nữa, hành giả có thi hành được ba điều cần yếu vừa kể trên, tất được trọn lành, trọn sáng, tức thân tâm thanh tịnh, công đức viên vun. Cho nên Kinh Phật gọi đó là Tứ Cú Kệ và gồm nhiếp 37 phẩm trợ đạo. Có thể nói ba điều cần yếu bao gồm cả tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì tu đến đây hành giả diệt tận gốc phiền não: tham, sân, si nên gọi là pháp tu quan trọng và cấn yếu hơn hết.

    Tổng kết bài “Phật là gì ?” trước hết Đức Thầy định nghĩa chữ Phật và vạch ra con đường Trung Đạo, đúng theo chân truyền của Đức Phật Thích Ca. Chính nó là con đường tắt nhứt và đưa đến “Tối Thượng Nhứt Thừa”, hành giả không thiên chấp hai bên: hành khổ hay sung sướng, hoặc có không, động tịnh hay nhân ngã, mặn chay…
    “Tu hành nào luận mặn chay,
    Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.( ĐT)
    Sau cùng Ngài dạy pháp tu quan yếu, nếu ai kiên trì tu tập sẽ được thành Đạo giải thoát.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THƯỜNG TỊCH QUANG: Cũng gọi là Pháp tánh Tịnh Độ, là một trong năm điều thanh tịnh an vui. Có nghĩa người tu khi được vào Tịnh Độ thì tâm hồn luôn được an nhiên trong sáng, không còn bị phiền não trược chi phối. Kinh xưa đã bảo; hành giả khi vào được Tịnh độ thì năm điều uế trược sẽ đổi lại năm điều thanh tịnh an vui, như:
    1-Kiếp trược chuyển thành “Thanh Tịnh Hải Hội”.
    2-Kiến trược chuyển thành “Vô Lượng Quang”.
    3-Phiền não trược chuyển thành “Thường Tịch Quang”.
    4-Chúng sanh trược chuyển thành “Liên Hoa Hóa Thân”.
    5-Mạng trược chuyển thành “Vô Lượng Thọ”.
    TỨ ĐẾ: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề. Có nghĩa bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, gồm có: Khổ đề, Tập đề, Diệt đề, Đạo đề.
    “Tứ diệu đề ai có mến ưa,
    Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa
    .( ĐT)
    TRUNG ĐẠO: Cũng gọi là Đường Trung Đạo. Có nghĩa con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:

    1- Theo Khổng Giáo: Trung Đạo là trung dung. Có nghĩa không thái quá, không bất cập, giữ mực bình thường ở giữa thì mọi việc đều được thích trung “Thánh Nhơn ghi sách Trung Dung”( ĐT).
    2- Theo Phật Giáo: Đạo Trung là con đường Đạo, là Đạo trung hòa. Có nghĩa không thiên chấp, như: ép xác hành khổ hay sung sướng hoặc chấp thường, chấp đoạn, có không, động tịnh, lành dữ, lui tới, ngã nhân hay vui buồn, thương ghét, không duyên theo thất tình lục dục. Lìa cả hai bên là đối đãi mà phải xem sự lý, dung thông, sắc không đồng nhứt thể:
    “Thắng thất tình giữ vẹn Đạo Trung,
    Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm
    .( ĐT)
    DỤC VỌNG: Lòng tham vọng ham muốn vật chất: danh, lợi, tình v.v…Đức Thầy dạy:
    “Phải gìn dục vọng lòng tà,
    Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân”.( ĐT)
    MÊ ĐẮM: Say mê đắm đuối theo lợi danh tài sắc, khó dừng lại được như người bị bịnh ghiền.
    TRƯỞNG DƯỠNG: Nuôi lớn xác thể.
    ĂN CHAY: (Xem CT chữ nầy bài Ăn chay, Q.6).

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa chữ Phật ?
    2/-Do đâu người ta xưng tụng Phật là bậc tỉnh thức ?
    3/-Tại sao đời tôn kính Phật là đấng Giác ngộ ?
    4/-Lý do nào Đức Phật tìm ra con đường Trung Đạo ?
    5/-Tại sao Đức Thầy không cho lối tu ép xác ?
    6/-Ta sung sướng có tai hại gì ?

    7/-Muốn tu đúng con đường Trung Đạo phải làm sao ?
    8/-Ba điều cần yếu Đức Thầy rút ở đâu và của ai ?
    9/-Làm hết các việc từ thiện là những gì ?
    10/-Tu thế nào gọi là tránh tất cả điều độc ác ?
    11/-Tại sao Đức Thầy bảo phải rửa tấm lòng cho trong sạch, và gội rửa bằng cách nào ?
    12/-Lý do nào Đức Thầy gọi ba điều nói trên là cần yếu ?
    13/-Hãy tổng kết bài “Phật là gì” ?

    4- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI ĐỨC

    CHÁNH VĂN
    Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:
    1.- Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy- dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não;
    2.- Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng;

    3.- Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã;
    4.- Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng- víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.

    Vậy ta nên niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta đắc được bốn đức ấy.
    Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si).
    Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng-niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được ?
    Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược-nhiễm trần-ai.

    Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp).
    Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ.

    DÀN BÀI
    A- KHAI ĐỀ: Xuất xứ và tiêu đề.
    B- DIỄN ĐỀ: - Tính chất tứ vô lượng tâm.
    - Định nghĩa:
    I- BỐN ĐẠI ĐỨC:
    1- Đức Từ.
    2- Đức Bi.
    3- Đức Hỉ.
    4- Đức Xả.
    II- ĐỘ THAM SÂN SI
    1- Bố thí độ tham lam.
    2- Nhẫn nhục độ sân hận.
    3- Trì giới độ mê si.

    III- NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG
    1- Vọng niệm chúng sanh.
    a)- Niệm ác.
    b)- Niệm bất tịnh.
    c)- Niệm không đâu.
    2- Niệm Phật thay vọng niệm.
    3- Nhất tâm bất loạn.
    4- Niệm cái bản lai thanh tịnh.
    5- Tu thập thiện tịnh tam nghiệp.
    C- KẾT ĐỀ: Chủ đích và tóm tắt.

    LƯỢC GIẢI
    Bài pháp luận nầy Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu); viết theo thể văn xuôi lối thuyết giáo.
    Đức Thầy viết bài nầy không đề tựa, sau đó Ban Sưu tập căn cứ vào mấy chữ đầu, mới tạm đặt cho cái tiêu đề là “Chư Phật có bốn đại đức”. Song nếu nghiên cứu kỹ nội dung của bài, thì đây là Ngài dạy phương cách niệm Phật để thành Phật. Nên có thể gọi là “Niệm Phật Thật Tướng” hay “Niệm Phật Tam Muội”.Vì niệm Phật theo cách nầy sẽ trực nhận “Duy Tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà”, như Kinh Duy Ma đã bảo:“Tâm tịnh tức Quốc độ tịnh”.
    Kinh Phật thường gọi bốn đại đức là “Tứ Vô Lượng Tâm”. Xưa kia Đức Phật thuyết phẩm Kinh nầy để dạy hành giả tu thành Phật, hay nói cách khác là ai muốn thành Phật phải tu bốn đại đức. Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:“Công đức Phật từ bi vô luợng”. Bởi bốn đại đức: Từ, Bi, Hỉ, Xả rộng lớn vô biên, không thể lường tính được, nên gọi là đại đức và vô lượng. Vì thế bài Pháp luận nầy Ngài dạy môn đồ niệm Phật phải hiểu và hành theo hạnh Phật, tức là rèn tập cho mình có được bốn đại đức ấy như chư Phật, bởi Ngài từng dạy:
    “Học câu hỉ xả đại từ,
    Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần”.

    Do đó Ngài định nghĩa chữ niệm Phật là để tưởng nhớ Phật, tức nhớ hạnh từ, bi, hỉ, xả của Phật hầu thực hành theo và được chứng quả như Ngài.
    I- BỐN ĐẠI ĐỨC
    1)- Đức Từ:
    Cũng gọi là Tâm Từ vô lượng. Đức Thầy dạy môn đồ, hãy rèn tập cho mình có được tình thương bao la bình đẳng, chẳng những đối với loài người mà với cả vạn loại chúng sanh:
    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.
    ( ĐT)
    Người tu tâm từ không luận hoàn cảnh hay thời gian, mà bất cứ lúc nào cũng tìm phương cách làm cho chúng sanh bớt tội khổ và được an vui; như: tình cha mẹ đối với các con. Việc làm nầy dầu cho nhiều gian khổ hay cần phải hy sinh đến cả tánh mạng, hành giả cũng an vui thi thố. Như tiền thân Đức Phật đã từng hiến thân cho cọp đói và hóa kiếp làm cá kình cho dân chúng ăn, bớt đói khổ…Đức Thầy từng thốt:
    “Thân ta dù lắm đoạn trường,
    Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”.

    Và:
    “Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
    Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”.
    Tóm lại, tâm từ là lòng thương rộng lớn, không hề biệt phân nhân ngã, thường mang lại sự an vui cho tất cả chúng sanh. Thế nên khi lòng từ ban rải đến đâu, thì sự giết hại, hận thù, oán ghét đều tiêu tan tức khắc:
    Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,
    Chữ từ bi ta diệt nó liền.
    Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
    Thì thù oán tiêu tan mất hết”.
    ( ĐT)
    2)- Đức Bi
    Như đã biết, lòng Từ là thường ban vui, còn tâm Bi là luôn cứu khổ (Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanhn chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ). Cũng vì mục đích ban vui cứu khổ ấy mà xưa Thái tử Sĩ Đạt Ta quyết chí lìa quách thành, thê tử để tìm ra chánh Đạo nhiệm mầu, cứu khổ chúng sanh:
    “Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.

    Và:
    “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh,
    Độ người lao khổ dạ không phiền”.
    ( ĐT)
    Cho đến chư Phật ba đời cũng có tâm Bi như vậy. Đức Thầy hiện nay cũng vì lòng bi mẫn, thấy chúng sanh đang ngụp lặn trong bể trần tội khổ, nên Ngài chẳng nỡ an “ngồi nơi ngôi vị, hưởng quả Bồ đề trường thọ” mà phải lâm phàm, khai thông Đại đạo, để “Rước đưa sanh chúng rời bể ái”. Và:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.Ngài còn phát đại thệ:

    “Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo,
    Đuốc từ bi rọi khắp cả nhơn gian.
    Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,
    Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”.

    Đại để tâm Bi của chư Phật và Đức Thầy có khác hơn người thường và bất cứ hạng người nào, các Ngài vẫn xót thương cứu khổ đồng đều, dù kẻ biết nghe lời hay không, chẳng hề có sự ghét thương, nhân ngã:
    Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.( ĐT)
    3)- Đức Hỉ
    Tâm Hỉ là lòng an vui thường nhiên bất biến, không phải như sự mừng vui trong thất tình. Tâm hỉ ban rải đến đâu, phiền não tiêu tan đến đó, như gió thổi mây tan huệ nhựt hiện bày.
    Song muốn được kết quả như trên, hành giả phải có một lối sống “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. Lần đến “Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi”. Và nếu trên con đường tiến tới mục đích dầu có gặp nhiều chông gai thử thách ta cũng đừng phiền lòng, nao núng, luôn kiên nhẫn vượt qua tất được toại nguyện. Đức Thầy đã nêu lên ý chí đó qua một đoạn giảng:
    “Bể trần sóng cuộn lao xao,
    Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen.
    Quản chi lực kém tài hèn,
    Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.
    Soi từ đài các xá liều,
    Cho người trụy lạc biết điều nghĩa nhân”.

    4)- Đức Xả
    Tâm xả là lòng buông bỏ, không vướng mắc. Chư Phật có buông bỏ nên được giải thoát an vui, chúng sanh vì còn chấp nê, vướng bận nên còn sanh tử luân hồi.
    Để rèn luyện tâm Xả, đời sống của người tu tuy còn phải va chạm với vạn pháp trong thế gian, từ hữu vi đến vô vi, thế gian hay xuất thế gian, lành hay dữ v.v…Nhưng lòng chẳng để nhiễm ô, kẹt mắc vào pháp nào. Nhận rằng ai cũng có gây tạo ít nhiều nghiệp duyên không tốt từ trước, như: danh, lợi, tình v.v…Giờ đây, đang bị nó trói trăn, sai khiến, nhưng hành giả phải sẵn sàng buông bỏ.
    Thuở xưa, lúc Đức Phật còn trụ thế, thuyết pháp độ sanh, có một thầy Bà La Môn tên Mông Tây Đen rất kính trọng Phật. Hôm nọ ông dùng thần thông nhổ hai cây bông khổng lồ, để nguyên cả cành rễ hoa lá, nắm chặt mỗi tay mỗi cây, bay đến xin dâng cho Phật.
    Đức Phật gọi tên ông. – Ông dạ !
    Phật liền bảo:“Buông xả xuống đi !”
    Thầy Bà La Môn liền bỏ cây hoa bên tay trái xuống trước mặt Phật.
    Phật lại bảo:“Buông xuống nữa đi !”
    Thầy Bà La Môn liền bỏ luôn cây hoa bên tay mặt.
    Nhưng Phật lại bảo tiếp:“Hãy buông nữa đi !”
    Thầy Bà La Môn liền bạch hỏi:
    - Tôi còn cái gì nữa đâu mà Phật bảo phải buông bỏ nữa ? Vậy Phật muốn dạy tôi điều gì ?
    Phật đáp:
    - Ta không hề bảo ngươi buông hết mấy cây hoa, mà ta bảo ngươi bỏ ở đây là bỏ hết sáu căn, sáu trần và sáu thức. Khi người bỏ được hết, đến không còn cái gì nữa để bỏ. Đó là lúc người thoát ly tất cả sự ràng buộc của sanh tử luân hồi.
    Thời nay Đức Thầy dạy môn đồ tu tâm Xả cũng thế:
    Cõi hồng trần các việc mến ưa,

    Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.
    Còn đối với những người gây khổ cho ta, thì ta nên rộng lượng tha thứ tất cả, lúc nào cũng an nhiên bình đẳng, xem thân tâm mọi người và vạn vật (vạn pháp) cũng như thân tâm ta (vạn vật đồng nhất thể).
    Hành được tâm Xả, hành giả chẳng còn chấp tâm, chấp pháp, nhân ngã hận thù, có không, cao thấp. Kinh xưa đã nói:“Hạnh vô hành hạnh, tu vô tu tu”.(Làm được các hạnh lành mà không chấp mình có hành, tu các pháp thiện mà không thấy mình có tu). Đức Thầy nay đã dạy:
    Chúng sanh mê nên đem ra thuyết,
    Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.

    Đại lược hành giả có tu được đức xả thì lòng chấp mắc, nhiễm ô không còn, cho đến cái tâm không chấp mắc, ô nhiễm cũng không thấy có.
    Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.
    Tóm tắt, nhà tu khi thực hành được bốn đại đức: Từ, bi, hỉ, xả tức chứng được tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Ấy là thành Phật tại thế gian.
    II- ĐỘ THAM SÂN SI
    Người niệm Phật muốn trở về bản lai thanh tịnh, theo ý Đức Thầy dạy: ngoài việc tu tập “Bốn Đại Đức” từ, bi, hỉ, xả còn cần phải dùng ba phương pháp: bố thí, trì giới, nhẫn nhục để độ tham, sân, si. Vì tham, sân, si là nguồn gốc sanh ra ma trược phiền não:“Tà kiến tam độc thật Ma Vương”.(Kinh Pháp Bửu Đàn) Tại sao không gọi là Diệt mà lại gọi là Độ ?
    Vì phiền não tức là Bồ đề, chúng sanh tức là Phật. Xưa, chư Phật cũng từ tâm chúng sanh (tham, sân, si) tu thành Phật, nếu diệt nó lấy đâu làm đối tượng tu hành. Cho nên Đức Thầy mới dùng chữ Độ, tức là chuyển hóa từ tà ra chánh, từ phiền não ra Bồ đề, dữ ra lành, mê ra giác ngộ.
    1)- Bố thí độ Tham
    Là chuyển lòng tham lam trở thành bố thí, bởi tánh tham lam ích kỷ là nguyên nhân sanh ra tội khổ và sanh tử luân hồi. Lòng ham muốn là con đường dắt người vào Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh. Còn Bố thí là chiếc thuyền vượt sông mê, sang bờ giác. Thế nên ai muốn giải thoát an vui, phải chuyển hóa lòng tham lam ích kỷ ra bố thí:
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.
    ( ĐT)
    Khi nhìn thấy người gặp khổ nạn, thiếu ăn thiếu mặc, không nhà ở, thuốc uống ta biết khởi lòng thương xót và trợ giúp từ tinh thần lẫn vật chất: (Tài thí, pháp thí và vô uý thí), thế thì có lý nào ta muốn bao gồm vật sở hữu của kẻ khác về làm của mình. Nhờ đó, lòng tham lam tan dần cho đến khi dứt sạch.

    Hơn nữa người có lòng bố thí đã rõ vạn pháp trong thế gian, như: của cải, gia tài, vàng bạc là của “năm nhà”, chớ không thật của ta. (Xưa, có một nhà Vua, cai trị một nước lớn. Sau khi du ngoạn khắp nước, vua thấy dân chúng trong nước rất giàu sang, có nhiều gia đình xấp xỉ với vua quan. Vua động lòng tham bèn ra lịnh; buộc mỗi nhà dân phải hiến một phần ba tiền của vào công quỹ Quốc gia.
    Lịnh ấy ban ra, dân chúng đều nhôn nhao, ta thán ! Song vì lịnh Vua…nên cuối cùng ai cũng đem nạp tài theo vụ lịnh. Riêng có một Cư sĩ nọ chở hết tài sản đem nạp cho Vua. Vua ngạc nhiên, hỏi:

    -Trẫm chỉ nhận một phần ba thôi, tại sao ngươi đem nạp hết thế nầy ?
    Vị Cư sĩ trả lời:
    -Vì hạ thần nghĩ: Của trong thế gian là của năm nhà chớ không phải của riêng một ai !
    -Ông phải giải thích cho trẫm rõ !

    -Tâu bệ hạ !
    Thứ nhứt là của nhà lửa: Ví như tài vật của hạ thần như thế nầy, nếu gặp một cuộc hỏa hoạn thì bao nhiêu cũng làm mồi cho ngọn lửa.
    Thứ nhì là nhà lụt lội: Dù gia tài sự nghiệp nhiều thế nào đi nữa, hễ gặp trận bão lụt thì cũng bị cuốn theo dòng nước.
    Thứ ba là nhà giặc cướp: Hiện giờ dù tài vật có nhiều đến đâu, nhưng gặp thời giặc cướp dấy loạn thì ai cũng chỉ còn hai bàn tay trắng.

    Thứ tư là nhà con cháu phá tan: Nếu gia đình nào, con cháu biết hiếu thuận từ hòa là có phước; bằng gặp đám con ngỗ nghịch, lười biếng ăn chơi, sa ngã theo tửu, sắc, tài, phiến; quậy phá lung tung thì chỉ thời gian, tiền của ấy cũng phải tiêu sạch.
    Thứ năm là nhà xung công: Như tài vật của dân chúng trong nước mình đây, may gặp Bệ hạ là Vua nhơn từ, chỉ ra lịnh xung công một phần ba là phước. Bằng như rủi gặp ông Vua ác đức ra lịnh xung công toàn bộ, thì dân chúng cũng phải đành chịu chớ sao ?
    Do vậy, mà tôi quyết định mang tài vật nạp hết cho Bệ hạ.
    Nghe vị Cư sĩ nói xong, Vua suy nghĩ giây phút. Liền đứng dậy ban khen Cư sĩ: Ông thật khéo cảm hóa được lòng ham muốn của ta. Đồng thời truyền bãi bỏ vụ lịnh ấy, tài vật của ai hãy đem về nhà nấy ! Vua bắt đầu tu chỉnh thân tâm và giáo hóa toàn dân hành thiện, tránh ác. Chẳng bao lâu nước của Ông trở nên phú cường an lạc. Đây là một tấm gương sáng chói trong “Tiền Thân Đức Phật”).
    Còn thân bằng quyến thuộc, đến cái xác thân của ta cũng không giữ được lâu bền, huống chi là mọi sự vật ở ngoài thân:
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.( ĐT)
    Thế nên nhà tu lúc nào cũng sẵn sàng đem vật sở hữu của mình đổi lấy cái chơn không bất hoại, như Đức Thầy đã khuyên:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Ấy là “bố thí vô trụ tướng”, tức là thí mà không kiến chấp mình có thí và người nhận cũng không thấy có danh tướng hay vướng mắc gì cả “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
    2)- Nhẫn nhục độ Sân
    Chuyển lòng Sân hận trở thành nhẫn nhục. Bởi tánh nóng giận thường chuốc lấy nhiều tai hại:

    a). Bên ngoài thì gây thù kết oán lưu truyền nhiều kiếp đoạn tuyệt tình nghĩa giữa bà con thân hữu, lại còn sanh muôn ngàn tội lỗi như Bà Thanh Đề trước kia…Kinh Phật thường nói:“Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”(một tư tưởng nóng giận nổi lên thì trăm muôn cửa tội chướng đều mở rộng).
    Đức Thầy nay cũng diễn tả:
    “Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
    Nên loài người ở cõi thế gian.

    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
    Mới có cuộc tranh tài đấu lực.

    Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức,
    Phải bị người hềm khích ghét ganh.
    Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo”.

    b). Bên trong thì làm cho trí huệ tối tăm, “giận mất khôn” và bị nó đốt cháy bao nhiêu công phu tu tập của mình từ trước. “Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” (Một đốm lửa lòng nóng giận phát lên đốt cháy cả rừng núi công đức của mình đã bòn mót từ trước).
    Vì thế, Đúc Thầy dạy: hãy lấy đức tánh nhẫn nhục để độ rổi lòng sân hận. Nhẫn nhục là tâm biết nhịn chịu sự xấu xa hèn kém do kẻ khác trút lên cho mình, hoặc họ dùng võ lực đánh đập đàn áp hay lời lẽ nặng nhẹ mắng nhiếc ta, ta cũng cố gắng nhẫn nhục cho kỳ được. Đức Thầy thường khuyến tấn:
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người”.

    Vào mùa Xuân năm 1940, trên con đường du Sơn, Đức Thầy có nghỉ đêm tại Điện Đá Dựng (Thiên Cẩm Sơn). Ngài có kêu hỏi một số tín đồ cùng đi:
    -Nếu có người đem cho mình một món đồ mà mình không nhận thì họ làm sao ?

    Một người trong số tín đồ đứng lên trả lời:
    -Nếu mình không nhận, chắc họ đem về, phải không Thầy ?
    Ngài đáp:
    -Đúng thế ! Nếu người ta dùng lời nặng nhẹ nói xấu, hoặc chửi mắng hay đánh đập, hiếp đáp mà mình nhịn được thì bao nhiêu nghiệp quả, người đó tự mang lấy. Các ông nên rèn tập đức tánh nhẫn nhịn.
    Xưa, Đại Tiên Xằn Đề Ba La nhờ áp dụng phương pháp nhẫn nhục mà cảm hóa được Vua Ca Lợi Vương và quần thần hồi tâm hướng thiện, và nhiều kiếp sau ông thành đạt ngôi Phật quả.
    Lại nữa, gốc sân hận thường ăn sâu trong tâm thức, hành giả muốn độ tận nó phải nhẫn luôn cả tâm ý, hận thù độc ác, vọng nhiễm trần ai và sự đói đau lạnh nóng. Hãy nhẫn nó lúc mới khởi nghĩ chớ đừng để phát ra lời nói, việc làm rồi mới nhẫn. Cũng như diệt cỏ, hãy diệt từ lúc mới nẩy mầm, chớ để nó đâm chồi nẩy tược mà khó trừ. Đức Thầy dạy:
    “Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự.
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên”.

    Tóm lại, nếu mỗi hành giả nhẫn được theo các phương cách vừa kể trên, thì gốc sân hận không còn và chuyển thành đức nhẫn vô sanh. (tức Vô Sanh Pháp Nhẫn, trọn đủ ba phần: Sanh nhẫn, pháp nhẫn và vô sanh pháp nhẫn.)
    3). Trì giới độ Mê Si
    Chuyển Mê si trở thành Giới, Định, Huệ: Mê si là tối tăm lầm lạc, không sáng tỏ, nó đồng nghĩa với vô minh. Sự mê tối nầy vốn sẵn có từ hồi vô thỉ:
    Ác thứ mười đoạn chót mê si,
    Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
    Màn vô minh che mờ căn trí,

    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.( ĐT)
    Bởi tối tăm mê dốt thường hay nhận ngụy làm chơn, tà chánh lộn lầm, nhận xét mọi việc không đúng sự thật (chơn lý). Như số người mù rờ một con voi…Chính mê si là đầu mối của tà kiến, là gốc sanh ra mười điều ác và luân hồi sanh tử. Cho nên Đức Thầy dạy môn đồ phải trì giới để độ nó. Tại sao thế ?
    Vì mê si là đối tượng của trí tuệ, tức là tối và sáng. Nó đồng một thể chất, như trong cái nhà ban đêm không đốt đèn thì tối, bằng ông chủ nhà đốt đèn lên tất nhà sáng. Tâm của mỗi chúng sanh cũng thế, nếu có mê si thì không có trí huệ, bằng có trí huệ thì mê si chẳng còn.
    Vậy muốn có trí huệ thì tâm của hành giả phải định, và muốn có định phải trì giới. Hiểu xuôi lại là nhờ trì giới tâm mới được định, tâm định thì trí huệ hiện bày. Đây là pháp tu: Giới, định, huệ mà Kinh xưa thường gọi: dùng tam học: giới, định, huệ để trừ tam độc: tham, sân, si.
    Giờ đây, Đức Thầy chỉ nói trì giới, nhưng trong giới gồm có đủ định và huệ.
    Vậy phải trì giới bằng cách nào ?
    Đức Thầy có dạy:Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”.
    Và: Nếu ai mà biết chữ tu trì,Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.
    Tu trì là trau sửa và gìn giữ giới luật. Tâm của mỗi người trước kia đều yên lặng tự nhiên như mặt nước hồ, nhưng vì bất giác vọng niệm nên có xác thân, có thân tất có 6 căn như 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; bị 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thổi vào làm biển lòng nổi sóng, khiến cho tâm loạn động. Hễ hồ tâm bị động thì cặn cáu (phiền não) nổi lên, khiến nước đục ngầu, tức mê tối thêm nữa.
    Giờ đây, bắt đầu trì giới, là đóng 6 căn đừng cho 6 ngọn gió trần thổi vào. Nghĩa là giữ 6 căn đừng duyên nhiễm theo 6 trần, tức tâm được định thì trí huệ liền phát khai và mê si tan mất. Cũng một cái tâm đó, nhưng trước thì ô nhiễm vọng động nên tối, giờ tâm hết vọng nhiễm và yên lặng nên mê tối tan mất, đèn trí tỏ rạng. Đức Thầy đã bảo:

    Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiến,
    Tánh trong như nước bích mùa xuân”.
    Đại khái hành giả muốn trì giới để độ mê si. Theo Đức Thầy dạy là phải lấy tâm làm chủ sáu căn:
    “Làm cho chúng phục tùng chơn lý,
    Trong xác thân giám thị lục căn.
    Đừng cho chúng tính lăng quằng,

    Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần”.( ĐT)
    Thật vậy, khi ta chỉ huy được sáu căn không duyên nhiễm theo sáu trần, giữ được liên tục như vậy, cho đến khi không còn giữ mà tâm (ông chủ) vẫn như như bất động thì định huệ đạt thành, như gió thổi mây tan, trời trong trăng tỏ.
    Vạn lý vô vân vạn lý thiên”.(?)
    Tóm lại Đức Thầy dạy môn đồ, dùng bố thí, nhẫn nhục, trì giới để độ tham, sân, si, đó là ba chiếc đò trong sáu chiếc đò của hạnh Bồ Tát. (Lục độ vạn hạnh, cũng gọi là Lục Ba La Mật. Tức 6 chiếc đò đưa đến bờ bên kia. Ấy là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ.) Ai thực hành được sẽ có diệu năng độ mình, độ chúng đồng đăng giác ngạn. Đức Thầy có dạy:
    “Chúc ông thoàn nhã vững lèo,
    Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu”.

    III- NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG
    Theo ý trong đoạn phương pháp niệm Phật là Đức Thầy dạy phương cách niệm Phật thật tướng, cũng gọi là niệm Phật tam muội (chánh định). Nghĩa là Ngài dạy niệm Phật theo cách nầy sẽ được trở về với thật tướng chơn như, tức là Bản lai thanh tịnh của chính mình, hành giả sẽ chứng đạt:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”.Song hành giả muốn niệm Phật theo cách nầy, trước phải biết rõ vọng niệm chúng sanh ra sao?
    1- Vọng niệm chúng sanh: Là tưởng nhớ sự mê lầm, cũng gọi là niệm thế trần. Trong đây gồm có 3 phần:
    a)- Niệm ác: là tưởng nhớ những việc có va chạm tổn thương đến quyền lợi, danh vị, sanh mạng và hạnh phúc của người khác, kể cả các sanh vật có tri giác, khiến họ phải đau đớn buồn khổ, bực tức hận thù. Ai tưởng niệm như thế sẽ chuốc lấy quả khổ đau trong hiện tại hoặc gieo nhân luân hồi đền trả mãi mãi…

    b)- Niệm bất tịnh: Là ưóc mơ nghĩ tưởng những việc không trong sạch, như: năm điều dục lạc, sáu trần cảnh hoặc thất tình lục dục…Chính các điều ấy làm cho lòng mình tán loạn và mờ đục mảnh gương trí huệ, nên gọi là niệm bất tịnh. Đức Thầy hằng khuyên:“Hãy dẹp gát nhớ câu Lục tự”.
    c)- Niệm không đâu: Là tuởng nhớ việc bâng quơ, tức tưởng nhớ việc viễn vong, mơ hồ không thiết thực; kể cả việc qua rồi hay việc chưa tới, cũng vẫn nhớ. Sự tưởng nhớ nầy tuy không có hại cho ai, nhưng chẳng được lợi ích gì cho mình và mọi người, lại còn choán mất thời gian niệm Phật và việc trau giồi đạo đức, trí huệ của ta.
    Tóm lại sự tưởng nhớ việc thế trần vừa kể trên tức là vọng niệm chúng sanh. Từ trước tới giờ nó sai sử tâm trí ta, từ niệm sai lầm nầy, dính chuyền qua niệm sai lầm khác, không phút nào dừng nghỉ, như con vượn chuyền cây (tâm viên). Chính nó là niệm mê lầm, là vọng niệm phiền não, ngăn che làm cho tâm trí ta mờ ám, chẳng lúc nào được an vui giải thoát.
    2- Niệm Phật thay vọng niệm
    Đức Thầy dạy:“Phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh”. Có nghĩa khi biết rõ mặt mày của vọng niệm chúng sanh, hành giả phải dùng niệm Phật thay vào, đổi niệm chúng sanh ra.
    Lúc chưa tu, tâm trí ai cũng tưởng nhớ toàn là việc chúng sanh, khi được bước chân vào cửa Đạo thì có khi tưởng Phật, có lúc tưởng chúng sanh, tà chánh, vọng chơn, quấy phải lộn xộn, đó gọi là tâm ô tạp hay rối loạn. Vì mới tu phần đông chỉ tu theo hình thức bên ngoài, chưa kiểm lại lòng mình, nên có người tu đôi ba chục năm, mà vẫn chưa thấy an tâm…Đến khi có dịp chúng ta đọc qua các câu giảng của Đức Thầy:
    Thấy đạo lý chớ nào thấy tánh,
    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

    Hoặc:
    Khó tìm cho gặp chủ nhơn ông,
    Còn ẩn ánh trong vòng sanh chúng”.
    Hay là:Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”.
    Nghiệm xét theo đây ta mới nhận rõ chơn tánh, chủ nhơn ông, hay tâm Phật còn lẫn lộn trong tâm chúng sanh của mình. Nhờ đó, chúng ta mới chịu ngó vào nội tâm mà kiểm soát chọn lọc để chuyển vọng huờn chơn, như Đức Phật Thầy Tây An từng dạy:
    “Lọc lừa thì đặng nước trong,
    Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu”.

    Đức Thầy nay cũng khuyên:

    “Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.
    Lọc lừa hay thay đổi, chuyển hóa cũng đồng một lý. Nhà tu cứ niệm vào một niệm Phật, thay ra một niệm thế trần. Song nên nhớ niệm Phật bằng tâm tưởng mới kết quả, chớ không phải niệm lớn ra tiếng. Vì có khi miệng niệm Phật lớn mà tâm lại tưởng nhớ việc khác, nên không được “Nhất tâm bất loạn”. Vậy ta cứ niệm Phật thay niệm chúng sanh liên tục như thế mãi cho đến khi tâm tưởng ta không còn một niệm thế trần nào.
    Điều căn bản của sự niệm Phật trước nhứt là phải thấy tâm và chủ tâm:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”( ĐT). Rồi tưởng nhớ đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc tưởng nhớ Từ, Bi, Hỉ, Xả vì bốn đức ấy là Phật…Cũng có thể niệm thêm “Tam bảo tự tánh”.(Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng : trở về tánh giác ngộ là niệm Phật; trở về lòng chơn chánh là niệm Pháp, trở về bản lai thanh tịnh là niệm Tăng) Đó là niệm trí giác ngộ, niệm giáo pháp chơn chánh và niệm lòng thanh tịnh. Nghĩa là lấy giác ngộ trừ mê lầm, lấy giáo pháp chơn chánh trừ tà quấy, lấy tâm thanh tịnh trừ loạn động, nhơ xấu.
    Lại nữa, tâm thức của mỗi người từ trước ví như cái túi đựng lộn lạo hai thứ; đậu đen và đỏ. Giờ đây ta lựa nó ra, hễ để một hạt đậu đỏ vào, lấy một hạt đậu đen ra; cứ như thế mà đổi hoài, đổi mãi, cho đến khi còn toàn đậu đỏ tốt lành. Hành giả cứ niệm Phật theo phương cách nầy liên tục mãi cho đến khi “Nhất tâm bất loạn” tất tan hết chướng nghiệp mà vào cõi giải thoát.
    “Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp,
    Thuyền từ Thầy rước lại Non Bồng”.( ĐT)
    3- Nhất tâm bất loạn
    Nhất tâm là một lòng không tưởng khác, chỉ một lòng nhớ Phật, nghĩ chánh không còn xen tạp một niệm tà quấy hay ô nhiễm trần mê nào. Đến đây là dứt được tận gốc lòng ham muốn và các tình dục. Sự niệm Phật nầy phải được liên tục, trong mọi sự sinh hoạt đời sống hằng ngày, như: đi, đứng, nằm, ngồi, uống ăn, ngủ nghỉ…
    Đức Thầy đã dạy:
    Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
    Thì hiền lương quên mất điều ta,
    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”

    Và:
    “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,

    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.
    Một trong số tín đồ của Đức Giáo Chủ PGHH, khi đã thực nghiệm phương pháp niệm Phật nầy có viết:
    “Đi đứng niệm Di Đà. Nằm ngồi trì Lục tự.
    Thức cũng tưởng A Di. Ngủ cũng ghi Sáu chữ.

    Nói cũng nhớ Nam Mô. Nín cũng ôm Phật sự.
    Cực Lạc muốn vãng sanh. Cứ hành y như thử”.

    Và:
    “Niệm Phật lúc nào cũng niệm luôn,
    Nằm ngồi đi đứng niệm không buông.
    Lúc chưa thuần thục còn xao động,

    Khi đã rành quen hết rối cuồng.
    Đứt đoạn buổi đầu đừng thối chuyển,
    Nối liền phút cuối sẽ tròn vuông.
    Dù Thiền dù Tịnh dù muôn pháp,
    Tự chủ nơi tâm ấy cội nguồn”.

    Nếu hành giả nhứt tâm niệm theo phương cách của Đức Thầy và người đệ tử vừa lý giải trên thì tâm trí chẳng còn loạn động (Nhất tâm bất loạn) lúc nào cũng an nhiên thanh tịnh.
    4- Niệm cái Bản Lai Thanh Tịnh
    Là niệm cái vô niệm (vô vi thật tướng). Đây là tới chỗ pháp môn không hai, tức không có phân biệt Thiền hay Tịnh; mà trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền, dung thông cả vạn pháp. Đức Lục Tổ xưa đã bảo:“Pháp Ta lấy vô niệm làm Tông”. Và “Vô niệm niệm mới chánh, có niệm niệm thành tà”.

    Tuy hành giả niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhưng cũng còn vướng bận một vài tập khí phiền não. Vì còn thấy mình có được nhất tâm niệm Phật và có chứng đắc, tức còn cái tà trong đó. Cũng như người tu Thiền Tông tới chỗ “Tâm vô Tâm”, cũng còn cách một quan ải nữa, nên phải tiến tới “Bình thường tâm” mới tới đích. Còn người niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn, cần phải tiến vào “Bản Lai Thanh Tịnh”. Nghĩa là đối với mọi cảnh tượng lành dữ, động tịnh tâm trí vẫn như như bất động. Bấy giờ không niệm mà niệm, niệm mà không niệm, tâm tư không còn kẹt một pháp nào dầu dữ hay lành, thế gian hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi…Cho đến cái chứng đắc cũng không thấy có, ấy là được hòa vào “Bản lai thanh tịnh”“Phật hóa tánh tình”. Và cũng là:
    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,
    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)
    5- Tu Thập thiện và tịnh Tam nghiệp
    Đến đây Đức Thầy nhắc lại cho nhà tu nên nhớ là muốn vào được “Bản lai thanh tịnh” trước phải tu căn bản từ hành thập thiện và tịnh tam nghiệp đi lên. Vì trong ý nghiệp có tham, sân, si là gốc sanh ra vọng niệm chúng sanh và tâm tán loạn, nên khi tịnh được tam nghiệp thì quả vị thanh tịnh (Phật) sẽ đến một cách dễ dàng.
    Tại sao Đức Thầy dạy tịnh Tam nghiệp, dứt thập ác và hành Thập thiện đi cập nhau?
    -Vì tâm ta ví như miếng đất tốt (tâm địa), hễ đất tốt là lúa tốt, nhưng cỏ cũng mọc dẫy đầy. Vậy khi nhổ cỏ xong nhà nông phải gieo lúa xuống liền, rồi chăm sóc thời gian lúa tốt lên, cỏ mới hết. Bằng nhổ cỏ mà không gieo lúa, ít lâu cỏ sẽ mọc lại như cũ. (Cỏ dụ cho Tam nghiệp, Thập ác; lúa dụ cho hành Thập thiện).Cho nên Đức Thầy dạy chúng ta tịnh Tam nghiệp và hành Thập Thiện song đôi. Đây là cách tu thay đổi tiện lợi nhất, cũng như cách niệm Phật thay niệm chúng sanh đã giải trên.
    Vả lại có hành Thập Thiện, diệt Thập ác mới tịnh được Tam nghiệp, mà tịnh được Tam nghiệp là nền tảng để xây cất trên đó tòa lâu đài Phật quả (Bản lai thanh tịnh). Nếu nền móng không vững chắc, tòa lâu đài bị sụp đổ. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:“Cần tu thập thiện thì sự niệm (?) mới có hiệu quả”.

    A- KẾT ĐỀ
    Đại khái bài “Chư Phật Có Bốn Đại Đức”, cũng gọi là niệm Phật thật tướng, chủ đích là Đức Thầy dạy môn đồ, niệm Phật để đạt đến Bản lai thanh tịnh, tức là thành Phật tại thế gian. Trước nhất hành giả rèn tập cho mình có được bốn đại đức:“Từ, Bi, Hỉ, Xả” đồng thời phải chuyển hóa Tham, Sân, Si trở thành Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới và đổi niệm chúng sanh ra niệm Phật, bằng cách thay đổi liên tục, cho đến khi thuần nhứt chánh niệm, chẳng còn một tư tưởng trần mê nào xen tạp để được “Nhất tâm bất loạn”. Song hành giả nên nhớ “trước phải hành trì điều căn bản là tịnh Tam nghiệp, diệt Thập ác và hành Thập thiện làm nền móng để tiến tới mục đích cuối cùng là “Bản lai thanh tịnh”, tức hiểu được:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    PHÁP: Phạn ngữ là Phamma, phiên âm là Đạt Ma hay Đan MaĐamMô. Tàu dịch là Pháp. Có nghĩa là sự vật (vạn pháp). Bất cứ sự vật chi dù nhỏ dù lớn, hữu hình hay vô hình, vô vi hoặc hữu vi, chơn thật hay hư vọng, tốt hoặc xấu, lành hay dữ. Và từ lý lẽ thưòng sự nhỏ hẹp trong gia đình, đến nguyên tắc lớn của tôn giáo hay uy lực chung của vũ trụ đều gọi là pháp.
    Người tu đức xả cứ tùy duyên mà sử dụng chớ không hề chấp kẹt hay vướng bận một pháp nào. Ấy mới gọi là Niết Bàn giải thoát.
    Xưa Đức Phật giáo hóa 49 năm mà Ngài vẫn thốt:“Suốt 49 năm ta chẳng thốt một lời nào cả”. Nay Đức Thầy cũng bảo:
    Chúng sanh mê nên đem Pháp thuyết,
    Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.
    VƯỚNG VÍU: Mắc phải, dính vào, không buông rời ra.
    LUYẾN ÁI: Yêu mến, quấn quit. Ví dụ: luyến ái danh, lợi, tình, ngũ dục hay nam nữ luyến ái.
    BẢN LAI THANH TỊNH: Cái nguyên lai trong sạch, cái gốc yên lặng, trong sáng từ trước. Là một trong nhiều danh từ chỉ cho Phật tánh, như: Chơn tâm, như như, Như Lai, viên giác, thật tướng, Chơn như…

    Đức Thầy cho biết:
    Đem về giác tánh chơn như,
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.
    TRƯỢC NHIỄM: Cũng gọi là nhiễm trược. Trược là dơ bẩn, cặn đục, xấu xa, lộn xộn. Gồm có ba thứ: thân trược, khẩu trược và ý trược. Kiếp hồng trần của mỗi chúng sanh có năm thứ trược: Kiếp trước, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược. Nhiễm là nhuộm thấm, dính ghiền. Nói chung nhiễm trược là ghiền nhiễm những điều xấu xa, nhơ đục, quấy ác. Nó đã thấm nhiễm trong tâm ta lâu đời khó gội rửa được. Trược nhiễm là đối tượng với thanh tịnh.
    Cho nên Đức Thầy khuyên môn đồ hãy nương về với thể thanh tịnh để tâm hết trược nhiễm trần ai, tức mình với Phật đồng hoà hay gọi là “Phật hóa tánh tình”.

    CÂU HỎI
    1/-Cho biết xuất xứ và văn thể của bài “Chư Phật Có Bốn Đại Đức” ?
    2/-Tiêu đề của bài Pháp luận trên ra sao ?
    3/-Phật dạy tu Bốn Đại Đức để kết quả gì ?
    4/-Tại sao Đức Thầy dạy niệm Phật phải tu bốn Đại đức ?
    5/-Hãy định nghĩa chữ niệm Phật ?
    6/-Muốn có đức Từ phải rèn tập như thế nào ?
    7/-Tu đức Bi ra sao ?
    8/-Tu tâm Hỉ như thế nào ?
    9/-Muốn có đức Xả phải làm sao ?

    10/-Người có đủ bốn Đại đức kết quả như thế nào ?
    11/-Tại sao Đức Thầy dạy dùng Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới để độ Tham, Sân, Si ?
    12/-Tánh tham lam có tai hại gì, muốn độ nó phải làm sao ?
    13/-Cho biết tai hại của lòng Sân và làm sao độ nó ?
    14/-Mê si có tai hại gì và dùng cách chi chuyển hóa nó ?
    15/-Cách niệm Phật theo bài “Chư Phật có bốn Đại đức” là phương thức gì ?
    16/-Vọng niệm chúng sanh ra sao; giải rõ ra ?
    17/-Vọng niệm chúng sanh có tác hại như thế nào ?
    18/-Muốn dứt niệm chúng sanh ta phải thay đổi ra sao ?
    19/-Niệm Phật như thế nào gọi là Nhất tâm bất loạn ?
    20/-Niệm bản lai thanh tịnh là gì ?
    21/-Tại sao diệt Thập ác và tu Thập thiện phải thực hiện một lượt ?
    22/-Hãy tổng kết bài “Chư Phật có bốn Đại đức” ?

    5- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ
    (Pháp Tứ Diệu Đề, Đức Thầy giảng hai lần: năm 1939 và năm 1942. Vì tùy theo cơ duyên mà Ngài viết có khác đôi phần. Là môn đồ, chúng ta cần học hết để dung thông cả hai.
    Cũng cần nên biết thêm, lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu ông Nguyễn Chi Diệp có đến hỏi:“Sao bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề, Đức Thầy chỉ luận giải có bốn điều thôi ? Ngài đáp: Khổ đề là tám điều khổ Thầy đã viết trong Khuyến Thiện (Quyển 5). Còn Tập đề là Thập Nhị Nhân Duyên, Đạo Đề là Bát Chánh Đạo trong Quyển 6. Diệt Đề là Môn Hoàn Diệt, Thầy đã viết rồi hết. Dàn bài nầy ông Diệp lưu giữ mãi. Trước khi từ trần, Ông có kể lại cho chúng tôi nghe, nên chúng tôi căn cứ vào đây mà biên soạn”.)

    DÀN BÀI
    I- KHAI ĐỀ
    -XUẤT XỨ - VĂN THỂ
    II- DIỄN ĐỀ
    -ĐỊNH NGHĨA:
    A- KHỔ ĐỀ: (Gồm có các sự khổ trong đời)
    1- Sanh khổ.
    2- Lão khổ.

    3- Bệnh khổ.
    4- Tử khổ.
    5- Mưu cầu bất đắc khổ.
    6- Ái biệt ly khổ.
    7- Oan tắng hội khổ.
    8- Ưu sầu lo ngại khổ.
    B- TẬP ĐỀ: (Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ).
    1- Tập nghiệp vô minh.
    2- Thập nhị nhân duyên.
    a)- Tánh chất và nhân duyên.
    b)- Tương duyên ba đời.
    C- ĐẠO ĐỀ: (Gồm tám con đường chánh)
    1- Chánh kiến.
    2- Chánh tư duy.
    3- Chánh nghiệp.
    4- Chánh tinh tấn.

    5- Chánh mạng.
    6- Chánh ngữ.
    7- Chánh niệm.
    8- Chánh định.
    D- DIỆT ĐỀ: (Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn).
    1- Phương pháp diệt khổ:
    a)- Nương theo Bát Chánh Đạo. Thi hành các đức tánh.
    b)- Đoạn trừ phiền não và thói hư tật xấu.
    c)- Tự giác, giác tha.
    2- Hưởng quả Niết Bàn:
    a)- Niết Bàn của Thinh Văn, Duyên Giác.
    1- Hữu dư y Niết Bàn.
    2- Vô dư y Niết Bàn
    b)- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật.
    1- Vô trụ xứ Niết Bàn.
    2- Tánh tịnh Niết Bàn.
    3- Bốn đức ở Niết Bàn:
    - Chơn thường – Chơn lạc - Chơn ngã - Chơn tịnh.
    4- Nhận định.
    5- Khảo sát.
    III- KẾT ĐỀ:
    1- Tóm tắt.
    2- Tổng kết.

    LƯỢC GIẢI
    Bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề” là một trong những bài Pháp luận do Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi ở Bạc Liêu. Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.
    Bài chúng ta đang nghiên cứu và tu học đây, là Đức Thầy giảng theo ý của Đức Phật Thích Ca, nhưng vì tùy theo cơ duyên mà Ngài phương tiện sơ lược những phần chính yếu và có thay đổi số thứ tự hai phần chót.
    Nguyên khởi là lúc Đức Phật rời gốc Bồ Đề, lần đầu tiên Ngài đến “Khổ Hạnh Lâm”(rừng lộc giả), thuyết pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, để độ năm người cùng tu khổ hạnh với Ngài trước kia, tức là: Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Ma Nam Câu Ly, Thập Lực Ca Diếp. Sau khi nghe pháp năm vị nầy đều tỏ ngộ, đồng chứnh Thánh quả A La Hán. Bắt đầu từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. (Phật là Đức Thích Ca, Pháp là Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, Tăng là năm vị A La Hán nói trên).
    Vậy, Tứ Diệu Đề là gì ?
    Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Tứ Đế hay Tứ Thánh Đế. Có nghĩa: Bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, là pháp tu căn bản và chính yếu trong Đạo Phật nên được các giới tu hành xưng tụng là Bốn chân lý bất diệt.
    Thời nay Đức Thầy cũng dạy:
    “Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,

    Xa thẩm tứ đề tiếng giục ông”.

    CHÁNH VĂN

    SƠ GIẢI VỀ TỨ-DIỆU-ĐỀ.
    1.- Khổ đề: Gồm các sự khổ trong đời.
    2.- Tập đề: Gồm có các tập-nhơn sanh ra quả khổ.
    3.- Đạo đề: Gồm có tám đường chánh.
    4.- Diệt đề: Phương-pháp diệt khổ, hưởng quả Niết-Bàn.
    SƠ GIẢI:


    A.- KHỔ ĐỀ:
    Đức Phật nói rằng tất cả chúng-sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn điều khổ-não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ-não kia.

    LƯỢC GIẢI
    I- KHỔ ĐỀ: Gồm có các sự khổ trong đời.
    Xưa, Đức Phật cho biết mỗi chúng sanh luân chuyển trong cõi Ta bà, không một ai thoát khỏi sự đau buồn sầu khổ. Đức Thầy nay cũng xác định “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”. Ý nói mỗi chúng sanh sống trong cõi trần, đều gánh vác muôn ngàn sầu khổ, nhưng tất cả nỗi khổ ấy gồm nhiếp trong tám phần:
    Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo,
    Khổ Ta bà nhiếp lại tám phần.
    Bởi chúng sanh mang lấy xác thân,

    Khổ thứ nhứt sự sanh là gốc”.

    CHÁNH VĂN
    1.- Sự sanh khổ - Vì linh-hồn chưa được hoàn-toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế-gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn-bà thì phải chịu sự tối-tăm tồi-túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao-bọc ràng-rịt, thai-nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh-huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai-nhi yếu ớt; lúc mẹ làm-lụng mệt-nhọc, thai-nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai-nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai-nhi bị sự lấn-ép của bao-tử và ruột rất nhọc-nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản-môn ô-uế như hai viên đá ép mình, khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cất lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc.
    Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công-nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy.

    LƯỢC GIẢI
    1-Khổ thứ nhứt là sự sanh, tức là các nỗi khổ của mỗi chúng sanh từ khi đầu thai vào bụng mẹ cho đến thuở sanh ra. Lúc ở trong đó bị bào thai bao bọc bịt bùng, như người bị nhốt trong ngục thất. Thai nhi bắt đầu chịu sự nuôi dưỡng bằng chất tinh huyết ô uế của mẹ. Những khi mẹ đau yếu, tinh huyết không đầy đủ, thai nhi phải ốm thon lại. Lúc mẹ đói lòng, bào thai như cái túi treo lơ lửng thường hay chới với. Ngược lại, khi mẹ được ăn uống no bụng thì thai nhi bị sự chèn ép của bao tử và ruột rất chật chội khó khăn. Suốt thời gian ở trong bào thai, thai nhi phải chịu bao lần khổ đau sầu cảm vì ảnh hưởng nơi người mẹ.
    Chẳng thế, khi đúng ngày khai nở, thai nhi phải ép mình chui ra sản môn ô uế, thật là đau đớn vô cùng, như một con voi chun qua kẹt đá nhỏ. Cho nên lúc ra khỏi mình mẹ đứa bé phát ra tiếng khóc “Khổ a !” Chứng tỏ đã nếm lấy cái hương vị cõi đời đầy ô trược.

    CHÁNH VĂN
    2.- Sự già khổ - Hễ sanh ra thì lớn, lớn rồi tất phải già; xét nghĩ trong lúc tuổi xuân xanh, đời sống cứng-cỏi, hoạt-động hăng-hái, đi đứng lẹ-làng, nói năng bặt-thiệp, xác thịt mạnh-mẽ, học-hỏi dễ-dàng, tỏ tai sáng mắt, thấy biết nhiều điều. Ô hô ! Mà nay sao lại răng rụng mắt lờ, ù tai, choán óc, da nhăn má cóp, gối mỏi, lưng khòm, nằm ngồi chậm-chạp, đi đứng xéo-xiên, uống ăn đổ tháo, bọn trẻ dể khinh, già đành nhờ cậy, đi tay nương gậy, phế việc dân quan, tinh-thần hao kém; khí lực hầu tàn, thoạt nhớ thoạt quên, nhiều khi lầm-lẫn, tóc bạc da mồi, lắm điều lao nhọc.
    Vậy nên Phật mới cho sự già là khổ, mà chúng ta cũng không thể nào không công nhận.

    LƯỢC GIẢI
    2- Đến giai đoạn thứ hai là sự già khổ. Từ khi cất tiếng chào đời đến thân hình mạnh khỏe, vui tươi của tuổi xuân đầy nhựa sống, như đóa hoa đang cười nụ khoe hương. Phút chốc bị thời gian cướp mất, với tấm thân quắc thước hiên ngang, với bao vẻ yêu kiều diễm lệ, giờ đây chỉ còn trong mộng tưởng. Một nhà thơ đã cất tiếng than: “Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,
    Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh !”
    Thật vậy, bấy giờ chỉ còn lại một thân già nua, gầy đét; gối mỏi lưng còm, mắt lờ tai điếc và mỗi khi đi, đứng, nằm, ngồi rất chậm chạp khó khăn. Xét qua thể trạng ấy, thử hỏi khách trần gian, ai mà chẳng công nhận sự già là một nỗi khổ khôn cùng !

    CHÁNH VĂN
    3.- Sự đau khổ - Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều-hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi ! Hễ thân huyễn-giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức-nhối gan ruột quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở-lói, bại xuội sưng tê, thang thuốc chẳng an, khẩn nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong.
    Vậy thử hỏi khách trần-gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi ? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ-não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết.

    LƯỢC GIẢI
    3-Đến thứ ba là sự đau khổ. Có nhiều nguyên nhân làm cho con người phải vương mang bệnh tật: một là thời tiết bất hòa, gió mưa thay đổi, khiến tạng phủ trong người chuyển theo không kịp mà sanh bịnh. Hai là do sự ăn uống, ngủ nghỉ thiếu chừng mực, vệ sinh, hoặc ăn phải món không hạp cơ thể, mà sanh ra đau yếu. Ngoài ra cũng còn (tham, sân, si) làm ra bịnh.
    Khi một người đã mang bệnh thì cả thân xác tinh thần lẫn quyến thuộc đồng chịu khổ: thân thì mất ăn bỏ ngủ, đau nhức khó chịu, tâm trí từ lo sợ đến bấn loạn hôn mê. Còn thân quyến thì lo thuốc thang chạy chữa đủ cách. Nhiều bệnh nhân không được lành hẳn, lại còn phải mang tật suốt đời, thật là khổ thảm muôn phần.
    “Cơn bịnh hoạn càng không tránh khỏi,
    Còn mang thêm tật nọ tật kia”.(
    ĐT)


    CHÁNH VĂN
    4.- Sự chết khổ - Vật chi mà sanh trong cõi trần-gian theo các công-lệ tự-nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu-diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ-đại (đất, nước, gió, lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã?
    Tại sao mà gọi thân tứ đại hiệp thành ?

    Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân nầy suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chất đặc nên thuộc về đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc về nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa.
    Nhờ bốn món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trời. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh-nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giả chơn, ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o-bế sửa-sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như: tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây dựng cửa nhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai cũng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời-gian để học-hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích-kỷ mà lo cho mình vừa giúp ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo-bo giữ nó bằng lối ích-kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường-tồn; kịp đến khi tử-thần gõ cửa, số vô-thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh-hãi, thần-trí hôn mê rất triếu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật (vật) mình, kêu than thảm-thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào.


    LƯỢC GIẢI
    4-Thứ tư là các nỗi khổ về sự chết. Khi con người lâm cơn bịnh nặng, gia đình hết phương chạy chữa và thân xác không còn chịu đựng nổi, đành đi lần vào cõi chết. Phàm sanh ra cõi đời, hễ cái gì có hình tướng đều phải hư hoại. (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng). Thế nên con ngưòi hễ có sanh ra tất phải đi theo định luật già, bịnh, rồi chết mất, chớ không một ai thoát khỏi. Những nỗi khổ ấy sâu dày như bể rộng, chẳng biết đâu là bờ bến: “Bể hồng trần lao lý diệu vơi”.( ĐT)
    Thử ôn lại quảng đời con người từ sanh ra đến khi chết, sự lao khổ không sao kể xiết. Sanh ra đã khổ, bệnh tật lại còn khổ hơn, thêm nỗi phải lo sao cho có cơm ăn, áo mặc, dầm mưa dãi gió, xuôi ngược bao lần. Vì mãi tháo vác việc đời mà phải sức cùng lực tận, để rồi một ngày kia cái thân giả hợp nầy, phải theo định luật đào thải mà tan nát và trả về cho tứ đại.
    Xét ra còn cảnh trạng nào đau khổ bằng, khi nhìn thấy con người lúc hấp hối; mắt trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn loạn, kinh sợ tiếc thương đều phô diễn, rồi dần dần lịm đi để giã biệt cõi đời ảo mộng.
    Vả lại trong đời biết bao vị Đế Vương khanh tướng, thế lực tiền tài, danh y bác học; họ tìm đủ cách ngăn ngừa cứu chữa để kéo dài tuổi thọ, nhưng rồi cũng phải chịu khuất phục trước luật tuần huờn. Dầu cho ai có học phép trường sanh hay ẩn mình nơi hang cùng, núi thẩm cũng không thoát khỏi tử thần.
    Như xưa kia có bốn Phạm Chí (Phạm Chí là người có chí tu đạt thần thông để về cõi Trời Phạm Thiên) tu hành đã đắc ngũ thông, biết rõ bảy ngày nữa bốn người cùng chết một lượt. Họ bèn hợp nhau bàn luận:
    “Anh em chúng ta tu hành đã chứng ngũ thông, lẽ nào chẳng tìm kế thoát khỏi vòng hái của tử thần sao?”
    Anh thứ nhứt liền nói:“Tôi sẽ nhảy vào trong biển lớn, trên chẳng ló đầu lên mặt nước, chân không đụng đáy biển, làm gì tử thần thấy được để bắt tôi”.
    Anh thứ nhì bảo:“Tôi chẻ núi Tu Di chui vào trong đó, rồi khép kín lại; thử hỏi tử thần làm sao thấy được mà tầm bắt tôi”.
    Anh thứ ba thốt:“Tôi sẽ tàng hình vào hư không, chẳng còn ai thấy tăm dạng, quỉ vô thường biết đâu mà theo bắt”.
    Anh thứ tư cho biết kề hoạch:“Phần tôi sẽ đến chợ đông, đi lẫn lộn vào trong đó, dầu tử thần có đến kiếm cũng không ra !”
    Bàn tính xong, bốn anh đắc ý lắm, mỗi người đều chuẩn bị đi đến chỗ mình đã định. Song đúng bảy ngày, nghiệp quả đã đến, bốn Phạm Chí đều bất lực trước tử thần (chết), họ đều chết một lượt.
    Bấy giờ, Đức Phật biết rõ chuyện ấy, bèn kêu các đệ tử kể cho nghe và nói lên bài Kệ”
    “Phi không, phi hải trung,
    Phi nhập sơn thạch gian.
    Vô hữu địa phương sở,
    Khả thoát bất thọ tử”.

    (Chẳng không chẳng biển cả,
    Chẳng vào trong núi đá.
    Không có miếng đất nào,
    Thoát được cái chết cả).
    Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:
    “Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
    Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi”.

    5- MƯU CẦU BẤT ĐẮC KHỔ

    CHÁNH VĂN

    “Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tõi,
    Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.
    Người trên đời ai cũng lòng tham,
    Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.
    Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,
    Không được thì bực-tức ưu-phiền.
    Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,
    Vậy có phải khổ hay là chẳng ?”

    LƯỢC GIẢI
    5-Thứ năm là những nỗi khổ: mưu tính, tham cầu mà chẳng thành đạt. Khởi nguyên từ lòng ham muốn chúng sanh mới luân hồi vào cõi dục, nên khi sanh ra, con người sẵn có hột giống tham lam. Ai cũng muốn cho mình được ở lầu các cao sang, nào ruộng cả tiền nhiều, uy quyền thế lực, nào vợ đẹp con ngoan, bạc vàng nhung lụa. Cả gia đình đều sống cuộc đời hạnh phúc triền miên.
    Ngược lại, nếu sự ham muốn ấy không đạt thành, thì con người phải bức rức xốn xang, u buồn dã dượi, cả tâm trí bị quay cuồng đảo lộn, không lúc nào yên tĩnh, có khi phải liều mình tự sát.
    Trưóc cảnh trạng ấy, ai trông vào mà chẳng công nhận đấy là một nỗi khổ ?


     
  6. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    6- ÁI BIỆT LY KHỔ

    CHÁNH VĂN
    “Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,

    Người mình thương bỗng lại chia-lìa.
    Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,

    Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
    Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,

    Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên.
    Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,

    Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
    Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,
    Đến xong đời để lại sầu-ưu.
    Cái khổ này dầu lắm trí mưu,

    Cũng chung chịu như người tăm-tối”.

    LƯỢC GIẢI
    6-Thứ sáu là các nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà phải chia lìa.

    Ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu thân mến nhau rất mực, nên muốn sống mãi bên nhau, nhưng khó mong toại nguyện. Trong lúc cảm thương khắn khít, bỗng gặp cuộc phân ly, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột thắt từng cơn; bao nỗi nhớ thương vô cùng chua xót mà cả thế giới loài người có mấy ai vượt khỏi.
    Phàm hễ có gia đình tất phải có sợi dây ân ái ràng buộc, nợ duyên chằng chịt, gốc bởi tiền căn vọng tưởng. Giữa tình cha con chồng vợ lúc nào cũng đậm đà gắn bó, song vì mưu cầu cho cuộc sống, hoặc vì tình cảnh éo le khiến phải chia tay. Lúc ấy kẻ phiêu bạt chơn trời, ôm mối buồn đau, thương xót, người ở lại chờ đợi nhớ nhung. Thì ra cuộc đời chỉ là một trường bi hoan ly hiệp, đau khổ triền miên, ít khi nào được an vui thư thái.
    Sanh ly đã khổ, tử biệt lại còn khổ hơn. Hết hồi tan hiệp, hiệp tan; kế đến nếu có một người chấm dứt cuộc đời thì bao kẻ còn lại đành ôm mối sầu miên viễn. Cái khổ nầy dầu cho bực cao sang, tài trí cũng phải chung chịu như hàng hạ tiện:
    “Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu,

    Cũng chung chịu như người tăm tối”.( ĐT)

    7- OAN TẮNG HỘI KHỔ
    CHÁNH VĂN

    “Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
    Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
    Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,
    Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.

    Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
    Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.

    Làm cho người đau-đớn âm-thầm,
    Khổ như thế diễn ra mãi mãi”.



    LƯỢC GIẢI
    7- Thứ bảy là các nỗi khổ giữa những người oán thù hận ghét với nhau lại thường gặp gỡ.
    Phàm người ở đời hễ có thương tất có ghét, nguyên do là sự hơn thua cao thấp, tranh chấp giữa nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn ai. Từ đó đôi đàng đâm ra oán hờn thù hận, rồi dẫn đến chỗ ấu đả chém giết lẫn nhau”

    “Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,
    Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán
    ( ĐT)
    Một khi đã thành cừu địch thì không ai còn muốn nghe thấy tăm hơi, hình thể nhau nữa; vì khi gặp nhau lòng rất xốn xang khó chịu, như kim châm vào mắt. Nhưng khổ nỗi càng muốn tránh xa, lại càng thường gặp gỡ. Nên khi giáp mặt nhau đôi đàng đều ôm ấp nơi lòng bao sự giận hờn, thù ghét. Nỗi khổ nầy cứ thế mà tiếp tục diễn ra như một truyền thống của nhân loại.
    8-ƯU SẦU LO NGẠI KHỔ


    CHÁNH VĂN
    “Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,
    Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.

    Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
    Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.

    Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,
    Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười.
    Giàu thì lo chen lấn với người,
    Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.

    Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
    Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.

    Lo tước-quyền cho được thơm-tho,
    Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.

    Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say”.


    LƯỢC GIẢI
    8-Thứ tám là các nỗi khổ lo sợ buồn rầu mà trong đời ít ai tránh khỏi. (Khổ thứ tám, Kinh xưa giải là Ngũ ấm xí thạnh) Bởi cảnh hồng trần là cuộc bể dâu, nay dời mai đổi:
    “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)
    Cảnh vật còn phải nay bồi mai lở thì kiếp sống con người đâu tránh sự giàu nghèo thay đổi. Ôi ! Bao nỗi vui buồn lo nghĩ tràn ngập tâm tư, bởi lòng người còn nhiều tham vọng và chưa nhận được đời là ảo mộng. Kẻ nghèo thì lo chạy sớm chạy chiều, tảo tần vất vả, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau, nào nợ nần chồng chất, đau không thuốc uống, cơm bữa đói bữa no; nào cửa nhà xiêu dột, quần áo rách rưới lang thang. Thật là:
    “Nhà nghèo dạ tợ như bào,

    Vợ đau con yếu phương nào cho an”.( ĐT)
    Thêm nỗi bị người khinh chê cười nhạo, khiến lòng càng đau buồn tủi nhục cho kiếp sống quá vô phần bạc phước. Đến như hạng giàu sang cũng chẳng mấy ai được an vui thư thái. Vì khi đã dư ăn, lại muốn giàu thêm cho hơn thiên hạ, nên tâm con người chẳng dứt lo nghĩ tính toan. Muốn sao cho mình có ruộng đất thật nhiều, vàng bạc, tiền của đầy ắp cả nhà, bất kể hành động xấu tốt miễn bao gồm tiền của trong thế gian về cho mình là thỏa dạ.

    Chẳng thế, họ còn lo chạy cho mình được có tước quyền danh vọng, để ăn trên ngồi trước hơn người. Hằng đêm còn nơm nớp lo âu, vì sợ trộm cướp đào tường phá cửa. Thế cũng chưa hết, họ còn phải lo tính đến số người thiếu nợ, lời vốn ra sao, hoặc đòi cho được hay cốn chồng lên, để rồi ít lâu có dỡ nhà lấy đất mà trừ.
    Xét như trên: từ hạng nghèo khổ, đến bực cao sang quyền quí, đều phải chung chịu cái khổ “ưu sầu lo ngại” như nhau.
    Đã hiểu qua các sự khổ, giờ đây chúng ta phải làm sao ? - Sợ hãi hay buồn rầu chán nản ? - Chạy trốn hoặc tìm cách chết đi cho hết khổ ?
    Không ! Buồn rầu chán nản vẫn bị khổ thêm, còn chạy trốn hoặc tự sát đâu phải hết, như người trốn nợ làm sao hết được. Nếu còn nghiệp nợ tất phải sanh trở lại để trả. Nghĩa là phải tiếp tục chịu khổ nữa. Đó là định luật: tử sanh, già bịnh, đáo đầu tử sanh, cứ thế mà chúng sanh luân hồi từ vô lượng kiếp tới giờ không có lối thoát.

    Vậy ai muốn thoát khổ, Đức Thầy dạy hãy tìm nguồn gốc của nó mà diệt trừ:
    “Khuyên chúng sanh khuya sớm chuyên cần,
    Tìm nguồn cội diệt trừ tứ khổ”.
    Để kết luận phần Khổ đề, chúng tôi xin kể lại câu chuyện:

    Xưa, thời Đức Phật còn trụ thế, có bốn vị Tỳ Kheo cùng ngồi lại bàn luận về các sự khổ trong thế gian, cái nào là hơn cả !
    Tỳ Kheo thứ nhứt nói:
    - Theo tôi thì sự sợ hãi là khổ hơn hết !
    Vị thứ nhì trình bày:
    - Sự nóng giận mới là khổ cao độ hơn cả !
    Ông thứ ba bảo:

    - Chỉ có sự đói khát là khổ hơn hết !
    Tỳ Kheo thứ tư cãi lại:
    - Theo tôi thì chỉ có sự ái dục là khổ đệ nhứt !
    Mỗi Tỳ Kheo đều tranh luận theo ý mình, may đâu Đức Phật vừa đi đến, các ông ấy liền đứng lên thi lễ và trinh bày sự nhận xét của mỗi người để nhờ Phật phân định coi lý nào là đúng ?
    Phật liền phán dạy:
    - Các ngươi luận đều phải cả, song các người chỉ biết cái ngọn ngành của các sự khổ, chớ chưa hiểu tận nguồn gốc của nó. Gốc khổ là do xác thân, nếu không có thân, các nỗi khổ do đâu mà có ? – Song sở dĩ có thân là bắt nguồn từ “vô minh phiền não”.

    Căn cứ theo đây chúng ta có thể hiểu: vô minh phiền não ví như hạt giống, xác thân như thân cây, còn các sự khổ như bông, trái. Từ hạt giống (vô minh) mọc lên cây (thân xác) rồi kết bông trái (khổ). Trong trái lại có hạt giống tiếp tục lên cây khác; một vòng nhân duyên tương tục mà dẫn đầu là tập nghiệp vô minh.
    Vậy ai muốn diệt tận gốc khổ (vô minh) phải quán xét qua Tập đề, tức là gốc khổ.

    CHÚ THÍCH CÁC TỪ NGỮ
    CHÍ LÝ: Rất xác thực, chánh đáng, cùng tột.
    TÀ KHÍ: Không khí xấu, có thể làm sanh bệnh.
    TỬ THẦN: Thần chết. Tử thần gõ cửa là cái chết đến nơi. Vì cái chết không một ai tránh khỏi nên người ta rất ghê sợ, xem như có quỉ thần bắt hồn. Chỉ có người tu hành siêu sanh về Cực Lạc hoặc nhập Niết Bàn mới khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết, như Đức Thầy cho biết:
    Tử thần kia đâu dám bắt hồn,
    Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử”.

    SỐ VÔ THƯỜNG: Số là mạng sống theo một định luật. Vô thường là không thường còn. Vật chi trong thế gian thuộc về hữu hình đều phải biến dịch theo định luật: thành, trụ, hoại, không…Vô thường cũng chỉ cho sự chết, nên người ta quá sợ, xem như có quỉ thần đến bắt. Kinh Niết Bàn có câu:“Vô thường đại quỉ, tình cầu nan thoát”.(Khi quỉ lớn vô thường hiện đến dầu người có cầu khẩn thế mấy cũng không thoát khỏi). Đức Thầy đã bảo:

    Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
    Quỉ vô thường dắt xuống Diêm đình.
    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ”.


    CÂU HỎI

    1/-Hãy cho biết xuất xứ bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề ?
    2/-Đức Thầy sơ giải Tứ Diệu Đề dựa theo đâu và sửa đổi ra sao ?
    3/-Hãy cho biết nguồn gốc Pháp Tứ Diệu Đề ?
    4/-Định nghĩa Tứ Diệu Đề ?
    5/-Tại sao gọi là Khổ Đề ?
    6/-Sự sanh và Lão khổ ra sao ?
    7/-Hãy cho biết khổ thứ ba và khổ thứ tư ?
    8/-Khổ thứ năm và thứ sáu như thế nào ?
    9/-Hãy luận giải khổ thứ bảy và thứ tám ?
    10/-Do đâu có các sự khổ ?

    11/-Muốn thoát khổ Đức Thầy dạy phải làm sao ?
    12/-Muốn diệt tận gốc khổ ta cần biết vấn đề gì ?

    II- TỨ DIỆU ĐỀ : TẬP ĐỀ.
    B-TẬP ĐỀ: Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ.
    Khi đã quán xét các nỗi khổ và nguồn gốc của sự khổ, là do tập nghiệp vô minh phiền não. Hành giả muốn diệt trừ nó cần phải khảo xét qua phần Tập Đề.
    1-TẬP NGHIỆP VÔ MINH:
    Theo Kinh Phật từ trước cá nhà hướng đạo đã phân định. Tập đề gồm có 10 món phiền não căn bản (Tham, sân, si, mạn, nghi. Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Và ba món mê lầm là kiết sử và kiến hoặc, tự hoặc (Sai sử trói buộc - Thấy lầm nghi lầm); đó là theo Tiểu thừa. Còn theo Đại thừa thì gồm có kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Vô minh hoặc là đầu mối tất cả, nếu hành giả trừ sạch được nó, tức chứng được Bồ Tát và Phật. Xưa, Đức Phật đã bảo:
    “Chư pháp tùng duyên sanh,
    Diệc tùng nhân duyên diệt”.
    Có nghĩa các pháp gồm chúng sanh và vạn vật đều do nhân duyên sanh và cũng do nhân duyên mà diệt.
    Do đó, thời nay Đức Giáo Chủ PGHH dạy tắt ngay gốc khổ là “Tập ĐỀ”, tức là “Thập Nhị Nhân Duyên”. Đó là mười hai duyên sanh. Hành giả nào quán xét nó, để diệt sạch tập nghiệp vô minh thì tất cả phiền não đều tiêu tan tức khắc và được chứng quả diệu giác Đại Thừa.

    CHÁNH VĂN
    2-THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
    Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô-minh mà che lấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ. Đây là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử.


    Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động, rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình, cái biết ấy nên có xác thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến-luyến, thâm tình nên gọi là ái.


    Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công gìn-giữ chặt-chịa nên gọi là bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt-chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời, cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già, chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả.

    LƯỢC GIẢI

    Trong đoạn mở đề của bài “Thập Nhị Nhân Duyên”, Đức Thầy cho biết:“Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô minh mà che lấp bản ngã (linh hồn) nên làm cho con người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp chịu nẻo luân hồi thống khổ”. Mười hai nhân duyên, nó duyên chuyền từ cái nầy qua cái khác, có cái nọ mới có cái kia, dẫn đến sanh tử rồi trở lại vô minh. Nhân và quả tương liên với nhau, không bao giờ dứt.
    a)-TÁNH CHẤT VÀ DUYÊN SANH:
    1-VÔ MINH: Là mê mờ tăm tối, không rõ tâm chơn như diệu minh, trở lại nhận lầm các vọng tưởng. Cái giả cho là thật, cái thật cho là giả, như người nhắm mắt nhìn thấy hư không toàn là hoa đóm; một ngọn đèn cho là hai, một mặt trời thấy hai mặt. Vô minh đồng nghĩa với mê si, cho nên vô minh cũng chỉ cho các phiền não: tham, sân, si…Bởi nó là gốc sanh ra vô lượng, vô biên phiền não khác.
    Xưa, có người khách đến hỏi vị Tổ sư:

    -Thế nào là vô minh ?
    Tổ Sư trả lời:
    -Quê mùa dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi Đạo lý !
    Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng…
    Tổ Sư nói tiếp:
    -Vô minh là tánh sân của ông đó !

    Thời nay Đức Thầy cho biết:
    “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
    Màn vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.

    Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
    Chẳng tìm biết tinh thần Đạo đức”.

    2-HÀNH: Hành ở đây là hành động của tâm thức, là sự sinh hoạt của tư tưởng. Từ chỗ mê lầm nhận cái giả cho là thật của mình. Do đó, tư tưởng mới lo nghĩ tính toan và ước mơ những phù hoa ảo ảnh. Ví như người bắt bóng trong gương, làm sao có được. Thế mà tư tưởng vẫn:“ Đeo tuồng mộng huyễn lập lòe sắc hương”.( ĐT)
    3-THỨC: là biết, là cái phân biệt của tinh thần. Do sự tính toan mơ ước của vọng tưởng mới có hiểu biết và phân biệt vạn pháp trong thế gian. Ấy là nghiệp của tinh thần. Từ đó mới bị nghiệp hút thần thức đi đầu thai để thọ chịu quả báo vui hoặc khổ.
    4-DANH SẮC: Gồm hai phần: xác thể và linh hồn. Bởi thần thức (linh hồn) là phần vô hình nên chỉ có tên gọi; ấy thuộc về danh. Nhưng khi vào trong bào thai của người mẹ thì có thêm xác thể (hữu hình) nên gọi là sắc.
    5-LỤC NHẬP: Là sáu chỗ vào. Đã đầu sanh vào bụng mẹ, thai nhi lần lần có đủ 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý như 6 cánh cửa để tiếp rước 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nhập vào, nên gọi là Lục nhập.
    6-XÚC ĐỘNG: là tiếp xúc và cảm động, ưa nhiễm giữa căn và trần. Như mắt thì tiếp với các màu sắc hay sắc người đẹp, xấu; tai tiếp với các thứ tiếng hay, dở; thân va chạm với các vật thô, mịn, trơn, nhám; ý tiếp với vạn pháp vô hình hay hữu hình trong thế gian, rồi khởi tâm phân biệt, ưa nhiễm, tạo tác để thụ hưởng.
    7-THỌ CẢM: Là thụ lãnh và cảm giác. Khi được hưởng thụ lục trần và mọi cảnh vật bên ngoài, thì sanh ra thỏa thích mê say theo các cảnh vật ấy. Thân tâm chỉ biết hành động theo lòng ham muốn năm điều dục lạc.
    8-ÁI: Ái là yêu thích. Sau khi thọ hưởng mọi điều dục lạc trong cõi trần, thì lòng ưa thích tham nhiễm ngày càng sâu đậm hơn, không phút nào muốn rời rứt hay dừng nghỉ.
    Đức Thầy cảnh giác:
    Hồng trần ái dục giết tài hoa”.
    9-BẢO THỦ: Là gìn giữ không để mất. Hễ cái gì con người đã yêu thích và tạo tác ra đặng, thì cố tâm gìn giữ cho kỳ được, để vui hưởng lâu dài.

    Nếu rủi bị mất đi hay sắp sang tay người khác thì quyết tâm giành giựt trở lại.
    10-HỮU: Là có. Hễ có nghiệp nhân tất có hưởng quả, do từ lòng tham ái rồi mưu cầu tạo tác để hưởng thụ cho vừa ý, nhưng biết bao giờ mới thỏa mãn. Cho nên cứ ham muốn thêm nữa, nếu mất đi thì rất luyến tiếc. Đó là nguyên nhân cho sự luân hồi qua kiếp khác. Đức Thầy đã diễn tả:
    “Hố sâu tình dục lại ghiền,
    Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan tài”.

    11-SANH: là sống, tức đầu thai trở lại. Do nghiệp tham nhiễm dục lạc: danh, lợi, tình không ngằn mé đó, hút thần thức đi đầu sanh ra xác thân khác; để: một là thỏa mãn lòng khát ái, và hai là trả những cái quả do nghiệp bất lành, ô nhiễm đã gây tạo từ nhiều kiếp trước. Song trả mãi cũng chưa hết, vì nó song đôi với lòng khát ái. Cho nên phải luân chuyển hết kiếp nầy sang kiếp khác, như người ăn trái cây, trong trái sẳn có hột rồi gieo xuống đất, để sanh cây trái khác:
    Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.( ĐT)

    12-LÃO TỬ: Là già, chết. Đây là một định luật: sanh, già, bịnh, chết xưa sao nay vậy. Đức Thầy thường cho biết:
    “Trên dương thế hữu hình tắc hoại,
    Có sanh ra khổ hải đâu chừa.
    Trải bao phen dãi gió dầm mưa,

    Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát”.
    Đã là hữu hình thì vạn vật hay loài người cũng vậy, đều phải có hạn định thời gian xoay chuyển. Thế thì:“Cây già cây cỗi, người già người suy”.(Ca dao). Cho đến vũ trụ đi nữa cũng phải chung chịu theo định luật: thành, trụ, hoại, không; nhưng không, chưa phải là hết mà phải trở lại kiếp thành. Còn chúng sanh cũng phải chết rồi sanh trở lại, đây là định luật sanh rồi tử, tử rồi sanh, liên tục với nhau như bánh xe xoay tròn, không biết đâu là đầu mối. Đức Thầy đã xác định:
    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
    Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.

    Ý Ngài còn dạy: từ vô minh đến lão tử là 12 duyên lành; chính nó là nghiệp nhân chi phối con người phải luân chuyển mãi trong cõi Ta bà và gánh chịu vô vàn thống khổ.
    b)- TƯƠNG DUYÊN BA ĐỜI

    Khi đã hiểu rõ hành trạng và sự diễn biến của 12 duyên sanh, chúng ta nên biết qua sự tương quan ba đời của nó. Có thể chia làm hai phần như sau:
    1- Phần thứ nhứt: Là sự luân chuyển qua ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
    Khởi nguyên từ vô minh và hành là cái nhân quá khứ rồi kết thành cái quả hiện tại là thức và danh sắc, tức là cái hiểu biết phân biệt và xác thân. Khi đã có xác thân tức có lục nhập, xúc động, thọ cảm làm cái nhân hiện tại.
    Từ chỗ xúc, thọ mới sanh ra ái, tức là yêu thích tham cầu là cái quả hiện tại (ái). Trong cái quả hiện tại nầy lại có cái bảo thủ và hữu làm thành cái nhân hiện tại.
    Nhân đó, mới có cái quả vị lai là sanh và lão tử. Lúc có xác thân khác, tất phải có các nỗi khổ của thân và tâm, dẫn tới già bịnh chết, tức là cái quả hiện tại. Khi đó lòng chứa đầy phiền não, tâm trí mê mờ nên trở lại vô minh khát ái nữa. Đó là cái nhân hiện tại để tạo ra xác thân khác nữa, tức là cái quả vị lai.
    Vậy 12 duyên sanh như cái vòng xích sắt móc nối từ khoen nầy sang khoen khác, không biết đâu là đầu mối. Cũng như một cuộn tơ rối, nếu chưa phải tay nghề, khó mà tháo gỡ.
    Vậy hành giả muốn ra khỏi vòng lẩn quẩn của 12 duyên sanh, trước phải có lòng giác ngộ (trí huệ) và có gần Minh Sư, bạn thiện để nghiên cứu học hỏi kinh pháp, mới tin nhận được mối đầu của nó là vô minh và phương thức tháo trừ.
    2- Phần thứ nhì: Từ chỗ tâm trí mê mờ (vô minh) mới nhận lầm mọi sự việc, không phân biệt được chơn giả, tà chánh, lành dữ; ấy gọi là mê lầm (hoặc). Từ mê lầm con người mới toan tính tham cầu, rồi nghĩ tưởng nói làm các điều bất thiện đó là hành động của thân, khẩu, ý (nghiệp). Bởi cái nghiệp bất lành đó con người mới gánh lấy cái hậu quả vô cùng đau khổ (khổ). Nhưng sống trong cảnh sầu khổ chưa tỉnh giác được, nên phải lầm lạc trở lại, rồi khởi lòng luyến ái tham cầu nữa. Thế là bị sức mạnh của nghiệp hút đi đầu thai vào thân xác khác…
    Vậy ba phần: hoặc, nghiệp và khổ cứ xoay vòng không dứt, không dừng; con người khó tìm được lối ra.
    - Tóm lại, xưa nay trong thế giới loài người, muốn tìm hiểu nhân sinh và vũ trụ quan, có nhiều khái niệm khác nhau. Tuy nhiên chỉ có thuyết “Nhân duyên sanh” là rõ ràng và chính xác hơn cả.
    Lúc Đức Phật còn trụ thế, ông Xá Lợi Phất có hỏi vị tăng lữ là Át Bệ, một đệ tử của Phật:
    - Thầy Ngài dạy thế nào ?
    Ngài Át Bệ liền thuyết về Nhân duyên và đọc tóm tắt một bài Kệ:
    “Chư pháp tùng duyên sanh, Diệt tùng nhân duyên diệt.
    Phật ngã Đại Sa Môn. Thường tác như thị thuyết”.
    Có nghĩa: Các pháp do nhân duyên sanh, cũng do nhân duyên mà diệt. Đức Phật của chúng tôi thường dạy nói như vậy.

    Nghe xong, Xá Lợi Phất liền chứng ngộ Đạo quả thanh tịnh. Khi về ông thuật lại cho người bạn là Mục Kiền Liên nghe. Ông nầy cũng được tỏ ngộ. Hai người liền đem hết 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật, về sau hai ông trở thành hai trong mười đệ tử lớn của Phật.
    Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ về “Nhân duyên sanh”, tức “Thập Nhị Nhân Duyên”. Nghĩa là nguồn gốc đau khổ của mỗi chúng sanh là do tập nghiệp, vô minh phiền não, tức là 12 duyên sanh, mà đầu mối của nó là vô minh; hễ vô minh tan thì nghiệp và khổ không còn. Lúc đó hành giả sẽ tự tại giải thoát. Cho nên về “Tập đề” Ngài chỉ đưa ra 12 nhân duyên mà thôi.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    BẢN NGÃ: Cái thật ta, là bản chất của mọi người và vạn vật. Theo Phật học thì nó là cái thể tánh chân như của muôn loài và vạn vật trong vũ trụ; nên cũng gọi là Đại ngã, hay chơn ngã (khác với chữ Bản ngã trong Chánh kiến).
    VÔ THỈ: Không có đầu đuôi, không biết khởi đầu từ đâu.

    TỨ THỜI: Bốn mùa, tức là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chỉ cho thời tiết thay đổi.
    HỮU TÌNH: Gồm các chúng sanh có tri giác, có mạng sống. Đây chỉ cho loài người và các loài: Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh và Hóa sanh:
    Được dắt chúng hữu tình thoát khổ”.( ĐT)
    VÔ TÌNH: Vật không có tri giác, như: cỏ, cây, sắt đá…
    QUYẾN LUYẾN: Nhớ nghĩ yêu mến nhau không nỡ rời xa.
    THÂM TÌNH: Tình thương yêu rất đậm đà sâu rộng:“Liệu lượng thâm tình tợ biển sông”.( ĐT)
    NGHIỆP NHƠN: Cái nhơn duyên gây tạo ra nghiệp lành hay dữ, để rồi phải hưởng lấy cái quả vui hoặc khổ.

    CÂU HỎI

    1/-Hãy định nghĩa phần Tập Đề ?

    2/-Theo Kinh xưa thì Tập Đề gồm có những gì ?
    3/-Thời nay Đức Thầy dạy Tập Đề như thế nào ?
    4/-Mười hai duyên sanh gồm có những gì ?
    5/-Cho biết tánh chất và sự duyên sanh của 12 nhơn duyên ?
    6/-Sự tương duyên của 12 nhơn duyên trong 3 đời gồm có mấy phần, kể đại cương?
    7/-Nhận xét sự tương duyên thứ nhứt ra sao ?
    8/-Nhận xét các tương duyên thứ nhì như thế nào ?
    9/-Theo Phật học giúp ta hiểu nhân sanh quan và vũ trụ quan ra sao ?
    10/-Tại sao Tập Đề Đức Thầy chỉ đưa ra 12 duyên sanh mà thôi ?

    III- TỨ DIỆU ĐỀ: - ĐẠO ĐỀ

    LƯỢC GIẢI
    C-“ĐẠO ĐỀ”: Gồm có Tám con đường chánh, tức là “Bát Chánh Đạo”.
    Khi đã hiểu qua các nỗi khổ và nguyên nhân sanh khổ, Đức Thầy liền chỉ cho chúng ta con đường thoát khổ, tức là “Đạo Đề”. Chính nó là chơn lý mầu diệu vô cnùg, là con đường chơn chánh sáng suốt và rộng lớn vô biên. Cũng là chìa khóa để tháo gỡ 12 vòng xích sắt (nhân duyên) trói buộc con người trong luân hồi sanh tử. Xưa nay, hành giả nhờ Đạo để mà thoát ly sanh tử để tiến tới cảnh bất sanh bất diệt, ‘Niết Bàn tịch tịnh”.
    Theo kinh sách từ trước thì Đạo Đề gồm có 37 phẩm trợ đạo (Gồm có: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp như ý túc, 4 pháp chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp Đạo phần (tức Bát Chánh Đạo). Thời nay Đức Thầy dạy Đạo Đề là tám con đường chánh, bởi nó là pháp tu căn bản, then chốt trong 37 phẩm trợ đạo. Hành giả chỉ cần tu Bát Chánh Đạo, cũng đủ đập tan 12 duyên sanh mà ra khỏi sanh tử. Bát Chánh Đạo rất thích trung với mức sống tinh thần và thể xác cho các giới tu hành dù xuất gia hay tại gia. Mục đích là cải thiện những tư tưởng, hành động và ngôn ngữ con người trở thành chí chơn chí mỹ. Cho nên Đức Thầy hằng dạy môn đồ:

    “Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,
    Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.
    Do đó, Ngài nói rõ:“Bát Chánh Đạo là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”.
    Để thấu đạt pháp tu nầy, chúng ta cần phải nghiên cứu tu học từ điều một.

    I- ĐẠO ĐỀ: BÁT CHÁNH ĐẠO
    1- CHÁNH KIẾN

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
    Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự-thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công-bình.
    Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.


    LƯỢC GIẢI
    A-Định nghĩa:
    Theo lý nghĩa Đức Thầy giải: Chánh kiến cũng gọi là Chánh tri kiến. Chánh là đúng sự thật, tức là chơn lý. Kiến là nhìn thấy xem xét. Cái thấy ở đây, không những thấy bằng mắt mà phải thấy bằng năng lực trí huệ của mình. Cho nên Ngài dạy:

    “Đạo mầu Bát Chánh rán ghi,
    Thứ nhứt Chánh kiến việc chi xem nhìn.

    Luận bàn chơn lý cho minh,
    Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.

    Chánh kiến có diệu năng đối trị tà kiến, tức là sự thấy biết xem xét tà vạy.
    Vậy hành giả muốn có Chánh kiến, trước hết phải biết nguyên nhân, tướng trạng và tai hại của tà kiến ra sao ?
    B- Nguyên nhân sanh Tà kiến:
    Đức Thầy bảo:“Phàm con người thường hay bị bản ngã lôi cuốn, trí mờ ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật”.
    Bàn ngã là cái ta cố hữu. Con người hay bảo thủ: nào xác thân nầy của ta, gia tài, sự nghiệp, vị danh quyền tước của ta, nào vợ con thân quyến, đến đất nước quê hương đều của ta vĩnh cửu. Do sự tham ái gìn giữ riêng tư đó làm cho trí huệ mờ lu mà sanh ra tà kiến mê lầm.
    C- Hành trạng Tà kiến:
    Bởi tâm trí mờ ám, không sáng suốt nên khi xét đoán mọi sự việc, người ta thường dựa vào lòng tư thù hay lợi kỷ. Nghĩa là phân định làm sao cho mình có lợi là được, ai thân thương với mình thì binh vực, vị tư; ai thù oán thì chê bai ghét bỏ. Cho nên cuối cùng chỉ rước lấy tai hại.
    D-Tai hại Tà kiến
    1-Người còn tà kiến thì suốt đời không tìm biết con đường ngay chánh; nhận xét mọi việc đều lầm lạc, không đúng chơn lý, như những người mù rờ voi…
    2-Từ trong gia đình thân tộc, đến ngoài các giới quan trường, xã hội mỗi khi có việc phán xét đều không được công bình chánh đáng, khiến bao nhiêu kẻ khác chịu oan khúc đau thương.
    E- Hành Chánh kiến:
    Muốn được Chánh kiến, Đúc Thầy dạy môn đồ những điểm như sau:

    1-Đối diện với mọi sự việc dù lớn hay nhỏ, công hay tư, vô hình hay hữu hình đều dùng diệu năng của trí huệ cứu xét cẩn thận, phân định chu đáo để tránh sự lạc lầm:
    “Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,

    Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.
    Dầu việc người hay việc của ta,
    Nên phán đoán cho tường cho tận”.( ĐT)
    2-Trước khi giải quyết vấn đề gì cũng phải quan sát cực điểm, phán đoán tận tường, hầu tránh những tà kiến.

    3-Xét rõ các điều tục lụy trong trần là xiềng xích, là tạm giả nên không tham đắm ích kỷ.
    4-Xét rõ quả báo không những việc làm, lời nói mà cả ý tưởng, nên luôn ngăn ngừa các điều dữ và làm hết các việc lành.
    5-Xét rõ chơn lý Phật pháp là hơn hết nên hướng theo cho đến chỗ tinh vi rốt ráo.
    6-Xét rõ các tà thuyết dị đoan, bùa chú, linh ứng không bền và chẳng đưa người đến chỗ giải thoát; ngược lại, rất có hại cho đời sống hiện hữu và tương lai, nên lòng ta không hề mong muốn.

    F. Lợi ích Chánh kiến:
    Hành giả khi hành đặng Chánh kiến sẽ kết quả:
    1- Tránh được tà kiến, dẹp tan bản ngã và phá sạch Ngũ lợi sử (5 món phiền não lanh lợi, tức là kiến hoặc). Chẳng lầm tà thuyết dị đoan.
    2- Hiểu thấu rõ ràng mọi việc chơn giả không hề lầm lẫn, phán đoán các việc luôn được chí công, bình đẳng.
    3- Không còn say mê các điều tục lụy, thấu đạt lý nhiệm mầu của Đạo pháp.
    4- Mãi nương về với chơn lý, thoát đọa hồng trần.

    G- Kết luận:
    Tóm tắt khi người tu hành được Chánh kiến thì không còn kiến thức sai lầm, mười món phiền não hết trói buộc, sai sử thân tâm. Bấy giờ tâm hành giả thường được vô úy tự tại, và tiến hành phương pháp lợi lạc cho các tầng lớp chúng sanh, thẳng đến khi thành Đạo Bồ Đề.

    TỪ NGỮ
    BẢN NGÃ: Cái ta, chấp có ta và coi ta là trên hết.
    TƯ THÙ: Thù riêng.

    LỢI KỶ: Lợi ích riêng mình.
    TRÍ NĂNG: Năng lực của trí huệ, rất mầu diệu sáng suốt.
    TRUY CỨU:Theo dõi để cứu xét tìm hiểu tận gốc.
    CỰC ĐIỂM: Điểm cao hơn hết, tới chỗ cùng tột.
    TỤC LỤY: Những điều phiền lụy thống khổ trong cõi trần tục.
    HỒNG TRẦN: Bụi đỏ. Ý chỉ cõi đời đầy bụi bậm nhớp nhơ đau khổ. Đức Thầy bảo:
    Hồng trần biển khổ thấy rồi”.

    CÂU HỎI
    1/-Theo kinh xưa giải Đạo Đề gồm có những gì ?

    2/-Tại sao Đức Thầy dạy Đạo Đề chỉ có Bát Chánh Đạo ?
    3/-Bát Chánh Đạo có diệu năng gì với người tu hiện tại ?
    4/-Hãy định nghĩa Chánh kiến và Tà kiến ?
    5/-Bản ngã là gì, muốn dẹp nó ta phải làm sao ?
    6/-Do đâu sanh tà kiến ?
    7/-Hành trạng của tà kiến ra sao ?

    8/-Người sống theo tà kiến có tai hại gì ?
    9/-Muốn hành Chánh kiến phải làm sao ?
    10/-Hành đặng Chánh kiến có lợi ích gì ?
    11/-Cho biết kết luận mục Chánh kiến ?

    II-ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH TƯ DUY


    CHÁNH VĂN
    CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh.
    Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng ...; cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy là phần tà.

    Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật-Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh.

    LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:
    Chánh tư duy là các tư tưởng chơn chánh, cao khiết, có lợi ích cho muôn loài.
    Tà tư duy là tư tưởng tà vạy, xấu ác có hại cho mình và nhiều người khác.
    B- Nguyên nhân sanh tà tư duy:
    Bởi chưa làm chủ được tâm trí mình, nên bị các thị dục cám dỗ, sai khí6n làm cho nảy sanh các tư tưởng tà vạy xấu ác.
    C- Hành trạng tà tư duy:
    Từ nguyên nhân đó, tư tưởng con người luôn mong ước tính toan, làm sao cho có tiền của thật nhiều, danh phận tước quyền cao lớn, tình ái hơn người để thụ hưởng đầy đủ, thỏa mãn.
    Do đó, lòng luôn có những tư tưởng hận thù, tội khổ, không phút nào bình tịnh, an vui.
    D- Tai hại:
    1-Người sống theo tà tư duy, tâm trí luôn chứa chấp những ý nghĩ tà quấy, suy xét sai lầm, tâm tư tán loạn, khiến mờ đục trí huệ.
    2-Bị những tư tưởng ấy rù quến tâm trí mãi quay cuồng trong ngũ dục (Năm sự ham muốn: tiền của, sắc đẹp, danh vị, ăn uống, ngủ nghỉ), và luôn bị lặn ngụp trong bể trầm luân thống khổ, hết kiếp nầy qua kiếp khác.
    Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.( ĐT)
    E- Hành Chánh tư duy:

    Để tránh những tai vạ nói trên, hành giả nên ghi nhớ các phương thức như sau:
    1-Dù sống trong hoàn cảnh nào, hay bận làm công việc gì, cũng giữ tâm mình luôn được bình thản, yên lặng và trong sạch, sáng suốt.
    2-Giữ tư tưởng thanh cao bằng cách chuyển hóa, thay đồi ý tưởng tà quấy ra chánh chơn thiện mỹ. Đức Thầy dạy:
    Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,
    Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.
    3-Tự lấy trí lực tìm hiểu chơn lý để thực thi cho thành đạt cái Đạo, tức là bổn phận của mình đối với chúng sanh, với Trời Phật và với cá nhân mình:

    -Đối với chúng sanh ta phải tập trung tư tưởng vào công cuộc tìm phương cứu vớt sanh linh, tỉnh giấc mê lầm, thoát vòng trầm luân khổ hải.
    -Đối với mình, ta phải tự tư duy tìm phương giải thoát cảnh trầm luân thống khổ, bằng cách “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh” cho đến khi quả mãn công viên.
    G- Lợi ích Chánh tư duy:
    Khi hành được Chánh tư duy, hành giả sẽ đặng kết quả các phần lợi ích:
    1-Dứt hết tư tưởng tà vạy và hoặc nghiệp phiền não (tư hoặc). (Tư hoặc là tư tưởng lầm lạc, nghĩ lầm)
    2- Không còn bị ngũ dục làm điên đảo trí năng.
    3-Trí huệ sáng mầu, như Sa Di Suy Ca thời xưa, chỉ nhứt tâm chuyển hóa tư tưởng từ sáng mai đến đúng ngọ là thành Đạo…
    4-Cảm thông mọi thống khổ của chúng sinh đê tùy phương tiện thích trung mà giáo hóa.
    H- Kết luận:
    Tóm tắt khi người tu hành được Chánh tư duy, không còn tư tưởng mê mờ, rối loạn, suy nghĩ bất chánh làm tổn thương cho mình và kẻ khác. Tâm tánh luôn được bình tịnh sáng suốt và đối trước mọi việc đều thấu đạt chơn lý.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THỊ DỤC: Các sự ham muốn.
    CÁM DỔ: Rù quến, quyến rũ làm làm cho người say mê theo.
    QUAY CUỒNG: Xoay vòng theo không thoát ra được, cũng chỉ cho sự xoay trở một cách vất vả.
    BÌNH TỊNH: Bình là yên lặng, bình đẳng không phân biệt thiên chấp. -Tịnh là trong sạch, sáng suốt.
    “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
    Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.( ĐT)
    CHƠN LÝ: Cũng viết là chân lý. Có nghĩa là lý lẽ chân thật, là lẽ phải. Chơn lý cũng gọi là Đạo, là bản thể tuyệt đối. Đức Thầy có câu:
    Bàn với luận đặng coi chơn lý”.
    ĐẠO: (Chữ Đạo ở đây có giải trong phần Lược giải)
    SANH LINH: Sanh mạng, chỉ cho giới hữu tình, tức là loài có mạng sống .
    OAN NGHIỆT: Mầm móng tai hại tự mình gây ra rồi tự hưởng lấy.
    ĐẤNG THIÊNG LIÊNG: Người đáng tin tưởng và sùng kính. Chỉ cho chư vị: Phật, Tiên, Thần, Thánh.
    NHÂN CHỦNG: Giống người, loài người.
    LẠC ĐẠO AN BẦN, XẢ THÂN TU TỈNH: Là an vui trong cảnh sống nghèo (tri túc thường lạc) để dồn hết thân tâm vào việc tu hành Đạo đức..


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh tư duy và Tà tư duy ?
    2/-Lý do nào sanh tư tưởng tà vạy ?
    3/-Hành trạng Tà tư duy như thế nào ?
    4/-Tai hại của Tà tư duy ra sao ?
    5/-Muốn được Chánh tư duy phải làm sao ?
    6/-Hành Chánh tư duy xong được lợi ích gì ?
    7/-Kết luận người tu được Chánh tư duy như thế nào ?
    8/-Chữ Đạo trong Chánh tư duy có nghĩa ra sao ? Và muốn thực hiện cho đúng ta phải làm gì ?

    III- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH NGHIỆP

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng.
    Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.

    Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn: kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ .. v..v..
    Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang-đàng, trà đình tửu điếm …Họ là đồng loã mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.
    Thế nên mục Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.
    Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.


    LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:
    -Chánh nghiệp là các việc làm ngay chánh, hiền lành, chân thật, có lợi ích cho muôn loài.
    -Tà nghiệp là những hành động tà vạy, xấu xa, gian ác, có hại cho mình và kẻ khác.
    B- Nguyên nhân sanh Tà nghiệp:
    -Theo Đức Thầy cho biết: các tăng ni xuất gia nhờ làm các công việc Đạo nên ít gây ác nghiệp.
    -Giới cư sĩ vì muốn mưu cuộc sống còn và phải tiếp xúc, va chạm với mọi người, mọi giới trong xã hội, nên dễ sanh tà nghiệp.
    C- Hành trạng Tà nghiệp
    1-Người sống tà nghiệp hay làm những việc gian ác, tổn thương đến quyền lợi, danh dự, hạnh phúc và mạng sống của mọi loài, như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, đầu cơ, cho vay cắt cổ…
    2-Tạo các nghề nghiệp khiến cho kẻ khác đam mê tội lỗi, như nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu…
    D- Tai hại Tà nghiệp:
    1-Ai sống theo tà nghiệp sẽ chuốc lấy tai họa: hiện tại không xứng đáng là một Tăng Ni hay Phật tử, vì bị coi như là phạm giới.
    2-Tương lai hạt giống Đạo và căn trí bị lấp vùi, lâu gặp cơ hội thức tỉnh.

    3-Chết bị đọa ba đường ác và còn phải luân chuyển báo đền nghiệp quả.
    E- Hành Chánh nghiệp:
    Muốn sống theo Chánh nghiệp ta cần phải hành trì những điểm:
    1- Đã tu hành thì giới hạnh tinh nghiêm, chừa bỏ những ác nghiệp như vừa kể trên.
    2- Tôn trọng quyền sống và hạnh phúc chung của mọi người. Tuyệt nhiên không hành động phá hoại, hay tàn sát họ quá vô đạo.
    3- Tôn trọng nghề nghiệp và tài sản của kẻ khác như của mình, nên ủng hộ chớ không mưu mô thâu đoạt của họ quá bất công.
    4- Tôn trọng mạng sống của các loài vật, không làm nghề sát hại, hay đem mối cho người khác giết hại chúng nó.
    5- Tôn trọng lẽ công bằng, không làm nghề kiện cãi hoặc du thuyết việc có hại cho người khác.

    G- Lợi ích Chánh nghiệp:
    Người hành đặng Chánh nghiệp sẽ được các món lợi ích:
    1- Gia đình luôn hạnh phúc, thần trí được khỏe mạnh sáng suốt và no ấm đời đời.
    2- Được mọi người, mọi giới kính phục và mến theo.
    3- Các nghiệp oan tội khổ từ trước bị tiêu dần, và khỏi đọa 3 đường ác.
    H- Kết luận:
    Tóm lại, người hành trì được chánh nghiệp thì diệt hết các nhóm tập nghiệp về thân và không còn các oan trái cay nghiệt. Đời đời thanh tịnh an vui, thẳng đến khi thành Đạo giải thoát.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THAM THIỀN: Tham là suy gẫm; Thiền là tịnh lự, là tư duy. Ý nói để tâm yên tịnh, suy gẫm Đạo lý mầu nhiệm:“Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền”.( ĐT)
    NHẬP ĐỊNH: Vào chánh định, bằng cách ngồi yên lặng hay trong Tứ tướng oai nghi(là: đi, đứng, nằm, ngồi) tâm trí luôn trong lặng thuần chánh và sáng suốt.
    TRÌ TỤNG: Trì là gìn giữ và làm theo; tụng là đọc, xem. Ý chỉ cho việc công phu bái sám, hoặc đọc tụng Kinh sách hằng ngày. Đức Thầy dạy:

    Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.
    KINH HÀNH: Đi một cách thung dung quanh chùa tháp, hoặc chỗ tịch mịch để niệm Phật hay suy gẫm (thiền định) việc Đạo lý để phát sanh trí huệ.
    CÔNG QUẢ: Công là việc làm hay hạnh đức hoặc trí năng của mình làm. Quả là kết quả. Đức Thầy có câu:
    Nguyện đem công quả tu hành,
    Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài”.

    BUÔN TẢO BÁN TẦN: Tần là một loại rau; Tảo là rong biển (rau tần rau tảo). Ý nói bận lo buôn bán hoặc làm nhiều việc vất vả:“Tảo tần lo liệu năm ba”.( ĐT)
    Hay là:“Ta thương xót lo tần lo tảo”.( ĐT)
    BẤT NHÂN: Không có nhân đức, không thương người mến vật.
    ĐẦU CƠ: Đầu là ném lại; Cơ là cơ hội. Thừa cơ hội làm lợi cho mình, bằng cách không hợp lý hợp pháp:“Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.( ĐT)
    TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ hư hèn, như “Tứ đổ tường” (tửu sắc tài khí).
    HOANG ĐÀNG: Cũng gọi là hoang đường. Ý nói người hoang chơi theo “tứ đổ tường” (tửu sắc tái khí), không kể đến nhà cửa, vợ con, cha mẹ…
    TRÀ ĐÌNH TỬU ĐIẾM: Phòng trà quán rượu có chứa gái điếm. Đây chỉ cho hạng người quá đam mê tửu sắc, hằng ngày la lết nơi nhà điếm, quán rượu, không kể đến gia đình, cha mẹ, vợ con. Đức Thầy bảo:
    “Chốn trà đình xa lánh vãng lai”.

    CÂU HỎI

    1/-Hãy định nghĩa Chánh nghiệp và Tà nghiệp ?
    2/-Lý do gì người Cư sĩ dễ sanh Tà nghiệp ?
    3/-Hành trạng tà nghiệp như thế nào ?
    4/-Người hành tà nghiệp có tai hại gì ?
    5/-Muốn hành Chánh nghiệp ta phải làm sao ?
    6/-Hành Chánh nghiệp được lợi ích như thế nào ?
    7/-Tóm tắt người hành được Chánh nghiệp có kết quả gì ?

    IV- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH TINH TẤN

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH TIN-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới.
    Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.
    Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo.


    LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:
    - Chánh tinh tấn là tín ngưĩng chân chánh, bền chắc và lướt tới một cách mạnh mẽ.
    - Tà Tinh tấn là mê tín theo các tà thuyết, chần chờ, giải đãi, nghi ngờ Trời Phật.
    B- Nguyên nhân sanh tà Tinh tấn:
    1- Óc dễ tin nghi ngờ và hột giống giải đãi, yếu ớt có sẵn trong tâm thức từ vô thỉ, nên khi gặp sự tuyên truyền của các tà thuyết, vô thần vội nghe theo.
    2- Do các dục tình, vật chất như: danh, lợi, tình hoặc lục trần, lục dục câu nhử, cám dỗ làm ô nhiễm.
    C- Hành trạng Tà tinh tấn:
    Người có lòng tà tinh tấn hoặc tin theo đường tà có những hành trạng:
    1- Không tin có Trời Phật quả báo, luân hồi, tội phước hay Thiên đường, Địa ngục hoặc luân hồi.
    2- Chỉ lo tranh đấu mánh khóe gian hùng, điêu ngoa xảo trá, tàn bạo ngược ngang.

    3- Áp bức mọi người để mình có quyền uy và thụ hưởng trên hết.
    D-Tai hại:
    Người sống theo tà tinh tấn có nhiều tai hại:
    1- Mất chánh tín và gây đau khổ cho muôn loài.
    2- Bị nghiệp chướng kéo dài trong luân hồi sanh tử.
    3- Dù có tu song vì giải đãi yếu ớt, nên rất lâu thành Đạo giải thoát, như anh chàng cày ruộng trong thời Đức Phật còn trụ thế.
    (Thuở Đức Phật còn trụ thế có anh nông dân đang cày ruộng bỗng gặp Đức Phật cùng đồ chúng vừa đi tới. Thấy tướng thể trang nghiêm và hào quang sáng chói của Phật, anh toan bỏ cày đến trước Phật qui y, nhưng nghĩ lại: để mình cày xong miếng ruộng nầy rồi thọ giáo cũng chẳng muộn gì.
    Phật hiểu rõ tâm trạng anh, bèn kêu đồ chúng nói:
    -Các ông có thấy anh cày ruộng kia chăng ? Đã trải qua 91 kiếp, có 7 vị Phật ra đời, hễ mỗi lần thấy Phật, anh đều muốn qui y, song bị lòng chần chờ giải đãi khiến chưa qui Phật được. Nay gặp ta ý cũng muốn đến rồi cũng dừng lại như mấy lần trước.
    Nãy giờ anh cày ruộng đứng lặng yên nghe Phật nói giựt mình liền buông cày chạy đến trước Phật quì xuống xin sám hối qui y.
    Xét thấy: tánh chần chờ lục đục, thiếu tinh tấn làm cho anh cày ruộng chậm lại thời gian bao chục ngàn năm, mãi còn lẩn quẩn trong vòng khổ đau sanh tử).
    E-Hành Chánh tinh tấn:
    Để cho môn đồ có được Chánh tinh tấn, Đức Thầy dạy:
    “Chánh tinh tấn dầu thành hay bại,
    Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
    Dầu cho ai phá rối đức tin,

    Ta cũng cứ một đàng đi tới”.
    1- Vậy ta phải giữ đức tin cho mạnh mẽ, sáng suốt không hề để uy quyền hay thị dục lôi cuốn.
    2- Luôn nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh của Đức Phật, Đức Thầy và của chính mình.
    3- Tự nguyện ngày nào chúng sanh còn khổ thì ta cũng đồng chịu khổ với họ. Đức Thầy đã nêu gương hạnh:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.
    4- Xét vì ta có bổn phận giác ngộ trần gian, xa miền tục lụy, thoát khỏi nghiệp oan tội khổ.
    5- Phải gắng chí “tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn mà tấn tới”, quyết chí tu sửa thân tâm, đắc thành đạo quả, bằng cách là dẹp cho được các điều tà mị và lấy tâm làm chủ sáu căn, đừng để duyên nhiễm theo sáu trần:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”. Và:Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.
    6- “Rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỷ lạc nghiêm trang”.
    G- Lợi ích Chánh Tinh tấn:
    Nếu ai hành được Chánh tinh tấn sẽ được các phần lợi ích như sau:
    1- Đường tu không còn nghi ngờ, do dự, dứt trừ được “Ngũ độn sử” và luôn thi hành chánh tín một cách mạnh mẽ.
    2- Không còn bị tà thuyết, vô thần hay các thị dục lôi cuốn.
    3- Được chư Thiên, Thần Thánh và 10 phương Phật hộ trì.
    4- Tế độ đặng vô số chúng sanh giải thoát.
    5- Sớm đạt được diệu trí, vào bậc bất thối chuyển.
    6- Được lực vô úy và chóng thành Đạo Bồ Đề.
    H- Kết luận:
    Tóm lại khi hành được Chánh Tinh tấn, hành giả không còn thối đọa trong ba đường ác, mau chứng quả tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Luôn đặng tự tại trong công cuộc cứu vớt chúng sanh.

    TỪ NGỮ
    VÍA: Một phần trong linh hồn con người lúc còn sống. Người ta thường nói hết hồn hết vía, hay nhẹ bóng vía.
    MÁNH KHÓE: Mưu mô xảo trá.
    GIAN HÙNG: Dối trá xảo quyệt. Đức Thầy có câu:
    Lũ gian hùng mang lấy họa ương,
    Trời đất xử những người bội phản”.
    ĐỨC TIN: Sự tin tưởng về Đạo đức cao cả.
    BỨC BÁCH: Ép buộc thúc giục.
    TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và ngưỡng mộ.
    ĐỨC THẾ TÔN: Một trong 10 hiệu của Phật Thích Ca, có nghĩa cả ba cõi thế gian đều tôn Ngài là Thầy, là đấng Cha lành:
    Ngài là vua Pháp tột cao,
    Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tài.
    Tiên người đồng kính Đạo Thầy,
    Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh
    .( ĐT)

    Và câu:
    Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp”.

    GIÁC NGỘ: Nghĩa của chữ Phật (đấng Giác ngộ), nhưng bốn chữ “Giác ngộ trần gian” ở đây có nghĩa là tỉnh thức kẻ còn mê trong cõi trần.
    OAN TRÁI: Nghiệp nợ do mình tạo tội ác, oan nghiệp kiếp trước mà kiếp nầy phải trả.
    TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ sáng biết, tự giác là một trong tam giác của Phật (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).
    Lòng tự giác xả thân tầm Đạo”.( ĐT)
    NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ, Tàu dịch có nhiều nghĩa. Ở đây chỉ giải một ít nghĩa:
    1-DIỆT ĐỘ: Một nơi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.
    2-VIÊN TỊCH: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần gọi là Viên; trí huệ cụ túc, dứt sạch nghiệp chướng khổ lụy gọi là Tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch để thoát trầm nịch khổ hải.
    3-BẤT SANH BẤT DIỆT: Chẳng còn một niệm sanh, nên chẳng còn sự chết khổ:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)
    Ngoài ra Niết Bàn cũng còn có nghĩa là vô vi, tịch diệt, giải thoát và an lạc…
    LỤC CĂN: Sáu căn, tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó hay xúi giục tâm hồn người ô nhiễm theo sáu trần. Nó cũng gọi là 6 con giặc (lục tặc).
    LỤC TRẦN: Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Thầy dạy:
    Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.
    YÊN TỊNH: Lặng lẽ trong sạch.

    HỈ LẠC: Vui mừng vì không còn các nỗi khổ làm bận tâm, chẳng phải như chữ hỉ lạc trong thất tình.
    NGHIÊM TRANG: Đoan trang nghiêm chỉnh.


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn ?
    2/-Lý do nào sanh Tà tinh tấn ?

    3/-Hành trạng Tà tinh tấn ra sao ?
    4/-Người còn tà tinh tấn có tai hại gì ?
    5/-Muốn có Chánh tinh tấn phải làm sao ?
    6/-Người có chánh tinh tấn được lợi ích gì ?

    7/-Hãy giải nghĩa chữ Niết Bàn ?
    8/-Lục căn lục trần là gì ? Và muốn dẹp nó phải làm sao ?
    9/-Muốn được yên tịnh phải tu cách nào ?
    10/- Cho biết tóm tắt mục Chánh Tinh tấn ?

    V- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH MẠNG


    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chơn chánh, trong sạch.
    Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao.

    Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.
    Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối, bỏ tất cả đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.


    LƯƠC GIẢI
    A- Định nghĩa:
    -Chánh mạng là sanh mạng chơn chánh, trong sạch và sáng suốt.
    -Tà mạng là mạng sống tà vạy, mê mờ, nhơ xấu.
    B- Nguyên nhân sanh tà mạng:
    Người đời vì quá quí trọng thân xác, nên lúc nào cũng lo bảo vệ và chăm sóc bồi dưỡng nó, khiến nảy sanh các hành trạng tà mạng.
    C- Hành trạng Tà mạng:
    Tâm tham lam ích kỷ, lục căn ô nhiễm lục trần như:
    1- Mắt thích xem và luyến ái sắc đẹp.

    2- Tai ưa nghe những tiếng đờn nhạc, ca hát và những lời đường mật, nịnh hót ngợi khen.
    3- Mũi thích ngửi các mùi thơm tho dễ chịu.
    4- Lưỡi ưa dùng các thứ vị: ngọt, béo, chua, cay, mặn, đắng.
    5- Thân ham sự sống cao sang sung sướng.
    6- Ý là đầu dọc của các căn, từ quyền cao danh lớn đến mọi pháp trần trong thế gian nó đều thích ưa ghiền nhiễm.
    D- Tai hại Tà mạng:

    Bởi quá mê ghiền vật dục danh, lợi, tình và 6 trần nên con người tự chuốc lấy tai hại:
    1- Trí huệ càng ngày càng mơ ám ngu đần.
    2- Không hề nghĩ đến luật vô thường của vạn vật, luật sanh tử và nghiệp báo luân hồi của con người, nên họ không chịu tìm con đường giải thoát.
    E- Hành Chánh mạng:
    Muốn được Chánh mạng, theo Đức Thầy dạy chia làm hai phần:
    1-Bên ngoài ta phải xa lánh, tức là đừng duyên nhiễm theo những điều làm cho tinh thần đen tối, như: lục trần, lục dục, đài các xa hoa.
    2-Bên trong phải tự chủ thân tâm, nhằm mục đích bất diệt bất sanh tiến tới:
    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.
    ( ĐT)
    Song muốn đạt đến đó, hành giả trước phải tu thiền định làm thể chất căn bản. Cần nên biết Thiền là tịnh lự là tư duy và quán xét nên gọi là huệ. Còn định là dừng lại, là buông xả hết vọng nhiễm trần lao để tâm được thanh tịnh, bình yân hoặc là:“Ngày đêm phải tự mình suy gẫm, ngăn gió trần cho lặng sóng tâm”. Nếu được như vậy trí huệ sẽ sáng mầu vô tận. Bấy giờ hành giả sống theo trí huệ để nhập thế cứu đời, không hề bị khách trần (6 trần), gạt gẫm lôi kéo:“Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê”.

    Đây là pháp tu Định Huệ mà từ xưa chư Bồ Tát và Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy môn đồ như vậy. Định ví như cây đèn; Huệ như ánh sáng. Vậy ai muốn có ánh sáng để soi tan màn đêm u tối thì trước phải có cây đèn, vì ánh sáng từ cây đèn đó phát ra, cho nên định và huệ luôn tương quan với nhau. Do đó, Đức Thầy dạy chúng ta:Thiền định đặt làm thể, trí huệ đặt làm mạng”.
    G- Lợi ích Chánh mạng:
    Khi hành giả thiền định được và lúc nào mạng sống cũng nương theo ngọn đèn trí huệ thì sẽ đặng kết quả:
    1- Linh hồn được nhập vào liên hoa tự tánh của chính mình, tức là cái thể thanh tịnh. Nên biết cũng tâm hồ đó, nhưng lúc còn mê loạn gọi là linh hồn mà khi định huệ được rồi thì gọi là Phật tánh. Đức Lục Tổ đã bảo:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả quán tác linh hồn”.(Pháp Bửu Đàn Kinh) Cái tánh thanh tịnh nầy ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt. Lúc nào cũng trong sạch an nhiên, nên ví nó như hoa sen, tuy từ bùn mọc lên, nhưng không bị bùn làm hoen ố. Cho nên liên hoa được tượng trung cho thể thanh tịnh trong sạch.
    2- Siêu sanh vào cõi Niết Bàn, tức được nhập Niết Bàn. Ở đây Đức Thầy dùng chữ siêu sanh cho mọi người dễ hiểu, khi tâm trí hành giả có đưọc định huệ rồi, tức hòa vào bản lai thanh tịnh, cũng gọi là “Phật hóa tánh tình” thì người với chư Phật chỉ là một. Lúc đó tâm đâu còn vọng sanh ô nhiễm, mà hễ tâm không vọng sanh, tức đâu có gì phải diệt (Tâm sanh chủng chủng pháp sanh, tâm diệt chủng chủng pháp diệt). Như Đức Thầy đã nói:
    Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
    Đại khái trong hai phần “Thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng” là cái nhân tu hành. Còn “Linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”là cái quả của nhà tu khi thành đạt.
    H- Kết luận:
    Tóm lại, hành giả khi nhận được tà mạng để tránh, Chánh mạng để hành theo thì sau khi đạt được, tức không còn hạt giống sanh tử hay những ác duyên trầm trệ trong lục đạo luân hồi, thân tâm luôn được khinh khoái, vào cõi giải thoát (Niết Bàn).

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TRÍ TUỆ: (Xem chữ Trí huệ bài NĐSLCB, T-1, Q.6).
    XA HOA: Chưng diện lòe loẹt tốn kém. Đức Thầy dạy: “Khuyên đừng xài phí xa hoa,
    Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.
    THIỀN ĐỊNH: Do chữ Thiền na. Có nghĩa để tâm trong sạch, yên lặng mà suy gẫm việc Đạo lý mầu nhiệm, không phân biệt ngồi nằm hay đi đứng, cách nào cũng thiền định được cả. Đức Thầy khuyên:
    Sớm tối đi nằm y chánh pháp”

    Và: “Quay về cội phúc đường chân Đạo,
    Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.
    THỂ: là gốc, là bản chất của mọi sự vật. Ví như tất cả bàn, ghế, giường, ngựa…thể chất nó bằng cây làm ra. Các món nữ trang, thể chất nó bằng vàng. Các loại bánh ngọt, thể chất nó bằng bột và đường. Thể chất tốt thì các món làm ra đều tốt. bằng thể chất xấu thì cái gì cũng xấu.
    THIỀN ĐỊNH ĐẶT LÀM THỂ: Nhà tu muốn tiến đến Niết Bàn trước phải tu Thiền định làm căn bản. Có thiền định được trí huệ mới sáng tỏ và mọi suy nghĩ nói làm đều được trọn lành trọn sáng, tiến đến giải thoát. Bằng thiếu thiền định thì ý nghĩ hay nói làm đều xấu ác, quả Đạo bất thành.
    TRÍ TUỆ ĐẶT LÀM MẠNG: Người tu khi trí huệ được sáng tỏ, từ ấy mạng sống nương theo trí huệ mà vào Niết Bàn, không hề sai lệch. Như người đi đêm có đèn đuốc không lầm đường hay va chạm vào cây đá làm thiệt hại thân mạng.
    LINH HỒN NHẬP LIÊN HOA: Thần thức được hòa vào bản lai thanh tịnh tự tánh. Ý nói khi tâm hồn nhà tu được vào thể thanh tịnh, thì đối với các cảnh tượng lành dữ hay danh, lợi, tình…tâm mình vẫn an nhiên tự tại. Cũng như hoa sen dầu sống trong bùn vẫn không bị bùn làm hoen ố. “Cư trần bất nhiễm”, “Lẫn tục đừng mê”.

    SIÊU SANH VÀO CÕI NIẾT BÀN: Cũng gọi là nhập Niết Bàn, tức là siêu thoát vào cõi bất sanh bất diệt. Người tu thiền định được, tuy còn mang xác phàm như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tâm hồn đã dứt sạch hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, nên gọi là vào Niết Bàn. Đức Thầy từng nói:
    Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.
    Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh mạng và Tà mạng ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh Tà mạng ?
    3/-Hành trạng của tà mạng ra sao ?
    4/-Người sống theo tà mạng có tai hại gì ?

    5/-Muốn được Chánh mạng ta phải tu cách nào ?
    6/-Hành chánh mạng xong được lợi ích gì ?
    7/-Thiền định là gì ? Và tại sao Đức Thầy dạy ta phải đặt nó làm thể chất ?
    8/-Hãy cho biết nhân quả trong phương cách hành Chánh mạng ?
    9/-Kết luận mục Chánh mạng ra sao ?

    VI- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH NGỮ

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-NGỮ.- Lời nói chơn thật.
    Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.
    Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt: làm cho thiên hạ bất hoà nhau. Ỷ-ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay. Ác-khẩu: tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh. Vọng-ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc.

    Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn. Phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức-hạnh, những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.

    LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:

    -Chánh ngữ là lời nói chơn thật, hiền từ, thanh bai hòa diệu có lợi ích cho mọi người.
    -Tà ngữ cũng gọi là ác ngữ, tức là những lời nói dối gian độc ác, không chơn thật dịu hiền, có hại cho mọi người.
    B- Nguyên nhân sanh Tà ngữ:
    Bởi lòng ham muốn nuôi dưỡng xác thân cho được cao sang sung sướng, nên sanh ra muôn ngàn tội lỗi. Trong đây phần lớn là do khẩu nghiệp.
    C- Hành trạng Tà ngữ:
    Hành trạng của tà ngữ có rất nhiều, nhưng đây chỉ tóm tắt trong bốn phần
    1-Lưỡng thiệt: những lời nói hai chiều đâm thọc, thêm bớt làm cho thiên hạ đôi chối, tranh tụng bất hòa với nhau.
    “Với người nầy dùng lời tha thiết,
    Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”.
    ( ĐT)
    2-Ỷ ngôn: Lời nói ỷ thị chê bai mắng nhiếc kẻ dưới tay, hoặc kém thiếu hơn mình về mọi mặt.
    3-Ác khẩu: Những tiếng độc ác thô tục…chửi rủa, mời thỉnh các cõi Thần Thánh.
    4-Vọng ngữ: Những lời nói thêm thừa huyễn hoặc, khiến cho người khác hiểu lầm mê tín.
    D- Tai hại của Tà ngữ:
    Người hay nói tà ngữ có nhiều tai hại:
    1-Thường bị mọi người mất niềm tin và chán chê xa lánh.
    2-Chư Thiên và Thần Thánh không ủng hộ, lại còn bị các Ngài trừng phạt cả gia đình, như trường hợp bà lão bồng đứa cháu đến nhờ Đức Thầy trị bịnh…năm 1939. (Xem Chuyện bên Thầy, Quyển 1)

    3-Đời sống chẳng những bị mọi người cô lập, không yên mà còn gây nhân luân hồi quả báo về sau, như câu chuyện người bán ngọc trong tiền thân Đức Phật…
    E- Hành Chánh ngữ:
    Muốn được Chánh ngữ nhà tu cần trì hành những điểm như sau:
    1-Đối với mọi người, mọi giới lúc nào cũng tập sửa lời nói mình cho được chơn chánh, đúng với sự thật.
    2-Bỏ dứt những tiếng xảo ngôn tráo chác, chửi rủa thô tục hoặc kêu mời Thần Thánh Trời Phật.
    3-Khi bàn luận việc chi phải nói ngay thẳng và đối với kẻ dưới bề trên, cần dùng lời hiền lương đức hạnh.
    4-Thường lấy lời hòa diệu khuyên bảo kẻ khác làm theo lẽ phải, có ích lợi cho đời và thích hợp với tinh thần Đạo đức.
    G- LỢI ÍCH CHÁNH NGỮ:
    Khi hành được Chánh ngữ sẽ đặng các món lợi ích:
    1-Khẩu nghiệp luôn thanh tịnh, tập nghiệp xấu ác của miệng lưỡi không còn.
    2-Không bị tai họa vì lời nói, trái lại còn nhờ lời nói chánh ấy giúp mình lập được nhiều công đức.
    3-Thường được chư Thiên và quỉ Thần ủng hộ.
    4-Sống trong các giới chúng sanh có nhiều bạn lành và địa vị mình được nhiều người nâng nhắc.
    5-Miệng lưỡi thường thơm sạch, ngôn ngữ siêu thắng chuyển hóa được nhiều người hướng thiện
    H- Kết luận:
    Tóm tắt lời nói tà ngữ là một tội ác to lớn nhưng khi hành được Chánh ngữ thì không còn bị quả báo về khẩu nghiệp, thường nói lời lợi lạc cho mọi người và đường về Cực lạc, Niết Bàn không còn bị chướng ngại.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    LỤC TRẦN: (Xem CT chữ Lục trần mục Chánh Tinh tấn).
    NGHIỆP CHƯỚNG: (Xem CT chữ Nghiệp chướng bài “Luận về Tam nghiệp”).
    ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành, từ bi và bình đẳng; Hạnh là nết tốt, cử chỉ đoan trang lễ phép. Đức Thầy dạy:
    “Rán giữ gìn luân lý tam cang,
    Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh ngữ và Tà ngữ ?

    2/-Lý do nào sanh ra Tà ngữ ?
    3/-Hành trạng tà ngữ ra sao ?
    4/-Người nói không chánh ngữ có tai hại gì ?
    5/-Muốn được chánh ngữ ta phải làm sao ?
    6/-Lợi ích khi được Chánh ngữ như thế nào ?
    7/-Tóm kết khi hành chánh ngữ ra sao ?

    VII- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH NIỆM

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân chánh.
    Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng ... Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não phụng sự cho nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quý ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.

    Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.

    LƯỢC GIẢI
    A.- ĐỊNH NGHĨA:
    -Chánh niệm là ghi nhớ các việc chân chánh tốt lành.
    -Tà niệm là ghi nhớ những điều tà vạy nhơ xấu.
    B- Nguyên nhân sanh Tà niệm:
    Nguyên nhân sanh tà niệm là bởi thất tình, lục dục sai khiến, làm cho con người dồn hết tâm cơ, trí não phụng sự cho nó.
    C- Hành trạng Tà niệm:
    Trong lòng ghi nhớ mãi những việc: danh, lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí…và các điều còn mất, có không, thành bại, thương ghét không phút nào yên tịnh.
    D- Tai hại Tà niệm:
    Những ghi nhớ sai lầm nói trên, chẳng những làm cho trí huệ mờ đục mà còn khiến con người mãi lăn lộn trong 6 nẻo luân hồi, không thoát khỏi vòng sanh tử. Đức Thầy từng bảo:
    “Nay cõi tạm sông sầu bể khổ,
    Làng ngựa xe cám dỗ tao nhân.
    Gây ra lắm nợ phong trần,
    Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

    E- Hành Chánh niệm:
    Để thi hành được Chánh niệm, hầu thoát khỏi vòng luân hồi thống khổ, hành giả cần trì hành các phương pháp như sau:
    1-Luôn tưởng niệm những phương pháp hành đạo, như:“Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới để độ Tham, Sân, Si”; hoặc niệm Phật để trừ vọng niệm chúng sanh…Và xả bỏ sự tưởng nhớ các điều phù phiếm xa hoa.
    2-Luôn nhớ nghĩ đến thân tứ đại giả hợp không bền chắc, sớm muộn gì cũng tan rã và mọi vật chất tiền tài, sự nghiệp, đến xác thân ta đều là phù hoa ảo ảnh. Tất cả phải bị chi phối bởi định luật “hữu hình tắc hoại”. Đức Thầy luôm nhắc nhở:
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.

    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.

    G- LỢI ÍCH CHÁNH NIỆM:
    Hành giả khi tu được Chánh niệm tất đặng những điều lợi ích đáng kể:
    1-Lúc nào cũng làm chủ thân tâm và thắng phục các thị dục, vô minh phiền não tiêu vong.
    2-Đối với mọi trần cảnh không còn xúc động, tâm luôn được an nhiên tự tại.
    3-Dứt được cuộc đời lầm than khổ lụy.
    4-Tâm hạnh phước trí ngày càng vượng lớn, khiến ai cũng kính nghe.
    K- Kết luận:
    Tóm lại, người tu hành khi được Chánh niệm, tức đặng giại thoát sanh tử luân hồi và sớm thành quả chánh giác

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    THẤT TÌNH: Bảy cái tình trong tâm tưởng con người, tức là:“Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục”. Có nghĩa: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn. Bảy cái tình ấy ví như bảy con ma, hay xúi người làm quấy. Đức Thầy hằng khuyên:“Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung”.
    LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn của vọng tâm đối với sáu trần cảnh là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục dục cũng gọi là: sắc trang, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng, tật đố. Nó ví như sáu con ma hay khơi gợi người đam mê ưa thích làm điều xằng bậy. Đức Thầy răn dạy:
    Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.
    TÂM CƠ: Cơ mưu riêng trong lòng.
    TRÍ NÃO: Trí óc. Nói riêng về sự hiểu biết, suy tính.
    SÁU ĐƯỜNG: Nghĩa của chữ “Lục đạo”. Cũng gọi là 6 nẻo luân hồi, gồm có: cõi Trời, cõi người, cõi Thần, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Đức Thầy có câu:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
    PHÙ PHIẾM: Bâng quơ, không thiết thực.
    XÚC ĐỘNG: Động lòng, mủi lòng, cảm động nhiều.

    LỤY KHỔ: Tai hại khổ sở.

    CÂU HỎI
    1/-Định nghĩa chữ Chánh niệm và Tà niệm ?
    2/-Nguyên nhân nào sanh tà niệm ?
    3/-Hành trạng của tà niệm ra sao ?
    4/-Người còn tà niệm có tai hại gì ?
    5/-Muốn được chánh niệm phải làm sao ?
    6/-Hành chánh niệm đặng lợi ích gì ?
    7/-Giải nghĩa chữ thất tình và lục dục ?
    8/-Đức Thầy bảo hãy tưởng niệm phương pháp hành Đạo, nên kể một vài phương pháp chứng minh ?

    VIII- ĐẠO ĐỀ: - CHÁNH ĐỊNH

    CHÁNH VĂN
    CHÁNH-ĐỊNH.- Suy gẫm chơn-chánh.

    Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên ... nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác ... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quý, đi theo những vặt-vụn, tiểu ti, eo-hẹp.
    Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.

    LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:
    -Chánh định cũng như chữ Thiền định. Có nghĩa để tâm yên lặng, quán xét, suy tầm việc Đạo lý mầu nhiệm một cách rõ ràng. Có diệu năng đối trị Tà định.
    -Tà định là dự suy gẫm tà vạy, xấu ác, sai lầm.
    B- Nguyên nhân sanh Tà định:
    Do lòng tham lam ích kỷ, con người mãi mê đắm theo mọi sự dục lạc trong trần.
    C- Hành trạng Tà định:
    Người chưa hiểu Đạo có những ý định sai lầm như sau:
    1-Ý định làm sao cho mình được cao sang sung sướng thêm lên và sáng biết mọi việc nhỏ nhen thấp thỏi.
    2-Không nhận được cuộc đời là giả tạm, nay đổi mai dời:
    Chữ phù vân phú quí nay mai,
    Luân với chuyển dời qua đổi lại
    .( ĐT)
    Hay là:“Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)
    3-Không nhận được xác thân vô thường, nó phải đi theo định luật: sanh, già, bịnh, chết. Cả nhơn loại chúng sanh không một ai thoát khỏi.
    D- Tai hại Tà định:
    1-Do xét định sai lầm ấy, khiến tâm trí con người cuống cuồng theo bả lợi danh, mùi phú quí:“Mê man danh lợi cõi hồng trần”.( ĐT)
    2-Lo gây tạo ác nhiệp rồi vương mang những vật tiểu ti eo hẹp, nên phải lăn lộn trong bánh xe luân hồi thống khổ. Đức Thầy đã bảo:
    “Bá tánh say sưa mùi phú quí,
    Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao”.

    E- Hành Chánh định:
    Muốn tránh các điều khổ nói trên, hành giả phải suy gẫm, quán xét những điều sau đây:
    1-Suy gẫm ngoài kiếp phù du của trần thế, còn có các cõi khác bất di bất dịch, vĩnh viễn trường tồn, như: Niết Bàn, Cực lạc. Cõi ấy con người chẳng còn buồn khổ hay quả báo luân hồi:
    “Tội tiêu phước hưởng trường tồn,
    Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi
    .( ĐT)
    2-Dùng thiền định phá tan màn vô minh, phiền não và các làn sóng thị dục, để lòng được an nhiên, thanh tịnh. Đức Thầy từng dạy:
    Mục Chánh định thật là rất khó,
    Giữ tấm lòng bất động như như.
    Cho hồn linh yên lặng an cư,
    Thì mới được huờn nguyên phản bổn”.

    G- Lợi ích hành Chánh định:
    Nhà tu khi trì hành được Chánh định theo các điểm vừa kể trên, tất đặng những điều cao quí:
    1-Bên trong chẳng còn xao động, các tập nghiệp phiền não tiêu tan, trí tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, dứt tuyệt sự mê lầm (vô minh hoặc):“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật”..( ĐT)
    2-Bên ngoài thì không hề duyên nhiễm theo các trần cảnh. Tuy sống chung với mọi người và cũng làm các việc giúp đời độ chúng, nhưng không một cảnh vật nào chi phối được mình. Tâm trí lúc nào cũng như như bất động, tự tại giải thoát:“Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)
    H- Kết luận:
    Tóm tắt khi hành giả tu được Chánh định thì tà định tiêu tan trong tức khắc. Bấy giờ trí ta chẳng còn loạn động vì phiền não, như: kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc và trần sa hoặc. Lúc nào tâm ta cũng thanh tịnh sáng suốt, thấy biết phân tách vạn pháp một cách rõ ràng, như thấy chỉ trong lòng bàn tay và chứng đại định Niết Bàn.

    TỔNG KẾT
    Đại khái Bát Chánh Đạo là Đạo Đề. Chẳng những một trong Tứ Diệu Đề mà còn là Tám pháp Đạo phần, trong 37 phẩm trợ Đạo. Nó có diệu năng đối trị Bát tà và nhổ tận gốc nghiệp duyên phiền não, tức là tập nghiệp vô minh. Đây là pháp tu căn bản duy nhứt để thành quả Tam thừa và Phật thừa.
    Là một môn đồ nhà Phật, đã quyết chí tu hành để giải thoát cho mình và cả vạn loại, ta há chẳng lấy đây làm Kinh nhật tụng để hành trì ư ?

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LẠC LUÂN: Lưu lạc rày đây mai đó, hoặc lên xuống theo bánh xe luân hồi.
    PHÙ VÂN: Mây nổi. Ý chỉ cái gì không bền chắc, thấy đó rồi mất đó. Đức Thầy có câu:Một cuộc phù vân có mấy hơi”. Hay:
    “Cuộc phù vân phú quí nay mai,
    Luân với chuyển dời qua đổi lại”.

    PHÙ DU: Một thứ côn trùng nhỏ như chuồn chuồn bay trên mặt nước. Tối lại, thấy ánh sáng của bóng đèn bay quanh theo, rồi bị lửa nóng chết. Ý nói kiếp sống con người quá ngắn ngủi, dù có tham luyến vật chất tiền tài cũng chẳng hưởng lâu bền mà lại phải chết vì nó. Đức Thầy đã nói:
    Con phù du hẫng hờ nào biết,

    Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.
    Thảm thương thay chết héo chết khô,
    Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.
    Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,

    Đeo danh lợi như con vật ấy”.
    BẢ LỢI DANH: Bả là đồ ăn có tẩm thuốc độc. Ý nói ai tham danh lợi như người tự uống thuốc độc mà chết.
    MÙI PHÚ QUÍ: Cũng viết là mồi phú quí. Ý nói sự phú quí vinh hoa như miếng mồi có mùi thơm, tức có lưỡi câu trong đó, ai tham phú quí như cá tham mồi thì phải mắc câu, tất có hại.
    KHÔNG DI KHÔNG DỊCH: Chẳng dời chẳng đổi. Chỉ cho cái gì còn hoài không mất. Đây chỉ cho cảnh Niết Bàn.

    U MINH: Tối tăm mù mịt, cũng gọi là vô minh.
    PHIỀN NÃO: Hán học giải là buồn rầu, lo sợ, sân si. Phật học giải là cái vọng niệm tà quấy sai lầm. Phiền não kể ra có vô lượng, nhưng tóm tắt lại gồm có ba món căn bản, là:“Tham, Sân, Si”, nó có thể nảy sanh muôn ngàn trần lao phiền não khác. Trong bài “Các câu chú thường niệm” Đức Thầy có dịch:
    Nghe chuông phiền não tiêu tan,
    Bồ đề tâm mở trí toan huệ mầu”.


    CÂU HỎI
    1/-Hãy định nghĩa Chánh định và Tà định ?
    2/-Lý do nào sanh tà định ?
    3/-Hành trạng tà định ra sao ?
    4/-Người sống theo tà định có tai hại gì ?
    5/-Muốn được chánh định ta phải làm sao ?
    6/-Hành chánh định đặng lợi ích gì ?

    7/-Tóm tắt ai tu được Chánh định tâm trí như thế nào ?
    8/-Hãy cho biết tổng kết phần Đạo Đề ?

    IV- TỨ DIỆU ĐỀ : DIỆT ĐỀ

    Vừa qua chúng ta đã tu học phần Đạo Đề, để diệt trừ tận gốc tập nghiệp vô minh phiền não. Giờ đây, chúng ta học đến Diệt Đề, tức là phần chứng diệt. Thể theo ý Đức Thầy thì Diệt Đề là “Môn Hoàn Diệt”, trong đây gồm có hai phần: Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn.

    CHÁNH VĂN


    MÔN HOÀN DIỆT
    Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh-tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì màn vô-minh sẽ bị diệt mất.

    Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục-nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải-thoát vậy
    Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)

    LƯỢC GIẢI

    A- PHƯƠNG PHÁP DIỆT KHỔ
    Trong các phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy môn đồ phải:“Nương theo con đường Bát Chánh Đạo”, tức là Đạo Đề mà tiến hành. Bởi trong Bát Chánh Đạo gồm có ba phần: phần Chánh Nghiệp trừ các tập nhân về thân. Phần Chánh Ngữ diệt được các tập nhân về Khẩu. Còn lại 6 Chánh là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh tấn, Chánh Mạng, Chánh Nệm và Chánh Định diệt sạch vô minh phiền não.
    Tuy nhiên, qua phần Diệt Đề, Đức Thầy cũng dạy thêm một ít phương thức để hộ trợ hành giả tiến lên đường tự giác, giác tha của Bồ Tát và Phật.
    1- Giữ tâm thanh tịnh:
    Bởi biển tâm của mỗi chúng sanh lúc nào cũng có các làn sóng phiền não dấy lên làm mờ đục trí huệ, do 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, hoặc 8 luồng gió “Bát phong” làm dao động: “Gió bát phong chao ngọn đèn tâm”.(Bát phong gồm có: Lợi (lợi lộc),Suy (bị thua thiếu), Hủy (danh thơm), Dự (tiếng xấu), Xưng (ca ngợi), Cơ (chê bai), Khổ (khổ nạn),Lạc (yên vui)) Giờ đây ta phải dùng sức tự lực làm chủ tâm mình và thi hành Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định... Đồng thời quán xét các trần cảnh như phù hoa ảo ảnh, như trò huyễn thuật, không thật có, để tâm mình:“Chẳng luyến trần ảo ảnh gạt lường”( ĐT). Đặng vậy, tâm ta chẳng còn duyên nhiễm theo trần cảnh, lúc nào cũng vẫn bình tịnh sáng suốt. Ấy gọi là tự giác.
    2- Làm việc nhơn từ:
    Khi tâm hành giả được thanh tịnh, sáng suốt thì đối với các trần cảnh lòng luôn được an nhiên tự tại, như hoa sen “cư trần bất nhiễm”. Giờ đây ta phải mở lòng từ bi, thương xót muôn loài vạn vật còn đang ngụp lặn trong bể trần thống khổ, nên dùng phương tiện giúp đỡ từ tinh thần lẫn vật chất, khiến họ được an vui hạnh phúc và biết được Đạo lý tu hành, hầu tiến sang bờ giải thoát. Ấy là phần giác tha.
    3- Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh:
    Lòng hờn giận và đố kỵ ghét ganh là hai món phiền não khó trừ, diệt hết phần thô lại còn phần vi tế và tập khí, nó ăn sâu trong tạng thức của mỗi người, hành giả khó nhận ra. Ở đời người ta ganh tị thù ghét những người hà hiếp, quấy phạm với mình là thường. Nơi đây Đức Thầy muốn chỉ cái tánh hay ganh hiền ghét ngõ, đố kỵ thù hằn đối với các bậc tài đức hơn mình mà xưa nay, từ trường đời đến cửa Đạo đều có xảy ra.
    -Trường đời thì nịnh ghét trung, tiểu nhân hiềm tị quân tử. Như: Tần Thỉ Hoàng oán ghét hàng Khanh Sĩ, Châu Do danh tị Khổng Minh, Bàn Quyên tị hiềm Tôn Tẩn...
    -Cửa Đạo thì tà ghét chánh, hung ác ghét hiền nhơn. Như: Đạo chích tị hiềm Khổng Tử, vợ vua Lương Võ Đế đố kỵ Hoà Thượng chí công; Đề Bà Đạt Đa ganh hiền Đức Phật và chúng tăng. Đức Thầy đã phô diễn:
    Thấy chúng sanh ghét ngõ ganh hiền,
    Theo chế nhạo những người tu tỉnh”.

    Và:
    “Ra đời chẳng nệ công lao,
    Chẳng hờn, không giận, hùng hào còn ganh”.
    Cho nên Ngài dạy môn đồ muốn tiến lên đường giải thoát, cần phải:Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh”.
    4- Chuyên tâm niệm Phật giúp thế độ đời:
    -Đoạn nầy Đức Thầy dạy người tu vừa tự giác và vừa giác tha. Chuyên tâm đồng nghĩa với chữ nhứt tâm. Nghĩa là chỉ một lòng tưởng Phật, nhớ Phật để trở về với tánh giác ngộ, không để một vọng tưởng nào xen tạp. Niệm như vậy cho đến khi vô minh vọng hoặc tan hết, tức huệ nhựt hiện bày và tâm hành giả được hòa vào Bản lai thanh tịnh. Vào thời mạt pháp chúng ta muốn chuyển hoá vô minh phiền não trở thành thanh tịnh Niết Bàn, chỉ có pháp “chuyên tâm niệm Phật” là giản tiện hơn hết.
    -Đồng thời với sự chuyên tâm niệm Phật (tự giác) nhà tu cần thực hiện lòng từ bi, giác chúng độ đời (giác tha) để hoàn thành hạnh đại thừa của Bồ Tát và tối thượng thừa của Phật.
    5- Đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ:
    Tới đây, Đức Thầy nhắc lại ba món phiền não căn bản: Tham, sân, si, nó đã ăn sâu trong tâm thức của mỗi người, từ vô thỉ tới giờ. Nhà tu diệt hết phần thô và phần vi tế, lại còn phần tập khí. Bởi nó không có hình tướng, chỉ thoáng qua như hơi gió, xuất hiện bất ngờ nên khó trừ. Chính nó là đầu mối, là căn bản (vô minh). Cho nên đồng thời với các phương pháp vừa kể qua, hành giả cần gom hết năng lực trí tuệ của mình, chiếu phá tận gốc rễ của nó để đạt đến Niết Bàn giải thoát.
    6- Hoàn diệt:
    Theo Đức Thầy dạy, khi hành giả nhổ tận gốc: tham, sân, si (vô minh) thì hành đắc thất và thức nhân ngã cũng tiêu vong. Hễ cái tâm thức hiểu biết phân biệt không còn thì danh sắc chẳng do đâu mà sanh được. Danh sắc đã không có (không sanh) thì đâu có 6 căn để duyên nhiễm theo sáu trần (lục dục) mà sanh ra xúc động. Khi xúc động đã hết thì thọ cũng mất luôn và đâu có sự vật nào để thương yêu luyến ái mà bảo thủ. Khi lòng đã buông xả không còn bảo thủ thì đâu còn chấp tâm hay chấp pháp mà gọi rằng có (hữu). Đã không có hữu thì đâu còn sanh ra con người ở cõi trần để bị định luật sanh, già, bịnh, chết chi phối.
    Hành Đạo đến đây nhà tu hoàn toàn giải thoát mà vào cảnh “Thanh tịnh Niết Bàn”
    Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

    B- HƯỞNG QUẢ NIẾT BÀN
    Đây là lối về tới đích, là cứu cánh của người tu Phật:
    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.
    ( ĐT)
    Như đã hiểu rõ Niết Bàn là nơi cứu cánh giải thoát, là diệt khổ, là viên tịch; cũng gọi là bất sanh bất diệt và pháp thân thường trụ...Song bất biến mà cũng tùy duyên và tùy duyên mà bất biết, lúc nào cũng tự tại vô ngại.
    Giờ đây chúng ta cần khảo xét cho chín chắn để chúng ta có một chánh tín và vững tiến. Tuy nhiên cũng tùy theo tâm đức và công năng tu tập của mỗi hành giả mà sự chứng đắc Niết Bàn có rộng hẹp và thứ bậc khác nhau:
    1- Niết Bàn của THINH VĂN và DUYÊN GIÁC:
    a)-Theo Kinh xưa, hành giả tu chứng tứ thông hoặc Bát thông Thiền định. (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền gọi là Tứ thông Thiền định. Thêm bốn bực nữa: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi phi tưởng gọi là Bát thông Thiền định). Trừ hết ngã chấp được chứng 3 quả Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm, nhưng vi tế và tập khí phiền não còn sót lại nên còn quả báo năm ba kiếp nữa. Song nhờ ngã chấp chẳng còn, nên dầu ở trong sanh tử vẫn không bị ràng buộc như chúng sanh thường. Thế gọi là chứng quả “Hữu dư y Niết Bàn”.
    b)-Khi nhà tu trì hành 37 phẩm trợ Đạo, được chứng quả A La Hán, các phiền não và câu sanh ngã chấp không còn. Ấy là hoàn toàn giải thoát ra khỏi sanh tử luân hồi, tâm luôn được tự tại ngoài vòng Tam giới, nên gọi là “Vô Dư y Niết Bàn”.
    2- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật:
    Trong hàng Thinh Văn và Duyên Giác đạt đến chỗ Vô Dư Y Niết Bàn, tuy đã đoạn hết phiền não phần thô và vi tế, nhưng phần tập khí vẫn còn phưởng phất đôi chút, công đức, trí huệ chưa viên mãn, bởi tâm lượng độ tha chưa sâu rộng. Tu tới đây chỉ chứng Tiểu thừa của hàng Thinh văn, Duyên Giác mà thôi. Cho nên hành giả phải tu lên Đại thừa của Bồ Tát và tối Thượng Thừa của Phật. Trong Niết Bàn Đại thừa cũng chia làm hai phần:
    A-VÔ TRỤ XỨ NIẾT BÀN:
    Chỉ cho các hàng Bồ Tát tu “Lục độ vạn hạnh” và “Tứ vô lượng tâm”. (-Lục độ: Bố thí, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. -Tứ vô luợng tâm: Điạ từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) Đã thấu rõ “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” pháp tánh bình đẳng như như, không có gì là chắc thật cố định. Các Ngài đã chứng được tự tánh bình đẳng hòa quan đồng trần, giáo hóa chúng sanh. Tuy thi hành công tác độ tha mà vẫn ở trong chánh quán và tâm vô trụ. Bồ Tát xem vạn pháp như huyễn, cho đến sanh tử hay Niết Bàn cũng không thật, nên tâm các Ngài không dính mắc vào chỗ nào:“ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Kinh Kim Cang)
    Do đó hàng Bồ Tát luôn vào trong sanh tử, dùng “Tứ nhiếp pháp” (là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự nhiếp hóa) giáo hóa chúng sanh mà tâm vẫn ở trong Niết Bàn tự tánh, như trường hợp Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ hiện nay...các Ngài đã “Siêu phàm nhập phàm”.
    B-TÁNH TỊNH NIẾT BÀN:
    Đây là chỉ cái thể vắng lặng mà diệu mầu, tuy sáng suốt linh hoạt mà vẫn thanh tịnh an nhiên “Chơn không mà diệu hữu”. Đức Thầy dạy môn đồ tu đạt đến chỗ nầy “Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Đây cũng gọi là Phật tánh, là chơn tâm hoặc Bản lai thanh tịnh hay Như Lai Tạng...

    Hành giả tu đạt đến:“Tự tánh thanh tịnh Niết Bàn” sẽ thành Phật (Giác hạnh Viên mãn). Và có đủ bốn đức: Thường, Lạc, Ngũ, Tịnh.
    3- Bốn Đức Niết Bàn:
    a)-Chơn thường: là bản tánh thường hằng chơn thật, không bị chi phối bởi luật vô thường của thế gian.
    b)-Chơn lạc: là cái vui chơn thật, vì tâm không còn buồn khổ, lo sợ như các giới chúng sanh ở thế gian, nên tạm gọi là vui, chớ không phải cái vui tầm thường ích kỷ.
    c)-Chơn ngã: Đây là cái tâm bình đẳng xem vạn vật đồng nhất thể, tức là hoà vào cái đại ngã. Lúc nào cũng bình đẳng an nhiên, tự tại vô ngại, không còn bị nội tâm hay ngoại cảnh sai sử phân biệt.
    d)-Chơn tinh: là tâm hoàn toàn trong lặng sáng mầu, như mặt nước hồ thu hay Đài Nguyệt Kiến, không còn một tập khí nhiễm ô nào cả:
    “Tâm sáng suốt như Đài Nguyệt Kiến,
    Tánh trong như nước bích mùa Xuân
    .( ĐT)
    4- Nhận Định:
    Theo Đức Giáo Chủ PGHH, hiện nay thì ý nghĩa của chữ Niết Bàn và cấp bực cũng như các Kinh luận giải từ trước. Nhưng về phương tiện hành đạo thì có giản dị hơn, để rộng độ các tầng lớp chúng sanh tiện bề học hỏi và trì hành.
    Qua yếu chỉ của Đức Thầy hướng dẫn, tuy hầu hết tín đồ PGHH chỉ mang hình thức Cư sĩ, nhưng phần nội tâm vẫn được tu công hạnh Bồ Tát Đạo để ra khỏi sanh tử và tiến tới Niết Bàn. Chứng cứ là trong đường lối “Học Phật Tu Nhân” Ngài đã đề vạch. Khi hành giả vừa bước đầu (tu nhân), Ngài đã rút ngay Phẩm Báo Tứ Ân, trong Kinh Đại Thừa Tâm Địa Quán” để dạy tín đồ:“Thượng báo tứ trọng Ân, hạ tế tam đồ khổ”. Đồng thời phải tiêu diệt mầm móng sanh tử là tránh Tam Nghiệp, chừa Thập ác để được trọn lành, trọn sáng.
    Kế đó, phải tiến lên phần tu Phật là phải thi hành công hạnh tự giác, giác tha bằng cách hành trì Bát Chánh Đạo để cải thiện hành động, ngôn ngữ, tư tưởng cho mình và cho người, được toàn hảo toàn hòa, an vui hạnh phúc, như Ngài đã dạy:“Bát Chánh Đạo là quyển Kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ tấn triển trên đường giải”. Chính đó là Đạo Đề.
    Vì thế trong phần Diệt Đề (Môn Hoàn Diệt) Đức Thầy dạy:“Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi” tất sẽ được hưởng quả Niết Bàn, Song tùy theo tâm đức và công năng giới hạnh của mỗi nhà tu mà sự chứng đắc Niết Bàn có nhiều bực, như từ trước.
    5- Khảo Xét:
    Khảo xét sâu vào Bát Chánh Đạo, tức Đạo Đề, thấy rằng: Nếu ai hành đặng Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, sẽ phá được kiết sử và kiến hoặc, tư hoặc; tức là 10 món phiền não căn bản thì chứng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn và Duyên Giác.
    Còn ai tu đạt thành luôn bốn chánh: Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định tất đoạn được trần sa hoặc và vô minh hoặc thì đặng Niết Bàn của Bồ Tát và Phật. Vì Đức Thầy đã từng dạy:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”. Hoặc là:
    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,
    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.

    III-KẾT ĐỀ
    1- Tóm tắt:
    Nói tóm lại nhà tu muốn chứng diệt (Diệt Đề) cần phải hành trì Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên cũng tùy theo công hạnh rộng hẹp, tâm đức cạn sâu của mỗi hành giả mà hưởng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát và Phật. Song bực nào cũng được giải thoát sanh tử bình đẳng như nhau.
    2- Tổng Kết:
    Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu Đề, Đức Thầy dạy môn đồ, trước nhất phải tự kiểm nhận cho rõ kiếp sống khổ của chính mình và toàn thể chúng sanh đang gánh chịu, qua tám nỗi khổ. Chẳng những chịu các nỗi khổ của thân lẫn tâm, còn phải đương đầu với bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến, bởi do cộng nghiệp hay biệt nghiệp của mỗi chúng sanh hay nhiều chúng sanh tạo ra.
    -Kế tiếp chúng ta muốn tránh các nỗi khổ đó cần phải quán xét tận gốc rễ của nó từ đâu sanh ra. Cho nên phần Tập Đề giúp chúng ta thấy rõ gốc khổ là do vô minh phiền não đã huân tập, kết cấu từ vô thỉ, đó là 12 duyên sanh mà vô minh là đứng đầu. Nó trói trăn chúng ta trong luân hồi sanh tử, từ vô lượng kiếp đến nay.
    -Giờ đây, chúng ta muốn diệt tận gốc nó phải tu Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Trì hành Bát Chánh Đạo xong, tức vô minh phiền não tan biến và bẻ gãy 12 duyên sanh mà thành đạt mục đích. Ấy gọi là chứng diệt.
    -Đến phần Diệt Đề phân tách cho chúng ta thấy rằng: trong lúc thực hành phương pháp giải khổ cũng tùy theo công năng, tâm đức của mỗi hành giả sâu rộng hay vừa chừng mà chứng Niết Bàn tương xứng.
    Đã là bốn chơn lý bất diệt, là 4 pháp mầu nhiệm vô biên, người tu Phật dẫu từ ngàn xưa hay hiện nay, cho đến ngàn sau, ai ai cũng phải công nhận và trì hành. Bởi Tứ Diệu Đề là phương tiện duy nhứt, có diệu năng đưa hành giả dù hạng nào: Xuất gia hay Cư sĩ, nếu ai thi hành được cũng đều đạt quả Tam thừa và Chánh giác như nhau.

    CHÚ THÍCH (Bài Môn Hoàn Diệt)
    DIỆT ĐỀ: Một trong Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Diệt Đế, là chứng Diệt hay nhập Diệt. Có nghĩa diệt dứt phiền não vào Niết Bàn. Ý nói sau khi hành Đạo Đề xong thì vô minh phiền não chẳng còn, hành giả được hoàn toàn giải thoát sanh tử mà nhập Niết Bàn:
    Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)
    (Lưu ý chữ Diệt ở đây khác nghĩa với chữ Diệt Đề trong quyển Giác Mê Tâm Kệ (1939). Và các từ ngữ trong Môn Hoàn Diệt đã có giải trong phần lược ý).

    CÂU HỎI
    1/-Diệt Đề là gì, và trong đây có mấy phần chính ?
    2/-Trong phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy như thế nào ?
    3/-Muốn giữ tâm thanh tịnh ta phải làm sao ?
    4/-Làm những gì gọi là làm việc nhơn từ ?
    5/-Lòng hờn giận, ghét ganh ra sao ?
    6/-Phiền não là gì, tai hại ra sao mà Đúc Thầy bảo đừng chứa ?
    7/-Giải rõ về cách Hoàn Diệt ?
    8/-Quả Niết Bàn là gì mà người tu cần đạt đến ?
    9/-Niết Bàn của Thinh Văn Duyên Giác ra sao ?
    10/-Sao gọi là Hữu dư y Niết Bàn ?
    11/-Vô dư y Niết Bàn ra sao ?
    12/-Cho biết Niết Bàn Đại Thừa của Bồ Tát và Phật ?
    13/-Tu như thế nào mới nhập Vô trụ xứ Niết Bàn ?
    14/-Tánh tịnh Niết Bàn ra sao ?
    15/-Thế nào gọi là 4 đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh ?
    16/-Diệt Đề theo Đức Thầy dạy, ta nhận định ra sao ?
    17-Khảo xét về tu Bát Chánh Đạo như thế nào ?
    18/-Tóm tắt mục Diệt Đề ra sao ?
    19/-Cho biết Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu Đề ?



     
  7. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    6- TỨ DIỆU ĐẾ (Bài hai)

    LƯỢC GIẢI

    Như chúng tôi đã giới thiệu, Đức Thầy giảng pháp Tứ Diệu Đề hai lần. Chúng ta vừa nghiên cứu qua bài Sơ giải Tứ Diệu Đề Ngài dạy năm 1942, giờ đây chúng ta cần khảo xét bài Tứ Diệu Đề Ngài viết trong “Giác Mê Tâm Kệ” (1939).
    Ôn lại quá trình lịch sử, Đức Thích Ca khi xưa qua 5 thời kỳ thuyết pháp độ sanh, gồm có 3 tàng Kinh điển hàm chứa vô lượng pháp môn. Có những pháp, Phật chỉ giảng lược qua một lần, cũng có những pháp Phật giảng đi giảng lại nhiều lần, như ngay lúc sơ khởi Phật đã thuyết Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Thập nhị Nhân Duyên...Rồi đén thời kỳ Niết Bàn chót hết, Ngài cũng giảng lại pháp ấy, nhưng Ngài giảng sâu hơn, để phá chấp cho các hàng La Hán và Bồ Tát. Những Pháp môn Đức Phật áp dụng liên tục như vậy, quả là những giáo lý căn bản, then chốt trong Đạo Phật.
    Thời nay, tới Đức Thầy cũng thế: pháp Tứ Diệu Đề Ngài giảng 2 lần, còn Bát Chánh Đạo giảng luôn 3 lần. (Lần 1 trong Giác Mê Tâm Kệ, lần 2 trong bài Dặn Dò Bổn Đạo, lần 3 (văn xuôi) trong phần nhì Thi Văn Giáo Lý năm 1942). Bài pháp Tứ Diệu Đề trong Giác Mê Tâm Kệ, Ngài lược tả bằng văn vần. Chúng tôi căn cứ vào đây mà diễn lược ý nghĩa để chúng ta cùng tu học hết hai bài mới thấy chỗ dụng ý của Ngài. Mở đề cho bàp Pháp luận nầy, Ngài nói:
    “Tứ Diệu Đề ai có mến ưa,
    Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.

    1- TẬP ĐỀ: Tu tập sửa đổi.
    Ý nói khi mới đặt chân vào cửa Đạo, nhà tu cần ghép mình trong khuôn khổ luật nghi và lo trau sửa thân tâm, cho đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy. Với công hạnh tu sửa nầy, dù gặp nhiều khó khăn, cực nhọc ta cũng phải cố gắng trì hành.
    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh Từ bi giúp đời”.

    Có được như vậy mới chứng đặng quả vị Phật Thánh, và siêu sanh vào Niết Bàn, Cực lạc như Ngài đã dạy:
    “Chữ Tập Đề nay đà mở cửa,
    Để đem vào khuôn khổ người hiền.
    Rán cực lòng một bước đầu tiên,
    Sau mới được làm nên Phật Thánh”.

    2- DIỆT ĐỀ: Diệt trừ ác nghiệp phiền não.
    Ý nói đồng thời với sự khép mình trong qui điều giới luật, hành giả phải cương quyết diệt trừ tập nghiệp vô minh phiền não như: Tam nghiệp, tham, sân, si hay thất tình lục dục hoặc lục căn ô nhiễm lục trần...
    Vì những phiền não dục tình ấy đã kết thành ác nghiệp từ lũy kiếp, làm cho tâm trí ta mê mờ mà phải chuyển luân trong sáu đường sanh tử, nên nay ta phải cố gắng tiêu trừ tận gốc của nó mới đặng chứng quả:
    “Về thượng giới cõi Tiên mới bảnh,
    Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa.
    Cõi hồng trần các việc mến ưa,
    Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.
    ( ĐT)
    3- KHỔ ĐỀ: Chịu đựng sự khó nhọc và kiên nhẫn tu hành
    Ý dạy rằng: Từ lâu chúng ta đã quen theo việc làm quấy, nói quấy, tưởng quấy (tam nghiệp, thập ác). Giờ đây ta muốn chuyển hóa nó lại là một điều rất khó. Ngoài ra còn có bao điều khổ khó khác, như: pháp nạn, thời gian thử thách, danh, lợi, tình câu nhữ...dễ làm cho lòng mình thối chuyển. Cho nên nhà tu phải kiên trinh nhẫn nại. “Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”, để vượt qua các trở ngại ấy, hầu tiến tới mục đích:
    Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,
    Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.
    Lòng dục tu thì phải thiệt hành,
    Chớ đừng có ham điều sung sướng
    .( ĐT)

    4- ĐẠO ĐỀ

    Tiến hành Bát Chánh Đạo.

    Đại ý Đức Thầy dạy: đồng thời với sự kiên tâm trì chí, hành giả phải thành tâm thật ý, tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo sẽ trừ được Bát tà (Bát tà: Tà kiến, Tà tư duy, Tà nghiệp, Tà tinh tấn, Tà ngữ, Tà mạng, Tà niệm và Tà định.) và bứng tận gốc vô minh phiền não, tất được hoát nhiên tỏ ngộ chỗ quang vinh vi diệu vô cùng tận của Đạo tâm. Ấy gọi là thành quả giải thoát vào Niết Bàn:

    “Đức Phật Tổ nào đâu hẹp lượng,
    Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.
    Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
    Ôi ! chừng đó mới là mầu nhiệm
    .( ĐT)
    -Sở dĩ pháp Tứ Diệu Đề Đức Thầy viết năm 1939 có khác bài viết năm 1942, tức là có đổi số thứ tự và định nghĩa không giống nhau là vì thời hạ ngươn mạt pháp, Đạo Phật bị suy yếu “Pháp môn bế mạt, Thánh Đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối...” Căn cơ chúng sanh cạn hẹp, nghiệp quả dẫy đầy. Lại thêm nhơn loại đang tiến theo đà văn minh vật chất. Sống trong cảnh khổ mà họ cho là an vui hạnh phúc, nên khó nhận được sự khổ và gốc sanh ra đau khổ để lo tu hành.
    Do đó, Đức Thầy mới tùy theo cơ duyên và hoàn cảnh hiện tình mà Ngài áp dụng phương thức đối cơ (xứng hạp với cơ duyên). Khiến họ dễ tỉnh thức quày đầu hướng thiện. Ngài hướng dẫn người tu từ dễ đến khó, từ hình thức chuyển đến nội tâm (vô vi), tức là từ chỗ biết kính tin Trời, Phật, qui y Tam Bảo, rồi lễ bái công phu, khép mình vào luật nghi trai giới, lánh ác hành thiện (Tập đề).Kế tiếp là lo tu sửa tâm ý, diệt trừ phiền não vô minh và dục vọng: danh, lợi, tình...(Diệt Đề). Để được thành công kết quả, hành giả phải kiên tâm trì chí và chịu khó nhọc hành trì mãi cho đến khi thành đạt (Khổ đề). Song muốn tẩy trừ cho sạch tâm trần ô nhiễm, nhà tu phải tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo (Đạo đề), tất sẽ được giải thoát sanh tử vào Niết Bàn.
    -Đến năm 1942, Đạo Phật lần lần chấn hưng và sau 3 năm tu học Đạo Pháp, trình độ môn đồ Phật tử, cũng được tiến lên mức độ; Đức Thầy mới viết bài “Sơ giải Tứ Diệu Đề” theo ý của Đức Phật, song cũng có đổi số thứ tự là Đạo trước Diệt sau.
    Trước nhứt Ngài chỉ cho mọi người nhận rõ các sự khổ của mỗi chúng sanh đang gánh chịu (Khổ Đề) là do tập nghiệp vô minh phiền não gây ra (Tập đề). Giờ muốn giải thoát phải trì hành “Bát Chánh Đạo”( Đạo Đề).
    Khi hoàn thành tám điều chánh thì gốc sanh tử hết, tức được trở về với Bản Lai Thanh Tịnh, Chơn như Diệu Minh của chính mình. Ấy gọi là Niết Bàn giải thoát (Diệt Đề).
    -Nhận xét giữa hai bài Tứ Diệu Đề, Đức Thầy viết năm 1939 và năm 1942, thấy rằng chỉ khác nhau ở phương tiện sửa đổi cho thích ứng trình độ và căn cơ, hoàn cảnh của mỗi chúng sanh; chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau. Nhà tu nếu nương theo pháp Tứ Diệu Đề nhận rõ sự khổ và nguyên nhân sanh khổ mà tiêu diệt nó mới đạt Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
    Tóm lại từ xưa chư Phật ba đời giáo hóa chúng sanh đều dùng pháp Tứ Diệu Đề làm căn bản. Nó vừa mầu nhiệm vừa thực tế (chân lý), không ai mà chẳng công nhận. Là một môn đồ nhà Phật, mỗi người trong chúng cần khảo xét tinh tường về bốn chân lý chắc thật nầy và hăng hái thực hành để độ mình, độ chúng ra khỏi vòng sanh tử mà thành Đạo giải thoát. Đặng vậy mới chẳng phụ công trình giáo hóa của Đức Phật, Đức Thầy.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    PHẬT THÁNH: Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ và tỉnh thức. Ở đây chỉ cho bậc Phật thừa hay tối thượng thừa và hàng Bồ tát Đại Thừa, hoặc Duyên Giác Trung thừa. Phật là đối với chúng sanh. Đức Thầy khuyên:
    “Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,
    Nếu thiệt người thì biết thương người”.

    THÁNH ở đây chỉ cho hàng Tứ Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán của hàng Thinh Văn Tiểu Thừa. Bởi tùy theo tâm đức và công năng tu tập pháp Tứ Diệu Đề mà kết quả có rộng hẹp cao thấp khác nhau. Thánh là từ đối với phàm.
    TRỪ VẬT DỤC XƯA: Diệt trừ tận gốc lòng ham muốn các vật chất danh, lợi, tình hay lục dục. Bởi nó có sẵn trong tâm thức (A Lại Da Thức) của mỗi người từ vô thỉ tới giờ, nên gọi là xưa. Đây cũng chỉ cho vô minh phiền não:Trừ vật dục trì chơn bất hoại.( ĐT)
    SỰ GIẢ TẠM: Sự vật không thật có, không bền chắc lâu dài, có được thời gian rồi tan mất. Ý chỉ cho vạn vật trong thế gian những cái gì thuộc về hình tướng, như gia tài, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan hay thân xác của ta đều đi theo định luật: thành, trụ, hoại, không. Chẳng có một vật nào giữ được bền lâu nên gọi là giả tạm. Cổ nhân từng bảo:
    “Thương bấy người đời không vẫn không,
    Ruộng vườn nhà cửa có như không.
    Vợ con cha mẹ lâu rồi chết,
    Danh lợi giàu sang rốt cuộc không.
    Trăm khéo trăm khôn đều giả tạm,
    Ngàn mưu ngàn kế cũng huờn không.
    Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp,
    Nhắm mắt hai tay vẫn phủi không”.
    Kinh Kim Cang, Phật cũng bảo:
    “Nhất thiết hữu vi pháp,
    Như mộng huyễn bào ảnh.
    Như lộ diệc như điển,
    Ưng tác như thị quán”.

    Tạm dịch:
    (Phật rằng: muôn pháp trong đời,
    Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
    Chiêm bao điện chớp tiếng vang,
    Đến như thân xác hơi tàn còn đâu !)

    Đức Thầy nay cũng thường cho biết:“Cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo; những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác, rồi đến người khác nữa. Nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai...”
    NHỌC NHÀNH: Cũng viết là nhọc nhằn. Có nghĩa vất vả, nhiều việc khó khăn cực nhọc.
    MẦU NHIỆM: Cũng gọi là nhiệm mầu. Có nghĩa sâu kín và huyền diệu vô cùng, khó diễn tả và nghĩ bàn cho hết được:“ Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.( ĐT) Ý nói người tu Đạo Đề, tức là Bát Chánh Đạo thì tỏ ngộ được cái chơn lý vô sanh bất diệt (Niết Bàn) thì kết quả mầu nhiệm vô cùng.

    CÂU HỎI
    1/-Định nghĩa Tứ Diệu Đề theo bài Đức Thầy viết năm 1939 ?
    2/-Tại sao Đức Thầy viết Tứ Diệu Đề hai lần ?
    3/-Hãy cho biết Tập Đề bài năm 1939 ?
    4/-Diệt Đề theo ý bài nầy ra sao ?
    5/-Khổ Đề theo đây có nghĩa như thế nào ?
    6/-Phần Đạo Đề có ý nghĩa gì ?
    7/-Lý do nào Đức Thầy giải hai bài Tứ Diệu Đề khác nhau ?
    8/-Hãy tóm lược bài Tứ Diệu Đề năm 1942 ?
    9/-Đại khái bài Tứ Diệu Đề năm 1939 ra sao ?
    10/-Nhận xét hai bài Tứ Diệu Đề khác và giống nhau ở điểm nào ?
    11/-Kết luận bài Tứ Diệu Đề năm 1939 ra sao ?

    7- TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ

    CHÁNH VĂN

    Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy ?
    Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng: “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng- dẫn và ủng-hộ vậy.
    Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.
    Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ta là người rất mê-tín (mặc dầu Đạo của ta thờ là một Đạo rất chánh đáng)
    Vậy đồng thời với Đức-Tin và Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn.
    Đức Tin (tin về thần quyền) mà thiếu Lòng Lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi- dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội, hoặc bắt-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.
    Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy.
    Vậy đồng thời với đức tin và lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.
    Có đức tin và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái Đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫm ta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.
    Người học Đạo muốn mở mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối tăm ngu muội).
    Muốn diệt cái vô-minh trước hết phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịnh, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy.
    Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
    Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm của người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.
    Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.
    Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-báng và cũng rất uổng cho cái công trình thành-kính lễ-bái của ta vậy.
    Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm, phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.
    Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư- tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức.

    Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ.

    DÀN BÀI
    A- KHAI ĐỀ :
    -XUẤT XỨ - VĂN THỂ - ĐẠI Ý
    B-DIỄN ĐỀ :
    I/- LỜI DẠY QUAN TRỌNG :
    1/-SỰ THỜ CÚNG LỄ BÁI
    2/-PHẬN SỰ CON NGƯỜI (tu Nhân cũng gọi là tu Phước).
    a)-TU THÂN
    b)-XỬ THẾ TIẾP VẬT
    3/-TÌM KIẾM CHƠN TÁNH (tu Phật cũng gọi là tu Huệ).
    II/- ĐỨC TIN và LÒNG LÀNH :
    1/-ĐỨC TIN TRONG SẠCH.
    2/-LÒNG TRÍ LÀNH.
    3/-TU THIÊN LỆCH CÓ HẠI
    III/- TU HUỆ
    1/-ĐIÊU LUYỆN TINH THẦN.
    2/-DIỆT VÔ MINH và CÁC TẬT XẤU.
    3/-TÂM TRÍ SONG HÀNH.
    4/-CHỌN THẦY QUI Y
    IV/- CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG
    1/-CHÁNH TƯ DUY.
    2/-CHÁNH NIỆM.
    C- KẾT ĐỀ :
    1/-TÓM TẮT.
    2/-TỔNG KẾT.
    ---
    LƯỢC GIẢI
    XUẤT XỨ - VĂN THỂ - ĐẠI Ý
    Đây là bài giáo lý sau cùng trong loạt bài Pháp luận mà Đức Thầy đã sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942), lúc Ngài lưu trú tại tư gia ông Võ Văn Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.
    Đại lược bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” bao gồm các vấn đề quan thiết, căn bản. Cũng được gọi đây là điều then chốt hay bí yếu trong Giáo lý PGHH. Vậy mỗi tín hữu chúng ta cần phải tìm học lý nghĩa cho chính xác, và y cứ theo đó thực hành, sẽ được kết quả chắc chắn.
    Chúng tôi căn cứ nội dung của bài, phân ra các đề mục và lược giải như sau:

    I- LỜI DẠY QUAN TRỌNG:
    Vẫn biết từ xưa đến nay, mục đích chính của Đạo Phật là chỉ thẳng vào vô vi thật tướng, song vì muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh; mà ngay từ Đức Phật, chư Tổ, chư Sư đều phải áp dụng muôn ngàn phương tiện. Từ hình thức đến nội tâm, từ sự đến lý, để thích hợp với mọi cơ duyên cho mỗi tín đồ tiện bề tu học.
    1/-SỰ THỜ CÚNG LỄ BÁI:
    Đây là vấn đề đầu tiên của người sơ cơ hành đạo. Khi hành giả phát tâm qui y Phật, tất phải phụng thờ Tam Bảo, hằng ngày lo lễ bái công phu, ăn chay niệm Phật, hành thiện tránh ác và nghiêm trì giới luật. Vào năm 1939 Đức Thầy đã dạy môn đồ:
    “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
    Vọng Cửu Huiyền sớm tối mới mầu”.

    Và:
    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

    Hoặc là:
    Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hằng như vậy, nhớ lời đừng sai”.
    Các lời dạy đó, mỗi tín đồ ai cũng phải trì hành, song đây mới là nấc thang đầu là sự tướng của Đạo và cũng là phương tiện phụ thuộc mà thôi. Cho nên đến năm 1942, Đức Thầy đưa tín đồ lên bước nữa để đi đến sự lý dung thông. Ngài nói:“Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín đồ chân thành của Đạo Phật được”. Rồi Ngài tự đặt câu hỏi: “Tại sao vậy ?” Bởi tâm lý chung của người mới tu, khi nghe lời dạy trên ai cũng không khỏi thắc mắc. Đoạn rồi Ngài trả lời liền theo đó:
    “Vì Đức Phật không bao giờ ngỏ ý rằng: Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người, mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.
    Đây là phần chính yếu và quan trọng trong Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của PGHH.
    2/-PHẬN SỰ CON NGƯỜI:
    Phận sự tức là bổn phận, là một trong nhiều nghĩa của chữ Đạo. Đạo là bổn phận của mỗi người.
    Là một nền Đạo phát xuất từ lòng dân tộc, nhập thế cứu đời. Bắt nguồn từ Sơ Tổ Huệ Trung Thượng Sĩ, qua Trúc Lâm Tam Tổ (Tam Tổ: - Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. - Nhị Tổ Pháp Loa Tôn Sư. – Tam Tổ Huyền Quang Tôn Sư.) đến Phật Thầy Tây An với Bửu Sơn Kỳ Hương và Đức Huỳnh Giáo Chủ với Phật Giáo Hòa Hảo hiện nay. Nhận thấy có sự tương quan và thừa kế rất kỳ diệu, như khi xưa Vua nhà Trần lên núi tìm Phật, có đến hỏi Quốc Sư Phù Vân thì Ngài đáp: “Phật không có trên núi, Vua muốn tìm Phật phải đứng tại thế gian mà tìm”, Và Ngài Pháp Loa hỏi Sơ Tổ Giác Hoàng:“Yếu chỉ của sự tu hành là thế nào ?”. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng đáp: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”. Có nghĩa là phải xoay cái nhìn lại chính mình đó là phận sự gốc của người tu. Ngày nay Đức Giáo Chủ cũng dạy Môn đồ:
    “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
    Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

    Và:
    “Phật tại tâm chớ có đâu xa,
    Mà tìm kiếm ở trên non núi”.

    Vậy phận sự của con người tức là Đạo Nhân. Trong đây gồm có hai phần; Tu thân và Xử thế tiếp vật.
    a)-TU THÂN:
    Tức là trau sửa thân, khẩu, ý. Vì trong con người của mỗi chúng ta đều có ba phần: hành động, ngôn ngữ và ý tưởng; mà ý tưởng tức là tâm, vì nó là nguồn gốc tất cả. Hễ ý tưởng tốt thì lời nói việc làm đều tốt; bằng ý tưởng xấu thì lời nói việc làm cũng xấu theo. Chính nó là nghiệp nhân của luân hồi sanh tử. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử, trước phải tu thân. Đức Thầy hằng dạy:
    “Trời Phật thương người lo độ tận,
    Muốn lo giải thoát phải tu thân”.

    Và:
    “Tu thân thiện tín phải chuyên cần,
    Lục tự Di Đà giữ Tứ Ân”.

    Theo đây ta phải chuyên cần bằng cách nào ? Để thiệt thi đúng theo ý nghĩa, là hành giả trong tứ tướng oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm), giờ phút nào cũng theo dõi và kiểm soát thân, khẩu, ý mình một cách chặt chẽ. Đừng cho vi phạm 10 điều ác và luôn thi thố 10 điều lành để được trọn lành, trọn sáng.
    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
    ( ĐT)
    Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận quan trọng là: “Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bằng xả thân tu tỉnh”.( ĐT)
    b)-XỬ THẾ TIẾP VẬT:
    Đây là bổn phận của chúng ta vừa lo đền đáp Tứ đại trọng Ân:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”( ĐT). Và vừa đối xử với mọi người, mọi giới từ gần đến xa. Gần là trong gia đình cha mẹ có bổn phận thương nuôi dạy dỗ các con. Làm con có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ cho tròn câu hiếu đạo. Vợ chồng cư xử ân nghĩa song toàn, anh em đối đãi hài hòa kính thuận. Chẳng thế, ta còn có bổn phận đối với cô bác trong thân tộc và mọi người chung quanh trong xã hội; mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo toàn hòa để đem lại niềm an vui hạnh phúc chung.
    Nói tóm lại, chúng ta hãy tự thấy mình trong hiện tại đang đứng vào địa vị nào, phải xử sự đúng với bổn phận của địa vị đó. Ấy là Đạo, chớ không phải còn kiếm cái Đạo ở viễn vong.
    Đức Thầy đã tóm tắt ý nầy trong một đoạn Giảng:
    “Đạo tôi Chúa chặt gìn câu chung thỉ,
    Đạo Thầy trò khắc cốt với ghi tâm.
    Đạo Cha con chặt chẽ chữ miên trường,
    Đạo Chồng vợ thuận hòa cho đến thác.
    Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác,
    Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì.
    Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,
    Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.
    Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,
    Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan”.


    3-TÌM KIẾM CHÂN TÁNH:
    Đây là phần học Phật và tu Phật. Vậy chân tánh là cái gì ? Và muốn tìm nó ta phải tìm ở đâu ?
    a)- ĐỊNH NGHĨA VÀ VỊ TRÍ
    Hiểu theo văn tự, chân tánh là cái tánh chân thật của mỗi người, ai cũng có, cũng gọi là tánh Phật hay Phật tánh. Đức Phật xưa đã bảo: “Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”. Hoặc là:“Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Đức Thầy hiện nay cũng nhận định như vậy và Ngài còn chỉ vị trí của tánh Phật.
    “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
    Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.

    Và:
    Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,
    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

    Ngài còn quả quyết: Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm. Và ai muốn thấu đạt thì Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.( ĐT)
    Nếu hành giả nào tìm Phật ngoài tâm thì như tìm sừng thỏ lông rùa, làm sao thấy được ? Lục Tổ đã bảo: “Người tu mà bỏ tâm đi tìm Phật, như người đội nón đi tìm nón, cỡi trâu lại tìm trâu”. Đức Phật Thầy Tây An cũng cảnh tỉnh mọi người:
    “Ngọc nhà luống bỏ chẳng mài,
    Tiểu tâm vì bởi cậy tài nên xa”.

    Thêm nữa, người muốn tìm tánh Phật mà chỉ chạy theo hình tướng sắc màu hay Kinh kệ, lễ bái suông, hoặc ngôn từ đối đãi lại còn cách xa hơn nữa. Bởi: “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành” (Kinh Phật). Cho nên Tổ Sư Đạt Ma có dạy:
    Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.
    Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.

    b)-PHƯƠNG CÁCH THẤY TÁNH
    Khi biết rõ vị trí của chân tánh ở trong tâm của mỗi người, nhưng chẳng phải dễ gì thấy được. Bởi nó còn tiềm ẩn trong tim óc xác phàm của mỗi chúng ta. Ví như ly nước múc từ dưới sông lên, cặn cáu còn lộn lạo đục ngầu. Sau khi ta lóng lặng và lọc ra thì còn lại chất nước trong tốt lành. Cho nên ngoài ly nước đục không có chất nước trong, cũng như ngoài tâm chúng sanh không có tánh Phật, ngoài phiền não không có Bồ Đề…
    Thế thì ai muốn thấy tánh Phật, phải thấy tánh chúng sanh trước, cũng như muốn thấy Bồ Đề (giác ngộ) trước phải thấy phiền não. Rồi ra công lọc lừa, chuyển hóa nó lại, như Đức Phật Thầy Tây An từng dạy:
    “Lọc lừa thì đặng nước trong,
    Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu ?”

    Và Ngài còn bảo: nếu nước được lắng trong thì tự nhiên bóng nguyệt hiện bày. Cũng như người tu khi quét sạch bụi trần đang bám víu nơi tâm tư thì nghiệp sanh tử liền dứt. Bấy giờ Đài Minh Cảnh, tức trí huệ của mình sáng tỏ. Ấy là đoạn hết nợ tiền khiên và được hoàn về “Thể Tánh Chơn Như”, tức là Kiến tánh thành Phật:
    (Thủy thanh nguyệt ảnh hiện tự nhiên,
    Tảo tận trần ai đoạn thế duyên.
    Thủy nguyệt Quan âm Minh Cảnh Chiếu,
    Danh như bổn tánh đoạn tiền khiên).

    Còn Đức Thầy hiện nay Ngài dạy tín đồ:
    “Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.
    Vậy hành giả nào muốn tìm kiếm chân tánh, nên noi theo gương hạnh của Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Thầy có đề cập:
    “Khùng nói cho già trẻ làm tin,
    Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú”.

    Thuở Lục Tổ còn là một tiều phu, ông đang đi đốn củi, bỗng được nghe người tụng Kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Nên trụ cái tâm ở chỗ không sanh) Nghe xong ông liền tỉnh ngộ quyết chí tu hành, ông trở về xin phép mẹ rồi đến chùa Huỳnh Mai xin thọ giáo với Ngũ Tổ. Khi nhập viện xong, ông bị đồ chúng coi thường, nên họ cắt phần ông phải giã gạo suốt ngày, không giờ nào rảnh để lên giảng đường nghe pháp, hoặc lễ bái công phu. Dầu vậy, ông vẫn an vui, nghĩ mình ở trong Đạo tràng thì phải có bổn phận giã gạo cho đồ chúng ăn và chỉ chuyên lo tu rèn môn Kiến Tánh. Nghĩa là vừa làm phận sự, vừa nhìn thẳng vào tâm mình và an trụ chỗ vô trụ. Giờ phút nào cũng liên tục như vậy. Thế là chỉ hơn 8 tháng, lòng ông hoàn toàn trong lặng…
    Đến lúc Lục Tổ và Thần Tú vâng lịnh Thầy trình Kệ Kiến Tánh thì Thần Tú làm bài kệ lạc đề vì còn có tướng và tương đối. Đây là bài kệ của Thần Tú:
    “Thân thị Bồ Đề thọ,
    Tâm như Minh Cảnh đài.
    Thời thời cần phất thức,
    Vật sử nhá trần ai”.
    (Thân ấy Bồ Đề thọ,
    Tâm như Minh Cảnh đài.
    Giờ giờ cần phủi sạch,
    Chớ để vướng trần ai).

    Và đây là bài kệ của Lục Tổ:
    “Bồ Đề bổn vô thọ,
    Minh Cảnh diệc phi đài.
    Bổn lai vô nhứt vật,
    Hà xứ nhá trần ai”.
    (Bồ Đề vốn không cây,
    Minh Cảnh cũng chẳng phải đài.
    Xưa nay không có vật,
    Nào chỗ vướng trần ai).

    Bài kệ của Lục Tổ là vô tướng, không còn biệt phân đối đãi, chứng tỏ là đã kiến tánh. Song vì muốn bảo vệ Lục Tổ, nên Ngũ Tổ vừa bôi bài kệ của Lục Tổ, vừa nói: bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh và bảo đồ chúng hãy chép bài kệ của Thần Tú mà tu học, vì bài nầy hợp với người đang tu.
    Sau đó, Ngũ Tổ đi đến chỗ Lục Tổ đang giã gạo, hỏi:
    -Ông giã gạo trắng chưa ?
    Lúc đó ông hiểu ý Thầy mình muốn hỏi Đạo xong chưa, nên trả lời:
    -Bạch Thầy ! Gạo giã đã trắng rồi, nhưng chưa có người sàng.
    Ngũ Tổ liền cầm gậy gõ vào tay cối 3 cái, rồi chấp tay sau lưng đi lên. Lục Tổ liền hiểu Thầy bảo mình đến canh ba vào ngõ sau cho Ngài truyền Đạo. Quả đúng như vậy, tới giờ đó Lục Tổ đến nơi, thấy cửa không gài, chỉ khép lại. Ngài liền hé cánh cửa lách mình vào thì Ngũ Tổ ngồi dậy và thuyết Kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe. Ngài nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài liền ngâm Kệ:
    “Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
    Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ.
    Nào dè tánh mình vốn không lay động,
    Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
    Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp”.

    Đoạn Ngũ Tổ trao y bát cho Ngài và dặn dò mọi việc rồi đưa Ngài ra đi để sau nầy nối ngôi Tổ thứ sáu.
    Xuyên qua gương hạnh của Đức Lục Tổ, thấy rằng Ngài chỉ vừa làm phận sự, vừa tu trực chỉ nhân tâm mà kiến tánh thành Phật. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta lời quan thiết là vừa làm bổn phận của một con người và vừa tìm kiếm chơn tánh. Không phân biệt người tu xuất gia hay tại gia, hoặc một hình thức cố định nào và cũng không luận giờ khắc hay hoàn cảnh, miễn lúc nào cũng thực hành y như lời dạy trên, tất được thành công mỹ mãn.
    Đó là pháp tu Đại thừa đốn giáo, do Đức Lục Tổ thực hành và lưu truyền lại. Chung qui gồm vào ba điểm chánh là: vô tướng, vô trụ và vô niệm.
    c)-VÔ TƯỚNG – VÔ TRỤ - VÔ NIỆM
    Với ý pháp nói trên Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ như thế, nhưng vì muốn cho trình độ nào cũng có thể tu học được và thành quả như nhau mà Ngài dùng một thứ văn ngữ mới, tóm tắt trong hai phần:
    1/-TU TRỰC THẲNG CHÂN TÁNH
    Trước nhất là Vô Tướng, tức tu thẳng vào vô vi thật tướng, không thiên chấp ở hình thức sắc màu hay một nhân duyên tác động nào, nhưng cũng chẳng phải là không làm gì hết. Nghĩa là tu tất cả hạnh lành mà không chấp mình có tu hay có pháp để hành. Cũng không còn phân biệt nhân ngã hay ngữ ngôn đối đãi. Đó là đúng với ý câu “Thật Tế lý địa” (Thật tế lý địa, Bất nhiễm nhứt trần, Vạn hạnh môn trung, Bất xả nhứt pháp). Và chánh pháp vô vi, như Đức Thầy dạy:
    “Hiệu Lão sĩ ra đời thật tế,
    Đem lời vàng dạy dỗ dương trần”.

    Và:
    “Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu,
    Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
    Hãy tìm kiếm cái không mới có”.
    Cũng như: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”. (Không còn phân biệt tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức chứng được cái chơn tướng Như Lai (Kim Cang Kinh).
    -VÔ TRỤ: là không trụ vào chỗ nào và cũng không trụ vào chỗ “vô sở trụ”. Cứ tùy duyên mà làm, tùy duyên mà nói, duyên hết thì buông xả, chẳng còn dính dáng vào chỗ nào hay việc làm, lời nói nào. Đức Thầy hằng cho biết:
    “Chúng sanh mê nên đem pháp thuyết,
    Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.

    Và:
    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật…
    …Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.

    -VÔ NIỆM: Là lòng luôn chánh niệm mà tâm không chấp được chánh niệm, hoặc niệm Phật đến chỗ nhứt tâm bất loạn mà không chấp mình có niệm, đồng với lý “vô tu, vô chứng, vô sở đắc”. Chính đó là niệm cái “Bản lai thanh tịnh”, mà cái Bản lai thanh tịnh là cái tâm trong lặng, làu làu sáng tỏ. Không an trụ nơi nào mà nơi nào cũng có và lúc nào cũng luôn bình đẳng như như. Ấy gọi là “Phật hóa tánh tình”, tự tại giải thoát.
    2-TU TUẦN TỰ:
    Tức tu lần lần từ thấp lên cao, từ chỗ còn thấy có tu có niệm đến vô tu, vô niệm. Cách nầy Đức Thầy dạy ai muốn thấu đạt tánh Phật phải tu Thiền định, tức Chánh định. Ngài bảo:
    “Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành,
    Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh.
    Quay về cõi phúc đường chân Đạo*,
    Phật pháp Thiền Na* dốc thực hành.”

    (*Chân đạo cũng gọi là Chân tánh. - *Thiền Na là Thiền định).
    Và một đoạn giảng gồm nhiều pháp tu:
    “Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt,(1)
    Đèn đạo tâm sáng rực soi đường.(2)
    Cầu tu cho đạt ngũ hương,(3)
    Huơi gươm trí huệ ma vương hãi hùng”.(4)
    Làm cho chúng phục tùng chơn lý,
    Trong sắc thân giám thị lục căn.(5)
    Đừng cho chúng tính lăng quằng,
    Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần.
    Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái,(6)
    Cội sân si cũng phải tảo trừ.(7)
    Đem về giác tánh chơn như,(8)
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.(9)
    -Qua 4 câu thi và 12 câu giảng của Đức Thầy, xét thấy hàm chứa bao ý pháp. Là một tín đồ, chúng ta cần suy cứu để thấu đạt lý nghĩa và thực hành tất được kiến tánh.
    Đến đây, xin kể câu chuyện có liên quan một trong các phương cách đã dạy trên. . Lúc Đức Thầy mới khai Đạo tại Tổ Đình, Thánh địa Hòa Hảo. Một hôm sau giờ thuyết pháp tồi, Ngài nằm nghỉ nơi ghế bố. Ông Đặng Thành Tựu từ phía sau đi tới. Ngài liền ngồi dậy, ông Tựu chấp tay xin Ngài cho hỏi ít lời Đạo lý.
    Đức Thầy vui cười nói:
    -Có phải ông muốn hỏi tu làm sao cho được minh tâm kiến tánh, phải không ?
    Nghe Đức Thầy hỏi trúng ý mình, ông Tựu thưa tiếp:
    -Tôi thiết nghĩ không riêng tôi mà bất cứ ai tu hành, chắc cũng đều muốn được như vậy.
    Đức Thầy liền nói:
    -Không ! Ở đây tôi không có dạy pháp minh tâm kiến tánh mà chỉ có dạy: “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”. Đoạn rồi Ngài vừa đọc vừa giải thích đoạn giảng trong “Giác Mê Tâm Kệ” từ câu “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”. đến câu “Dứt được nó ấy là giải thoát”. Cho ông Đặng Thành Tựu nghe.
    Qua câu chuyện kể trên chắc ai cũng nhận được “diệt lục căn, lục trần” là cái nhân tu hành, còn minh tâm kiến tánh là cái quả chứng đắc. Hễ 6 căn không còn duyên nhiễm theo 6 trần thì hành giả tự nhiên kiến tánh. Đây là một trong nhiều lý pháp của 12 câu giảng dẫn trên. Đức Thầy còn dặn dò thêm: nếu ai “…thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.

    II- ĐỨC TIN VÀ LÒNG LÀNH
    Đức tin là việc đầu tiên của mỗi người dù ai cũng phải có. Cổ đức đã bảo: “Nhơn vô tín bất lập” (Người không có lòng tin thì chẳng làm nên việc gì). Từ một em học sinh đến hạng thầy thợ cũng vậy. Đi học phải tin Thầy Cô và tin mình có học mới khỏi dốt, còn được thi đậu làm quan, làm thầy giáo nữa. Kẻ học nghề có tin thầy thợ mới nên việc.
    Đối với người tu Phật còn quan trọng hơn, hành giả phải có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin mình có đủ khả năng tu thành Phật quả, mới hăng hái và kiên chí tiến hành. Song có đức tin cũng cần có trí lành đi cặp nhau, lòng mới được trong sạch, sáng suốt và chánh tín. Bằng thiếu trí lành, ắt phải bị sai lầm và mê tín theo tà đạo.
    1/-ĐỨC TIN TRONG SẠCH:
    Là đức tin chánh đáng đúng chân lý, không lợi dụng riêng tư, tin Phật và tin Thầy có lòng từ, bi, hỉ, xả, rộng độ chúng sanh, mình cũng rèn tập tâm đức ấy để thành Phật như các Ngài. Không hề sân si buồn chán hay mong cầu lợi lạc riêng mình mà có hại cho kẻ khác.
    2/-LÒNG LÀNH:
    Cũng gọi là lòng trí lành hay là hiền minh. Nghĩa là lòng mình có đủ tâm đức và trí huệ. Vừa học hỏi nhận xét giáo pháp của Tổ Thầy chính xác, để trọn niềm tin tưởng; và vừa cương quyết thực hành theo một cách nghiêm chỉnh.
    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
    Cố công gìn giữ tánh thuần lương”

    Hoặc là:
    “Coi rồi phải thân mình tự trị,
    Chẳng độ xong Phật khó dắt dìu
    .( ĐT)
    Hành giả có đủ hai điều kiện đức tin trong sạch và lòng trí lành mới không bị trở ngại trên đường tiến tu lập hạnh.
    3/-TU THIÊN LỆCH CÓ HẠI:
    Lòng tin tưởng Trời Phật và Đạo pháp là quí, tốt; nhưng thiếu trí lành để suy xét, cân nhắc sẽ gặp nhiều tai hại:
    a)-Có đức tin mà thiếu lòng trí lành thì trước nhứt là bị các tà sư ngoại Đạo bức bách, cám dỗ; khiến chúng ta bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời. Hoặc họ bày ra bùa chú, phép linh, soi căn, coi bói, nói tướng ứng rù quến ta mê tín theo. Đức Thầy diễn tả cảnh trạng ấy:
    “Thêm còn bị lắm phen dông tố,
    Lời tà sư ngoại đạo gieo vào.
    Cho nhơn sanh trong dạ núng nao,
    Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
    Dùng thế lực dùng nhiều mánh khoé,
    Cám dỗ người đặng có khiến sai.
    Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
    Để khốn khổ mặc ai trối kệ”.

    Hoặc là:
    “Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu loè mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẫy khó mong sống sót”.

    b)-Phần thứ nhì là bị “Bọn tăng đồ lợi dưỡng gạt lường”. (ĐT). Đây là nói đến số người cùng chung một Đạo Phật với chúng ta, nhưng họ tu sai chơn lý, không tuân lời giáo huấn của Phật của Thầy; bởi lòng tham muốn còn nặng, nên đã tu hành còn mong lợi dưỡng riệng tư. Họ bày ra cúng kiếng lễ mễ, xin xăm bói quẻ, làm đám cầu siêu, cầu tài cầu phước, mạnh giỏi làm ăn, nợ duyên hạnh phúc.v.v…Ai đời chẳng gieo nhân mà muốn hưởng quả, làm sao đúng lý ?
    c)-Còn “có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình” cũng có hại, tuy hành giả có biết nhận xét và lòng từ thiện, nhưng thiếu đức tin hoặc lòng tin quá yếu kém, nên khi gặp thử thách bất ngờ, như: tai nạn, bệnh tật hoặc thời gian dài dặt, rồi nãn lòng thối chí không còn hành Đạo nữa. Chúng ta thường thấy nhiều người hiểu Đạo cũng rành, lý luận Đạo pháp cũng hay, thế mà chỉ tu thời gian rồi dừng lại. Bởi trí lành ở đây mới là kiến thức, chớ chưa phải là trí huệ mà kiến thức là vọng thức, tức là cái biết còn trong vòng phân biệt thiên chấp. Thế nên khi gặp danh, lợi, tình câu nhữ thì lòng trí lành bị giảm xuống, hoặc mất đi. Bấy giờ hành giả sẽ thối chuyển hay bỏ Đạo thôi tu là khác. Vì thế Đức Thầy mới ân cần khuyên dạy tín đồ:“Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển”.
    Cho nên người tu cả đức tin và lòng trí lành phải làm cho phát triển quân bình chớ để chênh lệch. Khi có đủ hai đức tánh đó rồi, hành giả nên lấy trí huệ mà quán xét, nhận định cho rõ ràng nền Đạo pháp của mình đang tu học. Xem tại sao ta phải tu, giáo pháp hành đạo đó có thực tế và đúng chân lý không ? Và sẽ đưa ta đến mục đích gì ? Có giải thoát sanh tử cho mình và cả nhân loại chúng sanh không ?
    Có nhận xét kỹ lưỡng như vậy, chúng ta mới không bị các chủ thuyết tà kiến gạt lường “…đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay ông thầy mê dốt”. Đức Thầy luôn luôn nhắc nhở:
    Đạo với lý từ đây nhiều vhỗ,
    Phải lọc lừa cho kỹ mà nhờ.
    Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,
    Thì mới được thân sau cao quí”.

    3/-TU HUỆ:
    Về cách tu huệ Đức Thầy dạy: “Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh”. Bởi vô minh đồng nghĩa với mê si, tức là tối tăm ngu muội:
    “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
    Màn vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.

    Hay là:
    “Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
    Nên quay lộn ta bà cõi khổ”.
    ( ĐT)
    Vơ minh là đối tượng của trí huệ, hễ có trí huệ thì không có vô minh, mà có vô minh là không có trí huệ. Cũng như cây đèn và bóng tối. Vậy muốn phá trừ vô minh để trí huệ sớm hiện bày, Đức Thầy có dạy các phương cách như sau:

    1- ĐIÊU LUYỆN KHỐI TINH THẦN CỨNG MẠNH
    Tinh thần là phần sáng suốt tinh anh và cái thấy nghe hay biết trong xác thể con người, tinh thần điều khiển mọi việc hư nên tốt xấu của xác thân. Thân xác ví như cái nhà và chiếc xe, còn tinh thần là ông chủ nhà và anh tài xế. Bấy lâu nay tâm hồn của mỗi chúng ta bị vô minh che lấp làm cho mê tối bạc nhược, nay muốn chiếu phá vô minh để cho thần trí sáng tỏ thì trước phải điêu luyện tức là rèn tập cho tinh thần cứng mạnh. Vậy rèn tập bằng cách nào ?
    Bất cứ nghề chi hay làm việc gì muốn cho kết quả tốt người ta cũng phải rèn tập. Như tập lái xe, tập gánh nước, vác lúa, võ công.v.v…luyện tập từ dở đến hay, từ chậm đến lẹ, từ yếu đến mạnh, song những cái đó thuộc về hình tướng. Về mặt tinh thần tuy không thấy, không rờ mó được, song mỗi người của chúng ta tự hay biết, như: ham muốn, mừng giận, ghét thương.v.v…đã có sẵn trong mỗi người từ thuở bé. Khi ta nhìn thấy người khác có các tánh xấu ấy thì mình không đồng ý, nhưng ít ai chịu nhìn lại mình để tự thấy, tự kiểm lại các tánh xấu đó mà loại trừ. Đức Thầy khuyên nhắc:
    “Ai ai cũng rán xét mình,
    Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài”.

    -Giờ đây hành giả đã quyết chí tu hành thì ai cũng muốn diệt trừ các tánh xấu, song vì tinh thần còn yếu kém, nên không thắng phục nó được liền. Bây giờ ý chí ta phải bùng lên, phấn đấu thêm lên, lần nầy không được lần khác, bền dẻo, kiên chí cuối cùng tất thành công, những thứ đó là lực lượng mạnh mẽ của tinh thần. “Có công mài sắt chầy ngày nên kim”.(Ca dao), kết quả như câu chuyện Ngô Công đục đá thành hang thông qua núi.
    (Xem Cổ học Tinh Hoa)
    Khi tinh thần được cứng mạnh ta phải tăng thêm lập trường vững chắc, ý chí đại hùng để tiến lên con đường Đạo pháp mà ta đang tu học, hầu đạt được mục đích là phá vỡ vô minh, đạt thành trí huệ. Hành giả hãy coi sự việc nầy là giềng mối duy nhứt mà suốt đời mình phải hoàn thành, không có gì đánh đổi được.

    2-DIỆT VÔ MINH VÀ CÁC TẬT XẤU
    Muốn diệt phá vô minh, hành giả trước phải loại trừ các binh gia tướng tá của nó, tức là các tật xấu:
    a)-Thành kiến:
    Là lòng bảo thủ sự suy tư, thấy biết của mình là đúng là hay hơn hết, không chịu trao đổi hay tiếp nhận thêm ý kiến của người khác có kinh nghiệm hơn. Có khi cũng biết kiến thức mình còn cạn hẹp sai lệch, song vẫn kiên trì bảo thủ như bức thành kiên cố, không ai phá vỡ được.
    b)-Cố chấp:
    Bệnh cố chấp cũng là cái tật cố hữu của mỗi người. Nó là tánh hay chấp nê, câu nệ, khăng khăng không chịu đổi ý. Với mình thì chấp sự chấp lý, chấp có không, chay mặn hoặc chấp tâm chấp pháp. Với mỗi người thì chấp người nầy tu được, người kia tu không được. Chấp tướng nhơn, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.v.v…
    (1-Tướng Nhơn: là thấy mọi người không bằng ta, phân biệt hơn thua tốt xấu, thọ giới nhiều ít. 2-Tướng Ngã: chấp có ta và chỉ có ta là hơn hết, là đáng yêu, đáng quí; coi thường kẻ khác. 3-Tướng chúng sanh: chấp tướng chúng sanh khác xấu xí hơn ta, hoặc còn muốn sanh lên cõi trời để có tướng đẹp. 4-Tướng thọ giả: chấp mạng sống ta lâu dài, lo cầu phước báo, xem người khác, loài khác không sống bằng ta. Ai còn chấp 4 tướng ấy là chúng sanh, không chấp 4 tướng ấy là Phật: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.)
    Cố chấp còn chỉ cho bịnh khó tánh, hay để ý tới những lỗi vụn vặt, vô tình của người khác, ít khi cởi mở, thông cảm tha thứ.
    c)-Thói quen:
    Nghĩa của chữ Tập quán, tức là những việc làm, lời nói, ý nghĩ tội ác xấu xa nhiều lần thành ra thói quen, từ quen trở thành ghiền nhiễm. Nó cũng là cái bệnh khó bỏ, người tu cần phải diệt trừ cho được các thói quen đó mới cải đổi tánh phàm phu ra Phật Thánh.
    d)-Sự chần chờ:
    Nghĩa của chữ Giải đãi, tức trù trừ lần lựa, lười biếng không siêng năng làm việc hay tu học. Nhà tu còn bịnh nầy sẽ không kịp với thời gian vô thường, như anh chàng cày ruộng xưa kia, khi thấy Phật đi đến lòng cũng muốn qui y, song bị tánh chần chờ giải đãi, nên đã trải qua bảy vị Phật ra đời, và anh cũng luân chuyển qua 91 kiếp, vẫn còn cày ruộng chưa chịu tu…
    g)-Lòng ham muốn:
    Tức là tánh tham lam, một trong tam độc (tham, sân, si). Chính nó là nguyên nhân của luân hồi sanh tử:“tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài…”tham quyền cao chức trọng và mọi vật chất trên thế gian, Đức Thầy từng bảo:
    “Biết sao đầy được túi tham,
    Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

    Bởi lòng ham muốn không ngằn mé và khó dừng lại được, nên đến khi chết lòng khát ái vẫn còn mà phải luân hồi trở lại. Thuyền trí huệ không bao giờ chở đưa những người còn ham muốn mọi vật chất trong trần, hay gây tội ác:
    “Bát nhã chẳng đưa người tội ác,
    Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”.
    ( ĐT)
    h)-Tánh kiêu ngạo:
    Đồng loại với ác ỷ ngôn, tức tánh hay cười chê, nhạo báng người khác. Ai hay dở tốt xấu gì cũng tìm cách chế nhạo cho bằng được. Ngược lại, sự yếu kém sơ thất của mình thì che dấu và hay khoe khoang tự đắc. Đây là một tật xấu mà người tu muốn có trí huệ không bao giờ dung chứa.
    i)-Tật đố:
    Là cái bệnh hay đố kỵ, ghen ghét những người tài đức hơn mình, hoặc mọi vật khác; từ tiền của, tướng mạo hay bạn bè thân tín, v.v…cũng đều đố kỵ. Từ lòng đố kỵ ganh ghét sanh ra nhiều tội ác, rồi gặt lấy quả báo chẳng những kiếp nầy còn qua nhiều kiếp khác cũng chưa dứt, như ác hữu ghen ghét thiện hữu…cho nên người tu quyết định dứt trừ bệnh tật đố.
    k)-Gièm siểm dua nịnh:
    Hai từ ngữ nầy có tương quan với nhau, tức là nói gièm nói siểm chê bai cách gián tiếp để a dua nịnh hót với người có quyền thế, hầu được lòng và hại kẻ khác. Tật xấu nầy thường gây chia rẽ hiềm khích giữa người nầy với người khác.
    l)- Ích kỷ tư tâm:
    Là lòng riêng tư muốn các lợi lộc về mình. Từ lòng ích kỷ sanh ham muốn rồi lo tạo tác, tức là gây nghiệp nên phải sanh tử luân hồi. Ai trừ được bịnh nầy mới mong có trí huệ và giải thoát.
    m)-Sự gây gổ:
    Từ lòng sân hận sanh ra ác khẩu, tranh tụng hơn thua, rồi gây thù kết oán. Tật xấu nầy thường xảy ra tai hại sâu rộng trong quần chúng như: đoạn hết tình nghĩa bạn bè thân tộc, đốt cháy rừng công đức của mình đã tu bồi từ trước, nên hành giả phải tiêu trừ nó.(Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn)
    n)-Mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não làm cho náo loạn cõi lòng:
    Trong muôn ngàn phiền não chỉ có lòng ham muốn tình dục là nặng nề hơn hết (Hải trung sanh tử ái dục đệ nhất). Chính nó là gốc sanh ra vô số phiền não khác, nó làm cho tâm thần dao động khiến mờ đục trí huệ, hành giả phải nhổ tận gốc nó mới mong giải thoát an vui.
    Nói tóm lại, các thói hư tật xấu nói trên là con đẻ của vô minh. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta: “Nếu bày trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”.

    3-TÂM TRÍ SONG HÀNH
    Đến đoạn nầy Đức Thầy dạy hành giả phải tu cả tâm và trí một lượt, như Ngài bảo:
    “Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
    Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả”.
    Chúng ta thử ôn lại câu chuyện của Thầy trò Tam Tạng đi thỉnh Kinh. Nếu chỉ một mình Tam Tạng, chẳng có Tôn Ngộ Không thì làm sao Tam Tạng biết đường đi đến Tây phương và lấy ai trừ yêu đuổi quỉ, hay biết non tiên cảnh Phật để cầu khẩn các Ngài xuống trợ giúp. Còn Ngộ Không, lúc chưa được Tam Tạng làm Thầy thì tánh tình ngang bướng, chọc Trời khuấy nước, loạn thiên cung; gạt chư Tiên ăn đào và uống Tiên tửu, đòi làm Tề Thiên Đại Thánh. Chỉ có Phật Tổ mới thâu nhốt y được dưới núi Ngũ Hành và sau nhờ Quan Âm độ rổi, cho làm học trò Tam Tạng để phò tá Thầy đi thỉnh Kinh chuộc tội. Khi Tam Tạng và Ngộ Không hiệp lại mới đi đến Tây phương, thỉnh được 3 tàng Kinh điển đem về.
    Đây là câu chuyện triết lý, Tam Tạng dụ cho cái tâm, còn Ngộ Không dụ cho cái trí. Nếu có tâm từ mà thiếu trí tuệ như Tam Tạng thiếu Ngộ Không, hoặc chẳng nghe lời, tức là người tu không rèn tập được trí huệ thì chẳng phân biệt chơn giả, Phật ma, nên Tam Tạng bị quỉ yêu gạt bắt liên miên. Bằng có trí mà thiếu tâm cũng có hại, như: có Ngộ Không mà chẳng có Tam Tạng làm chủ, điều khiển thì Ngộ Không hay làm xằng, có lúc còn muốn trở về Thủy Liêm động làm chúa yêu. Cho nên khi tâm tín và trí huệ phát triển quân bình, tức đồng hòa vào một thể, bấy giờ hành giả đạt thông Tam Tàng Kinh pháp nơi tự tánh.
    Tóm lại, tâm ví như ông Vua, trí như vị Tể Tướng và cũng như ông chủ nhà và người quản gia. Tâm đức và trí huệ gồm tu thì hành giả có đủ: Bi, Trí, Dũng, cũng gọi là Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi, tức quả vị chánh giác sẽ thành công. Đức Thầy hằng tỉnh thức:
    “Phải chổi dậy nương dây hùng tráng,
    Chữ đại hùng, đại lực, đại từ bi”.

    Bởi có tâm đức mới làm chủ được sáu căn, có hùng lực của trí huệ mới thắng được tam bành lục tặc, trừ sạch thập tam ma (thất tình lục dục). Và soi tan ngũ uẩn, vượt sông mê, sang bờ giác. Do đó Đức Thầy mới dạy chúng ta: “Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai”.

    4-CHỌN THẦY QUI Y
    Đến đây Đức Thầy nhắc lại giai đoạn đầu của người mới phát tâm quay về nẻo thiện, cần phải chọn nơi nào chân chánh để nương theo;
    “Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
    Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.

    Mà phải:
    “Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,
    Thì mới được thân sau cao quí”.

    Đề tỏ rõ vấn đề nhà tu cần hiểu thế nào là mê tín và thế nào là chánh tín ?
    a)-Qui y mê tín : Có hai cách :
    1/-Mê tín qui y theo chánh Đạo: là “Thấy ai theo mối Đạo nào đông đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo lý ấy như thế nào…” Hoặc: “…Thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào; và tại sao phải thờ kính Đức Phật”. Qui y như thế gọi là mê tín qui y theo chánh Đạo, mặc dù chúng ta đang thờ học Đạo với ông Thầy ấy rất chánh đáng. Đức Phật xưa hằng cảnh giác thiện tín: “Nếu ai chưa rõ Ta mà bảo là tin Ta thì tội ấy còn hơn hủy báng Ta”.
    2/-Mê tín qui y theo tà Đạo: là hạng người chưa theo Đạo nào hoặc có theo đạo, nhưng thấy đạo khác nổi lên, ông thầy ấy chủ xướng thinh âm sắc tướng, đức hạnh chẳng ra gi, lời dạy mập mờ, đường lối không rõ rệt mà lại đắc nhân tâm là nhờ dùng những bùa mê ảo thuật, lòe mắt thiên hạ. Hoặc nói tướng ứng, bịa đặt điều linh thính rồi ta vội vàng qui y. Đó gọi là mê tín qui y theo tà Đạo.
    b)-Qui y chánh tín:
    Là trước khi thọ giáo với Đạo nào hay ông Thầy nào, ta hãy lấy trí huệ mà suy xét, tìm hiểu mối Đạo ta định theo, phải có nền giáo lý chơn chánh, ông Thầy ta muốn học phải có nhân phẩm cao thượng. Nhứt là những lời chỉ giáo đúng chơn lý, có tôn chỉ mục đích rõ rệt giúp chúng ta tu học đến chỗ giải thoát.
    Vậy trước khi thờ học Đạo nào ta hãy lấy trí huệ nhận xét một cách tinh tường và khi đã qui y thì phải hành y theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy:
    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    Nói tóm lại qui y chánh tín là bằng cách có suy xét kỹ càng, chừng hiểu biết rõ ràng mới qui y và hành theo. Còn qui y mê tín là không nhận xét cân nhắc kỹ lưỡng, cứ “tin bướng nghe càn”.

    IV-CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG
    Theo Đức Thầy dạy: “Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa, Đạo đức”.
    Để thi hành lý pháp nầy, trước nhứt hành giả phải biết mặt mày của các tư tưởng xấu xa ra sao. Người chưa giác ngộ lẽ Đạo thì lúc nào tâm tư cũng nghĩ tưởng mơ mộng những vật chất tiền tài, quyền cao chức trọng, vợ đẹp hầu xinh…Bất cứ cái gì làm cho ta được cao sang sung sướng và thỏa mãn lòng khát ái thì tha hồ mà mơ ước, nghĩ tưởng. Không xét rằng các tư tưởng đó phần nhiều là lợi kỷ tổn nhân, chính nó làm cho tâm hồn ta đắm chìm trong vô minh dục vọng và sanh tử luân hồi.
    Khi hiểu được tướng trạng và tác hại của các tư tưởng xấu ác, hành giả hãy gấp rút thay đổi. Căn cứ trong giáo lý của Đức Thầy chỉ dạy, chúng ta có thể rút ra một ít phương cách để áp dụng:
    1/-HÀNH CHÁNH TƯ DUY:
    Đức Thầy dạy;
    “Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,
    Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.

    Và: Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh. Giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm chân lý…” Vậy thì hành giả lúc nào cũng nghĩ tưởng kỹ thuật đức tánh cao cả, như: “Từ bi, Bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ” hoặc luôn tư tưởng đến việc “Tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt”. Đống thời lo suy tìm “…con đường giải thoát cho mình, bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh”.
    2/-HÀNH CHÁNH NIỆM:
    -Đề chấm dứt những mơ ước niệm tưởng xấu xa, hành giả phải luôn ghi nhớ những việc chân chánh, như: nhớ tưởng các phương pháp tu hành, nhớ Đức Phật, Đức Thầy đã đầy lòng Từ bi bác ái, và đã dày công khai hóa chúng ta. Giờ phút nào cũng chạm khắc vào lòng các lời dạy bảo để thực hành cho kỳ được. Hoặc dùng chánh niệm quán xét:
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hiệp
    .( ĐT)
    Nếu tâm trí chúng ta luôn suy xét, tưởng nhớ các phương cách nói trên thì những tư tưởng xấu xa, quấy ác đâu có kẽ chen vào; ấy gọi là đánh đổ nó ra ngoài.
    3/-NIỆM PHẬT TAM MUỘI.
    Cách niệm Phật nầy gọi là niệm Phật chánh định, tức là tâm hành giả luôn nhớ tưởng 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật cho đến khi “nhất tâm bất loạn”, không để một tư tưởng sai lầm, xấu ác nào chen vào. Hoặc niệm vào một tiếng niệm Phật thay một niệm chúng sanh ra, cứ thay hoài, thay mãi cho đến khi không còn một niệm chúng sanh nào mống khởi. Lúc nào ta cũng nhìn thấy và nghe rõ cái tâm ta, đang tưởng Phật liên tục như vậy trong tứ tướng oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm, uống ăn, ngủ thức, sẽ được kết quả như ý. Đức Thầy thường nhắc nhở:
    “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
    Thì hiền lương quên mất điều tà,
    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.

    Nếu hành giả tưởng nhớ Phật được liên tục như vậy thì các tư tưởng xấu ác sẽ tiêu vong.
    Nói tóm lại trong các phương tiện của Tổ Thầy chỉ dạy cải đổi tư tưởng tà xấu ra chánh chơn thiện mỹ. Ở đây chỉ rút ra 3 phương thứcc vừa giản tiện vừa xác thực. Nếu ai chịu cố gắng thực hành, tất loại trừ được các tư tưởng xấu ác và trí huệ phát khai mà thành Đạo giải thoát tại thế gian.
    C-KẾT ĐỀ
    Tóm tắt bài: “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” trước nhất Đức Thầy đưa ra lời dạy quan trọng là mỗi tín đồ phải biết rõ trong các phương cách tu hành. Cái nào là phụ thuộc, cái nào là chánh yếu; đâu là sự tướng, đâu là nội tâm và chân lý để đi vào chánh pháp vô vi, đúng theo chân truyền tâm ấn của Đức Phật khi xưa.
    -Phần chính yếu theo Tôn chỉ Đức Thầy đã đề vạch, là vừa thu hành phận sự thực tế của một con người đứng giữa thế gian, và vừa trực nhận được chân tánh giác ngộ trong tâm thể của mỗi hành giả.
    -Về pháp tu tuần tự Ngài dạy môn đồ cần làm cho đức tin và lòng lành được phát triển quân bình cả hai. Kế đó là tu rèn trí huệ để chiếu phá vô minh dục vọng mà tâm và trí phải song hành mới mong kết quả. Ngài cũng ý thức những người mới phát tâm, hãy cẩn thận xét suy, chọn lựa ông Thầy cũng như nền Đạo chân chánh mới qui y và phải tu chánh tín chờ đừng tu mê tín.
    -Sau chót là Ngài dạy cách tu giản tiện và tốt nhứt, là chuyển hóa tư tưởng xấu xa, quấy ác, ô nghiễm trở nên tốt lành cao khiết. Ấy là thành Đạo giải thoát.

    TỔNG KẾT
    Tổng kết bài Pháp luận trên đây là một đề tài tổng quát, tuy thấy Đức Thầy dạy nhiều vấn đề và hình như rời rạc, nhưng sau khi suy nghiệm kỹ, thấy Ngài có một dụng ý sâu sắc. Ngài giảng huấn rõ về đường lối “HỌC PHẬT TU NHÂN”. Nghĩa là hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân, tức dùng tư tưởng nhân hòa, tinh thần hỷ xả, bình đẳng từ bi mà tiếp xử hầu hết nhân loại chúng sanh. Ngài dung thông cả sự lẫn lý, cả đốn pháp lẫn tiệm pháp để rộng độ các giới tín đồ và mọi tầng lớp dân sinh. Tuỳ theo cơ duyên thích hợp của mỗi hành giả, ai cũng có thể tu học được và đưa đến kết quả viên mãn như nhau.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ (1)
    (1)-LƯU Ý: Các từ ngữ trong bài phần nhiều đã có giải trong phần lược ý, cũng có số học rồi, nên ở đây chỉ giải một ít thôi.
    (1) ÁI HÀ: Lòng thương yêu luyến ái tình dục tràn ngập như sông biển, kinh xưa có câu: “Ái hà thiên xích lăng, khổ hải vạn trùng ba” Đức Thầy nay cũng nói: Bể ái hà gươm linh sớm dứt”.
    (2) ĐÈN ĐẠO TÂM: Tâm trí sáng suốt. Chỉ cho ánh sáng của trí huệ và chơn lý (Đạo). Đức Thầy có câu: “Ngọn đèn chơn lý hết lu”.
    (3) NGŨ HƯƠNG: Năm phần chơn hương nơi tâm của mỗi người, gồm có:
    1- Giới Hương: Tâm không còn tham, sân, si hay các ý nghĩ tà quấy, sát sanh, đạo tặc…
    2- Định Hương: Đối với các trần cảnh như: lục trần hoặc các hiện tượng tốt xấu, lành dữ, tâm mình vẫn an nhiên không loạn động.
    3- Huệ Hương: Tâm trí mình không bị ngoại cảnh ngăn che, hay lôi cuốn. Hằng lấy trí huệ xem soi tự tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các hạnh lành mà lòng không chấp trước. Kính người trên, nghĩ kẻ dưới hay thương xót và giúp đỡ người nghèo đói, bệnh tật.
    4- Giải Thoát Hương: Tự tâm mình đã không dính mắc vào các việc dữ hay lành, cũng chẳng chấp có không, động tịnh, lòng luôn tự tại, không gì ngăn ngại được.
    5- Giải Thoát Trí Kiến Hương: là tự tâm mình đã không còn thiên chấp, dính mắc những cái có không động tịnh; nhưng cũng cấn học rộng nghe nhiều, thấu suốt bổn tâm, thông đạt lý Phật, hòa sáng tiếp người, không hề phân biệt nhân ngã. Tâm trí lúc nào cũng an nhiên sừng sững tiến thẳng đến ngôi chánh giác.
    (4) MA VƯƠNG: Vua các loài ma quỉ, tên là Ba Tuần ở từng Trời thứ sáu, hay xuống thế gian phá hại Đạo Phật. Chữ Ma Vương ở đây chỉ cho tà kiến tam độc (tham, sân, si). Đức Lục Tổ bảo: “tà kiến tam độc thật Ma Vương”.
    (5) GIÁM THỊ: Người trông coi trật tự trong trường sở, chỉ huy điều khiển các học sinh. Giám thị ở đây chỉ cho cái tâm làm chủ sáu căn (lục tặc).
    (6) NGŨ UẨN: Cũng gọi là Ngũ ấm, là năm cái che đậy chân tánh của mình. Kinh Phật giải là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đức Thầy giải là Tham, Sân, Si, Nhân, Ngã. (Xem thêm phần Chú giải trong Giác Mê Tâm kệ).
    (7) TẢO TRỪ: Quét dọn. Nghĩa của chữ “Tảo Chủ”, là chổi quét, tức là quét sạch hết vọng tâm phiền não, như chuyện ông Bàn Đặt Ca Tôn Giả chỉ tu hai chữ chổi quét có mấy ngày mà chứng quả A La Hán.
    (8) GIÁC TÁNH CHƠN NHƯ: Cũng gọi là chơn như thật tướng. Chỉ cho tánh Phật hay tạng tánh Như Lai.
    (9) KIM THÂN: Thân Kim cang của Phật, tượng trưng cho lòng cứng chắc. Có ba đặc tánh siêu thắng cao khiết:
    1-Không hư hoại.
    2-Hơn hết các món báu.
    3-Hơn hết các chiến cụ.

    CÂU HỎI

    1/-Cho biết xuất xứ, văn thể và đại ý bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” ?
    2/-Sự lễ bái đối với người tu như thế nào ?
    3/-Tại sao sự lễ bái chưa phải là phương tiện chính yếu ?
    4/-Đức Thầy dạy lời quan trọng ra sao ?
    5/-Phận sự của con người là gì ?
    6/-Ngược dòng lịch sử PGHH có tương quan và thừa kế các Tông Phái nào, hãy chứng minh ?
    7/-Tu thân ra sao ?
    8/-Xử thế tiếp vật như thế nào ?
    9/-Chân tánh là cái gì và tìm nó ở đâu ?
    10/-Đức Phật Thầy Tây An dạy pháp kiến tánh ra sao ?
    11/-Đức Thầy bảo muốn thấy tánh phải noi gương hạnh ai ?
    12/-Tại sao bài kệ của Thần Tú không thấy tánh ?
    13/-Ý gì bài Kệ của Lục Tổ được Kiến Tánh ?
    14/-Đức Thầy dạy pháp tu kiến tánh có mấy cách, cách thứ nhứt ra sao ?
    15/-Phương thức thứ nhì là gì, và tại sao Ngài dạy tới hai cách ?
    16/-Tại sao nhà tu cần phải có Đức Tin ?
    17/-Đức Tin trong sạch là gì ?
    18/-Lòng trí lành ra sao ?
    19/-Tu thiên lệch có tai hại gì ?
    20/-Tai hại thứ nhứt như thế nào ?
    21/-Tai hại thứ nhì ra sao ?
    22/-Muốn phá vô minh ta cần làm gì ?
    23/-Phải tu như thế nào mới có trí huệ ?
    24/-Phải rèn luyện làm sao cho có tinh thần cứng mạnh ?
    25/-Giải thích hai từ ngữ thành kiến và cố chấp ?
    26/-Thói quen và sự chần chờ ra sao ?
    27/-Lòng ham muốn và tánh kiêu ngạo như thế nào ?
    28/-Hai bệnh: tật đố và gièm siểm ra sao ?
    29/-Giải thích bệnh ích kỷ và sự gây gổ ?
    30/-Dục tình, phiền não làm tâm rối loạn ra sao ?
    31/-Tạo sao tâm và trí phải song hành ?
    32/-Qui y mê tín có mấy cách, giải ra ?
    33/-Qui y chánh tín như thế nào ?
    34/-Cải đổi tư tưởng có mấy cách, giải ra ?
    35/-Hãy tóm tắt bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” ?
    36/-Cho biết Tổng kết bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” ?

    8- LỜI CUỐI SÁCH
    Có nghiên cứu kỹ qua loạt bài trong Quyển Sáu và các bài Pháp ngữ do Đức Thầy sáng tác vào năm 1942 và 1945, chắc các bạn đều thấy đây là phần căn bản, là Tôn chỉ và Yếu Pháp trong Giáo lý PGHH và cũng thấu rõ Ngài dạy gồm đủ các pháp tu từ Nhân thừa tới tối thượng Nhứt thừa, không thiếu sót một phương tiện nào.
    Thế mà thời gian qua có nhiều bạn bên ngoài, cũng như trong nội tình của Đạo nhận thức chẳng giống nhau. Ấy là bởi căn duyên và trình độ của mỗi hành giả không đồng nhau.
    - Có người cho rằng nếu còn tu tại gia và lo hành xử Đạo Nhân thì làm sao giải thoát được.
    - Số khác thì bảo giữa thời Hạ ngươn mạt pháp, chỉ lo tu Nhân cho rồi, chớ tu Phật không kịp đâu !
    Theo ý kiến của soạn giả là trước khi khai vạch con đường để đi đến mục đích, Đức Giáo Chủ PGHH đã từng bước qua và cũng đã thực nghiệm một cách chính xác, rõ ràng mới đem giáo hóa nhân sanh:
    Kinh nghiệm rồi ta mới diễn ca”.
    Các bạn thử đọc lại một đoạn văn của Ngài: “…Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại. Ngài dạy rằng “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.
    Căn cứ theo đây, mỗi hành giả vừa xây đấp cho mình có một nền tảng chắc chắn (phận sự con người) ấy là tu Nhân. Và vừa lo kiến tạo tòa lâu đài Phật Đạo (tìm kiếm chân tánh) đó là tu Phật. Vậy ta phải tìm kiếm chân tánh ở đâu ?
    Đức Thầy có chỉ rõ vị trí:
    Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,
    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.

    Cho nên: Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”và lo tu sửa chuyển hóa: Tu cầu Phật hóa tánh tình, Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.
    - Đây quả là Ngài dạy đúng theo tâm ấn: ‘Chánh pháp nhãn tàng Niết Bàn Diệu Tâm…” của Đức Phật đã truyền qua 33 vị Tổ, như Tổ Đạt Ma đã nói:
    “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.
    Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”.

    Đức Thầy nay luôn kêu gọi: Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”
    Và: Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
    Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.
    Về chương trình cải tiến nhân sinh Ngài chủ trương: Đời Đạo liên quan rạng chói ngời”. Hành giả đem Đạo hòa đời để cứu đời và thi hành công hạnh Đại thừa Bồ Tát Đạo. Điều tất yếu là lúc nào cũng an nhiên:Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê” Và:
    “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
    Sắc không không sắc chớ lìa xa”.
    Hoặc là: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.

    Hơn một lần Ngài đã dạy:
    “Với sự hành đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thiệt tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết”.
    Vả lại một đấng từ bi cứu thế lúc nào cũng muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh vượt khỏi vòng khổ đau sanh tử. Nhưng vì cơ duyên, trình độ của mỗi hành giả chẳng đồng nhau, nên sự nhận định giáo lý và phát tâm hành Đạo có khác nhau. Song dù cơ duyên, tâm nguyện cỡ nào, hay muốn áp dụng phương tiện gì, tất cả đều phải tiến theo một lộ trình “Học Phật Tu Nhân” đó, và quyết định không để bước ngoài 2 bờ lề tám điều răn cấm, tất ai ai cũng đều có kết quả. Nghĩa là có tu có hưởng, tu tới đoạn nào hưởng đoạn đó, tu tột đỉnh thì kết quả tột đỉnh. Có điều cần chú ý là đã quyết tâm tu tiến, cần thường xem coi kệ giảng và phải:
    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu”.
    Hoặc là:
    “Nghe cạn lời chớ có mơ hồ,
    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo”.

    Thêm nữa, nếu người đứng xa nhìn bên ngoài cái Đạo thì thấy lối tu của PGHH quá thông thường: chỉ mang hình thức tại gia, vừa sanh nhai vừa tu. Cách thờ phượng giản dị, sống hòa hợp với đại chúng, không có sắc thái riêng biệt; tất cả môn đồ đều đối xử bình đẳng như nhau. Lời giáo lý thì bình dân vắn tắt, chỉ vỏn vẹn một quyển Thi Văn Giáo Lý, dầy khoảng 500 trang.
    Song nếu ai chịu khó nghiên cứu sâu vào bên trong của Đạo và thử thực nghiệm một ít điều, sẽ thấy Đức Giáo Chủ áp dụng một phương thức rất hòa hợp với căn cơ đại chúng; và giúp cho các giới tu hành một sự kết quả mầu diệu vô giá !
    Tóm lại PGHH với Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, Đức Thầy dạy tín đồ hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân. Ban rộng tình thương yêu bình đẳng đến vạn loại chúng sanh, như Ngài đã nói rõ:
    “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,
    Để tiến, tiến lên cõi Đại đồng”.

    Và:
    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.


    SOẠN GIẢ
     

Chia sẻ trang này