Chú Giải Quyển Năm“KHUYẾN THIỆN”

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 18/1/15.

  1. Buile

    Buile Member


    Chú Giả
    i Quyển Năm“KHUYẾN THIỆN”
    C
    ùa Cư Sĩ Thiện Tâm

    XUẤT XỨ - VĂN THỂ

    Đây là quyển thứ Năm, trích từ phần nhứt: “Sấm Giảng Giáo Lý” trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ. Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác quyển nầy vào năm Tân Tỵ (1941) lúc Ngài bị người Pháp an trí tại nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn). (Đức Thầy vừa viết xong quyển Khuyến Thiện thì được trả tự do. Khi về tới Bạc Liêu, Ngài mới cho tín đồ in ra nên có người chép là Ngài viết tại Bạc Liêu, chớ kỳ thật là Ngài viết tại nhà thương Chợ Quán. Vì ông Trần Văn Tâm, người cai quản nhà thương nầy còn giữ nguyên bản chánh và xác nhận là Đức Thầy viết lúc còn ở đây).
    Ngài viết bằng vận văn (văn vần ), lối biến thể, đoạn đầu và cuối thể lục bát, nhưng đoạn giữa là thất ngôn trường thiên và có xen vào một ít bài thi. Quyển Khuyến Thiện thuộc loại khuyến tu và tự thuật, dài 776 câu. Khởi đầu bằng câu:
    Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,”
    Và chấm dứt bởi câu:
    Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”.

    TIÊU ĐỀ - DANH HIỆU

    Khuyến Thiện: Khuyến là khuyên lơn chỉ bảo. Ý dùng lời nói dung hòa êm dịu khuyên nhủ khiến cho mọi người nghe theo. Thiện là việc lành, việc phải và tốt đẹp, có ích lợi cho mọi người. Nghĩa chung là ý dùng lời pháp giáo khuyên nhắc mọi người trở lại con đường lành, làm việc từ thiện, tránh xa những điều hung ác.
    Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy:“Tu cả thảy pháp lành tất chứng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”(Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).
    Đức Thầy hiện nay cũng nói:
    Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ.
    Gọi hồn người hành thiện truy kinh”.

    (Nang Thơ Cẩm Tú)

    Vô Danh: Không có tên. Đây có ý giấu tên (ẩn danh). Đức Thầy đã nói:“Lánh thế chẳng bày danh Lão Sĩ.”(Cho Ô. Tham Tá Ngà). Trong Trang Tử Tiêu Dao cũng có câu:“Bực Chí nhân thì không vì mình, bực Thần nhân thì không kể công, còn bực Thánh nhân thì không cầu danh.”(Chí nhân vô kỷ, Thần nhân vô công, Thánh nhân vô danh).
    Cư Sĩ: Người tu tại gia. Huệ Viễn Duy Ma Kinh có câu:“Cư sĩ hữu nhị: Nhứt quản tích tư tài, cư tài chí sĩ, danh vi cư sĩ; nhị tại gia tu Đạo, cư gia Đạo sĩ danh vi cư sĩ”.(Cư sĩ có hai hạng: Một là người có chứa nhiều tiền của mà không trước nhiễm; hai là những người tại gia tu hành, hoặc xưng là bậc Đạo sĩ, nhưng không xuất gia). Như trường hợp Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ, tuy các Ngài là Cư sĩ, nhưng đã viên thành Đạo quả “Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn”.
    Vậy bốn chữ “Vô Danh Cư Sĩ” là người tu tại gia có ý ẩn danh.
    Sở dĩ Đức Thầy đề bút hiệu cho quyển Khuyến Thiện như vậy là có 3 dụng ý:
    1- Chính Ngài và hầu hết tín đồ hành đạo và truyền đạo đều mang hình thức cư sĩ, nhưng chủ trương thực thi bồ tát hạnh (bố thí vị tha).
    2- Từ ngày 18 tháng Năm năm Kỷ Mão (1939) đến tháng Tư năm Canh Thìn (1940), Ngài còn được tự do sáng tác và in ấn Sấm Giảng. Nhưng hiện tình năm 1941 Ngài bị người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ Quán, sự sáng tác và in ấn không còn được tự do như trước, nên Ngài phải quyền biến thay tên và bút hiệu để dễ bề in ấn và truyền bá.
    3- Bởi giữa thời Mạt pháp có nhiều tà đạo ra đời, họ xưng hô toàn là Phật Thánh, gạt người lạc vào tà kiến dị đoan. Thêm có lắm phần tử cũng trong phạm vi Phật giáo, song là kẻ giả tu, hành động sai chơn lý, chỉ khoát bên ngoài cái vỏ đạo mạo, lợi dụng lòng tín ngưỡng của bá tánh.
    Tóm lại, bởi các lý do kể trên, nên Đức Giáo Chủ đề tên tác giả cho quyển Khuyến Thiện“Vô Danh Cư Sĩ”.

    NỘI DUNG

    Trước hết Đức Thầy xác định hạnh tu của Ngài và cả môn đồ. Kế tiếp, Ngài kể sơ lược lịch sử của Đức Phật Thích Ca; rồi Ngài phân táchtám nỗi khổnăm điều uế trược của mỗi chúng sanh trong cõi Ta-bà với tám điều vui cùng mọi sự thanh khiết ở cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Để rồi Ngài khuyến khích mọi người nên trì hành môn Tịnh Độ, hầu được vãng sanh về đó. Tiếp theo là Ngài dạy hành giả chừa mười điều ác và tu mười điều lành. Sau rốt là một bài Kệ Giảng tổng quát về sự tu đúng theo tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Ngài đã đề vạch.

    BỐ CỤC

    Toàn quyển Khuyến Thiện gồm có 3 phần chánh và nhiều tiểu đoạn:
    I- Phần nhứt, cũng là phần khai đề: Đức Thầy cho biết về hình thức hành đạo của Ngài và hầu hết môn đồ rất bình thường giản dị; không xuất gia bằng hình tướng mà chỉ chú trọng về nội tâm. Tuy vừa làm ăn vừa tu, nhưng không nghiêng nặng về vật chất phù hoa, lúc nào cũng giữ lòng thanh tịnh sống theo chánh nghiệp:Cư trần bất nhiễm, lẩn tục đừng mê”, từ câu 1: Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,” tới câu 8: Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.
    II- Phần hai, cũng là phần chánh đề: Ngài nói lên chí nguyện cao cả là đem lòng Từ bi Giác ngộ ban rải khắp nơi khuyến hóa chúng sanh sớm thoát ly cảnh tục. Kế tiếp, Ngài lược kể lịch sử Đức Phật Tổ và khai triển pháp tu Tịnh Độ (niệm Phật làm lành). Mỗi hành giả phải có đủ “Tín, Nguyện, Hành” và nhận rõ Tám điều khổ ở cõi Ta Bà và Tám điều vui ở cõi Cực Lạc, để vừa lo niệm Phật, vừa xa tránh mười điều ác và tu mười điều lành, để được trọn lành trọn sáng, vãng sanh Cực Lạc. Từ câu 9:Chí toan gieo giống Bồ Đề,” tới câu 768: Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường”.
    III- Phần ba, cũng là phần kết: Đức Thầy khuyến khích tín đồ đã quy Phật tu hành tất phải trau giồi hạnh đức cho tinh minh. Kết quả chẳng những cứu mình mà còn độ được Cửu Huyền Thất Tổ thoát nẻo luân hồi. Cuối cùng là một bài thi khoán thủ đề danh cho bút hiệu và thố lộ sự chứng đạt tâm ấn với pháp môn Thiền Tịnh song tu của Ngài. Từ câu 679: Ngôn từ Đạo hạnh ý Thầy khuyên,”tới câu:Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”.

    CHỦ ĐÍCH

    Chủ yếu của quyển Năm (Khuyến Thiện) là Đức Giáo Chủ giải rõ nguyên nhân phát xuất Đạo Phật và khai triển Pháp môn Tịnh Độ (tha lực cứu cánh). Tịnh Độ một pháp tu rất thích hợp với mọi tầng lớp chúng sanh, dễ hành và dễ chứng đắc.


    Chú giải từ câu 001 - 210 (Quyển V)

    CHÁNH VĂN
    1. Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
    Theo đòi nghiên-bút luận bàn Tục, Tiên.
    Ta là cư-sĩ canh điền,

    4. Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
    Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,

    Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.
    Gắng công trì niệm sớm khuya,

    8. Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 1 đến câu 8)
    -Thời gian Đức Giáo Chủ còn ở Nhà thương Chợ Quán, nhân lúc rảnh rang, tâm thần quang tịnh, bỗng nhiên Ngài cảm kích đến chúng sanh đang lăn lộn trong bể trần thống khổ. Động mối từ tâm nên Ngài mượn bút mực viết ra quyển Giảng nầy. Trong đây Ngài phân tách rõ hai đường tiên, tục và luận giảng các phương pháp tu hành hầu giác tỉnh chúng sanh sớm hồi tâm hướng thiện.
    -Ngài cho biết người tu hạnh tại gia vừa sanh sống với nghề ruộng rẫy và vừa lo trau giồi đạo hạnh, giải thoát thân tâm. Cho nên lòng Ngài lúc nào cũng thanh tịnh, thản nhiên trước mọi cảnh vật tài sắc vị danh. Tuy còn phải mang thân phàm tục như bao nhiêu người khác, song đã dày công tu niệm từ lâu, nên nay lòng Ngài đã giác ngộ, dứt hết mê lầm. Đây là Ngài nêu gương hạnh cho tín đồ noi theo.

    CHÚ THÍCH
    BĂNG TÂM: Băng là giá , tâm là lòng. Nghĩa chung là lòng trong như giá tuyết, không còn chút bợn nhơ trần cấu…Cổ thi, Vương Linh Xương có câu:“Lương dương thân hữu như tương vấn, Nhứt phiến băng tâm tại tại ngọc hồ.”(Lạc dương bạn hữu như cùng hỏi, Một tấm lòng băng tợ ngọc hồ). Đây là chỉ cho cái tâm của bậc đã rời dứt lợi danh, chẳng còn nhiễm ô thế tục.

    NGẪU HỨNG: Thình lình mà cảm kích, bỗng nhiên khởi mối hoài cảm giác tỉnh nhân sanh.
    THỪA NHÀN: Nhân lúc rảnh rang. Trong Giảng Xưa, Đức Phật Thầy Tây An có câu:

    “Thừa nhàn gẫm sự giác mê,
    Phàm trần thoát khỏi mọi bề mới ngoan”.
    THEO ĐÒI: Học theo, tập tành theo hoặc cùng làm theo như mọi người:“Theo đòi cùng thể bút nghiên, Thua em, kém chị cũng nên hổ mình.”(Ca dao). Nhưng chữ theo đòi ở đây là tiếng khiêm cung của Đức Thầy.
    NGHIÊN BÚT: Xem chú thích chữ “bút nghiên” tại tr. 136 Tập 2/3.

    LUẬN BÀN TỤC TIÊN: Ý nói luận giảng việc đời của người thế tục và việc đạo đức của bực siêu thoát, để chỉ rõ đâu là cao khiết chánh chơn và đâu là thấp hèn tội khổ. Đức Thầy từng nói trong “Viếng Làng Phú An”:
    Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh,
    Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên”.
    CANH ĐIỀN: Người cày ruộng. Nghĩa rộng là người chuyên gieo trồng ruộng phước (canh tác phước điền).

    CHUYÊN: Chú ý, chăm chỉ, để hết ý tứ và ngày giờ vào một việc gì. Ví dụ: chuyên cần hay chuyên chú. Ngài Mạnh Tử có nói: Phàm khi làm việc gì mà chẳng chuyên tâm gắng chí thì không thể đắc thành được (Bất chuyên tâm trì chí, tất bất đắc dã). Cho nên, Đức Thầy thường dặn dò như trong bài“Dặn Dò Bổn Đạo”:
    Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
    Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”.
    TU HÀNH: Xem chú thích tại tr. 47 Tập 1/3.
    LỢI DANH: Xem chú thích tại tr. 51 Tập 1/3. TRAU TRIA: Xem chú thích tại tr. 78 tập 2/3.
    TRÌ NIỆM: Gìn giữ và nhớ tưởng mãi, không quên lãng, chẳng lúc nào dừng nghỉ. Ví dụ: Trì niệm chánh pháp hoặc trì niệm Lục tự Di Đà.


    CHÁNH VĂN

    9. Chí toan gieo giống Bồ-Đề,
    Kiếm người lương thiện dắt về Tây-Phang.
    Dạy khuyên những kẻ ngỗ-ngang,
    12. Biết câu Lục-tự gìn đàng Tứ-ân.

    Ở trần xử trọn nghĩa-nhân,
    Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên-Đài.

    Cầu cho mối Đạo hoằng-khai,
    16. Cầu cho trăm họ Bồng-Lai được gần.

    Sớm về cõi Phật an-thân,
    Kẻo kiếp phong-trần dày gió dạn sương.
    Phật-đài phưởng-phất mùi hương,
    Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.

    Từ-bi oai-lực nhiệm sâu,
    22. Độ con thoát chốn ưu-sầu trần-ai.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 9 đến câu 22)
    -Vốn sẵn lòng từ bi, bác ái, nên Đức Giáo Chủ quyết đem Chánh pháp vô vi ban rải khắp nơi, khiến cho những hạt giống giác ngộ có cơ nảy nở. Các người ấy tự sớm quay về nẻo Đạo để kiến diện Phật tâm hoặc được Ngài đưa về Tây Phương Cực Lạc. Còn hạng người ngang tàng ngỗ nghịch, Ngài cũng phương tiện khuyên dạy, để họ biết lo làm lành niệm Phật và đền đáp Tứ đại trọng ân, rồi cũng lần lần tiến lên đường giải thoát như nhau.
    -Với Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” mà Ngài đã vạch rõ để mọi tín đồ cùng nương theo. Nghĩa là khi ta phát nguyện qui y và thệ quyết làm tôi con chư Phật cần phải nhắm hướng liên đài Phật quốc mà thẳng tiến, vì đó là mục đích của người :“Học Phật và tu Phật”. Song con đường đi đến đó, trước nhất là phải “Tu Nhân”, tức là thi thiết điều nhân nghĩa:Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân, Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.(Thu Đã Cuối). Bởi có lập thân cõi trần, có thiệt thi điều nhân nghĩa, mới vẹn tròn Nhân đạo và trả xong nợ thế; tất nhiên đài sen báu sẽ chực đón chúng ta:Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen(Sám Giảng, Q.3).
    -Đồng thời với giáo điều căn bản nói trên, nhà tu còn phải thương xót đến bá tánh, nên hằng cầu nguyện cho họ được về Tiên cảnh, để cùng chung hưởng sự an nhàn, hoặc được vãng sanh về Phật quốc, chẳng còn luân chuyển trong kiếp sống trần gian đầy gió bụi.
    -Đức Thầy còn căn dặn toàn thể tín đồ khi đến trước ngôi Tam Bảo, mỗi người cần phải Tỉnh tâm đốt nén tâm hương(Phụ Nữ Ca Diêu) mà lễ bái vọng cầu, để nhờ oai đức từ bi mầu nhiệm của mười phương chư Phật, cứu độ cả chúng sanh sớm thoát khỏi cảnh trần ai sầu khổ.


    CHÚ THÍCH
    BỒ ĐỀ: Xem chú thích tr. 71 Tập nầy.
    TÂY PHƯƠNG: Xem chú thích chữ “Cực Lạc”tại tr. 15 Tập 2/3.
    NGỖ NGANG: Ngang trái, ngạo ngược. Cũng có nghĩa là ngỗ nghịch.
    LỤC TỰ: Xem chú thích “Sáu chữ Di Đà” tại tr.175 Tập 2/3.
    LIÊN ĐÀI: Đài sen, chỗ chư Phật và các Bồ-tát phu tọa (ngự). Người trì hành pháp môn Niệm Phật, khi vãng sanh về cõi Cực Lạc cũng đồng ngự trên đó. Ngài Huệ Lựu đã bảo:“Ai mà gắng chí trau giồi, Chí công tu niệm đặng ngồi tòa sen”.Đức Thầy nay cũng có câu:
    Cầu cho già trẻ gái trai,
    Rủ nhau niệm Phật liên đài ắt lên”.

    (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

    HOẰNG KHAI: Mở mang cho được rộng ra. Ví dụ: Hoằng khai Đạo pháp.
    BỒNG LAI: Xem chú thích tại tr.138 Tập 1/3.

    PHONG TRẦN:Xem chú thích tại tr.134 Tập 2/3.
    DÀY GIÓ DẠN SƯƠNG: Dày là nhiều, lâu, Dạn là quen chịu gió sương là lạnh lẽo vất vả. Nghĩa chung là từng chịu đựng nhiều nỗi gian truân thống khổ mà chẳng ngao ngán, e ngại. Ý nói kiếp sống con người phải trải qua nhiều nỗi gian nan vất vả:“Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.”(Truyện Kiều). Đức Thầy hằng nói, trong bài“Để Chơn Đất Bắc”:
    Phong trần dày dạn gió sương,
    Chư bang ham báu hùng cường đua tranh”.

    PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự hoặc chỗ thờ kính chư Phật. Đây chỉ ngôi Tam Bảo, Đức Giáo Chủ khuyên:
    Trót đã qui y giữa Phật đài,
    Nguyện rằng đệ tử dứt trần ai”.
    (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)

    MÙI HƯƠNG: Mùi thơm của nhang, gồm có ba thứ:
    a)- Mộc hương: Do các loại cây có chất thơm, như: trầm hương, giáng hương.v.v…Người ta dùng mạt của nó làm thành nhang mà đốt trên các bàn thờ, hoặc chẻ nhỏ đem đốt xông dưới Phật đài, để bán mùi uế trược.
    b)- Hoa hương: Do những loại hoa hoặc dầu mỡ (nước hoa) có mùi thơm, dùng để chưng dọn trong các nghi lễ hoặc trang sức.
    c)- Tâm hương: Phần tinh thần trong tâm trí của người tu:Tỉnh tâm đốt nén tâm hương, Nguyện rằng đệ tử một đường lo tu”.
    Kinh Pháp Bửu Đàn gọi là “ngũ hương”, đại lược như sau:
    1-Giới Hương: là giữ trong tâm mình chẳng còn tham sân si, không lòng tà quấy, sát hại trộm cướp.v.v…

    2-Định Hương: Đối với các trần cảnh (lục trần) hoặc các hiện tượng lành dữ, tâm mình vẫn an nhiên không loạn động.
    3-Huệ Hương: Tự tâm mình không bị ngoại cảnh ngăn che hay chi phối, hằng lấy trí huệ xem soi tự tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các nghiệp lành mà lòng chẳng chấp trước. Kính người trên, nghĩ kẻ dưới; hay thường giúp những người nghèo đói bệnh tật.
    4-Giải thoát Hương: là tự tâm mình không chỗ vịn níu, chẳng chấp lành, chẳng nghĩ dữ, tự tại không ngăn ngại.
    5-Giải thoát tri kiến Hương: Tự tâm mình đã không chỗ vịn níu theo đường thiện, đường ác mà cũng chẳng đắm theo cái không và chấp giữ cái yên lặng. Cần phải học rộng nghe nhiều, biết bổn tâm mình, suốt cả lý Phật, hòa sáng tiếp người, không tướng nhơn ngã, tâm không dời đổi, vẫn tiến thẳng đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác.
    Ở đây, Đức Thầy dạy mỗi khi lễ bái vọng cầu, ngoài nghi thức nhang đèn, còn cần có tâm hương, tức là phải có tâm thành và chánh niệm mới có kết quả:Thứ bảy chánh niệm vậy thì, Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.(Sám Giảng, Q.3).
    ĐẢNH LỄ: Cũng đọc đỉnh lễ. Có nghĩa cúi đầu sát đất để làm lễ. Kinh Viên Giác có dạy:“Dĩ kỷ tối thắng chi đảnh, lễ Phật tối ti chi túc, Kính chi chí giả”.(Dùng cái đầu là chỗ rất cao của mình mà lễ đến chơn là chỗ rất thấp của Phật. Đó là lòng tôn kính tột bực vậy).

    ĐỨC MẦU: Do chữ “diệu đức”. Có nghĩa công đức mầu diệu cao thắng hơn hết, khó nghĩ lường được, chỉ cho bậc Bồ Tát và Như Lai. Kinh Tư Ích có giải: Tuy nói các pháp mà chẳng chấp vào pháp tướng, cũng chẳng chấp phi pháp tướng, nên gọi là diệu đức.(Tuy thuyết chư pháp nhi bất khởi pháp tướng, bất khởi phi pháp tướng cố danh diệu đức). Kinh Niết Bàn cũng nói: Phật có ba đức:
    1-Pháp thân đức: Pháp thân của Phật là pháp tánh thường trụ bất diệt.
    2-Bát nhã đức: Biết rõ chơn như thật tướng của các pháp.
    3-Giải thoát đức: Dứt sạch các sự trói buộc, chứng đặng tự tại.
    Chữ Đức mầu ở đây chỉ cho oai đức của Đức Thích Ca Như Lai Công đức Phật từ bi vô lượng”.
    OAI LỰC: Oai thần và nghị lực rất linh diệu, mạnh mẽ, do sức thần thông huyền diệu của Phật. Đức Thầy có câu:Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi.(Sấm Giảng, Q.3).
    ƯU SẦU: Buồn rầu lo lắng, một trong 8 điều khổ ở cõi Ta bà (Ưu sầu lo ngại).
    TRẦN AI: Bụi bặm. Ý chỉ cõi đời đầy sự khổ sở vất vả. Đức Thầy từng kêu gọi trong “Tỉnh Bạn Trần Gian”:
    “Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
    Phải toan sắm sửa rứt trần ai”.


    CHÁNH VĂN
    23. Nam-mô Thích-Ca Như-Lai,
    Ta-Bà Giáo-Chủ xin Ngài chứng-minh.

    Dưới đây lược tả sách kinh,
    Cho trong nam nữ hữu tình thì coi.

    Lời lành của Phật truyền roi,
    28. Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 23 đến câu 28)
    -Viết đến đây, Đức Thầy cầu nguyện với Đức Thích Ca Như Lai, tức là vị Giáo Chủ Phật Giáo trong cõi Ta Bà, xin Phật chứng minh cho công cuộc biên Kinh giác chúng của Ngài. Vậy những thiện nam tín nữ nào, sẵn có hột giống Phật và hữu duyên cùng Đạo pháp, hãy xem quyển Khuyến Thiện và tu hành theo, ắt sẽ chứng thành Đạo quả.
    -Ngài còn cho biết những pháp mầu lý diệu trong đây, là do Đức Phật khi xưa lưu truyền lại, nay Ngài có bổn phận rút tỉa những điểm quan yếu lược giảng ra. Vậy mỗi ai khi đọc đến cần bình tâm nghiệm xét cho chín chắn, để được thấu hiểu những điều tà mê tội ác mà diệt trừ và thực hành theo điều chơn chánh hiền lương.

    CHÚ THÍCH
    NAM MÔ: Xem chú thích tại tr. 81 Tập 1/3.
    THÍCH CA: Xem chú thích tr.113 Tập 2/3.

    NHƯ LAI: Xem chú thích tr. 161 tập 2/3.
    TA BÀ GIÁO CHỦ: Ta Bà tức thế giới Ta bà (Xem lại chú thích tại tr. 62 Tập 2/3). Giáo chủ là vị sáng lập một nền Đạo hay một Tôn Giáo. Đây chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, bởi Ngài là Giáo chủ Đạo Phật (Phật Giáo) trong cõi Ta bà (Xem phần Lược sử Đức Thích Ca, sẽ giải tới trong Tập nầy).
    CHỨNG MINH: Chứng là soi xét, nhận thật; Minh là sáng suốt. Chứng minh là soi xét đến việc gì một cách rất rõ ràng và nhận chứng cho. Đây là Đức Phật chứng minh cho việc cầu nguyện và sáng tác Sấm Kinh của Đức Thầy.
    LƯỢC TẢ: Viết ra hoặc bày tỏ một cách sơ lược. Đây có ý nói những cương yếu cần thiết chớ không diễn tả chi tiết dài dòng. Lược tả còn dùng để nói lời khiêm nhường.
    SÁCH KINH: Sách là xấp giấy có in chữ và đóng lại thành tập. Đây là quyển sách đã ghi chép những gương hạnh hoặc lời lẽ của các bậc Hiền nhân Thánh triết, hoặc luận giải những lời hay ý phải để dạy đời, nên gọi chung là Kinh sách hay sách sử. Kinh là Kinh điển hay Kinh Kệ. (Xem lại chú thích chữ Kinh Kệ tại tr. 156 Tập 1/3).
    HỮU TÌNH: Phạn ngữ: Satva, phiên âm là Tát đỏa, dịch là Chúng sanh hay Hữu tình, tức các loài có tri giác, có tình thức và mạng sống. Nhưng chữ hữu tình ở đây là chỉ cho những người có duyên lành với Phật pháp. Ý nói tâm của mỗi chúng sanh đều có hột giống Phật (giác ngộ), nay lại hữu duyên gặp được lời giáo pháp của Đức Thầy, nếu ai xem theo đây mà tu hành, ắt sẽ đắc đạo.
    Khi xưa, lúc Tổ Già Da Đa Xá truyền phó Chánh pháp cho Ngài Cưu Ma La Đa, Tổ có Kệ rằng:
    Hữu chủng hữu tâm địa,
    Nhân duyên đương phát manh.
    Ư duyên bất tương ngại,

    Đương sinh, sinh bất sinh”.
    Có nghĩa: đã có hột giống, có đất đai (tâm địa), nhưng phải nhờ gặp mọi duyên lành đầy đủ thì hột giống kia mới phát sinh nảy nở được. Đối với mọi duyên đã không bị ngăn ngại thì quyết định sẽ phát sanh quả vô sanh. Ý nói người tu hành khi được đầy đủ mọi duyên và không bị cái gì làm chướng ngại thì quyết định đời đời chứng quả vô sanh. Đức Thầy hiện nay cũng bảo:Duyên trước ngày nay mới có phần.(Cho Ô. Hương bộ Thạnh).
    TRUYỀN ROI: Cũng đọc là roi truyền. Có nghĩa trao dạy lại. Chỉ cho việc gì có hệ thống từ trước roi truyền lại và cứ tiếp tục mãi mãi. Như Đức Phật khi xưa truyền tâm ấn và y bát cho Tổ Ca Diếp, rồi Tổ Tổ roi truyền mãi đến đời sau.

    CHÁNH VĂN
    (THI)

    29. Tiếng kệ từ-bi quá diệu-trầm,
    Diệt lòng tham vọng diệt thinh-âm.

    Trần-gian say-đắm theo màu-sắc,
    32. Tịnh-độ giác-thuyền trị dục-tâm.
    Phải rõ nghiệp-duyên trần cấu tạo,
    Nghe rành chánh-pháp thoát tà-dâm.

    Phù-sanh nhược mộng đời lao khổ,
    36. Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 29 đến câu 36)

    -Bài thi bát cú nói trên, qua cặp đề (1 và 2) Đức Thầy cho biết lời Kệ của Phật truyền dạy mà Ngài khai hóa nhân sanh ở đây rất cao sâu mầu nhiệm. Có đủ diệu năng giúp cho hành giả diệt sạch tâm tham lam vọng chấp và lìa bỏ sắc tướng thinh âm để trở về với Chánh Đạo vô vi.
    -Đến cặp trạng /thực (3 và 4) là nhận thấy con người sanh ra trong cõi trần, thường bị đắm đuối theo tướng cảnh màu sắc mà phải chuốc lấy sự đau buồn cay đắng. Vậy chúng sanh nào muốn thoát khỏi thì phải hướng về:Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã.(Tỉnh Bạn Trần Gian) và trì hành Pháp môn Niệm Phật. Chỉ có sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, nếu ai quyết tâm trì niệm tất trừ đặng gốc khổ (dục vọng). Cũng như người cỡi được con thuyền vừa to lớn, vừa vững chắc, vượt khỏi sông mê bể khổ:Cứu khổ Nam mô vô lượng phước, Diệt nàn tu rị hữu thiên Kinh.(Tỉnh Bạn Trần Gian).
    -Trong cặp luận (5 và 6), Ngài dạy người tu phải xét rõ nguyên nhân cấu tạo của hột giống sanh tử, từ đâu phát khởi và những gì trợ duyên cho nó để dẫn đến kết quả sầu khổ đau thương. Song muốn thấu đạt lý ấy, hành giả phải học rành chánh pháp, chính nhờ đó giúp ta phá được vô minh, khai thông trí huệ, bấy giờ ta mới hiểu tận nguồn gốc của sanh tử là lòng ái dục (tà dâm). Như Đức Phật đã nói :Hải trung sanh tử dâm dục đệ nhứt”, đoạn rồi ta dùng gươm trí tuệ cắt đứt nó, ấy là giải thoát:Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp, Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.(Hiếu Nghĩa Vi Tiên).
    Qua hai câu kết (7 và 8), Ngài nói rằng muốn trợ duyên việc tiêu diệt mầm mống sanh tử, nhà tu cần quán xét kiếp sống của con người, như chiêm bao bóng bọt, dễ rả, dễ tan. Dù ta có gây tạo ruộng vườn nhà cửa, vợ đẹp con đông hay mọi cuộc vinh sang phú quí, một khi tử thần gõ cửa, thì:Nhắm mắt cũng nắm hai tay.(Khuyến Thiện, Q.5). Nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã diễn tả cái nhân sinh quan đó như sau:
    “Ôi ! Nhân sinh là thế,
    Như bóng đèn, như mây nổi,

    Như gió thổi, như chiêm bao,
    Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào ?
    Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”.
    Thế mà con người mãi say mê đắm đuối, phí biết bao tâm cơ trí lực đua đòi theo vật chất phù hoa rồi chuốc lấy vô vàn hận khổ:
    “Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo,
    Cuộc truy hoan thường giết khách tài hoa”.

    (Cảm Tác)
    Khi ta nhận thức được cuộc đời là ảo ảnh, hãy sớm lo bề tu thân sửa tánh để khỏi bị lầm lạc mãi trong vòng chuyển luân sanh tử:
    Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
    Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.

    (Hai Mươi Chín Tháng Chạp)

    CHÚ THÍCH
    KỆ: Xem lại chú thích tại tr. 156 Tập 1/3.
    DIỆU TRẦM: Diệu là mầu nhiệm, trầm cũng viết là thẩm (thâm), có nghĩa sâu kín. Diệu trầm ở đây là tiếng để ca ngợi lời Kinh pháp rất cao sâu mầu nhiệm. Trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa có câu:“Diệu giả bao mỹ bất khả tư nghị khi pháp dã.”(Diệu ấy là khen các pháp rất hay, tốt không thể nghĩ lường được). Pháp Hoa Du Lý cũng nói: Chữ Diệu gọi là thật cao sâu mầu nhiệm (Diệu thi tinh vi thậm viễn xưng).
    Đức Thầy nay cũng bảo:

    Xả thân tầm Đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày”.
    (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
    THAM VỌNG: Nghĩ tưởng và ham muốn việc xấu xa tà khúc.
    THINH ÂM: Những thứ tiếng có năng lực làm kích cảm và ru nhiễm lòng người. Có hai thứ thinh âm:
    1-Cảnh trực thinh âm: là các thứ tiếng thuộc về vô tình, như: nước chảy, gió mưa, sấm sét…

    2-Khuất khúc thinh âm: là các thứ tiếng thuộc về hữu tình, như: ca hát, đờn sáo (âm nhạc) hoặc tiếng người và các cầm thú…
    Nhưng chữ “DIỆT THINH ÂM” ở đây có ý khuyên người tu nên lìa cả âm thinh sắc tướng để trở về với vô vi thật tướng. Như trong Kinh Kim Cang, Đức Phật từng nói:“Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thinh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”.(Nếu lấy màu sắc mà thấy ta, lấy tiếng tăm mà tìm ra; thật là người hành tà đạo, chẳng khi nào thấy được Như Lai).
    Đức Thầy nay cũng hằng khuyên:
    Nền Đạo đức sắc thinh chớ mến,
    Có thuyền từ đưa đến non Tiên”.
    (Cho Ông Tham Tá Ngà)
    MÀU SẮC: Hình tượng bên ngoài của vạn vật. Kể cả sắc: xanh, đỏ, trắng, vàng…và sắc đẹp của người hoặc sắc tướng (hình thức).
    TỊNH ĐỘ: Cũng gọi là Tịnh Thổ, là cõi đất thanh tịnh an nhiên, không hề có ngũ trược, bát khổ như cõi uế độ Ta Bà của chúng sanh đang ở. Tịnh Độ còn là một pháp tu, dạy người chuyên tâm niệm Phật, làm lành để nhờ tha lực của Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực Lạc (Tịnh độ).
    Tịnh Độ có bốn cõi, tùy theo công năng tu tập của mỗi người mà chứng đắc:
    1/-Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ: Cõi Tịnh Độ nầy chúng sanh do tu tịnh hạnh (niệm Phật làm lành) mà cảm chứng đặng. Nhờ thế, được đồng cư (cùng ở) với Tam Thừa Thánh Hiền, tức là cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

    2/-Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ: Cõi nầy do bực Nhị thừa, tuy tu đã dứt được kiến hoặc, tư hoặc,ra khỏi tam giới, nhưng còn lại hai phần: vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa trừ hết, nên gọi là “hữu dư”. Do đó, chưa được hoàn thành cứu cánh.
    3/-Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ: Cõi nầy do hành giả tu bậc Đại thừa, đã tích lũy công đức phước báo nhiều đời mà chứng đắc trí vô lậu và có vô lượng tướng hảo, trang nghiêm chơn thật. Đây là cõi Tam Hiền Bồ Tát.
    4/-Pháp Tánh Tịnh Độ: Cũng gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”. Cõi nầy chỉ an trụ nơi Pháp Thân Phật (bản lai thanh tịnh) nên không có hình sắc. Do bậc tu hành đã giải thoát rốt ráo, cũng gọi là đắc “Viên Giác Tánh” hay “Chơn không diệu hữu”. Gồm đủ các đức: Chơn thường (không sanh diệt)Chơn tịnh (sạch hết vọng nhiễm, phiền não) và Chơn bát nhã (trí quang minh chiếu khắp mười phương).
    Trong Kinh Duy Ma có nói:“Dục tắc Tịnh độ, đương tịnh kỳ tâm, tùy kỳ tâm tịnh, tức quốc độ tịnh.”(Muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm mình thanh tịnh, hễ tâm được thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh).
    -Vậy chữ Tịnh độ ở đây, vừa chỉ cho cõi Tịnh độ đối lại với hai chữ trần gian của câu thi trên, vừa chỉ cho Pháp Môn Niệm Phật. Đức Thầy từng cho biết:Cư gia Tịnh độ tâm viên mãn.(Khuyến thiện, Q.5).
    GIÁC THUYỀN: Cũng gọi là Thuyền Giác. Giác là chánh đạo hay chánh pháp, cũng đồng nghĩa với trí huệ. Thuyền là chiếc ghe để chuyên chở mọi vật, do chữ “Diệu Pháp Thuyền”. Ý nói người nương theo Chánh pháp của Đạo mà tu hành, chẳng còn nhiễm ô, vướng mắc việc thế tục, tức được tự tại giải thoát, ví như người cỡi thuyền vượt khỏi sông mê sang bờ giác.
    -Đức Thầy đã từng “Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.”(Khuyến Thiện, Q.5). Và Ngài hằng khuyên tín đồ:
    Phật Đạo trau giồi tâm tánh lại,
    Giác thuyền chuyên chở lúc can qua”.

    (Ai Người Tri Kỷ)
    DỤC TÂM: Lòng ham muốn việc trần tục, vật chất: danh, lợi, tình.v.v…
    NGHIỆP DUYÊN: Nghiệp là hột giống, là hành động tạo tác đầu tiên. Duyên là các trợ duyên giúp cho hột giống hay việc làm ấy mau kết quả. Nói chung là “Nhân duyên hạnh nghiệp”. Hễ nghiệp duyên chơn chánh thiện lương thì kết quả tốt lành, cao khiết, bằng nghiệp duyên xấu ác, nhơ đục thì sau sẽ kết quả tối tăm hung dữ:“Sư rằng: song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.”(Truyện Kiều).
    TRẦN CẤU TẠO: Trần cấu là bụi bặm nhơ nhớp, tức là các dục vọng, tà kiến, phiền não làm cho tâm trí mờ ám quay cuồng; Tạo là làm ra. Cho nên, hễ người tu khi dứt sạch duyên trần cấu đừng tạo ra nữa, tức là trừ xong mọi kiến hoặc, tư hoặc (thấy lầm, nghĩ lầm) mà chứng được thanh tịnh Niết Bàn. Như hoa sen tuy gần bùn mà chẳng ô nhiễm vì bùn. Đức Thầy từng khuyên “Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không” (GMTK,Q. 4).
    CHÁNH PHÁP: Đạo pháp chơn chánh, lý nghĩa không sai chạy. Đây chỉ cho lời giáo pháp của Đạo Phật, do diệu dụng của Pháp tánh Phật thuyết ra.
    Kinh Cu Xá Luận có nói:“Năng trì tự tánh, vị nhứt thiết pháp các thủ tự tánh, như sắc đẳng tánh thường bất kiến cải.”(Giữ được pháp tánh của mình thì cả thảy pháp đều ở trong tự tánh, cũng như tánh của các sắc thường không thay đổi).
    Đức Thầy nay cũng khuyên:

    Sớm tối, đi nằm y Chánh Pháp,
    Thầy nguyền dắt đến cảnh Long Hoa.
    (Cho Ô. Hạnh).
    TÀ DÂM: Một trong 10 điều ác, cũng là một trong năm giới cấm. Có nghĩa thông dâm với vợ con, hoặc chồng của người khác. Người đam mê sắc dục quá độ cũng gọi là tà dâm. Còn có nghĩa rộng là cái gì cong vạy, quái kỳ là ; cái gì không chánh đáng là dâm. Trong “Luật Sa Di” có lời kệ:
    “Dâm vi bất tịnh hạnh, Mê hoặc thất chánh Đạo.
    Hình tiêu hồn phách kinh, Thương mạng nhi tảo yểu.

    Thọ tội ngoan si hoang, Tử phục đọa ác đạo.
    Ngô dung úy thị cố, Khí gia nhạo sơn tẩu”.

    (Dâm là hạnh bất tịnh, Mê lầm mất Đạo chánh.
    Hình gầy hồn phách sợ, Giảm thọ và chết non.
    Mắc tội ngu, dại, ngốc, Chết đọa trong đường ác.
    Ta vì sợ quá sợ, Bỏ nhà thích núi non).
    Do đó, Đức Thầy khuyên môn đồ phải giải thoát tà dâm ái dục:
    Nghe chuông linh sớm dứt bể ái hà,
    Kẻo vật dục cuốn lôi vào bể khổ.

    (Cảm Tác).

    PHÙ SINH: Kiếp sống nổi trong chốc lát, như chòm mây, bọt nước, mới nổi kế tan. Cổ nhân từng bảo :“Ký sinh phù nhược hề, tử nhược hưu.”(Kiếp sống đã chịu lắm cảnh trôi nổi, dù có tranh danh đoạt lợi, khi chết cũng phủi sạch thôi).
    Tuồng huyễn hóa ai bày ra đấy,
    Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
    Trăm năm còn có gì đâu,

    Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”.
    (Cung Oán Ngâm Khúc)
    Đức Thầy nay cũng từng thốt:
    “Sầu chung ta cất tiếng than,
    Phù sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi!

    (Tự Thán)
    NHƯỢC MỘNG: Giấc chiêm bao quá yếu ớt, ngắn ngủi. Ý nói kiếp sống của con người mau lẹ như giấc mộng. Cổ nhân bảo:“Nhơn sanh bá tuế như xuân mộng, Ly hiệp bi hoan tợ hí văn.”(Người sanh trăm tuổi như đêm mộng, Buồn vui tan hợp tợ trò chơi). Và “Kỳ sinh nhược mộng vi hoan hỷ hà.”(Kiếp sống trôi nổi ví như trong giấc mộng, dầu có vui sướng cũng chẳng bao lâu – Thái Bạch Văn).
    Đức Thầy nay cũng cho biết:
    “Khuyên người trí-sĩ mau mau tỉnh
    Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần”.

    (Tỉnh Bạn Trần Gian)
    Hoặc là:

    Trần thế lợi danh giấc mộng tràng”.
    (Lộ Chút Cơ Huyền)
    TU THÂN: Xem lại chú thích tại tr.146 Tập 2/3.

    CHÁNH VĂN
    37. Hào-quang chư Phật rọi mười phương,
    Đạo pháp xem qua chớ gọi thường.
    Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu,
    40. Cố công gìn giữ tánh thuần-lương.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 37 đến câu 40)
    -Đại ý bài thi tứ cú trên đây, Đức Giáo Chủ dạy rằng: Chư Phật có đủ pháp thần thông, huyền diệu, thường phóng ánh từ quang soi suốt khắp mười phương để tiếp độ những người có thiện căn, trở về với cảnh an nhàn tự tại:Tìm con lành dắt lại Phật đường.(GMTK, Q.4).
    -Được rõ hào quang của Phật là linh diệu khôn lường thì giáo pháp của Ngài cũng sâu mầu khó nghĩ. Vậy người tu mỗi khi đọc đến Sấm Kinh, chẳng nên xem thường lời giáo pháp mà phải chuyên tâm, chú ý nghiệm suy từ nét dấu trong đó; vì có lắm khi: Lời nói gần mà nghĩa lý rất sâu xa (ngôn cận chi viễn).
    Đức Thầy từng dạy trong “Giác Mê Tâm Kệ”:
    Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
    Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.

    Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
    Chớ chẳng phải của người lãng trí”.

    -Khi được rõ nghĩa lý trong Kệ giảng, nhà tu cần phải gắng công gìn giữ giới luật và lo trau tâm luyện tánh cho đặng trọn lành trọn sáng đến khi thành Đạo giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    HÀO QUANG: Hào là lông mày; Quang là tia sáng, ánh sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông trắng, thường phóng ra ánh sáng chung quanh mình (vầng hào quang). Đây là một trong 32 tướng hảo của Phật.
    Trong Quán Phật Tam Muội Kinh có chép:“Thời Phật my gian, tức phóng bạch hào, đại nhơn tướng quang. Kỳ quang phân vi bát vạn tứ thiên chi.”(Khi ấy nơi chơn mày của Phật liền phóng hào quang sắc trắng của đấng đại nhân. Trong đó chia ra làm tám muôn bốn ngàn đạo).
    Đức Thầy nay cũng có câu:
    Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

    (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
    MƯỜI PHƯƠNG: Do chữ thập phương. Có nghĩa: tám hướng chung quanh và hai hướng trên, dưới; tức là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương. Mười phương là tiếng chỉ chung cho khắp thế giới hoặc khắp cả chư Phật và chúng sanh. Ví dụ:“Thập phương Phật hay thập phương bá tánh”.
    Đức Thầy thường viết:Nguyện mười phương chư Phật đáo lai.(Khuyến Thiện,Q.5).
    Hoặc:
    Mười phương đều rõ máy anh linh.(Những Câu Chú thường niệm).
    ĐẠO PHÁP: Phép tắc chân chánh của Đạo Phật. Đạo pháp thường hay dung với hòa.(Lời Khuyên Bổn Đạo, tr.449-450 SGTVTB 2004).

    CHUYÊN CHÚ: Chuyên tâm chú ý vào một việc gì. Đây ý nói dồn hết tâm trí, gom hết tư tưởng vào công việc nghĩ ngợi, suy xét Kệ Kinh, để thấu hiểu lý nghĩa cho tường tận.
    THUẦN LƯƠNG: Thuần là ròng rã, không tạp nhạp xen lộn; Lương là hiền lành. Có nghĩa chung là ròng rã việc hiền lành, tức trọn lành, chẳng có một điều quấy ác nào xen lộn. Đức Thầy nói:

    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
    (Kh/Thiện, Q.5)

    CHÁNH VĂN
    KỆ
    41. Lòng quảng ái xót thương nhân chủng,
    Buổi lố-lăng Phật-Giáo suy đồi.

    Kẻ tu hành ai nỡ yên ngồi,
    44. Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.
    Mình đã gặp con thuyền Bát-Nhã,
    Có lý nào ích-kỷ tu thân ?

    Phật-Tổ xưa còn ở nơi trần,
    48. Ngài gắng sức ra công hoằng-hóa.

    Nền Đại-Đạo lưu thông khắp cả,
    Bực tiên hiền đều trọng Phật-gia.
    Rèn dân bằng giáo-thuyết bình-hòa,
    52. Giống bác-ái gieo sâu vô tận.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 41 đến câu 52)

    -Lòng từ bi của Đức Giáo Chủ bao la như sông biển, xót thương khắp vạn loại chúng sanh, hằng tùy phương cứu độ:Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh.(Tình Yêu). Nhứt là giữa thời Hạ ngươn mạt pháp, làn sóng vật chất áp đảo tinh thần, khiến cho nền Đạo Phật phải suy yếu theo đà xuống dốc. Trước trạng huống ấy, những người biết giác ngộ tu hành, không thể an ngồi chốn chùa am, sống cuộc đời nhàn nhã với lời Kinh tiếng Kệ.
    -Huống chi, những người đã tỏ đạo mầu đạt thông trí tuệ, hoặc đã được đứng trên con thuyền Đại Đạo, vốn đầy lòng từ ái, vị tha có lý nào chuyên lo tự độ. Thế nên dầu giữa Bể trần sóng cuộn lao xao, Đức Giáo Chủ cũng cương quyết Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen(Tự Thán, tr.404 SGTVTB 2004), để cứu vớt sanh linh đang chìm đắm trong bể khổ.
    -Đức Phật Tổ xưa kia, với lòng từ bi vô lượng vô biên, nên sau khi đắc đạo, Ngài chẳng nỡ nhập Niết bàn sớm, vẫn trụ thế hoằng pháp lợi sanh suốt 49 năm. Ngài đã từng thốt:“Ta vì muốn cứu khổ chúng sanh mà tu thành Phật, chớ không phải vì ngôi Phật cao lớn mà thành. Rồi từ độ ấy Phật Giáo càng lúc càng lan rộng, khiến cho các bậc Tiên, Hiền, Thánh, Triết đều phải kính trọng tùng qui. Ngài còn đem giáo pháp bình đẳng trung từ chan hòa trong quảng đại quần chúng. Những người có đại căn đã sớm giác ngộ và thành Đạo trước. Còn hạng thiểu căn chậm tiến, Ngài cũng dùng mọi phương tiện làm cho họ kính tin Trời Phật, ấy là đã gieo sâu vào tạng thức họ hột giống Đạo; để rồi thời gian sau chúng sanh đó sẽ hồi tâm hướng thiện, qui y Phật Pháp.

    CHÚ THÍCH
    LÒNG QUẢNG ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh. Sách Luận ngữ nói:“Phiếm ái chúng nhi thân nhân.”(Người tu học phải thương yêu mọi người và gần gũi các bậc hiền đức).
    NHÂN CHỦNG: Giống người, chỉ chung cho loài người. Đức Thầy thường thốt:
    “Năm canh luống những sụt sùi,
    Cám trong nhân chủng lắm người dở dang

    (Tự Thán, tr.404 SGTVTB 2004)

    LỐ LĂNG: Cũng gọi là nhố nhăng. Có nghĩa quá mực thường, làm chướng tai gai mắt kẻ chung quanh. Ví dụ: ăn mặc lố lăng, nói năng lố lăng.
    SUY ĐỒI: Lụn bại, sụp đổ, hư nát.
    THUYỀN BÁT NHÃ: Xem “bát nhã thoàn” tại tr.19 Tập 2/3.
    ÍCH KỶ: Chỉ biết lợi ích riêng cho mình, không hề giúp đỡ ai. Đức Thầy hằng khuyên:
    “Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,
    Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ.
    (Kệ Dân, Q.2).

    HOẰNG HÓA: Khai mở Đạo mầu sâu rộng trong quần chúng và giáo hóa tiếp độ toàn thể chúng sanh.
    ĐẠI ĐẠO: Nền Đạo rộng lớn cao sâu. Đây chỉ cho Đạo Phật. Đức Thầy nói:
    Đại Đạo giáo dân, dân bất tri,
    Khai năng bạch phát đãi hà thi.

    (Không Không)
    TIÊN HIỀN: Các bậc Tiên gia, Hiền thánh thuở trước.
    PHẬT GIA: Nhà Phật, ý chỉ Đạo Phật. Đức Thầy có câu:
    Tới đây cạn lẽ phân minh,
    Quyết đem chơn lý đặng gìn Phật gia”.

    (Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

    BÌNH HÒA: Bình đẳng và hòa hợp. Ý nói lời pháp giáo của Phật chỉ dạy không phân biệt cá nhân đẳng cấp, luôn hòa hợp với các chủng tộc và căn cơ trình độ của mọi giới chúng sanh. Thời xưa, trước sự phân chia bất bình đẳng của bốn giai cấp ở Ấn Độ, Đức Phật đã dạy:“ Không có giai cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, trong dòng máu cùng đỏ.
    Ngày nay Đức Thầy cũng bảo:Lời thuyết pháp chẳng vì nhơn ngã.(GMTK, Q.4) và:
    “Tùy phong hóa dân sanh phù hợp,
    Chấp bút thần tả ít bổn kinh.

    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Giáo thuyết bình hòa cũng còn chỉ cho giáo lý “Trung Đạo” (Con đường trung đạo). Kinh Kim Cang, Phật nói:“Thị Pháp bình đẳng, Vô hữu cao hạ.”(Pháp nầy là bình đẳng đối với tất cả, không có chi cao hơn nó, cũng không có chi thấp hơn nó). Đức Thầy cho biết:
    Dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng,
    Chẳng nói cao vì sắp rốt đời
    (GMTK, Q.4)
    BÁC ÁI: Xem lại chú thích tại tr.58 Tập 1/3.
    VÔ TẬN: Không hết, không cùng tột.

    CHÁNH VĂN
    53. Sau nhằm buổi phong-trào tân-tấn,
    Đua chen theo vật-chất văn-minh.
    Nên ít người khảo xét kệ-kinh,
    56. Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ.

    Thêm còn bị lắm phen giông-tố,
    Lời tà-sư ngoại-đạo gieo vào.
    Cho nhơn-sanh trong dạ núng-nao,
    60. Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.

    Dùng thế-lực dùng nhiều mánh-khoé,
    Cám-dỗ người đặng có khiến sai.

    Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
    64. Để khốn-khổ mặc ai trối kệ.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 53 đến câu 64)
    -Trước kia Đạo Phật rất thạnh hành, sự tin tưởng Tam Bảo của toàn dân vô cùng mạnh mẽ, nhưng vào thời mạt pháp cũng nhằm buổi tân tiến cạnh tranh, phần đông nhân loại chạy theo văn minh vật chất, nên ít người chịu gia tâm nghiên cứu kinh kệ, để tìm ra chơn lý hầu dìu dắt chúng hữu tình, thoát vòng đau khổ.
    Bày ttường tân trước sau chung thỉ,
    Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
    Nghiệp tổ tiên con cháu vày bừa,

    Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.
    (Trao Lời Cùng Ông Táo)

    -Tình thế đã vậy, lại còn tà sư, ngoại đạo thừa cơ quấy nhiễu chánh pháp, bày trò mê tín, làm sai lạc chơn lý. Những kẻ có uy quyền thì dùng thế lực đàn áp tôn giáo (pháp nạn), khiến cho những người nhẹ dạ phải nao núng ngã lòng, không còn mạnh tin những gương hạnh cao cả trong Phật giáo từ xưa.
    -Thêm có nhiều chủ thuyết ra đời, không kiêng sợ tội phước, hay nhân quả báo ứng. Họ dùng đủ mưu mô xảo quyệt, thế lực uy quyền để cưỡng bách, cám dỗ dân chúng làm tay sai. Riêng họ chỉ ngồi không thủ lợi, miễn sao được sống cuộc đời sung sướng, vinh thê ấm tử, mặc tình cho kẻ khác chịu nỗi đói lạnh chua cay !

    CHÚ THÍCH
    PHONG TRÀO: Phong là gió; trào là triều nước dâng lên. Ý chỉ cho sự đua nhau làm việc gì ồn ào vang dội trong một thời, như gió thổi sóng dậy hay nói về khuynh hướng nhiệt liệt trong một lúc.
    TÂN TẤN: Cũng gọi là tân tiến. Có nghĩa cuộc tiến hóa mới mẻ hiện nay.
    VĂN MINH: Xem chú thích tại tr. 209 Tập 1/3..
    KHẢO XÉT: Khảo là tra cứu, thí nghiệm; Xét là tìm tòi phân đoán. Nghĩa chung là phương pháp nghiên cứu kỹ lưỡng để tìm hiểu một việc gì cho chính xác. Ví dụ: Khảo xét kinh điển.
    CHÚNG HỮU TÌNH: Chúng là số nhiều; hữu là có; tình là tình thức hay hữu duyên. Nghĩa chung là các giống động vật có tri giác và mạng sống.
    Trong vũ trụ vạn hữu có hai giới: vô tìnhhữu tình. a/- Giới vô tình gồm những loài không cựa quậy và hiểu biết, như: Kim thạch, đất nước, cây cỏ…
    b/- Giới hữu tình thì gồm những loài có mạng sống và tri giác, nhưng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.
    GIÔNG TỐ: Mưa to gió lớn. Nghĩa bóng là sự biến đổi hay cuộc đàn áp dữ dội. Đức Thầy có câu:
    Cơn dông tố mịt mù bụi cát,
    Chẳng nao lòng của đấng từ bi.
    (Sa Đéc)
    TÀ SƯ NGOẠI ĐẠO: Xem chú thích chữ “tả đạo” tại tr. 34 Tập 2/3.
    NHƠN SANH: Cũng viết là nhân sanh, tức chỉ cho loài người sống chung trong thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói.

    DẠ NÚNG NAO: Cũng gọi là tâm nao núng. Có nghĩa lòng bối rối lo lắng trong tâm, hồi họp, bán tín bán nghi, muốn lùi bước.
    GƯƠNG XƯA: Những thành tích vẻ vang sáng lạn và hiền đức tốt đẹp của các đấng Thánh Hiền hoặc của ông cha ta đã thi thố từ trước, như tấm gương sáng nêu lại cho hậu thế noi theo. Đức Khổng Tử có dạy:“Minh kính khả dĩ sát hình; vãng cổ khả dĩ tri kim”(Tấm gương sáng để soi được mình, xét việc xưa qua để biết được việc nay).
    Đức Thầy thường thống trách hạng người phụ bỏ gương xưa:
    Gương Tổ Phụ còn roi lại đó,
    Sao không theo nề nếp gia phong.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    THẾ LỰC: Sức mạnh của quyền oai hay tiền bạc. Ví dụ: Người ta dùng thế lực áp bức kẻ khác, khiến họ phải phục tùng theo.
    CÁM DỖ: Tìm đủ cách quyến rũ làm cho người ta mê theo.
    CỦA HOẠNH TÀI: Tiền bạc và đồ vật không do sức mình làm ra một cách hợp pháp, lương thiện mà chỉ tạo ra bằng cách tà vạy không chánh đáng. Của làm ra như thế chẳng những không được giàu lâu mà còn vướng phải nhiều tai nạn:“Của hoạnh tài bất phú hoạnh tai.”(Kim Cổ Kỳ Quan). Cho nên,của hoạnh tài cũng gọi là của phi nghĩa:Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.(Khuyến Thiện, Q.5).
    KHỐN KHỔ: Khốn cùng khổ sở. Chỉ cho người khi gặp lúc nghèo túng khó khăn.
    TRỐI KỆ: Trối là không bảo bọc; Kệ là mặc tình. Nghĩa chung là không bảo bọc giúp đỡ được, để mặc tình ai chịu lấy các điều cay đắng.

    CHÁNH VĂN
    65. Mắt thấy rõ những điều tồi-tệ,
    Tai thường nghe lắm giọng ru người.
    Thêm thời nầy thế kỷ hai mươi,

    68. Cố xô sệp thần (thánh) quyền cho hết.
    Người nhẹ dạ nghe qua mê-mết,
    Rằng: nên dùng sức mạnh cạnh-tranh.
    Được lợi-quyền lại được vang danh,

    72. Bài-xích kẻ tu hành tác phước.
    Làn sóng ấy nhiều người đón rước,

    Dục dân tâm sôi-nổi tràn-trề.
    Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-chê,
    76. Cho tôn-giáo là mùi thuốc phiện.
    Ai nếm vào ắt là phải nghiện,

    Chẳng còn lo trang võ đấu chinh.
    Lấy sắc-thân dẹp nỗi bất-bình,
    80. Bỏ đức-tính của câu nhơn-quả.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 65 đến câu 80)
    -Những hành động điêu xảo của kẻ chuyên dùng bạo lực, những cuộc lợi dụng Tôn giáo để làm lợi khí nuôi thân của tà đạo; toàn là những việc làm xấu xa nhơ nhuốc mà hiện giờ ai ai cũng đều nghe thấy. Lại thêm giữa thế kỷ 20, phái vô thần cố tình chèn ép, đè bẹp lòng tín ngưỡng Phật Trời của các Tôn giáo.
    -Họ chủ trương “Ưu thắng liệt bại”(Mạnh được yếu thua), để lừa phỉnh số người nhẹ dạ mê theo và phủ nhận tất cả những gì thuộc về tinh thần cao đẹp. Chỉ biết dùng sức mạnh đấu tranh quyền lợi là trên hết, nên họ tìm đủ cách bài bác những ai lo tu hành tác phước.
    -Trước làn sóng vật chất ấy đã có nhiều kẻ đón tiếp và kích động quần chúng hưởng ứng theo. Tạo nên phong trào khinh rẻ, bác bỏ những phong tục của Ông Cha từ trước.

    -Họ còn kịch liệt đả kích các Tôn giáo, cho rằng Tôn giáo hay làm mê nhiễm lòng người như mùi thuốc phiện. Ai theo Tôn giáo là sống cuộc đời tiêu cực, mất hết nghị lực đấu tranh, bởi họ quan niệm vật chất hiện tại là trên hết, chỉ có uy lực của xác thân mới đánh tan được những nỗi bất bình trong xã hội, nên chẳng hề tin có luân hồi quả báo. Họ không ngờ với chủ trương ấy càng tiến mạnh chừng nào, càng gây thêm nạn chiến tranh đau khổ cho nhơn loại chừng ấy.

    CHÚ THÍCH
    TỒI TỆ: Hư nát, nhơ xấu. Đức Thầy có câu:
    “Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
    Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”

    (GMTK, Q.4)
    GIỌNG RU NGƯỜI: Dùng tiếng xướng ca, hò hát hoặc lời ngọt ngào óng chuốt làm cho người mê mết tin theo.

    THẾ KỶ HAI MƯƠI: Tính theo Dương lịch thì một thế kỷ là 100 năm. Hiện nay (1900-1975) tức là trong vòng Thế kỷ thứ 20.
    CỐ XÔ SỆP: Gắng sức xô đẩy, đè ép cho xẹp xuống.
    THẦN QUYỀN: Những oai lực công nhiên tuyệt đối của Thần Thánh, hay là quyền thống trị sai sử và sắp đặt mọi sự việc ở thế gian của các đấng thiêng liêng. Thần quyền ở đây chỉ cho sự tin tưởng Phật Trời, Thần Thánh của các Tôn Giáo.
    NHẸ DẠ: Lòng dễ tin theo người khác, thuyết khác.
    MÊ MẾT: Quá mê, say chết, không còn hay biết đến việc gì khác nữa.Ví dụ: Xem, nghe mê mết; ngủ mê mết.
    LỢI QUYỀN: Xem chú thích câu 784 Q.4, tr. 170 Tập 3/3 nầy.
    BÀI XÍCH: Bài bác, chỉ trích thậm tệ, chê bai kịch liệt.
    TÁC PHƯỚC: Làm phước, tức làm những việc có ích lợi cho nhân loại chúng sanh. Đức Thầy có câu:Thiện duyên tác phước ý như hà.”(Viếng Làng Phú An).
    LÀN SÓNG: Lớp sóng ở mặt nước, hết lượn nầy đến lượn khác, từng đợt, từng đợt. Đây chỉ cho phong trào duy vật tiến lên ồ ạt như làn sóng trên mặt nước.
    SÔI NỔI: Náo động, hào hứng, được để ý nhiều. Ví dụ: dư luận sôi nổi, khiến thiên hạ sôi nổi. Sôi nổi cũng có nghĩa trong bụng đầy hơi chuyển động ra thành tiếng hứng thú hoặc giận dữ.
    CỔ TỤC: Tục lệ lễ nghi xưa do ông cha để lại.
    PHỈ BÁNG: Chê bai, nói xấu; dùng lời lẽ làm mất danh giá người khác, bằng cách vạch chuyện xấu xa của người ấy ra, dù là có thật hay không.

    TÔN GIÁO: Tiếng dùng để gọi chung các nền Đạo, có tín ngưỡng và đường hướng dẫn dắt nhân sanh hành thiện tránh ác.
    Thời xưa, người ta lấy sự thờ kính một vị thần (Độc Thần Giáo) hay nhiều vị (Đa Thần Giáo) làm chủ đích để tín ngưỡng. Thuở loài người chưa tiến bộ họ lấy cục đá, khúc cây…làm vật thờ cúng, sau mới thờ các vị Thần. Tôn Giáo thời đó cho rằng các vị Thần cũng có linh thể tâm tánh như con người, nhứt là ở Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã…Bấy giờ người ta chỉ chú trọng về phần tín ngưỡng thôi.
    Lần lượt nhân loại tiến bộ, các vị Thánh Triết ra đời mở rộng con đường đạo lý. Vào đầu Tây lịch kỷ nguyên Chúa Gia Tô xuất hiện, lập nên Tôn giáo Cơ Đốc truyền bá ở Âu Châu.
    Riêng về Á Châu, có Phật Giáo là nền Đạo thuần nhứt, do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập, đem Giáo lý từ bi, bình đẳng giáo hóa chúng sanh, đến nay có trên 2.500 năm mà nhơn loại khắp cả thế giới càng lúc càng phụng hành đông đảo.
    Xét cho kỹ, Phật Giáo không thể gọi là Tôn giáo như theo nghĩa chỉ các Đạo nói trên. Vì Phật Giáo có giáo lý thực tế áp dụng vào đời sống thiết thực cho nhân sanh. Nói rõ hơn, Giáo lý Phật Giáo gồm đủ “Tâm Vật Lý”, và lúc nào Phật Giáo cũng đi trước khoa học. (Trước đây 25 Thế kỷ, Phật đã biết trong nước có vi trùng và ngoài địa cầu ta ở còn có vô số địa cầu và hành tinh khác. Còn khoa học mới phát minh và thấy được vào thời gian sau đó rất lâu).
    THUỐC PHIỆN: Cũng gọi là a phiến, do một thứ nhựa lấy ở mủ cây thẩu nấu thành, đốt lên có mùi thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất thường làm cho người say nghiện. Ai hút nó lâu ngày thành ghiền, tiều tụy con người từ tinh thần lẫn thể xác. Thế nên cả Tam giáo (Phật Thánh Tiên) đều cho thuốc phiện là một trong “Tứ đổ tường”(Bốn vách tường đổ: tửu, sắc, tài, phiến). Đức Thầy nói:
    Nào hút thuốc phiện, hội ve chai,
    Nào trùm đĩ, ma cô nghề hút máu”.

    (Trao Lời Cùng Ông Táo)
    NGHIỆN: Ghiền, chỉ cho sự ô nhiễm say mê, khó bỏ được. Ví dụ: nghiện rượu, nghiện á phiện.
    TRANG VÕ ĐẤU CHINH: Trang là sắp đặt chuẩn bị; là sức mạnh hay chỉ cho khí giới, như nói nghề võ hoặc võ khí. Võ còn đối với Văn. Vậy trang võ là chỉ cho sự sửa soạn, trang bị cho việc võ, việc quân sự.
    Đấu là tranh hơn thua, xâu xé giành giựt. Chinh là đánh dẹp, thâu lấy (chinh phục). Nói chung là tranh giành đoạt lấy sự hơn thua với nhau, giữa hai hoặc nhiều quốc gia dân tộc hay phe nhóm..v.v…
    SẮC THÂN: Phần xác thể của con người, đối với tinh thần.
    BẤT BÌNH: Không bằng lòng, không ngang hàng giai cấp, giá trị như nhau.
    ĐỨC TÍNH: Đức tin, tính chất tốt của con người đã tin tưởng vào một sự việc gì cao cả. Ví dụ: tin Phật pháp hoặc tin nhân quả…Sách Phật Học Thuật Ngữ có viết: “Sở dĩ có công đức là do chỗ tín tâm, lại nữa công đức ấy cũng do tin Phật pháp mà được vậy”(Tín tâm chi công đức dã, hựu tín Phật pháp chi đức giả dã). Đức Thầy từng khuyên:
    Dầu cho ai phá rối đức tin,

    Ta cũng cứ một đàng đi tới.(GMTK, Q.4)
    NHƠN QUẢ: Cũng gọi là Nhân quả. Nhân là nguyên nhân, là hột giống. Quả là sự kết quả, hay trái bông. Đây là luật quả báo (Xem thêm chú thích chữ “quả báo” tại tr.271 Tập 1/3).

    CHÁNH VĂN
    81. Dầu ai có bền gan sắt-đá,
    Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng.

    Đạo diệu-mầu gặp lúc truân-chuyên,
    84. Phận môn đệ phải lo vun quén.
    Tằm sức nhỏ còn làm nên kén,
    Người không lo có thẹn hay chăng ?

    Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
    88. Với tín-nữ thiện-nam Phật-Giáo.

    Nên cố-gắng trau thân gìn Đạo,
    Hiệp cùng nhau truyền-bá kinh lành.
    Làm cho đời hiểu rõ thinh-danh,
    Công-đức Phật từ-bi vô lượng.

    Đồng dẹp bớt âm-thinh sắc-tướng,
    94. Lo chấn-hưng Phật-Pháp mới là.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 81 đến câu 94)
    -Trước hoàn cảnh xáo trộn do thuyết duy vật tạo nên, khiến nhiều kẻ nhẹ dạ ồ ạt chạy theo một cách mù quáng. Đến như số người đã từng hấp thụ thuần phong mỹ tục và có kiên nhẫn cũng muốn nao núng ngã lòng. Do đó, con thuyền hướng thượng của các Tôn giáo cũng như Đạo Phật đương nhiên phải gặp nhiều khó khăn trở ngại. Cho nên Đức Giáo Chủ khuyến tấn mỗi môn đồ cần có bổn phận tô bồi, xây đắp nền Đạo, nhứt là về tinh thần giác ngộ được vững chắc, để ngọn đèn chơn lý Phật Giáo càng lúc càng thêm rạng rỡ.
    -Xét lại, loại tằm là một giống sâu nhỏ bé, kém trí giác mà chúng còn biết nhả hết cuộn tơ lòng để đền ơn cho chủ. Còn chúng ta là nhân loại, đã tự hào là có linh tri hơn muôn vật, lại được hồng ân Tam Bảo khai hóa, nếu ta chẳng lo tròn bổn phận thì so với loài tằm kia, há chẳng thẹn lắm ư ?
    -Thế nên Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp tín đồ Phật Giáo (không phân biệt Tôn phái), từ hàng Tăng sư đến các thiện nam tín nữ, hãy gắng sức vừa lo tu thân sửa tánh, nghiêm trì giới hạnh; vừa hiệp tác trong cuộc phổ truyền chánh pháp, như Ngài từng dạy:“Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.”(Tứ Ân: Ân Tam Bảo, tr. 183 SGTVTB 2004).
    -Bởi có quảng truyền chánh pháp thì bá tánh mới hiểu được đức độ từ bi, bình đẳng và lòng vị tha cứu khổ chúng sanh vô bờ bến của Phật. Nếu cả nhân loại đều hấp thụ được tinh thần giáo lý ấy thì khỏi cần phải đấu chinh cũng san bằng được nỗi bất bình, và đem lại sự an vui cho khắp thế giới.(Trước đây 25 thế kỷ, Phật đã dùng thuyết từ bi, bình đẳng phá tan 4 giai cấp chênh lệch ở Ấn Độ thời ấy).
    -Song muốn cho việc chấn hưng Phật Pháp được kết quả như ý, thì ngay bây giờ các Tăng Ni Phật tử nên dẹp bớt âm thinh sắc tướng, vì những sự việc ấy không phải là hướng đi đến chơn lý (đạt Đạo) “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành.”(trích Tỉnh Thế Ngộ Chơn).

    CHÚ THÍCH
    DIỆU MẦU: Cao sâu mầu nhiệm, khó mà nghĩ lường hay diễn tả cho hết ý.
    TRUÂN CHUYÊN: Khó khăn gian khổ, không thuận lợi.
    MÔN ĐỆ: Gồm chữ Môn đồĐệ tử. Ý chỉ chung những người cùng qui y một Thầy hay cùng tu học một cửa Đạo.
    VUN QUÉN: Xây đắp và chăm nom bảo vệ cho vững chắc.
    TẰM: Một loại sâu, người ta nuôi được và cho chúng ăn bằng lá dâu. Khi chúng lớn, tằm nhả tơ kết thành kén, chủ đem ươm lấy tơ, dệt thành hàng lãnh. Ví dụ: Nghề tằm tơ.
    CHƯ TĂNG: Do chữ Tăng Già (Samgha), tức là những đệ tử của Đạo Phật, tu hạnh xuất gia, giới hạnh tịnh nghiêm và thường đem Giáo lý của Phật giảng dạy cho Đại chúng nghe. Song, chư tăng có nhiều hạng. Trong Trí Độ Luận, Ngài Long Thọ Bồ Tát đã phân chia như sau:
    1)-Á Dương Tăng: Cũng gọi là Ác dương tăng, là hạng người cũng mang hình thức xuất gia, nhưng còn tối tăm chẳng phân rõ điều thiện ác nên dễ phạm tội, khi phạm tội, lại chẳng biết hối trừ.
    2)-Vô tu Tăng: hạng Tăng tuy biết đã phạm lỗi mà trong tâm ý không biết hổ thẹn để hối trừ.
    3)-Hữu tu Tăng: hạng Tăng đã biết việc lầm lỗi và sốt sắng để thanh trừng, không vi phạm nữa.
    4)-Chân thật Tăng: hạng Tăng đã giác ngộ hoàn toàn và liễu thông đạo lý một cách minh bạch, gần bực Thánh Đức vậy.
    TÍN NỮ THIỆN NAM: Xem chú thích tại tr. 61 Tập 1/3.
    CÔNG ĐỨC: Công là dùng trí năng diệt hết vọng tâm phiền não. Đức là lòng luôn được thanh tịnh, từ bi và bình đẳng; hoặc là người hành đạo đến khi được trọn lành trọn sáng cũng gọi là công đức.
    Trong Thắng Mang Kinh có giải:“Ác tận ngôn công, thiện mãn viết đức.”(Tu hành diệt trừ không còn điều ác gọi là “Công”, và tu hành đến chỗ toàn thiện kêu là “Đức”).
    Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Đức Lục Tổ cũng giảng: Một niệm không rời chánh Đạo là Công, lòng luôn bình đẳng ngay chánh là Đức. Không lìa tự tánh chơn như diệu minh của mình là Công, đối xúc tất cả mọi việc, mọi cảnh mà không nhiễm ô dính mắc là Đức.”(Niệm niệm vô gián thị Công, tâm hành bình trực thị Đức. Bất ly tự tánh thị Công, ứng dụng vô nhiễm thị Đức).
    Bởi tùy theo công năng tâm hạnh của mỗi cấp bực hành đạo mà sự biện giải “Công, Đức” có cao thấp. Chớ thật ra thì công đức từ bi của Phật có vô lượng vô biên, không thể đo lường, tính giải cho hết được (Bất khả tư nghị).

    VÔ LƯỢNG: Không thể đo lường. Ý nói những số nhiều quá, lớn quá, không thể nào đo lường nghĩ đếm được. Đây chỉ cho công đức từ bi hỉ xả của Phật thật là vô lượng, vô biên.
    Theo Phật học, vô lượng là một trong 10 con số lớn nhứt không đếm được: 1= vô số, 2= vô lượng, 3= vô biên, 4= vô đẳng, 5= Bất khả sổ, 6= Bất khả xưng, 7= Bất khả tư nghị, 8= Bất khả lượng, 9= Bất khả thuyết, 10= Bất khả thuyết bất khả thuyết (Hoa Nghiêm Kinh).
    ÂM, THINH, SẮC, TƯỚNG: Xem lại chú thích chữ “Thinh âm” tại tr. 198 Tập 3/3 nầy và “Sắc màu cũng không” tại tr. 202 Tập 2/3.
    CHẤN HƯNG: Mở mang cho thịnh vượng. Ý nói làm cho nền Phật pháp được hưng thạnh và lan rộng khắp nơi để mọi giới chúng sanh đều được nương nhờ tu học. Đức Thầy hằng khuyên trong bài “Thu Đã Cuối”:
    Chấn hưng Phật giáo học đường,
    Dưới trên hòa thuận chọn đường qui nguyên”.

    PHẬT PHÁP: Xem chú thích tại tr. 54 tập 1/3.

    CHÁNH VĂN
    95. Nói cho đời hiểu Phật Thích-Ca,
    Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
    Ta cũng chẳng hoàn-toàn thông-thạo,

    Nhưng phân cùng bổn-đạo xa gần.
    Có một điều già trẻ ân-cần,
    100. Là phải biết nguyên-nhân Phật-Giáo.
    Hồi thế-kỷ khoảng trong thứ sáu,

    Trước kỷ-nguyên tây-lịch thời xưa.
    Pháp Giáo chưa biệt-lập tam thừa,

    Thuở Trung-Quốc nhà Châu Chiêu-Đế.
    Bên Ấn-Độ thành Ca-Tỳ-La-Vệ,
    Có đức vua Tịnh-Phạn nhơn từ.
    Khắp thần dân lạc nghiệp an-cư,

    108. Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 95 đến câu 108)
    -Đến đây Đức Giáo Chủ nhắc lại cho mọi người hiểu rõ về lược sử Đức Thích Ca. Xưa, lúc xuân thời Ngài đã giác ngộ kiếp sống con người đầy sự bi thương thống khổ:Công danh phú quí chung hườn mộng.(Không Không). Chúng sanh chỉ lo phân biệt xâu xé lẫn nhau, rốt cuộc tất cả đều đi theo con đường sanh, già, bệnh, chết. Cho nên Ngài cương quyết từ bỏ ngôi cao, duyên thắm…để tìm ra chánh Đạo hầu giải khổ cho vạn loại chúng sanh. Ngày nay Đức Thầy cũng khiêm tốn cho rằng tuy chưa hoàn toàn thông suốt, nhưng vì lòng vị tha nên Ngài có bổn phận thuyết minh cho khắp tín đồ được rõ về lịch sử của Đức Phật Thích Ca.
    -Điều thứ nhất là mỗi Phật tử cần hiểu rành về nguồn gốc Đức Phật đã phát xuất từ đâu. Có thế, ta mới vững niềm tin nơi gương hạnh và lời giáo huấn của Ngài. Phật đản sanh trước Tây lịch kỷ nguyên khoảng 6 thế kỷ, tức là trước Chúa Jésus giáng sanh 563 năm ( Có nhiều thuyết chép trước 658, 626, 624, 566, 561 năm, v.v.) . Nhưng đến kỳ Đại Hội Phật giáo Thế giới lần thứ 11 ( tháng 11 năm 1952 tại Tokyo) thì Đại hội đã xác định và thừa nhận năm Phật Đản là 624 trước Tây lịch và năm Phật nhập diệt là 544 trước Tây lịch. Bấy giờ nước Trung Hoa thuộc về nhà Châu vua Chiêu Đế. Còn tại xứ Trung Ấn Độ có Tịnh Phạn Vương đang ngự trị tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Vốn là nhà vua rất minh chánh, đầy lòng nhân ái đối với toàn dân, nên dưới triều được lắm tôi trung giúp đỡ, dân chúng đều vui sống trong cảnh lạc nghiệp an cư. Cũng nhờ đó mà nước của Tịnh Phạn Vương thời ấy rất phong phú cường thịnh.

    CHÚ THÍCH
    TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ, tự mình xét biết những điều hay dở tội phước của mình. Tự giác là một trong ba điều tỉnh giác: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn. Đức Thầy nói:
    Tực giác, giác tha ta phải nói,
    Hỡi người dương thế bớt xa hoa.
    (Thi Xuân)

    XẢ THÂN TẦM ĐẠO: Không nghĩ tiếc gì về bản thân để tìm ra Đạo lý, hoặc là dốc hết tâm chí về việc tầm cầu Đạo pháp, cũng như câu “Xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo”. Đức Giáo Chủ hằng khuyên:Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần xả thân tu tỉnh.(Bát Chánh: Chánh Tư Duy, tr. 196 SGTVTB 2004). Và:
    Xả thân tầm Đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.

    (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
    HOÀN TOÀN THÔNG THẠO: Hiểu biết rõ ràng mọi lẽ mọi vật không hề thiếu sót.
    ÂN CẦN: Xem lại chú thích tại tr. 230 Tập 2/3.
    NGUYÊN NHÂN: Nguồn gốc đầu tiên hay là cái duyên cớ sanh ra một kết quả gì. Đây nói cái căn nguyên xuất phát Đạo Phật.
    KỶ NGUYÊN TÂY LỊCH: Kỷ là ghi; nguyên là đầu, tức là cái tiêu chuẩn để tính năm. Nước Tàu và nước ta lấy năm mỗi nhà vua lên ngôi làm kỷ nguyên.
    Các nước Tây phương thì lấy năm Chúa Jésus giáng sanh làm kỷ nguyên, nên gọi là Tây lịch hay Dương lịch.
    TAM THỪA: Cũng gọi là Tam Thặng (Phạn ngữ: Trijana) có nghĩa là 3 cổ xe, tức là ba khoa giáo lý để độ ba hạng người tu Phật.
    Sở dĩ Đức Phật phân làm Tam thừa là vì sau khi Phật thành Đạo, Ngài thuyết Kinh Hoa Nghiêm trọn 21 ngày mà các hàng Thinh Văn không lãnh hội được. Phật mới quán xét căn cơ của các giới chúng sanh chẳng đồng nhau, nên dùng phương tiện thuyết ra Tam thừa, gồm có:
    1/-Đại Thừa (Đại Thặng): Cũng gọi là Bồ Tát thừa để độ bậc đại căn đại trí đến quả Diệu Giác và hóa độ chúng sanh vô số mà không biết mỏi. Ví như xe trâu (ngưu xa) có sức mạnh chuyên chở được nhiều người
    2/-Trung Thừa (Trung Thặng): Cũng gọi là Duyên Giác thừa để độ bực trung căn trung trí đến quả đẳng giác, nhưng phần giác tha không được rộng lớn. Ví như xe nai (lộc xa), có thể chở được một số ít người.
    3/-Hạ Thừa (hạ Thặng): Cũng gọi là Thinh Văn Thừa để độ bực hạ căn hạ trí đến quả Thánh Đạo, chỉ tự độ chớ chưa được phần độ tha. Ví như xe dê (dương xa) có sức chở được một người.
    Theo thời nay ta có thể ví ba xe ấy, như: Xe lửa, xe hơi và xe đạp. Trong ba thừa kể trên, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng thừa nào cũng đưa hành giả ra khỏi Tam giới (giải thoát sanh tử). Các hành giả cũng lần lượt tiến lên Tối thượng nhứt thừa (Phật thừa) như nhau.
    TRUNG QUỐC: Cũng được gọi là Trung Hoa hay nước Tàu, thủ đô là Bắc Kinh. Trung Quốc có biên giới trên đất liền dài 22.800 km, tiếp giáp cả thảy 15 nước lân cận: phía đông là Bắc Hàn ( North Korea ), phía bắc là Cộng Hòa Mông Cổ; đông-bắc là Nga; tây-bắc là Kazakhstan, Kirghizstan và Tajikistan; tây và tây-nam là A-phú-hãn (Afghanistan), Hồi Quốc (Pakistan), Ấn Độ, Nepal, Sikkim và Bhutan; phía nam là Việt Nam, Lào, Miến Điện. Bờ biển Trung quốc dài hơn 14.500 km; cách bởi biển về phía đông và đông-nam Trung Quốc là Nam Hàn (South Korea), Nhựt Bổn, Phi Luật Tân, Brunei, Nam Dương và Mã Lai. Diện tích: 9,6 triệu km vuông, lớn hàng thứ ba sau Nga và Canada, tương đương Hoa Kỳ; dân số: 1.242.612.226 (theo thống kê năm 2000, đông dân nhất thế giới). ( Hiệu đính theo BKTĐ Wikipedia).

    NHÀ CHÂU CHIÊU ĐẾ: Tức vua Chiêu Vương, tên là Hà, con vua Khương Vương đời nhà Châu nước Trung Quốc. Theo sách “Châu Thơ Ký” thì Chiêu Vương làm vua nhà Châu đến năm thứ 24 là năm Đức Thích Ca đản sanh tại Ấn Độ. Bấy giờ nước Việt Nam nhằm đời Hùng Vương (Thượng Cổ thời đại).
    ẤN ĐỘ: Quốc gia bán đảo, thủ đô là Tân Đề-li (New Delhi). Ấn-độ được bao quanh bởi 6.103 km bờ biển: Biển Á-rập (Arabian Sea) về phía tây-nam, vịnh Bengal về phía đông-nam và Ấn Độ Dương về phía nam. Ấn độ có 15.200 km đường biên giới trên đất liền. Về phía tây Ấn Độ giáp Hồi quốc; phía bắc và đông bắc giáp các nước: Nepal, Bhutan, Bangladesh, Miến Điện và phần lớn biên giới phía bắc còn lại xác định bởi dãy núi Hi-mã Lạp-sơn ngăn cách với Trung Quốc. Diện tích: 3.287.263 km vuông (lớn thứ 7 trên thế giới); dân số: 1.028.610.328 (thống kê năm 2001, đông dân thứ 2 sau Trung quốc). ( Hiệu đính theo BKTĐ Wikipedia).

    Theo Phật học, thời xưa nước Ấn Độ còn được gọi là Thiên Trúc, Tây Thiên, Tây Vức. Đó là nơi sinh trưởng của Đức Phật Tổ Thích Ca và là nơi phát xuất Đạo Phật. Thuở ấy, Ấn Độ bao gồm nhiều nước nhỏ, trong đó, có nước Ma-Kiệt-Đà ở Bắc Ấn là lớn hơn hết, có dòng sông thiêng, Hằng Hà (Ganges), chảy ngang qua, là trung tâm toàn cõi Ấn Độ. Vùng nầy nay là nước Nepal.
    THÀNH CA TỲ LA VỆ: Cũng gọi là Điệu Đức Thành (Phạn ngữ: Kapilavastou), phiên âm có nhiều tên: Ca-Tỳ-La, Ca-Tỳ-La Tô-Đô, Tuy-Vệ-La, Ca-Duy-La. Có nghĩa: Kinh Đô màu vàng. Phật đản sanh tại thành nầy. Thành Ca-Tỳ-La nay không còn nhưng nhiều nhà khảo cổ có đến tìm ra các dấu vết của thành ấy tại nước Népal ngày nay.
    VUA TỊNH PHẠN: Phạn ngữ: Souddhodana, phiên âm: Thủ-đồ Đà-na hay Du-đầu-đàn, dịch là Tịnh Phạn Vương. Có nghĩa: Nhà Vua hay làm việc bố thí một cách trong sạch. Ngài thuộc dòng họ Thích Ca, cha của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta (Siddharta), thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ (Kshatriya).
    LẠC NGHIỆP AN CƯ: Đời sống rất yên ổn và vui vẻ với công ăn việc làm.

    PHÒ TÁ: Giúp đỡ.

    CHÁNH VĂN
    109. Đức Hoàng-Hậu Ma-Da phong-nhã,

    Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười.
    Một hôm kia vẻ mặt vui tươi,
    112. Đến trước bệ tâu cùng thánh thượng.
    Rằng : Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng,

    Của hoàng-gia cũng được vinh-quang.
    Kể từ nay thiếp muốn an nhàn,

    116. Dưỡng tâm-trí lần xa thế trược.
    Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước,
    Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu.
    Xin một điều ở chốn long lâu,

    120. Tập đức tánh khoan-dung đại độ.
    Tránh tất cả những điều thô-lỗ,

    Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang-tàng.
    Thiếp cúi đầu ngưỡng vọng Thiên-nhan,

    124. Phê cho thiếp những điều xin ấy.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 109 đến câu 124)
    -Hoàng hậu Ma Da là vợ chính của Vua Tịnh Phạn, người có đức hạnh hiền hòa, thông minh tột chúng, phong nghi cốt cách đoan trang thùy mị; miệng tươi như hoa, lời thanh tợ ngọc, thật đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ. Bà gồm đủ sắc tài và đức độ, ai được kiến diện cũng đều khởi tâm vui thích.
    -Sáng hôm nọ, bà tắm gội và trang phục sạch sẽ, rồi thân hành đến trước sân chầu của Vua Tịnh Phạn quì tâu: Từ thần thiếp được lịnh Vua ban ân huệ, cùng hưởng mọi sự vinh hạnh, thật chẳng thiếu điều chi. Nhưng từ nay xin Vua cho phép thần thiếp, sống cảnh nhàn thanh để lo tịnh dưỡng thân tâm, xa lần sự thường tình thế trược.
    -Thiếp chẳng muốn làm bận các vệ hầu tỳ nữ như trước, chỉ cần một vài kẻ ý hiệp tâm đầu là đủ. Với mục đích được ở nơi thâm cung thanh tịnh là để lo tu tập các đức tánh cao đẹp chớ không chi khác. Đây cũng là phương tiện cho thần thiếp bớt nghe thấy những tiếng tục tằn thô lỗ, những cách ở ăn vô lễ, tàn bạo ngược ngang. Vậy ngưỡng mong lịnh Vua hoan hỉ, chuẩn phê cho thần thiếp những điều cầu xin ấy.

    CHÚ THÍCH

    HOÀNG HẬU: Người vợ chánh của vua.
    MA DA: Do Phạn ngữ (Mâyâ), phiên âm là Ma Da hay Ma-ha Ma-da: Có nghĩa đại, đa thắng hay là đại thuật, đại huyễn. Bà Ma-ha Ma-da là vợ chánh của Vua Tịnh Phạn (Ma-Da Phu Nhơn), mẹ của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Người đời thường tôn xưng bà là Thánh Mẫu hay Phật Mẫu (bậc sanh ra vị Đại Thánh).
    Sau khi sanh Thái tử bảy ngày thì Ma Da phu nhơn thác sanh lên cõi trời Đao Lỵ làm vị Tiên. Đến khi Đức Thích Ca thành Phật, Ngài có lên Đao Lỵ Thiên, giảng đạo cho Thánh Mẫu và chư Thánh Tiên nghe trọn ba tháng. Chính nơi đây Phật giảng Kinh Địa Tạng.
    PHONG NHÃ: Phong lưu tao nhã. Ý chỉ người có đức hạnh văn chương và cốt cách sang trọng. Truyện Kiều có câu:Phong tư tài mạo tuyệt vời, Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”.
    NGỌC THỐT HOA CƯỜI: Ý nói người rất xinh đẹp, miệng cười tươi tắn như hoa nở, và nói ra lời trong trẻo như tiếng ngọc khua.
    TRƯỚC BỆ: Trước bực thềm, do chữ bệ rồng. Trước bực chỗ Vua ngự.

    THÁNH THƯỢNG: Lời tôn xưng ông Vua, như là bực Thánh cao cả.
    THẦN THIẾP: Tiếng khiêm tốn của người vợ đối với Vua.
    HOÀNG GIA: Nhà Vua.
    VINH QUANG: Vẻ vang rực rỡ.
    AN NHÀN: Cũng viết là nhàn an. Có nghĩa bình yên thong thả. Đức Thầy có câu:
    Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
    Với bốn ma mới đặng an nhàn.
    (GMTK, Q.4).
    THẾ TRƯỢC: Cõi đời đầy sự xấu xa nhơ uế.
    CHẲNG PHIỀN: Không muốn làm nhọc công bận rộn ai. Ví dụ: Tôi chẳng muốn làm phiền anh.
    Ý HIỆP TÂM ĐẦU: Xem chú thích chữ: Tâm đầu ý hiệp, tr. 60 Tập 2/3.

    LONG LÂU:Lầu rồng, tức cung điện của nhà Vua.
    KHOAN DUNG ĐẠI ĐỘ: Người có đức độ rộng lớn, thường hay tha thứ những kẻ lầm lỗi. Đức Thầy từng dạy:Hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người(Lời Khuyên Bổn Đạo, tr.450 SGTVB 2004).
    THÔ LỖ: Thô tục lỗ mãng. Ví dụ: nói năng thô lỗ, cử chỉ thô lỗ. Đức Thầy hằng khuyên:“…Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm dịu thanh bai hơn…”(Luận Về Tam Nghiệp/Ác khẩu).
    NGANG TÀNG: Ngang ngược ngông nghênh, không biết lễ nghĩa liêm sỉ. Ví dụ: ăn nói ngang tàng bạo ngược.
    NGƯỠNG VỌNG: Trông lên mà cầu mong cho được một sự việc gì. Đức Thầy có câu:
    Đầu ngưỡng vọng Đất Trời minh chứng,
    Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời”.
    (Thu Đã Cuối)
    THIÊN NHAN: Theo nghĩa chữ một là mặt trời có sức sáng chói cả thế gian, được ấm áp đượm nhuần vạn vật, không sót chỗ nào, nên khi nói đến Thiên Nhan là để tôn xưng vị Vua có đức hạnh ban ân huệ cho vạn dân được no ấm, như mặt trời chiếu soi vậy. Sách Xuân Thu có câu “Thiên oai bất vi nhan chỉ xích.”(oai đức của Trời dù gang tấc cũng không sai chạy). Nghĩa bóng là chỉ cho nhà Vua (mặt Vua).
    PHÊ: Bằng lòng, ký nhận vào văn kiện của người khác được phép thi hành theo lời cầu xin.

    CHÁNH VĂN
    125. Vua nghe xong vội-vàng đứng dậy,
    Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng.
    Bà tâu thêm ở trước đền rồng,
    128. Xin Thánh-thượng bao-dung kẻ khó.

    Lòng yêu dân ví như con đỏ,
    Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền.
    Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên,
    132. Lấy đức rộng bủa trong bá-tánh.

    Vua hứa chịu giúp người đói lạnh,
    Bà lui về cung điện nghỉ-ngơi.

    Đêm trăng thanh gió mát thảnh-thơi,
    136. Tiết hòa-thuận khắp nơi hoa nở.

    Đức Hoàng-hậu trong lòng hớn-hở,
    Giấc chiêm-bao Bà thấy lạ-lùng.

    Bạch-tượng từ ở chốn không trung,
    140. Bỗng sa xuống mình Bà hối-hả.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 125 đến câu 140)
    -Khi Hoàng Hậu Ma Da tâu xong, Vua Tịnh Phạn liền đứng lên với vẻ mặt hân hoan ngỏ lời chấp nhận. Bà vội tâu thêm: Xin lịnh Hoàng Thượng từ nay nên mở lòng nhân ái rộng lớn, thương giúp, đùm bọc số người lâm cảnh nghèo đói cô quả.
    -Với tấm lòng yêu mến, chở che cho toàn dân như tình thương của cha mẹ lo cho đứa con mới sanh. Còn đối với các tội nhân cần cứu xét phân minh, xem kẻ nào tội nặng giảm bớt, bằng nhẹ nên tha bổng. Đồng thời ra lịnh xuất kho, trợ cấp cơm áo cho dân nghèo, phát thuốc cho những người có bịnh. Lúc lê dân gặp tai nạn khó khăn, lịnh Vua nên dùng mọi phương tiện bảo vệ, cứu giúp và lấy đức độ vị tha, rộng bủa khắp nơi để người người được gội nhuần ân huệ.

    -Nghe xong, Vua Tịnh Phạn xét lời cầu xin của Hoàng Hậu, toàn là điều đạo đức cao cả và ích nước lợi dân, nên một lần nữa Vua tuyên hứa sẽ thực hiện y theo các khoản ấy. Tâu xong, Hoàng Hậu liền trở về cung an nghỉ.
    -Hôm nọ, chính Bà cũng đến ngọ môn để chẩn tế gạo tiền, thuốc vải cho dân nghèo, mãi say sưa công tác từ thiện, đến quá trưa Bà mới lui gót. Tối lại, Hoàng Hậu cùng kẻ tâm phúc dạo xem kiểng vật, nhằm lúc mùa tiết điều hòa, ngàn hoa khoe sắc, dưới cảnh trời trong gió mát, ánh trăng soi sáng cả vườn, nhìn hoa lá lấp lánh như muôn ngàn mảnh gương phản chiếu. Bấy giờ lòng Hoàng Hậu tràn ngập nỗi hân hoan, thơ thới, vài phút sau Bà trở lại phòng an giấc.
    -Đêm ấy Bà mộng thấy bốn Thần lực đến khiêng long sàng bà, đem thẳng lên chót núi Hy Mã Lạp Sơn, đặt xuống. Bỗng thấy từ giữa trời một con voi trắng có sáu ngà, miệng ngậm hoa huệ bay xuống đứng bên long sàng. Voi liền dùng ngà vạch hông bên hữu của Bà mà chui vào. Chính giờ phút ấy Hoàng Hậu Ma Da bắt đầu thụ Thánh thai. (Nhân quả Kinh có chép: Bấy giờ Bồ Tát Hộ Minh từ cung Trời Đâu Xuất, quán biết thời kỳ giáng sanh đã đến mà Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da là bậc nhân từ đức hạnh, có túc duyên làm cha mẹ Ngài trong nhiều tiền kiếp, nên Ngài thị hiện giáng trần bằng cách hóa hình bạch tượng 6 ngà là tiêu biểu cho pháp Lục độ vạn hạnh. Bốn chân của tượng là tiêu biểu cho bốn pháp như ý túc. Ngoài ra cũng có thể nhận: Sắc trắng và hoa huệ là tiêu biểu cho sự thanh tịnh, bất nhiễm của bậc Đại trí huệ, còn tượng là tượng trưng năng lực mạnh mẽ của Đại Sĩ Bồ Tát.)

    CHÚ THÍCH
    VỘI VÀNG: Mau lẹ.
    CHUẨN Y: Chấp nhận y theo lời cầu xin.
    ĐỀN RỒNG: Chỗ Vua ngự, chạm phết toàn hình rồng.
    BAO DUNG KẺ KHÓ: Tha thứ và trợ giúp, chở che cho những người nghèo đói.
    CON ĐỎ: Do chữ “xích tử”. Có nghĩa đứa con mới sanh còn đỏ, rất cần sự đùm bọc chở che của cha mẹ. Ý nói bậc Vua hiền, lòng hằng thương yêu bảo vệ dân chúng, như cha mẹ thương lo cho đứa con mới sanh (còn đỏ).
    GIẢM THA: Giảm là chiết bớt năm bảy phần; tha là tha bổng. Đây là nói luật khoan hồng của quốc gia đối với các tù nhân.
    ĐẢO ĐIÊN: Ngửa nghiêng lộn xộn. Ý chỉ gặp cảnh truân chuyên, nghèo đói, tai nạn.v.v…
    CUNG ĐIỆN: Đền đài dinh thự của nhà Vua ở.
    TIẾT: Theo âm lịch (Á đông) căn cứ vào thời gian và khí hậu mà phân ra mỗi năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông và tám tiết lớn: Lập Xuân, Xuân phân, lập Hạ, Hạ chí, lập Thu, Thu phân, lập Đông, Đông chí. Trong đó còn chia ra nhiều tiết nhỏ…
    Chữ “Tiết hòa thuận” là nói thời tiết xây đúng lúc, mưa nắng điều hòa, khiến hoa kiểng, cây trái đều tốt tươi sum mậu.
    HỚN HỞ: Vui mừng.

    CHIÊM BAO: Trong giấc ngủ thấy các cảnh lành dữ hiện ra. Rất nhiều nguyên nhân sanh ra, đại khái có ba phần:
    1/-Do nơi tạng thức (A Lại Da thức) chứa những nghiệp duyên và các tư tưởng xấu hoặc tốt ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), giờ đây nó diễn lại, như cuộn phim chiếu bóng, không thiếu sót.
    2/-Do ảnh hưởng xác thể và lục căn hiện tại, như: đau ốm, sợ hãi, vui mừng hoặc nghe tiếng động bên ngoài, hay nằm cấn gân máu chuyển vận không đều mà sanh ra.
    3/-Do nơi thần mộng: Khi người tu hành tâm đức gần đồng hòa và cảm ứng với chư Phật, Thánh hoặc lòng quá tha thiết mà được các thần linh báo mộng, cho thấy những điềm tốt lành, hay đặng truyền Đạo pháp.v.v…như trường hợp giấc chiêm bao của Hoàng Hậu Ma Da ở đây và bảy điềm mộng của ông A Nan (Xem Tòng Lâm cổ tích của Như Sanh); được truyền Đạo như Vương Hiếu Liêm đời Tống (Xem Thất Chơn Nhơn quả truyện) ;và ông Trần Văn Nhu, đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An (Xem Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu và Dật Sĩ). Nhưng các trường hợp nầy ít xảy ra.
    LẠ LÙNG: Rất kỳ lạ, không thường thấy biết.
    BẠCH TƯỢNG: Con voi trắng.
    KHÔNG TRUNG: Giữa khoảng không (ngay trên trời).
    BỖNG SA: Thình lình bay rơi xuống.
    HỐI HẢ: Gấp rút.

    CHÁNH VĂN
    141. Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
    Khắp phòng huê thơm nức mùi hương.
    Bà rảo chơn bèn bước ra vườn,
    144. Truyền thị-vệ thỉnh vua lai đáo.
    Vua y lời đến nơi hoa thảo,

    Lại gần Bà sao rất quái-kỳ.
    Tay chơn bèn run-rẩy một khi,
    148. Muốn quì xuống mắt dường tăm-tối.
    Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi,

    Rằng ta mừng vua hữu thiện căn.
    Sắp có con thế giới chẳng bằng,

    152. Sau người ấy lập nên Đạo cả.
    Vua nghe xong cúi đầu bái tạ,
    Liền phán cùng Hoàng-hậu Ma-Da.
    Có việc chi vội-vã dời ta,

    156. Khá nói lại đầu đuôi tường tất.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 141 đến câu 156)
    -Hoàng Hậu vừa tỉnh giấc, cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường và khắp phòng đều có mùi hương nồng nặc. Một thứ hương thơm mà từ trước tới giờ Bà chưa lần nào được ngửi. Bà lẹ làng bước đến vườn hoa, ra lịnh cho thị vệ thỉnh vua Tịnh Phạn tới ngay giờ ấy.
    -Vua được tin đi thẳng đến huê viên, nhưng có điều kỳ lạ, khi bước đến chỗ Hoàng Hậu, bỗng nhiên tâm nhà vua bắt hồi hộp, đôi mắt hoa lên và tay chơn đều rung chuyển; hình như bị ánh điện quang rọi đến, khiến Vua tự muốn quì xuống.
    -Liền theo đó, Vua ngửi được mùi hương thơm, tai nghe tiếng ca nhạc vang dội khắp nơi. Đó là lời nhạc của các Thần Tiên chúc mừng Vua và Hoàng Hậu sắp sanh đặng người con mà cả thế giới chưa một ai sánh kịp. Bởi vị Thánh Nhân ấy, sau nầy sẽ sáng lập nền Đại Đạo và mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho muôn loài.
    -Nghe lời chúc tụng xong, Vua Tịnh Phạn vui mừng chi xiết, liền cúi đầu lễ tạ. Đoạn rồi Ngài bước tới phán hỏi Hoàng Hậu, có điều chi hệ trọng, Phu nhơn hãy trình bày hết cho Trẫm nghe.

    CHÚ THÍCH
    GIẤC MƠ TIÊN: Cũng gọi là giấc tiên. Có nghĩa giấc ngủ của người đẹp, ý dùng để diễn tả cho đẹp câu văn. Cũng có nghĩa giấc mộng thấy cảnh quí báu. Đây là giấc mơ của Hoàng Hậu thấy điềm sắp được thọ thai, do một vị Bồ Tát giáng trần. Đức Thầy có câu:Mơ Tiên hồn muốn vụt bay...(Tự Thán, tr.405 SGTVTB 2004).
    PHÒNG HUÊ: Cũng gọi là phòng hoa. Ý chỉ phòng của người đàn bà ở, có trang diện bông hoa cho tăng thêm vẻ đẹp.
    THỊ VỆ: Người theo hầu và bảo vệ nhà Vua.
    LAI ĐÁO: Lại đến.
    HOA THẢO: Cỏ và bông. Nơi vườn hoa của Hoàng Hậu Ma Da, có trồng đủ kiểng vật, hoa thơm cỏ lạ.
    QUÁI KỲ: Lạ lùng khác thường.
    CA TRỔI: Tiếng ca hát và nhạc sáo vang lên.

    THIỆN CĂN: Xem chú thích tại tr. 48 Tập 1/3.
    THẾ GIỚI: Xem chú thích tại tr. 50 Tập 1/3.
    ĐẠO CẢ: Xem chú thích tại tr.73 Tập 2/3 và chữ đại đạo tại tr. 48 Tập 1/3.
    ĐẦU ĐUÔI TƯỜNG TẤT: Phân kể hết mọi việc trước sau rành rẽ:Bày tường tận trước sau chung thỉ
    (Trao Lời cùng Ông Táo)

    CHÁNH VĂN
    157. Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc,
    Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
    Các thầy bàn được lịnh vào cung,

    160. Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí.
    Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí,

    Bà trổ sanh Thái tử đẹp tươi.
    Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người,

    164. Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ.
    Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ,

    Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia.
    Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta,

    168. Cả triều chính treo hoa yến ẩm.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 157 đến câu 168)
    -Bấy giờ Hoàng Hậu tường thuật các hiện cảnh trong chiêm bao cho Vua Tịnh Phạn nghe, và yêu cầu Vua mời các Thầy chuyên đoán điềm mộng vào, để bàn xem hung kiết. Vâng lịnh Vua, các người ấy vào cung bàn đoán một hồi, họ tâu rằng: theo điềm mộng của lịnh Bà vừa thấy rất quí báu; tương lai cả Hoàng tộc và dân chúng sẽ gặp nhiều diễm phúc.
    -Ngày tháng trôi qua rất mau lẹ, phút chốc đã đến mùa Khánh Đản, nhằm ngày mùng tám tháng Tư năm Bính Dần trước Tây lịch 563 năm, tính đến nay (1975) là 2.538 năm - gần 26 thế kỷ (có thuyết chép ngày rằm tháng Tư trước Tây lịch 624 năm.). Đức Hoàng Hậu đang ngoạn cảnh trong vườn Lâm Tỳ Ni, khi Bà bước đến cội Vô ưu (Ưu Đàm hoa), bỗng thấy một đóa hoa vừa tươi nở, xinh đẹp khác thường, hương thơm ngào ngạt; Bà vội vói tay hái cành hoa, thoạt đản sanh Thái Tử. (Theo lược truyện kể: Lúc Hoàng Hậu vói tay hái hoa Vô Ưu thì Thái Tử khai hông mẹ mà ra và lúc ấy có nhiều hoa sen lớn đỡ gót Thái Tử. Cũng có chỗ chép Thái Tử vừa sanh ra liền bước tới 7 bước và bước lui 7 bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân, một tay chỉ Trời, một tay chỉ Đất và nói:“Thiên thượng địa hạ duy Ngã độc tôn”(Trên trời dưới đất chỉ có cái Ta - Chơn ngã/Đại ngã – là cao hơn cả). Tuy mới sanh ra, song tướng trạng của Thái Tử lộ đầy vẻ uy nghiêm tốt đẹp, khí phách phi thường.
    -Tin Hoàng Hậu hạ sanh Thái Tử được loan đi từ nội cung đến ngoại thành, lẹ như tiếng dội. Riêng cả Hoàng tộc Thích Ca ai cũng vui mừng, và nghĩ rằng: Từ đây chẳng còn bận lo thiếu người kế nghiệp vua nữa. Liền theo đó, Vua và Hoàng Hậu chọn đặt cho Thái Tử một cái tên đầy ý nghĩa là Siddartha (phiên âm là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa), và cả triều chính từ Vua quan đến thứ dân, cũng đều treo hoa kết tụi, mở tiệc ăn mừng.
    CHÚ THÍCH :
    CÁC THẦY BÀN: Những người chuyên bàn đoán về các điềm mộng để hiểu sự hung kiết ở tương lai.
    NGÀY THẮM THOÁT: Ngày là chỉ cho thời gian. Thấm thoát, cũng viết là thấm thoắt, có nghĩa: rất mau lẹ. Ý nói ngày giờ trôi qua rất mau chóng. Đức Thầy có câu:
    Thiều quang thấm thoát dường tên,

    Mắc vòng sanh tử có bền được đâu.(Hoài Cổ).
    ĐÔNG QUA HẠ CHÍ: Hết mùa Đông kế sang mùa Xuân rồi đến mùa Hạ, ý nói mùa tiết đi qua rất mau lẹ. Đây chỉ từ ngày bà Ma Da thọ thai đã qua ba mùa (9 tháng), nay sắp đến ngày sanh nở.
    THÁI TỬ: Con trưởng của vua, hoặc người con trai của vua, được lập nên để sau nối ngôi, và được ở cung phía Đông nên gọi là Đông Cung Thái Tử. Đức Thầy đã viết trong “Luận Việc Tu Hành”:
    Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.
    TRANG NGHIÊM: Đoan trang nghiêm chỉnh, dáng điệu điềm đạm, tươi tắn, oai nghi đàng hoàng.
    KHÍ PHÁCH: Chí khí đởm lược và tinh thần nghị lực mạnh mẽ.
    THẦN DÂN: Tôi dân. Ý chỉ tất cả quan viên công chức và dân chúng trong nước.
    HỌ THÍCH CA: Do chữ Hán: Thích Chủng (dòng họ Thích), tức là họ của Vua Tịnh Phạn. Ở Ấn Độ thời ấy dòng họ Thích đông đảo lớn lao hơn hết.
    NGỠ: Tưởng lầm, đoán sai. Ca dao có câu:
    Thế gian lắm kẻ mơ màng,
    Thấy hòn son thắm, ngỡ vàng Trời cho”.

    SĨ ĐẠT TA: Do Phạn ngữ :Siddartha. Cũng phiên âm là Tất Đạt Đa hoặc Tất Bà Tất Đạt, Tất Đa, Tất Đà…Có nghĩa: bậc đắc đến quả vị hoàn toàn. Tàu dịch là Nhứt thiết, nghĩa là Thành tựu: Thành tựu cho mình và cho vạn loại chúng sanh. Đây là tên của Đức Thích Ca lúc chưa thành Phật, và Ngài có hiệu Thánh riệng trong gia tộc là Cồ Đàm (Gautama).
    TREO HOA YẾN ẨM: Chưng diện bông hoa và mở tiệc ăn uống vui mừng.

    CHÁNH VĂN
    169. Có nhà sư cách thành mấy dặm,
    Thường ở ăn trong sạch hiền-từ.
    Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư,
    172. Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ,
    Hiểu thiên-cơ thấu mối diệu-huyền.
    Ông là người Bà-la-môn tiên,
    176. A-Tư-Đà tiên hiền tên lão.
    Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
    Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng.
    Xin vua cho ông bước vào trong,

    180. Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể.
    Ông xem xong bỗng liền sa lệ,
    Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời.
    Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi,

    184. Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 169 đến câu 184)
    -Bấy giờ gần thành Ca Tỳ La Vệ có vị Đạo sĩ tên A Tư Đà, tu theo Bà La Môn Giáo, một nền Đạo cổ truyền ở Ấn Độ, do Kriskna sáng lập trước đó 4.000 năm. Nhờ quyết tâm hành đạo, giữ lòng ngay chánh, đúng theo giáo lý, sống trọn cuộc đời thanh tịnh, ông A Tư Đà sớm thấu đạt lẽ cơ huyền và được chứng đắc quả Tiên.
    Thuở ấy vua Tịnh Phạn rất kính mến các nhà tu. Cho nên khi nghe tin Hoàng Hậu sanh được Thái Tử, A Tư Đà liền đến chúc mừng trước sân chầu, và xin với Vua cho ông được ra mắt Hoàng Tử.
    -Được lịnh Vua chấp nhận, ông tiến thẳng đến nội cung. Khi nhìn qua toàn thân Thái Tử, A Tư Đà lặng yên đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt từ từ rơi lệ. Thấy thế, Vua Tịnh Phạn rất ngạc nhiện, liền phán hỏi Tiên Ông:- Vì sao lại khóc ?

    CHÚ THÍCH
    NHÀ SƯ: Ông thầy tu theo Đạo Phật. Chữ Sư có nhiều chỗ dụng khác nhau, như: Giáo sư là thầy dạy học, Y sư là thầy thuốc…; về phương diện tu hành, Thiền Sư là các cao Tăng tu Phật, hoặc là ông Thầy dạy tu Thiền, Luật sư là vị tăng lảu thông về Luật tạng, Pháp sư là thầy chuyên dịch và giảng giải các tạng Kinh, Luận sư là thầy thông minh biện bác về Luận tạng.
    Tóm lại, nhà sư là danh từ thông dụng để gọi chung trong giới tăng đồ tu hành và thường giảng dạy Đạo pháp.
    DẶM: Khoảng đường bề dài do nhà nước ấn định. Tùy theo đường bộ, đường thủy, mỗi xứ, mỗi nước có sự khác nhau. Như ở nước ta thời xưa thì một dặm đường bộ có 1.350 thước mộc, ở nước Tàu thì một dăm bằng 1.800 thước, ở các nước Âu Tây, một dăm (mile) là 1.610 m, còn một dặm biển (hải lý) có 1.852 m, v.v…
    VỊ TƯ: Cũng viết là tư vị. Vị có nghĩa là vì, thiên về, ngã về một bên, có nghĩa là riêng, nghịch với công (chung). Vị tư là thiên về một bên nào để xét đoán hay xử sự, chớ không theo lẽ công bằng đoan chánh. Đức Thầy bảo:

    “Nền đạo đức vị tư bất nhã,
    Ta đừng phân nhân ngã mới hay”.
    (Cho Ô. Tham tá Ngà)
    THANH TỊNH: Xem chú thích tại tr. 181 Tập 3/3.
    ĐẠO LÝ: Xem chú thích tại tr. 128-130 Tập 1/3.
    THẦN TIÊN: Xem chú thích tại tr. 134-135 Tập 2/3.
    THIÊN CƠ: Xem chú thích tại tr. 64 Tập 1/3.
    DIỆU HUYỀN: Sâu kín mầu nhiệm, ngoài sức hiểu biết của thế gian, chỉ có người nhứt tâm hành đạo mới thấu đạt. Đức Giáo Chủ hằng dạy:
    Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.

    (Tỉnh Bạn Trần Gian)
    BÀ LA MÔN: Phạn ngữ: Brahmana, là một tôn giáo thờ kính đấng Phạm Thiên, Tàu dịch là Tịnh Hạnh, vì người tu theo Đạo nầy giữ hạnh rất thanh tịnh.
    Theo quan niệm của Bà La Môn giáo thì trước khi trời đất và vạn vật chưa sanh, có vị trời Phạm Thiên, sanh ra nhơn loại và vạn vật. Trong lúc sanh, có dòng từ miệng sanh ra, có dòng từ bụng, từ tay, chơn sanh ra; đó là nguyên nhân tạo thành bốn giai cấp ở Ấn Độ:
    1/-Bà La Môn (Brahmana) giai cấp Tăng lữ.
    2/-Sát Đế Lỵ (Kshatriya) giai cấp Vua Chúa.
    3/-Phệ xá hay Tỷ xá (Vaisya) giai cấp Nông, Công, Thương.
    4/- Thủ Đà La (Sudra) giai cấp Nô lệ.
    A TƯ ĐÀ: Phạn ngữ:Asita, tên vị đạo sĩ tu theo Bà La Môn Giáo, được chứng quả Tiên.
    TIÊN HIỀN: Bậc hiền triết thuở trước, tức chỉ vị tiên A Tư Đà.
    YẾT KIẾN: Ra mắt, gặp người mình muốn gặp.
    SA LỆ: Rơi nước mắt.
    PHÁN: Lời của Vua nói với bề tôi ở dưới.


     
  2. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    185. Trước cung-điện ông liền bày tỏ,
    Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn.
    Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn,
    188. Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng.
    Ngài sẽ được thế-gian ca tụng,
    Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.
    Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn,
    192. Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết.
    Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết,
    Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi.
    Vô phước nên tủi bấy phận tôi,
    196. Chớ chẳng có điều chi lo ngại.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 185 đến câu 196)
    -Trước sự ngạc nhiên, chờ đón của Vua và mọi người, Tiên nhơn A Tư Đà trình bày tự sự: Theo Ông nhìn rõ thì toàn thân của Thái Tử có đủ 32 tướng hảo khác thường, xưa nay chỉ có vị Chuyển Luân Thánh Vương và Phật mới được như vậy. Ông đoán rằng: Nếu sau nầy Hoàng Tử nối ngôi sẽ làm đến bậc Chuyển Luân Thánh Vương, bằng đi tu ắt đạt thành quả vị Chánh đẳng Chánh giác.Nhưng phần chắc là tới tuổi trưởng thành Hoàng Tử sẽ lìa bỏ cung vàng ngôi báu, chẳng núng nao trước sự gian khổ nơi rừng thiêng, nước độc để tìm ra chánh Đạo hầu giải khổ cho chúng sanh.
    -Với khí tuợng ấy chắc chắn Ngài sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, khi đó, khắp dương gian đều được gội nhuần Pháp nhũ và cả Tam giới chúng sanh, cũng hết lời ca tụng công đức Ngài.
    -Từ đó, Ngài sẽ ban vui cứu khổ cho khắp nhân gian; biết bao người nhờ nương theo pháp nhiệm cùa Ngài mà giải thoát sanh tử. Xét lại, hạ thần quá thiếu phước, kém duyên nên tự tủi lòng rơi lệ, chớ chẳng có điều chi khác lạ, xin Hoàng Thượng an lòng !

    CHÚ THÍCH
    THÀNH NHƠN: Nhơn cũng viết là nhân, nghĩa là người. Thành nhơn là nên người. Phàm giới nam từ 18 tuổi, nữ từ 16 tuổi trở lên là đến tuổi thành nhơn.
    CHẲNG SỜN: Xem chú thích tr. 252 Tập 1/3.
    CA TỤNG: Khen ngợi xưng tụng, tức dùng thi văn hoặc bài ca, bài hát để khen tặng, chúc tụng những bậc có công ích cho đời hoặc Đạo. Ví dụ: ca tụng công đức của Phật. Trong loạt bài “Những câu chú thường niệm”, tr. 465 SGTVTB 2004, Đức Thầy có dịch:
    “Ngài là Vua Pháp tột cao,
    Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
    Tiên, người đồng kính Đạo Thầy,
    Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh.
    Nay tôi qui mạng thiệt hành,
    Ngỏ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời.
    Tỏ ra khen ngợi những lời,
    Dù cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng”.

    QUẢ PHẬT VẸN TRÒN: Thành Phật trọn vẹn hay hoàn toàn giác ngộ. Đây là ý nghĩa của chữ “Giác hạnh Viên mãn”, bởi bực có đủ Tam giác: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn (tròn đầy hạnh Phật).
    PHẬT THUYẾT: Lời Phật nói ra hay Kinh Pháp mầu diệu của Phật truyền dạy. Đức Thầy từng nói:
    Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại.
    (Khuyến thiện Q.5),
    hoặc:
    “Lời Phật dạy từ bi bác ái,
    Dạy nhơn từ quảng đại mở mang”.

    (Bài Nguyện trước Bàn Thờ Ông Bà)
    LUÂN HỒI: Xem lại chú thích tại tr.36 Tập 1/3.
    VÔ PHƯỚC: Không có phước. Đây là lời than tiếc của ông A Tư Đà, vì thiếu phước nên ông mắc phải một trong 8 nạn (cảnh) là sanh trước (hoặc sau) một vị Phật ra đời nên không được nghe lời Phật dạy.(Tám nạn: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Trường thọ Thiên, Bắc cư lư châu, Thế trí biện thông, Sanh trước và sau Phật và đui, điếc, câm ngọng. Ai mắc một trong 8 hoàn cảnh nầy, khó mà nghe pháp và tu được.)
    TỦI THÂN: Tự hổ thẹn xót xa và than trách cho phận mình.

    CHÁNH VĂN
    197. Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy,
    Dứt nợ trần nên vội qui tiên.
    Có bà dì thay thế mẹ hiền,
    200. Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.
    Khi lớn lên cho người dạy chữ,
    Lúc vào trường chẳng học mà thông.
    Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong,
    204. Cho Thái-tử đừng lìa cung-điện.
    Hội triều-đình các quan lựa tuyển,
    Nàng Du-Gia được chọn kết hôn.
    Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn,
    Chọn cung-phi mỹ-nữ làm trò.
    Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to,
    210. Ngày ca múa đêm bày lơi-lả.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 197 đến câu 210)
    -Sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, thì Hoàng hậu Ma Da (Maya) từ trần, thần thức Bà được siêu sanh lên Cung Trời Đao Lợi hưởng quả Tiên. Vua Tịnh Phạn bèn giao Thái tử cho bà Ma-ha Bà-xa Bà-đề, tức là em ruột của Hoàng Hậu lo dưỡng nuôi chăm sóc.
    -Càng lớn lên, diện mạo Thái Tử càng khôi ngô, Ngài có sức khỏe hơn người, tài năng xuất chúng. Lịnh Vua cho mời các Giáo sư danh tiếng nhứt trong xứ, về các môn văn tài, võ thuật đến dạy Thái Tử; song Thái Tử sáng suốt dị thường, bất luận môn học nào, hễ nghe qua một lượt Ngài đều thông hiểu hết ý nghĩa, khiến cho các Giáo sư phải ngạc nhiên khiếp phục. Dầu vậy, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra ngạo mạn, Ngài luôn luôn có đức độ ôn hòa nhã nhặn, bình đẳng vô tư và đầy lòng thương người mến vật.
    -Bởi nhớ lời tiên đoán cùa A Tư Đà, Vua Tịnh Phạn rất lo sợ cho Thái Tử lớn lên đi tu; nhứt là thấy cử chỉ của Ngài không hề vui đùa theo thế sự như bao nhiêu Công tử khác. Ngài lại thường có vẻ trầm tư, nên Vua tìm đủ cách cản ngăn không cho Thái Tử ra khỏi điện đền.
    -Đến năm Thái Tử 16 tuổi, Vua hội hết Hoàng tộc và các quan văn võ, để chọn người làm lễ thành hôn cho Thái Tử. Sau khi lựa tuyển thì được con gái của Vua Thiện Giác, tức là Công Chúa Da-du Đà-la, người có sắc đẹp và hạnh đức đầy đủ hơn hết, cho sánh duyên cùng Thái Tử và về sau nàng sanh đặng người con trai là La Hầu La. Đã thế, song Vua cũng chưa an tâm, liền truyền lịnh xây cất cho Thái Tử ba tòa lầu nguy nga tráng lệ: một cái để nghỉ trong mùa nóng, một cái nghỉ trong mùa lạnh, và một cái nghỉ trong mùa không nóng không lạnh. Ngoài ra Vua còn cấp thêm cho Thái Tử 500 mỹ nữ tuyệt đẹp, để ngày đêm hát múa đờn ca và bày các thứ vui say, khơi gợi lòng Ngài phải đắm đuối theo đó, quên nghĩ đến việc xuất gia.

    CHÚ THÍCH
    NỢ TRẦN: Cũng gọi là nợ đời, nợ trần tục, do chữ “túc trái”. Theo thuyết nhân quả luân hồi: con người sanh ra cõi đời là để trả những nghiệp nợ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước. Nếu dứt nợ thì không còn trở lại. Song chữ dứt nợ trần ở đây ý nói hết kiếp sống trong cõi trần.
    QUI TIÊN: Trở về cảnh Tiên. Do câu “Sanh ký tử qui”(sống ở thác về). Theo quan niệm Tam giáo thì cõi đời nầy là cảnh giả tạm, con người sanh ra như kẻ ở trọ, để rồi một ngày kia mãn nghiệp trở về quê xưa cảnh cũ (Phật, Thánh, Tiên). Đức Giáo Chủ có viết:
    Ngày kia được trở gót hài,
    Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi”.

    (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
    BÀ DÌ: Người dì ruột của Thái Tử, tên là Ma-ha Bà-xa Bà-đề (Maha Pradjapati), tên khác: Maha Kiều-đàm-di (Maha Gotamide), em ruột của Hoàng Hậu Ma Da (Maha Maya). Sau Bà xuất gia tu hành được chứng quả A La Hán, và đứng ra đỡ đầu cho hàng phụ nữ vào Đạo. Bà rất có công trong việc hoằng hóa đạo mầu đối với hàng phụ nữ. Trong Hội Pháp Hoa, Đức Phật có thọ ký cho Bà, sau nầy sẽ thành Phật hiệu là Nhứt thiết chúng sanh Hỷ Kiến Như Lai.
    THÔNG: Hiểu suốt, biết rộng. Trường hợp thông suốt của Thái Tử Sĩ Đạt Ta là do khiếu thông minh sẵn có, trong bản tánh từ nhiều tiền kiếp tu hành mà được (sinh nhi tri) chớ chẳng phải nhờ sự học hỏi mà thông như người đời (học nhi tri).
    TRIỀU ĐÌNH: Nơi Vua và các quan viên họp nhau để bàn việc nước.
    LỰA TUYỂN: Chọn lọc.
    GIA DU: Nói cho đủ là Gia-Du Đà-La (Yacôdharâ) con gái Vua Thiện Giác (Souddhodana). Vốn là một Công Chúa có đầy đủ đức hạnh thuần mỹ và sắc đẹp hơn hết, trong các Công Chúa thời ấy.
    Theo Lược Truyện, lúc Đức Thích Ca tu khổ hạnh 6 năm nơi Khổ Hạnh Lâm thì Công Chúa Gia Du ở Hoàng Cung cũng nghiêm trì giới hạnh, và sau bà xuất gia tu hành chứng quả Thánh.
    Trong Pháp Hoa Hội, Phật có thọ ký cho Bà: Sau khi Bà thờ phụng nhiều Đức Phật, sẽ thành Phật hiệu là: Cụ Túc Thiên Vạn Quang Minh.
    KẾT HÔN: Kết có nghĩa là buộc, thắt; do điển tích ông Tơ bà Nguyệt dùng xích thằng (chỉ đỏ) buộc chân của đôi trai gái có duyên nợ với nhau. Hôn có nghĩa là gả cưới, cũng có nghĩa là ban đêm, vì theo tục xưa, cuộc gả cưới thường cử hành ban đêm. Cho nên kết hôn có nghĩa sánh duyên chồng vợ.
    CUNG PHI: Những phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh được chọn vào cung, để hầu hạ Vua và Hoàng Hậu.
    MỸ NỮ: Người con gái có sắc đẹp.
    LÀM TRÒ: Bày tuồng, đóng lớp. Như ca hát, nhảy múa cùng các thú vui.v.v…
    LỘNG LẪY: Rực rỡ nguy nga.
    LƠI LẢ: Cợt nhả, bỡn hớt, có ý khêu gợi dục tình, trêu ghẹo việc bướm ong.

    Chú giải từ câu 211 - 408 (Quyển V)
    [TABLE="width: 614"]
    [TR]
    [TD] CHÁNH VĂN
    211. Lòng Thái-tử cũng không xiêu-ngả,
    Ra khỏi đền du ngoạn một khi.
    Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì,
    214. Gặp cụ lão tay nương gậy chống.
    Ngài xem qua lòng bèn cảm-động,
    Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau.
    Xét cõi trần trong dạ héo xào,
    218. Chi xiết nỗi núng-nao cõi tạm.
    Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm,
    Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng.
    Về đền-đài cảm xúc buồn riêng,
    222. Hằng để trí tầm phương giải-thoát.
    Lần thứ tư vừa đi dạo mát,
    Bỗng gặp người tốt đẹp trang-nghiêm.
    Nào dè đâu Trời đã ứng điềm,
    226. Giả tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử.
    Ngài hiểu rõ ấy là phận-sự,
    Phải xuất gia tầm Đạo mau mau.
    Liền quày xe trở lại lai trào,
    230. Xin Vương-phụ lánh xa mùi thế.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 211 đến câu 230)
    -Mặc dù sống trong cảnh lầu đài danh vọng múa hát đờn ca, con ngoan vợ đẹp, nhưng lòng Thái Tử chẳng hề nhiễm trước, lại thường lộ vẻ u buồn trước cảnh đau khổ giả dối của chúng sanh. Ngài thấy mình cần phải tìm một lối thoát, một nếp sống chơn thật và có ý nghĩa cao đẹp, trường tồn.
    -Hôm nọ Thái Tử thấy lòng buồn bả, liền đến tâu với Phụ Vương, cho phép Ngài ra ngoài thành du ngoạn. Vua Tịnh Phạn quá yêu Thái Tử, nay lại thấy con không vui nên chấp thuận, nhưng Vua mật lệnh cho quan dân dẹp tất cả những gì coi là cực khổ, đau thương và cấm không cho một bóng dáng nhà tu nào lai vãng trong các con đường mà Thái Tử sắp đi qua.
    -Được phép Vua cha, lần đầu tiên Thái Tử cho xe tiến ra cửa thành phía Đông. Đi vừa đặng một khoảng đường, Ngài gặp cụ lão mắt lờ, tai điếc, má cóp da nhăn; tuy tay có chống gậy, song cụ bước đi trong sự run rẩy, xem rất là khổ sở khiến Ngài động mối từ tâm.
    -Lần thứ hai, Ngài du ngoạn cửa thành phía Nam, bỗng thấy người tật bịnh đang ngồi dựa lề đường; thân thể ốm gầy, da vàng mặt bủn, miệng nhai thức ăn mà nuốt không vô, rên rỉ khóc than, trông thật là thảm não !
    -Lần thư ba Thái Tử cho xe ra cửa thành phía Tây. Đi được một đoạn đường, bỗng gặp cái thây chết, đoàn người đang khiêng đi, phía sau thân nhân theo kêu réo, khóc than thảm thiết. Ngài liền quay lại hỏi người đánh xe: Những cái già, cái bịnh mà ta đã thấy hai hôm rồi và cái chết hôm nay, có ai tránh khỏi chăng ?
    Người đánh xe đáp:
    - Thưa Ngài: Tất cả con người sanh ra cõi đời, đều cũng phải già, bịnh rồi chết mất, chớ không một ai tránh khỏi cả. Thái Tử nghe xong lòng chan chứa nỗi buồn, khi trở lại Hoàng Cung, Ngài vận dụng hết tâm trí để tìm phương giải thoát.
    -Lần thứ tư Thái Tử cùng người đánh xe ra cửa thành phía Bắc; dưới ánh bình minh trời trong gió mát, Thầy tớ vừa đi vừa ngắm xem cảnh vật. Bỗng gặp một vị Sa Môn, đứng đi khoan nhã, dung mạo đoan nghiêm ra vẻ người thanh tĩnh. Thái Tử khởi lòng kính mộ, bước tới bái vị Sa Môn và hỏi: “ Ông là ai vậy ?”
    Sa Môn đáp:
    “Tôi là người đã thoát khỏi mọi nỗi sanh, già, bịnh, chết vì tôi chẳng còn luyến ái một sự vật nào trong thế gian.”
    -Nghe câu trả lời ấy, Thái Tử liền hiểu ngay mình phải mau mau tầm Đạo, mới mong giải khổ cho mình và cả vạn loại chúng sanh. Ngài liền chào vị Sa Môn, lập tức bảo Xa Nặc quay xe trở lại thành, để tâu xin với Phụ Hoàng cho Ngài lên đường tìm Chánh Đạo.

    CHÚ THÍCH
    XIÊU NGÃ: Nghiêng chiều theo, thuận xuôi khuất phục theo, sa ngã theo. Ví dụ: xiêu ngã theo dục lạc.
    DU NGOẠN: Đi dạo chơi, lấy sự ngắm xem phong cảnh làm thú tiêu dao hay giải khuây.
    CẢM ĐỘNG: Cảm xúc mà động lòng, đối cảnh sanh tình. Do thấy các cảnh tượng mà khởi lên lòng thương mến.
    DẠ HÉO XÀO: Lòng se thắt lại, ủ rũ dã dượi, như hoa héo lá xào. Đức Thầy có câu:
    Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi,
    Biết gốc lành sao cội không gìn.
    ”(Thu Đã Cuối).
    CHI XIẾT: Không sao kể xiết.
    CÕI TẠM: Cõi tạm giả. Có nghĩa không thật, không bền chắc lâu dài, tức chỉ cho cõi trần chúng ta đang ở. Ý nói tất cả từ thân quyến, của tiền đến xác thân của ta cũng đều giả tạm, không thật có. Cổ nhân từng bảo:
    Thế thượng vạn bang độ thị giả,
    Nhơn gian Đạo đức quả duy chơn”.
    (Trên đời không vật chi là thật,
    Chỉ có Đạo mầu mới thiệt chơn).

    Đức Thầy nay cũng nói:Thế trần tạm giả gạt đời ta. (Tỉnh Bạn Trần Gian), hoặc:Tạo duyên giả phàm gian thân giả.”(Cho Ô. Tham tá Ngà).
    TRẠM: Nơi xe đậu, xe ngừng, hoặc nhà để xe hay nơi nghỉ tạm rồi đi nữa.
    CẢM XÚC: Nghĩa như chữ cảm động đã giài trên.
    GIẢI THOÁT: Xem chú thích tại tr. 34 Tập 3/3 nầy.
    ỨNG ĐIỀM: Bày lộ ra, hiển hiện ra cho thấy. Đây là trường hợp lúc Thái Tử du ngoạn. Vua Tịnh Phạn đã ra lệnh cấm: không cho một Tăng Sư, Đạo Sĩ nào lai vãng đến con đường Thái Tử sắp đi qua, nhưng bỗng nhiên hôm ấy lại có một Tăng Sĩ xuất hiện. Đó là do Phật Trời hóa hiện để gợi chí xuất gia của Thái Tử.
    TĂNG SĨ: Thầy tu (Xem thêm chữ “Chư Tăng”, tr. 216-217 Tập 3/3).
    XUẬT GIA: Xem chú thích tại tr. 87 Tập 3/3.
    VƯƠNG PHỤ: Vua cha, tức Tịnh Phạn Vương.
    MÙI THẾ: Mùi đời, mùi tục lụy. Vì đời có vui buồn, sướng khổ, cũng như vật thực có đủ mùi: chua, cay, đắng, mặn, ngọt. Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
    Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,
    Bước thế đồ gót rỗ kỳ khu.”
    Đức Thầy cũng từng bảo trong “Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ”:
    Nếu mãi mê-man mùi tục lụy,
    Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.


    CHÁNH VĂN
    231. Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
    Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai.
    Khuyên con nên ở chốn điện-đài,
    234. Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
    Lòng Thái-tử quyết theo ý muốn,
    Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng.
    Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng,
    238. Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi.
    Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi,
    Tâm đại-hùng cương-quyết tu-trì.
    Trải bao phen lao-khổ xiết chi,
    Sau Ngài đến Rạch-Ni Liên-Thuyền.
    Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham-thiền,
    244. Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy.
    Đạo gần đắc Ma-Vương theo khuấy,
    Dùng thần-thông nghị-lực dẹp tan.
    Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn-toàn,
    248. Và lần bước phô-trương độ chúng.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 231 đến câu 248)
    -Nghe Thái Tử xin xuất gia tầm Đạo, Vua Tịnh Phạn rất sầu não, nên dùng đủ lời khuyên lơn: Cha đã già yếu chỉ hy vọng một mình con, sau nầy sẽ thay cha mà trị vì thiên hạ. Vậy hiện giờ con nên ở lại, vừa lo giữ gìn cơ nghiệp và vừa tu tập lần lần, rồi sau sẽ xuất gia, cũng chẳng trễ lắm đâu !
    Thái Tử tâu tiếp: “Nếu Phụ Vương muốn con nối nghiệp thì xin giúp con ba việc: 1.“Làm sao cho con trẻ hoài không già, 2. Mạnh hoài không đa, 3. Sống hoài không chết để cứu khổ được chúng sanhthì con sẽ vâng lời mà ở lại”. Nghe qua, Vua Tịnh Phạn lấy làm bối rối, vì không thể làm sao cho Thái Tử thỏa mãn các việc ấy; nhưng Vua cũng cố tình ràng buộc Thái Tử. Ngài liền cho tăng thêm các cuộc vui chơi luôn cả ngày đêm trong cung điện.
    -Riêng lòng Thái Tử đã nhứt quyết nên vào một đêm nọ, sau cuộc múa hát của các cung nữ, mọi người đều an giấc,Thái Tử muốn vào từ giã vợ con lần cuối, nhưng e gặp trở ngại, nên nén lòng lui ra. Ngài kêu Xa Nặc thắng yên ngựa; rồi Thầy trò cùng lên lưng ngựa Kiền Trắc vượt khỏi thành. Hôm ấy là ngày mùng Tám tháng Hai âl, đúng năm Ngài 19 tuổi.
    Phi ngựa đến sông A Nô Ma trời vừa rạng đông, Thái Tử xuống ngựa lấy gươm cắt tóc và lột áo mão cùng đồ trang sức, trao hết cho Xa Nặc, bảo mang về Hoàng Cung, để vua Cha thấu rõ chí xuất gia của Ngài. Bấy giờ Thái Tử chỉ còn một hình một bóng, chẳng quản trước núi cao rừng thẳm, thú dữ chông gai. Ngài đem bộ nhung phục đổi cho anh thợ săn để lấy bộ đồ dà mặc vào để không còn vướng mắc chút mùi vương giả nào trong thân nữa.
    -Trước hết, Thái Tử đến vấn Đạo nơi ông Bạc-Già, nhưng giáo lý nầy không thể đưa người đến chỗ giải thoát nên Ngài từ giã ra đi. Kế Ngài gặp hai ông A-La- Ra và Uất-Đầu Lâm-Phất, ở lại tu thiền định với hai ông nầy 6 năm. Khi nhận ra pháp tu nầy chỉ đắc đến quả về Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, chớ chưa ra khỏi Tam giới, Ngài liền giã từ đi nữa.
    -Sau rốt Ngài đến khu rừng già Ưu-Lâu Tần-Loa, phía Nam núi Tượng Đầu, gần bờ sông Ni-Liên-Thuyền. Thấy phong cảnh tốt đẹp nên Ngài trụ tại đây tu khổ hạnh 6 năm nữa. Với lối tu ép xác hành khổ của Ngài vượt bực hơn năm người bạn cùng tu, khiến họ vô cùng kính nể. (Năm người đó là: Kiều-Trần-Như, Át-Bệ, Bạt- Đề, Ma-Nam Câu-Ly và Thập-Lực Ca-Diếp.). Hôm nọ, vì quá kiệt sức nên Ngài đang đi bỗng ngã xỉu, chừng tỉnh lại Ngài mới nhận ra lối tu như vầy quá lầm lạc, vì trí tuệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân thì làm sao cứu độ được ai, nên Ngài quyết định ăn uống lại như thường (đường Trung Đạo).
    -Gần nơi ấy có thiếu nữ Tu-Xá-Đề, cùng một tỳ nữ đi ngoạn cảnh, vừa gặp Thái Tử thì nàng biết ngay là người bị kiệt sức vì nhịn đói. Nàng bước nhanh về nhà, lấy thứ sữa hảo hạng, đựng trong cái bát vàng đem đến dâng cho Ngài. Ngài dùng sữa xong, sức lực dần dần bình phục, liền xuống sông Ni-Liên-Thuyền tắm rửa sạch sẽ, rồi Ngài đi thẳng đến cội cây Bồ-Đề (Tất Bát La) ngồi thiền định luôn 49 ngày và Ngài phát đại thệ:“Nếu Ta không thành Đạo chứng quả, nguyện trọn đời chẳng rời gốc cây Bồ Đề nầy”.
    -Lúc Thái Tử sắp thành đạo, bọn Ma Vương hiện đến dùng đủ cách phá Ngài: đầu tiên chúng giả vờ kính phục, yêu cầu Ngài nhập Niết bàn ngay, nhưng bị Ngài bác bỏ. Chúng liền dùng binh ma khí giới, hoán võ hô phong, song cũng chẳng hại được Ngài. Ma Vương liền trở cách, cho ba đứa con gái đến, dùng hình vóc lả lơi khêu gợi, lời lẽ ngọt ngào quyến rũ, nhưng tất cả đều phải khuất phục dưới thần lực của Ngài.
    -Sau khi chiến thắng bọn Ma Vương (ngoại ma) và các vi tế phiền não (nội ma), Thái Tử Sĩ Đạt Ta đắc quả “Vô Thượng Bồ Đề”(Chánh đẳng Chánh giác), hiệu là “Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, và hôm ấy vào ngày mùng Tám tháng Chạp (năm Ngài 30 tuổi). Đắc đạo xong, Đức Phật thực hiện ngay chí nguyện Đại Từ Bi, lần Chuyển Pháp Luân đầu tiên là Ngài đến rừng Lộc Giả (Khổ Hạnh Lâm),thuyết pháp “Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo” cho năm anh em ông Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm người ấy đều tỏ ngộ và chứng quả A La Hán. Từ đó, Phật Pháp Tăng có đủ (Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni, Pháp là Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Tăng là năm anh em ông Kiều Trần Như); cũng từ độ ấy Phật cùng chư Tăng du hành khắp nơi, khai hóa Đạo mầu để rộng độ các tầng lớp chúng sanh.

    CHÚ THÍCH
    NỐI NGHIỆP: Tiếp nối sự nghiêp của ông cha từ trước. Đây nói sự nối ngôi Vua.
    CHẲNG SÁ: Không nệ hà, không kể, không quản. Ví dụ: Chẳng sá sự gian lao, cực khổ. Cũng dùng như chữ chi sá, đâu sá hay sá gì, như Đức Thầy có viết:Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.(Quyết Rứt Cà Sa).
    XÔNG PHA: Lướt tới, sấn tới, dấn thân vào chịu đựng mọi sự gian nan gai gốc. “Nước non ngàn dặm xông pha cũng đành.”(Lục Vân Tiên) Đức Thầy từng nói (bài Gọi Đoàn Thanh Niên):
    Xông pha chiến địa gian nan sá gì”.
    ĐẠI HÙNG: Sức dũng cảm mạnh mẽ to lớn. Tâm đại hùng là lòng dũng mãnh dứt bỏ được sự nhiễm ô luyến ái. Đây là một trong ba chí đức mà thế gian thường ca ngợi Phật Thích Ca:
    1/-Ngài đoạn tuyệt được cảnh đời vương giả: vợ đẹp, hầu xinh là tâm Đại Hùng.
    2/-Tự dùng sức mạnh của tinh thần hàng phục được nội ma (dục vọng) và ngoại ma (Ma Vương) dưới cội Bồ Đề, đó là tâm Đại Lực.
    3/- Sau khi đắc Đạo, Phật không nỡ nhập Niết Bàn sớm, vẫn trụ thế 49 năm để cứu độ các giới chúng sanh, đó là tâm Đại Từ Bi .
    Đức Thầy từng thốt:
    Phải chổi dậy nương dây hùng tráng,
    Chữ đại hùng, đại lực, từ bi

    (Diệu Pháp Quang Minh)
    CƯƠNG QUYẾT: Lòng cứng cỏi khăng khăng và nhứt định làm cho được việc, dù gặp lắm cản trở, khó khăn cũng không hề lơ đễnh lùi sụt. Đức Phật có dạy:“ Đời sống của các ngươi có vui tươi hay đau khổ đều do các ngươi quyết định và tạo lập lấy”.
    TU TRÌ: Xem chú thích tại tr. 84 Tập 1/3.
    RẠCH NI LIÊN THUYỀN: Cũng viết là Ni Liên Thiền (Phạn ngữ: Nairânjânâ), Tàu dịch là Bất lạc trước hà, có nghĩa: con sông chẳng đắm nhiễm dục lạc. Vốn là một con sông nằm gần núi Tượng Đầu, xóm Ưu-Lâu-Tần-Loa, thuộc nước Ma-Kiệt-Đà (Ấn Độ). Trước khi tịnh tọa dưới cội Bồ Đề, Đức Thích Ca có xuống rạch Ni-Liên-Thuyền tắm rửa sạch sẽ. Do đó, người đời sau thường tán tụng nước ở con sông nầy có diệu năng rửa sạch mọi điều nhơ bẩn (Ni Liên hà lý, phi hữu cấu nhi kiến trừ).[sách Pháp Huyễn Châu Lâm].
    THAM THIỀN: Cũng gọi là Thiền định hay Thiền na (Phạn ngữ: Dhyana), Tham là suy gẫm, quán xét; Thiền là tịnh lự, tư duy. Nói chung, tham thiền là chú tâm yên lặng mà quán xét suy gẫm để diệt trừ phiền não hoặc tìm hiểu Đạo lý mầu nhiệm. Đức Thầy từng dạy:
    Phật pháp Thiền na dốc thực hành.
    (Cho cô Năm Võ thị Hợi), hoặc:
    Định tâm thần như mặt nước hồ,
    Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối
    (GMTK, Q.4).
    KHỔ HẠNH: Hạnh tu ép xác hành khổ. Lúc Đức Thích Ca đến Khổ Hạnh Lâm cùng với năm anh em Kiều Trần Như, tu theo lối ép xác, hành khổ. Mỗi ngày đêm Ngài chỉ ăn một vài hột mè, uống một ít giọt sương, thân hình gấy ốm, đến đỗi bày cả bộ xương ra. Hôm nọ, vì quá kiệt sức nên Ngài đang đi bỗng té xỉu; chừng tỉnh dậy, Ngài mới phát kiến được hai xu hướng sai lầm:
    1/-Sống cảnh quá đầy đủ sung sưóng thì tu không được.
    2/-Tu ép xác hành khổ lại càng không kết quả.
    Nhờ đó, Ngài tìm ra được con đường Trung Đạo, liền từ giã nơi đây, đến ngay cội cây Bồ Đề ngồi tham thiền suốt 49 ngày liền đắc quả Như Lai.
    MA VƯƠNG: Xem chú thích tại tr. 56 Tập 1/3.
    THẦN THÔNG: Phạn ngữ: Rddi. Thần là linh diệu, không thể liệu lường được. Thông là vô ngại, lưu thông tự tại, không chi ngăn trở nổi. Thần thông là tiếng nói chung để gọi Ngũ thần thông của hàng Tiên nhơn hay Lục thần thông của các bậc La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Gọi tắt là Ngũ thông hay Lục thông. Đức Giáo Chủ từng cho biết trong “Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ”:
    “Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang.”

    NGHỊ LỰC: Sức mạnh mẽ để tiến tới. Đây chỉ về sức mạnh của tinh thần. Nhà tu hành có năm sức mạnh (ngũ lực) để đạt đến quả Phật.
    1/-Tín lực: Cái gốc tin tưởng có sức phá tan, những tà tín dối trá.
    2/-Tinh tấn lực: Cái gốc tinh tấn tăng trưởng, có sức phá tan tâm giải đãi nhơ xấu.
    3/-Niệm lực: Cái gốc niệm tưởng chơn chánh tăng trưởng có sức phá tan các tà niệm.
    4/-Định lực: cái gốc thiền định tăng trưởng có sức phá tan các loạn động.
    5/-Huệ lực: Cái gốc sáng suốt tăng trưởng có sức phá tan vô minh vọng hoặc trong tam giới.
    Na Tiên Tỳ Kheo Kinh có dạy rằng:“Nhờ nghị lực giúp nhà nhà tu đến khi đắc đạo và thoát khỏi luân hồi sanh tử”. Đức Thầy nay cũng nói:
    Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
    Ra oai ra lực hùng yên mới là”.

    (Để Chơn Đất Bắc)
    ĐẮC ĐẠO HOÀN TOÀN: tức được giác hạnh viên mãn, cũng gọi là chứng quả Phật. Vì nhà tu từ bực Thinh Văn…đến Bồ Tát vẫn còn tiếp tục tu cho đến khi chứng quả Như Lai mới thành đạt mục đích, nên gọi là đắc Đạo hoàn toàn.
    PHÔ TRƯƠNG: Trưng bày ra.
    ĐỘ CHÚNG: Cứu vớt, hóa độ chúng sanh.

    CHÁNH VĂN
    249. Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
    Các chúng-sanh đều có như Ta.
    Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà,
    252. Nên quay lộn Ta-bà cõi khổ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 249 đến câu 252)
    -Trên con đường châu du độ thế, Đức Phật đã quán biết tất cả chúng sanh đều có hột giống Phật, tức mỗi ai cũng cũng đồng một thể tánh như Phật (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh). Nếu chúng sanh biết giác ngộ tu hành tất sẽ thành Phật, sánh cùng Ngài không khác. Ví như hai ly nước: trong là Phật, đục là chúng sanh, nếu ta đem lọc ly nước đục cho hết cặn thì hai ly nước đều trong sạch như nhau.
    Sở dĩ hiện giờ ta thấy chúng sanh và Phật khác nhau, là vì chúng sanh bị vô minh vọng tưởng che mờ căn tánh từ vô thỉ, rồi cứ tiếp tục gây nghiệp trần mê mà phải sanh tử mãi trong cõi Ta bà thống khổ.

    CHÚ THÍCH

    PHẬT CHỦNG: Hột giống Phật. Ý nói tất cả chúng sanh đều có hột giống Phật, cũng gọi là Phật tánh. Vậy ai muốn thành Phật phải làm cho hột giống Phật của tự tâm mình phát sanh. Trong “Tự Tánh Chơn Phật Kệ” Đức Lục Tổ có dạy:
    Đốn giáo Pháp kiếp nầy đặng gặp,
    Tự tánh liền thấy Phật hiện thân.
    Người tu hành muốn kiếm Phật thân,
    Nơi nào kiếm chơn thân của Phật ?
    Trong tự tánh thấy thường chơn thật,
    Có chơn thì giống Phật mới thành,
    Chẳng thấy tâm kiếm Phật ngoài thân,
    Tâm vọng khởi thiệt phần si ám”.

    Đức Thầy nay cũng xác nhận:
    Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.(Sấm Giảng Q.1)
    CÁC CHÚNG SANH ĐỀU CÓ NHƯ TA: Mỗi mỗi chúng sanh đều có chơn tánh như Phật. Lúc Đức Phật mới thành Đạo, Ngài có nói: Ta xem cả thảy chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng Như Lai cả (Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai).
    Thuở xưa, nơi cánh rừng nọ, có một con sư tử cái, đã mang thai và phải bịnh mấy hôm, kiếm ăn không được, nên bụng đói thắt thẻo. Không thể chịu đói lâu ngày, sư tử gượng ra mé đường mòn của bầy dê thường qua lại, ý định rình bắt một con dê, ăn đỡ lòng.
    Nó núp khuất trong bụi rậm chờ bầy dê đi ngang, liền nhảy ra vồ một con, nhưng dê lẹ làng tránh chạy. Sư tử vì đau yếu lại chụp hụt mồi, nên bị té va đầu vào gộp đá, vẫy chết.Trước khi dứt thở nó sanh được một sư tử con. Giờ sau, sư tử con đứng lên, bơ vơ một mình, bỗng bầy dê khác đi tới, nó liền chạy theo. Bầy dê thấy sư tử còn bé, trông rất ngoan hiền nên cho nhập bọn, bú sữa và cùng ăn cỏ. Từ đó sư tử con sống chung với bầy dê, nó đinh ninh rằng mình là loài dê.
    Hôm nọ, sư tử chúa đứng trên núi cao nhìn thấy sư tử nhỏ sống chung với bầy dê mà vẫn được hòa hợp, trìu mến, nó lấy làm lạ bèn nghĩ cách tìm hiểu nguyên nhân. Suy tính xong, sư tử chúa xuống núi ẩn mình vào lùm cây dựa đường, chờ bầy dê đi ngang, nó phóng ra chụp được sư tử nhỏ, và hỏi:
    -Tại sao mầy là sư tử mà lại sống chung với bầy dê, làm mất thể diện cả loài ?
    Sư tử nhỏ vùng vẫy không được bèn cải chính và năn nỉ:
    -Tôi là dê chớ không phải là sư tử, ông làm ơn buông tha cho tôi theo bầy !
    -Mầy là sư tử chớ không phải là dê, biết chưa ?
    Tôi là dê ông à ! Xin ông khoan hồng cho tôi một lần đi !
    Sư tử chúa thấy giải thích mãi không kết quả, liền kéo xển sư tử nhỏ đến bờ giếng, chỉ xuống mặt nước trong lặng và bảo:
    -Nhìn xuống đây coi hình mầy có phải giống hình tao không? –Sư tử nhỏ nhìn xuống ngơ ngác…Sư tử chúa liền rống lên một tiếng vang dội cả rừng. Sư tử nhỏ bất giác rống theo, tới đây nó mới chợt tỉnh mình là sư tử. (phỏng theo Tạp Thí Dụ Kinh)
    Câu chuyện trên giúp ta nhận rằng mỗi chúng sanh từ vô thỉ đều đồng một bản thể với chư Phật, song vì vô minh điên đảo mà phải lẫn lộn mãi trong sáu đường sanh tử rồi mê chấp mình là chúng sanh mãi mãi, không thể nào làm Phật được. Nay nhờ Đức Phật, Đức Thầy dùng mọi phương tiện giác tỉnh, chúng sanh mới nhận ra nơi mình có sẵn tánh Phật, nếu ai biết tu hành tất được đồng hòa một bản thể cùng chư Phật, ấy là thành đạo giải thoát.
    Cũng như sư tử con, vì nghiệp mê ràng buộc, nên đầu thai vào bụng mẹ, khi sanh ra và lớn lên trong bầy dê, rồi vọng chấp mình là dê (dụ cho chúng sanh). May nhờ có sư tử chúa (dụ chho đấng giác ngộ) tìm mọi biện pháp khai ngộ, sư tử con mới bừng tỉnh mình là sư tử.
    VÔ MINH: Phạn ngữ: Avidya, phiên âm là A-vĩ-di, Tàu dịch là Vô minh. có nghĩa là không;minh là rõ, sáng. Chúng sanh mê mờ không rõ tâm chơn như diệu minh của mình, trở lại nhận lầm các vọng tưởng nên gọi là vô minh (mê si).
    Chính vô minh là mối đầu của Thập nhị Nhân duyên để dẫn từ hành, thức đến sanh tử. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có viết:“Mọi pháp trong sạch là chơn như, mọi nhân nhiễm trược gọi là vô minh”. Lại nữa chơn như diệu minh ví như mặt trời, vô minh ví như mây. Đức Thầy viết (trong Khuyến Thiện, Q.5):
    “Màn vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.

    VỌNG TƯỞNG: Móng nghĩ việc sái quấy, tà vạy, không hạp với Đạo lý chánh pháp. Trong Đại Thừa Nghĩa Chương có câu:“Kẻ phàm phu mê tối đối với sự thật, bèn khởi ra các tướng của các pháp, chấp lấy tướng cho là danh, rồi y theo danh mà giữ lấy tướng; bởi chỗ giữ lấy chẳng chơn thật, nên kêu là vọng tưởng”. Và đoạn khác đã nói:“Chấp một cách sai lạc không chơn thật, kêu là vọng. Đem cái vọng tâm mà giữ lấy điều mình chấp, kêu là tưởng.”(Mậu chấp bất chơn, danh chi vi vọng, vọng tâm thủ tướng, mục chi vi tưởng)
    VẠY TÀ: Cũng viết là tà vạy. Có nghĩa: gian dối cong vẹo, không chơn chánh ngay thẳng.
    TA BÀ: Xem lại chú thích tại tr. 62 Tập 2/3.

    CHÁNH VĂN
    253. Lòng thương chúng thuyết-phương Tịnh độ
    Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
    Nếu như ai cố chí làm lành,
    256. Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc.
    Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,
    Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh.
    Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,
    Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây-phương hồi hướng,
    262. Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 253 đến câu 262)
    -Bởi quá thương xót chúng sanh mãi trôi lăn trong bể trần gian khổ, nên xưa kia Phật đã thuyết Vô Lượng Kinh Pháp để tùy cơ giáo hóa, nhưng vì muốn rộng độ hết các từng lớp chúng sanh, Phật mới ân cần khai thị Pháp môn “Tịnh Độ”. Bởi tu theo pháp môn Tinh Độ rất giản tiện và dễ chứng đắc hơn hết. Ngài đã từng thốt:“Tịnh độ Pháp môn chí huyền, chí diệu bất tu dư hạnh nhi đắc lục ba-la-mật.”(Pháp môn niệm Phật rất huyền, rất diệu; chẳng cần tu pháp nào khác vẫn đắc được sáu phương tiện sang qua bờ giác). Thế nên thời nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng tiếp tục xiển dương Pháp môn ấy để rộng độ chúng sanh:Môn Tịnh độ là phương cứu cánh, Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.(Khuyến Thiện, Q.5).
    -Ngài cho biết tất cả chúng sanh, không phân biệt tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh, nếu quyết chí làm lành lánh dữ và nhứt tâm trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” với lòng tin vững chắc, chí nguyện thiết tha, phụng hành tinh tấn thì chỉ trong một kiếp chắc chắn được vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, thoát chồn mê đồ, chấm dứt cảnh sanh tử luân hồi. Ngài hằng khuyến tấn:
    Rán trì tâm tuởng niệm canh thâu,
    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.”
    (Kệ Dân, Q.2)
    Di Đà lục tự ấy phương châm,
    Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm”.

    (Đáp lời Ông Nguyễn Kỳ Trân)
    Và: Về Cực lạc thảnh thơi an dưỡng,
    Ấy là ngày ban thưởng công tu”.

    (Cho Ông Cò Tàu Hảo)

    CHÚ THÍCH
    PHƯƠNG TỊNH ĐỘ: Là phương pháp trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” để được trở về với “Bản lai thanh tịnh (tánh), hoặc Vãng sanh Cực lạc (tướng)”. Pháp nầy do Đức Phật Thích Ca truyền ra để giới thiệu cõi Cực lạc và tán dương công đức vô lượng thọ vô lượng quang của Phật A Di Đà cùng nguyện lực lớn lao của Ngài. Nhân đó, khai thị pháp môn Tịnh độ. Tôn chỉ gồm trong ba bộ kinh: Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ.
    Sau đó chừng 700 năm, Đức Mã Minh Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát và Thế Thân Bồ Tát, cực lực khuyên người tu pháp môn Tịnh độ. Từ đó, Pháp môn nầy được lưu hành khắp Á châu, nhưng tùy theo sở nhận của mỗi người mà tu lấy, chớ không có tổ chức thành hệ thống. Mãi đến đời Tống bên Trung Hoa, có Ngài Huệ Viễn thâm ngộ môn Tịnh độ mới đứng ra tập hợp các Đạo sư, lập thành Hội Liên xá. Bắt đầu từ đó Pháp môn nầy thạnh hành khắp dân gian.
    Khi Ngài Huệ Viễn Đại Sư tịch rồi thì có các Ngài: Thiện Đạo Đại Sư, Thừa Viễn Đại Sư, Pháp Chiếu Đại Sư, Diên Thọ Đại Sư nối nhau hưng truyền Pháp môn Tịnh độ, gây nên phong trào niệm Phật mạnh mẽ. Từ đó đến nay đa số người tu hành lúc lâm chung đều có thoại ứng vãng sanh về cõi Cực lạc.(Xem các Mẩu chuyện Vãng sanh trong Đạo pháp Nghi vấn).
    CHÚNG SANH: Xem chú thích tr. 40 Tập 1/3.
    VŨ TRỤ: Cũng viết là võ trụ. Vũ là không gian: bốn phương và trên dưới. Trụ là thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý chỉ khắp thế giới. Đức Thầy thường nói:
    Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao.

    (Hoài Cổ)
    TIÊN PHÀM MA QUỈ: Ý chỉ chung hết chúng sanh trong 6 nẻo luân hồi, gồm có ba đường thiện: Trời (Tiên), Người (phàm), A tu la (thần), và ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
    NHỨT TÂM: Xem chú thích tại tr.40 Tập 2/3.
    TÍN, NGUYỆN, PHỤNG, HÀNH: Ba đức tính căn bản của người tu Pháp môn Tịnh độ:
    1/-TÍN là đức tin đầu tiên của hành giả. Cổ nhân từng bảo: Người có đức tin như xe có đủ bánh, sẽ lăn đi một cách dễ dàng (Nhơn hữu tín như xa hữu luân). Cho nên, kẻ có lòng tin chắc thì đường xa bao nhiêu cũng đến, quả vị bao cao cũng thành, bằng ngược lại mọi việc khó thành công. Hoa Nghiêm Kinh, Phật đã dạy:
    Tín vi đạo nguyên công đức mẫu,
    Tăng trưởng nhất thiết chư thiện pháp.
    Trừ diệt nhất thiết nghi hoặc,
    Thị hiện khai phát vô thượng Đạo.”
    (Tin là đầu đạo mẹ công đức,
    Tin là căn lành cha của quả.
    Tin thì thoát khỏi ngoại Đạo tà,
    Tin thì tiến vào thiền định chánh,
    Tin thì được siêu phàm nhập Thánh,
    Tin thì hay thành Phật độ sanh.)

    Cho nên người tu Pháp môn niêm Phật phải luôn có đức tin dũng mãnh:
    -Tin lời Đức Phật thuyết không sai.
    -Tin cõi Cực lạc là có thật.
    -Tin Đức Phật A Di Đà giữ đúng đại nguyện:“ Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi (Cõi Cực Lạc) nhẫn đến mười niệm (danh hiệu tôi), nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác.”
    -Tin Pháp môn Tịnh độ là thù thắng hơn các pháp (dễ tu dễ chứng đắc).
    -Tin mình có đủ khả năng thành Phật hoặc vãng sanh về Lạc Quốc.
    2/-NGUYỆN: là chí quyết định, là lời hứa hẹn, là lòng thiết tha, mong muốn thực hiện cho kỳ được. Chính nó là động cơ thúc đẩy người tu mau đạt đến mục đích. Từ ngàn xưa, chư Phật, chư Tổ, chư Sư khi phát tâm tu hành đều có lập nguyện. Ngay như tiền kiếp của Phật A Di Đà (vua Vô Tránh Niệm), lần đầu tiên Ngài đến Pháp Hội Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bốn mươi tám lời đại nguyện. Cho nên ai tu pháp môn Tịnh độ cần phải có lập nguyện vững vàng, như Đức Thầy đã dạy trong hai “Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Ông Bà”:
    “Rày con xin giữ Đạo hằng,
    Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài.
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
    Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên”.

    Hoặc là:
    “Nguyện đem công quả tu hành,
    Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài.
    Về Phật quốc ngày ngày an lạc,
    Cả giống dòng giải thoát luân trầm.
    Rồi đem Đạo pháp huyền thâm,
    Độ trong sanh chúng hết lầm hết mê”.

    3/-PHỤNG HÀNH: là vâng lời và thi hành theo Pháp môn Niệm Phật, cùng làm lành lánh dữ để được vãng sanh về Cực Lạc.
    Hành giả tu theo Pháp môn nầy, nếu đã có lòng tin và chí nguyện mà không chịu thực hành thì chẳng khác nào người tin đi học sẽ biết chữ và có chí muốn học, nhưng rồi không chịu học thì suốt đời vẫn còn dốt. Trái lại, nếu có thực hành mà thiếu lòng tin và chí nguyện thì cũng không đi tới đâu.
    Nói tóm lại, Tín Nguyện Hành là ba yếu tố căn bản của người tu pháp môn Tịnh Độ, nếu thiếu một không thể được. Nó chẳng khác nào cái đảnh ba chân, thiếu một chân đảnh để không vững. Thế nên Kinh Phật cho nó là ba món tư lương (lương thực đi đường). Người niệm Phật nếu không đủ Tín Nguyện Hạnh, ắt phải ngã gục giữa đoạn đường, bằng có đủ sẽ thành công một cách dễ dàng.
    CỨU CÁNH: Xem chú thích tại tr. 79 Tập 3/3.
    AN DƯỠNG: Xem chú thích tại tr. 60 Tập 2/3.
    HỒI HƯỚNG: Hồi là chuyển xây lại, hướng là ngó về, tức là những công đức, thiện căn mà mình đã tu bồi được, nay nguyện hồi hướng về mục đích của mình đã nhắm. Cho nên chữ hồi hướng đối với nhà tu Phật là xoay chuyển công đức hướng về ba chỗ:
    1- Chỗ sở chứng chơn như thật tướng.
    2- Chỗ sở cầu vô thượng Bồ Đề.
    3- Chỗ sở độ tất cả chúng sanh.
    Ngoài ra còn hồi hướng công đức cho Cửu Huyền Thất Tổ đặng siêu thăng Tịnh độ. Nhưng chữ hồi hướng ở đây là ý chỉ xoay chuyển công đức về chỗ vãng sanh Cực lạc. Đức Thầy có câu:
    Đem thân hồi hướng gốc lành,
    Làm tôi Phật Tổ chí thành chí chơn”.

    (Cho Ông Cò Tàu Hảo)
    KIẾP: Phạn ngữ: Kalpa, phiên âm là kiếp-ba, dịch là đại thời hay bá vạn niên.
    Theo Phật học thì Kiếp là thời kỳ rất dài, thật khó lấy số năm, tháng mà kể. Kiếp lại có ba bực: tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Nhưng chữ kiếp ở đây Đức Giáo Chủ chỉ cho một đời sống của con người, như Ngài từng nói:Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây.(Trao Lời Cùng Ông Táo).
    MÊ ĐỒ: Đường mê, cảnh giới mờ ám, tức là con đường luân hồi trong ba cõi chúng sanh. Bồ Đề Tam Luận có viết:“Phàm các pháp mê đồ đều từ trong vọng tưởng mà ra”.
    LUÂN HỒI: Xem chú thích tại tr. 36 Tập 1/3.

    CHÁNH VĂN
    263. Xét cõi trần sống khổ giạt-trôi,
    Vô lượng thứ ở trong thế-giới.
    Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
    266. Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ.
    Có bao người xét cho tột chỗ,
    Tịnh-độ vui, Tịnh-độ nhàn vui.
    Cảnh thanh-minh sen báu nặc mùi,
    270. Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
    Vì phần Ta rất yêu-mến Đạo,
    Chẳng nệ chi trí siển tài sơ.
    Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
    274. Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét.
    Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
    Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
    Thường trau-giồi chí-hướng cao-thanh,
    278. Cho khỏi thẹn con lành Phật-Giáo.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 263 đến câu 278)
    -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ nhận xét kiếp sống của tất cả chúng sanh dẫy đầy sự đau thương thống khổ, chẳng khác nào cánh bèo bị gió tạt sóng nhồi, lênh đênh theo dòng nước giữa bể trần vô định. Đã vậy, mỗi chúng sanh còn phải luân chuyển biết bao lần trong ba cõi sáu đường, không thể so đếm được.
    -Vì quá thương xót chúng sanh, Đức Thầy mới nhắc lại lời Kinh pháp mà xưa kia Đức Phật đã thuyết giáo: sanh trong cõi Ta bà mỗi chúng sanh đã chịu vô vàn đau khổ, lại còn bị bao nhiêu cảnh khổ khác dồn tấp đến. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật đã nói: Ba cõi không an cũng như nhà lửa, chứa đầy sự khổ, rất khá ghê sợ, thường bị sự sanh, già, bịnh, chết, lo buồn…như các ngọn lửa thiêu đốt, chẳng hề ngưng dứt. (Tam giới vô an, do như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khổ bố úy, thường hữu sanh, lão, bịnh, tử, ưu hoạn như thị đẳng hỏa, xí nhiên bất túc). Thế mà chẳng mấy người xét nghiệm cho thấu hiểu ngọn ngành để tìm phương xa lánh.
    -Đối với cảnh Ta bà thống khổ thì có cảnh Cực lạc (Tịnh Độ) tột vui. Bởi cảnh nầy do công đức và nguyện lực của Đức A Di Đà tạo nên. Từ đất cát đến cung điện toàn bằng bảy báu, ánh sáng muôn trùng, nào hoa sen năm sắc, thanh lịch thơm tho; nào ao có nước “tám công đức”, chim kêu tiếng pháp, cây báu diễn lời lành. (Tám công đức: 1. Nước trong trẻo, 2. Man mát, 3. Ngon ngọt, 4.Mềm nhẹ, 5. Đượm nhuần trơn bóng, 6. Yên ổn hòa nhã, 7. Trừ đói khát, 8. Nuôi lớn các căn.) Đến các thức ăn, áo mặc đều tự sanh theo ý muốn và mỗi người có đủ phép thần thông tự tại. Thật là một cõi vô cùng trang nghiêm, vui đẹp:Không già, không bịnh chẳng ngày nào lo.(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa). Thế mà ít có ai thấu triệt được cái tột vui ấy.
    -Bởi lòng quá mến yêu đạo đức, nên Đức Giáo Chủ chẳng nệ chi trí siển tài sơ, đem lời quí báu của Phật, dệt lại mấy trang trong quyển Giảng nầy để khuyên khắp tín đồ, khi nhàn rỗi hãy lấy ra xem và nghiệm xét hầu có tiến thân trên đường sang Phật Quốc.
    Nếu ai biết giác ngộ tu hành thì hãy sớm dứt bỏ lòng mê si tà kiến, sân hận ghét ganh, siêng năng niệm Phật và làm lành lánh dữ. Đồng thời lo rèn luyện cho mình có một tâm chí kiên nhẫn để tiến hành theo định hướng thanh cao của đạo đức. Có được như vậy, ta mới xứng đáng là một tín đồ Đạo Phật.

    CHÚ THÍCH

    SỐNG KHỔ: Đời sống đau khổ. Ý nói kiếp sống của con người trong cõi trần gian chịu nhiều nỗi bi thương thống khổ, không một chúng sanh nào thoát khỏi. Đức Phật xưa từng bảo:“Đời là bể khổ, nước mắt của chúng sanh khóc cảnh sanh ly tử biệt từ vô thỉ đọng lại, nếu có chỗ chứa còn nhiều hơn bể cả”. Trong Trí Độ Luận cũng viết:“Vô lượng chúng sanh hữu tam chướng thân khổ: lão, bịnh, tử; tam chướng tâm khổ: tham, sân, si; tam chướng hậu thế khổ: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”.(Vô lượng chúng sanh có ba món khổ của Thân là: Già, bịnh, chết; ba món khổ của Tâm là Tham lam, Sân nộ, Mê si; ba món khổ của đời sau là: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.)
    Đức Thầy nay cũng nói:
    “Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
    Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.
    (Kệ Dân, Q.2)
    Cho nên, Ngài hằng khuyên:
    Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
    Rán tầm vào đến chỗ an cư.
    (Thiên Lý Ca)
    GIẠT TRÔI: Cũng gọi là trôi giạt. Có ý nói: vật gì bị sóng gió đánh bạt ra vào, lui tới nhiều lượt, lại bị nước đùa chảy trôi đi nơi nầy, nơi khác. Nghĩa bóng: chỉ cuộc đời của con người đầy gian nan khổ sở, rày đây mai đó.
    VÔ LƯỢNG THỨ: Xem chú thích chữ “vô lượng” tại tr. 218 Tập 3/3.
    TA BÀ: Xem chú thích tại tr. 62 Tập 2/3.
    TỘT CHỖ: Đến nơi cùng tột rốt ráo.
    TỊNH ĐỘ: Xem chú thích tại tr.198-199 Tập 3/3.
    THANH MINH: Trong sạch sáng sủa. Cảnh thanh minh là cảnh Cực lạc, vì cõi nầy rất yên lặng trong sạch nên có tên là “Thanh tịnh Hải hội”, và cõi nầy toàn bằng bảy báu, ửng ra ánh sáng vô cùng tận, nên có tên là “Vô Lượng Quang”. Gọi chung là Cảnh thanh minh.
    TRIỆT ĐÁO: Đến chỗ cùng tột, hơn hết. Vui triệt đáo là cái vui tột hơn hết, không có cái vui nào bằng.
    TRÍ SIỂN TÀI SƠ: Trí kém thiếu, tài thấp thỏi. Đây là tiếng nói khiêm nhượng. Đức Thầy cũng viết :
    Tài sơ trí siển nôm na,
    Mặc tình chê ghét phận ta ta tường”.

    (Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
    RỖI NHÀN: Rảnh rang thong thả, không bận việc. Đức Thầy khuyên:Lúc rảnh việc nên thường coi Kệ giảng.(Lời khuyên bổn đạo – Tám điều răn cấm).
    MÊ TÂM: Lòng mờ tối si mê, nhận lầm sự lý: vọng tưởng cho là trí huệ, việc chánh nhận ra tà, việc tà nhận ra chánh. Cũng đồng nghĩa với chữ vô minh và mê si.
    Trong “Sa Di Thập Giới” có đoạn:“Nỗi khổ bị thiêu đốt trong ba đường dữ, nỗi khổ của con Lạc đà, con Lừa chở nặng và nỗi khổ đói khát bức bách của loài Ngạ quỉ chưa gọi là khổ mấy; Si mê không tu học, chẳng biết hướng đi (giải thoát) mới gọi là khổ”.
    Cho nên Đức Giáo Chủ hằng dạy:
    Trần tâm rứt sạch cuộc mê si,
    Quan sát đạo mầu nẻo ẩn vi”.

    (Cho Ô. Trần Quang Hạnh)
    HỜN GHÉT: Tâm sân hận và ghen ghét, tật đố một trong tam độc (tham sân si) và cũng là một trong 10 món phiền não căn bản.
    Kinh xưa có nói:
    “Nhất niệm sân tâm khởi,
    Bá vạn chướng môn khai”
    Vị phiền não chi căn,
    Thọ tam đồ chi khổ.

    ( Một niệm lòng khởi sân si,
    Trăm ngàn cửa chướng tức thì mở khai.
    Phiền não là gốc chẳng sai
    Ba đường chịu khổ khó ngày thoát ra).
    Đức Thầy nay cũng dạy, trong bài “Thu Đã Cuối”:
    Vượt cảnh khổ muôn phần u ám,
    Ganh, ghét, hờn thì thảm muôn bề”.

    CẦN CHUYÊN: Xem chú thích tại tr.69 Tập 2/3.
    CHÍ HƯỚNG: Tâm chí và khuynh hướng. Lòng nghiêng ngã theo một đường hướng đã định thì quyết đạt cho được chí nguyện đó. Ví dụ: Ông ấy đã nuôi dưỡng một chí hướng đạo đức cao thượng.
    CAO THANH: Xem chú thích tại tr.80 Tập 2/3.

    CHÁNH VĂN
    279. Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo :
    Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
    Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
    282. Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc.
    Vào bụng mẹ chung quanh bao-bọc,
    Có khác nào ở chốn ngục tù.
    Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
    286. Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
    Ta kể sơ những điều bi-thống,
    Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn.
    Khi ra đời đau-đớn vô ngằn,
    290. Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 279 đến câu 290)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ nhắc lại lời giảng của Đức Thích Ca Mâu Ni:Tất cả chúng sanh trong cõi trần chịu muôn ngàn điều khổ não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể xảy ra muôn ngàn sự khổ não kia.(Sơ giải Tứ Diệu Đề). Sở dĩ có những nỗi khổ trên là vì chúng sanh có xác thân, nếu thân không có thì mọi sự khổ chẳng do đâu mà sanh được. Lão Tử cũng xác nhận điều nầy: Ta có đại hoạn, vì ta có thân, nếu ta không thân hoạn nạn đâu có (Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân; nhược ngô vô thân, hà hoạn chi hữu). Và Đức Phật đã từng giảng rõ:Thân là gốc của sự khổ. Nó là cái quả của các nghiệp tiền trần (quá khứ) mà nó cũng là cái nhân của quả vị lai”.
    Vậy cái khổ thứ nhứt là sự sanh, bởi những tiền kiếp chúng sanh còn tạo nghiệp sanh tử, nên thần thức phải đầu thai vào bụng mẹ. Ở trong đó bị bào thai bao bọc bịt bùng, như người tù bị nhốt trong ngục thất. Thai nhi bắt đầu chịu sự nuôi dưỡng bằng vật ô uế (tinh huyết) của mẹ, những khi người mẹ đau yếu, máu huyết không đầy đủ thai nhi phải ốm thon lại. Lúc mẹ đói lòng, cũng như cái túi treo lơ lửng thường hay chới với. Ngược lại, khi mẹ được ăn uống no bụng thì thai nhi bị sự chèn ép của bao tử và ruột rất chật chội khó khăn. Suốt thời gian ở trong bào thai hài nhì phải chịu bao lần khổ đau, sầu cảm vì ảnh hưởng nơi người mẹ.
    -Chẳng thế, khi đúng ngày khai nở, thai nhi phải ép mình để chui ra “Sản môn ô uế”, thật là đau đớn vô cùng, như một con voi chui qua kẹt đá nhỏ. Cho nên lúc ra khỏi mình mẹ, đứa bé phát lên tiếng khóc “khổ a”, chứng tỏ đã nếm cái hương vị của cõi đời đầy trược khổ.

    CHÚ THÍCH
    NHIẾP LẠI: Gồm lại, thâu gọn lại hay tóm lại.
    TÁM PHẦN: Do chữ Bát khổ, tức tám phần đại khổ của mỗi chúng sanh, gồm có: Sanh, Lão, Bịnh, Tử, Mưu cầu bất đắc, Ái biệt ly, Oan tắng hội, Ưu sầu lo ngại.
    HUYẾT KIỆT: Máu khô cạn hay là hết. Đây ý nói vì đau ốm nên máu huyết trong người bị giảm bớt, khô dần.
    HÌNH THU: Thân thể bị co rút lại. Đây chỉ cho xác thân của đứa con trong bào thai bị ốm thon lại, bởi người mẹ mang bịnh mà ra.
    LỎNG BỎNG: Tiếng chao của một vật đựng trong bầu lỏng lẻo và lững đững không đụng đâu. Ví dụ: Lắc bầu nghe lỏng bỏng ở trong.
    BI THỐNG: Thương cảm đau nhức. Ý chỉ cho sự quá đau xót thương cảm.
    VÔ NGẰN: Không bờ bến, chẳng biết đâu là cùng. Đây có nghĩa không sao kể xiết.
    DƯƠNG THẾ: Cõi đời, cõi có ánh sáng mặt trời, đối với cõi âm không có ánh sáng. Chỉ cho thế giới loài người đang sống.

    CHÁNH VĂN
    291. Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
    Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân.
    Hết tráng-cường đến lúc mòn thân,
    Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
    Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi,
    296. Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng ?
    Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng,
    Đeo hành phạt xác thân ô-uế.
    Bởi thời-thế chuyển xây biến-thể,
    300. Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
    Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
    Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối.
    Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
    304. Còn mang thêm tật nọ tật kia.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 291 đến câu 304)
    -Đến giai đoạn thứ hai là sự già khổ. Từ khi cất tiếng chào đời đến khi thân hình mạnh khỏe, vui tươi của tuổi xuân đầy nhựa sống, như một đóa hoa đang cười nụ, khoe hương. Phút chốc bị thời gian cướp mất, với tấm thân quắc thước hiên ngang, với bao vẻ yêu kiều diễm lệ, giờ đây chỉ còn trong mộng tưởng. Một nhà thơ đã cất tiếng buồn than:
    Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,
    Một thân khô kiệt, nghĩ buồn tênh.
    (Cổ Thi)
    Thật vậy, bấy giờ chỉ còn lại một thân già nua, gầy đét, gối mỏi lưng còm, mắt mờ tai điếc và mỗi khi đi, đứng, nằm, ngồi rất chậm chạp khó khăn. Xét qua thể trạng ấy, thử hỏi khách trần gian ai mà chẳng công nhận sự già là một nỗi khổ khôn cùng.
    -Đến thứ ba là sự đau khổ. Có nhiều nguyên nhân làm cho con người phải vương mang bệnh tật: 1. Do thời tiết nóng lạnh, gió mưa thay đổi, khiến tạng phủ xoay chuyển theo không kịp mà sanh bịnh. 2. Do sự ăn uống ngủ nghỉ thiếu chừng mực, vệ sinh, hoặc ăn phải các món không hạp cơ thể mà sanh đau yếu. Ngoài ra cũng còn các lý do như nghiệp quả và phiền não (tham sân si) thành ra bịnh.
    -Khi một người đã mang bịnh thì cả thân xác, tinh thần lẫn quyến thuộc đồng chịu khổ: thân thì mất ăn bỏ ngủ, đau nhức khó chịu, phần tâm trí từ lo sợ đến bấn loạn hôn mê; còn thân quyến thì lo thuốc thang chạy chữa đủ cách. Nhiều khi bệnh nhơn không được lành hẳn, lại còn phải mang tật suốt đời, thật là khổ thảm muôn phần.

    CHÚ THÍCH
    LÃO KHỔ: Những nỗi khổ về sự già yếu, đây là cái khổ thứ nhì trong Bát khổ. Người xưa từng bảo:
    “Già nua là cảnh điêu tàn,
    Cây già cây cỗi, người già người suy”.

    A Hàm Kinh có chép:“Nhứt lão sơn, vị nhơn lão mại, tắc hình sắc khô tụy, tinh thần hôn muội, lão sơn năng hoại, nhứt thiết tráng niên chi hạnh sắc dã.”(Một là núi già, là gọi người già yếu thì hình thể khô đét, tinh thần mờ mệt. Núi già có thể phá hoại mọi hình sắc tươi đẹp của tuổi tráng niên).
    THÀNH NHÂN: Xem chú thích tại tr.237,Tập 3/3.
    TRÁNG CƯỜNG: Mạnh mẽ, sức mạnh của thời tráng niên hay tướng dạng lực lưỡng của tuổi trẻ.
    LAO NHỌC: Mệt mỏi, cực nhọc quá sức.
    MA BỊNH: Ma (Phạn ngữ: mâra), có nghĩa cái năng lực làm trở ngại, nhiễu loạn hay cướp đoạt mạng người; bịnh có nghĩa là đau ốm. Bởi sự đau ốm hay phá hoại, làm trở ngại và cướp đoạt mạng người nên gọi nó là ma bịnh. Chính nó là sự khổ thứ ba trong Bát khổ. Đức Thầy còn có câu:Để ma bịnh theo hờ bén gót.(Thu Đã Cuối).
    LÀM NHĂNG: Làm việc xằng bậy, phá phách, gây khó khăn chẳng cho yên ổn.
    HÀNH PHẠT: Hành hạ răn phạt. Ý nói bịnh hoạn làm cho xác thân con người bị khổ sở, như bị ai đày đọa đánh đập.
    XÁC THÂN Ô UẾ: Thân xác dơ bẩn, không trong sạch. Xác thể của mỗi chúng sanh, tuy bên ngoài bao phủ một lớp da mịn màng trơn láng, dễ nhìn, dễ cảm nhưng xét kỹ bên trong chứa đầy gan ruột, phổi phèo, máu thịt, toàn là vật không sạch và cửu khiếu* cùng các lỗ chơn lông thường rịn chảy ra những vật thúi hôi, nên gọi là thân ô uế.(*Cửu khiếu: 9 lỗ: 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, 2 mắt, 1 miệng, 1 đường đại và 1 đường tiểu).
    Ngài Hoài Tây Cư Sĩ có luận rằng:“Thân ta từ khi nhập vào bào thai đến lúc sanh ra có bảy lần không sạch”:
    1)-Chủng tử không sạch: do từ vọng niệm ái dục của cha mẹ mới sanh.
    2)-Thọ sanh không sạch: Nhờ tinh huyết của cha mẹ mới thành thai.
    3)-Chỗ ở không sạch: Ở dưới tạng phủ của mẹ thật là ô uế.
    4)-Vật ăn không sạch: Mỗi ngày nút huyết trong bào y mà sống và lớn lên.
    5)-Lúc sanh không sạch: Thai nhi phải lăn lóc trong cửa trược lộ mà ra.
    6)-Bốn vóc không sạch: Trong bụng chứa đầy những vật ô uế.
    7)-Ngày rốt ráo chẳng sạch: Khi chết cả thân đều sình lên hôi hám khó kể, cho đến khi tàn mất.
    (Phần Hán văn: Nhất chủng tử bất tịnh, Nhị thọ sanh bất tịnh, Tam trụ xứ bất tịnh, Tứ thực đạm bất tịnh, Ngũ sở sanh bất tịnh, Lục cử thế bất tịnh, Thất cứu cánh bất tịnh.)
    THỜI THẾ: Thời là mùa tiết, thế là cõi đời. Nói chung là mùa tiết trong cõi đời (xem thêm chữ Tiết tại tr. 228 Tập 3/3).
    BIẾN THỂ: Thay đổi trạng thái khác, từ mùa tiết nầy đổi sang mùa tiết khác.
    ĐIỀU HÒA: Hòa hợp nhau và có độ lượng chừng mực.
    CĂN BỊNH: Gốc bịnh.
    TRẰN TRỌC: Bứt rứt, lăn lộn, trăn trở, không yên.
    HÔN MÊ: Trạng thái của người bịnh nằm mê man thiêm thiếp, như say, như ngây ngất không còn biết gì nữa.
    TẬT: Mang bịnh suốt đời không chữa trị được gọi là tật, hoặc giả sau một cơn bịnh nặng, người đau còn mang tật: đui, điếc, câm, ngọng, què, xụi.v.v…

    CHÁNH VĂN

    305. Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
    Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
    Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
    308. Có sanh ra khổ-hải đâu chừa.
    Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
    Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát.
    Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác,
    312. Trí vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng.
    Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
    Giã cõi tạm theo đường tội phước.
    Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
    Mà cũng không thoát luật tuần-huờn.
    Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
    318. Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 305 đến câu 318)
    -Đến lượt thứ tư là cái khổ về sự chết. Khi người lâm cơn bịnh nặng, gia đình hết phương chạy chữa và thân xác không còn chịu đựng nổi, đành đi lần vào cõi chết. Phàm sanh ra cõi đời hễ cái gì có hình tướng đều phải hư hoại (Phàm hữu sở tướng giai thị hư vọng). Thế nên con người đã có sanh ra, tất phải đi theo định luật già, bịnh rồi chết mất, chớ không một ai thoát khỏi. Những nỗi khổ ấy sâu dày như biển rộng, chẳng biết đâu là bờ bến.
    -Thử ôn lại quãng đời con người từ sanh ra cho đến khi chết, sự lao khổ không sao kể xiết. Sanh ra đã khổ, bệnh tật lại còn khổ hơn, thêm nỗi phải lo sao cho có cơm ăn áo mặc, dầm mưa dãi gió, xuôi ngược bao lần. Vì mãi tháo vác việc đời mà phải sức cùng, lực tận để rồi một ngày kia cái thân giả hợp nầy theo luật đào thải mà tan nát và trả về cho tứ đại. Xét ra còn cảnh tượng nào đau khổ bằng khi thấy trạng thái con người lúc hấp hối lìa trần: mắt họ trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn loạn, kinh sợ tiếc thương đều phô diễn; rồi dần dần họ lịm đi để giã biệt cõi đời ảo mộng. Tất cả những vật sở hữu đều bỏ lại hết, chỉ còn mang theo các nghiệp nhân tội phước đã gây tạo lúc sanh tiền.
    Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
    Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
    Chỉ có tội phước hỡi còn,
    Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài,
    Phước nhiều Tiên cảnh lên rày
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    -Vả lại trong đời biết bao bực Đế Vương Khanh tướng, thế lực tiền tài, danh y, bác học, họ tìm đủ phương cách ngăn ngừa, cứu chữa để kéo dài tuổi thọ, nhưng rồi cũng phải khuất phục trước luật tuần hườn. Dù cho có học phép trường sanh hay ẩn mình nơi hang cùng, núi thẳm cũng không thoát khỏi tử thần.

    CHÚ THÍCH
    TỬ KHỔ: Nỗi khổ trong lúc chết. Cái khổ thứ tư trong Bát khổ.
    HỮU HÌNH TẮC HOẠI: Cái gì có hình tướng thì phải hư hoại. Ý nói cả vũ trụ vạn hữu, từ sơn hà đại địa, sự nghiệp của tiền, cho đến xác thân của con người đều đi theo định luật thành, trụ, hoại, không, chớ chẳng có một vật nào trường tồn cả. Trong Kinh Di Giáo, Phật nói:“Nhứt thiết thế gian động bất động pháp, giai thị bại hoại bất an chi tướng.”(Tất cả các vật động hay không động ở trong thế gian đều là tướng chẳng an). Và Kinh Hiền Ngu cũng bảo :
    Nhứt thiết hành vô thường, sanh giả giai thị khổ.
    Ngũ ấm không, vô tướng, vô hữu ngã, ngã sở”.

    (Hết thảy đều vô thường, sanh ra tất phải khổ.
    Năm ấm không có tướng, ta và của đều không).
    Đức Thầy nay cũng hằng cảnh giác:
    Cảnh dương gian muôn thảm ngàn sầu,
    Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
    Sông với núi trước kia mắt ngó,
    Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
    Ai biết đường hãy sớm tẩu đào,
    Kiếm đạo lý mà nhờ mà nhỏi.

    (GMTK, Q.4)
    KHỔ HẢI:Xem chú thích chữ biển khổ tại tr.170 Tập 1/3.
    HUYỄN THÂN: Thân giả hợp không có thật. Bởi nó là hiện thân của nghiệp báo, cũng là dưới sự chi phối của nhân duyên, nên nó biến hoại không thường, thay đổi chẳng ngớt, như mới trẻ đó kế già, rồi chết mất. Lại nữa thân xác con người do tứ đại (đất, nước, gió. lửa) hợp thành, nên khi chết rồi thì xương, thịt rã ra hườn lại đất, máu huyết chảy theo nước, hơi thở hòa theo gió, sự ấm trở về với sức nóng của mặt trời, chớ không còn nguyên được, nên gọi là huyễn thân. Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
    Tuồng huyễn hóa ai bày ra đấy,
    Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
    Trăm năm còn có gì đâu ?
    Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì !”
    Đức Thầy cũng bảo:Nào hay thân vô thường tạm mượn do tứ đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tan không chi bền chắc…”(Lời Khuyên Bổn Đạo). Và Ngài thường cảnh tỉnh:
    Biết được trần gian là mộng huyễn,
    Tử thần sửa soạn kéo vào quan”.

    (Tỉnh Bạn Trần Gian)
    HẤP HỐI: Sắp chết, thần thức sắp lìa khỏi xác.
    XAO XÁC: Bấn loạn, không an định tỉnh táo.
    VẨN VƠ: Nhởn nhơ, rối rắm, nhớ nghĩ chuyện không đâu. Đức Thầy nói:Trí vẩn vơ tuởng nhớ đó đây.(Khuyến Thiện, Q.5).
    LÂM CHUNG: Đến lúc cuối cùng, lúc chết.
    CÕI TẠM: Tức cõi giả tạm. Ý nói cõi đời chúng sanh đang ở không chắc thật lâu dài.
    Nhân Vương Kinh có chép:“Chư giới thú sinh, tùy nghiệp duyên sanh, như ảnh như hưởng, nhứt thiết giai không.”(Các thế giới đã có đều do duyên nghiệp mà sanh, giống như hình bóng và tiếng dội, chớ sự thật thảy thảy đều không). Đức Thầy hằng cho biết:Công danh phú quí chung hườn mộng.(Không Không). Và:
    Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần,
    Thế trần tạm giả gạt đời ta”.

    (Tỉnh Bạn Trần Gian)
    TỘI PHƯỚC: Các điều hung dữ, tà quấy gian xảo là tội, còn các việc chơn chánh, hiền lành là phước. Như phạm tội ngũ nghịch, thập ác và các giới luật của Đạo là tội. Còn hành thập thiện, giữ giới và có lòng từ bi thương người mến vật là phước.
    Xưa, Đức Phật dạy rằng:Cầu phước chẳng qua trai giới, bố thí; cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn những tư tưởng quấy”.
    Đức Thầy cũng từng viết:
    “Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
    Quỉ vô thường đắt xuống Diêm Đình.
    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.
    (Kệ Dân, Q.2)
    LUẬT TUẦN HUỜN: Luật xoay vần của vạn vật trong thế gian, hễ đi giáp vòng thì trở lại chỗ phát khởi. Cả vũ trụ vạn hữu đều xoay theo định luật “Thành, trụ, hoại, không” hay là “Sanh, già, bịnh, chết”. Đây gọi tắt là Luật sanh tử, hễ con người có sanh ra tất phải có chết rồi tiếp tục sanh trở lại. Chỉ có người tu hành giải thoát, mới vượt khỏi.
    CÙNG CỐC THÂM SƠN: Hang cùng, núi sâu.
    TỬ THẦN: Thần chết. Vì cái chết ai cũng ghê sợ, nên cho nó là Tử thần. Đức Thầy cũng viết:Thần chết kia ôm hót bên mình.(Thu Đã Cuối).
    Xưa, có bốn anh em phạm chí (tu sĩ Bà la môn ), đã tu luyện đắc được ngũ thông, mỗi người đều biết rõ bảy ngày nữa sẽ chết một lượt, nên họ hợp nhau để tìm kế hoạch lánh tử thần.
    -Anh thứ nhứt nói: Tôi sẽ tàng hình vào giữa hư không, thì tử thần chẳng biết đâu mà bắt.
    -Anh thứ nhì cho biết: Tôi sẽ xuống biển lặn trong nước, trên chẳng ló đầu, dưới không đụng đất thì tử thần chẳng biết tôi đâu mà tìm.
    -Anh thứ ba trình bày: Tôi sẽ chẻ núi Tu Di, vô ngồi ở trong rồi khép lại, tử thần làm gì kiếm được tôi.
    -Anh thứ tư cười bảo: Riêng tôi sẽ giả hình khác rồi lẫn lộn vào chợ đông, tử thần vô phương tìm gặp.
    Bàn tính xong, đợi gần tới ngày giờ bốn người đồng thi hành theo diệu kế của mình, nhưng đúng giờ phút ấy bốn anh em đồng chết một lượt.
    Bấy giờ Đức Phật đang ngồi nơi Tịnh xá, dùng Đạo nhãn thấy rõ mọi việc của bốn Phạm Chí, bèn kể rõ cho các đệ tử nghe, đoạn Ngài ngâm bài Kệ:
    Phi không phi hải trung,
    Phi nhập sơn thạch gian,
    Vô hữu địa phương sở
    Khả thoát bất thọ tử”.

    (Chẳng không chẳng biển cả, Chẳng vào trong núi đá, Không có miếng đất nào, Thoát được cái chết cả).

    CHÁNH VĂN
    319. Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tỏi,
    Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.
    Người trên đời ai cũng lòng tham,
    322. Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.
    Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,
    Không được thì bực-tức ưu-phiền.
    Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,
    326. Vậy có phải khổ hay là chẳng ?
    Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
    Người mình thương bỗng lại chia-lìa.
    Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,
    330. Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
    Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
    Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên.
    Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
    334. Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
    Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,
    Đến xong đời để lại sầu-ưu.
    Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
    338. Cũng chung chịu như người tăm-tối.

    Lược Giải (Từ câu 319 đến câu 338)
    -Đến khổ thứ năm là những nỗi khổ mưu tính tham cầu mà chẳng thành.
    Khởi nguyên từ lòng ham muốn, chúng sanh mới rơi vào cõi tục, nên khi sanh ra cõi đời con người đã có sẵn hột giống tham lam. Muốn sao cho mình được ở lầu các cao sang, nào ruộng cả nhiều tiền, uy quyền chức tước, nào vợ đẹp hầu xinh, vàng vòng gấm nhiễu, cả gia đình đều sống một cuộc đời hạnh phúc triền miên.
    -Ngược lại, nếu sự mong muốn ấy không đạt thành thì con người bứt rứt xốn xang, u buồn dã dượi, cả tâm trí bị quay cuồng đảo lộn không phút nào an tịnh, có khi phải liều mình tự sát. Trước cảnh trạng ấy, ai trông vào mà chẳng công nhận đây là một nỗi khổ.
    -Tới lượt thứ sáu là các nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà phải chia lìa.
    Ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu nhau rất mực, nên muốn sống mãi mãi bên nhau, nhưng rất không thể toại nguyện. Trong lúc cảm thương khắng khít bỗng gặp cuộc phân ly, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột thắt từng cơn, bao nỗi nhớ thương thật vô cùng chua xót mà cả thế giới loài người có mấy ai vượt khỏi.
    -Phàm hễ có gia đình phải có sợi dây ái ân ràng buộc, chằng chịt nợ duyên, gốc bởi tiền căn vọng tưởng. Giữa tình cha con, chồng vợ lúc nào cũng đậm đà gắn bó, song vì mưu cầu cho cuộc sống, hoặc vì tình cảm éo le khiến phải chia tay. Lúc ấy, kẻ phiêu bạt chơn trời ôm nỗi buồn thương đau xót, người ở lại ngày đêm chờ đợi nhớ nhung. Thì ra cuộc đời chỉ là một trường “bi hoan ly hiệp”, đau khổ trường miên, ít khi nào được an vui thư thái.
    -Sanh ly đã khổ, tử biệt lại còn khổ hơn, hết hồi tan hiệp, hiệp tan; kế đến lúc có một người chấm dứt cuộc đời thì bao kẻ còn ở lại, đành ôm mối sầu ưu vĩnh viễn. Cái khổ nầy dầu cho kẻ cao sang tài trí, cũng phải chung chịu như bao nhiêu người hạ tiện.

    CHÚ THÍCH
    CẦU CHẲNG THÀNH: Do chữ “Mưu cầu bất đắc khổ”, tức là cái khổ thứ năm trong Bát khổ. Có nghĩa: sự khổ về việc mưu tính mong cầu mà chẳng được như ý.
    PHƯỚC THỌ: Được hạnh phúc và sống lâu.
    PHẨM HÀM: Chức tước, cấp bực của hàng quan lại. Đây chỉ cho ba việc danh, lợi, quyền.
    HẦU XINH: Người tỳ thiếp (vợ nhỏ) có nhan sắc, cũng gọi là nàng hầu, vì bổn phận của tỳ thiếp phải theo hầu hạ chồng và vợ lớn.
    LÀ LỤA: Các thứ hàng mỏng, dệt bằng tơ rất mịn, láng và đẹp. Nghĩa bóng chỉ cho sự ăn mặc, chưng diện sang trọng. Đức Thầy cảnh tỉnh, trong “GMTK, Q.4”: Nào lụa là lãnh nhiễu tố sô,
    Chớ ham mến mà sau lao lý”.

    BỰC TỨC: Bứt rứt xốn xang vì không thỏa mãn điều mong ước.
    ƯU PHIỀN: Lo buồn sầu não.
    TÂM THẦN: Xem lại chú thích tại tr. 124 Tập 3/3.
    ĐIÊU ĐỨNG: Khốn khổ, ở trong tình trạng khó lo toan.
    ĐẢO ĐIÊN: Xem lại chú thích tại tr. 228 Tập 3/3.
    BIỆT LY: Do chữ “Ái biệt ly khổ”, tức cái khổ thứ sáu trong Bát khổ. Có nghĩa những người mình đã thương yêu, như vợ con và thân bằng quyến thuộc mà lại bị chia lìa, nên phải khổ.
    ĐẦM ĐÌA: Dầm dề. Ví dụ: Dòng lệ đầm đìa.
    ĐEO ĐẮM: Mang mển, ràng buộc khó mà rời rứt ra được.
    CĂN DUYÊN: Căn là gốc rễ, duyên là duyên do, là nguyên nhân. Đây ý nói duyên gia đình chồng vợ (tiền khiên túc trái) đã ràng buộc với nhau do từ nhiều kiếp trước tới giờ.
    TRUÂN CHUYÊN: Xem lại chú thích tại tr.216 Tập 3/3.
    LƯU LẠC: Trôi rụng. Ý nói đời sống bị dời đổi, nay nơi nầy, mai nơi khác như nước trôi hoa rụng.
    TAN HIỆP: Cũng gọi là tan hợp. Có nghĩa: đời sống của gia đình thân tộc có lắm lần xa nhau rồi hợp lại. Đây là định luật “bi hoan ly hiệp” của dòng đời, không mấy ai tránh khỏi. Đức Thầy từng nói: Đời cùng Đạo bi hoan ly hiệp.(Nang Thơ Cẩm Tú).
    ÂN ÁI: Tình cảm thân yêu, gắn bó giữa cha con, chồng vợ, thân tộc…
    SẦU ƯU: Buồn rầu lo lắng.
    TRÍ MƯU: Trí là thông minh, có tài xét đoán, mưu là tính toán kế hoạch. Nói chung là người có học thức, sáng láng và đủ tài mưu mẹo.

    CHÁNH VĂN
    339. Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
    Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
    Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,
    342. Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.
    Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
    Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.
    Làm cho người đau-đớn âm-thầm,
    346. Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
    Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,
    Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.
    Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
    350. Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.
    Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,
    Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười.
    Giàu thì lo chen lấn với người,
    354. Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.
    Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
    Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.
    Lo tước-quyền cho được thơm-tho,
    358. Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 339 đến câu 358)
    -Đến lượt thứ bảy là các nỗi khổ giữa những người oán thù, hận ghét với nhau mà thường gặp gỡ.
    Phàm người ở đời hễ có thương tất có ghét mà nguyên do là sự hơn thua cao thấp, tranh chấp giữa nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn ai. Từ đó đôi đàng đâm ra oán hờn thù hận, rồi dần đến chỗ ấu đả chém giết lẫn nhau.
    -Một khi đã thành cừu địch thì không ai còn muốn nghe thấy tăm hơi, hình thể nhau nữa, vì khi gặp nhau lòng rất xốn xang khó chịu, như kim châm vào mắt. Nhưng khổ nổi càng muốn tránh xa lại càng thường gặp gỡ, nên khi giáp mặt nhau đôi đàng đều ôm ấp nơi lòng bao sự khổ đau thù ghét. Nỗi khổ này cứ thế mà tiếp tục diễn ra như một truyền thống của nhân loại.
    -Còn cái khổ thứ tám là những nỗi khổ lo sợ buồn rầu mà trong đời ít có người giải thoát được. Bởi cảnh hồng trần là cuộc bể dâu, nay dời mai đổi:Cuộc tang thương biến cải cảnh trần.(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Cảnh thiên nhiên còn phải nay lở mai bồi thì kiếp sống con người đâu tránh khỏi sự giàu nghèo thay đổi. Ôi ! bao nỗi vui buồn lo nghĩ tràn ngập tâm tư, bởi lòng người còn tham vọng và chưa nhận được đời là mộng ảo.
    -Kẻ nghèo thì lo chạy sớm chạy chiều, tảo tần vất vả, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau, nào nợ nần chồng chất, đau không thuốc uống, cơm bữa đói bữa no; nào cửa nhà xiêu dột, quần áo rách rưới lang thang. Thật là:Nhà nghèo dạ tợ như bào, Vợ đau con yếu phương nào cho an.(Khuyến Thiện, Q.5). Thêm nỗi bị người khinh chê cười nhạo, khiến lòng càng đau buồn, tủi nhục cho kiếp số quá vô phần bạc phước.
    -Đến như hạng giàu sang, cũng chẳng mấy ai được an vui thư thái, vì khi đã dư ăn, dư để lại muốn giàu thêm cho hơn thiên hạ, nên họ chẳng dứt lo nghĩ tính toán. Muốn sao cho ruộng đất cò bay thẳng cánh, vàng bạc của cải đầy ấp cả nhà bất kể hành động xấu tốt, miễn bao gồm tiền của trong thế gian về cho mình mới hả dạ:
    Biết sao đầy được túi tham,
    Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

    (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
    -Chẳng thế, khi có của họ còn phải lo cho mình được tước quyền danh vọng để ăn trên ngồi trước hơn người. Hằng đêm còn nơm nớp lo âu, vì sợ trộm cướp đào tường phá cửa. Cũng chưa hết, họ còn phải lo tính đến số người thiếu nợ, lời vốn ra sao, hoặc đòi cho được hoặc cốn chồng lên, để rồi ít lâu dỡ nhà lấy đất mà trừ.
    Xét như trên, từ hạng nghèo khó đến bực cao sang quyền quí đều phải chung chịu cái khổ “ưu sầu lo ngại”.

    CHÚ THÍCH
    KHỔ OAN TẮNG HỘI: Các nỗi khổ của những người đã thù ghét và chẳng ưa nhau mà lại thường gần gũi, gặp gỡ nhau, là khổ thứ bảy trong Bát khổ. Niết Bàn Kinh có chép:“Sao kêu là “Oan tắng hội khổ”? Ấy là cái khổ mà con người buộc lòng phải chung cùng, gần gũi với những nhân vật và hoàn cảnh chính mình không ưa thích”.
    NHẪN NHỊN: Xem chú thích chữ “nhẫn nhục” tại tr. 133-136 Tập 3/3.
    CỪU OÁN: Thù địch căm hờn nhau.
    TÂM DẠNG: Hình dáng tim hơi. Đừng trông tâm dạng là không còn nghe thấy hình bóng, dáng dấp nữa.
    ÂM THẦM: Lặng lẽ giữ kín nơi lòng, không cho ai biết.
    ÂU SẦU LO NGẠI: Những nỗi khổ về sự buồn rầu lo sợ, thứ tám trong Bát khổ. Cái khổ nầy các Kinh cũng chép là:“Ngũ Ấm xí thạnh khổ.”(Năm ấm hiệp lại làm thân người, nếu chẳng điều hòa, có một ấm nào lừng lẫy thì làm cho người phải khổ).
    TANG THƯƠNG DÂU BỂ: Do câu “Thương hải biến di tang điền” hoặc “Tang điền biến di thương hải”. Có nghĩa biển xanh hóa ra ruộng dâu hay ruộng dâu hóa ra biển xanh. Ý nói sự đời thay đổi nghèo giàu, tan hợp, vui mừng, lo sợ không chừng.
    Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
    Phong trần đến cả sơn khê,
    Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy”.
    Đức Thầy cũng từng bảo:
    Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
    Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng”.

    (Lộ Chút Cơ Huyền)
    DUYÊN SỐ: Căn duyên và số phần của mỗi người hay nhiều người.
    BẢO THỦ: Gìn giữ, giữ lấy. Một trong mười hai nhân duyên
    GIAN PHI: Kẻ gian dối, làm điều chẳng phải: không đúng đạo nghĩa chánh đáng. Đây chỉ cho kẻ trộm cướp.

    CHÁNH VĂN
    359. Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say?
    Chẳng tu thân đặng dựa Phật-Đài,
    362. Cho thong-thả hưởng mùi sen báu.
    Thần-Thức nhập Thai-Sen tinh hảo,
    Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
    Thân thì Thân Công-Đức hiền lành,
    366. Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
    Thể Thanh-Tịnh thường không huyên náo
    Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
    Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
    370. Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
    Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
    Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
    Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
    374. Thoát luân-chuyển khỏi đeo khổ tử.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 359 đến câu 374)
    -Tám điều khổ đã luận giải qua, cả chúng sanh trong thế giới Ta bà, dù kẻ sang người hèn hay già trẻ trí ngu cũng đồng chung chịu, chớ không một ai được thung dung thong thả. Thế mà nhân loại cứ mãi say mê đắm đuối, nên Đức Giáo Chủ phải cất tiếng buồn thương, sao chẳng sớm lo trau thân gìn Đạo, niệm Phật làm lành, hướng về Phật quốc để được thù hưởng vị diệu mầu của mùi sen báu. Cho nên đối với cõi Ta Bà có tám điều khổ, cõi Cực Lạc lại có tám điều vui:
    1/-Nếu chúng sanh nào được vãng sanh về Lạc Quốc thì thần thức gá vào thai sen tinh khiết nơi ao thất bảo. Lúc ở trong đó thần thức cũng được hưởng sự vui đẹp trong lành:Diệm Hồng-Liên thơ thớ quần ca.(Cho Ô. Tham tá Ngà). Khi đúng ngày giờ nở ra thân Liên hoa trang nghiêm, đẹp đẽ. Không như cõi Ta Bà phải ở trong bào thai ô uế và khi sanh cả mẹ lẫn con đau đớn vô ngần, nên ở cõi Cực Lạc chẳng hề có các nỗi khổ về sự sanh.
    2/-Sở dĩ có được cái thân trong sạch, đủ 32 tướng hảo, bởi hương nhụy của sen báu cấu thành là do thời gian chí tâm niệm Phật và tu tập công đức. Cho nên thân liên hoa được trẻ đẹp luôn luôn, không hề bị biến hoại hay già yếu. Vì vậy mà cõi Cực lạc chẳng hề có các nỗi khổ về sự già nua lờ lệch.
    3/-Ở cõi Cực lạc thân tâm luôn được thanh tịnh an nhiên, lại thời tiết rất điều hòa trong mát, nên không còn lo sợ bị mưa nắng bất hòa, nhiễu loạn thân xác. Do đó người ở cõi ấy không còn bị những nỗi khổ về bệnh tật.
    4/-Đã không già yếu, bệnh tật nên người ở cõi Cực lạc được sống vô lượng số tuổi, đồng hưởng thọ trường tồn bất diệt ngang hang với chư Bồ Tát và Đức Phật Di Đà, chẳng còn luân hồi sanh tử, nên không hề có các nỗi khổ về sự chết.

    CHÚ THÍCH
    TU THÂN: Xem chú thích tại tr. 146 Tập 2/3.
    PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự. Đây có nghĩa nơi Phật ngự, cõi Phật, cũng có ý chỉ cõi Cực lạc. Đức Thầy từng nói:Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài.”(Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Ông Bà), khác nghĩa với câu:Phật đài phưởng phất mùi hương.(Khuyến Thiện, Q.5).
    THẦN THỨC: Cái tâm thức linh diệu của giống hữu tình, cũng gọi là thần hồn hay linh hồn, nhưng theo kinh Phật còn gọi là Hữu hay Ấm, chia ta bốn thời gian:
    1-Hiện ấm (bản hữu) là chỉ cho lúc thân còn sống hiện tại.
    2-Tử ấm (tử hữu) là khi thân tiêu hoại.
    3-Trung ấm (trung hữu) là sau khi chết mà chưa đi đầu thai.
    4-Sanh ấm (sanh hữu) là sau khi chuyển thế đầu thai rồi.
    Do cái sanh rồi tới các ấm…bốn ấm cứ tiếp nối xoay vần không khi nào dứt. Sanh ấm và tử ấmthì thời gian của nó rất ngắn ngủi. Hiện ấm thì tùy theo thọ mạng của loài sống hoặc dài hoặc ngắn, còn thọ mạng của trung ấm ngắn là 7 ngày, dài là 49 ngày. Cái Thần Thức nói đây là cái Thân trung ấm.
    THAI SEN: Bào thai bằng hoa sen, căn cứ theo Kinh Di Đà, người tu theo Pháp môn Tịnh độ (niệm Phật làm lành); khi lâm chung thần thức vãng sanh về cõi Cực lạc được gá vào hoa sen nơi ao thất bảo. Tùy theo công đức tu tập của hành giả đó mà hoặc lâu, hoặc mau được nở ra thân liên hoa, nên gọi là thai sen.
    Ông Sư Vãi Bán Khoai đã xác minh:
    “Niệm Phật sen nở đợi chờ,
    Cây nào bông nấy bốn mùa tốt tươi”.
    Đức Thầy cũng nói:
    Tây phương đua nở hoa liên,
    Chờ người hữu phước thiện duyên từ hoà”.

    (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
    Hoặc: “Ao sen báu Tây phương đua nở,
    Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.(Kh.Thiện, Q.5)
    TINH HẢO: Tốt đẹp, trong sạch, chẳng chút trần cấu bụi nhơ.
    CÔNG ĐỨC: Xem chú thích tại tr. 217 Tập 3/3.
    DI DỊCH: Dời đổi. Có ý nói thân người ở cõi Cực lạc chẳng hề bị thay đổi từ trạng thái trẻ ra già.
    THANH TỊNH: Xem lại chú thích tại tr.181 Tập 3/3.
    HUYÊN NÁO: Ồn ào, náo động, bận rộn không yên tịnh. Ví dụ: Ở gần chợ huyên náo suốt ngày.
    LAO ĐAO: Xem chú thích tại tr. 164 Tập 2/3.
    SANH MẠNG: Mạng sống, kiếp sống.
    ĐỒNG THỌ: Cùng sống lâu như nhau, không hề chết mất hay chênh lệch số tuổi.
    AN NHIÊN: Yên ổn tự nhiên, lúc nào cũng như vậy, không có sự sanh tử.
    BẤT DIỆT: Chẳng chết mất, chẳng hư hoại.
    TRƯỜNG TỒN: Còn lâu dài mãi mãi.
    LUÂN CHUYỂN: Xem chú thích tại tr. 62 Tập 2/3.

    CHÁNH VĂN
    375. Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
    Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai.
    Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật-Đài,
    378. Khỏi quả khổ mưu-cầu-bất-đắc.
    Cả Hải-Chúng thảy đều vững-chắc,
    Toàn dân lành đâu có đắn-đo.
    Dứt ái-ân quyến-thuộc chuyện-trò,
    382. Thoát sống khổ thương-yêu-ly-biệt.
    Chữ Hoà-Thuận kể sao cho xiết,
    Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy.
    Cảnh như như chẳng có đổi thay,
    386. Không màng biết phân chia nhơn-ngã.
    Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
    Khỏi khổ câu oán-ghét-gặp-nhau.
    Thân tâm thường-trụ hết rạt-rào,
    Chất thô-trược tiêu tan mất cả.
    Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã,
    392. Khổ buồn-rầu-lo-sợ chẳng còn.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 375 đến câu 392)
    Lược giải nối tiếp đoạn trên ( 8 điều vui ở Cõi Cực Lạc ) :
    5/-Ở cõi Cực lạc từ y phục, thức ăn uống đến lâu đài cung điện và mọi tiện nghi khác đều tùy ý mà hóa hiện đầy đủ, cho nên người sanh về đây, không còn phải cực lòng làm ăn sanh sống, chỉ còn nghe thuyết giảng pháp mầu và tu tập công đức thêm. Tâm trí lúc nào cũng an nhiên, thần thông tự tại mà nhìn cảnh quí báu của mười phương chư Phật, hầu có thân hành đến cúng dường. Do đó người ở cõi Cực lạc không còn các nỗi khổ mưu tính mà chẳng thành.
    6/-Tuy người vãng sanh về cõi Cực lạc đông như biển cả (hải chúng), không thể nào chép kể cho hết, nhưng tất cả đều có một tâm hồn giải thoát như nhau, chẳng còn một mảy nhiễm ô, ân ái, nên không có sự ràng buộc về gia đình thân tộc. Hơn nữa, thân người có ra bởi sen báu tạo thành và cả thảy đều trường tồn bất diệt, nên chẳng hề có các nỗi khổ về sanh ly tử biệt.
    7/-Vả lại, người sanh về cõi Cực lạc đều là hạng thượng thiện (trọn lành trọn sáng), lại thêm mọi vật đều hóa sanh, nên giữa người với người không có sự phân biệt nhân ngã, cùng nhau hòa thuận vui vầy. Có khác nhau chăng là do công đức riêng của mỗi người mà có ngôi vị thấp cao. Bực công đức sâu dầy, trí huệ thuần thục, chứng quả Phật, Bồ Tát, kẻ kém hơn thì chứng thành Hiền Thánh. Mặc dù quả vị có khác, nhưng đồng là bậc thượng thiện nên đã dứt tâm phân biệt nhơn ngã, vì vậy mà không có cái khổ oán ghét gặp nhau.
    8/-Đến cái khổ Buồn rầu lo sợ do năm ấm lừng lẫy tạo nên, người sanh về cõi Cực lạc không hề có, là vì ở cõi ấy y báo và chánh báo thảy đều một màu thanh tịnh. Các cảnh vật (y báo) như đất đai lầu các, ao cây đều bằng bảy báu rất trang nghiêm đẹp đẽ; đến như nước chảy, lá rụng, chim hót cũng toàn là những pháp nhiệm mầu vi diệu để trợ trưởng ý chí tiến tu của mọi người (Chánh báo) cũng không náo loạn, luôn được an định (thường trụ) trong cảnh giới siêu nhiên tự tại.

    CHÚ THÍCH
    Y THỰC: Các thức ăn và những y phục để mặc.
    SANH NHAI: Làm ăn để nuôi thân sống. Ví dụ: Nghề sanh nhai, kế sanh nhai:“Bán buôn canh cửi hay thay, Sanh nhai phải giữ trong tay một nghề.”(Ca dao).
    HẢI CHÚNG: Người ta cu hội rất đông xem như biển cả. Ý nói số người ở cõi Cực lạc quá nhiều, không cách nào để đếm cho hết, nhưng chỉ có một lòng từ bi, bình đẳng và giải thoát, nên gọi là hải chúng.
    Trong Tăng Nhứt A Hàm Kinh có giải:“Chúng Tăng như biển cả kia, các nước sông nước rạch chảy vào biển thì tên sông tên rạch đều mất hết, chỉ còn có một tên biển cả mà thôi”.
    ĐẮN ĐO: Áy náy, sợ sệt lo âu. Cũng có nghĩa là cân nhắc phân biệt lợi hại.
    HÒA THUẬN: Cũng gọi là thuận hòa. Có nghĩa: thuận thảo và hòa hợp với nhau, không hề chinh mích.
    THƯỢNG THIỆN: Bậc đã trọn lành, trọn sáng, bên trong có trí đức, bên ngoài gồm đủ thắng hạnh. Ví dụ: Bậc Thượng thiện tri thức.
    NHƯ NHƯ: Lý thể của pháp tánh. Thể bình đẳng, chẳng hai và các pháp vẫn đồng nhau, gọi là Như Như. Lại nữa, vạn pháp chẳng phải không và cũng chẳng phải có, tức là Như Như.
    Chính Như Như là Trung Đạo, tướng của đệ nhất nghĩa, của Niết Bàn. Vô Lượng Thọ Kinh nói:“Các hàng Bồ Tát sanh qua cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, hiểu rằng các pháp đều Như Như”.
    Và trong Trung Luận cũng chép:“Chẳng sanh, cũng chẳng diệt, chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng một cũng chẳng khác, chẳng lại cũng chẳng đi”. Những tướng những pháp như vậy tức là Như Như, Phật, Như Lai.
    Chữ cảnh Như Như ở đây là nói cảnh trước sau như một, không dời đổi.
    NHƠN NGÃ: Cũng viết Nhân ngã. Nhân là người; ngã là ta, tức là tánh phân biệt người, ta và của người của ta trong chỗ hơn thua tốt xấu. Ấy là do sự chấp trước sai lầm cho thân nầy là cái ta thật thể, nên sanh tâm phân biệt như vậy. Nhơn đó các vọng kiến một ngày một tăng trưởng xô đẩy con người chạy theo mê lầm huyễn hoặc. Nhơn ngã là hai trong tứ tướng* và cũng hai trong ngũ uẩn.(*Tứ tướng: Tướng nhơn, Tướng ngã, Tướng chúng sanh, Tướng thọ giả.)
    Đức Lục Tổ đã bảo:
    Vô ngã, vô nhân, vô khả đắc,
    Nhựt quang phản chiếu rạng ngàn thu”.

    Đức Thầy nay cũng dạy:
    “Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
    Nhân ngã sân si cũng dẹp đành”.

    (Tặng Ô. Giáo Đàng)
    THƯỜNG TRỤ: Trạng thái hằng còn, không sanh diệt biến đổi.
    RẠT RÀO: Lừng lẫy, bực dọc, làm cho tâm trí bứt rứt không yên.
    THÔ TRƯỢC: Thô là ô dề kịch cộm; Trược là vẩn đục không sạch. Chất thô trược là những chất nhơ bẩn xấu xa, như những hình thể nặng nề, máu thịt, đồ ăn, thức mặc và những đồ sanh ra cặn bã hôi thúi.
    THANH NHÃ: Trong sạch và tao nhã vui đẹp.

    CHÁNH VĂN
    393. Chốn Ta-bà tim lụn dầu mòn,
    Thân tứ-đại của người cũng thế.
    Mau thức-tỉnh tu-thân kẻo trễ,
    396. Đến tội rồi mới hối muộn-màng.
    Chi cho bằng ta sớm lo toan,
    Gìn giới-luật nghe Kinh trọng Phật.
    Đến lâm-chung quả lành đâu mất,
    400. Cõi Tây-Phương chư Phật đợi chờ.
    Việc tu thân thiện-tín hẫng-hờ,
    Chừng họa đến e cho khó tránh.
    Môn Tịnh-độ là phương cứu-cánh,
    404. Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa.
    Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa,
    Xông thuyền giác rước đưa sanh-chúng.
    Trong một nước nhân tài hữu dụng,
    408. Kẻ tu hành đa phước thì nên.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 393 đến câu 408)
    -Căn cứ vào định luật “Thành, Trụ, Hoại, Không” thì thế giới chúng ta đang ở sớm muộn gì cũng tan rã, bởi nó là hữu hình tất không tránh khỏi ngày hoại diệt. Chính nay đã đúng kỳ:Bầu trái đất một phen luân chuyển.(Nang Thơ Cẩm Tú). Cho nên Đức Giáo Chủ ví trái đất nầy như cây đèn sắp hết dầu, chẳng biết bị tắt giờ nào.
    -Vậy mỗi người hãy xét lại thân xác của mình, đã do bốn chất: Đất, Nước, Lửa, Gió hiệp thành thì rồi đây nó phải tan rã. Sự tan rã ấy rất mau lẹ như hạt sương buổi sáng. Ta thử đọc lời nhận xét của Thiền Sư Vạn Hạnh:
    “Thân như điển ảnh hữu hoàn vô,
    Vạn mộc Xuân vinh thu hựu khô.
    Nhậm vận thạnh suy vô bố úy,
    Thạnh suy như lộ thảo đầu phô”.
    (Thân như bóng chớp chiều tà,
    Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rồi.
    Sá chi suy thạnh việc đời,
    Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành".

    Do đó, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp nhơn sanh, sớm tỉnh giấc mê lầm, lo tu sửa thân tâm cho kịp thời giải thoát. Bằng cứ mãi chần chờ, khi số vô thường chực đến dầu có ăn năn cũng chẳng kịp “Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn năn đã muộn.(Diệu Pháp Quang Minh).
    -Thế là ngay bây giờ chúng ta hãy gấp rút liệu toan, qui đầu Phật pháp, niệm Phật làm lành và nghiêm trì giới luật. Được thế, ngày lâm chung sẽ vãng sanh qua cõi Phật, tạo thân liên hoa bất diệt trường tồn mà toại hưởng ngôi vị toàn thiện toàn minh. Và vì cõi Tây Phương Cực lạc hiện giờ Đức A Di Đà cùng chư Bồ Tát đang chờ đón chúng ta:Ở Tây Phương chư Phật ngóng trông, Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật.(Kệ Dân, Q.2).
    -Nếu ai cứ mãi nghi nan, lần lựa và thờ ơ trong việc tu thân hành thiện, lo chạy theo: danh, lợi, tình…rồi gây tạo các nghiệp mê tội lỗi, để khi tai họa đưa đến, ắt khó vượt qua cho khỏi. Đành vậy, nhưng Đức Thầy chẳng nở ngồi yên nhìn chúng sanh chịu khổ, nên Ngài xiển dương Pháp môn Tịnh độ, một Pháp môn rất dễ tu và dễ chứng đắc; chỉ có chí tâm niệm Phật làm lành mà được giải thoát rốt ráo.
    Xưa Đức Phật đã dạy:Trong biển sanh tử, chỉ có pháp môn niệm Phật là hơn hết. Người tu theo pháp môn nầy, như gặp phương thuốc hay trị bịnh, giản dị mà cốt yếu, thẳng băng một loạt, chỉ chuyên một niệm Phật mà tới bờ bên kia (giải thoát). Chẳng luận xuất gia hay tại gia, ai nấy đều có thể phụng hành.(Trích trong Khế Kinh) .
    Do đó, Đức Thầy khuyên khắp tín đồ nên kính vâng và trì hành môn Tịnh Độ, chẳng những được cứu cánh mà cũng khỏi phụ lời di chúc của Đức Phật thuở xưa.
    -Bởi lòng quá thương xót vạn loại chúng, Đức Giáo Chủ chẳng ngại cảnh trần đầy nắng sương mưa gió: Dạy đời nào quản nắng mưa, Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành.(Dặn Dò Bổn Đạo)nên Ngài cương quyết lái con thuyền Đại Đạo để tiếp độ chúng sanh còn lặn ngụp giữa bể đời thống khổ, hầu đưa họ tiến sang bờ giác.
    Vả lại, từ xưa đến nay những kẻ có đủ tài trí luôn được đời trọng dụng. Cũng như trên bước đường đạo, hễ ai tu hành được nhiều phước đức thì chứng quả thành công, đó là chuyện hiển nhiên không thể khác được.



    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     
    Sửa lần cuối: 18/1/15
  3. Buile

    Buile Member


    CHÚ THÍCH

    TA BÀ: Xem chú thích tại tr. 62 Tập 2/3..
    THÂN TỨ ĐẠI: Thân là mình, xác thể con người, (Phạn ngữ: Kâya). Tứ đại (Phạn ngữ: Mahabhutas), có nghĩa bốn thể chất lớn trong thế gian, tức là Đất, Nước, Lửa, Gió. Bốn món ấy tạm hiệp lại làm thân con người và vạn vật, nên gọi là thân tứ đại. Bởi trong xác thể của mỗi chúng sanh những cái gì thuộc chất đặc, như: xương thịt thì thuộc về đất, chất lỏng thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, hơi thở thuộc về gió, nên khi chết thân xác rã ra và trả về với bốn chất ấy (tứ đại). Do đó, thân tứ đại cũng gọi là thân giả tạm không thật thể lâu bền.
    Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Phật dạy:“Nên nhớ rằng: thân ta do bốn chất lớn cấu thành, chất nào cũng có tên riêng, không có chất nào là chân ngã cả. Cái chân ngã đã không có thì xác thân ta chỉ là trò giả dối đấy thôi !” Đức Thầy nay cũng bảo:“…Còn cái thân con người của ta đã do tứ đại (đất nước lửa gió) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã.(Sơ Giải Tứ Diệu Đề).
    THỨC TỈNH: Thức là trái với ngủ; tỉnh là trái với mê. Đây là trạng thái của người giác ngộ, hết mê mờ, nghi hoặc (lầm lạc).
    GIỚI LUẬT:Xem chú thích chữ “giới cấm”tại tr. 164 Tập 3/3.
    THIỆN TÍN: Xem chú thích chữ “Tin Nữ và Thiện Nam”, tr. 61 tập 1/3.
    HẪNG HỜ: Thờ ơ không để ý hay tưởng nhớ đến.
    CỨU CÁNH: Xem chú thích tại tr. 79 Tập 3/3.
    CHẰNG QUẢN: Không ngại gì, không nệ chi.
    Đức Thầy từng nói:
    Thế sự bao la Ta chẳng quản,
    Tiên cảnh non bồng sẵn vị ngôi”.

    (Để Chơn Đất Bắc)
    THUYỀN GIÁC: Xem chú thích tại tr. 199 Tập 3/3.
    NHÂN TÀI: Người có năng lực giỏi, gồm đủ văn võ, mưu lược và các đức: Nhân, trí, dũng. Ví dụ: nhân tài có thể an bang tế thế.
    ĐA PHƯỚC: Nhiều phước đức, tức chỉ những người đã có lòng nhân hay thương người mến vật và tận tâm giúp đỡ điều ích lợi.


    Chú gi
    i t câu 409 - 606 (Quyn V)

    CHÁNH VĂN
    409. Quyết trau thân tánh-hạnh cho bền,
    Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
    Ao sen báu Tây-phương đua nở,
    412. Chờ chúng-sanh niệm Phật chí tâm.
    Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
    Được tâm phát Bồ-Đề vững chắc.
    Giữ đừng cho Ma-Vương dẫn dắt,
    416. Thường nhớ câu Đại-Lực, Đại-Hùng.
    Thắng Thất-Tình giữ vẹn Đạo-Trung,
    Trừ Lục-Dục chớ cho ô nhiễm.
    Thập-tam Ma diệt bằng trí-kiếm,
    420. Rứt xong rồi vô sự thảnh-thơi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 409 đến câu 420)
    -Như đoạn trước, đã nhận Pháp môn Tịnh độ là tối thắng và kẻ tu hành có nhiều phước đức mới thành công thì ngay bây giờ chúng ta nên cố chí tu sửa thân tâm và hạnh nết cho được tốt lành. Đồng thời lo đền đáp “Tứ Đại Trọng Ân”, bởi đáp Tứ Ân cùng sự niệm Phật không thể tách rời nhau:Lục tự Di Đà giữ Tứ Ân.(Nhẫn đợi Thời cơ). Hoặc là:Biết câu lục tự gìn đàng tứ ân.(Khuyến Thiện, Q.5). Và, vì có đáp Tứ Ân mới được vô lượng phước đức và trả xong nợ thế, mà có trả xong nợ thế (dứt nghiệp), tâm hành giả mới đồng hòa với Tâm của Phật Thánh:Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.”(Sấm Giảng, Q.3).
    -Còn về sự niệm Phật thì hành giả phải kiên tâm trì niệm một cách chí thành chí thiết mới mau kết quả. Theo các Kinh xưa cũng đồng cho biết: Khi có người phát tâm tu môn Tịnh Độ thì nơi ao thất bảo bên cõi Cực Lạc, trổ sẵn một hoa sen; chờ khi nào người ấy niệm Phật được chí tâm, thuần thục và đền xong nợ thế, thần thức vãng sanh về gá vào hoa sen đó mà nở ra thân liên hoa:Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc, Hưởng công niệm Phật rất yên lành.(Cho cô Năm Võ thị Hợi, Bạc liêu).
    -Song song với pháp tu tha cứu tha độ (Tịnh), Đức Giáo Chủ còn dạy tín đồ kiêm tu pháp tự tu, tự độ (Thiền). Bởi có tự tu thân tâm được thuần chánh ma quỉ mới khiếp oai và Thần Thánh nể vì. Đồng thời khởi lòng giác ngộ vững chắc, để đạt đến ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác (Phật). Điều kiện tất yếu là nhà tu cần giữ gìn cẩn trọng, đừng để bọn Ma vương khuấy nhiễu, bởi chúng có đủ trăm mưu ngàn chước, nếu chẳng đột nhập vào nội tâm để xúi giục thì chúng cũng bầy vẻ đủ màn đủ cảnh bên ngoài để quyến rủ người ta. Cho nên để hàng phục được chúng ma, Đức Thầy dạy mỗi tín đồ rèn luyện cho mình có một ý chí đại hùng đại lực.
    -Có được vậy, ta mới điều chỉnh đặng thất tình lục dục và trì hành đúng theo con đường Trung Đạo. Song muốn hàng phục chúng ma một cách dễ dàng hơn, hành giả có thêm kiếm huệ, tức là trí sáng, mà muốn có được trí sáng, ta cần phải phá vô minh hoặc tu Tam học (Giới Định Huệ). Khi trí huệ được sáng mầu và dẹp xong thất tình lục dục, nhà tu sẽ tự do giải thoát. Bấy giờ ta muốn tới cõi Cực lạc hay bất cứ cảnh giới nào cũng đều tự tại vô ngại:
    Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.”

    (Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

    CHÚ THÍCH
    TÁNH HẠNH: Tánh là bản chất trong lành, cái không thể thay đổi bên trong của con người. Hạnh là nết na ăn ở tốt đẹp bên ngoài. Nói chung là cái tánh đức và nết hạnh của mỗi người. Đức Thầy có câu:
    Hạnh là đức tánh phải không ?
    Ở cùng chòm xóm đừng cho mất lòng”.

    (Sấm Giảng,Q.3)
    ƠN NGHĨA: Cũng viết là ân nghĩa. Ân là ơn; Nghĩa là việc làm theo lẽ phải, đường ngay. Ý nói việc đối xử có cảm tình nồng hậu giữa nhau. Ví dụ: Ân đền nghĩa trả. Đây chỉ cho “Tứ Ân”, dù ai cũng phải thọ và cũng có bổn phận phải đền đáp:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn.”(Cho Ông Cò Tàu Hảo).
    CHÍ TÂM: Lòng rất thành khẩn thiết tha. Niệm Phật chí tâm là niệm một cách thiết tha thành tín, gom hết tâm tư, trí não vào chỗ niệm để nhớ Phật thiết tha như kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu, và có chuyên tâm được như vậy, mới kết quả chắc chắn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy:“Chí tâm niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật diệt được tội nặng tám mươi kiếp sanh tử trọng tội” .
    Ông Thanh Sĩ (một tín đồ PGHH) có luận lòng chí thành niệm Phật sẽ được lợi ích:
    Tất cả tấm lòng thành,
    Gồm vào một niệm Phật.
    Khi niệm ấy phát lên,
    Vang rền trong trời đất.
    Rừng mê cháy sạch không,
    Biển khổ lấp bằng mặt.
    Chỉ trong cái hoát nhiên,
    Thấy rõ Tam thế Phật”.

    Nếu người niệm Phật được như thế đã kiến diện được Phật Tâm thì lo gì cảnh Tây phương chẳng tới.
    QUỈ KHIẾP THẦN KHÂM: Quỉ ma sợ hải không dám phá khuấy và Thần Thánh khâm phục kính nể.
    Truyện xưa kể có vị Quốc Vương thống lãnh một quốc độ. Bấy giờ trong nước mắc phải nạn, có năm con quỉ ban đêm thường bắt người hút máu nên số dân bị chết dần. Nhà Vua ra lịnh cho các phù thủy dùng bùa phép ếm đối, cúng đưa, nhưng cũng không kết quả. Hôm nọ, Vua tự xét: tại mình thiếu tu, kém đức nên trong nước mới gặp nạn như thế. Vua liền lo trai giới tu thân và truyền dạy toàn dân đều biết niệm Phật làm lành, răn chừa mười điều ác…
    Sau một thời gian, Vua thấy năm con quỉ hiện đến quì khóc trước sân chầu và tâu rằng: “Từ ngày sắc lịnh của Ngài truyền ra, dân chúng đều biết tu hành, khử tà tránh ác, nên chúng tôi chẳng dám hút máu ai nữa mà phải chịu đói khổ. Nay mong nhờ lịnh Vua mở lòng từ ái cứu khổ chúng tôi”. Vua nghe chúng quỉ tâu, động lòng thương liền phán: “Từ đây cứ mỗi ngày các ngươi hãy tới đây ta sẽ cắt máu ta cho các ngươi dùng một lần”. Nhưng trước khi cắt máu, Vua thuyết Pháp cho chúng quỉ nghe. Nghe pháp xong, chúng cải hối và thoát được kiếp quỉ, sanh lên cõi người. Từ đó trong nước không còn nạn quỉ hút máu người.(Nhà vua là tiền thân của Phật Thích Ca, còn 5 con quỉ kia là tiền thân của 5 anh em Kiều Trần Như.)
    -Còn việc Thần Thánh khâm phục, trong Luật Sa Di có chép:
    Trong ngôi chùa nọ, có ba thầy trò nhà sư ở tu. Sư hành đạo rất chín chắn, mỗi khi thiền định đều biết rõ mọi việc xa gần. Một buổi sáng, Sư còn đang tịnh tọa trong liêu, hai đệ tử trò chuyện trước sân chùa. Sư chợt thấy các vị thần hội chung quanh hai người để tử rất đông. Kẻ quì, người ngồi nghe hai người nói chuyện với vẻ nghiêm trang cung kính. Mấy phút sau, thấy các vị ấy phun nước bọt tỏ thái độ khi dể rồi bỏ đi. Khi nhà Sư xuất định, kêu hai tiểu tăng hỏi:
    - Lúc nãy hai ngươi nói chuyện gì trước sân chùa ?
    Hai đệ tử biết không thể dấu thầy được nên bạch:
    - Lúc đầu chúng con bàn luận bài pháp mà Thầy đã giảng dạy hôm qua, nhưng sau đó chúng con bàn đến việc thế tục…
    Sư liền kể việc ông vừa thấy cho hai đệ tử nghe và khuyên nên hành đạo tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm, để ba nghiệp sớm thanh tịnh.
    Xét theo đây, đủ biết người tu khi thân, khẩu, ý được thuần chánh thì quỉ thần khâm phục, kính nhường. Đức Thầy hằng khuyên nhắc:
    “Định thần dẹp hết tà tâm,
    Hườn lai bổn tánh thần khâm quỉ nhường”.

    (Thu Đã Cuối)
    TÂM PHÁT BỒ ĐỀ: Cũng gọi là “Phát Bồ Đề Tâm”. Có nghĩa: phát tâm hành đạo giác ngộ (Phật đạo) để đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Song muốn có được tâm Bồ Đề thì phải có lòng Đại bi mà duyên khởi từ hột giống lòng nhơn (tình thương).
    Thuở xưa, Phật có kể lại lần đầu tiên Ngài khởi lòng nhơn:
    Từ vô lượng kiếp về trước, tiền thân Ngài có lần mang thân quỉ sứ ở cảnh giới Địa ngục. Một hôm Quỉ sứ tiền thân Ngài và một quỉ sứ bạn đẩy xe cho quỉ sứ chúa đi, quỉ bạn vấp chân làm cho xe nghiêng, khiến Quỉ Chúa muốn té, nó liền nổi giận nghiềm xà mâu đâm quỉ bạn. Quỉ tiền thân Phật trông thấy động lòng thương (lòng nhơn) khuyên cản. Quỉ Chúa liền trở xà mâu đâm quỉ tiền thân Phật chết.
    Nhờ khởi lòng nhơn ấy, quỉ tiền thân Phật thoát kiếp địa Ngục và được sanh làm người. Từ độ đó, Ngài tu tiến lần lần, trải qua nhiều kiếp vẫn phát huy lòng Từ Bi giác ngộ ấy mãi mãi. Đến kiếp chót là Thái tử Sĩ Đạt Ta, rồi cũng một lần, Ngài theo Vua cha (Tịnh Phạn Vương) ra đồng dự lễ Hạ Điền. Ngài nhìn theo các đường cày, thấy chim chóc đua nhau mổ cắn các loại côn trùng; đàng kia là anh thợ săn đang rình bắn những con chim ấy…Ngài cất tiếng buồn thương: Như vậy thì tất cả chúng sanh trong cõi trần chỉ biết mạnh hiếp yếu, giết hại lẫn nhau mà ăn! Ngài quá xúc động từ tâm nên quyết chí tìm ra Chánh Đạo hầu giải khổ cho vạn loại chúng sanh.
    Xét theo đây, đủ thấy người đã phát tâm Bồ Đề, nhứt định sẽ đưa đến thành công. Đức Thầy cũng đã xác nhận:Lòng Bồ Đề sắt đá dám kình.(Diệu Pháp Quang Minh).
    MA VƯƠNG:Xem chú thích tr. 56 Tập 1/3.
    ĐẠI LỰC ĐẠI HÙNG: Xem chú thích chữ “đại hùng” tại tr. 248-249 Tập 3/3.
    THẤT TÌNH: Bảy mối tình sẵn có trong mỗi người: Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ai (thương), Lạc (vui), Ái (yêu), Ố (ghét), Dục (muốn). Thắng thất tình là chế ngự, điều phục hay thống trị được bảy mối mê tình nói trên. Người xưa từng bảo bảy cái tình ấy như bảy con yêu ở núi Mai Sơn, thường hay xúi giục người làm điều sai quấy.(Thất tình bổn thị Mai Sơn quái).
    ĐẠO TRUNG: Con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:
    1-Theo Khổng Giáo, Đạo Trung nói cho đủ là Đạo Trung Dung. Có nghĩa: Không thái quá, không bất cập, giữ mực thường ở giữa thì mọi việc đều được thích trung.
    2-Theo Phật Giáo, Đạo Trung có nghĩa là con đường Trung Đạo: Không trưởng dưỡng xác thịt quá sung sướng, và cũng không ép xác hành khổ thái quá; không thiên chấp hai bên, tức không chấp có, chấp không, không chấp lành, chấp dữ, không vui, buồn, thương, ghét và chẳng duyên theo thất tình lục dục.
    LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn mê nhiễm. Theo Nho Giáo giải là: Sắc trang, Tài lợi, Danh vị, Tư vị, Hư vọng và Tật đố.
    Theo Phật học giải là:
    1)-Sắc dục: Thấy những màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng hoặc thấy sắc đẹp của kẻ nam, người nữ mà khởi lòng ham muốn say đắm.
    2)-Hình mạo dục: Thấy hình tướng tốt đẹp, mặt mày xinh lịch mà đem lòng say mê đắm đuối.
    3)-Oai nghi tư thái dục: Thấy dáng điệu đi, đứng ngồi nằm cùng nụ cười của kẻ khác mà khởi lòng ham muốn say đắm.
    4)-Ngữ ngôn âm thinh dục: Nghe người nói lời khéo léo êm ngọt rồi thích ý, hoặc nghe ca hát bổng trầm thanh nhã mà khởi lòng ham muốn say đắm.
    5)-Tế ngượt dục: Thấy da thịt mịn màng trơn láng của người mà khởi lòng ham muốn say đắm.
    6)-Nhơn tướng dục: Thấy tướng trạng đáng yêu của kẻ nam người nữ mà khởi lòng ham muốn say đắm.
    Lục dục lại còn giải là sáu sự ham muốn của lục căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý khi va chạm với sáu trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh lòng ham muốn ô nhiễm.
    Ô NHIỄM: Cũng viết là nhiễm ô. Có nghĩa: nhuộm đen, như đem một vật gì trắng sạch bôi lọ hoặc nhuộm cho đen xấu lại. Đức Thầy từng khuyên:
    Chớ nhiễm trần hoàn đượm phấn son,
    Chiêm bao cuộc thế chẳng thường còn”.

    (Cho Cô Năm Võ thị Hợi)
    THẬP TAM MA: Mười ba con ma, gồm có 7 tình và 6 dục, đã giải trên. Vì nó là những mê tình ẩn náu trong tâm tánh từ lâu, thường xúi giục Thân Khẩu Ý gây tạo các điều nhơ xấu tội lỗi.
    TRÍ KIẾM: Cũng gọi là Trí huệ hay Gươm huệ. Vì trí huệ rất sáng suốt và có tánh cách sắc bén, đoạn trừ được vọng tâm phiền não và thất tình lục dục, nên ví nó như lưỡi kiếm. Truyện Quan Âm Thị Kính có câu:“Nầy gươm trí huệ mài đây, Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rời”.
    Đức Thầy cũng từng dạy :
    “Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.

    (Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

    CHÁNH VĂN

    421. Biển hồng-trần lao-lý diệu vơi,
    Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ-Trược.
    Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước,
    424. Thêm nhọt-u, ghẻ lác, phung cùi.
    Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
    Là Kiếp Trược, Ta xin kể trước.
    Dòm việc quấy ngắm điều bạo-ngược,
    428. Mắt trông vào những chỗ đê-hèn.
    Nào được xem cảnh báu đài sen,
    Nghĩa Kiến Trược giải ra như vậy.
    Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây,
    432. Thiết mưu-kế toan bề thắng-thối.
    Ghi thù oán chưởng điều đáp đối,
    Nên ma Phiền-Não Trược đắm say.
    Chuyển-luân trong nhân-vật các loài,
    436. Căn mờ-ám làm điều dại-dột.
    Chúng-Sanh Trược, Ta đà kể nốt,
    Còn thứ năm là Mạng Trược trung.
    Số giàu-sang, họa-phước, bần-cùng,
    440. Giàu hoa-nguyệt thung-dung cẩu-thả.
    Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
    Sang oai-quyền, hối-lộ gần xa.
    Nghèo a-dua, bợ-đỡ nịnh tà,
    444. Khó trộm-cướp cũng là nhơ xấu.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 421 đến câu 444)
    -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết: cõi đời chúng sanh đang sống dẫy đầy sự nhơ nhớp gian khổ, không sao kể xiết. Thế mà chúng sanh cứ cùng nhau chen lấn, tạo nghiệp trần mê để rồi phải luân chuyển mãi trong ác thế ngũ trược.
    -Cái trược thứ nhứtkiếp sống không trong sạch: Đã tạo ra xác thân tứ đại giả hợp, chứa đầy sự dơ bẩn thúi hôi, do cửu khiếu tiết ra; lại còn những chất máu mủ bởi ghẻ lác gây nên khiến lũ ruồi muỗi chực cơ bu nút. Trọn một cuộc đời con người, luôn thấy bực mình khó chịu, chẳng lúc nào được an vui thư thái.
    - Đến cái trược thứ nhìsự thấy dơ bẩn. Bởi trong xã hội loài người, biết bao cảnh trạng tà quấy, ác hung, xấu xa đê tiện thường diễn ra trước mắt mỗi ngày. Do sự thấy trược loạn đó, tâm con người trở nên điên đảo, nhận ngụy làm chơn, gặp tà tưởng chánh, nên không hề kiến nhận được sự quí mầu của sen báu nơi Cực lạc.
    -Cái trược thứ batư tưởng mê lầm không sạch: Con người vì quá say đắm cõi trần nên mang lấy năm cái ngu muội (Ngũ độn sử) vào thân; tức là lòng tham lam, sân hận, mê si, kiêu mạn và nghi lầm. Chính nó xúi giục con người mãi tạo nghiệp khổ đau trong sự lo toan thắng thối, gây thù kết oán, cứ thế rồi vay trả, trả vay chưa bao giờ dứt.
    -Tới cái trược thứ tưgây tạo xác thân không sạch: Bởi gốc từ mê si vọng hoặc, chúng sanh phải luân hồi trong sáu nẻo, mang lấy xác thân không sạch và tiếp tục ăn uống, chung sống những nơi nhơ bẩn.
    -Đến cái trược thứ nămmạng sống chẳng trong sạch: Đời sống của mỗi chúng sanh ở cõi Ta Bà không một ai được trường cửu và thanh tịnh an vui. Kẻ giàu thường kiêu xa dâm dật, tánh tình tham lam bất chánh, đua đòi theo vật chất phù hoa, uy quyền danh vọng. Còn hạng nghèo thì nịnh tà gian xảo, trộm cướp lận lường, làm những điều xấu xa để tiện.
    -Nhận xét như trên, giúp ta thấy được cõi đời chẳng qua là một cái biển đầy khổ đau, dơ bẩn. Chỉ có cõi Tịnh Độ mới là trong sạch an lành, nên Đức Thầy khuyên mọi người tu Pháp môn niệm Phật để được vãng sanh về cõi ấy. Khi về đến đó thì năm điều trược khổ nói trên sẽ được đổi lại thành năm điều thanh tịnh an vui:
    1/-Kiếp trược chuyển thành thanh tịnh hải hội.
    2/-Kiến trược chuyển thành vô lượng quang.
    3/-Phiền não trược chuyển thành thường tịnh quang.
    4/-Chúng sanh trược chuyển thành liên hoa hóa thân.
    5/-Mạng trược chuyển thành vô lượng thọ.

    CHÚ THÍCH
    HỒNG TRẦN: Xem lại chú thích tại tr. 43 tập 1/3.
    LAO LÝ: Xem chú thích tại tr. 34 và tr. 76 Tập 2/3.
    DIỆU VƠI: Cũng viết là diệu vợi. Có nghĩa xa thẳm mênh mông.
    NGŨ TRƯỢC: Năm điều dơ bẩn ở cõi trần, mà con người chẳng một ai tránh khỏi, gồm có: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và Mạng trược. Xưa, Đức Phật từng nói:“Ta bà là một cõi ác lụy, choán đầy năm thứ trược. Song vì nguyện lực và lòng từ bi nên Ta thị hiện, để giáo hóa chúng sanh được biết cõi Tịnh Độ của Đức A Di Đà hầu nguyện sanh về đó”.
    Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy:“Chư Bồ Tát tu mãi đến khi thành Phật không sa vào các lối ác (Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh), thần thông tự tại, thường nhớ những đời trước của mình. Trừ ra khi nào vì bổn nguyện sanh vào cõi ngũ trược ác thế thì thị hiện như chúng sanh ở cõi ấy, tức là chẳng giữ phép thần thông túc mệnh, cũng đồng chịu luật sanh, lão, bịnh, tử như chúng sanh.”
    KIẾP TRƯỢC: Đời sống dơ bẩn không sạch. Bởi thời gian trong kiếp trụ, con người bị giảm lần tới hai vạn tuổi trở xuống thì đời sống trở nên dơ bẩn. Mỗi thân con người đều chịu bốn cái trược: Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và Mạng trược.
    ĐÊ HÈN: Thấp thỏi xấu xa.
    KIẾN TRƯỢC: Sự thấy biết dơ bẩn. Thời mạt thế, tà kiến của chúng sanh thạnh khởi, làm hoặc-loạn thế gian khiến cho sự thấy phải điên đảo, như: thấy tà nhận chánh, thấy dơ nhận sạch. Có năm cái thấy điên đảo, gọi là Ngũ Lợi Sử:
    1-Thân kiến: chấp cái thân nầy có thật.
    2-Biên kiến: Cái thấy chấp một bên, như chấp thân nầy còn hoài hay chấp thân nầy một khi chết là hết.
    3-Tà kiến: Cái thấy tà vạy, không nhận ra chơn lý, không tin nhân quả luân hồi.
    4-Kiến thủ kiến: Chấp chỗ tà vạy và sự thua kém của mình là hơn người.
    5-Giới cấm thủ kiến: Cái thấy chấp những giới cấm phi lý như cho rằng lấy tro bôi mình hay ép xác hành khổ là được đắc đạo.
    THIẾT MƯU KẾ: Bày chước nầy kế nọ.
    THẮNG THỐI: Hơn thua cao thấp.
    CHƯỞNG: Gieo trồng.
    ĐÁP ĐỐI: Đáp qua đối lại bằng lời nói hoặc hành động, không ai chịu thua ai, lòng luôn tính toán, sắp đặt những gì để đối trả giữa nhau.
    PHIỀN NÃO TRƯỢC: Các thứ “hoặc” dơ bẩn, như: Tham, Sân, Si; nó thường làm cho thân tâm phiền muộn não loạn. Các thứ “hoặc” dơ bẩn ấy làm cho con người ngu độn tức là “Ngũ độn sử: 1-Tham lam 2- Sân nộ 3- Mê si 4- Mạn (tánh cống cao ngã mạn) 5- Nghi (lòng nghi ngờ đối với các thiện pháp)”.
    CHUYỂN LUÂN: Luân hồi chuyển tiếp (xem thêm phần chú thích chữ “Luân hồi” tại tr. 36 Tập 1/3).
    CĂN MỜ ÁM: Căn gốc tối tăm. Bởi mỗi chúng sanh từ vô minh (mê si) mà sanh ra và càng luân chuyển trong các loài sự mê tối ấy càng dày thêm.
    Đức Thầy có câu:
    Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
    Màn vô minh che mờ căn trí”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    CHÚNG SANH TRƯỢC: Chúng sanh sống trong thời kiếp trược, do quả báo của phiền não và kiến trược mà thành ra sống cuộc đời dơ bẩn, phước ít, khổ nhiều.
    MẠNG TRƯỢC: Mạng sống dơ bẩn, ngắn ngủi. Cũng do kết quả của phiền não trược và kiến trược mà tuổi thọ con người sống thời kiếp trược một ngày một giảm bớt đi và không lúc nào được trong sạch an vui.
    HOA NGUYỆT: Bông và trăng. Ý nói sự tư tình giữa trai gái, thường ngắm trăng xem hoa. Đây chỉ người có tánh dâm đảng.
    THUNG DUNG: Thảnh thơi, thong thả.
    CẨU THẢ: Dối, bừa bãi, lôi thôi, chẳng kỹ lưỡng cẩn thận. Ví dụ: tính cẩu thả, làm ăn cẩu thả.
    HỐI LỘ: Lo lót, đút nhét, dâng tiền của một cách kín đáo cho kẻ có quyền để nhờ cậy che chở hoặc ban ân huệ. Ví dụ: hối lộ cho cơ quan, hoặc quan ăn hối lộ.
    A DUA: Cũng gọi là a dua. Có nghĩa hùa theo, nịnh bợ theo kẻ mạnh để nhờ nhõi hay lấy lòng.
    BỢ ĐỠ: Nịnh hót, tâng bốc người để lấy lòng hay nhờ nhõi.
    NỊNH TÀ: Hùa theo một cách tà vạy, không ngay chánh; dùng lời lẽ tâng bốc người để gièm siểm ám hại kẻ khác.

    CHÁNH VĂN
    445. Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu,
    Phải trừ thêm Thập-Ác huyễn thân.
    Khuyên nữ nam suy-nghiệm ân-cần,
    448. Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng-Thiệt.
    Với người này dùng lời tha-thiết,
    Đến kẻ kia đâm-thọc cho gây.
    Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy,
    452. Dùng sự thiệt giải-bày tâm trí.
    Người choảng nhau tại mình gia vị,
    Mà cũng không hưởng được lợi-danh.
    Sau rõ ra chúng lại ghét-ganh,
    456. Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 445 đến câu 456)
    -Trong các đoạn trước Đức Giáo Chủ đã luận giải những nỗi nhớp nhơ đau khổ trong cõi Ta bà và các điều an vui trong sạch ở cõi Cực lạc để khuyên mọi người sớm trì hành Pháp môn niệm Phật. Song muốn cho sự vãng sanh được kết quả chắc chắn, mỗi người nên phát nguyện trước chư Phật để quyết tâm rứt bỏ những nghiệp duyên ràng buộc trong cõi Ta Bà, tức là diệt trừ mười điều ác. Bởi chính nó là nguyên nhân tạo ra xác thân giả tạm, cũng là mối dây trói buộc chúng sanh dẫn từ kiếp nầy qua kiếp khác, luân chuyển mãi trong vòng sanh tử. Thế nên, Ngài giác tỉnh thiện tín hãy suy xét lo âu, ngăn chừa thập ác cho kỳ được.
    -Trong 10 điều ác nói trên, phát xuất từ Tam nghiệp: Thân, Khẩu, Ý. Ở đây Đức Giáo Chủ luận giải điều ác thứ nhứt trong khẩu nghiệp trước hết. Ngài cho biết về hành trạng của ác lưỡng thiệt là đến người nầy nói xấu người kia, rồi đến người kia nói xấu lại người nầy, đâm thọc thêm bớt khiến cho đôi đàng hiểu lầm nhau.
    -Làm như thế sẽ đưa đến thảm cảnh: chia rẽ hơn thua, đôi chối và ấu đả lẫn nhau “…phá tan sự đoàn kết và tình thân yêu giữa nhân loại”. Rồi đôi đàng ôm mối hận thù, hiềm khích mãi mãi. Hậu quả có thể dẫn đến đời con cháu và qua đời sau và đời sau nữa.
    -Người vi phạm tội ác nầy sẽ tự rước lấy tai hại: Khi họ đã hiểu lời nói hai chiều của mình, chẳng những bị mọi người nhờm ghét mà còn gánh chịu hậu quả vô cùng thảm khổ, như trường hợp Thân Công Báo trong truyện Phong Thần. Vì muốn ngăn chận cuộc hưng Châu phạt Trụ của Khương Thượng, Báo lặn lội non nầy động nọ, dùng lời đâm thọc thêm bớt gây phẫn uất cho các Tiên gia phải bỏ ngôi xuống núi rồi phạm giới sát mà chết, hồn vào bảng Phong Thần. Riêng Thân Công Báo đến ngày tàn, hồn xác đều bị đánh đọa một cách thảm thiết để đền trả tội lưỡng thiệt.
    -Nếu nhà tu biết dùng lời thành thật chánh đáng đối xử với mọi người tất trừ xong ác luỡng thiệt và được lợi ích là trong xóm ấp không còn xảy ra cuộc cãi vã, hơn thua; ngoài xã hội chẳng hề có sự đối chọi hay gây thù kết oán. Kinh Chánh Niệm Xứ có chép:Người nào chẳng nói hai lưỡi, tất được hưởng quả báo tốt, bè bạn, thân quyến, anh em, vợ con và tôi tớ thường được gần gũi thuận hòa, vững vàng chắc chắn chẳng kẻ nào phá hoại được”. Ngoài ra, còn không ai dám khinh rẻ và được giải thoát vòng nghiệp báo luân hồi,

    CHÚ THÍCH
    DUYÊN TRẦN CẤU: Duyên là duyên do, là mối dây liên lạc từ thời quá khứ, chuyền qua thời hiện tại giữa hai người hoặc nhiều người. Trần cấu là bụi đất đóng dơ, nghĩa bóng là chỉ cho các phiền não.
    Dứt duyên trần cấu là dứt hết duyên trần không còn cấu tạo, tức là dứt được các phiền não: thấy lầm, nghĩ lầm (kiến hoặc, tư hoặc). Có như thế mới gọi là rửa sạch tâm trần ô nhiễm để đạt đến thanh tịnh giải thoát hay vãng sanh Cực lạc.
    THẬP ÁC: Mười điều ác, do ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý sanh ra, gồm có: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm, Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ, Tham lam, Sân nộ, Mê si.
    HUYỄN THÂN: Xem lại tr.271-272 Tập 3/3 nầy.
    SUY NGHIỆM: Xem lại tr.47 Tập 3/3 nầy.
    ÂN CẦN: Xem lại tr. 230 Tập 2/3.
    LƯỠNG THIỆT: Phạn ngữ: Pisunâvâcâ, có nghĩa hai lưỡi (hai chiều) chỉ lời nói đâm thọc, tức là lại người nầy nói thế nầy, lại người kia nói thế khác, thêm bớt đủ cách, cốt làm sao cho hai bên xích mích, thù oán nhau. Lưỡng thiệt là một trong bốn điều ác của Khẩu nghiệp, nó cũng gọi là “ly gián ngữ” đối với “hòa hiệp ngữ”.
    Truyện Thiết Đường có chép: thời Thập Bát phản vương, trong nhóm anh hùng thích huyết thề nguyền kết bạn với nhau, có Đơn Hùng Tính, Giảo Kim và La Thành…Bấy giờ Giảo Kim không vừa ý Hùng Tính và La Thành, ý muốn cho hai người đánh lộn nhau chơi cho bỏ ghét. Nên nhân buổi tiệc có đủ mặt các anh hùng, Giảo Kim đến to nhỏ với Hùng Tính: La Thành nói anh ỷ lớn hiếp nó, hôm nào nó sẽ bứt râu anh hết cho coi. Rồi vài phút sau Giảo Kim đãi rượu đến gần La Thành kề tai bảo nhỏ: Anh Tính nói em là thằng con nít hỉ mũi chưa sạch, đừng ỷ tài cao phách lối, bữa nào ảnh bóp mũi em nghẹt thở.
    Do đó, Hùng Tính và La Thành bắt đầu lườm nhau, khi mãn tiệc hai người gây chuyện rồi ấu đả với nhau quyết liệt, anh em can lắm mới thôi, nhưng từ ấy hai người xem nhau như cừu địch.
    Thời gian sau, nhóm anh hùng kéo về đầu nhà Đường, riêng mình Hùng Tính còn ở với Vương Thế Sung. Vì đánh không lại nhà Đường, nên Tính mạo hiểm đến thích khách Đường Thế Dân. Bọn anh hùng nghĩ tình bạn hữu nên lờ đi, chỉ mình La Thành bắt được Tính và vâng lịnh Vua Đường đem Tính ra xử trảm.
    -Xem đây đủ biết một lời nói đâm thọc gây ra thảm trạng biết bao, cho nên người tu phải chừa hẳn ác lưỡng thiệt. Trong “Luận Thành Thật” có nói:“Lòng lành dạy bảo, tuy họ có biệt ly nhưng mình không mắc tội. Còn đem lòng ác dùng lời hai lưỡi xúi người đánh lộn thì mắc tội rất nặng, đọa trong ba đường ác và đời đời bị quả báo”.
    HƯƠNG ĐẢNG: Làng xóm. Ý chỉ mọi người chung quanh trong thôn ấp.
    CHOẢNG: Đánh lộn, đối chọi nhau.
    GIA VỊ: Thêm mùi vị, như người làm bếp nấu canh phải để thêm đường, muối, tiêu, hành cho canh được ngọt. Đây ý chỉ dùng lời thổi phồng lên, chuyện ít nói ra nhiều, chuyện một nói thành mười, thành trăm.
    CHIÊU CẢM: Tự rước lấy, tự vời đến. Ý nói người làm ác thì rước lấy quả dữ.

    CHÁNH VĂN

    457. Ác thứ nhì Ỷ-Ngôn chất-chứa,
    Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày.
    Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,
    460. Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
    Lắc-léo chi có ba tấc lưỡi,
    Quan ỷ khôn mạt-sát dân ngu.
    Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,
    464. Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt.
    Khuyên bá-tánh giữ-gìn cho chặt,
    Đừng để cho quỉ dắt đường cong.
    Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng,
    468. Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
    Chúng vô phước đời này dốt-nát,
    Người khôn-ngoan chỉ-dẫn mới là.
    Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra,
    472. Đừng bao-biếm mới là nhơn-thiện.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 457 đến câu 472)
    -Đến tội ác thứ nhì là những lời ỷ thị khinh chê và xài xể kẻ thấp kém hơn mình. Về hành trạng của ác nầy, mỗi khi có ai lầm lỗi thì dùng lời mắng nhiếc thậm tệ, như: hạng giàu sang thường ỷ vào tiền của, khinh khi, trách mắng kẻ nghèo hèn; hạng làm chủ hay ỷ vào quyền thế, xài xể, giày bừa tôi tớ.
    -Xét ra chỉ có ba tấc lưỡi mà người ta dùng đủ lời lẽ gian ngoa, xảo quyệt để hạ nhục số người thua kém hơn mình. Hạng quan lại thường ỷ mình trên thế và có học thức, chà đạp lê dân. Trái lại, cũng có số bần hèn ỷ mình khôn lanh nói những điều xảo trá, không đúng sự thật. Nhìn trạng huống nói trên Đức Giáo Chủ rất đau lòng xót dạ !
    -Vậy để diệt trừ ác Ỷ ngôn, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp mọi người nên gìn giữ lời nói của mình cho chính đính, đừng để kẻ tà quấy dẩn dắt ta vào con đường bất chánh. Mỗi khi đối đáp với bất cứ một ai cần nói những lời hiền lành đạo đức và lời lẽ ấy phải thành thật, phát xuất tự đáy lòng. Nhứt là hãy xem mọi người, dầu kẻ sang, hèn hay cao thấp, trí, ngu đều bình đẳng; bởi ai ai cũng có đủ tâm hồn, thể xác và suy biết như nhau.
    -Sở dĩ có số người nghèo hèn, tối dốt là vì trong nhiều tiền kiếp họ ít tạo phước duyên nên kiếp nầy phải thiếu kém vậy thôi. Là người cao sang, trí thức ta nên thương hại họ và chỉ dạy cho các điều hay lẽ phải. Đối xử với họ, cần nói lời dịu hòa nghiêm chỉnh, không nên chê đùa khinh ngạo. Đặng vậy, ta mới xứng đáng là bậc hiền nhân quân tử và cũng diệt trừ được ác Ỷ ngôn.

    CHÚ THÍCH
    Ỷ NGÔN: Cũng gọi là Ỷ ngữ, Phạn ngữ: Sambhâppalâpo, có nghĩa: Ỷ thị và thêu dệt. Ý nói người cậy vào sự học thức, khôn lanh, tước quyền, giàu có mà nhiếc xài kẻ dưới tay, kém thế hoặc là dệt thêu, xảo quyệt khiến người hiểu sai sự thật, hay trau chuốc lời hát ca tình tứ làm mờ đục tâm trí kẻ khác. Kinh Đại Thừa Nghĩa Chương nói:“Dùng lời tà vạy bất chánh mà thêu dệt để nâng nhắc mình lên, ấy là tội Ỷ ngữ”.
    Ỷ ngôn là một trong 4 tội ác của Khẩu nghiệp. Kinh Báo Ân có chép:
    Thời quá khứ, lúc Phật Ca Diếp ra đời, có một sa di trẻ tuổi, nghe một tỳ kheo già tụng kinh tiếng ồ ề, sa di ỷ mình có tiếng thanh tao nên chê ông tỳ kheo:“Tụng kinh gì mà tiếng ồ ề, nghe như tiếng chó sủa”.
    Nguyên vị sư già ấy đã chứng quả A La Hán, biết rõ mọi việc nên kêu sa di, nói:“Ngươi cười chê như vậy, không hề gì đến Ta, nhưng ngươi đã phạm tội Ỷ ngôn, rồi đây sẽ bị đọa vào Địa ngục và sau phải làm thân chó lâu đời”. Sa Di kinh sợ liền cầu sám hối. Vị sư già hoan hỉ cầu nguyện tiếp, nhưng sa di chỉ khỏi sa Địa ngục, chớ cũng phải luân hồi làm chó 500 kiếp, mới được trở lại thân người.
    Xét theo đây đủ biết tội Ỷ ngôn tai hại vô ngần !
    XÉO VÀY: Cũng viết là giày xéo. Xéo là giẫm lên, chà đạp. Vày là vày vò hay vày bừa. Nghĩa chung là chà đạp, miệt thị, đay nghiến. Đây ý nói cư xử tệ đối với kẻ dưới tay.
    TỰ PHỤ: Ỷ mình, cậy mình tài giỏi, cao sang mà không cần đến ai nữa và khinh khi kẻ khác.
    Ỷ THẾ: Cậy vào thế lực.
    LẮC LÉO: Cũng viết là lắt léo. Có nghĩa tráo chác, trớ trêu, cắc cớ.
    BA TẤC LƯỠI: Có hai cách hiểu
    1)-Tính theo thước thân của Khoa Châm cứu thì một lóng tay giữa của ngón áp út là một tấc, nên đo thử thì cái lưỡi của mỗi người khoảng ba tấc. Nghĩa bóng là chỉ cho một số lời lẽ, không cần đến là bao nhiêu.
    2)-Là một thành ngữ chỉ cho hiệu lực của lời nói, tuy thấy thông thường, song kết quả to tát. Như thời Đông Châu có Trương Nghi và Tô Tần, họ chỉ dùng 3 tấc lưỡi mà thuyết phục được các nước và làm nên danh phận. Lại như Khổng Minh đời Tam Quốc cũng chỉ dùng 3 tấc lưỡi khiêu khích, làm cho cả trào thần Đông Ngô phải theo kế hoạch ông ta, phá tan 80 vạn binh của Tào Tháo tại Xích Bích và đem lại kết quả cho Lưu Bị, lấy được nhiều châu quận…Còn Đông Ngô tốn hao quân lương rất nhiều nhưng chẳng được lợi ích gì.
    Đó là việc lợi của ba tấc lưỡi, còn việc hại của nó như trường hợp Sa Di trẻ tuổi vừa kể. Ba tấc lưỡi ở đây có ý chỉ một lời nói ỷ thị, dệt thêu, gây biết bao hành trạng tội lỗi. Tục ngữ có câu:
    Cái lưỡi không xương nhiều điều lắc léo,
    Cái miệng không vành nó méo tứ tung.
    Cho nên Đức Thầy từng nói:
    Thuận với hòa hay ghét với rầy,
    Cũng cái lưỡi làm thầy các việc.
    (GMTK, Q.4)
    MẠT SÁT: Xài xể, mắng nhiếc một cách thậm tệ.
    BÁ TÁNH: Xem chú thích tại tr.65 Tập 2/3..
    TỪ NGÔN: Lời nói hiền hòa, nhân ái và êm đẹp. Đức Thầy từng nói: Ngôn từ Đạo hạnh ý thầy khuyên.(Khuyến Thiện, Q.5).
    LỜI TRANG NGHIÊM: Lời lẽ đoan chánh, đúng dắn thích hợp với đạo đức.
    BAO BIẾM: Bao là khen, biếm là chê. Ý nói lời nhạo chê khinh rẻ người khác.

    CHÁNH VĂN

    473. Tới Ác-Khẩu thứ ba bày-biện, Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng.
    Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng-xăng,
    476. Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu.
    Hăm đánh giết những người hèn yếu,
    Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiêng.
    Trong gia-đình chưởi rủa liên miên,
    480. Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
    Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
    Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày.
    Đời ám-u tội trạng thảm thay,
    484. Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
    Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
    Sao không theo nề-nếp gia-phong.
    Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng,
    488. Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?
    Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
    Những đàn-bà khe-khắt cháu con.
    Kể từ nay phải giữ cho tròn,
    492. Không chừa dứt ắt mang tai-ách.
    Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
    Tích thiện thì thường có phước dư,
    496. Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 473 đến câu 496)
    -Đến tội thứ ba của khẩu nghiệp là những lời nói ác, Đức Thầy cũng luận giải rõ ràng, để mọi người được hiểu biết mà xa tránh. Hành trạng của ác khẩu là các lời thô tục, dâm ô, những tiếng ngang tàng lỗ mãng, hễ mở miệng ra toàn là lời hung hăng bạo tợn. Đến như Cha Mẹ là đấng sanh thành cao cả, lẽ ra phải biết tôn thờ bảo dưỡng, họ lại nỡ nhiếc xài, hờn trách, chẳng hề nghĩ đến luân thường đạo nghĩa là gì:Phụ mẹ cha khinh dể Phật Trời, Chẳng có kể công sanh dưỡng dục.(Kệ Dân, Q.2).
    -Đối với xã hội, họ thưòng dùng lời hăm he đánh giết, hà hiếp kẻ khác, dù là người thân hay lạ, chẳng nể vì một ai. Còn việc cư xừ trong gia đình lại càng tệ hơn, suốt ngày chỉ nghe những tiếng chửi mắng, nguyền rủa; hết người thế gian họ lại kêu đến Thần Thánh.
    -Đối với bậc cao cả ở các cõi trên, như: Trời Phật Thánh Thần hay Long Vương thủy tộc, họ cũng chẳng hề kiêng cữ. Trong những cuộc giận tức tầm thường vẫn kêu đến mà khiến sai, nguyền rủa hoặc chứng minh. Họ đâu có ngờ những lời ấy là gây nên tội trạng để rồi chuốc lấy hậu quả đau thương. Đức Thầy nhận thấy đời quá tối tăm mê muội, tạo nhiều tội khổ, nên Ngài nhủ lòng kêu gọi khắp vạn gia, từ đây hãy mau chừa bỏ ác khẩu.
    -Ngài hằng ý thức mọi người: bao nhiêu tấm gương Đạo đức hiền từ và phong tục tốt đẹp của ông cha ta truyền lại nay còn sáng chói, tại sao ta chẳng học đòi mà ăn ở gìn giữ ? Đến như các bậc Thánh Thần Trời Phật, đâu có làm điều chi không vừa ý mà chúng dân cứ kêu réo liên miên, hoặc sai Đông rủa Tây như thế ? Thánh Thần không phải thiếu tiền, Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.(Sấm Giảng, Q.3).
    -Tình trạng nói trên thường thấy diễn ra trong gia đình, do các bà các cô ăn ở khó khăn với con dâu hay các cháu. Họ dùng toàn những lời trù rủa, mắng nhiếc khiến bầu không khí trong gia tộc càng thêm nặng nề khó chịu, chớ không đem lại lợi ích gì. Cho nên Đức Thầy kêu gọi hàng nữ lưu, từ đây nên gìn giữ cho tròn đạo nghĩa, nếu ai mãi dùng lời lẽ như trên ắt phải vương mang họa hại.
    -Đề bài trừ ác khẩu, Đức Giáo Chủ khuyên tín đồ trong việc đối xử dù ở gia đình hay xã hội, cần nói lời thanh bai tao nhã, hòa dịu ngọt ngào. Bỏ những tiếng vạy tà hung ác, rủa mắng tục tằn mà nên dùng lời ngay thẳng hiền lương, kính nhường lễ độ:Trọng Mẹ Cha kính nể Phật Trời, Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi.(GMTK, Q.4). Nhứt là phải mạnh tin nơi luật nhân quả, hễ ai chứa điều hiền lương đạo đức thì gặp nhiều phúc lành đưa đến, bằng chứa tiếng ác hung, ắt các họa hại đeo đẳng bên thân và kéo mãi đến đời sau, bởi:Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.(GMTK, Q.4).Đây là điều tất yếu giúp cho cuộc ngăn ác hành thiện của nhà tu mau thành quả và sớm thoát ly nghiệp báo luân hồi.

    CHÚ THÍCH
    ÁC KHẨU: Cũng gọi là ác ngôn hay ác ngữ, Phạn ngữ: Pharusavâcâ, có nghĩa miệng nói hung dữ, tức những tiếng thề thốt, chửi rủa thô tục hoặc kêu Thần Thánh khiến sai. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật bảo:“Như ai phạm ác khẩu, mắng nhiếc, phỉ báng người sẽ bị tội báo rất lớn”.
    Về tội báo nầy Phật có kể câu chuyện:
    Xưa, trào vua Dật Độ, con là Thái Tử Pháp Thí, người tài đức song toàn, nên được vua cha và quần thần yêu mến. Vua lại có một thứ phi tên là Hãnh Thiếp, tánh tình chẳng tốt, tư thông với quan Tướng quốc, ngầm mưu cướp ngôi, họ đang tìm cách hại Thái Tử trước.
    Hôm nọ, Thái Tử dạo huê viên một mình. Hãnh Thiếp bấy lâu đã say mê tài mạo Thái Tử nên bước đến kiếm lời trêu ghẹo, nhưng Thái tử khước từ và trực dạ khuyên can. Hãnh Thiếp lỡ cơ toan bắt ép Thái tử, Ngài vội xô ra, bỏ chạy, rủi bị cành cây gạt rớt cái mão. Hãnh Thiếp lượm mão đem khóc lóc với Vua: Thái Tử vào huê viên giở trò không tốt với thiếp. Thiếp la lên, Thái Tử bỏ chạy còn rớt cái mão lại đây, xin Bệ Hạ định xét.
    Vua vẫn biết con mình là người đoan chánh, nhưng bằng chứng sờ sờ chẳng biết nói sao. Hãnh Thiếp giả bộ nhào khóc thảm thiết. Vua túng thế đành hạ lịnh xử trảm Thái Tử. Triều thần hay tin hết lời can gián, Vua mới đổi lịnh, cho đày Thái Tử ra biên giới 3 năm. Thái Tử cùng vợ con lên đường, dân chúng mến đức kéo theo Ngài rất đông.
    Ít lâu Hãnh Thiếp và Tướng quốc mạo một tờ lịnh: Thái tử và dân chúng ở biên giới đang mưu đồ phản Vua, phải móc đôi mắt gởi về mới hết tội. Được lịnh Vua, Thái Tử đưa vợ con về nước (cha vợ) chia tiền cho mỗi binh dân…rồi móc cặp mắt gởi về trào. Hãnh Thiếp đón lấy, đem tẩm thuốc không cho sình rã rồi cất vào tủ, dấu nhẹm chuyện ấy.
    Bấy giờ Thái tử chỉ còn một mình, với cây đờn, vừa đờn vừa xin ăn lần lần đến nước của Vua nhạc phụ. Thời may Vua nước nầy đang chọn nhạc sĩ…Thế là Thái tử được tuyển vào đờn cho Vua nghe thử. Người vợ nghe tiếng đờn biết là chồng liền ra nhìn…Khi rõ hết sự tình, Vua (cha vợ) cho Quan lính đưa vợ chồng Thái tử về nước minh oan.
    Lúc ấy Vua Dật Độ mới rõ sự thật liền ra lịnh bắt Tướng quốc và Hãnh Thiếp đem trị tội bằng cách: dùng roi có gai đánh cho rách da, chảy máu rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống tại ngả ba đường.
    Khi đó các Đệ tử bạch hỏi Phật: nhân duyên gì mà có cảnh trạng như thế ?
    Phật kể tiếp: Thời quá khứ, có anh thanh niên chuyên bán ngọc ngà châu báu. Một hôm anh vừa đi vừa rao bán ngọc, bỗng có một tiểu thơ kêu lại mua, nhưng khi lựa được viên ngọc quí, tiểu thơ cười duyên và liếc anh một cái rồi bảo tên đánh xe đẩy đi, chớ không trả tiền bạc gì hết. Anh bán ngọc tức quá bèn mắng:
    -Ta không đắm sắc ngươi đâu, nếu ngươi không trả tiền viên ngọc, ta thề theo móc cho được cặp mắt của ngươi mới vừa bụng. Tiểu thơ liền bảo tên đánh xe hăm lại:
    -Nếu anh không bằng lòng để cô ta lấy viên ngọc làm đồ chơi, cô ta sẽ cho người dùng roi gai đánh cho rách da, rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống cho ngươi tởn. Anh bán ngọc quá giận tức, nhưng xét mình cô thế đành ôm hận ra đi !...
    Do ác khẩu, hai đàng đều kết dây oan trái với nhau, nên kiếp nầy ba người cùng sanh gặp nhau trong một trào để trả quả: Anh bán ngọc đầu thai làm Thái Tử Pháp Thí. Tiểu thơ thuở nọ nay là Hãnh Thiếp, còn tên đánh xe là quan Tướng quốc. Thái tử trước vì thề móc mắt Tiểu thơ nên nay bị Hãnh Thiếp ra lịnh móc mắt lại. Tiểu Thơ liếc mắt cười duyên với anh bán ngọc, nên nay thầm yêu Thái Tử, nhưng không được. Còn tên đánh xe a tòng với Tiểu thơ, hăm dọa anh bán ngọc nên nay tư thông với Hãnh Thiếp và hai người cùng bị tội đánh rách da, thoa mũ nấu sôi vào thân và chôn sống tại ngả ba đường, nay kết quả y theo lời hăm dọa thuở trước.
    Kết luận câu chuyện. Phật khuyên các môn đồ nên chừa dứt “ác khẩu”. Kinh Pháp Cú, Ngài từng nói: “Luận kẻ ở đời như búa ở trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác”. (Phù Sĩ xử thế, phủ tại khầu trung, sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn).
    BÀY BIỆN: Tỏ bày và luận giải ra.(Chữ bày biện nầy khác nghĩa với chữ bày biện câu 141 Q.4: bày đặt cho có chuyện, tr. 39).
    TỤC TẰN: Bẩn thỉu, nhơ nhớp. Tiếng tục tằn là lời lẽ có tánh cách thô tục, dâm ô.
    THÔ LỖ: Cộc cằn, lỗ mãng.
    LUÂN THƯỜNG: Luân là giềng mối; Thường là phép tắc chính của người đời nên noi theo. Luân thường gồm có Ngũ luân (bổn phận giữa Vua tôi, Cha con, Chồng vợ, Anh em và Bè bạn) và Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín). Đức Thầy dạy:
    Luân thường nặng nợ phải vai mang,
    Nhuần gội thừa ân của Phật đàng”.

    (Đến Làng Nhơn Nghĩa)
    THẢO HIẾU: Cũng gọi là hiếu thảo. Thảo có nghĩa là bảo dưỡng; hiếu là tôn kính. Nói chung là hết lòng tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ. Đây là đức tánh quan trọng mà bổn phận làm con ai cũng phải có, không thể thiếu được.
    Trong Kinh Đại Tập, Phật có dạy:“Nếu đời không có Phật xuất thế mà biết thờ kính cha mẹ một cách hoàn thiện thì cũng như thờ Phật vậy”.
    Đức Thầy nay cũng bảo:
    Sách có chữ thâm ân dục báo,
    Phận làm người hiếu thảo noi gương.
    (Sa Đéc)
    LIÊN MIÊN: Liền liền, kéo dài không bao giờ dứt.
    THÁNH THẦN: Xem chú thích tại tr.30 Tập 3/3..
    THƯỢNG CẢNH: Cõi trên, tức các cõi trời từ Tứ Thiên Vương trở lên.
    CÕI LONG CUNG: Cảnh và cung điện của Long Vương ở sâu nơi đáy biển. Đó là đền đài do thần lực của Long Vương tạo hiện ra.
    ÁM U: Tối tăm mê muội
    TỔ PHỤ: Ông bà Cha mẹ từ trước.
    NỀ NẾP: Xem chú thích tại tr. 111 Tập 3/3.
    GIA PHONG: Phong tục, tập quán của mỗi gia đình, dân tộc.
    RÒNG RẶC: Cũng viết là rặc ròng. Có nghĩa thường như vậy, suốt ngày đều như vậy.
    KHE KHẮT: Cũng gọi là khắt khe. Có nghĩa gắt gao, bắt chặt bắt lỏng, khó khăn đủ cách. Ví dụ: Bà ấy hay khe khắt con dâu.
    MANG TAI ÁCH: Vương phải tai nạn thống khổ.
    DỊU DÀNG: Êm đẹp, hiền từ. Tiếng dịu dàng là lời nói ra rất hòa nhã, dịu ngọt, đầy sự nhân ái. Người đời từng nói:Chim khôn hót tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.(Tục ngữ).
    ĐOAN CHÁNH: Cũng viết là đoan chính. Có nghĩa ngay thẳng, đứng đắn.Thấy lời đoan chánh dễ nghe”.(Tr. Kiều)
    TÍCH THIỆN: Chứa điều lành. Kinh Dịch có câu:Tích Thiện chi gia tất hữu dư khánh.(Nhà chứa điều lành ắt có phước dư).
    TÍCH ÁC: Chứa điều hung dữ. Do câu:Tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương.”(Những nhà chứa điều dữ ắt có họa dữ).

    CHÁNH VĂN
    497. Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm,
    Nói thêm thừa huyễn-hoặc đủ điều.
    Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu,
    500. Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
    Đời bất công mấy ai xem sửa,
    Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng.
    Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
    504. Mà ăn ở nói năng chơn-chất.
    Phật từ-bi độ trong nhơn vật,
    Là luật kinh dạy rất tinh-tường.
    Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương,
    508. Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
    Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,
    Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.
    Đã tu hành đừng có bôn-chôn,
    512. Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán.
    Người hiểu rành mới càng thêm chán,
    Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu.
    Nói với ai cũng phải lựa điều,
    516. Đừng tráo-chác cho người khinh dể.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 497 đến câu 516)
    -Đến ác thứ tư của Khẩu nghiệp là những lời nói dối trá, thêm bớt không đúng sự thật. Đó là tội ác rất lớn mà xưa nay các Kinh luật đều có răn dạy.
    Về hành trạng của nó là chuyện có nói ra không, chuyện không nói thành có, làm đảo ngược sự thật. Hễ ghét người nào thì bịa chuyện nói xấu và che đậy các điều phải của họ, thương ai thời tìm cách biện hộ, bao che các việc sái quấy và tô vẽ thêm các điều tốt lành.
    -Do đó, những cảnh bất công thường diễn ra trong xã hội, thế mà chẳng thấy bao người tìm phương cải sửa. Phàm kẻ bề trên có quyền thế mà đối xử dối gian xảo quyệt thì người dưới tay, không bao giờ chịu thuận ý vâng theo. Vì muốn chặn ngăn trạng huống ấy, Đức Thầy khuyên khắp nhân loại nên lấy lẽ công bằng mà đối xử lẫn nhau, mọi sự ở ăn, nói làm hay giao tiếp, cần giữ lẽ chân thật hiền hòa.
    -Bởi lòng Từ bi của chư Phật đối với chúng sanh như tình mẹ thương con, không phân biết là loài người hay loài khác, nên các Ngài đã thuyết ra Kinh luật và biện giải rất tinh minh, để khuyên dạy khắp bá gia. Nếu chúng sanh nào biết nghe theo, lo răn chừa vọng ngữ, tất được phúc lợi lớn. Bằng ai chẳng chịu vâng lời, cứ tiếp tục con đường tội ác thì chẳng những bị khổ nạn trong kiếp hiện tiền, mà khi chết linh hồn cũng phải vương mang nghiệp báo, bấy giờ dầu có ăn năn cầu Phật, ắt cũng khó mà cảm ứng đến Ngài.
    -Vả lại, người đời còn chẳng vừa ý kẻ ăn nói không chơn thật, có lý nào Thánh Thần Trời Phật lại gần gũi kẻ láo xược dối gian. Là người biết tu hành, không nên quá vội vàng hấp tấp, ỷ sức khoe tài hoặc lừa, bịp bá tánh, rằng mình đã được Đạo cao, đức lớn như Đức Phật từng bảo:“Thà ăn tro than, nhai nuốt bụi đất, dao bén mổ bụng chớ đừng đem lời vọng, nói rằng tu đã chứng quả Thánh, để cho kẻ khác mê tín mà cúng dường, đó là kẻ Đạo tặc, vì đã trộm đồ ăn uống và tiền bạc của người vậy”.
    -Thêm nữa, nếu người tu hành còn vọng ngữ, một khi kẻ khác hiểu rõ lời huyễn hoặc của mình, họ rất chán chê phỉ nhổ. Vậy ngay bây giờ, ta hãy chừa bỏ lời xảo ngôn ấy đi, và mỗi lúc giao tiếp với ai cần chọn những lời chơn thật, ngay chánh mà nói; không nên dùng tiếng dối gian để khỏi bị người đời khinh rẻ, tức chừa được ác vọng ngữ.

    CHÚ THÍCH
    VỌNG NGỮ: Cũng gọi là Vọng ngôn, Phạn ngữ: Musâvâdo, có nghĩa: Nói láo, nói dối, nói huyễn hoặc, có nói không, không nói có. Tội ác thứ tư trong Khẩu nghiệp, và thập ác hay một trong “Ngũ Giới Cấm”.
    Sách Thánh bảo:Khẩu thân bất vọng trá, hô hành vạn sự thảy hanh thông.(Miệng và thân không dối trá, thì nói hay làm muôn việc đều đặng suốt thông). Và trong “Trí Độ Luận” có viết:“Theo lời Phật thuyết, kẻ phạm tội vọng ngữ có 10 tội quả báo như sau:
    1- Miệng thường có mùi hôi.
    2- Các Thiên Thần đều lánh xa.
    3- Người không tin dùng.
    4- Người bàn việc thường chẳng cho tham dự.
    5- Hay bị người phỉ báng.
    6- Người chẳng kính vì.
    7- Thường đa mang rầu buồn.
    8- Gây lấy nghiệp nhân bị chế nhạo.
    9- Lúc chết bị đọa Địa ngục.
    10-Nếu được sanh làm người, thường bị chê cười”.
    Đức Thầy nay cũng hằng dạy:
    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
    Nói với ai chớ có sai lời.

    (
    GMTK, Q.4)
    HUYỄN HOẶC: Cũng viết là huyền hoặc. Có nghĩa: dối trá, không thật, làm cho kẻ khác hiểu lầm. Đức Thầy có câu:
    Miệng dương thế hay bày nói huyễn,
    Sách Thánh hiền ghét kẻ nhiều lời.

    (Kệ Dân, Q.2)
    DỆT THÊU: Xem chú thích tại tr.52 Tập 2/3.
    VIỆN: Cũng gọi là vịn. Có nghĩa dẫn chứng, dựa vào một lý gì để bênh vực. Ví dụ: Viện lý lẽ để bao che.
    BÀO CHỮA: Biện hộ, tìm cách binh vực, che chở cho ta hoặc người thân của ta.
    ĐIÊU NGOA: Điêu là xảo trá, ngoa là giả dối, lừa đảo. Nghĩa chung là già miệng hay đặt điều nói dối làm sai hẳn sự thật.
    PHỤC TÒNG: Cũng gọi là phục tùng hay tùng phục. Có nghĩa: chịu xuôi thuận theo, vâng làm theo. Đức Thầy có câu:“Làm cho chúng phục tùng chơn lý.( Cho Ô. Cò Tàu Hảo ).
    CHÍ CÔNG: Rất mực công bình. Ví dụ: Chí công vô tư.
    TỪ BI: Xem chú thích tại tr. 40 và tr. 198 Tập 1/3.
    LUẬT: Nói cho đủ là Luật Tạng, Phạn ngữ: Vinaya- Pitaka, phiên âm là Tì Ni tạng hay Tì Nại Da tạng. Tàu dịch là điều phục. Ý chỉ những giới luật của Phật nói ra để cấm chỉ, ngăn ngừa tín đồ chẳng cho sai phạm mọi điều tội lỗi.
    Kinh luật thường chép:“Giới luật còn thì Phật pháp còn…Bản chất của giới luật là đình chỉ tất cả hành động lầm lỗi. Năng lực của giới luật là đem lại cho người, giữ gìn từ sự an lạc của chư thiên, cho đến sự giác ngộ của Phật Đà”. Thế nên lúc sắp nhập Niết Bàn, Đức Phật có dặn dò các thầy Tỳ Kheo và đại chúng:“Sau khi Ta diệt độ rồi các ngươi đều tôn kính Giới luật làm Thầy. Và phải giữ gìn cho nghiêm chỉnh, mới đặng trí huệ và các món Thánh tài. Trên đường tu hành mà có giới luật thì quí báu như ở chỗ tối tăm mà có đèn đuốc, như người nghèo khổ mà có bạc vàng. Thế nên các ngươi cần phải phụng hành giới luật, như khi ta còn trụ thế vậy”.
    KINH: Xem chú thích tại tr. 156 Tập 1/3.
    TINH TƯỜNG: Rõ ràng minh bạch, rất tường tận tinh tế, không chỗ nào chẳng thông suốt.
    BỐC XƯỚC: Giả dối, không kỹ lưỡng, không thật tình.
    XẢO NGÔN: Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 3/3.
    BÔN CHÔN: Vội vã, lật đật, thiếu đắn đo, suy tính và dè dặt. Ví dụ: Đừng bôn chôn hư việc.
    TÀI CÁN: Có tài. Ý chỉ người có đủ năng lực đảm đương mọi công việc.
    TRỚ TRÊU: Né tránh, lếu láo, ranh mãnh. Ở đây chỉ cho sự tráo trở tránh né.
    TRÁO CHÁC: Tráo là ngầm đem vật xấu thay tốt, hoặc tốt thay xấu. Chác là gạt người cho mắc mưu . Tráo chác là lời nói tráo trở, lừa phỉnh người, gạt gẫm người cho mắc mưu lầm kế.

    CHÁNH VĂN
    517. Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ,
    Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần.
    Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân,
    520. Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
    Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
    Từ xưa nay Trời đất đâu dung.
    Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
    524. Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
    Trai liều-lĩnh điều này nên bỏ,
    Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
    Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn,
    528. Hoa có chủ đèo-bồng tình mới.
    Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
    Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
    Đứng nam-nhi học lấy điều khôn,
    532. Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý.
    Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
    Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
    Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
    Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống.
    Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng,
    538. Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 517 đến câu 538)
    -Các đoạn trước giải về bốn điều ác của Khẩu nghiệp, tiếp đây đến phần ác Tà dâm. Đức Thầy liệt nó vào thứ năm của Thập ác, tức là tội thông dâm với vợ con hoặc chồng của người khác, chớ không phải vợ hay chồng chánh thức, do luật nước hay cha mẹ chấp nhận.
    Hành trạng của tội ác nầy lan diễn khắp hạng người. Cũng vì quá đắm mê sắc dục mà Vua chúa hôn quân, nỡ cướp vợ của bầy tôi; cung phi dâm loàn với hàng quan tướng, như trường hợp “Vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quí Phi…”Ác Tà dâm làm đảo lộn nền luân thường đạo lý. Những sự ấy đã gây biết bao cảnh huống đau thương, nào sự nghiệp tiêu tan, thân chết một cách thảm thiết, linh hồn phải bị cuốn theo nghiệp báo, nào bị tiếng đời chán chê, phỉ nhổ, lại còn làm cho dân chúng chịu vạ lây mà xưa nay luật báo ứng trong Trời đất không thể nào tha thứ được. Người giàu sang thường dùng của tiền lừa gạt dâm hiếp kẻ nghèo. Còn hạng quan trường thì dùng uy lực cưỡng bức dân quê, gây sự tủi nhục cho hàng nữ lưu không ít.
    -Lại còn số thanh niên trong lứa tuổi dục tình còn nồng nhiệt, hành động những điều càn dỡ, làm cho các cô gái phải thất trinh mất tiết. Giới nữ cũng lắm người lả lơi cười cợt, khêu gợi dục tình, hoặc dùng lời đường mật đẩy đưa, quyến rũ, để làm việc hư thân mất nết. Thậm chí kẻ đã có chồng, còn mong thêm mối tình mới lạ…Tất cả sự trạng kể qua là nguyên nhân sanh họa hoạn và tội khổ, dẫn đến sanh tử luân hồi.
    -Thế nên, Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp giới nữ nam, từ đây hãy dứt bỏ tệ trạng nói trên, vì cuộc dâm loạn như thế, chẳng những bị mất hết danh giá của gia đình thân tộc, còn làm cho xấu hổ đến Tổ tiên nòi giống. Vậy bổn phận làm trai, nên học đòi những tấm gương tốt đẹp mà ăn ở đúng theo đạo lý, để vẹn tròn trung hiếu và xứng đáng là bực râu mày quân tử:Vậy mới trang quân tử nam nhi, Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.(Diệu Pháp Quang Minh). Còn hàng phụ nữ nên noi theo gương mẹ hiền dâu thảo của Bà Mạnh Mẫu và Thoại Khanh xưa kia, lo trau giồi đức hạnh, giữ vẹn tiết trinh:Hàng phụ nữ giồi câu trinh liệt.(Diêu Pháp Quang Minh). Có thể ta vừa tránh được các tệ hại nhớp nhơ, vừa làm cho Tổ tiên đẹp mày thỏa dạ:
    “Thỏa tình được sống dưới trời Đông,
    Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng”.

    (Tết Ở Chiến Khu)
    -Để ngăn ngừa tội ác tà dâm, Đức Thầy khuyên dạy tín đồ nên nhận rõ kiếp sống của con người, chẳng khác giấc chiêm bao đầy sự ác hung, đau khổ để sớm lo thức tỉnh tu thân, phụng hành theo Phật pháp và vun trồng giống thiện. Nhứt là phải chuyên tâm niệm Phật cho đến khi “nhứt tâm bất loạn”, để tiêu trừ tận gốc lòng tham muốn dục tình (tà dâm). Khi trừ diệt đặng nó nhà tu sẽ đạt kết quả: Không còn luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi và trí quang minh tự tánh phát khai, đắc thành Đạo quả.
    `
    CHÚ THÍCH
    TÀ DÂM: Xem lại chú thích tại tr. 201 Tập 3/3.
    CHIẾM ĐOẠT: Dùng võ lực hay mưu mẹo cưỡng lấy vật sở hữu của người làm của mình.
    THÊ THẦN: Vợ của bầy tôi.
    ĐẢO HUYỀN: Treo lộn ngược. Ý nói trật tự đều đảo lộn, cái ở trên đem xuống dưới, ở dưới lại đem lên trên. Tình thế xáo trộn mất hết tôn ti trật tự.
    HOÀNG CUNG: Trong cung vua.
    DÂM LOẠN: Sự dâm dục hỗn loạn, ngoài vòng luân thường đạo lý. Kinh Thơ có chép:“Thiên Đạo phước thiện họa dâm.”( Đạo Trời ban phước cho người thiện, gieo họa cho kẻ dâm loan).
    THẢM TRẠNG: Cảnh huống đau đớn, khổ sầu.
    DÂM HIẾP: Cũng gọi là hiếp dâm. Có nghĩa dùng oai lực hãm hiếp vợ con người khác, cho thỏa thích tánh khát dục.
    DÂM Ô: Trai gái lấy nhau lén lút, rất xấu xa. Đây chỉ việc làm cho nhơ nhớp danh giá, tiết hạnh của người con gái.
    LIỀU LĨNH: Hành động càn bướng, ẩu tả, chẳng cần phân phải trái, chẳng kể xấu xa nguy hiểm.
    TRINH TIẾT: Sự trong sạch. Chỉ người phụ nữ chẳng bị thất trinh mất tiết, chưa ăn nằm với một người đàn ông nào. Đức Thầy từng nói:
    “Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,
    Gái tiết trinh mới gái Nam Trào.

    (
    Kê Dân, Q.2).
    LẲNG LƠ: Tánh cợt nhả, lả lơi trây trúa. Chỉ người đàn bà không có hạnh nết:“Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa, Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.”(Ca dao).
    TIẾNG QUYỂN LỜI ĐỜN: Quyển là một thứ nhạc khí bằng tre như ống sáo, nhưng thổi ngang hông chớ không thổi trên đầu như sáo, tiếng nghe trầm bổng mê ly. Đờn là loại nhạc khí có dây để khảy (gảy) hoặc đánh hay kéo tiêu khiển. Tiếng quyển lời đờn là ý nói lời ngọt ngào óng chuốt của người đàn bà nghe rất êm tai, dễ mê luyến cũng như tiếng đờn tiếng quyển vậy.
    ĐÈO BỒNG: Bận bịu, mắc míu, đã đeo mang lại muốn bồng ẵm thêm. Ý chỉ người đàn bà đã có chồng còn muốn kiếm thêm người tình nữa.
    Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
    Chồng con hay được đem lòng nghi nan.
    (Ca dao).
    ĐIẾM NHỤC: Điếm là tỳ vết; nhục là xấu xa hèn kém. Ví như viên ngọc có tỳ vết, bị giảm giá trị. Đây chỉ cho việc làm xấu xa có tổn thương đến danh dự.
    TÔNG MÔN: Tông là dòng họ; môn là cửa. Nghĩa chung là những người cùng một nhà, một tộc họ hay một Tông phái.
    TRUNG HIẾU: Xem lại chú thích tại tr. 76 Tập 1/3.
    ĐẠO LÝ: Xem lại chú thích tại tr. 128 Tập 1/3..
    MẸ HIỀN: Do chữ hiền mẫu. Có nghĩa: Bà mẹ hiền đức, gồm đủ tiết hạnh và thông minh.
    Người được xem Mẹ hiền là bà Cừu Thị, được người tôn xưng là “Mạnh Mẫu”, tức mẹ của vị Á thánh Mạnh Tử bên Nho Giáo. Bà sanh Mạnh Tử được ba tuổi thì chồng chết, bà thủ tiết nuôi con, cho ăn học, phải ba lần dời nhà con mới làm nên:
    -Lần đầu tiên nhà bà ở gần đất nhị tỳ. Hôm nọ trong xóm có người chết, Mạnh Tử tuy còn nhỏ, nhưng cũng theo đưa đám tang. Khi về ông bắt chước đóng hòm rồi đem chôn cất, than khóc như có người chết thật. Thấy vậy, mẹ ông lấy làm lo, nên dời nhà đi nơi khác.
    -Lần thứ nhì ở gần lò heo. Mạnh Tử thấy người đồ tể sáng sớm bắt heo làm thịt, heo kêu eng éc. Ông cũng bắt chước: lấy đất nắn hình con heo, rồi lấy dao đâm họng, miệng ông khẽ kêu eng éc…Mạnh Mẫu trông thấy sợ con ô nhiễm việc ác đó nên dời nhà đi nơi khác nữa.
    -Lần thứ ba ở gần trường học, hằng ngày thấy học trò cắp sách đến trường, ông liền xin Mạnh Mẫu cho đi học. Bà chấp nhận và nghĩ thầm:“ Ở đây con ta có thể làm nên sự nghiệp”.
    Hôm nọ, Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi, bà muốn cảnh tỉnh con, liền cắt ngang mảnh vải đang dệt. Ông kinh hải, quì xuống hỏi:
    -Thưa mẹ ! Vì cớ gì mẹ lại làm thế ?
    Bà đáp:
    -Nghề dệt là chấp nối từ mối tơ mới làm nên tấm lụa. Sự học của con cũng thế, hôm nay con bỏ học trở về khác nào khổ lụa mẹ đã cắt lìa, thành ra vô dụng. Nghe qua Ông rất hối hận, từ ấy quyết một bề lo học.
    Nhờ sự khéo léo dạy con của bà mà sau Mạnh Tử làm nên sự nghiệp, muôn đời còn ca ngợi và nương theo. Kinh Tam Tự có nói:
    Tích Mạnh Mẫu, trạch lân xử,
    Tử bất học, đoạn cơ trử”.
    Và phần yếu giải có chép:
    “Tích xưa mẹ Thánh huấn nhi,
    Dọn lầm chỗ ở dời đi ba lần.
    Có khi trẻ chẳng ân cần,
    Mình ngồi khung dệt cắt chân mà thề.
    Từ sau cứ học một bề,
    Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.

    DÂU THẢO: Xem chú thích “rể thảo dâu hiền” tại tr. 115-116 Tập 3/3.
    THIỆN DUYÊN: Xem chú thích tại tr. 62 Tập 1/3.
    TỔ TIÊN: Ông cha ta từ trước. Người xưa từng hát:Khen ai khéo tiện ngù cớ, Khéo xây bàn án khéo thờ Tổ Tiên.(Tục ngữ).
    ÁC MỘNG: Điềm chiêm bao hung dữ, xấu xa. Ý nói kiếp sống con người trong cõi đời đã ngắn ngủi, lại còn dẫy đầy sự ác khổ, đê hèn. Cổ nhân từng bảo:
    “Một mai vô thường đến, Mới biết người trong mơ.
    Muôn việc không đem được, Duy có nghiệp đùm đeo”.

    MÊ ĐỒ: Xem chú thích tại tr. 260 Tập 3/3.
    QUANG MINH: Ánh sáng. Tự mình có ánh sáng gọi là Quang, soi chiếu được sự vật gọi là Minh. Quang Minh là cái tướng của trí tuệ, vì nó năng soi chỗ tối và hiện ra các pháp. Cho nên quang minh có hai tên:
    1- Trí quang minh: Ánh sáng của trí tuệ chiếu khắp 10 phương thế giới và suốt ngang các vật: đất, nước, lửa, gió hoặc các đồi núi, cho đến chỗ tối tăm như Thiết vi, Địa ngục…
    2- Thân quang minh: Cũng kêu là trường quang tức là ánh sáng của thân thể, dù đi, đứng, nằm, ngồi hay nhập định, xuất định, lúc nào ánh sáng nầy cũng bao bọc chung quanh nhà tu hành đắc đạo, ai bước lại gần cũng cảm thấy thân tâm khoan khoái nhẹ nhàng.

    CHÁNH VĂN
    539. Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
    Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc.
    Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
    Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi.
    Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
    544. Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ.
    Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
    Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.
    Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
    548. Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
    Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi,
    Vào thâm-tâm những kẻ gian phi.
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
    552. Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
    Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
    556. Cứ bền chí có ngày thong-thả.

    LƯỌC GIẢI (Từ câu 539 đến câu 556)
    -Đoạn nầy Đức Thầy khuyên nhắc tín đồ hãy gắng sức tìm hiểu cho rành nghĩa lý trong Kinh giảng mà Ngài đã viết ra thì cuộc ngăn ác hành thiện mới được kết quả chắc chắn. Còn tội ác thứ sáu tới đây là các việc làm trộm cướp gian lừa ( Đạo tặc).
    -Về hành trạng của ác nầy là những kẻ chuyên lấy của tiền người khác, đem về cung cấp cho sự ăn, mặc, ở trong gia đình. Kẻ đạo tặc không xét nghĩ người ta tạo được tiền của là phải tốn bao nhiêu công lao vất vả, dãi nắng dầm sương, đổ mồ hôi nước mắt; họ nhẫn tâm tìm cách cướp đoạt làm cho dân chúng ngày đêm xao xuyến không yên, nào lo tảo tần công tác, nào phải nhọc tâm gìn giữ của tiền.
    -Những kẻ hành nghể trộm cướp bất kể pháp luật là gì, quanh năm suốt tháng chỉ biết tập tành đủ mưu gian, kế độc; nào đục tường, cạy vách, mở tủ khiêng rương; nào chận đường đón ngõ, lường gạt đủ điều. Chẳng có phương tiện gian ác nào mà họ không dùng đến, miễn sao lấy được của tiền của người khác mới nghe. Suốt đời tội ác cứ chồng chất lên mãi, thế mà họ có hay biết gì đâu. Các tội lỗi đó họ có thể qua mặt luật pháp của người đời, chớ không bao giờ vượt khỏi lưới Trời (luật nhân quả).
    -Do đó Đức Giáo Chủ dùng ánh sáng siêu mầu (trí huệ) soi tận đáy lòng của kẻ trộm cướp, gian lừa để kêu gọi họ sớm thức tỉnh tu thân sống nghề ngay chánh; vì của tiền có ra không đúng Đạo nghĩa, dù ta được thật nhiều cũng không bền chắc và làm nên việc gì. Sách Thánh thường răn đời:Người chẳng phải, chẳng nên giao thiệp; của chẳng phải, chẳng nên lấy (Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ).
    -Đề ngăn chừa ác Đạo tặc, Đức Thầy khuyên mọi người nên mạnh tin nơi luật nhân quả:Luân hồi quả báo rất công bằng.(Khuyên Sư Vãi). Và:Cơ thâm thì họa diệc thâm, Nào trong sách sử có lầm ở đâu.”.(Sấm Giảng, Q.1). Định luật ấy dầu cho bực Vua quan cũng không tránh khỏi và cách xa bao thời gian cũng không mất. Mọi việc làm: lành, dữ đều có trả lại, song chỉ đến sớm hay muộn vậy thôi (Họa phước đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì). Vậy kẻ tu hành nên giữ lòng ngay thẳng, thi hành theo chánh nghiệp:
    Tánh ngay thẳng ta không dời đổi,
    Dầu tan xương nát thịt chẳng màng”.

    (Sấm Giảng, Q.1)
    Và cứ bền tâm kiên chí mãi như thế tất trừ được ác Đạo tặc, cùng cắt đứt mối dây luân hồi quả báo mà tự do giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    ĐẠO TẶC: Theo Phật học gọi là Du đạo, Phạn ngữ: Adinnâdânam. Đạo là trộm cắp, Tặc là cướp đoạt. Nói chung là lấy tiền của người khác một cách phi pháp là mắc tội Đạo tặc. Đây là một tội ác trong Thập ác và một trong Ngũ giới cấm. Người đời hay kẻ đạo cũng phải tránh hẳn, nếu còn vi phạm dù việc rất nhỏ cũng có tội báo. Như trong Kinh A Hàm có chép:
    “Hôm nọ Đức Mục Kiền Liên đang đi, bỗng gặp ba con quỉ: Một con bị hòn sắt nóng đốt thân, vừa bay vừa khóc thảm thiết. Một con thì lưỡi le ra dài, có con dao cháy đỏ bay theo chặt đứt cuốn lưỡi, cũng vừa bay vừa khóc. Còn quỉ thứ ba bị hai bánh xe sắt kẹp hai bên hông đốt cháy giáp vòng, cũng vừa chạy vừa khóc.
    Ngài Mục Kiền Liên thuật cho Tỳ Kheo Lặc Xoa nghe, ông liền đến trước Phật bạch hỏi lý do ?
    -Phật dạy: Ta cũng thấy, nhưng chưa tiện nói ra vì sợ kẻ mê chẳng tin lời của Như Lai mà chịu khổ nhiều đời !
    Nguyên tiền kiếp của ba con quỉ ấy là ba vị Sa Di. Một Sa Di lấy trộm của thường trụ bảy trái cây. Một vị lấy trộm của chúng Tăng hai cái bánh cặp nách xuống ăn. Một vị cầm dao chặt đường phèn làm cho dính rồi kê lưỡi liếm. Cả ba sau khi chết bị đọa Địa ngục chịu muôn ngàn sự khổ, nay lên kiếp ngạ quỉ cũng còn tiếp tục chịu khổ nữa, chưa hết”.
    Do đó, Đức Phật thường dạy tín đồ:“Ninh tựu đoạn thủ, bất thủ phi tài.”(Thà chịu chặt tay chớ quyết định không lấy của bất chánh).
    LƯƠNG DÂN: Dân lành. Chỉ số người làm ăn chân thật hiền lành.
    PHÁP LUẬT: Cũng gọi là luật pháp. Có nghĩa phép tắc luật lệ của quốc gia lập ra để dân chúng trong nước tuân theo. Ví dụ: Pháp luật đã qui định.
    Ở MÔ: Ở đâu ? ( tiếng người Huế thường dùng).
    TRỐN NGƯỜI KHỎI TRỐN TRỜI SAO KHỎI: Câu nầy ý nói những kẻ trộm cướp, dầu họ có trốn khỏi luật pháp ở thế gian, chớ không thể nào tránh khỏi luật Trời (nhân quả). Như trong Kinh Phổ Môn có chép câu chuyện:
    Hôm nọ có anh học trò đi thi rớt trở về, nghe tiếng ông Bàn Công Cư Sĩ là người hay bố thí, giúp đời, tiền bạc cho mượn ra dù ai không trả ông cũng không đòi. Anh học trò liền ghé lại hỏi mượn 50 lượng bạc, với ý định xài luôn, không trả.
    Khi vào nhà anh trình qua ý kiến, ông Bàn Công vui vẻ cho anh mượn y số bạc. Đồng thời ông còn tặng thêm một số gạo, vải và cho mượn con lừa để chở tiền gạo về nhà.
    Anh học trò cảm ơn và từ giã, chở đồ dắt lừa ra đi, nhưng đi được một khoảng đường, lừa không chịu đi nữa, anh bực mình vừa giở roi vừa nói với lừa:
    -Chủ ngươi cho ta mượn chở đồ rồi trả lại, tại sao ngươi không chịu đi nữa ?
    Lừa phát nói tiếng người.
    -Anh học trò ơi ! Anh học biết chữ mà không biết nghĩa “Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt”. Anh nên biết, tiền kiếp tôi đội trộm của ông Bàn Công chỉ có ba thúng lúa, không ai hay hết mà khi chết rồi phải đi đầu thai làm lừa ba kiếp để kéo xe trả nợ cho ông đây nè. Còn anh nay muốn giựt của ông 50 lượng bạc nầy thì phải luân hồi làm thú biết mấy kiếp mới đền nợ cho xong.
    Anh học trò nghe lừa nói kinh hãi liền dắt lừa trở lại trả hết đồ cho ông Bàn Công và xin lỗi.
    Thay vì nhận xét câu chuyện nói trên, ta hãy đọc bài thi răn đời của Vua Trần Thái Tôn:
    Tạc bít xuyên tường ý bất hưu,
    Thiên ban bách kế khổ vinh cầu.
    Kim sanh khẩu đắc tha nhơn vật,
    Bất giác chung thiên thọ mã ngưu”.
    (Khoét vách đào tường chí những đâu,
    Ngàn muôn mưu kế luống tham cầu.
    Của người dù có đời nay được,

    Đời khác luôn làm kiếp ngựa trâu).
    Đức Thầy nay cũng từng bảo:
    Tuy lưới trời thưa rộng thinh thinh,
    Chớ chẳng lọt những người hung ác”.

    (Cho Bà Năm Cò)
    ĐUỐC HUỆ: Ánh sáng của trí huệ. Bởi trí huệ có công năng chiếu phá vô minh, ví như ánh đuốc soi chỗ tối tăm.
    Kinh Niết Bàn Phật nói:“Nhữ ư Phật tánh do vị minh liễu. Ngã hựu huệ cụ năng vị chiếu minh.”(Các ngươi đối với Phật Tánh còn chưa hiểu rõ. Ta có đuốc huệ, có thể vì các ngươi chiếu sáng).
    THÂN TÂM: Lòng sâu kín.
    GIAN PHI: Xem chú thích tại tr. 280 Tập 3/3.
    VÔ NGHÌ: Không có nghĩa, không đúng lẽ phải.
    PHI NGHĨA: Chẳng phải nghĩa, trái với đạo lý, luật pháp. Của phi nghĩa là tiền của chẳng phải nghĩa, tức là lấy của người đem về làm của mình, chớ không phải chính mình làm ra:“Của phi nghĩa có giàu đâu, Ở cho ngay thật giàu sang mới bền.”(Ca dao).
    LUẬT NHƠN QUẢ THẬT LÀ CAO VIỄN: Ý nói sự báo ứng của luật nhân quả rất nghiêm minh và cao xa. Nghĩa là, dầu cho đến bậc Vua quan như Lương Võ Đế, cũng không thoát khỏi. Và xa bao thời gian kiếp số cũng vẫn báo đền.
    Thuở xưa, có một nhà Vua vào rừng săn bắn, bỗng gặp một Đạo nhân đang tụng kinh, tiếng nghe thâm trầm thảnh thót. Vua sai lính bắt Đạo nhơn đem về bảo làm ca sĩ. Đạo nhơn không biết ca, chỉ biết tụng kinh tiếng Phạn rất hay. Vua nghe thích lắm, mỗi khi có yến tiệc hay tân khách đến, Vua thường kêu Đạo nhơn ấy ra giúp vui.
    Hôm nọ có người thương buôn vốn là Cư sĩ ở nơi phương xa đến, đem bảo ngọc hiến Vua để xin mang hàng hóa vào nước bán. Vua mừng rỡ tiếp đãi khách và kêu Đạo nhơn ra ca. Thương khách nghe ca sĩ tụng kinh Đại thừa thâm nghĩa lấy làm lạ, liền hỏi Vua về căn tích của người ca sĩ.
    Sau khi mãn tiệc, thương khách đem một ngàn lượng vàng dâng Vua xin chuộc Đạo nhơn. Vua không bằng lòng, đôi bên mặc cả đến ba ngàn lượng, Vua mới ưng thuận giao Đạo nhơn cho thương khách.
    Thương khách mừng rỡ lễ bái Đạo nhơn và bạch:
    -Tôi đã chuộc Ngài ba ngàn lượng vàng nơi Vua, từ đây Ngài khỏi phải làm ca sĩ trong Hoàng cung nữa.
    Đạo nhơn dùng thần thông bay lên đứng giữa hư không đáp:
    -Chính nhà ngươi đã tự chuộc cho mình, chẳng phải chuộc cho ta đâu. Giữa sự ngạc nhiên của Vua quan và dân chúng, Đạo nhơn nói tiếp:
    Thuở xưa, cách đây vô số kiếp, nhà vua là người bán rau hành, lúc ấy ngươi đến mua còn thiếu ba tiền, chủ không chịu bán, ta đứng ra lãnh nợ cho ngươi. Về sau ngươi không trả, mãi đến nay ba tiền đó vốn lời cốn lên tới ba ngàn lượng vàng đấy. Còn ta vì lãnh nợ cho ngươi, nên mới bị nhà Vua bắt giữ bấy lâu nay.
    Vua, Quan và thương khách nghe xong, thảy đều kinh hãi. Vua hối quá làm lễ thọ giới qui y.(Phỏng theo Tòng Lâm Cổ Tích của Như Sanh).
    Đọc câu truyện trên chắc ai cũng thấy tiền thân của nhà thương buôn chỉ giựt có ba tiền từ nhiều tiền kiếp trước mà nay phải trả lại số vàng gấp ba ngàn lần nhiều hơn. Cổ Đức từng bảo:
    Xuân một hạt giống, Thu gặt ngàn thóc mễ,
    Người đời tạo giữ lành, Quả báo y như thế”.

    Kinh Phật cũng từng chép:
    “Giả sử bách thiên kiếp, Sở tác nghiệp bất vong
    Nhơn duyên hội ngộ thời, Quả báo hoàn tự thọ”.

    (Cái nghiệp tạo ra dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng chẳng mất. Khi nhân duyên đến rồi thì nhân nào dẫn theo quả nấy).
    BỀN CHÍ: Cũng gọi là chí bền. Có nghĩa ý chí vững chắc, cứ mãi hoài như vậy dầu gặp việc khó khăn hay thời gian dày đặc cũng chẳng hề thay đổi lập trường, ý chí của mình.
    Kinh Bốn Mươi Hai Chương có chép: Một vị Sa môn hỏi Phật: -“Pháp nào là hay nhứt và lớn nhứt ?” Phật dạy: Giữ bền chơn tánh, thực hành Đạo giác ngộ là hay nhứt, chí hướng bền vững cùng hợp với Đạo là lớn nhứt”.
    Đức Lục Tổ cũng bảo:
    Nếu bền lòng như lấy lửa cọ cây
    Nơi bùn lấm nở đầy sen đỏ”.

    Và ông Thanh Sĩ, một đệ tử của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nói:
    Nuôi trong lòng một chữ bền,
    Mọi điều chi cũng làm nên dễ dàng”.


    CHÁNH VĂN
    557. Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ,
    Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm.
    Chất-chứa điều hung dữ trong tâm,
    560. Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
    Viết đến đây động lòng rào-rạt,
    Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân.
    Nào kể chi là đạo Quân-Thần,
    564. Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
    Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ,
    Trò giết thầy tội ấy đáng không.
    Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
    568. Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé.
    Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
    Giành của tiền cốt-nhục giết nhau.
    Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
    572. Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách.
    Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
    Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
    Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
    576. Chớ sát hại mạng người như thế.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 557 đến câu 576)
    -Đến tội ác thứ bảy là những hành động giết hại mạng sống của chúng hữu tình (sát sanh). Đây thuộc về phần Thân nghiệp và là ác thứ bảy trong Thập ác.
    Trước nhứt, Đức Thầy luận giải về hành trạng của người đối với người. Là nhân loại, lúc sơ khởi ai cũng có tánh lành cả, song vì nghiệp mê ràng buộc, cộng với sự ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh mà lòng người trở nên hung dữ. Hột giống ác hung ấy đã huân tập trong tiềm thức đã lâu đời, nên nay vừa sanh ra và lớn lên là họ muốn sát hại. Tâm hiếu sát nầy đối với bất cứ là ai, khi được thế là họ thi hành ngay, không hề nghĩ đến tội phước hay nhân quả báo ứng, miễn đem lại danh lợi cho cá nhân hay gia đình, dân tộc họ là được.
    Vì thế khi viết đến đoạn nầy Đức Thầy động mối từ tâm, xót thương cho những kẻ tạo ra cảnh huống giết hại đau thương rồi sẽ vương mang tội khổ. Họ đành quên ơn bội nghĩa, chẳng gìn Đạo lý luân thường, tình trạng tôi giết chúa, con giết cha thường xảy ra nơi trào nội để tranh đoạt tước quyền tài sắc giữa nhau.
    -Lại còn hạng tôi tớ thừa cơ giết chủ, học trò phản phúc nỡ hại Thầy, vợ chồng tiêu diệt lẫn nhau; anh em cốt nhục lại gây cuộc tương tàn tương sát, tất cả chỉ vì muốn chiếm đoạt danh, lợi, tình mà diễn ra thảm trạng ê chề tội lỗi.
    -Thế cũng chưa hết, mẹ với con là mối tình thiêng liêng cao cả nhứt mà cũng lắm kẻ không nghĩ đến, nỡ đang tay hại mẹ. Ngoài ra còn đối với đồng bào, chủng loại cũng rất tương quan mật thiết, bởi họ đã từng đùm bọc, giúp đỡ để bảo vệ sự sống còn cho nhau, song vì lòng ngã chấp và tư lợi mà người ta cũng bức hiếp, giết hại lẫn nhau.
    -Trong khi hành động tội ác, lòng họ luôn kiêu căng tự đắc, cho rằng mình lấn lướt giết hại như vậy thì có tài trí hơn người ? Họ không ngờ hành trạng hung ác ấy là nghiệp nhân oan trái, rồi phải bị luân chuyển trả vay mãi trong cõi Ta bà thống khổ. Kinh Sa Di Thập Giới có nói: Nghiệp báo oan gia đã kết buộc trong đời nầy, sự trả vay, vay trả biết bao giờ cho hết được.(Oan nghiệp kỳ kết ư kim sanh, tắc thù báo thế thế bất dĩ).

    CHÚ THÍCH

    SÁT NHƠN: Cũng viết là sát nhân. Có nghĩa giết hại mạng sống của loài người. Đây là một phần nghĩa của ác sát sanh (một trong Thập ác và Ngũ giới cấm). Bởi sát sanh là giết hại mạng sống của cả loài người và các loài vật. Ai vi phạm ác nầy có tai hại rất lớn, như trong “Đại luật”, Phật có nói:“Người phạm tội sát sanh có mười điều họa hại:
    1- Thường chứa độc trong tâm, đời đời không dứt.
    2- Người đời chán ghét, mắt chẳng muốn ngó.
    3- Tâm thường niệm ác và nghĩ những việc tà.
    4- Người đời thấy sợ như sợ rắn hổ.
    5- Khi ngủ hay giựt mình, lúc thức tâm chẳng yên.
    6- Thường thấy chiêm bao hung dữ.
    7- Khi mạng chung, chết một cách ghê gớm.
    8- Gây nghiệp nhơn chết yểu về đời sau.
    9- Mạng chung bị đọa vào Địa ngục.
    10-Khi hết khổ ở Địa ngục, sanh lên kiếp người còn phải bị chết oan. Thế há chẳng răn dè ư !”
    HUNG HĂNG: Nghĩa của chữ lung lăng, tức tánh ngang tàng dữ tợn.
    ĐẮC THẾ: Được thế, lúc gặp thế.
    HẠ SÁT: Xuống tay sát hại. Ví dụ: Nỡ lòng sát hại.
    RÀO RẠT: Xao xuyến thương cảm. Bởi bực siêu nhân khi cảm xúc những nỗi thương xót, mối từ tâm phát động, sôi nổi rất mạnh, dường như gió thổi sóng xao, thế gọi là rào rạt. Tuy động tâm, nhưng phát động đều đúng tiết thì gọi là “Hòa” chớ không phải động. Do câu:“Hỷ nộ ai lạc chi vị phất vị chi trung, phát nhi giai trúng tiết vị chi hòa.”(Trung Dung) .
    BỘI BẠC: Bạc bẽo, không nhớ ơn. Ở quấy với những người mình đã thọ ơn.
    THÂM ÂN: Ân nghĩa đã thọ rất sâu thẳm lớn lao, khó mà đền đáp cho hết được. Do câu:“Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực.”(Muốn báo ơn sâu trời cao không cùng). Những ân sâu nầy chỉ cho Ân Tổ tiên Cha mẹ, Đất nước, Tam bảo và Đồng bào nhân loại…Đức Thầy từng dạy:
    Sách có chữ thâm ân dục báo,
    Phận làm người hiếu thảo noi gương.

    (
    Sa Đéc).
    QUÂN THẦN: Vua tôi. Đây là Đạo “Vua Tôi”, một trong ngũ luân. Đức Thầy hằng khuyên:Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ.(Không Buồn Ngủ).
    CON ĐÀNH SÁT PHỤ: Con nỡ giết cha. Ý nói cha mẹ là đấng sanh dưỡng, công lớn như trời biển, thế mà kẻ làm con lại đành giết hại để giành giựt lợi danh quyền tước.
    XÂU XÉ: Tranh giành, xung đột với nhau. Ý chỉ tình cảnh giữa anh em, thân tộc, quốc gia giành giựt chém giết lẫn nhau. Đức Thầy thường bảo:“Xâu nhau đặng có tranh ăn.(Bóng Hồng).
    Hoặc:Gió Á mưa Âu bùng sấm dậy,
    Hãi hùng tranh chiến xé xâu nhau.(Xé Xâu Nhau).
    CỐT NHỤC: Xương và thịt. Ý nói tình cha mẹ, anh em rất chí thân như xương với thịt.
    ĐỒNG BÀO: Cùng một bọc, một bào thai sanh ra. Chữ Đồng bào có hai nghĩa:
    -Những người cùng sống chung một vòm trời một dòng đất hay một giống dân. Ấy gọi là Trời cha Đất mẹ.
    -Riêng về nước Việt Nam thì do điển tích bà Âu Cơ vợ của Lạc Long Quân, sanh ra một cái bọc, có trăm trứng và nở ra một trăm người con. Tương truyền một trăm người con ấy, sản sanh giống dân Việt Nam, nên từ đó dân tộc Việt Nam đều gọi nhau bằng Đồng Bào. Đức Thầy thường kêu gọi: Hỡi đồng bào! Hỡi đồng bào!” (Khuyến Nông).Và:Đồng bào ai nỡ dứt tình.(Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh).
    TÌNH NHƠN LOẠI: Tình người, tức mối tình giữa loài người với nhau rất tương quan mật thiết, lúc nào cũng có lòng thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, không phân biệt màu da chủng tộc. Tục ngữ có câu:“Chữ rằng: thố tử hồ bi, Huống người là giống tinh vi ở đời.
    Đức Thầy nay cũng dạy giữa nhân loại phải biết thương nhau:“Nếu thiệt người thì biết thương người.”(GMTK, Q.4). Và:
    “Ví như loại sanh cầm hồ thố,
    Còn thương nhau lại huống chi người.

    (Diệu Pháp Quang Minh)
    YỂM BÁCH: Yểm là che lấp; bách là áp bức, làm ngặt. Nói chung là dùng thế lực dìm che, đàn áp người một cách thắt ngặt.
    SANH VẬT: Mạng sống của loài người và các loài vật khác.
    KIÊU CÁCH: Tư cách kiêu hãnh, khinh người, kiêu căng tự đắc.Ví dụ: Cử chỉ kiêu hãnh, nói năng kiêu cách. Đức Thầy hằng khuyên trong bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:
    “Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu cách,
    Các con lành khá chọn ngay đường”.

    VIỆT ĐÀN: Cũng gọi là Đàn Việt, Phạn ngữ: Dânapati. Việt có nghĩa vượt qua, Đàn là bố thí hay thí chủ. Ý nói người có tín tâm tu hành hay làm việc bố thí thì được vượt qua biển khổ sanh tử. Đây chỉ chung cho giới tu hành. Truyện Kiều có câu:
    Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
    Có người đàn việt lên chơi cửa già”.

    MẠNG NGƯỜI: Mạng sống của con người.

    CHÁNH VĂN
    577. Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
    Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng.
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
    580. Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác.
    Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
    Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời.
    Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
    584. Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.
    Đấng Thần-Minh công bình trực dạ,
    Đâu ăn lo đổi họa làm may.
    Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này,
    588. Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
    Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
    Quả bất lành chưa trả vay thêm.
    Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
    592. Đặng bá-tánh an-nhàn tu niệm.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 577 đến câu 592)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên không nên sát hại mạng người, đoạn nầy Ngài luận đến người đối với thú cầm sanh vật.
    Sở dĩ loài người hay giết các sanh vật là vì sự ăn uống, sự vui thích và sự cúng tế. Song ở đây với giai đoạn đầu của người tu, Ngài chỉ đề cập đến phần cúng tế. Việc sát vật cúng tế Thần Thánh để cầu cho tiêu tội, Ngài cấm tuyệt, vì Thánh Thần không riêng vị một ai và các Ngài cũng không bao giờ dùng các thức ăn của thế gian. Nếu ta còn làm thế là mê tín, càng cúng càng thêm mang họa hại.
    -Còn việc cúng tế Tổ Tiên cha mẹ thì Đức Thầy cũng tùy theo trình độ và lòng nhân của mỗi tín đồ mà khuyên họ nên bỏ bớt sự sát hại sanh vật dần dần cho đến khi dứt hẳn. Hãy xét rằng sự bệnh tật của mỗi người là do nghiệp sát mà ra (kiếp trước hay kiếp hiện tại chứa lòng hung dữ sát hại hoặc đánh đập các sanh vật).
    -Giờ đây muốn khỏi cơn khổ vì bịnh tật, bệnh nhơn phải biết hối cải các hành động sát hại thuở trước và tự nguyện từ đây không còn tái phạm để lo trau giồi phước hạnh, bố thí phóng sanh và đáp đền bốn ân lớn. Đồng thời cần lo trị liệu thuốc men, cầu nguyện Phật Trời một cách thành kính thiết tha hầu được các Ngài nhủ lòng từ bi mà gia hộ giúp bịnh tình mau thuyên giảm:
    Thành lòng nước lã nên hồ,
    Hữu tâm chí đức cam lổ Phật ban.”

    (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
    -Vả lại, các đấng thần linh trước kia vốn là một con người có lòng trung cang nghĩa khí, chánh trực công bình mà nên ngôi vị thì lý đâu còn dùng vật lo lót mà đổi họa ra phúc hay sao ? Vậy mỗi người nên lấy tâm sáng suốt suy xét vấn đề nầy cho chính xác; bởi do luật nhân quả mà mọi việc lành dữ của mình đều được báo ứng phước tội về sau.
    -Do đó, nên biết những người hiện giờ gặp phải tai họa ốm đau là do đã gieo nghiệp bất lành từ trước; giờ đây, nếu họ lại giết hại thêm thì mối nợ cũ chưa đền xong lại còn tiếp tục vay thêm nợ mới. Ôi ! Nhân tàn sát đã gieo thì quả chiến tranh, bệnh tật làm sao tránh khỏi ! Bởi lòng từ bi, Đức Thầy cầu mong mọi người sớm dứt nghiệp sát sanh hại vật để thế giới được hoà bình và bá tánh được an nhàn tu niệm.

    CHÚ THÍCH
    GIẾT VẬT: làm chết mạng sống của các loài thú như: Trâu, bò, gà, vịt, heo, chó…Kinh Luật Chuyển Ngữ Đạo nói:“Ví như hí sát giả, hậu sanh tác thủy thương phù du chi trùng, triêu sanh mộ tử.”(Phàm làm người mà ưa sát sanh hại vật, đời sau phải làm con phù du chập chờn trên mặt nước, hễ sớm mai sanh ra thì chiều lại phải chết). Đức Lục Tổ đã khuyên:“Muôn loài đều có Đạo, chớ sát hại loài nào”.
    CÚNG TẾ: Đem đồ vật đặt lên bàn thờ mà vái lạy. Cúng tế có hai phần: Cúng tế Tổ tiên Cha mẹ và cúng tế Thần Thánh Trời Phật.
    GẪM THÁNH THẦN ĐÂU CÓ TƯ RIÊNG: Người đời thường lầm tưởng Thần Thánh cũng như kẻ thế gian: bất công ham ăn của hối, nên đem lễ vật cúng tế để cầu cho được việc nọ, việc kia. Điều đó rất sai lầm huyễn hoặc. Kinh Minh Thánh từng bảo:“Thiên Địa vô tư, Thần Minh ám sát; bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa.”(Trời đất không tư vị một ai, đấng thần minh âm thầm xem xét rõ ràng, chẳng vì cúng tế mà xuống phước, cũng chẳng vì thất lễ mà xuống họa).
    Xét theo đây thì việc cúng tế Ông bà Cha mẹ, Đức Thầy cũng tùy theo trình độ tu tiến của mỗi người mà khuyên bớt sát vật lần lần cho đến khi cử hẳn. Còn việc cúng tế Thần Thánh thì tuyệt đối không nên giết một con vật nào, dù là rất nhỏ, vì Ngài đã dạy:“…Không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm cho hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.(Lời Khuyên Bổn Đạo, SGTVTB 2004, tr. 214-215).
    CĂN TIỀN: Cội gốc phước hay tội đã gây từ những kiếp trước. Đây chỉ cho gốc tội do ác sát sanh. Kinh Phật từng bảo: Những người kiếp nầy bị chết yểu hay nhiều bịnh, đều do nghiệp sát sanh của đời trước trả lại (Kim sanh đoản mạng đa bịnh giả, giai tùng sát nghiệp trùng lai).
    HIỆN KIẾP: Kiếp sống trong hiện tại.
    BẠO ÁC: Hung dữ ác độc. Ý chỉ cho tánh hung hăng hay chém giết người và đánh đập sát hại các thú cầm sanh vật.
    ĂN NĂN: Xem chú thích tại tr. 34 Tập 2/3.
    PHƯỚC ĐIỀN: Ruộng phước, ý chỉ sự tu phước, như: bố thí, giúp đời làm các việc từ thiện. Bởi các việc ấy có năng lực tăng trưởng phước đức cho nhà tu. Như nhà nông gieo lúa xuống ruộng tốt, đến mùa thu hoạch lúa được nhiều. Kinh Phật dạy có ba miếng ruộng tốt nhất.
    1- Ân điền: Cũng gọi là “báo ân phước điền”. Có nghĩa: đáp ơn rộng lớn của Tổ tiên cha mẹ.
    2- Kính điền: Cũng gọi là “Công đức phước điền”. Có nghĩa: đền đáp hồng ân Tam Bảo (Phật Pháp Tăng).
    3- Bi điền: Cũng gọi là“Từ bi phước điền”. Có nghĩa: Mở lòng thương yêu và cứu tế vạn loại chúng sanh.
    TẠO TÁC: Gầy dựng, làm nên, lập ra.
    TỪ BI HỶ XẢ: Đây là “Tứ vô lượng tâm”. Có nghĩa là bốn tâm đức rộng lớn của chư Phật và hàng Bồ Tát, bởi không thể so lường được nên gọi là vô lượng. Cũng viết là: Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả.
    1/-Từ vô lượng tâm là tâm ban cho chúng sanh những điều vui vẻ.
    2/-Bi vô lượng tâm là tâm cứu vớt chúng sanh thoát khỏi khổ não, sanh tử luân hồi.
    3/-Hỉ vô lượng tâm là thấy chúng sanh thoát khổ, được vui thì hết lòng vui mừng theo.
    4/-Xả vô lượng tâm là tâm tuy cứu vớt chúng sanh, nhưng không hề chấp trước.
    Bốn đức này Đức Thầy có giải:
    1)-Đức Từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.
    2)-Đức Bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng.
    3)-Đức Hỷ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã.
    4)-Đức Xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh, tài sắc, nhìn cõi đời chẳng sanh lòng luyến ái.”(Chư Phật Có Bốn Đại Đức, SGTVTB 2004, tr. 452-453).
    Tứ Vô Lượng Tâm có hai thứ:
    1-Tứ vô lượng tâm thế gian: Bực Bồ Tát thi hành bốn đức từ, bi, hỉ, xả giúp ích cho người để độ họ biết tu hành và phát tâm nguyện tu thành Phật.
    2-Tứ vô lượng tâm xuất thế gian: Bậc Phật làm xong bốn đức ấy để độ thoát những người tu hành, đến đó cũng gọi là “Tứ đại vô lượng tâm”.
    Trong Tứ đại vô lượng tâm lại có hai bực:
    -Tu được ba đức: Từ, Bi, Hỉ thì chứng “Cực ái như nhứt tử địa”, tức địa vị của bực thương tất cả chúng sanh như nhau, tỷ như con một của mình.
    -Tu thêm đức Xả thì chứng được “Không bình đẳng địa”, tức địa vị của bực đã đắc lý khôngkhôngbình đẳng, là chẳng còn phân biệt cha mẹ, vợ con, anh em, thân tộc, oán thù, v.v…Cũng chẳng còn thấy ấm, giới, nhập, chúng sanh thọ mạng (giả).
    Đức Thầy hằng dạy tín đồ:
    Học câu hỉ xả đại từ,
    Nêu gương nghĩa sĩ, dạ tư chớ gần.

    Thiên Lý Ca)
    THẦN MINH: Bực Thần Thánh đã sáng suốt, biết rõ tâm niệm của mỗi chúng sanh. Sách Thánh có câu:“Nhơn gian tư ngữ thiên văn như lôi, ám thất khuy tâm thần mục như điển.”(Lời nói riêng của nhân gian, trời nghe như sấm nổ, lòng tính quấy trong nhà kín, mắt thần xem như điển chớp).
    CÔNG BÌNH: Xem chú thích tại tr. 36, Tập 3/3.
    TRỰC DẠ: Lòng ngay thẳng thanh liêm.
    TÂM LINH: Xem chú thích tại tr. 235 Tập 2/3.
    ĐIỀU HỌA PHƯỚC ẤY CƠ BÁO ỨNG: Câu nầy ý nói các điều họa hay phúc mình đang thọ hưởng hiện giờ là cái nghiệp mình đã gây tạo vừa qua, giờ nó trả lại. Kinh Minh Thánh bảo: Những sự làm lành lánh dữ, việc báo ứng như bóng theo hình; đừng nói làm dữ không báo, vì còn đợi chuỗi ác cho đầy đủ mới thấy; đừng nói làm lành không ứng, chỉ còn chờ quả thiện cho tròn mới hay.(Tạo tác thiện thiện ác ác, như ảnh tùy hình; mạc đạo tạo tác bất báo, trực đãi ác quán mãn dinh; mạc đạo tu thiện vô ứng, trực đãi thiện quả vô thành).
    Cách đây chẳng xa, có anh Trần Văn Tám, người ở xã Phong Mỹ, Quận Cao lãnh (Kiến Phong – Nam phần Việt Nam), vào đầu năm 1947, anh di cư vào Đồng Tháp Mười để tránh nạn giặc Pháp ruồng bố.
    Hôm nọ, có người đem bán con rùa nhỏ bằng cái chén, anh liền mua để phóng sanh. Trước khi thả rùa, anh có khắc tên họ và ngày, tháng, năm trên lưng của nó. Đến năm 1954 anh lên Sài Gòn mua bán càng ngày càng khá nên mua được chiếc xe tải loại chở hàng hóa. Anh thường chở hàng mướn xuống các tỉnh miền Tây.
    Vào cuối năm 1967, anh giao hàng tại tỉnh lỵ Ba Xuyên (Sóc Trăng). Sáng sớm, trên đường xe trở về Sài Gòn, đến khoảng vắng hai bên toàn là đồng ruộng; anh chợt thấy con rùa lớn hơn trái dừa đang bò ngang giữa đường. Vì sợ xe cán con rùa nên anh Tám nắm tay tài xế bảo dừng lại, anh nhảy xuống bắt rùa định thả xuống mương lộ. Song anh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy các lằn chữ: tên họ và ngày, tháng, năm thả rùa mà anh đã khắc lúc nọ. Anh vừa vuốt ve rùa, vừa nghĩ: đã 20 năm qua con rùa lớn như thế nầy và từ Đồng Tháp sao nó bò tới đây thật cũng lạ. Anh liền kêu tài xế xuống, giải thích cho nghe rồi đem rùa thả xuống mương lộ.
    Khi ấy trên đường một chiếc xe tải hàng khác và hai chiếc xe Lam, qua mặt xe anh chạy trước một đỗi, bỗng bị cán cốt mìn nổ tung, ba chiếc xe bị lật xuống ruộng, người chết, kẻ bị thương nằm chung quanh.
    Anh Tám giựt mình nhớ lại, nếu không nhờ gặp con rùa lúc nãy thì mình và chiếc xe cũng đã tiêu mất rồi. Anh hồi tưởng lúc trước mình chỉ phóng sanh một con rùa mà bây giờ nó cứu lại cả hai mạng sống và chiếc xe, nghĩ công nó nhiều hơn mình gấp bội. Khi về tới nhà anh Tám thuật lại cho vợ nghe, vợ chồng đều rơi nước mắt, cảm thương con vật biết ơn. Từ đó vợ chồng anh Trần văn Tám càng thương người mến vật và tinh tấn tu hiền hơn lúc trước. Chuyện xảy ra thật đúng với câu:“ Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.
    SÓNG LẶNG GIÓ ÊM: Gió hết, sóng chẳng còn. Thành ngữ nầy ngụ ý mong cho đời dứt chiến tranh để thế giới sớm được thanh bình, bá tánh an cư lạc nghiệp. Bởi có gây nghiệp sát sanh mới có quả chiến tranh, chết chóc; cũng như có gió thì sóng mới nổi lên. Cổ nhân thường bảo:
    Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp,
    Thập phương hà xứ động đao binh.
    Gia gia hộ hộ đồng tu thiện,
    Thiên hạ hà sầu bất thái bình”.

    (Kệ của Từ Thọ Thiền Sư)
    (Tất cả chúng sanh không nghiệp giết,
    Mười phương nào có động đao binh,
    Nơi nơi chốn chốn đồng tu niệm,
    Sanh chúng yên vui hưởng thái bình).


     
    Sửa lần cuối: 18/1/15
  4. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    593. Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
    Muốn bao gồm của thế một mình.
    Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
    596. Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
    Thấy của người thèm khô nước miếng,
    Tính làm sao lường gạt lấy đi.
    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
    600. Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
    Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
    Của thế trần như mật dính dao.
    Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
    Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
    Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
    606. Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 593 đến câu 606)
    -Đến tội ác thứ tám là lòng tham lam độc ác, đây thuộc phần ý nghiệp. hành trạng của nó là lòng tham gian quá độ, muốn sao tóm hết tiền của trong thế gian về làm của mình. Nào lâu đài dinh thự, ăn mặc sung sướng, thân thế vang danh, tước quyền sang cả, nào:Tiền nhiều đất rộng cò bay mút đồng..(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).
    -Hễ thấy ai có nhiều tiền của thì lo tính mưu kế gạt lấy cho bằng được. Với lòng ham muốn ấy chẳng biết sao cho vừa, càng có của lại càng tham hơn, chẳng khác nào cái túi cao su, dồn vào bao nhiêu cũng chẳng thấy đầy. Người có lòng tham họ bất kể hành động ra sao, tài vật tốt hay xấu đều muốn dồn hết về cho mình.
    -Để cảnh tỉnh số người ấy, Đức Giáo Chủ nhắc lại lời của Đức Phật khi xưa:“Sắc đẹp với giàu sang, hai thứ ấy như mật dính trên lưỡi dao, những người tham ngọt kê lưỡi liếm, nên bị đứt. Kẻ nào ham danh lợi, tất phải chết vì lợi danh như thế đó”. Nay Đức Thầy cũng hằng cho biết, trong bài “Luận Việc Tu Hành”:
    “Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
    Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.

    Hoặc trong bài “Ai Người Tri Kỷ”:
    “Bá tánh say sưa mùi phú quí,
    Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao.”

    Nếu ai mãi tham đắm của thế, đến khi vương cảnh khổ mới hối hận ăn năn thì việc rất muộn.
    -Đức Thầy ý thức cho bá gia được rõ, những tài vật trong thế gian đều là tạm giả, như hạt sương buổi sáng mau rã mau tan. Hiện giờ dầu ta có ham muốn, dùng đủ mưu gian kế độc giành lấy tiền của cho nhiều, nhưng đến khi tử thần gõ cửa cũng chẳng đem đặng vật nào, lại còn vương mang tội khổ để rồi phải luân chuyển báo đền.

    CHÚ THÍCH
    THAM HIỂM: Tham (Scr: Kama Mdhymâgama), có nghĩa: ham muốn thái quá. Hiểm là độc ác. Nói chung là lòng quá ham muốn về vật chất, như: danh, lợi, tình…và hành động ác độc để tóm thâu các thứ ấy về mình. Bởi nó là một tội ác trong ý nghiệp, nên gọi là lòng tham hiểm. Thêm nữa, kẻ có lòng tham thường hay ganh ghét đố kỵ những người có tài đức hơn mình. Cho nên tánh tham lam đi cập với tật đố. Kinh Phật thường liệt nó là một trong tam độc hay ba món phiền não căn bản (Tham, Sân, Si). Nó cũng đứng đầu trong năm cái ngu độn (Ngũ độn sử: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi).
    Tục ngữ thường nói “Tham thì thâm, dầm thì đen”.
    Đức Phật thường cho biết:“Lòng ham muốn là nguồn gốc của mọi thống khổ ở thế gian, cũng là nguyên nhân của sự luân hồi sanh tử”. Và: Không có lửa nào bằng lửa tham, không có tội nào bằng lòng đố kỵ ganh ghét”.
    Theo ý nầy, ông Thanh Sĩ có luận:
    Tham vốn là căn nguyên sự khổ,
    Tham là mồ vô số sanh linh.
    Tham danh tham lợi tham tình,
    Càng tham càng thấy lòng mình không an.
    Tham khi được rồi toan lo giữ,
    Rủi mất đi sanh sự rầu buồn.
    Trong lòng cứ rạo rực luôn,
    Phải tham là vốn cội nguồn khổ chăng?”

    THÂN VINH: Thân mình được sống trong cảnh giàu sang sung sướng và danh giá hơn người.
    THẲNG KIẾNG: Thẳng cánh.
    TÚI THAM: Lòng tham của con người quá độ, không ngằn mé, tham hoài được hoài, chẳng biết bao nhiêu cho vừa nên gọi nó là cái túi không đáy. Ngạn ngữ từng nói Biển sâu dễ lấp, túi tham khó đầy”.
    Đức Thầy nay cũng bảo:
    Dương trần phú trọng bần khinh,
    Mảng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
    Biết sao đầy được túi tham,
    Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

    (Từ Gĩa Làng Nhơn Nghĩa)
    HỐI HẬN: Giận mình đã làm điều quấy ác, không đúng với lẽ phải, nên rất hổ thẹn, hối tiếc ăn năn.
    Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có nói:“Nếu người nào phạm tội nặng mà tự trách lấy mình, ăn năn không tạo nữa thì có thể dứt được những tội căn bản”.
    CỦA TẠM: Tài vật tạm bợ, không chắc thật lâu bền. Ý nói tất cả gia tài sự nghiệp đến vợ con, dù ta có gây tạo thật nhiều cũng không bền chắc.
    Sách Mãnh Tỉnh có nói:
    “Nam lai Bắc vãng tảo Tây Đông,
    Khán đắc phù sinh tổng thị không.
    Thiên dã không, Địa dã không,
    Nhơn sanh yểu yểu tại kỳ trung.
    Thê dã không, tử dã không,
    Huỳnh tiền thượng lộ bất tương phùng.
    Kim dã không, ngân dã không,
    Tử hậu hà tàng tại thủ trung”.
    (Xét cho cùng Nam Bắc Tây Đông,
    Gẫm kiếp phù sinh vốn thiệt không.
    Trời cũng không đất lại cũng không,
    Người sanh cõi tạm như mây khói.
    Vợ con cả thảy cũng đều không,
    Trên bước huỳnh tuyền đâu gặp đặng.
    Vàng cũng không, tiền bạc cũng không,

    Chết rồi cũng nắm lấy tay không).
    TÀN NHẪN: Nỡ lòng làm việc tàn ác, chẳng chút nới tay.

    Chú giải từ câu 607 - 776 (Quyển V)


    [TABLE="width: 614"]
    [TR]
    [TD] CHÁNH VĂN
    607. Tham tiền tài thường vướng nạn eo,
    Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
    Lúc tận số nằm trơ một xác,
    Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.
    Không làm cho ta được sống dai,
    612. Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.
    Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
    Lo vun-trồng cội phước về sau.
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
    616. Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
    Thân Ta còn rày đó mai đây,
    620. Của ấy cũng khi tan khi hiệp.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 607 đến câu 620)
    -Đoạn giảng trên Đức Thầy tiếp tục luận giải về tai hại của ác tham lam.
    Những kẻ vì quá ham tiền của nên phải lâm vòng tai nạn, cửa nát nhà tan, không sao kể xiết. Xưa nay sử sách hằng ghi chép, cũng vì tham tiền của mà các nước gây cuộc chiến tranh, tạo nên cảnh cơ hàn chết chóc cho nhân loại. Hàng quan lại vì tham sự nghiệp tước quyền mà đưa đến cảnh hại nhà, bán nước. Nhỏ hơn nữa là hạng gian phi cũng vì tham nên mang tội trộm cướp, giết người. Còn sự đam mê sắc đẹp làm cho cơ đồ danh thể tiêu tan thì có ai lạ gì với các nhà vua: Kiệt, Trụ, U…Đến như kẻ tu hành mà còn tham sắc thì khó mong thoát vòng sanh tử.
    -Xét ra, bạc vàng và sắc đẹp dù ta có tạo được, nhưng đến phút từ biệt cõi đời thì bao nhiêu sự nghiệp, của tiền, vợ đẹp, con ngoan đều phải để lại cho kẻ khác làm chủ và sai khiến. Bấy giờ ta mới biết những sự vật ấy chẳng giúp ta kéo dài thêm kiếp sống và giúp đưa tiễn ta thêm một bước nào.
    -Vậy để giải trừ ác tham lam, trước hết Đức Thầy khuyên mọi người: thà sống trong cảnh nghèo túng mà lòng luôn được sạch trong và giữ tròn tiết tháo, còn hơn kẻ sống trong nhung lụa mà tâm mãi bợn nhơ. Vậy hãy lo trau sửa thân tâm, tô bồi phước hạnh để sau nầy cội lành đặng đơm bông kết quả.
    -Kế tiếp, Ngài đưa ra hai phương cách diệt trừ lòng ham muốn: Một là Bố thí, tức đem bạc tiền cơm áo, thuốc men chu cấp những kẻ nghèo đói, bệnh tật, hoặc đem Kinh pháp giác tỉnh người biết tu hành, hay dùng phương tiện giúp người khỏi cơn sợ hãi. Trong lúc giúp ích cho đời, hành giả không nên khởi tâm mong cầu danh lợi hay phước báo và cũng chẳng phân biệt giữa người bố thí với kẻ thọ thí mà chỉ vì lòng từ mẫn và bổn phận vậy thôi. Được thế thì lòng vị kỷ tham lam sẽ dứt hẳn. Phương pháp thứ hai là dùng tâm tưởng nhớ chơn chánh để xét rằng vạn vật trong thế gian như làn mây bọt nước, dễ rã dễ tan. Đến như thân xác của ta do bốn chất: đất, nước, lửa, gió hợp thành nên không thể giữ còn mãi được mà một ngày nào đây nó sẽ tan biến. Đã nhận rõ thân xác nầy không thật của ta thì bao nhiêu gia tài sự nghiệp, vợ đẹp con ngoan hay danh vị tước quyền kia cũng chỉ là ảo mộng và tất cả đều đi theo định luật hợp tan. Nếu ai quán xét được như thế, tất màn lưới danh, lợi, tình không còn trói buộc trong luân hồi khổ lụy. Bấy giờ nhà tu sẽ được thung dung trên bước đường giải thoát: “Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao.(Khuyến Thiện, Q.5).

    CHÚ THÍCH
    THAM TIỀN TÀI THƯỜNG VƯỚNG NẠN EO: Người quá tham muốn tiền của bạc vàng, làm điều bất chánh nên thường gặp nhiều tai nạn.
    Xưa kia, ông Bàn Công Cư Sĩ vốn người giàu sang lại sẵn lòng Bố thí. Mỗi khi có ai đến xin hoặc mượn tiền của, ông bảo hai người bạn vào mở tủ lấy vàng bạc trao cho họ.
    Hai người bạn ấy có lòng tham, nên mỗi lần mở tủ đều lấy riêng một ít vàng bạc đem giấu trên núi. Lâu ngày số vàng đó rất nhiều, hai người cùng nhau toan tính đến xin ông Bàn Công cho nghỉ việc. Ông vui vẻ bằng lòng còn cho hai người thêm một số tiền của khá nhiều.
    Hai anh từ gĩa gánh đồ ra đi, họ cùng nhau phân công: một người lên núi trước, một người xuống chợ mua rượu thịt mang lên cùng vui một tiệc rồi sẽ chia vàng ra về. Lúc đó, anh đi chợ suy nghĩ: số vàng ấy chia cho bạn mình phân nửa rất uổng, chi bằng tìm cách giết nó đi. Anh liền vào tiệm ăn uống no say, rồi mua thuốc độc tẩm vào thức ăn khác, xách về thuốc anh trên núi. Còn anh trên núi cũng nghĩ như thế, nên bẻ cây núp vào bụi rậm dựa lề đường, chờ anh đi chợ về ngang đập một cây thật mạnh. Bị đánh bất ngờ anh đi chợ tránh không kịp nên ngã lăn vẫy chết. Anh kia nhảy ra lôi xác bạn ném vào bụi kín, rồi thâu lượm thức ăn tiến lên chỗ giấu vàng. Với ý định ăn uống xong sẽ đào lấy vàng ra về, nhưng khi ăn vào bị thuốc độc làm anh đau đớn nhào lộn, thế là mấy phút sau anh cũng từ biệt cõi đời. Bấy giờ số đồ ăn còn lại, các loài chim bay ngang đáp xuống ăn cũng bị chết rất nhiều.
    Hôm sau, có người trong xóm đi núi phát giác được chuyện đó, về báo cho ông Bàn Công hay, ông đoán biết mọi việc liền cho người nhà lên chôn hai xác chết và than rằng “Cũng vì tham vàng bạc mà bao người phải chết, đến các loài chim bởi tham ăn nên mạng sống chẳng còn.”(Nhơn tham tài tắc tử, Điểu tham thực tắc vong). Từ đó ông Bàn Công càng gia tăng việc bố thí hơn trước, và ông có làm bài Kệ tỉnh đời như sau:
    Người đời trọng châu báu,
    Ta quí một mảy tịnh.
    Tiền lắm lụy lòng người,
    Tịnh được thấy chân tánh”.
    Đức Thầy hiện nay cũng từng khuyến cáo:
    Tham chi giả tạm của tiền,
    Như chim vào lưới xích xiềng trói thân
    (Hoài Cổ)
    THAM SẮC ĐẸP NHÀ TAN CỬA NÁT: Người ham muốn sắc dục quá độ tất phải tan nhà nát cửa, thân danh chẳng còn, bởi lòng tham sắc là nguyên nhân của khổ lụy và nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Cổ nhân từng nói:“Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”(Sắc đẹp của người con gái tuy không phải sóng gió, nhưng dễ nhận chìm được người).
    Thời Hậu Đế nhà Minh (Trung Hoa) có nàng Tiểu Nga, nhan sắc tuyệt trần, chồng là Vương Hóa Chiêu. Hai vợ chồng sống trong cảnh nghèo túng với một mẹ già, song vẫn được hoà hiếu êm đẹp. Trong xóm lại có chàng Trác Háo Sắc, một nhà hào phú. Anh thấy nhan sắc của Tiểu Nga quá đê mê nên sanh tà tâm. Háo Sắc mưu tính đem tiền trợ giúp Hóa Chiêu và kết bạn thân. Hóa Chiêu ngỡ thật nên thị nhận. Từ ấy lúc nào Sắc cũng tỏ ra là người bạn tốt.
    Ít lậu sau Sắc rủ bạn đi buôn xa. Đêm nọ thuyền neo nghỉ giữa sông vắng, Sắc bày tiệc rượu ép Hóa Chiêu uống thật say, rồi thừa cơ hội xô xuống nước. Chiêu cố ngoi lên mấy lần, nhưng bị Háo Sắc dùng sào nạng nhận chìm luôn, rồi giả vờ la khóc ầm ỉ. Các bạn chèo thức dậy ai cũng tiếc thương, nhưng giữa dòng nước mênh mông khó tìm lại xác thể, đành quay thuyền về báo tin buồn…
    Hóa Chiêu chết, Háo Sắc luôn đóng kịch, tỏ ra bi thảm hơn ai hết và tiếp tục hộ trợ gia đình Tiểu Nga. Mẹ con Tiểu Nga và xóm làng đều tưởng Chiêu té mà chết thật nên không còn ai nghi ngờ gì nữa.
    Thời gian trôi qua hai năm, Sắc mới cậy người hỏi Tiểu Nga làm vợ, vì đã thọ ơn quá nhiều nên mẹ chồng ép nàng dâu ưng Háo Sắc. Lúc đầu Tiểu Nga quyết thủ tiết, sau rồi cũng đành chịu. Vợ chồng sống trên 10 năm, sanh được hai đứa con. Nhân một đêm trăng thanh gió mát, vợ chồng cùng ra bờ hồ hứng cảnh, rồi bày tiệc ăn uống, ngâm thơ. Bỗng từ dưới hồ sen một con ếch nổi lên. Tiểu Nga liền lấy cây nạng chọc ếch, ếch lặn xuống rồi lại nổi lên mấy phen như vậy. Háo Sắc trông thấy nhớ lại cảnh mình giết Hóa Chiêu thuở nọ, nên bất giác ngâm lên hai câu thơ:
    Hồi ức thập tam niên tiền sự,
    Huyên tợ hà mô lục thủy thời”.
    (Nhớ lại việc mười ba năm trước,
    Mường tượng ngày nay ếch sật sừ)
    Tiểu Nga vừa nghe sanh nghi, liền bảo chồng chép ra để mình họa lại. Sắc ngỡ nàng chẳng hiểu nên chép lên mảnh giấy, Tiểu Nga suy đoán biết chắc sự tình, liền nắm Háo Sắc la lớn:“Chính người nầy đã giết chồng trước của tôi !” Quan lính bắt Háo Sắc tra tấn. Sắc cung khai tự sự và bị kết án tử hình. Khi chôn xác chồng xong, Tiểu Nga thức suốt đêm suy nghĩ: cũng vì sắc đẹp của mình mà làm hai người chồng phải chết, đoạn nàng viết thơ để lại rồi tự sát…
    Đọc chuyện trên thấy rằng: Háo Sắc vì tham đắm nhan sắc của Tiểu Nga mà tiền của tiêu tan, thân chết nơi đao kiếm và danh xấu lưu để nghìn thu. Song đó là người đời, còn trong giới tu hành nều chưa dứt được lòng nhiễm sắc thì dù bực tiên gia cũng phải hườn tục, như chuyện Trần Muội Lý và Đoàn Minh Đạo (sự tích Vọng phu).
    Điều nầy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật răn dạy:“Về các thứ ham muốn không thứ gì tai hại bằng sắc dục. Cái ham vể sắc dục là cái ham lớn nhứt. Cái ham lớn ấy may chỉ có một. Nếu có cái ham nào cũng to như thế thì tất cả con người ở dưới gầm trời, không ai có thể tu đắc Đạo được”.
    Đức Thầy nay cũng khuyên: “Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình.” (Sấm Giảng, Q.3).Và:“Sắc mến nó ngày kia lao khổ.”(GMTK, Q.4).
    TẬN SỐ: Hết số mạng, tức chết.
    KIM TIỀN: Vàng bạc, chỉ chung về bạc tiền của cải.
    NGHÈO THANH: Nghèo túng mà trong sạch, không hề tham gian nhơ bợn hay bợ đỡ một ai.
    GIÀU TRƯỢC: Giàu mà nhơ bẩn xấu xa, làm giàu bằng cách gian tham, lường gạt người hoặc hối lộ nịnh hót mà có của.
    CỘI PHƯỚC: Cũng gọi là cội phúc. Có nghĩa: cái gốc của phước đức, do sự tu hành, làm lành lánh dữ mà được. “Tu là cội phúc, tình là dây oan”(Truyện Kiều). Đức Thầy từng khuyên “Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ”. Hoặc là: “Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông.
    BỐ THÍ: Xem chú thích tại tr.177-179, Tập 2/3.
    ÍCH KỶ: Xem chú thích tại tr. 73, Tập 2/3.
    CHÁNH NIỆM: Xem chú thích tại tr. 145, Tập 3/3.

    CHÁNH VĂN
    621. Ác thứ chín Hận-Sân luận tiếp,
    Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
    Nổi lôi đình đâu có định chừng,
    624. Cho ta biết mà toan giữ trước.
    Tánh sân-nộ thường làm bạo-ngược,
    Nên loài người ở cõi thế-gian.
    Giận hờn nhau thù-oán dẫy tràn,
    628. Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
    Hơn tự-đắc, khoe-khoang dõng sức,
    Phải bị người hềm-khích ghét-ganh.
    Thua hổ-ngươi làm chuyện bất lành,
    632. Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
    Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
    Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
    Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
    636. Phân từ mảnh mới là thỏa dạ.
    Diệt được nó tâm trần thong-thả,
    Ta thường nên tập tánh khoan-dung.
    Thiệt-hành đi đừng có ngại-ngùng,
    640. Tha-thứ kẻ lỗi lầm ngu-xuẩn.
    Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
    Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín-đồ Phật-Giáo.
    Nay ta đã quy-y cầu Đạo,
    646. Gây-gổ là trái thuyết từ-bi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 621 đến câu 646)
    -Đến ác thứ chín là tánh nóng giận, hờn ghét phát xuất từ Ý nghiệp. Về hành trạng và tai hại của nó, Đức Giáo Chủ ví như cái lò lửa có sẵn trong tâm ý của mỗi người, chẳng cần đốt mà nó vẫn cháy lên dữ dội. Nghĩa là khi lòng sân hận phát lên thì nó biểu lộ bằng những tiếng la hét, cộc cằn thô lỗ, bằng gương mặt hầm hừ quạu quọ và bằng những hành động hung tợn, có thể đi đến đánh đập chém, giết. Sự bộc phát của nó chẳng hề có triệu chứng báo tin cho ta biết trước mà gìn giữ. Cho nên Đức Phật dạy các môn đồ: Lòng nóng giận là ngọn lửa mạnh, các người khá nên đề phòng, chớ để nó xâm nhập vào tâm. Con giặc cướp giựt công đức không gì hơn nóng giận.(Sân tâm thậm ư mảnh hỏa, thường phòng hộ, vô linh đắc nhận kiếp công đức tặc vô quá sân nhuế).
    -Lại nữa, mỗi khi có điều phật ý thì không còn sự hung bạo nào mà người ta chẳng làm. Do đó giữa loài người gây ra biết bao mối hận thù, hờn oán rồi dẫn đến sự tranh tài, đấu lực, sát hại lẫn nhau.
    -Hễ có đấu tranh tất có bên thắng bên bại. Kẻ thắng thế không khỏi tự đắc khoe khoang, càng làm cho người khác ghét ganh hềm khích. Trái lại, những kẻ bị thua kém phải thẹn thuồng xấu hổ, ôm lòng căm tức nên họ tìm đủ mưu mô để trả đũa. Vì thế đôi đàng cứ tiếp tục gây nghiệp chẳng lành để rồi trả vay, vay trả mãi không bao giờ dứt.
    -Mỗi khi sự nóng giận của con người đến mức tột độ thì còn kể gì là bà con ruột thịt hay Đạo lý luân thường. Tướng trạng của họ lúc bấy giờ như một mãnh hổ đang chực vồ bắt con mồi. Quyêt định phải phân thây xẻ thịt đối phương mới vừa bụng. Nhưng không bao giờ được như ý, vì kẻ nghịch lúc nào cũng cừu thù và tìm cách chống trả, khiến hai bên chẳng khi nào yên vui thư thái.
    -Cho nên Đức Thầy bảo khi nhà tu diệt trừ được tánh nóng giận:“Tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả.”(Thập Ác: Ác sân nộ). Bởi nghiệp báo bất lành và mối dây thù oán đã cắt đứt. Song để diệt trừ được ác sân nộ, Ngài đưa ra ba phương pháp đối trị: Thứ nhứt là đức khoan dung: khi có người phạm lỗi với mình, cần xét rằng những kẻ ấy vì kém trí, thiếu tu mới lầm lỗi như thế, họ là người đáng thương hại hơn thù ghét, nên ta sẵn lòng rộng lượng tha thứ cho họ, tức sự nóng giận không còn. Pháp thứ nhì là đức nhẫn nhục: nếu gặp trường hợp kẻ khác dùng uy lực chèn ép, đánh đập hay mắng nhiếc thì ta nên nhẫn nhịn. Vì xét rằng sự trạng đó là do mối “oan oan tương báo” từ trước, giờ đây ta nên đoạn dứt, không nên nối thêm: “Dĩ đức báo oán, oán tự tiêu tan”. Đức Thầy đã hằng khuyên:
    Sân si phỏng có điều thêm bận,
    Nhẫn nhịn ắt không chuyện kéo dài”.
    (Tỉnh Bạn Trần Gian)
    Và: “Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
    Đợi cho người hết giận ta khuyên.
    Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
    Thì đâu có mang câu thù oán.
    (GMTK, Q.4).
    Còn pháp thứ ba là lòng từ bi: bởi xét rằng:“ Đạo Phật là đạo từ bi, bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ, tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi.”(Huấn Lịnh). Nay ta là một tín đồ đã qui y với Phật để sau nầy đạt được Đạo quả như Ngài, tất nhiên ta phải nuôi dưỡng lòng tử bi, thương xót tất cả chúng sanh như chính mình thương mình thì lý nào còn mang lòng thù oán hay hờn giận một ai. Đức Thầy từng dạy:“Từ bi đâu vướng mối hiềm xưa.”(Trả lời cụ Phạm Thiều).
    Hoặc là:“Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,
    Chữ từ bi ta diệt nó liền.
    Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
    Thì thù oán tiêu tan mất hết.”(GMTK, Q.4)
    Tóm lại, nhà tu có hành trì được ba phương cách kể trên tức trừ tận gốc ác sân nộ và tâm trí được tự tại an vui.

    CHÚ THÍCH
    HẬN SÂN: Cũng gọi là sân hận, sân nộ hay sân nhuế, viết tắt là Sân, Phạn ngữ :Byâpâto, có nghĩa nóng giận, hờn ghét, thù hằn. Tánh nóng giận phát xuất từ tâm ý phẫn uất rồi bộc lộ ra lời nói cộc cằn hay hành động hung tợn. Trong Qui Sơn Cảnh Sách có giải:“Giận lộ ra tướng thô gọi là sân, giận ngầm trong bụng gọi là phẫn. Lại giận người gọi là sân, giận mình gọi là nhuế”. Sân là một trong Tam chướng (Tham, Sân, Si), một trong Ngũ độn sử và ác thứ chín trong Thập ác. Đối với nhà tu, Sân là món tai hại rất lớn. Kinh Hoa Nghiêm có câu:“Nhứt niệm sân tâm khởi, Bá vạn chướng môn khai. Vị phiền não chi căn, Thọ tam đồ chi khổ”.
    (Tâm khởi một niệm sân si,
    Trăm ngàn cửa chướng tức thì mở khai.
    Phiền não là gốc chẳng sai,
    Ba đường chịu khổ khó ngày thoát ra).
    Thuở xưa, thời Phật còn trụ thế, có Bà Thanh Đề, vốn là một tín nữ giàu có, thường thân cận với chúng tăng, cúng dường nghe pháp. Hôm nọ Bà ngồi lột lúa ra và cạo từ hột cho thật trắng, đựng đầy một bát đem đến Tịnh xá cúng dâng. Vị sư trưởng trong đó, trí sáng biết trước được chuyện ấy, nên kêu tiểu tăng dặn: Mai nầy sẽ có đại lễ đem đến cúng (do công phu và nhiệt tâm của bà Thanh Đề).
    Sáng lại, tiểu tăng ra cổng chực đón, ngỡ đại lễ là nhiều mâm nhiều quả, nên lo tiếp người nầy kẻ nọ, không để ý đến bà Thanh Đề đang đội bát gạo quì tại cửa. Trời càng trưa bụng càng đói, Thanh Đề quá tức giận tiểu tăng, liền đổ bát gạo xuống đất hai chân chà đạp. Làm thế cũng chưa hết giận, bà về nhà phá giới thôi tu và giết chó lấy thịt làm nhưn bánh, đem đến Tụ lạc của chúng tăng ở mà cúng dường. Ý là gạt các ông ấy ăn lầm phạm giới cho bõ ghét.
    Vì nghiệp sân quá mạnh, bà Thanh Đề phạm giới sát sanh và quyết hại người tu nên sau đó mấy ngày bà bị sốt nặng rồi chết, linh hồn bà bị đọa vào ngục A tỳ chịu sự hành phạt, đói khổ thảm thiết.
    Do đó, kinh Phật thường bảo:“Nhứt niệm sân tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn.”(Một đốm lửa sân hận phát lên, nó sẽ đốt cháy cả muôn rừng công đức của mình).
    Cho nên Đức Thầy khuyên:
    Chữ gây gổ là sân hãy diệt,
    Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.
    (GMTK, Q.4)
    LÔI ĐÌNH: Sấm sét. Nổi lôi đình là nổi tánh giận dữ, la ó như sấm sét nổ.
    SÂN NỘ: Nghĩa như chữ Sân hận đã giải trên.
    BẠO NGƯỢC: Tàn bạo, ngang ngược.
    TỰ ĐẮC: Tự cho mình là hơn người.
    HỀM KHÍCH: Cũng viết là hiềm khích. Có nghĩa oán ghét chống báng nhau, luôn luôn muốn gây chuyện.
    HỔ NGƯƠI: Mắc cỡ, dáng rụt rè e sợ.
    OAN OAN TƯƠNG BÁO: Đây là một thành ngữ, có nghĩa: Nếu ta hại người thì bị người tìm cách trả thù lại, cứ thế mà gây thù kết oán, hết đời nầy sang đời nọ. Hoặc giả, oán thù tiếp nối hết kiếp nầy sang kiếp khác rồi kiếp khác nữa. Đức Thầy có câu: “Cuộc đời vay trả, trả vay đồi dời.”(Viếng Làng Phú An).
    NHƠN ĐẠO: Xem chú thích tại tr. 152 Tập 1/3.
    TÂM TRẦN: Xem chú thích tại tr. 22, Tập 3/3.
    KHOAN DUNG: Xem chú thích “khoan dung đại độ”, tr. 225, Tập 3/3.
    NGU XUẨN: Đần độn mê si, làm những việc càn dở.
    NHẪN NHỊN: Xem chú thích tại tr. 133, Tập 3/3..
    TRANH LUẬN: Cãi nhau để giành lẽ phải về mình.
    THUẦN LƯƠNG:Xem chú thích tại tr. 204, Tập 3/3.
    TÍN ĐỒ: Những người cùng chung một tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm thiện nam tín nữ tại gia (Xem thêm tr. 61, tập 1/3).
    PHẬT GIÁO: Xem chú thích tại tr. 57, Tập 2/3.
    QUI Y: Phạn ngữ: Namâh. Qui là nương về, Y là làm y theo. Nghĩa chung là nương về với Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) và trì hành đúng y theo lời Pháp giới của Tổ Thầy đã dạy. Đức Thầy có giải:“Qui là về, mà về đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu. Vậy Qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày.”(Lời Khuyên Bổn Đạo, SGTVTB 2004, tr. 449-450).
    Và Ngài luôn nhắc nhở:
    Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
    (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)

    CHÁNH VĂN
    647. Ác thứ mười đoạn chót Mê-Si,
    Nguyên tăm-tối từ hồi vô thỉ.
    Màn vô-minh che mờ căn trí,
    650. Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
    Lo huyễn thân vật-chất kém hơn,
    Chẳng tìm biết tinh-thần đạo-đức.
    Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,
    654. Bịn-rịn đời cực-khổ tang-thương.
    Khi nói làm ít chịu suy lường,
    Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.
    Diệt mê-si phải nương thuyền giác,
    Muôn việc làm chính-trực khôn-ngoan.
    Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
    660. Làm ngu-muội đọa thân uổng kiếp.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 647 đến câu 660)
    -Đến ác thứ mười là ý thức mê mờ tăm tối, gốc tối tăm ấy nó không có đầu mối, do một vòng nhân duyên luân chuyển, hết cái nầy đến cái khác cứ tiếp nối nhau luôn. Chính nó là vô minh, từ vọng niệm bất giác làm cho ánh sáng trí tuệ bị mờ đi, nên thấy ngược lại chơn lý. Gặp tà nhận chánh, thấy chánh tưởng tà, sự giả cho là thật, sự thật cho là giả, vội chạy theo vật chất phù hoa để bồi bổ cho tấm thân huyễn giả, chẳng màng nghĩ đến tinh thần đạo đức là gì ?
    -Do đó sự nghi ngờ lầm lẫn càng lúc càng tăng, như màn lưới dệt chồng thêm mãi, khiến tâm hồn lúc nào cũng bị phiền toái lo âu, bởi kiếp sống hồng trần luôn đổi thay và đau khổ. Thế mà chúng sanh mãi mến tríu không muốn rời rứt thoát ly. Và trước khi nói hay làm việc gì, con người ít chịu đo lường suy xét, nên mãi lâm vào vòng tội lỗi, kết thành nghiệp ác lâu đời mà phải cuồng quay trong bánh xe sanh tử.
    -Để giải trừ ác mê si tà kiến, Đức Thầy kêu gọi hành giả hãy trở về với lòng giác ngộ (Bồ đề), trau giồi trí huệ cho sáng suốt, phá tan màn vô minh vọng hoặc. Đặng vậy, ta sẽ được kết quả: từ việc làm đến lời nói đều ngay chánh công bình, tránh khỏi vòng dị đoan mê tín và dứt sạch mối nghi ngờ, do dự mà thẳng bước trên con đường chân lý, đi đến cõi bất diệt bất sanh (Niết bàn). Bằng ngược lại rất uổng cho một kiếp sanh được làm người đã không tiến hóa lại bị thối đọa trong mê đồ thống khổ.

    CHÚ THÍCH
    MÊ SI: Lòng mê mờ không nhận rõ sự lý, tức cái tâm vô minh, khởi lên các vọng hoặc điên đảo (tà kiến), khiến con người lầm lũi trong tội lỗi, như người đi đêm chẳng thấy đường, lạc vào hầm hố. Mê si đối ngược với trí huệ, trong Kinh Pháp Cú, Phật đã bảo:“Si mê là Mẹ đẻ của muôn tội lỗi, Trí huệ là Cha sanh của muôn hạnh lành”.
    Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
    Trần tâm trừ dứt cuộc mê si,
    Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.
    (Cho Ô. Trần Quang Hạnh)
    Thời xa xưa về trước, tại khu rừng nọ, có các loài chim cả mấy ngàn con, chúng đều tôn chimkhổng tước làm chúa. Hằng ngày chúng chia nhau kiếm những trái cây ngon lành về dâng cho chim khổng tước và chầu chực như phò một nhà vua.
    Hôm nọ, có chim thanh tước (mái) bay ngang. thấy dáng điệu thướt tha, sắc lông óng ánh, chim khổng tước say mê, vội bỏ bầy bay theo òn ỹ thanh tước. Từ ấy đôi chim sống bên nhau. Khổng tước phải vất vả tìm các thứ trái cây tươi, ngon đem về nuôi thanh tước.
    Bấy giờ, Hoàng Hậu trong nước mang bệnh nặng, Vua truyền ngự y điều trị đủ phương thuốc, nhưng bịnh không bớt. Một hôm, bà nằm mộng thấy có thần nhơn mách bảo: bệnh nầy nếu có thịt chim khổng tước mà ăn thì hết liền. Sáng ra bà thuật cho Vua nghe, Vua liền truyền cáo: Ai đem nạp chim khổng tước, Vua sẽ gả Công chúa và thưởng thêm 100 lượng vàng.
    Khi ấy các thợ săn nỗ lực lùng kiếm; có một thợ săn đi tận rừng sâu, thấy đôi chim tước đang đậu trên cây có nhiều trái. Anh chờ trời tối đem bẫy lên gài. Sáng hôm sau chim khổng tước đáp xuống liền bị mắc bẫy; còn thanh tước thoát khỏi, bay lượn qua mấy vòng rồi đi luôn. Thợ săn đem chim xuống. Khổng tước hỏi:
    -Anh bắt tôi để làm gì ?
    -Đem về nạp cho Hoàng Hậu ăn thịt để hết bịnh, và ta đặng lãnh thưởng và cưới được Công chúa.
    -Nếu anh thả tôi ra, tôi sẽ chỉ cho anh một hòn núi vàng xài trọn đời không hết.
    -Mi nên biết, hòn núi vàng sao bằng ta cưới được Công chúa làm vợ. Đoạn, thợ săn mang chim về nạp cho Vua.
    Trước sân chầu, Khổng tước tâu: Bệ hạ sai người bắt tôi, mục đích là muốn cho lịnh bà hết bịnh, vậy hãy đem bát nước lại đây tôi chú nguyện vào đó, lịnh bà uống vào sẽ hết liền, song với điều kiện là Bệ hạ đừng giết tôi.
    Vua y lời, quả nhiên sau khi uống bát nước, Hoàng Hậu khỏi bệnh ngay. Vua rất vui mừng, liền phán: hiện dân chúng trong thành cũng mắc bịnh như Hoàng hậu khá nhiều, ngươi nên cứu hộ luôn thể. Khổng tước liền chú nguyện xuống hồ nước, dân chúng chen nhau đến múc uống, bệnh chi cũng được lành cả.
    Việc xong, Khổng tước tâu với Vua: nay bịnh của lịnh bà và dân chúng đều được lành, xin Bệ hạ y lời thả tôi về rừng cũ. Vua liền chuẩn y. Khổng tước bay đậu trên tường nhìn xuống nói:
    -Tâu Bệ hạ, sự việc vừa qua, tôi gẫm lại trong đời có 3 hạng người mê si.
    -Vua bảo: Ngươi hãy giải thích cho Trẫm rõ ?
    Khổng Tước tâu:
    -Thứ nhứt là tôi đây mê si: Trước kia tôi làm chúa tể các loài chim, suốt ngày có kẻ hầu hạ và hiến dâng đủ thứ cây trái. Tôi lại đắm say sắc đẹp của Thanh tước mà bỏ bầy đem thân làm tôi mọi cho nó, đến đổi phải mắc bẫy, thiếu chút nữa là căn mạng chẳng còn.
    Thứ nhì là anh thợ săn đây si mê: lúc bắt được tôi, tôi có van xin nếu được thả, tôi sẽ chỉ cho anh một hòn núi vàng, anh không bằng lòng vì quyết lấy được Công chúa mà thôi. Giờ đây, Vua đã xét nhờ tôi chú nguyện Hoàng Hậu mới hết bịnh chớ không phải là nhờ ăn thịt tôi, nên thợ săn chỉ được thưởng vàng, chớ chẳng được lấy Công chúa. Thế là hai món: núi vàng và Công chúa thợ săn đều hỏng cả !
    -Thứ ba là Vua mê si: Bệ hạ vì quá nịnh ái Hoàng Hậu mà ra lịnh bắt tôi và liều đánh đổi Công chúa cùng 100 lượng vàng, trong lúc không suy nghĩ người nạp chim có xứng đáng và đủ tài đức làm phò mã chăng ? Rồi nay vì tôi cứu được lịnh bà và dân chúng, Bệ Hạ mới thả tôi, chớ thật ra lòng Bệ hạ có nhân từ bác ái gì đâu.
    Nói xong, Khổng tước cất cánh về rừng xanh. Cả Vua tôi, dân chúng đồng tán thán. Đây quả là vị Bồ Tát hóa thân đến giác tỉnh chúng ta ! Tất cả đồng hướng theo Khổng tước bái tạ !
    NGUYÊN: Nguồn gốc, chỗ khởi đầu, mới phát sanh.
    VÔ THỈ: Không có chỗ khởi đầu. Vạn vật trong thế gian, như chúng sanh và các pháp đều không có chỗ bắt đầu. Kiếp sống ngày nay là do nhân duyên ở đời trước mà có, và kiếp sống đời trước cũng do nhân duyên đời trước nữa sanh ra, cứ như thế lưu chuyển không biết đâu là đầu là cuối.
    Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sanh tử cứ nối tiếp nhau mãi, đều do chỗ không biết cái chơn tâm thường trụ và thể tánh trong sạch mà nhận lầm và chạy theo cái vọng tưởng không chơn thật, mới tạo thành nghiệp sanh tử nên phải luân chuyển mãi mãi. (Nhứt thiết chúng sanh tùng vô thỉ lai, tánh tịnh minh thể, dụng như vọng tưởng, thử tưởng bất chơn, cố hữu luân chuyển).
    VÔ MINH: Xem chú thích tại tr. 254, Tập 3/3.
    CĂN TRÍ: Gốc rễ của sự sáng suốt, chỗ phát sanh ra trí huệ.
    NHẬN NGỤY LÀM CHƠN: Nhận lầm sự giả dối tà vạy cho là thật. Đức Thầy có giải:“… Ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà…”(Sơ Giải Tứ Diệu Đề).
    HUYỄN THÂN:Xem chú thích: tr.271-272, Tập 3/3.
    ĐẠO ĐỨC: Xem chú thích tại tr. 99, Tập 3/3.
    DỆT LƯỚI NGHI: Lòng nghi hoặc, do dự không quyết đoán ví như mặt lưới. Dệt lưới ghi là bện kết thêm sự nghi ngờ trong lòng mỗi ngày một thêm dày đặc thêm. Nghi là một trong “Ngũ độn sử”. Có hai hạng nghi:
    a)- Hạng không tu thì nghi rằng:
    1. Không có luật nhân quả báo ứng.
    2. Không có sự luân hồi.
    3. Không có cảnh giới của chư Phật.
    4. Sau khi chết là mất.
    5. Không có sự xem xét của Thần Thánh.
    b)- Hạng đã tu song chưa nắm vững chơn lý nên cũng còn nghi rằng:
    1. Từ trước tới giờ mình đã tạo nhiều nghiệp ác, nay chỉ tu trong một lúc, biết có sự tiếp độ của chư Phật chăng ?
    2. Những phiền não: tham, sân, si nơi mình chưa dứt sạch, biết niệm Phật có được tiếp dẫn về Cực lạc chăng ?
    3. Sự tu hành của mình có ảnh hưởng cứu rổi được tổ tiên cha mẹ không ?
    4. Sau khi mạng chung biết có được Đức Phật y như lời nguyện rước thần thức mình về Cực lạc chăng ?
    5. Công phu tu hành ngày nay, có được sự hỗ trợ của các đấng thiêng liêng giúp mình đến hội Long Hoa và hội Long Hoa có thật hay không ?
    PHIỀN PHỨC: Phiền là nhiều, phức là cái gì chồng lên nhau. Ý chỉ sự bận bịu rắc rối lôi thôi.
    BIN RỊN: Trìu mến, quấn quít không chịu xa lìa từ bỏ, mãi mãi bận bịu không dứt.
    TANG THƯƠNG: Xem chú thích: tr. 280, Tập 3/3.
    SUY LƯỜNG: Suy xét, đo lường. Ý nói nghiệm xét, cân nhắc kỹ lưỡng để rõ việc hư nên tốt xấu như thế nào. Đức Thầy có câu:
    Xét suy cho cạn cổ kim,
    Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.
    (Để Chơn Đất Bắc)
    NGHIỆP ÁC: Cũng viết là ác nghiệp. Có nghĩa những hành động xấu xa tội ác, do trước gieo nhân hung dữ, sau bị quả xấu, khổ trả lại. Cho nên nghiệp ác cũng có tên là “hắc nghiệp”. Nghiệp ác ở đây có ý nói vì mê si nên thân, khẩu, ý vi phạm mười điều ác.
    Sách Đồng Nghĩa Ký viết:“Nghiệp hữu nhị nghĩa: Nhứt động tác nghĩa, nhị vi nhân nghĩa.”(Nghiệp có hai nghĩa: một gọi là việc hành động, hai là gieo nhân).
    Tổ Qui Sơn cũng nói: Nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn tránh, như tiếng hòa vang trong thuận, hình ngay bóng thẳng, nhơn quả rõ ràng, đâu không lo sợ. (Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị, thinh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ).
    Đức “Thầy cũng từng cho biết:
    Vướng nghiệp trần hoàn bởi quả nhân,
    Gây ra kiếp số chịu phong trần.
    (Rứt Cái Ngu Đần)
    THUYỀN GIÁC: Xem chú thích: tr. 199, Tập 3/3.
    CHÁNH TRỰC: Chơn thật, thẳng thắn; nghĩa bóng: hết lòng vì dân vì nước.
    ĐỌA THÂN: Thân rơi vào cảnh khổ. Có hai cách: Một là vì mê si nên bị danh, lợi, tình đày đọa xác thân phải vật bắt với trường đời, vô vàn vất vả; hai là sau khi chết cái thân trung ấm bị đọa vào ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
    UỔNG KIẾP: Hư đi một kiếp làm người vì chẳng tu hành tiến hóa được, lại bị thối hóa, đọa lạc xuống chỗ thấp hèn. Ví như cây trồng sắp có trái vội bỏ, không vun phân tưới nước nên cây bị héo chết rất uổng !
    Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật bảo:“Trong đời có sáu việc khó: 1. Khó gặp Phật ra đờ,. 2. Khó nghe được Chánh pháp, 3. Khó sanh ở Trung độ, 4. Khó được thân người, 5. Khó được tâm biết lo sợ, 6. Khó được năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đầy đủ”. Xét ra sáu điều khó nói trên, nay chúng ta đã vượt khỏi, nếu không biết giác ngộ tu hành thì rất uổng cho một kiếp sống.

    CHÁNH VĂN
    661. Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho.
    Trồng cây lành vị-quả thơm-tho,
    664. Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
    Dầu ai có cười ta khờ-khật,
    Cũng đừng phiền xao-lãng chơn tâm.
    Mong tiếng kêu thấu đến Tòng-lâm,
    668. Cùng thiện-tín bá-gia hưởng-ứng.
    Muốn Phật-Giáo từ đây bền vững,
    Đừng riêng lo lợi-dưỡng một mình.
    Nếu xuất-gia thì phải hy-sinh,
    672. Cả vật-chất tinh-thần lo Đạo.
    Chớ giả-dối mà mang sắc áo,
    Mượn bồ-đề chuỗi hột loè người.
    Làm cho dân khinh-dể ngạo cười,
    676. Tội-lỗi ấy luật nào dung thứ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 661 đến câu 676)
    -Đoạn nầy ý nói người tu hành khi trừ xong mười điều ác thì đắc được mười điều lành, ấy gọi là trọn lành, song phải lóng sạch phàm tâm, tiêu trừ hết vi tế phiền não (tham, sân, si) để được trọn sáng. Cũng như lu nước đục lọc hết cặn cáu thì trở về màu trong lặng, chất nước ấy không đục lại. Nhà tu khi đạt tới đó tức là kiến diện Phật tâm (ngộ Phật tri kiến), hoặc được chư Phật tiếp dẫn vể Tây phương Cực lạc. Lại nữa, căn cứ vào luật nhân quả:“Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.”(GMTK, Q.4), kẻ làm lành lánh dữ tất được sự an vui giải thoát, tuy hiện giờ chưa thấy chớ sau nầy sẽ kết quả chắc chắn, không hề sai chạy.
    -Đức Thầy hằng khuyên nhủ, kẻ tu hành, dầu có bị người đời chê ngạo ngu khờ, ta cũng đừng buồn lòng thối chuyển mà lơ đễnh việc trau tâm sửa tánh. Và Ngài cũng kêu gọi khắp Tăng Ni, Phật tử, từ bực xuất gia đến hàng cư sĩ tại gia hãy thẩm xét cho chín chắn mà hưởng ứng theo lời khuyến thiện trong đây.
    -Bởi Ngài nhận rằng: Muốn cho nền Đạo Phật được bền chắc và phát triển lan rộng hầu cứu rỗi các tầng lớp chúng sanh thì điều trước tiên là các giới tu hành hãy dẹp lòng vị kỷ riêng tư. Nếu là kẻ xuất gia muốn xa lìa bể tục cần phải có tinh thần xả kỷ, lợi tha, an bần lạc đạo để dồn hết tâm cơ trí lực vào việc công nghĩa, giác chúng tu thân.
    -Kế tiếp, là không nên mượn màu sắc nhà tu, trang diện hình thức bên ngoài để lừa dối bá gia mà bên trong chẳng thật tâm hành đạo. Vì nếu tu như thế sẽ bị người đời khinh Phật ngạo tăng, làm mất thanh danh chung cho Đạo, luật pháp không thể nào tha thứ được.

    CHÚ THÍCH
    THIỆN NGHIỆP: Các việc làm lành của ba phần: Thân, Khẩu, Ý. Tức là thập thiện nghiệp, ngược với thập ác nghiệp. Đức Giáo Chủ bảo:“Sau khi diệt được Thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra”. Mười điều lành ấy gồm có:
    1- Đã không sát sanh mà luôn có lòng từ bi thương người mến vật và tận tâm cứu giúp.
    2- Đã không đạo tặc lại hay làm việc nghĩa, giúp đời.
    3- Đã không hành động tà dâm mà tâm hằng trong sạch, lễ độ và tôn trọng luân thường đạo lý.
    4- Đã không dùng lời lưỡng thiệt lại luôn nói lời thành thật chánh đáng.
    5- Đã không phạm ỷ ngôn lại thường nói lời tốt lành êm dịu.
    6- Đã không phạm ác khẩu mà nói toàn lời thanh bai hiền đức.
    7- Đã không nói vọng ngữ lại hằng nói những lời chân chánh đúng với sự thật.
    8- Đã không có ý tham lam, bỏn sẻn mà luôn có lòng bố thí, vị tha, tự tại vô ngại.
    9- Đã không có ý sân hận, tật đố lại hằng dụng tâm hoan hỉ từ bi, nhẫn nhục và khoan dung.
    10- Đã không còn mê si tà kiến mà luôn phát sanh trí huệ và chánh kiến.
    LÓNG NGUỒN CHƠN: Tâm ý con người ví như một nguồn nước, nếu khuấy lên là đục, bằng lóng lại là trong. Người hành đạo một khi lòng lóng lắng được thì tham, sân, si dứt bặt, chơn trí hiện bày như một nguồn nước trong lặng nhìn thấy tận đáy.
    TIẾP DẪN: Dắt đường, dùng mọi cách chỉ đường vào Đạo hay rước đưa về cõi Phật. Bởi chúng sanh ham mê các sự giả dối ở trần thế, chìm nổi trong cạm bẫy luân hồi, nên Phật và chư Bồ tát hóa hiện giảng dạy cho họ thấu hiểu đạo mầu để lo tu hành giải thoát. Ấy gọi là tiếp dẫn.
    Còn người tu pháp môn Tịnh Độ, chí tâm niệm Phật làm lành thì lúc lâm chung được thấy Phật A Di Đà hiện đến tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.
    VỊ QUẢ: Cũng gọi là quả vị, tức là ngôi vị thành tựu của các nhà tu hành đạo đức. Như vị quả La Hán, vị quả Duyên Giác, vị quả Bồ Tát hay Phật. Đức Thầy từng khuyên:“Nếu bền lòng vị quả cao thăng.”(Sa Đéc).
    XAO LÃNG: Bỏ lơi, không để ý đến. Ví dụ: Xao lãng việc tu học.
    CHƠN TÂM: Lòng thanh tịnh trong sáng, chẳng nhiễm ô trần trược hay vọng tưởng, ngược với vọng tâm hay giả tâm. Pháp Tánh Tông có lập ra cửu thức, chơn tâm là thức thứ chín (Am-ma-la thức). Bởi tự tánh của nó hoàn toàn trong sạch nên gọi là chơn tâm, còn tám thức trước do vô minh khởi ra nên gọi là vọng tâm. Trong Kinh Di Đà có tỷ dụ:“Nước biển thường trụ chẳng thay đổi. Chơn tâm của mỗi chúng sanh cũng vậy, nó vẫn trong sạch, thường trụ từ vô thỉ đến nay. Còn sóng biển thì có khởi, có diệt, lúc có, lúc không, tức là vô thườ., Các vọng tâm của chúng sanh cũng thế”.
    Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật phán:“Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay chết đi sống lại mãi là tại họ chẳng biết cái chơn tâm thường trụ, thể tánh nó vẫn trong sạch sáng mầu”.
    Đức Thầy cũng viết:
    Lìa xa Địa ngục thảm sầu,
    Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chơn tâm”.
    (Dịch các câu chú thường niệm)
    TÒNG LÂM: Phạn ngữ: Samgha, có nghĩa rừng tòng. Ý nói chỗ chư tăng và người thế tục hòa hợp với nhau để tu học Giáo lý, cũng như nhiều cây hợp lại thành rừng. Xưa, Thời Phật trụ thế thường cu họp đại chúng lại trong cảnh rừng mà thuyết pháp, như: rừng của Thái Tử Kỳ Đà hay Trúc Lâm.v.v…Vì thế tòng lâm cũng chỉ chỗ thuyết pháp, dạy đạo có chùa chiền vườn tược. Nhưng chữTòng Lâm ở đây chì cho giới Tăng Ni xuất gia.
    THIỆN TÍN: Xem chú thích: Tín nữ - Thiện nam, tr. 61, Tập 1/3.
    HƯỞNG ỨNG: Hưởng là tiếng vang; Ứng là tiếng đáp lại. Ý nói bằng lòng nghe theo lời kêu gọi.
    LỢI DƯỠNG: Lấy lợi để nuôi thân mình.Trí Độ Luận có viết:“Sự lợi dưỡng không khác con giặc nó làm hoại các gốc công đức, tỷ như mưa đá làm hại năm thứ lúa vậy”.
    XUẤT GIA: Xem chú thích: tr. 87-88, Tập 3/3.
    HY SINH: Xem chú thích: tr. 67, Tập 1/3..
    BỒ ĐỀ CHUỖI HỘT: Xâu chuỗi làm bằng hột bồ đề, các Tăng Ni hay dùng nó lần theo tiếng niệm Phật (niệm Phật lần chuỗi). Chuỗi có hai loại: Chuỗi trường có 108 hột, chuỗi tay có 18 hột. Ở đây chỉ cái gì thuộc về hình thức (sự tướng), đối với nội tâm (vô vi).

    CHÁNH VĂN
    677. Tu còn ham chay to đám bự,
    Đặng thế-gian dưng cúng bạc tiền.
    Dối rằng : lo tu-bổ chùa chiền,
    680. Mà làm của xài riêng cho thỏa.
    Bảo làm sao dân không sa-ngã,
    Nghe lời rù Tông nọ phái kia.
    Cả tăng-đồ trong nước chia-lìa,
    684. Riêng pháp-bảo, riêng chùa, riêng Phật.
    Trong bá-tánh sầu-thành chất-ngất,
    Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào.
    Lòng mến yêu chẳng nệ công-lao,
    688. Mượn bút mực đôi lời trần thuyết.
    Tùy thiện-tín hiểu Ta giả thiệt,
    Làm hay không chẳng dám ép nài.
    Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    692. Đồng tiếp-dẫn chúng-sanh giải-thoát.

    LƯỢC GIẢI (từ câu 677 đến câu 692)
    -Đến đây, Đức Thầy nhận thấy trong Đạo Phật thời nay có số nhà tu ham tổ chức những cuộc làm chay, cầu siêu linh đình để thâu nhận tài vật của bá tánh đem đến cúng dâng. Hoặc mượn cớ tu sửa chùa am để quyên tởi tiền bạc khắp nơi, rồi cắt xén làm của riêng mà ăn xài cho thỏa thích như hiện giờ ai cũng thấy một số sư tăng trụ trì trong các chùa cũng có gia đình, cũng tích trữ của tiền, con vợ, nào khác kẻ thế tục.
    -Lối tu như vậy, bảo làm sao bá tánh chẳng chán chê, xa lánh và thối chuyển lòng tin tưởng đối với Tam Bảo. Nhân đó, tình trạng phân chia Tông, Phái, Chùa, Pháp trong giới Tăng đồ càng lúc càng tăng; dẫn đến sự chỉ trích, tranh giành môn đồ uy tín giữa nhau. Họ xem mỗi ngôi chùa là sự nghiệp riêng mà họ có quyền thọ hưởng.
    -Cảnh huống nói trên, khiến cho bá tánh trông vào rất đau buồn, bán tín bán nghi. Muốn tìm một chỗ nương tựa, song chẳng biết nơi đâu là hành động đúng chân lý. Thấy thế, lòng Đức Giáo Chủ quá thương xót nên tạm dùng giấy mực thuyết minh lẽ thực hư cho mọi người được rõ.
    -Với lời lẽ luận giải trong đây mỗi thiện nam tín nữ cần xem coi và nhận xét đúng hay không ? Có làm theo hay chăng, là tùy ý, chớ Ngài không bao giờ nài ép một ai. Dầu vậy, với tấm lòng bác ái vị tha của bậc Giác ngộ, lúc nào Ngài cũng cầu nguyện với chư Phật mười phương, đồng tiếp độ các giới chúng sanh sớm lên bờ giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    TU BỔ: Sửa chữa, sửa sang lại những chỗ đã hư hỏng.
    THỎA: Vừa lòng thích ý.
    LỜI RÙ: Thì thầm to nhỏ, có tánh cách quyến rủ.
    TĂNG ĐỒ: Xem chú thích: tr.85, Tập 3/3.
    PHÁP BẢO: Phạn ngữ: Dharma-ratna, có nghĩa: Những lời giáo pháp của chư Phật thuyết dạy rất quí báu như châu ngọc, bởi nhờ đó chúng sanh mới biết tỉnh ngộ tu hành và thoát khổ. Pháp Bảo là một trong ba ngôi quí báu (Phật Pháp Tăng). Pháp còn ví như thuyền bè, hay đưa người vượt khỏi biển khổ: sanh, lão, bệnh, tử; ví như đèn đuốc dùng soi sáng lối đi và như món thuốc thần diệu để chữa lành các chứng bịnh phiền não. Vì thế người Phật tử tôn kính Giáo pháp, Kinh giảng cũng như tôn kính Phật và chư Tăng vậy.
    Kinh Niết Bàn có chép:“Thanh Tịnh Pháp Bảo, nan đắc kiến văn, Ngã kim đắc văn, du như manh qui, tri phù mộc khổng !”(Vật quí báu là pháp trong sạch, khó mà được nghe thấy. Nay ta đã được nghe thấy, dường như con rùa mù, gặp đặng bọng cây nổi).
    Bởi Pháp Bảo quí báu như thế nên Đức Thầy hằng khuyên:“Cao sâu lý diệu vàng mười khó mua.”(Viếng Làng Mỹ Hội Đông).
    Hoặc là: “Kệ kinh tụng niệm đêm thanh,
    Ấy là châu ngọc để dành về sau.”(Sấm Giảng, Q.1).
    SẦU THÀNH: Cũng viết là thành sầu. Có nghĩa: Nỗi buồn rầu, đau khổ quá nhiều và chất ngất như thành như lũy, khó mà giải cho hết. Cổ nhân từng bảo:
    Nhứt tọa sầu thành cư hỏa trạch,
    Đa manh kim kích lạc du đàng”.
    (Một ngày ở thế cũng như ở trong các thành sầu và nhà lửa, còn đêm ngủ như ngồi trên mũi giáo).
    NGHI NAN: Ngờ vực khó tin nên không quyết định được.
    TRẦN THUYẾT: Nói và bày tỏ ra.
    MƯỜI PHƯƠNG: Xem chú thích: tr. 203, Tập 3/3.
    GIẢI THOÁT: Xem chú thích: tr. 34, Tập 3/3.

    CHÁNH VĂN
    (KỆ)
    693. Đêm thanh hiên nguyệt dựa kề,
    Nhìn xem thế-sự não-nề tâm-can.
    Từ Ta nương chốn Phật-đàng,
    696. Dứt tâm trần-cấu chẳng màng vinh-huê.
    Trần-hoàn thiện-tín còn mê,
    Thêm lời giục-thúc gọi về đàng tu.
    Dốc lòng vạch ngút mây-mù,
    700. Đặng dìu bá-tánh đường tu chen vào.
    Lời Thầy cạn tỏ âm-hao,
    Để truyền hậu-thế vàng thau lọc-lừa.
    Tu cầu thuận gió hòa mưa,
    704. An-hòa nhơn-vật phước thừa trời ban.
    Tu cầu thoát chốn gian-nan,
    Cầu trong chư quốc chư bang giao-hòa
    Tu cầu yên nước lợi nhà,
    708. Cửu-huyền Thất-tổ Diêm-La thoát hình.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 693 đến câu 708)
    -Đoạn nầy ý nói trong một đêm trời trong cảnh tịnh, bóng trăng vừa rọi trước mái hiên, Đức Giáo Chủ chạnh nghĩ đến sự đời hiện tại khiến lòng bắt đau xót. Hồi tưởng, từ khi nương thân vào cửa Đạo, tâm Ngài đã dứt sạch lòng nhiễm ô trần tục, chẳng màng đến sự cao sang đài các:“Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.”(Khuyến Thiện, Q.5).
    -Ngài cũng nhận xét khắp trong thiện tín còn có số người đắm say cảnh đời khổ lụy, nên Ngài viết thêm đoạn Kệ nầy, hầu giục giã họ nhanh chơn trên đường tu thân lập hạnh. Phần Ngài đã quyết tâm dùng ánh sáng trí huệ, chiếu phá sự mê mờ cho khắp chúng sanh, bằng cách sáng tác Kệ Kinh để dìu dắt bá gia đưa vào nẻo Đạo. Trong đó Ngài đã giải bày cặn kẽ, từ sự biến chuyển của cơ tận diệt đến Giáo lý siêu mầu, chẳng những có ích lợi cho giới tu hành hiện tại, còn giúp cho người sau, nương theo đó mà lọc lừa tu sửa.
    -Về sự hành đạo, Ngài dạy mỗi người phải thật tâm thành ý lo tu tập để mong đạt đến kết quả là Trời Phật sẽ ban cho mọi người và vạn vật một cuộc sống hòa vui thuận thảo, mưa gió hợp thời.
    -Bởi do mỗi người biết hướng theo lẽ phải, lánh dữ làm lành, nên cảnh chiến tranh gian khổ không còn diễn ra; và cả thế giới biết liên kết, tương trợ lẫn nhau, riêng nước ta cũng được hòa bình an lạc. Nhứt là mỗi người đều lo trau giồi phước hạnh và hồi hướng công đức cho Tổ Tiên Cha Mẹ đồng thoát khỏi sự hình phạt chốn Diêm đài, siêu thẳng về Cực lạc.

    CHÚ THÍCH

    KỆ: Xem chú thích: tr. 156 Tập 1/3..
    ĐÊM THANH: Ban đêm trời êm lặng trong trẻo. Đức Thầy có câu, trong bài “Vọng Bắc Hòa Nam”:
    Gió đưa nhằm lúc đêm thanh,
    Lời ta dạy dỗ như nhành ghẹo chim”.
    HIÊN NGUYỆT: Hiên là mái nhà, nguyệt là mặt trăng. Ý nói bóng trăng vừa rọi tới mái hiên.
    THẾ SỰ: Sự đời. Ý chỉ mọi sự việc và cảnh huống trong đời:“Vui gì thế sự mà mong nhân tình.”(Cổ thi) Đức Thầy cũng từng viết:“Thế sự bao la ta chẳng quản.”( Để Chơn Đất Bắc).
    NÃO NỀ: Đau xót và buồn chán ê chề.
    TÂM CAN: Tim và gan. Ví dụ: Đau đớn tâm can (đau xót trong lòng)
    TRẦN CẤU: Xem chú thích: “trần cấu tạo”, tr. 200 Tập 3/3.
    TRẦN HOÀN: Xem chú thích: tr. 82, Tập 1/3.
    GIỤC THÚC: Cũng viết là thúc giục. Có nghĩa: giục giã, thúc hối làm việc gì cho sớm, cho mau rồi.
    VẠCH NGÚT MÂY MÙ: Vạch là vẹt ra, banh xé ra, ngút mây mù là mây khói bốc lên như sương mù che lấp một cái gì. Ý chỉ sự mê mờ tăm tối (vô minh) che khuất trí sáng của chúng sanh. Nghĩa chung là Đức Thầy dùng trí huệ vẹt phá sự mê tối cho chúng sanh. Như Ngài từng bảo trong bài “Viếng Làng Mỹ Hội Đông”:
    Tinh thần hiệp vén ngút mây,
    Vẹt cho rõ mặt Tớ Thầy hạ ngươn”.
    ÂM HAO: Tin tức. Ý cho biết mọi việc sắp tới.
    HẬU THẾ: Đời sau, sau nầy hay người đời sau.
    TU CẦU: Tu là trau sửa, cầu là mong mỏi, là tìm kiếm cho đến nơi. Nghĩa chung là quyết trau thân hành Đạo và tầm cầu cho thấu đạt mục đích (thành quả). Đức Thầy từng dạy:
    “Cầu tu cho đạt ngũ hương,
    Hươi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng”.
    (Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    Hoặc : “Tu cầu cứu vớt Tổ tông,
    Với cho bá tánh máu hồng bớt rơi.
    (Sấm Giảng, Q.3)
    AN HÒA: Yên ổn và hòa vui thuận thảo.
    PHƯỚC THỪA TRỜI BAN: Được thừa hưởng phước lộc do Trời Phật ban cho, nhưng cũng nhờ công năng tu hành tác phước của mỗi người mà có chớ chẳng phải chỉ cầu mong suông mà được. Luật trời ở đây là chỉ luật nhân quả. Thánh nhân từng bảo:“Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ họa.”(Người làm lành thì Trời trả cho bằng phước, Kẻ làm điều chẳng lành (dữ) trời trả cho bằng họa).
    GIAO HÒA: Giao thiệp hòa hảo với nhau.
    CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Xem chú thích: tr. 117-118, Tập 1/3.
    DIÊM LA: Xem chú thích: “Diêm vương”, tr. 146, Tập 1/3.

    CHÁNH VĂN
    709. Tu cầu Phật hóa tánh tình,
    Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu-dao.
    Tu cầu cửa Phật đặng vào
    712. Gót sen thong-thả xiết bao thanh-nhàn.
    Tu cầu bịnh tật tiêu-tan,
    Từ-bi hỉ-xả Phật ban phép lành.
    Tu cầu thoát khỏi tử sanh,
    Nương theo Phật-Quốc lời lành hằng nghe.
    Cõi trần đừng đắm ngựa xe,
    Đeo tuồng mộng-huyễn lập-lòe sắc hương.
    719. Tu cầu trăm họ hiền lương,
    Đồng thinh niệm Phật tai-ương chẳng còn.
    Tu cầu gia-đạo vuông tròn,
    Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền.
    Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng,
    724. Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao.
    Tu cầu chóng hết binh đao,
    Gặp đời bình trị xiết bao vui-vầy
    Mắt nhìn chư Phật đông dầy,
    728. Thành vàng điện ngọc trò Thầy đăng tiên.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 709 đến câu 728)
    -Tiếp theo đoạn trước, Đức Giáo Chủ khuyên mỗi hành giả cần tu cho tánh mình đồng hòa với chư Phật, tức là đổi phiền não thành Bồ đề. Bởi lòng phàm và tánh Phật chẳng phải hai, hễ còn tham, sân, si ô nhiễm là chúng sanh, bằng lọc hết chúng ra tức trở thành Phật. Đặng vậy thì mạng lưới vô minh (mê si) chẳng còn trói buộc ta trong luân hồi sanh tử mà lúc nào cũng thong dong tự tại. Bấy giờ gọi là kiến diện Phật tâm hay bất cứ cảnh giới của vị Phật nào hành giả cũng vẫn đến được, ấy là hoàn toàn giải thoát.
    -Còn lúc đang hành đạo, nhà tu cần quyết tâm chuyển nghiệp: niệm Phật làm lành ắt được chư Phật hộ trì qua cơn bịnh tật để tiến thẳng đến Niết bàn, dứt đường sanh tử, hoặc vãng sanh về nước Phật, luôn được nghe pháp mầu và tu tập thêm cho đến khi đắc đạo.
    -Song muốn được kết quả như trên, hiện giờ hành giả không nên đắm nhiễm sự cao sang, màu sắc. Vì mọi cảnh vật ấy đều là tạm giả, như chiêm bao bóng bọt vậy thôi, và nó cũng là miếng mồi thường câu nhử chúng ta dễ rơi vào bể khổ.
    -Ngoài sự tu do chính mình, Đức Thầy còn dạy phải tu cầu cho bá tánh hầu thể hiện lòng tự giác, giác tha, tức là vừa cầu nguyện vừa nêu gương hạnh, cảm hóa mọi người đều biết hiếu thuận từ hòa, một lòng tu tiến để được gần Phật gần Thầy và sớm thoát khỏi cảnh trần ai sầu khổ.
    -Đức Giáo Chủ còn khuyên mỗi tín đồ hãy tu cầu cho thế giới sớm dứt tai họa chiến tranh, cả nhân loại đều chung sống cảnh thanh bình an lạc. Bấy giờ vạn dân sẽ thấy Phật, Tiên, Thánh lâm phàm “…định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho Vạn Quốc chư bang.”(trong Bài Sứ Mạng).
    Và cảnh:
    Phương Nam rạng ngọc chói lòa.
    Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung.
    Dành cho kẻ lòng trung chánh trực,
    Quân cùng thần náo nức vui tươi”.
    (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
    Đây là cảnh bồng lai tại thế, Trời Phật sẵn dành cho những ai vẹn tròn đức hạnh.

    CHÚ THÍCH

    PHẬT HÓA TÁNH TÌNH: Tánh chúng sanh trở thành tánh Phật. Cũng có nghĩa nhờ Phật lực khai hóa cho chúng sanh biết cách tu hành để được đồng hòa với Phật tánh.
    LƯỚI MÊ: Sự mê si, tà kiến trói buộc chúng sanh trong luân hồi sanh tử, như bị mạng lưới bao vây khó mà thoát ra được.
    TIÊU DAO: Cũng gọi là tiêu diêu. Có nghĩa thông thả, tự do đi đây đi đó, không gì bó buộc. Ý chỉ người tu khi được giải thoát. Đức Thầy có câu:
    Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
    Vân du Võ trụ thanh nhàn biết bao.”
    (Hoài Cổ)
    TỪ BI HỈ XẢ: Xem chú thích: tr. 340-341, Tập 3/3.
    PHẬT QUỐC: Xem chú thích: tr. 55, Tập 1/3.
    MỘNG HUYỄN: Cũng gọi là mộng ảo. Mộng là giấc chiêm bao, huyễn là giả dối, không thật. Tuồng mộng huyễn là tuồng đời giả tạo không thật có. Ý nói kiếp sống và mọi cảnh vật vinh sang phú quí đều là tạm giả, không bền chắc lâu dài. Ví như giấc chiêm bao tối còn sáng mất.
    Trong truyện Bát Tiên có chép: Thời nhà Đường (Trung Hoa) có Lữ Đồng Tân (Lữ Sinh), một hôm mang gói đi thi, giữa đường có ghé vào quán cơm, kêu nấu nồi gạo lúa huỳnh (bắp tẻ). Chủ quán đem chiếu gối mời khách nằm nghỉ, đợi nấu cơm chín sẽ dùng. Đồng Tân vừa nằm xuống là ngủ, chiêm bao thấy đến kinh thành thi đỗ tấn sĩ, lại đi dẹp giặc có công to và cưới được vợ đẹp. Sau sanh nhiều con, rồi con sanh ra cháu, tất cả đều ăn học thông minh. Cả gia đình sống cuộc đời vinh hiển. Thoạt có tiếng động, Đồng Tân chợt tỉnh, bỗng nghe chủ quán vừa gõ trên miệng nồi vừa hát:“Nồi bắp vẫn còn ngòi, Chiêm bao đà thấy cháu”.
    Lữ Đồng Tân ôn lại điềm mộng, lòng chán ngán cuộc lợi danh. Lại nghĩ, ông chủ quán hiểu hết cảnh chiêm bao của mình mới hát lên câu ấy, quả là vị Phật Tiên gì đây ? Đồng Tân liền cầu xin chủ quán cho theo tu học đạo lý.
    Nguyên chủ quán ấy là Hớn Chung Ly Tiên Ông, nhân dịp vân du thấy Đồng Tân có căn Tiên nên giả làm chủ quán để giác tỉnh. Từ đó Lữ Đồng Tân theo Hớn Chung Ly và sau tu thành Tiên.
    Do điển tích nói trên về sau văn chương thường dùng “Giấc Huỳnh Lương” để chỉ cho cuộc đời giả tạm. Kinh Vô Lượng Thọ có câu: Cả thảy sự vật trong đời dầu có rồi cũng mất, ví như giấc chiêm bao không thật, lại cũng như tiếng dội kêu lên rồi hết.(Giác liễu nhất thiết pháp, du như mộng, như hưởng).
    Đức Thầy nay từng bảo:“Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo.”(Không Buồn Ngủ) nên Ngài thường kêu gọi:
    Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
    Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.
    (Hai Mươi Chín Tháng Chạp)
    LẬP LÒE: Chập chờn, khi bừng lên khi hạ xuống. Đây ý nói sự chưng diện màu sắc lòe loẹt, song các sự vật ấy không bền chắc.
    SẮC HƯƠNG: Hai điều trong lục trần (Xem chú thích: “Lục trần”, tr. 28-29 Tập 3/3).
    TAI ƯƠNG: Xem chú thích: tr. 78, Tập 2/3..
    GIA ĐẠO: Phép tắc ở trong nhà, cách thức cư xử trong gia đình thân tộc.
    TRẦN LAO: Trần là bụi bậm; lao là khổ nhọc. Ý nói chúng sanh ở cõi trần chịu nhiều sự nhớp nhơ đau khổ như kẻ ở trong lao ngục. Đức Thầy từng nói:
    Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù
    Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng
    (Không Buồn Ngủ)
    ĐĂNG TIÊN: Lên cõi Tiên. Ý nói nhà tu khi đắc đạo. Cõi tiên ở đây chỉ cho đời Thượng ngươn Thánh đức, bởi ngày ấy:
    Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng hoàng,
    Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
    (Không Buồn Ngủ)
    Hoặc:“Bồng lai tại thế non dường sánh.”(Bạc Liêu) Và:
    Tiên cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
    Chờ người hữu phước đến liên đài”.
    (Cho Ô. Nguyễn Thanh Tân)

    CHÁNH VĂN
    729. Ai mà muốn đặng phước-duyên,
    Nghe lời khuyến-thiện lòng liền phát tâm.
    Tu cho rõ mối huyền-thâm,
    732. Qui đầu Phật-Pháp khỏi lâm tai-nàn.
    Phước đức quí hơn bạc vàng,
    Những người bạc-ác giàu sang ích gì.
    Chi bằng ăn ở nhu-mì,
    736. Nghe lời Phật Thánh kính vì người trên.
    Hiếu-trung lòng chớ vội quên,
    Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên-Đài.
    Nam-mô miệng niệm hằng ngày,
    740. Lánh lời dua-mị học rày kệ kinh.
    Trau tâm luyện tánh cho minh,
    Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn.
    Lóng tai nghe rõ tiếng đờn,
    Không dây không phím oán hờn cũng không.
    Đờn tây rồi lại đờn đông,
    Trách trong bá-tánh gặp sông quên nguồn.
    Phàm-trần như chỉ rối cuồn,
    748. Mà còn say-đắm theo tuồng lẳng-lơ.
    Lời lành mắt lấp tai ngơ,
    Đua theo vật-chất hẫng-hờ đàng tiên.
    Hố sâu tình-dục lại ghiền,
    752. Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan-tài.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 729 đến câu 752)
    -Đoạn giảng trên ý dạy rằng nếu ai muốn đặng nhân duyên phước đức, khi nghe được lời khuyên trong đây, hãy sớm phát tâm tu học đạo lý. Và cố hành trì làm sao cho thấu đạt lẽ cao sâu mầu diệu để nương theo con đường Phật pháp của Tổ Thầy đã vạch hầu vượt khỏi vòng tai khổ.
    -Vả lại, từ xưa đến nay bạc vàng của cải chẳng bao giờ sánh bằng phước đức, vì vàng bạc dù có nhiều đến đâu, tiêu xài thời gian cũng hết. Tuy ta cố giữ, nhưng khi nhắm mắt cũng chẳng mang theo được món nào. Còn phước đức, chẳng những giúp người an thân trong hiện kiếp mà tương lai còn được thành quả giải thoát. Xưa nay những kẻ làm giàu bằng cách gian ác, chẳng đem lại lợi ích lâu dài, lại còn mang thêm khổ lụy. Cho nên, chúng ta cần tuân thủ theo lời Phật Thánh, đối xử với mọi người đều được hiền hòa lễ độ, kính người trên, thương kẻ dưới để mang lại đời sống an lành trong xã hội.
    -Điều cần nhứt là phải trau giồi trung hiếu, vẹn đáp Tứ ân. Vì trung hiếu ở đây là chỉ cho giềng mối của Đạo làm người. Nếu ai làm tròn nhân đạo, trả xong nợ thế trong kiếp sống, lúc lâm chung sẽ siêu thoát lên cõi Tiên và tiến đến cõi Phật:“Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.”(Sấm Giảng, Q.3). Song muốn cho sự kết quả cao chắc hơn, ngày ngày hành giả cần chuyên tâm niệm Phật làm lành, chừa bỏ những lời dối gian, dua nịnh, trì tâm tu học Kệ Kinh, tức học Phật và hành tri Phật đạo.
    -Nhờ có thông hiểu Kệ Kinh mới thấu đạt yếu pháp Thiền Tịnh mà Đức Thầy chỉ dạy. Nghĩa là mỗi hành giả vừa tự trau sửa tâm trí cho sáng suốt (tu Thiền) và vừa trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” để nhờ tha lực Phật gia hộ (tu Tịnh), tức thân tâm được trọn lành trọn sáng, chẳng còn vướng bận các trần ai nghiệp báo.
    -Lại nữa, lời Pháp giáo của Đức Thầy ví như tiếng đờn, mà đờn ở đây lại không dây không phím:“Đờn ta vốn thiệt không dây.”(Từ Gĩa Bổn Đạo Khắp Nơi). Chính đó là “Chánh pháp vô vi” nên Ngài khuyên nhà tu, khi xem Sấm Giảng chẳng phải chỉ nhìn sơ qua trên mặt văn tự, mà hãy bình tâm lặng ý để suy tìm, mới mong thấu đạt chơn lý.
    -Lời Sấm Kinh (tiếng đờn) đã truyền bá khắp nơi, song chưa mấy người thức tỉnh nên Ngài thống trách những kẻ đã hân hạnh sanh được thân người và thụ hưởng mọi sự cao sang về vật chất, lại quên đi căn lành gốc đạo từ trước. Kìa, cảnh trần sắp đến hồi rối loạn, sao nhơn sanh mãi đắm say theo tuồng ảo ảnh, bất chánh vô liêm !
    -Bao lời lành lẽ Đạo của Phật Thánh chỉ dạy là con đường siêu thoát an nhiên, thế mà bá tánh vẫn làm ngơ, không hề để ý. Mảng đua đòi những vật chất phù hoa, đắm nhiễm cuộc lợi danh tình ái để rồi bị mê ghiền mãi mãi, cho đến khi từ biệt cõi đời cũng chưa dừng lại.

    CHÚ THÍCH
    PHƯỚC DUYÊN: Phước đức và nhân duyên (nghĩa của chữ phước thiện), tức làm những việc phước thiện để gây duyên lành về sau. Đức Thầy có dạy:
    Ông Bà có sẵn của tiền,
    Lại thường làm ruộng phước duyên để dành”.

    (Cho Thằng Tân)
    KHUYẾN THIỆN:Xem chú thích Tiêu đề Q.5,tr.183 Tập 3/3).
    HUYỀN THÂM:Xem chú thích tại tr. 37, Tập 1/3. PHẬT PHÁP: Xem chú thích tại tr. 54, Tập 1/3.
    PHƯỚC ĐỨC: Xem chú thích tại tr. 123, Tập 2/3.
    BẠC ÁC: Hung dữ gian ác, hay quên ơn, chẳng hề thương nghĩ đến ai:“Những người bạc ác tinh ma.” (Truyện Kiều).
    NHU MÌ: Xem chú thích tr. 89, Tập1/3.
    KÍNH VÌ: Xem chú thích tại tr.90, Tập 1/3.
    HIẾU TRUNG: Xem chú thích tại tr. 141, Tập 2/3.
    TIÊN ĐÀI: Chỗ Tiên ngự. Đây chỉ ngôi vị ở cảnh Tiên Phật.
    NAM MÔ: Xem chú thích tại tr. 81, Tập 1/3.
    DUA MỊ: Cũng gọi là du mị. Có nghĩa bưng bợ, tâng bốc người để nhờ cậy. Đức Thầy có câu:“Cứ theo cái lối a dua.”(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi).
    KINH KỆ: Xem chú thích tại tr. 156, tập 1/3.
    GẶP SÔNG QUÊN NGUỒN: Sở dĩ có nước sông là gốc từ trên nguồn chảy xuống mà kẻ được uống nước sông lại quên nguồn. Cho nên thành ngữ nầy nhằm thống trách những kẻ sanh được thân người và có nơi ăn chốn ở, lại không nhớ đến công ơn Tổ Tiên nòi giống. Đức Thầy từng nói trong “Giã Từ Bổn Đạo Khắp Nơi”:
    Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,
    Được thân sung sướng vội lìa Tổ Tông”.
    -Gặp sông quên nguồn cũng còn có nghĩa những kẻ được hưởng sự cao sang sung sướng hiện giờ là do có căn tu hành từ trước mà nay vội quên đi, chẳng chịu hồi đầu hướng thiện, để vun vén thêm (tu hành) cho cội lành ấy sớm được kết quả viên mãn (thành đạo). Đức Thầy hằng thống trách:“Biết gốc lành sao cội không gìn.”(Thu Đã Cuối).
    LẲNG LƠ: Xem chú thích tại tr. 320, Tập 3/3.
    MẮT LẤP TAI NGƠ: Xem chú thích “tai lấp mắt ngơ“, tr. 161, Tập 1/3.
    HẪNG HỜ: Thờ ơ, không để ý hay tưởng nhớ tới..
    HỐ SÂU TÌNH DỤC: Lòng ham muốn sắc đẹp, vị danh tiền của như cái hố rất sâu, ai sa vào đấy khó mà thoát ra được. Người càng đắm say tình dục, càng chìm trong hố sâu tội lỗi, như voi sa lầy, càng vẫy vùng càng bị lún thêm. Cho nên nhà tu cần phải tránh xa tình dục.
    Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy:“Người hành đạo như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, thấy lửa phải tránh. Người nhập đạo đối với lòng ham muốn tình dục cũng phải tránh như thế.”

    CHÁNH VĂN
    753. Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
    Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
    Chỉ có tội phước hỡi còn,
    756. Đến nơi thẩm-phán cửa son Diêm-Đài.
    Phước nhiều tiên-cảnh lên rày,
    Tội nhiều sa-đọa nhiều ngày thảm-thê.
    Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
    760. Ăn-năn chẳng kịp khó bề tính-toan.
    Ngày nay sớm đến Phật-đàng,
    Tu cầu chư Phật cứu an linh-hồn.
    Tội tiêu phước hưởng trường-tồn,
    764. Không còn mắc nẻo dại-khôn luân-hồi.
    Thấy đời khó nỗi yên ngồi,
    Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao.
    Nữ nam muốn rõ âm-hao,
    768. Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 753 đến câu 768)
    -Đức Giáo Chủ cho biết kiếp sống của con người dầu có tạo ra của tiền danh vọng, vợ đẹp hầu xinh hay vật chất thật nhiều đi nữa, nhưng khi nhắm mắt cũng chẳng mang theo được món nào. Thật là:“Chiêm bao cuộc thế chẳng thường còn.”(Cho cô Võ thị Hợi). Duy có nghiệp thiện ác lúc nào cũng đeo sát bên ta, có sức mạnh dắt linh hồn ta đến cõi Diêm đài để được công minh phán xét.
    -Bấy giờ Vua Diêm Vương căn cứ vào nghiệp tội, phước của con người mà quyết định. Hễ ai tạo phước đức được siêu sanh lên cõi Tiên Phật, bằng gây nghiệp tội ác sẽ bị đọa vào các cảnh giới thấp hèn, chịu muôn ngàn thảm khổ. Đến đấy, dù ta có hối hận ăn năn những hành động tội ác quá khứ hay muốn tìm phương sửa đổi cũng không thể kịp.
    -Chi bằng ngay bây giờ, chúng ta nên hồi tâm giác tỉnh, nương theo con đường Đạo pháp của Tổ Thầy đã vạch, lo trau sửa thân tâm. Làm lành niệm Phật cho tội quả tiêu mòn, phước hạnh được gia tăng. Đặng vậy, chư Phật mới có thể tiếp độ linh hồn chúng ta“Về Cực lạc thảnh thơi an dưỡng, Ấy là ngày ban thưởng công tu.”(Cho Ô. Cò Tàu Hảo), không còn bị luân chuyển trong sáu đường luân hồi sanh tử nữa.
    -Trước khi kết thúc đoạn KỆ, Đức Thầy nhắc lại một lần nữa: Vì Ngài chẳng nỡ ngồi yên, nhìn cảnh bi thương, thống khổ, mà cả chúng sanh đang gánh chịu nên cần viết thêm ít lời. Trong đây, Ngài phân tách những gì thấp, cao, tội, phước một cách rành mạch để khắp nữ nam xem coi và nhận xét nếu ai muốn biết sự trạng từ đây sắp tới diễn ra thế nào, hãy sớm tu thân lập hạnh, rồi đến ngày kết cuộc sẽ thấy rõ:
    “Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
    Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
    Coi là coi được Phật được Trời,
    Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
    (Kệ Dân, Q.2)

    CHÚ THÍCH
    THẨM PHÁN: Thẩm vấn và phân xử, quyết đoán. Đức Thầy có câu, trong bài “Đến Làng Nhơn Nghĩa”:
    Cuốn sổ bình sanh công với tội,
    Chờ nơi thẩm phán sẽ cung khai”.
    DIÊM ĐÀI: Đài của Vua Diêm Vương ngự, nơi phân xử tội trạng của người chết (cảnh Địa ngục). Đức Thầy cho biết:
    Ngục môn đầy quỉ vô thường,
    Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng.
    (Tư Tưởng).
    SA ĐỌA: Sa là rơi rụng, đọa là rớt xuống, hư hỏng tội lỗi. Đây chỉ cho những kẻ bình nhựt làm điều tội ác, khi chết bị đọa vào các cảnh giới thấp hèn, như: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh…Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:
    “Đừng có ham lên mặt hùng anh,
    Sa Địa ngục uổng thân uổng kiếp.
    (Kệ Dân, Q.2)
    CHỈN GHÊ: Xem chú thích tại tr. 124, Tập 1/3..
    PHẬT ĐÀNG: Xem: Phật đường, tr.11 Tập 3/3.
    LINH HỒN: Phần khôn biết (tinh thần) trong con người. Mỗi chúng sanh khi chết rồi, tùy theo nghiệp lành, dữ mà linh hồn đi đầu thai để tạo ra thân xác khác, hoặc sanh qua cảnh giới khác.
    Theo Đạo giáo thì mỗi người có ba hồn: Linh hồn, Giác hồn và Mê hồn. Linh hồn là một bửu quang có công năng phán quyết mọi tư tưởng và hành động, ngôn ngữ. Hai bên Linh hồn có Giác hồn và Mê hồn:
    -Mê hồn luôn luôn xúi giục người làm những việc quấy: mê danh, mến lợi, tham chạ dục tình.v.v…
    -Trái lại, Giác hồn thì thanh tịnh nên yếu thế hơn Mê hồn. Vì vậy, nên Linh hồn thường dễ bị Mê hồn cám dỗ theo đường tà quấy. Cho nên người biết tu hành lúc nào cũng phải lấy Linh hồn làm chủ:“Cho linh hồn cai quản châu thân.(GMTK, Q.4), rồi theo Giác hồn mà đạt đến chỗ bất sanh bất diệt (Niết Bàn), tức gom ba hồn hợp lại làm một, để trở về Giác tánh. Như Đức Lục Tổ đã dạy:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả hoán tác linh hồn” (Người đã tỏ ngộ thì gọi là Giác tánh, người chưa tỏ ngộ thì gọi là Linh hồn).
    Đức Thầy cũng khuyên:
    Đem về giác tánh chơn như,
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.
    (Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    DẠI KHÔN LUÂN HỒI: Sáu nẻo luân hồi được chia ra làm hai phần:
    1-phần Thiện (khôn) gồm có ba đường: Trời, Người, A Tu La.
    2-phần Ác (dại) có ba đường: Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục.
    Sở dĩ có luân hồi là do ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý gây ra. Các nghiệp ấy cứ tiếp nối nhau luôn, tạo thành sức mạnh lôi kéo chúng sanh, sau khi mạng chung phải đi đầu thai vào một thân xác khác để đền trả tiền nghiệp hoặc thỏa mãn lòng khát ái; cứ thế mà lên xuống mãi mãi trong sáu đường sanh tử, rất thống khổ.
    Về nghiệp dẫn đi đầu thai gồm có bốn thứ:
    1/-Tích lũy nghiệp: Do các nghiệp tạo trong nhiều đời trước còn chất chứa lại, đợi khi có cơ hội cảm đến là nghiệp lực ấy dẫn đi đầu thai.
    2/-Tập quán nghiệp: Do các nghiệp tạo trong đời hiện tại cứ tiếp tục mãi thành ra thói quen thường mơ màng tưởng tượng đến, nên nghiệp lực ấy dẫn đi đầu thai.
    3/-Cực trọng nghiệp: Do các nghiệp tạo quá nặng (mạnh) nên khi tâm niệm vừa máy động là nghiệp lực ấy dẫn đi đầu thai.
    4/-Cận tử nghiệp: Do nghiệp tạo lúc gần lâm chung như: luyến ái, tức giận, buồn khổ…quá mãnh liệt nên khi chết rồi là nghiệp ấy dẫn đi đầu thai.
    Còn phần tạo nghiệp và thọ báo của mỗi chúng sanh không giống nhau cứ tùy nghiệp mà đầu thai và tùy nghiệp mà thọ báo. Như ai phạm mười điều ác quá nặng và tội ngũ nghịch thì sanh vào Địc ngục; (Tội Ngũ nghịch: Giết cha, giết mẹ, giết bậc A La hán, làm cho thân Phật chảy máu, phá sự hòa hiệp của chúng Tăng.) còn phạm mười điều ác mà lòng tham lam nặng thì sanh vào Ngạ quỉ; cũng phạm mười điều ác mà lòng mê si nặng thì đầu thi vào Súc sanh.
    Khi vào con đường súc sanh cũng tùy nghiệp mà thọ báo hình loại khác nhau, như trong “Cu Xá Luận” có nói:“Kẻ dâm dục quá thì sanh làm bồ câu, se sẻ, oan ương; Kẻ sân nộ quá thì sanh làm rắn rít; Kẻ ngu si quá thì sanh làm heo, dê, trai, hến; Kẻ kiêu mạng quá thì sanh làm cọp, beo, sư tử; kẻ giễu cợt quá thì sanh làm khỉ vượn; Kẻ keo kiệt và tật đố quá thì sanh làm chó đói”.
    Đó là phần Ác nghiệp, còn phần Thiện nghiệp: Nếu người tu được mười điều lành thì đặng sanh về cõi Trời; làm được năm điều lành thì sanh vào cõi Người; làm mười điều lành, nhưng lòng còn nóng giận, nhân ngã, tật đố thì sanh về cõi Thần (A Tu La).
    Sự đầu thai nói trên, tuy rằng: Khôn dại, vui khổ có khác, song cũng đồng nằm trong luân hồi sanh tử; chỉ có từ bực A La Hán trở lên mới khỏi vòng luân hồi trong Lục đạo.

    CHÁNH VĂN
    769. Ngôn-từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
    Hạnh đức ân-cần rán tập chuyên.
    Thất-tổ cửu-huyền nơi chín suối,
    772. Mỉa-mai xa lánh sáu đường duyên.
    VÔ-thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
    DANH-ngôn chép để rạch đàng Tiên.
    CƯ-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn,
    776. SĨ xuất văn-từ dốc dạy khuyên.

    NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
    ( tam niệm )
    NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 769 đến câu 776)
    -Đến đây, Đức Giáo Chủ viết hai bài thi tứ cú để kết luận quyển Khuyến Thiện:
    Hai câu 1 và 2 của bài thơ thứ nhứt khuyên rằng những lời lành lẽ đạo, Ngài đã luận giải trong đây, mỗi tín đồ phải để tâm ghi nhớ và chuyên cần tu tập. Cả hai phương diện tâm đức và hạnh nết, luôn trau sửa và lọc lừa để được hiền hòa ngay chánh:

    Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.

    (Sấm Giảng, Q.3).
    -Câu 3 và 4: Ngài cho biết nếu hành giả tu tiến được như trên, tức Ông Bà Cha Mẹ đã quá vãng từ vô lượng kiếp, dù ở nơi Địa ngục hay bất cứ cảnh giới nào cũng lần lượt đặng siêu thăng và chẳng còn phải luân chuyển trong sáu đường sanh tử:Cửu Huyền Thất Tổ Diêm la thoát hình.(Khuyến Thiện Q.5).
    -Bài thi thứ nhì, Ngài viết lối khoán thủ cách cú, xem dọc xuống sẽ thấy bốn chữ đầu của mỗi câu là “VÔ DANH CƯ SĨ”, biệt hiệu của Đức Thầy, và Ngài cũng có ý nêu hạnh tu tại gia cho mỗi tín đồ y cứ theo đó mà trì hành. Nghĩa là chỉ xuất gia (giải thoát) bằng nội tâm chớ không chấp xuất gia nơi hình thức.(Ra khỏi nhà cửa Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới).
    -Câu 1 của bài thi nầy, Đức Giáo Chủ cho biết: Giáo Pháp của Phật cao thượng không có gì cao bằng và sâu kín mầu diệu không có chi so sánh hay diễn tả cho hết được. Mà xưa kia Đức Phật đã dĩ tâm ấn tâm, dụng ý truyền ý cho Tổ Ca Diếp và qua 33 vị Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Rồi thời gian trước đây trên 100 năm có Đức Phật Thầy Tây An ra đời (1807-1856) cũng đã đắc truyền Chánh pháp ấy, như Ngài từng viết:Thọ truyền mối Đạo Thích Ca, Màu thiền tâm ấn phép nhà nhiệm thay!” Hôm nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng đã chứng thọ tâm truyền cái Tâm ấn Thiền Tông nói trên.
    -Câu 2: Vẫn biết chánh pháp vô vi lìa cả văn từ ngôn ngữ và mọi hình thức, nhưng vì lòng từ bi cùng có trách nhiệm thị hiện độ đời, nên Đức Giáo Chủ phải tạm dùng lời Kệ giảng mà Khai thị con đường siêu thoát (Đạo) để phương tiện tiếp đưa chúng sanh ra khỏi rừng mê khổ.
    -Câu 3: Đức Thầy nói rõ từ trước Ngài cũng tu Pháp Tịnh Độ với hạnh tại gia và đã chứng đắc hoàn toàn (Giác hạnh viên mãn), tức đạt được “Tịnh độ tự tâm, Di Đà tự tánh”.
    -Câu 4: Nay vì muốn rộng độ các tầng lớp nhân sinh nên Ngài phải mượn văn từ viết ra Kinh Sấm, khuyến hóa mọi người chuyên tâm làm lành niệm Phật (Tịnh độ) để được kết quả như Ngài.
    -Đại lược bài thi khoán thủ trên đây, thấy rằng Đức Giáo Chủ PGHH đã đắc thọ tâm truyền cả hai Giáo pháp Thiền Tông và Tịnh Độ. Nay vì có bổn phận khai hóa chúng sanh giữa thời mạt pháp, nên Ngài chuyển kiếp tạm dùng Kinh Giảng khai sáng Đạo mầu, giác tỉnh quần sanh, song tu Thiền Tịnh hầu tiến đến Niết bàn, Cực lạc, thoát vòng sanh tử luân hồi.

    CHÚ THÍCH

    NGÔN TỪ: Lời nói hay văn tự, cũng có nghĩa là lời lành. Ý dùng văn chương để diễn tả lời lành ý Đạo. Đây chỉ cho lời Kinh Giảng của Đức Thầy.
    ĐẠO HẠNH: Xem chú thích: tr. 160, Tập 1/3.
    HẠNH ĐỨC: Xem chú thích: “Đức hạnh”, tr. 111, Tập 2/3.
    ÂN CẦN: Xem chú thích: tr. 230, Tập 2/3.
    THẤT TỔ CỬU HUYỀN: Xem chú thích: tr. 117-118, Tập 1/3.
    CHÍN SUỐI: Do chữ cửu tuyền. Tương truyền dưới cõi âm phủ có chín cái suối. Cho nên trong văn chương thường dùng chữ chín suối hay cửu tuyền để chỉ cho cõi âm phủ (Địa ngục):“Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”(Truyện Kiều).
    MỈA MAI: Mang máng, hơi giống. Các loài chim người ta nuôi đem lột lưỡi, dạy nói tiếng người, ban đầu còn mang máng (hơi giống) nhưng sau rồi cũng nói được rõ ràng: “Con oanh tập nói trên cành mỉa mai”(Truyện Kiều). Ở đây ý nói việc chắc chắn sẽ được như vậy, nghĩa là người tu khi hạnh đức đầy đủ (chứng đạo) thì cứu được Cửu Huyền Thất Tổ thoát khỏi luân hồi:“Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu Huyền thăng”.
    SÁU ĐƯỜNG DUYÊN: Tức sáu đường luân hồi. Bởi tùy theo nhân duyên tạo tác của mỗi người mà khi chết linh hồn phải sanh vào sáu cõi: Trời, Người, A Tu La, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục.
    VÔ THƯỢNG THẬM THÂM: Vô thượng, Phạn ngữ :Anouttara, phiên âm là A-bạt đa-la, A-nậu đa-la. Có nghĩa: Cao hơn hết, cao không có gì cao hơn, trên không có chi trên bằng. – Vô thượng dùng chỉ cho trí đức, quả vị hay pháp giáo…Thậm thâm là rất sâu kín mầu nhiệm. Đức Thầy từng viết:Chữ thậm thâm trong Kinh Phật giáo.(GMTK, Q.4).
    Vô thượng thậm thâm” ở đây chỉ cho chánh pháp, đọc đủ là “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”. Có nghĩa: Giáo pháp của Phật rất thâm sâu, mầu diệu không có chi sánh bằng. Kinh Tịnh Danh bảo:“Pháp vô hữu tỷ, vô tương đãi cố.”(Diệu pháp không có chi sánh, cũng không có gì tương đối được). Đây gọi là Chánh pháp vô vi. Đức Thầy từng nói, trong bài “Cho Ô. Tham Tá Ngà”:
    Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
    Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”

    Và: “Xả thân tầm Đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.

    (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
    Các Kinh xưa mỗi đầu quyển đều có bài Kệ khai Kinh:
    Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
    Bá thiên vạn ức nan tao ngộ,
    Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
    Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa”.

    (Chánh pháp cao sâu rất diệu mầu,
    Trăm nghìn muôn kiếp dễ tìm đâu.
    Nay con nghe thấy chuyên trì niệm,
    Nguyện tỏ Như Lai đạt ý mầu).
    DĨ Ý TRUYỀN: Lấy ý mà truyền ý, dụng tâm mà ấn tâm. Đây chỉ cho cái “Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm”. Pháp Bửu Đàn Kinh có giải Chánh pháp nhãn tàng là thanh tịnh Pháp nhãn tức là tâm đức của Phật. Tâm nầy thấy và hiểu suốt Chánh pháp nên gọi là Chánh Pháp Nhãn. Sâu rộng và hàm chứa muôn đức, nên gọi là Tàng. Kinh Pháp Hoa gọi là “Phật Tri Kiến”.
    Niết Bàn Diệu Tâm là bản thể của Phật tâm. Tâm thể vắng lặng nên gọi là Niết bàn; không thể đo lường và phân biệt được nên gọi là diệu. Chánh Pháp Nhãn nầy, xưa Đức Phật đã truyền qua 33 vị Tổ mà nay Đức Giáo Chủ cũng được chứng thọ.
    Bởi cái tâm ấn nầy không thể dùng lời lẽ văn tự mà giảng luận hay truyền thọ; khi nào tâm của hành giả được hoàn toàn thanh tịnh, đồng hòa với thể tánh (Phật) thì Phật và chư Tổ mới dùng tâm ý mà ấn truyền cho.
    DANH NGÔN: Lời nói hay, có ý nghĩa và luôn được truyền tụng, người ta thường lưu nhắc để răn đời. Ở đây ý nói Đức Giáo Chủ phương tiện dùng văn tự, ngôn ngữ luận truyền giáo lý pháp môn để giác tỉnh người đời.
    RẠCH ĐÀNG TIÊN: Rạch là vạch ra, đàng Tiên là con đường về cảnh Tiên. Đàng Tiên ở đây chỉcon đường siêu thoát, đối với nẻo tục. Đức Thầy có câu:
    Dạy cho trần thế phỉ tình,
    Đàng Tiên cõi tục phân minh hai đường”.

    (Sám Giảng Q.3)
    CƯ GIA: Nói cho đủ là cư sĩ tại gia hay tại gia cư sĩ. Có nghĩa: người tu Đạo Phật, nhưng ở tại nhà (Xem thêm phần Tiêu Đề Q.5, Tập 3/3).
    TÂM VIÊN MÃN: Tâm tròn đầy sáng suốt. Đây chỉ cho người tu Phật đã chứng đắc hoàn toàn. Chính nó là một trong ba giác: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn.
    Qui Sơn Cảnh Sách có chép:“Tam giác viên minh, cố xưng vi Phật: Nhứt giả tự giác, ngộ tánh chơn thường, liễu hoặc hư vọng, Nhị giả giác tha, Vận vô duyên từ, độ hữu tình giới. Tam giả giác hạnh viên mãn: cùng nguyên cực để, hạnh quả viên cơ.”(Ba giác tròn sáng cho nên xưng là Phật. Ba giác là 1. Tự giác: Tự mình tỏ ngộ tánh chơn thường, hết sự mê lầm dối gia. 2. Giác tha: Đem lòng từ vô duyên độ cõi hữu tình. 3. Giác hạnh viên mãn (Biết cùng nguồn tận đáy, hạnh mãn, quả tròn vậy).
    VĂN TỪ: Văn chương, dùng chữ nghĩa diễn tả lời lẽ, ý tứ mà mình muốn nói. Đây chỉ cho việc Đức Thầy dùng giấy mực viết ra Kinh Giảng để khuyên người tu hành.
    NAM MÔ: Xem chú thích tại tr. 81, Tập 1/3.
    BỔN SƯ: Ông thầy căn bản. Theo Phật giáo thì tôn Đức Thích Ca Như Lai là vị thầy căn bản (cội gốc). Vì Ngài là đấng Giáo Chủ khai sáng Đạo Phật.
    THÍCH CA: Xem chú thích tại tr. 113, Tập 2/3.
    MÂU NI: Phạn ngữ:Mouni, phiên âm là Mâu-ni, dịch là Tịch-mặc. Có nghĩa: lặng lẽ trong sáng. Tuy làm các hạnh lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên trong sạch, không hề xao động hay thiên chấp.
    Kinh Di Đà Sớ Sao có giải chung bốn chữ Thích Ca Mâu Ni trong hai nghĩa sau:
    1/-“Nhứt giả đối đãi thuyết: Tắc năng giả thiện quyền phương tiện, khúc trực cơ nghi. Nhơn giả trí đức hồng ân phổ triêm vạn loại thị đại bi lợi vật. Tịch tắc trừng nhiên bất động, đốn tức vạn duyên. Mặc tắc mạc nhi vong ngôn, vĩnh ly hy luận, thị đại trí minh lý giả”.
    (Một là theo nghĩa đối đãi thì năng là khéo dùng phương tiện chiều uốn thích hợp với căn cơ của chúng sanh. Nhơn là trí đức hồng ân thấm nhuần khắp muôn loài, đó là lòng đại bi lợi vật. Tịch là lắng lặng không động, dứt bặt muôn duyên. Chữ mặc là bặt vậy quên lời, hằng rời hý luận, ấy là đại trí hợp với chơn lý vậy).
    2/-“Nhị giả viên dung khuyết: Dĩ bi tức tri cố, chung nhựt độ sanh, vô sanh khả độ, động nhứt tịnh giả. Dĩ trí tức bi cố; bất khởi nhứt niệm, năng độ chúng sanh tịnh bất động giả. Cố tri thiên cử nhị tư, nãi chí nhứt ngôn; Phật chi toàn đức; nhíp vô bất tận.”(Hai theo nghĩa viên dung: Do vì Trí tức là Bi, nên trọn ngày độ sanh mà không có tướng chúng sanh nào khá độ, đây tức là động mà tịnh vậy. – Do vì Trí tức là Bi, nên chẳng khởi lên một mảy niệm mà thường độ chúng sanh, đây tức là tịnh mà động vậy. Cho nên biết rằng chỉ nói hai chữ bi và trí nhẫn đến một lời, thì toàn đức của Phật đều gồm được hết).
    PHẬT: Xem chú thích: tr. 65, Tập 1/3.
    A DI ĐÀ PHẬT: Xem chú thích: tr. 136, Tập 1/3./.

    QUYỂN THƯỢNG
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     
    Sửa lần cuối: 18/1/15

Chia sẻ trang này