Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ “GIÁC MÊ TÂM KỆ” (Quyển tư) Của Cư Sĩ Thiện Tâm

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 15/1/15.

  1. Buile

    Buile Member


    Chú Giải
    Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ
    GIÁC MÊ TÂM KỆ
    (Quyển Tư)
    Của Cư Sĩ Thiện Tâm

    XUẤT XỨ - VĂN THỂ

    Đây là quyển thứ tư, trích trong phần nhất Sấm Giảng Giáo Lý trong Thi Văn Giáo Lý Toàn bộ. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã sáng tác vào ngày 20 thánh 9 năm Kỷ Mão (1939), lúc Ngài còn ở Tổ Đình Thánh Địa Hòa Hảo.
    Ngài viết lối văn vần, thể thất ngôn trường thiên, loại thuyết giáo, dài 846 câu, khởi đầu bằng câu;
    Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện
    Và chấm dứt bởi câu:
    Mong bá tánh vạn dân giải thoát”.

    TIÊU ĐỀ

    Trước khi đi sâu vào nội dung quyển thứ tư, chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa bốn chữ “Giác Mê Tâm Kệ” mà Đức Thầy dùng đặt cho tiêu đề.
    Giác Mê là tỉnh biết sáng suốt, hết mê lầm. Theo Phật học thì Giác có hai phần:
    -Tỉnh ngộ thấy ra những điều quấy ác để trừ dứt gọi là Giác sát.
    -Tự khai ngộ được chân lý để nương theo gọi là Giác ngộ. Cho nên Giác là danh từ chỉ cho bậc Phật (giác ngộ) đối với chúng sanh (mê lầm).
    Hiểu chung hai chữ Giác Mê là Đức Thầy thức tỉnh kẻ còn mê lầm tăm tối.
    Tâm Kệ là quyển Kệ dạy hành giả tu ngay tâm để kiến tánh thành Phật. Cũng như quyển Tâm Kinh của Đức Bổn Sư Thích Ca và quyển Giác Mê của Đức Phật Thầy Tây An trước kia.
    Vậy quyển Giác Mê Tâm Kệ nầy có ý nghĩa Đức Giáo Chủ khuyên dạy môn đồ các phương pháp sửa đổi tâm chúng sanh để trở thành tâm Phật. Bởi Phật hay chúng sanh cũng do tâm mình tạo nên, như Ngài đã bảo:
    “Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó.
    Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,
    Nếu lặng tâm tỏ ngộ đạo mầu”.


    NỘI DUNG

    Đại ý trong đây Đức Thầy nhắc lại Đức Thích Ca xưa kia vì nghiệm xét bốn nỗi khổ của mỗi chúng sanh, nên lìa bỏ cung vui, vợ đẹp con ngoan để ra đi tầm Đạo cứu đời. Nay Đức Thầy khuyên các giới nhân sanh hãy noi theo gương ấy mà giác tỉnh tu hành.
    Về phương cách tu Ngài dạy: Trước nhứt hành giả phải lánh xa lối sống đam mê trụy lạc, tức tửu sắc tài khí và chiến thắng tam bành lục tặc; lấy tâm làm chủ 6 căn đừng để ô nhiễm 6 trần. Đồng thời hãy nghiệm xét Tứ Diệu Đề, trì hành Bát Chánh Đạo, chuyên hành Bát Nhẫn và phá tan Ngũ Uẩn để đạt đến lý “sắc không”, Chân Như Thật Tướng.

    BỐ CỤC

    Quyển Giác Mê Tâm Kệgồm có ba phần chánh và nhiều tiểu đoạn.
    I.- Phần nhứt, cũng là phần khai đề, Đức Giáo Chủ cho biết vì lòng từ bi Ngài lâm phàm tại miền Nam nước Việt; dùng trí siêu mầu giác tỉnh chúng sanh sớm nương về nẻo thiện. Từ câu 1- Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện”, tới câu 4- Đặng chỉ ngỏ làm lành lánh dữ”.
    II.- Phần nhì, cũng là phần chánh đề, Đức Giáo Chủ vừa khuyên tu, vừa khai triển các pháp tu tự lực cứu cánh (Thiền Tông). Nhứt là hành giả phải chủ yếu về nội tâm, bởi vạn vật trong thế gian, từ Địa ngục, Thiên đường hay Niết Bàn, Cực Lạc, đến Phật ma, Thần Thánh đều do tâm mình tạo ra cả:
    Địa Ngục cũng tại tâm làm quấy,
    Về Thiên đàng tâm ấy tạo ra…”

    Vậy hành giả muốn an cư nơi cảnh giới nào hay tiến đến địa vị nào cũng do tâm mình tạo nên.
    III.- Phần ba, cũng là đoạn kết, Đức Thầy ân cần dặn bảo: Những phương thức Ngài dạy trong quyển Giác Mê Tâm Kệsẽ giúp cho hành giả đạt đến chỗ an cư thanh tịnh. Những gì quí báu của đất nước Việt Namsau nầy, còn tiềm ẩn trong đỉnh núi nhà Nam (Thất Sơn) ai muốn trông thấy phải gắng công bền chí tu hành. Lời khuyên nhủ của Ngài là vì lòng từ bi, mặc tình cho người đời có khen chê Ngài cũng không màng kể, miễn sao cho khắp bàn nhân bá tánh đều được giải thoát an vui là Ngài thỏa nguyện. Từ câu (837):Ra kệ nầy hai chữ bảo an, cho đến câu (846)Mong bá tánh vạn dân giải thoát”.

    CHỦ ĐÍCH

    Chủ yếu quyển Giác Mê Tâm KệĐức Thầy dạy môn đồ học Phật và tu Phật, chuyên về các pháp tu tự lực Thiền Tông, từ tiệm tu đến Đốn Ngộ đều có đầy đủ, tức là từ Diệt lục căn đừng nhiễm lục trầnđến chỗ đạt được lý “sắc không”. Từ chỗ trì hành Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, đến chỗ “Giữ tấm lòng bất động như như”, và Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 01 tới câu 64)
    1.-Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,
    Tìm con lành dắt lại Phật đường.
    Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương,
    4.-Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 đến câu 04)
    Mở đầu quyển “Giác Mê Tâm Kệ” Đức Giáo Chủ cho biết: Vì lòng từ bi Ngài lâm phàm, khai Đạo cứu dân tại miền Nam nước Việt. Ngài dùng trí tuệ siêu mầu viết ra Kệ Giảng, vạch rõ con đường Phật Đạo để thức tỉnh những ai có căn lành, sớm giác ngộ tu hành, cải ác tùng thiện.

    CHÚ THÍCH

    GIÁC MÊ: Giác là tỉnh biết sáng suốt, hết mê lầm. Theo Phật học thì GIÁC có hai phần:
    -Tỉnh ngộ thấy ra những điều quấy ác để trừ dứt gọi là Giác sát.
    -Tự khai ngộ được chơn lý để nương theo gọi là Giác ngộ.
    Cho nên Giác là danh từ để chỉ cho Phật (Giác ngộ), đối với chúng sanh (Mê lầm).
    Mê là tối tăm lầm lạc. Nói chung, Giác Mê là thức tỉnh kẻ còn mê lầm tăm tối.
    TÂM KỆ: Quyển Kệ dạy hành giả tu ngay tâm để kiến tánh thành Phật. Như quyển “Tâm Kinh” của Đức Bổn Sư Thích Ca và quyển Giác Mê của Đức Phật Thầy Tây An trước kia.
    Vậy, quyển Giác Mê Tâm Kệ nầy, Đức Giáo Chủ khuyến dạy môn đồ về các phương pháp sửa đổi tâm chúng sanh để trở về với tâm Phật. Bởi Phật hay chúng sanh cũng đều do tâm mình tạo nên, như Ngài đã bảo:
    Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó.
    Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,
    Nếu lặng tâm tỏ ngộ đạo mầu”.

    (Giác Mê Q.4)
    KHAI NGỌN ĐUỐC: Mở rộng ánh sáng trí tuệ. Ý nói Đức Thầy dùng trí huệ viết ra kệ giảng, soi đường dẫn lối cho kẻ tu hành, như Ngài thường cho biết:“Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.(Khuyến Thiện, Q.5)
    TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, T-1, bài Sứ Mạng).
    CHÍ THIỆN: Đến tột chỗ lành, trọn lành.
    Sách Thánh có câu:Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”.( Đạo của bậc đại học, cốt làm sáng cái đức của mình, rồi làm cho dân được mới và đạt đến chỗ trọn lành).
    PHẬT ĐƯỜNG: Nhà Phật, là nghiã của chữ Đạo Phật (con đường về Phật). Đức Thầy có câu:
    Đạo là vốn thiệt cái đường”.
    Và:
    Chốn Phật đường rán trau đức hạnh,
    Phải bền lòng mới rảnh trần ai”.

    (Sa Đéc)
    GIÁO ĐẠO: Dạy Đạo, khai truyền Đạo pháp giáo hóa chúng sanh.
    NAM PHƯƠNG: Cũng gọi là phương Nam. Có nghiã là hướng Nam, đây ám chỉ nước Việt Nam. Cũng có nghĩa cõi Nam Diêm Phù Đề, tức Nam Thiệm Bộ Châu, một trong 4 châu lớn ở cõi Ta bà. Đức Thầy từng cho biết:
    Cõi trung ương luân chuyển phương Nam,
    Mở hội Thánh chọn người trung hiếu”.

    (Diệu pháp Quang Minh)

    CHÁNH VĂN
    5.-Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự,
    Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
    Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
    8.-Nên tật xấu che mờ thiện-tánh.
    Thiếu giáo-dục thiếu thêm đức-hạnh,
    Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa.
    Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa,
    12.-Rừng kinh-kệ ít người hay chữ.
    Quá mắc-mỏ bởi chưng Phạn-ngữ,
    Nên người đời khó kiếm cho ra.
    Mõ chuông bày đọc tụng ó la,
    16.-Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa-lý.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 05 đến câu 16)
    -Đoạn nầy, Đức Thầy cho biết trong sách “Tam Tự Kinh” của Đạo Thánh có dạy: Nguyên bản của con người trước kia đều có tánh hiền lành cả, tánh ấy đồng một thể chất với trời Phật. Song vì một tích bất giác mà tạo nghiệp luân hồi, làm thân chúng sanh. Lúc mới chào đời, tâm tánh con người rất hồn nhiên nên chưa biết ham muốn, lần lần lớn lên tập nhiễm theo xã hội chung quanh rồi đắm mê danh lợi, sắc tài, hành động những điều xấu xa tội ác, khiến tánh thiện bị lấp vùi.
    -Nếu con người không được sự khuyên dạy Đạo đức thì biết đâu để rèn luyện tâm xấu, trở lại tâm tốt. Do đó, Đức Thầy dốc lòng nhắc nhở mọi người, hãy nhớ lại tánh thiện Giác của mình trước kia. Và trên con đường thức tỉnh bá gia của Ngài, dù cho người đời có chê bai hay ưa ghét cũng mặc.
    -Xưa kia, Đức Phật thuyết dạy kinh pháp nhiều như rừng, như bể, song thời nay số người xem, được liễu ngộ ý nghiã thì chẳng có là bao. Bởi các Đại đệ tử của Ngài chép lại toàn bằng chữ Phạn. Tuy chư Tổ, chư Sư có phiên dịch ra Hán ngữ hoặc Việt ngữ; nhưng phần đông người lo tu tụng tán hê hà trên mặt văn tự, chớ ít có người thấu suốt được nghĩa lý trong đó để thực hành theo.

    CHÚ THÍCH
    THÁNH ĐẠO: Đạo của Thánh nhân, ở đây ám chỉ Nho giáo, một nền Đạo do Đức Khổng Tử san định có hệ thống, học thuyết kỷ cương. Sau đó môn đồ của Ngài và Mạnh Tử tiếp tục phổ truyền. Chủ yếu khuyên dạy người đời tu tròn “Nhân Đạo” rèn luyện các đức tánh tốt đẹp, để trở thành bậc Hiền nhân Quân tử. Đức Thầy từng khuyên:
    “Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,
    Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người”.

    TAM TỰ: là quyển “Tam Tự Kinh” của Mạnh Tử làm ra, sách viết với lối văn mỗi câu ba chữ. Khởi đầu bằng những câu:“Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện, tánh tương cận, tập tương viễn, cẩu bất giáo, tánh nãi thiên…”(Con người từ thuở sơ khai tâm tánh vốn hiền lành, song vì sanh ra và lớn lên, lần lần tập nhiễm mọi tánh xấu xung quanh, nếu thiếu giáo dục tánh Thiện ấy bị đổi dời theo các thói xấu).
    TÁNH THIỆN TRỜI DÀNH: Tánh lành sẵn có từ trước, đồng với bản thể của chư Phật.
    TÂP NHIỄM: Nhuộm quen. Cũng như một vật chi đem nhuộm lâu ngày sẽ nhuốm lấy màu nhuộm ấy.
    LỢI DANH: (Xem CT đoạn 5, T-1, bài Sứ Mạng)
    GIÁO DỤC: Dạy dỗ rèn luyện.
    ĐỨC HẠNH: (Xem CT câu 384, T-2, Q.2).
    TÁNH XƯA: Tánh cũ của mỗi người lúc ban sơ. Từ vô thỉ mỗi chúng sanh đều có tánh hiền lành như nhau cả, song vì vọng niệm mê lầm mà phải luân hồi sanh tử. Từ đó tâm tánh bị chôn vùi dưới lớp vô minh phiền não, nên gọi là che mờ.
    Xưa , Ngài Mạnh Tử có dạy:“Ai tai ! Nhơn hữu kê khuyển xả nhi tắc tri cẩu chi, hữu phóng tâm nhi, bất tri cầu”.(Rất thương thay cho người đời. Mất những vật nhỏ mọn như: đồng xu, cắc bạc, gà, chó…Chẳng xứng đáng chi mà họ còn biết tìm kiếm; huống chi cái tâm là vật quí giá vô cùng: làm hiền nhân quân tử cũng nhờ tâm. Thế mà người đời lại bỏ cái tâm của mình không biết tìm cầu). Cho nên Ngài bảo:“Học vấn chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỷ”.(Người học vấn đạo lý chỉ có cái mục đích là tầm lại cái lương tâm thất lạc của mình).
    Hôm nay, “…quyết nhắc lại tánh xưa”, là Đức Thầy bảo mỗi người hãy tìm cái tâm tánh vốn lành của mình khi trước, như trong bài “Đến làng Nhơn Nghĩa”:
    Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
    Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.

    GIÈM SIỂM: (Xem CT câu 320, T-1, Q.1).
    KINH KỆ: (Xem CT câu 259, T-1, Q.1).
    PHẠN NGỮ: Tiếng Phạn, thứ chữ của dân tộc Ấn độ, dùng chép lại ba Tạng kinh của Phật. Có hai thứ chữ Phạn:
    1.- Nam Phạn (Pali). Phật giáo nguyên thỉ (Tiểu thừa) dùng thứ chữ nầy chép Kinh, truyền về miền Nam Ấn, rồi qua Tích Lan, Xiêm, Miến Điện, Miên.v.v…
    2.- Bắc Phạn (Săncerit). Phật giáo Đại thừa thì dùng thứ chữ nầy chép kinh truyền khắp miền Bắc Ấn, rồi sang Trung Hoa, Nhựt Bổn, Cao Ly, Việt Nam…

    CHÁNH VĂN
    17.-Dòm trước mắt thấy điều hồ-mị,
    Nên động tình bác-ái dạy răn.
    Réo những ai lợi dụng làm xằng,
    20.-Cho suy-sụp chơn-nhơn mờ-mịt.
    Nào có khác mây đen phủ bít,
    Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây.
    Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây,
    24.-Trong bổn-đạo tự thân phải xử.
    Xuống dương thế dạo trong lê-thứ,
    Thấy bá-gia gặp lúc não-nùng.
    Cảnh trần-gian nhiều nỗi lao-lung,
    28.-Việc tu tỉnh ít người hiểu lý.
    Trong bá tánh muốn nơi cao quí,
    Phải truy tầm huyền-bí nơi cơ.
    Từ sấm kinh cho đến thi thơ,
    32.-Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 17 đến câu 32)
    -Đức Thầy thấy trong giới tu hành hiện nay bày lắm trò giả dối, để lợi dụng lòng tín ngưỡng của thiện tín, nên Ngài rộng lòng thương xót, kêu gọi họ sớm chừa bỏ những điều xằng xiên không đúng chơn lý.
    -Nếu họ chẳng sớm ăn năn hối cải thì chơn nhơn sẽ bị lấp vùi u tối, màn vô minh ngày càng thêm dày bịt, che mờ cả trí huệ, rồi mãi dắt nhau vào con đường sai lầm tội ác. Vậy từ đây trong bổn đạo, ai cũng phải tự mình lo tu thân lập hạnh, điêu luyện khối tinh thần cho cứng mạnh, để phá tan màn vô minh vọng hoặc, lần bước theo ngọn đèn chơn lý.
    -Đức Giáo Chủ xuống trần dạo khắp các nơi, nhận thấy lê dân đang gặp hồi thảm não, muôn ngàn sự lao lý khổ sầu dồn tấp tới. Thế mà việc tu hành thoát khổ, ít có người thông rành nghĩa lý.
    -Do đó Đức Thầy khuyên bá tánh, ai muốn gặp nơi an lành cao quí, hãy mau nghiên cứu suy tầm những lẽ mầu nhiệm trong Sấm Kinh của Ngài đã dạy. Vì trong ấy có hàm chứa luật cơ mầu biến chuyển của trời đất và yếu pháp tu hành.

    CHÚ THÍCH

    HỒ MỊ: Dùng thủ đoạn xảo quyệt gạt người, hoặc tán tỉnh, nịnh hót làm kẻ khác say mê.
    BÁC ÁI: (Xem CT đoạn 6, T-1, Bài Sứ Mạng).
    CHƠN NHƠN: Cũng gọi là chơn thân, pháp thân hay chơn không, tánh nó vốn thường trụ, bất biến. Người chứng ngộ được chơn lý gọi là chơn nhơn; là bậc Thánh A La hán. Cho nên chơn nhơn đối với tánh phàm trần. Đức Thầy từng dạy:(Giác Mê, Q.4)
    Lấy chơn nhơn dẹp tánh phàm trần,
    Mới có thể mong về Cực Lạc”.

    NÃO NÙNG: Buồn thảm, xót xa đau đớn.
    LAO LUNG: Cái chuồng hay cái lồng để nhốt thú. Đây chỉ cho sự kềm hãm, trói buộc, khổ sở, mất tự do.
    TRUY TẦM: Theo dõi để tìm hiểu.
    HUYỀN BÍ: Sự mầu nhiệm bí ẩn, sâu kín.
    SẤM KINH: (Xem CT chữ Sấm trong Tiêu đề Q.1 và chữ Kinh trong câu 259, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    33.-Tạo làm chi những trung với hiếu !
    Ấy là người bổn-phận phải trau.
    Khuyên dương-trần đừng nệ cần-lao,
    36.-Cũng rán sửa rán trau nền Đạo.
    Tu đầu tóc không cần phải cạo,
    Miễn cho rồi cái đạo làm người.
    Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,
    40.-Vì buồn bực thấy đời biến chuyển.
    Các chư Phật từ đây lựa tuyển,
    Coi ai là đức-hạnh hiền-từ.
    Lời sách xưa cận thủy tri ngư,
    44.-Cận sơn lãnh trần-gian tri điểu.
    Trong sấm-giảng nếu ai không hiểu,
    Tầm kệ này Ta chỉ nẻo đường.
    Quyết dạy trần nên nói lời thường,
    48.-Cho sanh chúng đời nay dễ biết.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 33 tới câu 48)
    -Sanh trong trần con người có được xác thân là nhờ Tổ tiên cha mẹ; có nơi ăn chốn ở là nhờ đất nước quê hương. Cho nên, việc trung hiếu là điều rất quan trọng, là then chốt của Đạo làm người. Vậy bổn phận của mỗi cá nhân phải lo đền đáp cho tròn vẹn:Hiếu trung lòng chớ vội quên, Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên Đài”.(Khuyến Thiện, Q.5) Còn kẻ tu hành chẳng nên ngại sự khó khăn cực khổ, lúc nào cũng cần chuyên trau sửa đúng theo qui tắc của Đạo mới mong kết quả.
    -Theo Đức Thầy dạy: Việc tu khỏi cần phải trang diện hình tướng bên ngoài, như cạo đầu mặc áo cà sa, bá nạp hay bồ đề chuỗi hột…miễn làm sao thi hành cho được cái Đạo làm người. Ngài Đạo Thanh Hòa Thượng nói:“Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhân Đạo; Nhân Đạo bất tu, Tiên Đạo viễn hĩ”.(Muốn tu đạo Tiên hay Phật, trước phải tu Đạo làm người; nếu Đạo người không tu thì Đạo Tiên hay Phật còn xa lắm vậy).
    -Đức Thầy còn cho biết: Từ đây khắp bá gia sẽ lỡ cười lỡ khóc, bởi cuộc thế bắt đầu chuyển xây biến đổi, để lập lại đời tân:Hoàn cầu trái đất chuyển xây, Gớm ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn.(Viếng làng Mỹ Hội Đông) Và:Phải chuyển xây trái đất một bầu, Đặng lừa lọc con Tiên cháu Phật”.(Sa Đéc)
    -Kể từ nay chư Phật sẽ dạo khắp trần gian để vừa dạy khuyên đạo đức, vừa lọc lừa cứu độ những kẻ hiền lương đức hạnh. Và người xưa từng bảo: Kẻ sống nơi nào thì từng biết tánh tình, nghề nghiệp của con người nơi đó rồi lần lượt tập nhiễm theo. Vậy ai muốn thoát ly cảnh khổ để trở về với Phật thánh thì phải thân cận các bậc thiện trí thức và sống theo hạnh nghiệp của Phật Thánh.
    -Muốn thế, bá tánh cần quay về nẻo Đạo hằng đọc học Kinh Giảng, nếu ai xem qua các quyển Sấm Giảng 1, 2 và 3 mà chưa hiểu được lý nghiã, hãy tìm đọc ngay quyển “Giác Mê Tâm Kệ” nầy, vì trong đây Đức Giáo Chủ dạy rõ con đường tu hành. Bởi muốn rộng độ các tầng lớp nhân sanh nên Ngài dùng văn bình dân giản dị, viết ra Kệ Giảng để mỗi ai khi xem đến đều lãnh hội được ý mầu.

    CHÚ THÍCH
    CẦN LAO: Siêng năng khó nhọc.
    LỜI SÁCH XƯA CẬN THỦY TRI NGƯ, CẬN SƠN LÃNH TRẦN GIAN TRI ĐIỂU: Sách Quảng Hiền Văn có câu:“Cận thủy tri ngư tánh, cận sơn thức điểu âm”.(Gần nước biết tánh cá, Gần rừng núi biết tiếng chim). Ý nói người ở giới nào thì từng trải việc của giới đó, ví như hành nghề ngư nghiệp thì biết tánh cá. Còn thợ săn thì biết rõ tiếng chim kêu và chỗ ăn ngủ của loài chim nào. Việc Đạo đức cũng thế, có tìm cầu tu học, và có gần gũi Thầy bạn tu hành mới mong thâm nhập giáo lý.
    SẤM GIẢNG: (Xem CT Tiêu đề Q.1, tập 1).
    KỆ: (Xem CT câu 259, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    49.-Trời dông gió sái mùa sái tiết,
    Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
    Khuyên dương-gian bỏ các việc tồi,
    52.-Đặng lo liệu cho tròn phận-sự.
    Thấy trần thế hãy còn lưỡng-lự,
    Muốn tu mà còn hỡi chần-chờ.
    Việc thế-gian như thể cuộc cờ,
    56.-Thắng với thối một hai nước tướng.
    Nào Ai có gạt dân nói bướng,
    Mà dương-trần liệu lượng chánh tà.
    Ta mến yêu những kẻ thiệt-thà,
    60.-Nghe cơ-giảng thiết-tha lo-liệu.
    Học đạo-lý như đờn trúng điệu,
    Hoà bản rồi thì cứ làm theo.
    Lũ Tam-Bành trong bụng còn đeo,
    64.-Đoàn Lục-tặc ta mau sớm giết.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 49 đến câu 64)
    Đoạn giảng trên Đức Thầy cho biết thời nay giông gió, nắng mưa, không còn đúng theo mùa tiết như xưa nữa, đó là cơ biến chuyển cõi đời Hạ ngươn sắp đến ngày tận diệt. Thế nên Ngài khuyên bá tánh hãy sớm lo cải sửa những điều xấu xa tội ác và cư xử cho tròn bổn phận làm người.
    -Ngài nhận thấy dân chúng còn phân vân hai nẻo đường đời, Đạo; có lắm kẻ cũng muốn tu, nhưng mãi nay lần mai lựa, e một ngày kia Đến tội rồi mới hối muộn màng”.(Khuyến Thiện Q.5) Xét ra cuộc thế quá mỏng manh, chẳng khác nào bàn cờ tướng, chỉ còn một vài nước chiếu nữa là biết ăn thua.
    -Vì lòng từ bi Đức Thầy mới truyền dạy giáo pháp, chớ nào có dối gạt một ai, thế mà bá gia mãi nghi nan tà chánh. Kẻ nào tánh tình chơn thật, khi nghe đến cơ giảng liền biết lo lắng tu hành thì Đức Phật, Đức Thầy thường gia ân cứu độ.
    -Kẻ học đờn, khi rõ thông nhịp điệu, bài bản, rồi y cứ theo đó rèn tập cho đến khi thành công. Người tu học đạo lý cũng thế, trước phải hiểu rành “Tôn chỉ” và pháp giới của Đạo mình, rồi hành trì đúng theo đó, tất được viên thành Đạo quả. Nhứt là cần diệt trừ các tà dục, phiền não (tam bành) nơi lòng và điều phục sáu con giặc (lục tặc), đừng để nó ô nhiễm sáu trần. Đức Thầy từng dạy:
    Làm cho chúng phục tùng chơn lý,
    Trong sắc thân giám thị lục căn.
    Đừng cho chúng tính lăng quằng,
    Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần”.

    (Cho Ông Cò Tàu Hảo)

    CHÚ THÍCH
    TRỜI GIÔNG GIÓ SÁI MÙA SÁI TIẾT: Theo âm lịch thì mỗi năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Và tám tiết: lập Xuân, Xuân phân; lập Hạ, Hạ chí; lập Thu, Thu phân; lập Đông, Đông chí. Ngoài tám tiết lớn ấy còn có nhiều tiết nhỏ…
    Từ xưa, sự mưa gió đều ăn hợp theo thời tiết, không sai; nhưng ngày nay sự nắng mưa không còn đúng y như trước nữa. Giảng Mười Một Hồi, Ngài Huệ Lựu cũng bảo:
    Xuân hồi thì Hạ mới lai,
    Thu qua Đông lại nào sai đâu là.
    Bây giờ khác thể vậy mà,
    Bốn mùa tám tiết đổi đà chẳng thông
    Thuở nay Đông chót xuống Đông
    Bây giờ Xuân chót Đông hầu lạ thay !”

    LƯỠNG LỰ: Lo hai đường, ngần ngừ, phân vân, không quyết định đường nào.
    CHẦN CHỜ: Dần dừ dây dưa, giải đãi không hăng hái cương quyết. Ví dụ: Cứ chần chờ mãi, không làm phứt cho rồi. Đức Thầy hằng thúc giục:
    Thi tả cảnh bồng lai tại thế,
    Nếu chần chờ e trễ kỳ thi”.

    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    LO LIỆU: Tính trước, sắp đặt việc làm đâu đấy đều song toàn. Đức Thầy từng bảo:
    Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí,
    Đạo đức nhiệm sâu lão khuyến mời”.

    (Tỏ câu Huyền bí)
    HỌC ĐẠO LÝ NHƯ ĐỜN TRÚNG ĐIỆU: Câu nầy ý dạy người học Đạo cũng như kẻ học đờn. Khi thấu hiểu Tôn chỉ và Giáo pháp của Thầy, Tổ đã dạy thì cứ y theo đó mà thực hành cho đến khi thành đạt mục đích.
    TAM BÀNH: Ba món phiền não như ba vị ác thần, gồm có: Bành cư ở đầu, Bành chất ở bụng, Bành kiểu ở tay chơn, hay xúi người làm quấy (có chỗ giải là Bành cư, Bành căn và Bành dục).
    LỤC TẶC: Sáu con giặc, tức là sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sở dĩ gọi nó là con giặc; vì nó hay xúi giục con người đắm nhiễm theo sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, thân sướng và ý dục. Cổ Đức từng nói:Tùng mê chí mê, giai nhơn lục tặc”.(Từ mê đời nầy đến đời sau cũng còn mê, đều bởi sáu tên giặc ấy mà ra).
    Người tu hành có điều phục được sáu căn (lục tặc) không còn ô nhiễm sáu trần, tức đắc được lục thông và tự tại giải thoát.(Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị hiện giả dã).

    CHÁNH VĂN (Từ câu 65 tới câu 132)
    Mài gươm trí cho tinh cho khiết,
    Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không.
    Đức Di-Đà Phật-Tổ ngóng trông,
    Chờ dân-chúng tìm nơi diệt khổ.
    Theo Phật-Giáo từ kim chí cổ,
    Gốc ông cha ta cũng tu-hành.
    Mà ngày nay cứ mãi tranh giành,
    Danh với lợi, của tiền, quyền tước.
    Thấy trần-thế ai ai cũng ước,
    Đời sao không tới phứt cho rồi.
    Nay khổ lao khó đứng khôn ngồi,
    Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn.
    Làm ác đức nhiều điều quanh quẩn,
    Như gà cồ ăn bẩn cối xay.
    Thấy người hiền nói đắng nói cay,
    Sau mới biết thân ai lao khổ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 65 tới câu 80)
    -Sự tu trước nhứt cần trau giồi trí huệ cho tinh minh, để dùng nó diệt trừ các vọng tâm ô nhiễm trần tục, và tánh phân biệt câu chấp bản ngã. Nghĩa là không nên chấp có chấp không hoặc chấp thường chấp đoạn mới đạt được lý chơn không và kiến diện Chơn Như thật tướng. Đức Thầy còn cho biết Đức A Di Đà cùng Đức Phật Tổ, lúc nào cũng mong chờ dân chúng biết tìm con đường thoái khổ.
    -Từ xưa, qua các triều đại: Đinh, Lê, Lý, Trần…
    Ông cha ta đã sùng ngưỡng và phụng hành theo Phật giáo, cũng đã có nhiều vị tu hành chứng quả. Ngày nay, con cháu lại không noi chí Tổ tiên, mãi lo giành giựt lợi danh, quyền tước, gây nên chướng nghiệp, rồi phải chịu luân hồi sanh tử.
    -Thông bịnh của người đời, hễ có gặp tai nạn khổ sầu, thì ai cũng mong ước cho đời mau tới; bởi hiện giờ không chịu nỗi với cảnh lầm than nghèo đói.
    -Còn những kẻ hành động hung ác, sớm muộn gì họ cũng gặt lấy quả đau khổ. Cũng như con gà ăn gạo chung quanh cối xay, chẳng bao lâu phải giáp lại chỗ cũ. Lại nữa, kẻ không ưa Đạo đức, thường dùng đủ lời đắng cay châm biếm người tu, họ có ngờ đâu, sau nầy phải vương mang khổ quả:“ Đừng ham nói đắng nói cay, Cay đắng sau nầy đau đớn sầu bi”.(Sấm Giảng Q.1)

    CHÚ THÍCH
    MÀI GƯƠM TRÍ: Trau giồi trí huệ. Có nhiều cách mài luyện như:“Tùng, văn tư tu”, hoặc hành trì tam học: Giới, định, huệ; hay điêu luyện khối tinh thần cho cứng mạnh, để vẹt phá vô minh phiền não, tức trí huệ hiện bày.
    Sở dĩ ví trí huệ như lưỡi gươm (kiếm) là vì nó có đủ diệu năng, chặt đứt cội phiền não (tham sân si) và giết trừ Thập Tam Ma (thất tình lục dục) Đức Thầy đã nói:Thập Tam ma diệt bằng trí kiếm.(Sấm Giảng Q.1)Hoặc là:“Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp”.(Khuyến Thiện Q.5)
    TINH KHIẾT: Trong sạch, sáng suốt.
    TÂM TRẦN: Lòng dơ bẩn. Ý nói lòng còn ô nhiễm chứa chấp việc trần tục, nhơ xấu danh , lợi, tình.v.v…
    SẮC KHÔNG: Sắc đây là nói hoạn sắc (có), bởi thể của nó vốn là chơn không; cho nên sắc chẳng khác gì không. Vả lại, từ cái chơn không hiện ra các cảnh vật (hoạn sắc), cho nên không chẳng khác gì sắc. Tuy nói là chẳng khác; nhưng hai tiếng của không và sắc vẫn còn. Để khỏi thiên chấp, trong “Tâm Kinh”, Phật có nói:“Sắc tức thị không, không tức thị sắc, sắc bất dị không, không bất dị sắc”.(Hoạn sắc tức là chơn không, chơn không tức là hoạn ssắc; sắc chẳng khác nào không, không chẳng khác nào sắc). Nghĩa là nói ngoài các hoạn sắc không có cái chơn không, mà ngoài cái chơn không cũng không có các hoạn sắc (cảnh vật hữu vị).
    Khi ngộ được lý “sắc không”, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nói:
    Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông,
    Hữu hữu vô vô tất kính đồng.
    Phiền não bồ đề nguyên bất nhị,
    Chân như vọng niệm tổng giai không.
    Thân như huyễn cảnh, nghiệp như ảnh,
    Tâm nhược thanh phong, tính nhược bồng.
    Hựu vấn tử sinh ma dữ Phật,
    Chúng tinh củng Bắc thủy triều Đông”.

    -Như thế, sắc chất và chân không cũng chỉ là một tâm thể như sóng và nước. Vậy câu “kiếm chữ sắc không” là nói thấu đạt cái “bản thể chơn như thật tướng” của chính mình, Đức Thầy từng dạy:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”.(Kệ Dân, Q.2) Và:Sắc không, không sắc chớ lìa xa”.(Tỉnh bạn Trần gian)
    PHẬT GIÁO: (Xem CT câu 153, T-2, Q.2)
    QUANH QUẨN: Luẩn quẩn, vòng quanh rồi trở lại nơi cũ.
    GÀ CỒ ĂN QUẨN CỐI XAY: Con gà ăn chung quanh cái cối xay lúa (xay tay), giáp vòng cũng gặp lại mối đầu. Ý nói kẻ làm ác, sớm muộn gì cũng bị cũng bị quả dữ trả lại (ác lai ác báo)

    CHÁNH VĂN
    81.-Nhớ thuở trước oai-linh Phật-Tổ,
    Phép thần-thông trừ lũ Ma-Vương.
    Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương,
    84.-Tìm đạo-lý hiến cho trần-thế.
    Hiệu Lão-Sĩ ra đời thật-tế,
    Đem lời vàng dạy-dỗ dương-trần.
    Khuyên chúng-sanh khuya sớm chuyên-cần,
    88.-Tìm nguồn-cội diệt-trừ Tứ Khổ.
    Bịnh với Tử từ kim chí cổ,
    Sanh với Già hai chữ hoài-hoài.
    Đức Thích-Ca xưa ở lầu đài,
    92.-Nghiệm Tứ-Khổ nên Ngài tầm Đạo.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 81 đến câu 92)
    -Lúc Đức Thích Ca ngồi tham thiền tại gốc Bồ Đề, Ma Vương sợ Ngài đắc Đạo rồi không còn ai theo bọn chúng, nên đem binh ma, khí giới và nữ sắc đến phá hại Phật; nhưng bị Phật dùng phép thần thông đối trị và hàng phục, khiến chúng khiếp sợ, không dám đến phá nữa. Bởi lòng từ bi rộng lớn, nên lúc còn là Thái tử; Ngài đành lìa bỏ cung vàng, vợ đẹp, băng mình vào rừng sâu, núi tuyết để tìm ra chơn lý nhiệm mầu, cứu độ chúng sanh.
    -Nay Đức Giáo Chủ PGHH ra đời, cũng đem giáo lý thật tế ấy dạy dỗ quần sanh. Bắt đầu từ pháp “Tứ Diệu Đề, Bát chánh Đạo”, nếu chúng sanh nào biết giác ngộ tu hành; sớm khuya cần mẫn, diệt trừ các vọng tâm phiền não. Vì chính nó là nguồn gốc của bốn nỗi khổ: sanh, già, bịnh, chết.
    -Thêm nữa, mỗi chúng sanh từ vô minh vọng niệm, tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Khi thần thức nhập vào bào thai của người mẹ, là bắt đầu chịu khổ cho đến lúc chào đời; kế đó là cái khổ của sự già, rồi trải qua bao cơn bệnh tật hoành hành, đau nhức, tiếp nối là cái khổ về sự chết diễn ra. Nhưng chết đi chưa phải là hết mà còn sanh trở lại, cứ thế rồi tiếp tục xoay vần, chịu khổ mãi mãi. Xưa kia Thái Tử Sĩ Đạt Ta, cũng nhờ nghiệm xét bốn nỗi khổ ấy, mà Ngài xuất gia tầm Đạo giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    OAI LINH: Oai là dáng vẻ tôn nghiêm; linh là phần diệu của tinh thần. Nói chung chữ oai linh người ta thường dùng để tôn xưng các đấng cao cả, có đầy đủ đức tướng và thần thông linh diệu.
    PHÉP THẦN THÔNG: Phép linh diệu vô ngại, không chi liệu lường ngăn trở nổi. Nhà tu Phật khi diệt sạch phiền não, lục căn thanh tịnh thì chứng được sáu pháp thần thông (Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị hiện giả dã). Ở đây chỉ lúc Đức Thích Ca tịnh tọa dưới gốc Bồ đề, bọn Ma vương đến quấy nhiễu, Ngài dùng phép thần thông hàng phục chúng nó.
    Đức Thầy thường cho biết:
    Đạo gần đắc Ma vương theo khuấy,
    Dùng thần thông nghị lực dẹp tan”.

    (K/thiện, Q.5)
    MA VƯƠNG:(Xem CT đoạn 5, T-1, Bài Sứ mạng)
    RỪNG TÒNG: Do chữ “tòng lâm”. Cũng gọi là rừng thông. Đây chỉ khu rừng “Ưu Lâu Tần Loa”, phía Nam núi Tượng đầu, gần bờ sông “Ni Liên thiền”, nơi Thái tử Sĩ Đạt Ta tu khổ hạnh (khổ hạnh lâm).
    LÃO SĨ: Lão là bậc già cả, Sĩ là nhà tu hành chứng Đạo. Tiếng tôn trọng bậc tu hành cao tuổi và đầy đủ hạnh phúc. Đây là một trong nhiều danh xưng của Đức Thầy:“Lánh thế chẳng bày danh Lão sĩ”.(Cho Ô. Tham tá Ngà)
    THẬT TẾ: Cũng viết là chơn tế, chơn thật tế, tức là chỉ cái chơn lý thực thể, cái lý tối cực hoàn toàn, phương diệu tuyệt đích. Thật tế cũng gọi là “Chơn như thật tướng”, Cổ Đức từng bảo:
    Thật tế lý địa, Bất thọ nhứt trần
    Vạn hạnh môn trung, Bất xả nhất pháp”.

    (Về cái tánh thanh tịnh thì không dính dấp một mảy trần; nhưng phần hạnh tướng tu hành thì chẳng bỏ một pháp lành nào cả).
    TÌM NGUỒN CỘI DIỆT TRỪ TỨ KHỔ: Tứ khổ là bốn điều khổ lớn: Sanh, Già, Bịnh, Chết. Đó là định luật: Hễ có sanh ra xác thân, tất phải có già, bịnh, chết; không một chúng sanh nào thoát khỏi.
    Xưa, Đức Phật thường dạy:Nầy các Tỳ Kheo ! các ngươi đừng thắc mắc về vấn đề thế giới nầy là hữu cùng hay vô cùng, hữu hạn hay vô hạn. Dù thế giới nầy có hữu hạn, hữu cùng hay vô hạn, vô cùng; điều mà chúng ta nên nhận xét cái thật có trong đời là khổ sầu và “sanh, lão, bịnh, tử”.
    Ngày nay, Đức Giáo Chủ khuyên:Tìm nguồn cội diệt trừ tứ khổ. Xét ra xác thân là gốc khổ (khổ đề) mà hột giống (nguồn cội) của nó là vọng tâm phiền não (tập đề).
    Thuở Đức Phật còn trụ thế, có bốn Tỳ Kheo cùng đang tu học. Một hôm họ ngồi lại bàn luận về các sự khổ:
    Tỳ Kheo thứ nhứt nói:
    - Tôi nghĩ trong đời chỉ có sự sợ hãi là khổ hơn hết, vì cái tâm ấy khởi lên thì không thể nào yên lòng được.
    Ý kiến của vị thứ nhì:
    - Tôi nghĩ, trong đời chỉ có sự đói khát là khổ hơn cả, bởi đói thì phải lo tạo tác cho có cơm ăn áo mặc, đâu yên tâm hành đạo được.
    Tỳ Kheo thứ ba trình bày:
    - Theo tôi, thì sự nóng giận là khổ hơn hết, vì cái tâm ấy khởi lên làm mất hết trí khôn, bất luận kẻ thân người sơ đều bị mình làm thiệt hại, gây ra tội khổ không ít.
    Tỳ Kheo thứ tư nói:
    - Riêng tôi, không chi khổ bằng sự dâm dục, chính nó là hột giống sanh tử, suốt đời con người đem thân làm tôi mọi cho nó, đi đến chỗ hư thân mất nết, mờ đục cả trí huệ.
    Trong lúc 4 Tỳ Kheo đang tranh luận, ai cũng cho chỗ nhận xét của mình là đúng, may đâu Đức Phật vừa đi tới, bốn người đồng lễ Phật và nhờ Ngài phân giải !
    Phật ôn tồn bảo:
    - Các ngươi luận đều phải cả, song chỉ biết được ngọn ngành của sự khổ, chớ chưa thấy tận nguồn gốc của nó. Gốc khổ là do xác thân, tại có thân nầy mới có lòng tham dục, nóng giận, đói khát và hãi sợ…Nếu thân nầy chẳng có, lấy đâu mà có bốn sự khổ kia. Cho nên muôn sự phiền, ngàn sự khổ đều dồn chứa vào xác thân. Song nguyên nhân chánh là do vọng tâm, bởi có vọng tâm phiền não mới sanh ra xác thân để rồi chịu khổ. Vậy các ngươi muốn hết khổ nên diệt ngay vọng tâm phiền não.
    Nghe Phật giảng xong, bốn Tỳ Kheo rất vui mừng, đồng lễ bái Phật.
    Để xác định lý trên, Kinh xưa có những câu kệ:
    “…Tội tùng tâm sanh, tùng tâm diệt,
    Tâm diệt nhược thời tội diệt vong
    Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không”.

    Tạm dịch:
    -Tội khổ vốn do tâm phát khởi
    Tâm chẳng sanh, tội chẳng hề sanh
    Tội tâm không một niệm sanh
    Chơn không thị hiện Đạo lành đạt thông.

    HOÀI HOÀI: Luôn luôn, mãi mãi không dừng. Ý nói hết kiếp nầy sang kiếp khác “Tử sanh già bịnh đáo đầu tử sanh”.
    ĐỨC THÍCH CA: (Xem CT câu 390, T-2, Q.2).

    CHÁNH VĂN
    93.-Lo tu tỉnh mặc ai khinh-ngạo,
    Diệt Lục-Căn đừng nhiễm Lục-Trần.
    Chữ Sắc-Thinh chớ có hầu gần,
    96.-Hương với Vị xác trần nên lánh.
    Chữ Xúc-Pháp treo gương Hiền Thánh,
    Tránh Sáu Đường cũng đặng về Thần.
    Từ xưa nay dạy chỉ nhiều lần,
    100.-Mà lê-thứ không lo chẳng liệu.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 93 tới câu 100)
    -Bổn phận người tu cứ lo trau thân sửa tánh, dầu cho ai có nhạo chê phỉ báng cũng mặc, nhứt là phải làm chủ sáu căn, đừng cho ô nhiễm sáu trần. Mắt đối với các sắc đẹp hay các màu sắc khác, chẳng để tâm cảm nhiễm. Tai nghe các tiếng đờn hát, âm thanh trầm bổng, những tiếng đường mật vỗ về, lòng không để say đắm. Mũi ngửi các mùi thơm dịu không ưa thích. Lưỡi nếm những vị ngon, vật béo chẳng thèm khát. Thân đối với các vật trơn láng mịn màng cũng đừng cảm nhiễm. Ý đối vạn pháp hữu hình hay vô hình đều giữ tâm trong sạch, không hề vướng mắc một pháp nào.
    -Người hành Đạo hãy noi gương những bậc Hiền Thánh, tuy còn phải dùng chút ít vật chất, để nuôi thân hành Đạo; nhưng tâm không còn ô nghiễm, vướng mắc sáu trần. Ấy là sáu căn được thanh tịnh và đặng chứng quả Phật Thần, bằng như các phiền não vi tế chưa trừ sạch cũng được về bực Tiên Thần. Đức Thầy còn cho biết: xưa nay, Ngài đã có nhiều lần dùng Kinh pháp chỉ dạy chúng sanh, nhưng ít có người lo liệu tu thân lập hạnh.

    CHÚ THÍCH
    LỤC CĂN: Sáu căn trong thân con người là: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. (Mắt, tai, mũi, lưỡi, xác thân và tâm ý).
    LỤC TRẦN: Sáu cảnh trần, tức là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Trong sáu trần nầy, mỗi món chia làm hai loại:
    -Sắc Trần: Sắc có năng lực làm ô nhiễm thân tâm, nên gọi là sắc trần, gồm có hai thứ:
    1/- Hiển sắc: Sắc tô vẻ ra các màu: vàng, đỏ, xanh, trắng…Không có sắc chất, nhưng nương theo vật mà hiện ra.
    2/- Đối sắc: Sắc có chất, như sắc người và các vật: cứng, mềm, khô, ướt…xem thấy, cầm nắm được.
    -Thinh Trần: Các thứ tiếng có năng lực khiến thân tâm ưa thích, ô nhiễm. Tiếng có hai thứ:
    1/- Tiếng cảnh trực: các tiếng thuộc về vô tình, như: sấm sét, gió, nước, đờn sáo…
    2/-Tiếng khuất khúc: các thứ tiếng thuộc về hữu tình như: nói, kêu, ca hát…
    -Hương Trần: Các mùi thơm, thúi có năng lực khiến thân tâm ô nhiễm. Mùi hương có hai thứ:
    1/- Mùi thúi, như: xác chết, cây mục, phân người và thú.
    2/- Mùi thơm, gồm ba loại: hoa hương, thọ hương và tâm hương.
    -Vị Trần: Những vật có năng lực làm cho người ưa nhiễm. Vị cũng có hai thứ:
    1/- Vị không phải thức ăn, nên người ta không ưa thích, nhưng có thể làm thuốc được.
    2/- Vị thường dùng ăn uống đặng và người ta rất ưa thích, như ngũ vị: mặn, ngọt, chua, cay, đắng.
    -Xúc Trần: Những vật có năng lực làm mê hoặc thất tình, nhiễm ô chân tánh; xúc gồm có 2 thứ:
    1/- Xúc khổ: làm cho đau đớn, nóng, lạnh, đói, chết, buồn, khổ.
    2/- Xúc lạc: làm cho thân tâm vui, chịu, nên ưa thích va chạm.
    -Pháp Trần: Các pháp có năng lực khiến tâm trí ô nhiễm. Pháp cũng có hai thứ:
    1/- Sắc pháp: gồm có thiên nhiên và nhân tạo.
    2/- Tâm pháp: gồm có thiện pháp và ác pháp.
    HIỀN: Phạn ngữ (Scr) là Bhadra có nghĩa người tu học các điều lành, có tài đức phẩm hạnh tốt đẹp. Bậc hiền là chỉ cho các vị đang tu tập, đoạn trừ các phiền não, mê hoặc. Đức Thầy có câu:Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền.(Luận việc tu hành)
    THÁNH: Phạn ngữ (Scr) là Arya, phiên âm là A ly Da hay A Lê Du, dịch là Thánh nhơn, có nghĩa chơn thật, chánh trực và thanh tịnh. Thánh nhơn có hai bực: Thánh thế gian và Thánh xuất thế gian. (Thánh thế gian là bậc trọn lành , thông suốt Đạo lý thấu rõ việc trời đất và tính tình muôn vật. Kinh Dịch có nói:“ Đức của Thánh nhơn sánh cùng Trời đất, sánh bằng Nhựt nguyệt, biết rõ thời tiết, kiết hung”.- Còn Thánh xuất Thế gian là chỉ…cho bậc tu hành đã chứng quả Phật.) Đây chỉ cho bực Thánh xuất thế gian, tức là hạng tu đắc Đạo, có đủ trí huệ và các pháp thần thông dứt khổ não luân hồi. Từ các bậc chứng quả A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát cho đến Phật Như Lai đều là bậc Thánh.
    Các Kinh điển cũng thường gọi là bực Tu Đà Hườn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm, đến A La Hán là Thánh (Tứ Thánh Thinh Văn). Người ta cũng dùng tiếng Thánh để tôn xưng Phật như: Thánh ngôn, Thánh triết. Thánh còn là danh từ để đối với phàm. Đức Thầy từng bảo:Cư trần bất nhiễm là người Thánh.(Luận việc Tu hành)
    THẦN: Bậc khác hơn thế tục, lượng xét không cùng tột, linh diệu, oai mãnh, thông suốt không bị chướng ngại. Là bực bá tánh thường tôn trọng kính nhờ. Cho nên người ta cũng gọi đấng Phạm Thiên, Đế Thích và Đức Phật là bậc Thần. Vậy Thần có bốn bực: Phật Thần, Tiên Thần, Thánh Thần và A Tu La Thần (quỉ Thần); nhưng chữ Thần ở đây là chỉ cho bậc Phật Thần hay Tiên Thần. Đức Thầy có viết:Cha là Phật Thánh Tiên Thần phước dư.(Cảm tác)

    CHÁNH VĂN
    101.-Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu,
    Tai ưa nghe những điệu âm thinh.
    Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,
    104.-Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu.
    Đồ thơm tho nó ưa nó chịu,
    Chốn xạ hương hay lết lại gần.
    Lưỡi ưa ngon là chuyện ân-cần,
    108.-Đồ ngọt béo nó ưa nó mến.
    Thân tham sướng muốn tiền của đến,
    Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình.
    Ý thì ưa sửa sắc soi hình,
    112.-Với chức phận cho cao cho quí.
    Sáu đường ấy ở trong tâm ý,
    Ta mau mau dứt nó cho rồi.
    Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi,
    116.-Mượn trí-đạo đuổi ra khỏi xác.
    Dứt được nó ấy là giải thoát,
    118.-Thì xác trần mới khỏi đọa-đày.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 101 đến câu 118)
    -Đoạn giảng trên Đức Thầy diễn tả sáu căn ô nhiễm sáu trần và phương cách diệt trừ.
    Trước nhứt là cặp mắt của con người hễ thấy các sắc đẹp măng búp yêu kiều, son phấn lả lơi thì ước mơ quyến luyến. Tai lại thích nghe những lời đường mật véo von, những giọng đờn, sáo, hát ca trầm bổng. Mắt và tai vốn là hai căn bén nhạy nhứt, khiến lòng người đắm nhiễm sắc lịch, tiếng hay. Đến như lỗ mũi thì ưa ngửi các thứ hương xông, xạ ướp, những mùi dầu mỡ tẩm dầm; khiến con người lân la mê mẩn mãi, khó mà rời rứt được.
    -Phần cái lưỡi hay cảm nhiễm các món ngon vật béo, mùi vị hăng nồng. Còn thân thì lúc nào cũng ham sống cảnh giàu sang sung sướng, tiền của lụa là, muốn nghỉ giường cao nệm ấm và va chạm những vật trơn láng mịn màng.
    -Đến cái ý thì không vật chi mà nó chẳng ưa thích: nào trau dạng sửa hình, chưng diện cửa nhà y phục; nào chức tước, bạc vàng, oai danh lừng lẫy. Nên biết, sáu cửa của lục căn, tiếp nhiễm lục trần vừa kể trên, là dưới sự sai khiến của vọng tâm phân biệt. Bởi cái ý phân biệt tham chấp đó, là chủ đề của các căn, nên Đức Thầy dạy chúng ta hãy sớm trừ ngay nó.
    -Nếu chúng sanh nào thức tỉnh tu hành, biết dùng trí huệ giám thị và điều khiển lục căn, đừng cho ô nhiễm lục trần, tức hành giả đặng tự tại giải thoát, thân tâm không còn bị đọa đày trong luân hồi khổ nạn.

    CHÚ THÍCH
    BẬN BỊU: Vướng víu về tình cảm với sắc đẹp, lòng muốn rứt bỏ, nhưng khó xa rời được.
    XẠ HƯƠNG: Chất xạ lấy nơi rún (rốn) của vài loại thú rừng, như: Hươu hoặc chồn, mùi rất thơm, quí; dùng làm thuốc trị bịnh. Ví dụ: Hương thơm xạ ướp. Đây chỉ các mùi thơm của hương trầm.
    SÁU ĐƯỜNG ẤY Ở TRONG TÂM Ý = Sáu đường ấy là sáu ngõ (cửa) của lục căn tiếp xúc với lục trần vừa giải trên. Trong tâm ý, là vì: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là năm cửa và dưới quyền điều khiển của tâm ý. Tâm ý vốn ở bên trong, ví dụ như ông chủ nhà, còn năm căn kia, ví như năm cửa bên ngoài, hễ tâm ý vọng thì năm trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, theo năm cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mà vào nhà. Ấy gọi là sáu căn ô nghiễm sáu trần. Nhược bằng tâm ý chơn thì năm căn không tiếp xúc năm trần, tức lục căn thanh tịnh mà thành Đạo giải thoát.
    Xưa, Đức Tam Tổ có nói:
    “Dục thủ nhứt thừa, Vật ố lục trần,
    Lục trần bất ố, Hườn đồng chánh giác”.

    (Muốn chứng đặng bực nhứt thừa, thời đừng đắm nhiễm sáu trần, nếu sáu trần không nhiễm đắm thì đồng với bực chánh giác).
    Trong Kinh Tạp A Hàm có chép:
    Thuở xa xưa về trước, gần bên bờ ao, cỏ mọc um tùm, có một con rùa, ẩn náu nơi đó đã lâu năm. Hằng ngày nó bò ra khỏi hang, đi kiếm ăn.
    Hôm nọ, có con Giả Can (một loại với chồn và chó sói) đi quanh đó. Trong lúc đói bụng, đang rảo bước kiếm mồi, nó chợt thấy con rùa bên bờ nước, lòng vui mừng vô hạn, chắc rằng sẽ được một bữa ăn ngon lành. Nó chạy nhanh lại, toan bắt rùa mà ăn. Khi thấy con Giả Can chạy tới, chú rùa biết sắp lâm nguy, không tài nào bò trốn kịp, nên thủ thế trước. Nó nằm yên thu mình vào trong vỏ cứng, chẳng để hở một phần nào.
    Giả Can, hết lật con rùa qua bên nầy, rồi lật rùa qua bên kia, ý chừng tìm chỗ có thịt mà cắn. Nó cắn cái vỏ thì vỏ rùa cứng quá cạp không được. Nó đành để yên, ngồi đó đợi cho khi nào rùa ló đầu đuôi ra mà cắn, nhưng rùa rất khôn ngoan, càng rúc đầu, đuôi và bốn chân vào trong vỏ hơn trước.
    Đợi mãi rùa không ló đầu, ló chân ra, phần mệt mỏi, phần bụng đói, bức bách, Giả Can liệu ở đó mãi cũng vô ích, nên bỏ rùa đi kiếm mồi khác.
    Nhờ đó, rùa được khỏi chết.
    Khi kể xong câu truyện trên, Đức Phật khuyên các Tỳ Kheo:
    “Các ngươi nên biết: Thiên Ma Ba tuần, thường rình rập bên các người, nó muốn cho mắt các ngươi nhiễm sắc, tai các ngươi thích nghe tiếng, mũi các ngươi ưa ngửi hương, lưỡi các ngươi thích nếm vị, thân các ngươi muốn cọ xát những chất trơn láng. Ý các ngươi luôn vọng tưởng. Nghĩa là nó muốn các ngươi nhiễm trước lục trần. Thế nên các ngươi hằng ngày hãy giữ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý luôn luôn trong giới luật thì ác Ma ba Tuần không làm chi được. Cũng như con Giả Can kia, không làm gì hại được rùa”.
    Nếu mỗi người tu hành đều giữ mình được như chú rùa, không để lục căn duyên nhiễm theo lục trần thì lo gì Đạo quả chẳng viên thành.
    Tấm gương của chú rùa thật là một bài học quí giá, xứng đáng cho người sau ghi nhớ.
    TỈNH TÂM: (Xem CT câu 230, T-1, Q.1).
    TRÍ ĐẠO: Trí sáng suốt diệu huyền, đắc nhập chơn lý (Đạo). Cũng gọi là chơn trí, có diệu năng đoạn trừ vọng tâm phiền não, làm cho sáu căn thanh tịnh, không còn ô nhiễm sáu trần.
    GIẢI THOÁT: Giải, do Phạn ngữ (Scr) Moksha, phiên âm là Mộc đề hay Mộc xoa, dịch là Giải. Có nghĩa lìa khỏi sự trói buộc của hoặc nghiệp phiền não. Thoát, là ra ngoài tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Vậy, giải thoát là cởi mở sự trói buộc của nghiệp luân hồi sanh tử, chứng đắc từ quả thánh A La Hán lên Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Cho nên chữ Giải thoát đồng nghĩa với chữ Niết Bàn (bất sanh bất diệt). Đức Thầy từng dạy:“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần xả thân tu tỉnh”.(Bát chánh: Chánh Tư Duy)
    ĐỌA ĐÀY: Cũng viết là đày đọa. Có nghĩa bắt làm việc nặng nhọc và đối đãi khắc khổ. Đây ý nói sự thèm khát đòi hỏi của lục căn, làm cho thân tâm con người, phải gian nan khổ sở.

    CHÁNH VĂN
    119.-Cả tiếng kêu những kẻ trí tài,
    Hãy yên lặng bình tâm suy-nghĩ.
    121.-Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ,
    Bắt lỗi người phải xét lỗi mình.
    Vậy mới là phải bực công-bình,
    124.-Nẻo chánh-trực chí người quân-tử.
    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
    Nói với ai chớ có sai lời.
    Trọng mẹ cha kính nể Phật-Trời,
    128.-Đừng nhiều tiếng nghinh-ngang mang lỗi.
    Tánh ngay thẳng ta không dời đổi,
    Dầu tan xương nát thịt chẳng màng.
    Ta Khùng Điên nói đại nói càn,
    132.-Chẳng có sợ ai rầy ai mắng.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 119 tới câu 132)
    -Đức Giáo Chủ kêu gọi trong giới trí tài nên lặng tâm suy nghĩ lời giáo huấn của Ngài và trước khi đứng ra xử thế, mỗi người cần phải tu thân xử kỷ. Lời dạy trong đây đồng với thuyết “Chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Đức Khổng Tử. Phận làm người trước hết phải lo tu trị bản thân, rồi sẽ sửa dạy người khác. Được thế, mới đúng với lẽ công bằng ngay chánh và xứng đáng là bậc hiền nhân quân tử.
    -Kẻ tu học Đạo pháp lúc nào cũng cẩn trọng lời nói, khi muốn thốt ra điều gì, cần suy nghĩ chín chắn, nếu thấy đúng với lẽ phải và có lợi cho Đạo đức mới nói. Bằng không, thà nín thinh càng tốt; và nên chừa hẳn những tiếng xảo ngôn thất tín. Đối với cha mẹ cần có hiếu thảo, mỗi khi thưa hỏi điều chi, nên dùng lời lẽ dịu dàng lễ độ. Đầy lòng tôn kính Phật Trời và các bậc Thần Thánh, không nên nói ngang tàng vô lễ mà vương mang nghiệp tội:Khi nói làm ít chịu suy lường, Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.(Kh/thiện, Q.5)
    -Với lòng thẳng ngay trung chánh, ta đã và đang rèn tập nên bảo trọng nó, cho đến khi thành đạt mục đích. Dù phải đường đầu với bao thử thách, khó khăn hay có thiệt hại đến thân mạng, ta cũng quyết định không thay đổi. Bởi lòng quá thương đời nên Đức Thầy không ngần ngại, nói thẳng với số người còn sai trái, dầu ai có rầy la chưởi mắng cũng cam.

    CHÚ THÍCH
    TRÍ TÀI: Cũng gọi là tài trí. Có nghĩa tài năng và trí thức. Đây chỉ cho người có thế trí biện thông, tức kẻ có học thức, tài ba trong đời, nhưng trí độ còn thường tình, chưa thấu được chơn lý của Đạo xuất thế gian.
    TIÊN XỬ KỶ HẬU LAI XỬ BỈ: Do câu thành ngữ người xưa thường dùng “Tiên xử kỷ nhi hậu xử bỉ”. Có nghĩa trước phải tự xét xử phê phán việc của ta, rồi sau mới xét xử bình phán việc của người. Kinh Phật Giáo cũng có câu:“Chánh kỷ dĩ giáo nhân giả thuận, Thích kỷ dĩ giáo nhân giả nghịch”.(Giữ mình ngay chánh rồi dạy người là điều thuận lý, còn tự bỏ mình, buông lung mà đứng ra dạy người là điều nghịch lý). Đức Thầy cảnh tỉnh những người không biết xử kỷ:
    Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
    Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn”.

    (Thiên lý ca)
    CÔNG BÌNH: Công bằng ngay thẳng, không thiên vị một ai. Ca dao có câu:Theo trong luân lý giáo khoa, Công bằng là đạo người ta ở đời. Đức Thầy nay cũng bảo:
    Trên vua minh chánh cầm cân,
    Dưới quan liêm khiết xử phân công bình”.

    (Hoài cổ)
    CHÁNH TRỰC: (Xem CT câu 100, T-2, Q.3).
    QUÂN TỬ: (Xem CT câu 471, T-2, Q.2).
    PHẢI GÌN NGÔN NGỮ: Tự mình nói ra là ngôn, đáp lại kẻ khác là ngữ. Giải chung, ngôn ngữ là cách nói năng xử sự bằng lời nói, hoặc viết ra trên văn tự. Câu “Phải gìn ngôn ngữ”, ý dạy người tu phải thận trọng, gìn giữ lời nói cho đúng đắn, không bạ đâu nói đó. Bởi lời nói rất quan trọng, nên Cổ Đức từng bảo:Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ tán bang”.(Một lời nói mà làm cho hưng thịnh nước nhà, cũng một lời nói mà làm cho nước mất nhà tan). Và Kinh thi cũng có câu:“Bạch Khuê chi điếm, thượng khả ma giả; tư ngôn chi điếm, bất khả vi giả”.(ngọc Bạch Khuê có vít, có thể mài được. Lời nói có vít, chẳng biết làm sao ?)
    Kinh Phật cũng dạy:Lập thân chi yếu, ngôn hạnh thị tiên”.(Cốt yếu của sự lập thân, lời nói là trước hết).
    Thuở xưa, tại cái ao nọ, nhằm năm đại hạn, nước khô hết. Các loài thủy tộc như: tôm, cá, cua…đều chết, chỉ còn con rùa sống sót trong cảnh khô khan !
    Một hôm, có hai chú Cò đến kiếm mồi, rùa đem tình cảnh khốn khổ của mình ra than thở:
    - Nếu trời hạn hán mãi như thế nầy chắc tôi phải chết thiêu hoặc bị người ta bắt mất. Vậy hai anh có phương pháp nào cứu tôi với !
    Ngẫm nghĩ giây lâu, một chú Cò bảo:
    - Cách đây non mười dặm, có ao sen vừa sâu rộng, vừa có nhiều thức ăn. Bây giờ hai đứa tôi tha một cành cây, mỗi đứa cắn một đầu; còn anh thì ngậm khúc giữa, nhớ đừng hả miệng ra sẽ bị rớt chết. Cò dặn đi dặn lại đôi ba lượt, rồi hai chú khởi hành. Rùa lấy làm vui thích, vì chuyến nầy mình sẽ sống cuộc đời thong thả.
    Bay được một đỗi, đến xóm nhà nọ, có đàn trẻ em đang chơi, trông thấy liền la lớn lên:
    - Anh em ơi ! Ra coi nè ! Hai con cò tha một con rùa, ngộ quá ! Đám trẻ chạy ra trông thấy la ầm lên. Có đứa nói đùa:
    - Ê ! coi kìa ! Giống hệt hai thằng mỏng dắt anh thầy mù !
    Rùa nghe nói dằn lòng không được, định bụng sẽ mắng bọn trẻ một chập cho hả giận, nhưng vừa hả miệng ra thì rùa bị rơi xuống đất nát thây”.(Phỏng theo Kinh tạp tỷ dụ.)
    Xưa, Đức Phật thường dạy:Ở đời biết bao nhiêu người vì không giữ lấy miệng, nói không phải lúc nên thường mang họa. Nầy các đệ tử ! Họa từ miệng phát ra, vậy các ngươi hãy gìn giữ lấy miệng”.
    Ngài Lão Tử cũng bảo: Bên trong ngăn chừng lời nói, bên ngoài đóng chặt cửa miệng, thì suốt đời không lầm lỗi.(Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn; chung thân bất cần).
    Ngày nay Đức Thầy hằng khuyên dạy tín đồ, trước khi muốn nói điều chi cần phải cẩn trọng, lựa lời:
    Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ”.

    (Kh/thiện, Q.5)
    KÍNH NỂ: Kính trọng nể vì. Đây ý dạy người tu khi nói năng phải biết kính trọng nể vì Trời Phật và Tổ Tiên Cha mẹ.
    NGAY THẲNG: Ngay ngắn, thẳng thớm, thành thật, chánh đáng. Ví dụ: Tánh tình ngay thẳng, ăn ở ngay thẳng:“Ngay thẳng hiếu trung trang hiếu thảo”.(Thiên lý ca)

    CHÁNH VĂN (Từ câu 133 tới câu 208)
    133.-Trời còn lúc tối mưa sớm nắng,
    Thì trần-gian còn mãi khổ lao.
    Ở trên đời kẻ thấp người cao,
    136.-Kẻ hiền-hậu người thì gian-ác.
    Không quen biết mà cao tuổi tác,
    Ta cũng nên kính trọng mới là.
    Tâm từ-bi sánh thể ngọc-ngà,
    140.-Trong các báu khó bì tánh Thiện.
    Phải xử thế chớ nên bày biện,
    Miệng xảo ngôn thường kiện tấm thân.
    Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
    144.-Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.
    Các công cuộc của người tánh xấu,
    Ta giữ-gìn chớ có nhiễm vào.
    Tâm Bần Tăng chẳng mến sắc màu,
    148.-Mến những kẻ biết vào đường chánh.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 133 tới câu 148)
    -Đoạn nầy ý nói: Thời tiết còn có lúc mưa lúc nắng thì kiếp sống của nhân sanh, vẫn còn gian lao mãi mãi, đó là định luật không một ai tránh khỏi. Bởi tiền nghiệp của mỗi chúng sanh chẳng đồng nhau, cho nên sanh ra cõi trần mỗi người, mỗi khác; từ hình thể: thấp, cao, xấu, tốt cho đến nếp sống giàu, nghèo, hiền lương hay hung ác đều có sai biệt cả.
    -Còn việc giao tiếp với thôn xóm, Đức Giáo Chủ dạy: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình, dù lạ hay quen, cũng nên kính nể. Đồng thời lo rèn tập lòng từ bi để ban vui cứu khổ cho người và vật. Bởi tánh hiền lành rất quí giá, dầu cho ngọc ngà châu báu cũng không sánh được.
    -Về mặt xử thế tiếp vật và nghề sanh sống, cần phải tập tánh ngay thật, công bằng, chẳng nên bày vẽ nhiều điều lắm chuyện. Bỏ hẳn những lời dối gian láo khoét, những việc làm bất chánh: đổi giạ, thay cân.
    Tất cả việc xấu xa, tội ác thường xảy ra hằng ngày trong xã hội, ta hãy giữ lòng trong sạch, đừng để ô nhiễm tập tành. Công việc khai Đạo độ đời, lòng Đức Thầy luôn thanh khiết, không còn ham muốn sắc màu danh vị, chỉ thương mến những ai biết cải tà qui chánh, nương theo Phật pháp tu hành.

    CHÚ THÍCH
    HIỀN HẬU: Hiền lành và trung hậu.
    TÁNH THIỆN: Tánh hiền lành tốt đẹp.
    XỬ THẾ: Cách ở ăn, đối xử với người đời. Đức Thầy bảo:
    “Sanh đấng nam nhi toan xử thế,
    Sống làm hiền triết nghĩa gồm hai”.
    (Đức Thầy gởi cho Ô. Mười (Thúc Ông)
    BÀY BIỆN: Cũng viết là bài biện. Có nghĩa sắp đặt sửa soạn. Bày đặt cho có chuyện. Ví dụ: Khéo bày biện cho lắm chuyện
    XẢO NGÔN: Nói dối trá, nói láo một cách khéo léo. Kẻ xảo ngôn hay dùng lời giả dối, tráo trở để lừa gạt kẻ khác, song thường rước lấy tai hại về mình:“Cái miệng nó kiện cái thân”. Sách Thánh nói:“Dục lượng tha nhơn, tiên tu tự lượng, thương nhơn chi ngữ, hười thị tự thương, hàm huyềt phún nhơn, tiên ô tự khẩu”.(Muốn so lường người ta, trước phải so mình; lời nói hại người; trở lại hại mình, ngậm máu phun người, miệng mình dơ trước). Đức Thầy nay cũng bảo:
    Người dương thế chẳng ưa bốc xước,
    Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn”.

    (Kh/thiện, Q.5)
    ĐẤU: Vật để đo lường lúa gạo thời xưa; cứ 10 thăng là một đấu. Câu “…lận lưòng tráo đấu” là chỉ cho người làm việc gian tà, khi mua thì dùng giạ già, cân già; nhưng lúc bán thì giạ non, cân non.
    BẦN TĂNG: Nhà tu nghèo. Tiếng tự khiêm của các Tăng sư tu hành theo Đạo Phật. Đây là tiếng Đức Thầy thường dùng:
    Ai mà xét đến ăn năn,
    Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt dùm
    .
    (Bóng hồng)
    ĐƯỜNG CHÁNH: Nghĩa của chữ Chánh Đạo (Xem CT câu 161, T-2, Q.2).

    CHÁNH VĂN
    149.-Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh,
    Nên truyền ban cho chúng-sanh tường.
    Tuy ngày nay chúng nó hùng-cường,
    152.-Chừng phân định thì Ta cao-quí.
    Khuyên bổn-đạo lập thân nuôi chí,
    Đặng chờ ngày yết-kiến Phật Trời.
    Quá yêu dân cạn tỏ nhiều lời,
    156.-Cho trần-hạ tìm trong lánh đục.
    Chẳng chịu tu mãi còn lục-thục,
    Lo giàu nghèo lo cũng chẳng rành.
    Ham công-danh quên chữ sanh-thành,
    160.-Mến phú-quí quên câu dưỡng-dục.
    Rán kiếm chỗ tầm Tiên lánh tục,
    Người ở đời phải được lòng trong.
    Biển hồng-trần sớm gội cho xong,
    164.-Ngày lập hội mới mong trở lại.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 149 đến câu 164)
    -Công cuộc khai hóa nhân sanh, Đức Thầy có mượn lời của Phật Thích Ca và Thánh Khổng Tử truyền dạy khắp nơi để cho mỗi người đều hiểu biết tường tận. Tuy hiện giờ lắm kẻ ỷ mình có thế lực, lấn áp người tu, nhưng đến một ngày kia:Phật Thánh Tiên Đông độ lướt sang, Miền Nam địa phân chia đẳng cấpthì bá tánh sẽ thấy rõ sự cao quí của kẻ tu hành Đạo đức ra sao.
    -Đức Thầy khuyên tín đồ nên lập thân hành Đạo và nuôi dưỡng ý chí cao cả để sau nầy được yết kiến Phật trời. Vì lòng quá thương xót chúng dân nên Ngài đã nhiều lần giải bày cặn kẽ, cho mỗi người xem đó hầu tìm con đường thanh cao, lánh xa chỗ đê hèn nhơ xấu.
    -Xét thấy việc tu không làm trở ngại cho phần sanh sống, thế mà có nhiều người mãi do dự chần chờ. Quanh năm suốt tháng, chỉ biết hơn thua trong cảnh nghèo giàu, nhưng rốt cuộc đâu chẳng ra đâu, kế tử thần gõ cửa; nào khác câu chuyện “Anh chàng cày ruộng xưa kia”.(Anh cày ruộng trải qua 91 kiếp, gặp 7 vị Phật ra đời mà anh vẫn còn cày ruộng. Đến khi Đức Thích Ca xuất thế dùng phương tiện nhắc lại cho anh biết tiền kiếp. Anh mới chịu giác tỉnh tu hành.) Cũng có số người vì quá tham giàu sang danh lợi, chẳng nhớ ơn sanh dưỡng của mẹ cha.
    -Đức Giáo Chủ cũng khuyên dạy vạn dân, rán tìm về con đường siêu thoát của Phật Tiên, lánh xa nơi trần tục khổ sầu. Trong việc cư xử với đời mỗi người cần giữ lòng trong sạch, gội rửa tất cả những gì xấu xa tội ác:“Chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh tài sắc”.(Chư Phật có bốn Đại đức.) Có thế, mới được dự Hội Long Hoa và trở về quê Tiên cảnh Phật.

    CHÚ THÍCH
    PHẬT THÁNH: (Xem CT chữ Phật đoạn 7, T-1, bài Sứ Mạng và chữ Thánh câu 96, T-3, Q.5). Chữ Phật Thánh ở đây, chỉ cho Đức Phật Thích Ca, vị Giáo Tổ của Đạo Phật và Đức Thánh Khổng Tử, bậc Thầy của Nho giáo.
    TRUYỀN BAN: Truyền dạy và ban rộng khắp nơi, cho bá tánh được rõ.
    HÙNG CƯỜNG: Mạnh mẽ và có thế lực. Đây chỉ cho số người dựa theo sức mạnh của nhà cầm quyền Pháp thời ấy (1939-1945). Đức Thầy có câu:
    “Ai ôi ! hãy ngắm cho tường,
    Nhìn ông tận mặt hung cường làm chi?”
    (Bóng hồng)
    PHÂN ĐỊNH: Cũng gọi là định phân. Có nghĩa chia định ra từng việc, từng phần và thứ bực cao thấp, lớn nhỏ cho có trật tự. Đức Thầy từng dạy:
    Sớm lo sắp đặt luyện tài,
    Phật Trời phân định mặt mày mới xinh”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    LẬP THÂN: (Xem CT câu 549, T-2, Q.3)
    NUÔI CHÍ: Nuôi dưỡng ôm ấp mãi trong đầu óc một định hướng và ý chí cao cả. Cho đến khi thành đạt mục đích. Đức Thầy hằng khuyên:
    Khuyên bổn đạo gần xa nuôi chí,
    Lẽ nhiệm mầu huyền bí nơi đây”.

    (Thiên lý ca)
    YẾT KIẾN: Ra mắt, đến viếng hoặc được gặp mặt người trên.
    TÌM TRONG LÁNH ĐỤC: Do chữ “lánh trược tầm thanh”. Có nghĩa tìm nơi cao cả trong sạch, xa lánh chỗ thấp hèn nhơ xấu. Ý chỉ tầm con đường Đạo đức siêu thoát của Phật Tiên, và tránh xa chốn tranh đấu: danh, lợi, tình. Vì đó là đường luân hồi, thế tục.
    Đức Thầy có câu:
    “Phủi trần xóa bỏ lợi danh,
    Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều”.

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    LỤC THỤC: Cũng gọi là lục đục. Có nghĩa chần chờ chậm lụt, không mau mắn. Ví dụ: tới giờ nầy vẫn còn lục thục ở đó. Đức Thầy thường kêu thúc:“Nếu chần chờ lục đục trễ chơn.(Vọng Bắc hoà Nam)
    CÔNG DANH: Công nghiệp và danh vọng.
    SANH THÀNH: Đẻ ra và nuôi cho nên người.
    PHÚ QUÍ: Giàu sang quyền quí. Đức Thầy có câu:
    Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
    Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.

    (Luận việc Tu hành)
    DƯỠNG DỤC: Nuôi nấng và dạy dỗ chăm nom.
    BIỂN HỒNG TRẦN: (Xem CT câu 249, T-1, Q.1)

    CHÁNH VĂN
    165.-Chữ bần-tiện khuyên dân đừng nại,
    Miễn cho ta trở lại ngay đàng.
    Chữ vinh-hoa giờ chớ có màng,
    168.-Bởi giả tạm của đời Nguơn-hạ.
    Gắng công tu xem nhiều phép lạ,
    Của Thần-Tiên trừ lũ hung-đồ.,
    Nào lụa là, lãnh nhiễu, tố sô,
    172.-Chớ ham mến mà sau lao-lý.
    Ngày tiêu-diệt từ năm Bính-Tý,
    Đến năm nay hao hớt đã nhiều.
    Các ngoại bang đà nhượm máu điều,
    176.-Sao trần-thế không toan chẳng liệu.
    Để đến việc dang lưng mà chịu,
    Chớ Phật đâu cứu kịp cho người.
    Khuyên chúng-sanh bỏ tánh biếng lười,
    180.-Phải sốt-sắng làm ăn cần-thiết.
    Nghèo với đói từ đây sẽ biết,
    Hàng ngoại bang bố-thiết ta hoài.
    Nên bá-gia hãy rán miệt-mài,
    184.-Dầu rách rưới cũng mau cần-kiệm.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 165 đến câu 184)
    -Đoạn nầy có ý dạy: người tu học Đạo Pháp dầu có lâm cảnh nghèo khổ, cũng chẳng ngại chi, miễn sao được đi đúng theo con đường ngay chánh là tốt. Có điều, chẳng nên tham đắm cảnh giàu sang phú quí, bởi nó là của giả tạm, như làn mây, bọt nước. Nhứt là giữa buổi Hạ ngươn, tiền của từ tay người nầy sang qua người khác rất mau chóng, và khi nhắm mắt cũng chẳng đem theo được vật nào.
    -Đức Thầy khuyên mọi người, hãy gắng công tu niệm, để sau nầy được xem các đấng Thần Tiên, dùng phép mầu trừ dẹp kẻ hung tàn bạo ác. Nếu ai còn say đắm: ăn sung, mặc sướng, hàng lãnh, võng dù thì mai hậu sẽ gặp nhiều tai nạn khổ lao.
    -Cuộc tận diệt cõi Hạ ngươn khởi đầu từ năm Bính Tý (1936), tai nạn lụt lội đã xảy ra một lần, tại miền Nam nước Việt, rồi nay (1939) lại tái diễn. Cùng một lúc, cuộc Đệ nhị Thế chiến sắp bùng nổ từ Âu sang Á, các nước ngoài phải chịu cảnh đói nghèo, chết chóc rất thê thảm. Trước trạng huống ấy, nếu bá tánh không sớm liệu toan, thì một ngày kia tai nạn khổ sầu đưa đến, đành phải chịu, chớ không thể nào cầu trời khẩn Phật, tiếp cứu mình cho kịp.
    -Đức Giáo Chủ dạy khắp chúng sanh từ đây nên bỏ dứt sự ăn chơi, lười biếng và phải hăng hái lo làm ăn, đó là điều cấp thiết, cho cuộc sống của nhân loại; vì cảnh nghèo đói sắp xảy ra một bên. Lúc bấy giờ trận giặc đói đang lan tràn đất Trung Hoa. Đức Thầy cũng tiên đoán, rồi đây nó sẽ sang đến miền Bắc Việt Nam. Lại thêm người ngoại quốc muốn phá hoại nền kinh tế nước ta, họ cho vật giá gia tăng để xiết chặt dân ta vào vòng nô lệ. Do đó Đức Thầy khuyên trong vạn dân từ đây hãy chuyên cần, vừa “…sốt sắng lo làm ăn” và “vừa lo tu hiền chơn chất”, để vượt qua cảnh nghèo đói tới đây.

    CHÚ THÍCH
    NGAY ĐÀNG: Con đường ngay chánh. Ý chỉ con đường của Đạo Phật.
    NGƯƠN HẠ: (Xem CT chữ Hạ ngươn, đoạn 5, bài Sứ Mạng).
    HUNG ĐỒ: (Xem CT câu 113, t-2, Q.2)
    NĂM BÍNH TÝ: Nhằm năm 1936, năm ấy bị nạn lụt lội, thất mùa, bá tánh chịu nạn đói khổ.
    SỐT SẮNG: Nhiệt thành, có nhiệt tâm, hết lòng mau mắn. Ví dụ: Anh ấy sốt sắng trong việc từ thiện. Đức Thầy có khuyên:“…Phải cần kiệm sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất”.(Tám điều răn cấm)
    CẦN THIẾT: Rất cần, phải có mới được.Ví dụ: Điều ấy cần thiết lắm.
    BỐ THIẾT: Bố là tiếng lóng. Ý là khủng bố bao vây. Thiết là xiết chặt. Đây chỉ cho ngoại quốc bán hàng hóa càng ngày càng tăng giá cao, quá đắc đỏ để xiết chặt dân ta. Đức Thầy từng nói:
    Gạo lúa kém là đồ sản thổ,
    Hàng quá cao ấy của ngoại bang vào”.

    (Trả lời cùng Ông Táo)
    CẦN KIỆM: Siêng năng và tiết kiệm. Ví dụ: Người biết tiết kiệm dầu không giàu cũng dư ăn (Tiểu phú do cần).
    CHÁNH VĂN
    185.-Lời Ta dạy hãy nên suy-nghiệm,
    Phải phá tan Ngũ-Uẩn trong mình.
    Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,
    188.-Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.
    Chữ gây-gổ là Sân hãy diệt,
    Cho nó đừng thấp-thoáng trong lòng.
    Thêm chữ Si thiệt quá lòng-dòng,
    192.-Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.
    Chữ Nhơn Ngã cũng là quá gắt,
    Ta chớ nên phân biệt với người.
    Dẹp năm tên được mới mừng cười,
    196.-Vô pháp-tướng mới là thiệt tướng.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 185 đến câu 196)
    -Đúc Thầy khuyên mỗi tín đồ hãy xét suy, nhận định lời dạy của Ngài cho kỹ để cố gắng thực hành theo. Trước nhứt là phải suy gẫm cho thấu đạt chơn lý, để trí huệ phát khai, rồi dùng trí sáng ấy quán xét, chiếu tan ngũ uẩn. Đứng đầu là tánh tham: Xét rằng các sắc tướng của vạn pháp trong thế gian đều là ảo ảnh, không thật có, hầu diệt tận gốc của sự ham muốn.
    -Kế tiếp là lòng sân hận, nó là cửa sanh ra muôn ngàn tội ác, ta phải xoay về nội tâm theo dõi từ phút giây, hễ thấy một đóm lửa sân vừa phát khởi nơi lòng, là diệt ngay, đừng để nó lộ ra trên gương mặt, hoặc hành động, ngôn ngữ. Đến sự si mê cũng là tai hại không vừa; hãy dùng trí huệ phá trừ nó, nương theo ngọn đèn chơn lý, soi sáng lối đi. Đồng thời dùng trí bình đẳng diệt sạch lòng phân biệt nhân ngã.
    -Vậy muốn chiếu phá năm uẩn vừa kể trên, trước hết hành giả phải trừ ngay cái tâm nhân ngã và lòng tham ái. Hễ tâm phân biệt nhơn ngã và tham ái không còn, thì lòng câu chấp ô nhiễm và sân si đều dứt sạch. Bấy giờ, tâm ta được rỗng thông sáng tỏ, chẳng còn dính mắc một pháp tướng nào, tức đặng trở về cái chân thật tướng của Như Lai.
    CHÚ THÍCH
    SUY NGHIỆM: Vận dụng trí huệ suy nghĩ, nghiệm xét để nhận định. Ví dụ: Suy nghiệm điều đó đúng không ?
    NGŨ UẨN: Cũng gọi là ngũ ấm. Có nghĩa năm cái kết hợp, che đậy chơn tánh của con người. Theo Kinh Phật từ trước thì giải ngũ uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Còn Đức Thầy nay giải là: tham, sân, si, nhân, ngã. Hai lối giải nầy, tuy danh từ có khác, nhưng lý nghĩa vẫn đồng nhau.
    A)- Ngũ Uẩn: Theo Kinh Phật giải;
    1/- Sắc Uẩn: là sắc thân tứ đại giả hợp. Hễ có sắc thân tức có sanh, già, bịnh, chết…Thế mà chúng sanh khởi tâm chấp trước điên đảo, rồi mưu cầu vật chất phụng sự nó.
    2/- Thọ Uẩn: Khi có sắc thân, dĩ nhiên phải có lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thường tiếp nạp sáu trần: sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp…làm cho chúng sanh khởi tâm thủ, xả, ái, ố.
    3/- Tưởng Uẩn: Sau khi lục căn tiếp nạp lục trần những cái thủ, xả, ái, ố đó làm cho chúng sanh khởi tâm tưởng tượng ghi nhớ mãi.
    4/-Hành Uẩn: Khi tưởng tượng ghi nhớ những điều thủ, xả, ái, ố, làm cho chúng sanh khởi tâm, quyết thật hành cho kỳ được.
    5/- Thức Uẩn: Đối với những việc đã và đang thực hành, mỗi mỗi đều làm cho chúng sanh khởi tâm phân biệt người và ta, hơn thua, tốt xấu…
    CÁCH PHÁ NGŨ UẨN: theo Kinh Phật dạy: Để tiêu phá ngũ uẩn, hành giả cần phải diệt sạch vọng tâm câu chấp bản ngã. Diệt được bản ngã thì chẳng còn quá trọng sắc thân. Sắc thân hiện hữu đã chẳng quá trọng, thì các cái vọng khởi: thọ lục trần, tưởng ái ố, hành đắc thất, thức nhơn ngã sẽ tự tiêu diệt ngay. Vì rằng các vọng khởi: thọ, tưởng, hành, thức chỉ để cung cấp cho sắc thân, hễ tâm vọng chấp sắc thân không còn, là chúng nó không còn. Tâm Kinh có chép: Hễ soi thấy năm uẩn đều không, thì vượt qua tất cả lao khổ nạn ách; tức được tự tại an vui (chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách).
    B)- NGŨ UẨN: theo Đức Thầy giải trong đây:
    1/- Tham: tức là tham vọng luyến ái. Từ một điểm khởi niệm tham ái, tâm hồn đã tạo nghiệp sanh tử mới đi đầu thai, thành có xác thể con người.
    2/- Sân: là lòng nóng giận. Khi có xác thân, tất phải có sáu căn, tiếp nhiễm với sáu trần; song sự thèm khát ô nhiễm của sáu căn không thỏa mãn, nên có sân hận.
    3/- Si: là tâm mê tối. Khi lòng sân dấy lên, làm mờ tối cả tâm trí “giận mất khôn”, như mặt nước hồ bị nổi sóng, nên không nhận rõ lẽ chánh tà chơn giả.
    4/- Nhân: là người. Từ chỗ mê tối ấy, mới phân biệt người và ta khác nhau, bao giờ cũng xem người là thấp kém, thua thiếu, đáng khinh chê lấn áp, ai đau khổ mặc ai.
    5/- Ngã: là cái tâm chấp ta. Lúc nào cũng xem ta là cao cả hơn người, đáng quí trọng, kính yêu rồi bảo thủ, nên mỗi vật chi đều cũng muốn bao gồm về mình. Chính đó là lòng phân biệt, khác ái, là hột giống sanh tử, để rồi đầu thai trở lại một thân khác nữa, và cứ thế mà lên xuống mãi trong sáu nẻo luân hồi:“Tâm trần tục còn phân nhân ngã, Thì làm sao thoát khỏi luân hồi”.(Kệ Dân, Q.2)
    CÁCH PHÁ NGŨ UẨN: Theo Đức Thầy dạy: Muốn phá ngũ uẩn, trước hết người hành Đạo phải tu tập trí huệ, rồi dùng sự sáng suốt ấy mà quán chiếu, diệt trừ tâm tham ái và vọng chấp bản ngã. Nếu lòng câu chấp bản ngã không còn, thì các tánh: sân hận, mê si và sự phân biệt ngã nhân, cũng không do đâu phát khởi. Lúc ấy tâm ta được bình đẳng an nhiên, chứng ngộ “chơn như thật tướng”, dứt đường tử sanh:
    Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái,
    Cội sân si cũng phải tảo trừ.
    Đem về giác tánh chơn như,
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.
    (Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    ĐỒNG LÝ NGHIÃ:
    Tại sao gọi hai cách PHÁ NGŨ UẨN vừa giải trên đồng lý nghĩa ?
    Bởi theo Kinh xưa, giải: từ chỗ có sắc thân, mới có thọ lục căn, tưởng ái ố, hành đắc thất và thức nhân ngã. Nên hễ diệt được lòng câu chấp sắc thân thì những cái thọ, tưởng, hành, thức cũng không còn, tức chứng được “chơn như thật tướng”.
    Còn Đức Thầy nay thì giải: từ chỗ lòng tham ái mới có sắc thân hiện hữu, và sân, si, nhân, ngã. Nên khi trừ được gốc tham ái, thì lòng sân hận, mê si và nhân ngã đều dứt sạch, tất chứng được “Giác tánh chân như”.
    Cho nên nói hai lối giải trên đây, về phương tiện thực hành và văn tự, tuy có khác đôi phần, nhưng khi kết quả cũng đồng đạt đến mức cứu cánh giải thoát.
    NĂM TÊN: Chỉ cho năm uẩn nói trên.
    VÔ PHÁP TƯỚNG MỚI LÀ THIỆT TƯỚNG: Bởi cái tâm vốn chơn không, cho nên người tu không nên chấp vào các phá tướng, như ngũ uẩn nói trên. Vì các pháp đều không có thật thể và thường tồn. Nếu hành giả trừ được cái tâm tham chấp vào các pháp tướng, tức chứng được cái thiệt tướng của Như Lai. Kinh Kim Cang có dạy:“Người tu hành đến khi nào không còn bị các tướng câu thúc, tức là không còn phân biệt có tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tất nhiên cái thiệt tướng thường tái hiện ra sừng sững vậy (chơn tướng Như Lai)”.

    CHÁNH VĂN
    197.-Người tu hành phải trừ nghiệp-chướng,
    Với bốn ma mới đặng an-nhàn.
    Tửu nhiễm vào thân thể bất an,
    200.-Sắc mến nó ngày kia lao khổ.
    Ta nghiệm xét từ đời Bàn-Cổ,
    Có ai dùng mà đặng thành Tiên.
    Mà đời nay theo nó liên-miên,
    204.-Chữ Tài của khổ riêng một kiếp.
    Bị tội cướp nào ai có tiếp,
    Mà đời nay nó cứ mãi làm.
    Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham,
    208.-Mà lao-lý tấm thân trần-thế.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 197 đến câu 208)
    -Trên đường giải thoát, người hành đạo muốn được kết quả, cần phải nhắm ngay cội gốc của các chướng nghiệp mà diệt trừ; tức ba món phiền não: tham, sân, si nơi ý nghiệp. Hễ phiền não chướng không sanh thì hai nghiệp của thân và khẩu cũng thanh tịnh. Đồng thời nên xa lánh bốn con ma bên ngoài, tức là “tứ đổ tường”(tửu, sắc, tài, khí).
    -Bởi rượu và sắc đẹp là hai thứ rất độc, nếu kẻ nào say đắm, tất sẽ bị hư thân mất mạng, sự nghiệp tiêu tan, xã hội khinh chê ruồng bỏ. Ôn lại quá trình lịch sử, từ khi mới có loài người đến nay, có một ai còn dùng tửu sắc mà được thành Tiên hay Phật bao giờ. Thế mà người đời nay cứ mãi đam mê.
    -Đến con ma thứ ba là của tiền vàng bạc, vì nó, con người hành động những tội ác: tham lam, giành giựt, trộm cướp, gạt lường, để lấy tiền của nuôi cả vợ con, rốt cuộc riêng mình chịu tội khổ chẳng ai tiếp được.
    -Thứ tư là con ma thuốc phiện, hơi thơm của nó làm cho người ta nghiện ngập, thân xác dần dần gầy ốm, nóng nảy, khô khan; quanh năm, suốt tháng chỉ xây quanh phòng hút. Bao nhiêu gia tài sự nghiệp lần hồi tiêu sạch, chỉ tồn lại một thân hình bạc nhược, chịu sầu khổ cho đến ngày giã biệt cõi đời.

    CHÚ THÍCH:
    NGHIỆP CHƯỚNG: Nghiệp là hành động của: thân, khẩu, ý gây tạo. Chướng là ngăn che, trở ngại. Theo Kinh xưa, mỗi chúng sanh đều có ba nghiệp chướng: Phiền não chướng, Nhân chướng và Báo chướng. Phát xuất từ phiền não chướng (tham, sân, si) dấy lên, con người mới tạo nghiệp tức là nhân chướng, rồi bị cái báo chướng trả lại. Cứ thế mà vay trả lên xuống mãi trong sáu đường sanh tử.
    Còn thời nay, Đức Thầy dạy:“Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây trong bài “Luận về Tam nghiệp”:
    -Thân nghiệp (tội lỗi do xác thân gây nên);
    -Khẩu nghiệp (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
    -Ý nghiệp (tội lỗi do ý tưởng gây nên)”.
    Trước tiên, phát xuất từ ý nghiệp (tham, sân, si) mới phát ra ngôn ngữ (khẩu nghiệp: lưỡng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ) và hành động (thân nghiệp: sát sanh, đạo tặc, tà dâm). Ba nghiệp ấy cứ tiếp nối nhau luôn, tạo thành sức mạnh lôi kéo chúng sanh, sau khi chết phải luân hồi qua kiếp khác, rồi kiếp khác nữa…khó mà thoát ly ra được.
    Trong bài “Lời khuyên Bổn đạo” Đức Thầy có dạy:“Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm cho linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên luân hối chuyển kiếp”.
    BỐN MA: Chỉ cho “Tứ đổ ttường”: tửu, sắc, tài, khí. Sở dĩ gọi nó là ma, vì bốn món ấy làm cho chúng sanh đam mê khổ sở (Xem thêm phần CT câu 221, T-2, Q.2)
    BÀN CỔ: Theo sử liệu Trung Hoa, khi mới khai thiên lập địa, Bàn cổ là người đầu tiên xuất hiện làm vua trên quả địa cầu; rồi lần lần mới có loài người và vạn vật. Cho nên gọi Bàn Cổ là thỉ Tổ của loài người. Cổ thơ có câu:“Bàn Cổ khai lò tạo hóa, Tam Hoàng Ngũ Đế lại ra giúp đời”.
    LIÊN MIÊN: (Xem CT câu 319, T-2, Q.2)
    KHÍ HÙNG: Hơi nóng, mạnh của chất thuốc phiện.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 209 tới câu 276)

    209.-Kẻ nhứt dạ thường sanh ba kế,
    Để gạt người làm thế cho mình.
    Ngày sau nầy lắm nỗi tội tình,
    212.-Sao sanh-chúng chẳng lo cải sửa.
    Bịnh ôn-dịch thường hay ói mửa,
    Mà dương-trần chẳng chịu kiêng-dè.
    Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
    216.-Trong bá-tánh biết ai hữu chí.
    Ta chịu lịnh Tây-Phương thọ ký,
    Gìn Nghiệt-Long đặng cứu dương-trần.
    Nên ra đời dạy-dỗ ân-cần,
    220.-Khuyên bá-tánh vạn dân liệu lấy.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 209 đến câu 220)
    -Làm người ai cũng có một tấm lòng, song những kẻ gian ác, thường bày ra trăm mưu ngàn chước, lường gạt công sức của kẻ khác, để họ ngồi không hưởng lợi. Hành động ấy, đã gây rất nhiều tội lỗi về sau, thế mà họ chẳng sớm ăn năn cải sửa.
    -Nhìn thấy bịnh ôn dịch, đang nhiễu hại khắp lê dân, sao dương thế chẳng biết lo âu, kiêng nể ? Đức Thầy cũng tiên tri vào một mùa Hè năm Mùi nào đó, sẽ có cuộc thử thách lớn lao, để xem trong bá tánh, ai là người bền chí trên con đường Đạo đức.
    -Lại nữa, do sự ký thác của Đức A Di Đà và Phật Tổ, Đức Thầy có trọng trách thâu phục con nghiệt long, để cứu an bá tánh. Cho nên Ngài phải lâm phàm Khai Đạo, trước khi sự trạng ấy xảy ra, để dân chúng kịp thời lo cải dữ về lành, tu bồi công đức hầu thoát qua các tai nạn của cơ tận diệt.

    CHÚ THÍCH

    NHỨT DẠ: Một lòng.
    BÁ KẾ: Cũng viết là bách kế. Có nghĩa nhiều kế hoạch. Ý chỉ người có nhiều mưu mẹo để lường gạt kẻ khác.
    BỊNH ÔN DỊCH: (Xem CT câu 137, T-2, Q.2).
    NĂM DÊ: Năm Mùi, một trong 12 chi. (Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi.)
    MÙA HÈ: Mùa hạ, một trong bốn mùa của mỗi năm. Kể từ đầu tháng tư tới hết tháng 6 âl là mùa Hè.
    HỮU CHÍ: Có chí, bền chí, có ý định và quyết đeo đuổi tới cùng. Do thành ngữ “Hữu chí sự cánh thành” (có chí thì sự nghiệp được thành).
    Xưa, Tôn Tẩn theo học Đạo với Thầy Quỉ Cốc, thời gian thấy mình kém hơn Bàng Quyên, bèn thối chí trở về. Dọc đường gặo Bà Lão ngồi bên triền núi, cầm một thanh sắt lớn mài vô đá. Tôn Tẩn bước lại gần hỏi:
    - Bà Lão mài thanh sắt, ý định làm vật chi vậy ?
    Bà Lão đáp:
    - Mài cho thành cây kim để xài !
    - Mài như vậy có thể thành được sao ?
    - Nếu có chí bền thì vật chi lại không thành !
    Tôn Tẩn ngẫm nghĩ hồi lâu hiểu ý, bèn trở lên núi, tạ lỗi Thầy xin ở lại, từ ấy ông kiên chí tu học, quả sau được thành Đại La Thiên Tiên.
    Ngạn ngữ thường nói:“Làm người có chí thì nên, Có công mài sắt chầy ngày nên kim”. Và Cổ Đức cũng từng bảo:
    Thế thượng vô nan sự, Nhân tâm sự bất kiên.
    Tạc sơn thông đại hải, Phi vụ đổ thanh thiên
    Tạm dịch: Trên đời mọi việc dễ như chơi,
    Người chẳng bền lòng mới khó thôi.
    Xẻ núi kiên tâm thông bể cả,
    Vén mù thông suốt bốn phương trời.

    Đây có ý dạy người tu có chí bền mới mong kết quả.
    TÂY PHƯƠNG: Xem CT câu 279, T-2, Q.2).
    THỌ KÝ: Do Phạn ngữ (Scr) Vyakarana, phiên âm là Hoacalana, dịch là thọ ký. Có nghĩa trao cho sự ký chứng, hoặc là truyền dạy và ủy thác cho một sự việc gì. Chữ “Tây phương thọ ký” ở đây chỉ cho Đức Thầy được Đức A Di Đà và Đức Thích Ca truyền bảo và phó thác cho nhiệm vụ hàng phục con nghiệt long để cứu an bá tánh.
    NGHIỆT LONG: Con rồng hung dữ. Luận về nội tâm thì lòng độc hại là con rồng dữ. Còn luận theo cơ sấm, thì gần đến ngày tận diệt thế gian, sẽ có con thú (từ sấu tu sắp thành rồng) xuất hiện giết hại người hung dữ:“Chừng ấy nổi dậy phong ba, Có con nghiệt thú nuốt mà người hung”.(Sấm Giảng Q.1)(Xem thêm phần CT câu 446, T-1, Q.1).
    Khi xưa, trên đường độ thế, Đức Thích Ca có hàng phục con nghiệt long tại hang đá gần chỗ Ngài Ca Diếp ở. Lúc đó, Đức Phật vừa đi tới hang đá, độc long liền phun lửa làm hại Phật. Ngài liền dùng lửa tam muội đốt cháy hang đá và thâu độc long vào bình bát.
    Đến thời Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng có bắt một con rồng dữ. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh chép rõ truyện đó như sau:
    Thuở ấy, trước điện chùa Bửu Lâm có cái ao lớn, trong ao có một con rồng thường xuất hiện, làm diêu động cả cây rừng. Một ngày kia, rồng hóa hình rất lớn, làm cho sóng dậy nước trào, mây mù tối mịt, các môn đồ đều kinh hãi. Đại sư nghe, bước ra nạt rằng:
    - Ngươi có thể hiện hình lớn, mà không thể hiện hình nhỏ được. Nếu ngươi quả là Thần Long thì biến hóa được: nhỏ biến ra lớn, lớn biến ra nhỏ thử coi.
    Rồng ấy thoạt nhiên hụp xuống, giây lâu hóa hình nhỏ, nhảy lên bờ. Tổ sư đưa bình bát ra nói thách:“Chắc ngươi không dám chung vô bình bát của Lão Tăng ?” Rồng hăm hở nhảy tới trước mặt Tổ, Tổ sư thâu vào bình bát đem về chùa thuyết pháp cho rồng nghe. Nghe xong, rồng thoát xác đi mất. Bộ xương rồng ấy dài tới 7 tấc; đầu, đuôi, sừng, cẳng nguyên hiện, để lưu truyền tại chùa.
    Ngày nay Đức Giáo Chủ ra đời, cũng có trách nhiệm bắt con nghiệt long, đó là thường sự của Chư Tổ, chư sư, khi lâm phàm độ thế.
     
    Sửa lần cuối: 16/1/15
  2. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN
    221.-Khổ với thảm ngày nay có mấy,
    Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
    Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn,
    224.-Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.
    Trần với thế bây giờ nào biết,
    Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.
    Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
    228.-Sau danh thể xạ hương khắp chốn.
    Nhà giàu có xài không sợ tốn,
    Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn.
    Lo ăn xài trà rượu xình-xoàng,
    232.-Chừng khổ não phàn-nàn căn số.
    Lời truyền sấm như bài toán đố,
    Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.
    Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,
    236.-Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 221 đến câu 236)
    -Đoạn giảng trên Đức Thầy cho biết: sự khổ não hiện giờ chưa có là bao, nhưng đến sau nầy, ai trông thấy cũng phải bay hồn khiếp vía ! Đó là do cuộc chọn lọc: hiền còn dữ mất của cơ tận diệt, diễn nên cảnh núi xương sông máu, sự thảm khổ ấy không sao kể xiết.
    -Thế mà, dân chúng hiện giờ, đâu có hay biết để tìm phương giải thoát. Đợi đến chừng cảnh khổ ấy xảy ra, mới rõ là việc có thật thì sự quá muộn. Tuy bấy giờ, thấy sự tu hành Đạo đức quá đơn giản, thông thường, nhưng ngày sau kết quả rất cao quý và danh thơm sẽ bủa khắp thế gian.
    -Ở đời thường thấy nhiều người ỷ mình giàu có, tiêu xài không tiếc của, nên Đức Giáo chủ giác tỉnh họ: hãy tiết kiệm số tiền ấy mà trợ giúp kẻ nghèo khó để gây phúc hạnh sau nầy. Nếu ai mãi lo ăn xài xa xí, thì một ngày kia, cảnh khổ đưa đến, dầu có than thân tủi phận, cũng không sao tránh khỏi.
    -Ngài còn cho biết: những Sấm kinh của Ngài truyền dạy, ví như bài toán đố, nếu ai biết suy tầm tra cứu, cho thấu đạt lẽ cơ huyền và tiến hành y theo đó, tất được kết quả an nhàn:“Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo”.(Giác mê, Q.4) Tất cả lời khuyến tu của Ngài, là sự thật muốn cứu đời, chớ chẳng phải muốn lừa gạt một ai, mà trong dân chúng cứ mãi e dè ngờ vực.

    CHÚ THÍCH
    THA THIẾT: (Xem CT câu 79, T-2, Q.2)
    XẠ HƯƠNG: (Xem CT câu 106, T-3, Q.4).
    PHÀN NÀN: Than thở cho phận mình hay trách móc cách gián tiếp: Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai. (Cổ thi) Đức Thầy cho biết:
    “Chừng nào ta gặp Hớn Hoàng,
    Chúng sanh mới hết phàn nàn số căn”.(Sám Giảng, Q.3)
    CĂN SỐ: Căn phần số kiếp đã định sẵn theo nghiệp báo luân hồi.
    LỜI TRUYỀN SẤM: (Xem CT câu 484.T-2, Q.3)
    BÀI TOÁN ĐỐ: Một pháp toán do Thầy giáo ra đề cho học trò làm. Người làm toán phải hiểu ý đúng theo phương pháp đã giảng dạy mới đáp số đúng được. Có khi dùng mẹo mà đố, nếu ai chưa hiểu lý ắt khó mà đáp đúng.
    Lúc Đức Thầy lưu trú tại Sai Gòn, có ông xã Bộ và ba nhà học thức miền Bắc đến viếng. Trong câu chuyện bàn luận Sấm Kinh, Ngài có đố các ông ấy:
    - Tôi đố các ông, “hai lần hai là mấy” ?
    Ông Xã Bộ lẹ miệng, trả lời:
    - Bạch Thầy hai lần hai là bốn !
    Đức Thầy nói:
    - Toán đố mà các ông ! Nếu tính theo cửu chương thì em học trò tính cũng được.
    Các ông khách suy nghĩ một hồi không ra, đành chịu thua và nhờ Đức Thầy giải thích.
    Đức Thầy liền cầm miếng giấy đưa lên, nói:
    - Các ông coi đây: Một lần hai, rồi Ngài xé miếng giấy ra làm hai, để xuống bàn nửa miếng, còn nửa miếng cầm lại, nói tiếp:
    - Đây, hai lần hai ! Ngài liền xé miếng giấy còn lại và để hết hai mảnh giấy xuống bàn, nói:
    - Đó, hai lần hai là chỉ có ba, chớ đâu phải là bốn. Toán đố mà các ông !
    Ở đây ý Đức Thầy muốn dạy, mỗi ai khi xem đến lời Sấm Giảng của Ngài thì phải:“Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu”.(Kh/thiện, Q.5) Hoặc là:“Coi rồi phải nhận cho hiểu lý”,(Giác Mê TK, Q.4) rồi y cứ theo đó mà thực hành mới được kết quả.

    CHÁNH VĂN

    237.-Bị ngoại quốc bán hàng quá gắt,
    Nên dân ta chịu chữ cơ-hàn.
    Ta Khùng Điên của cải chẳng màng,
    240.-Miễn lê-thứ được câu hạnh-phúc.
    Cờ thế-giới ngày nay gần thúc,
    Nên Phật Tiên phải xuống hồng-trần.
    Chừng lao-xao ác thú non Tần,
    244.-Thì Nam-Quốc lương dân mới biết.
    Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết,
    Với xác trần du-thuyết ít hàng.
    Ai nói chi Ta cũng chẳng màng,
    248.-Sau biết đặng dân đừng có tiếc.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 237 đến câu 248)
    -Bởi hàng hóa của các nước ngoài, bán cho ta càng lúc càng tăng giá, khiến dân ta chịu cảnh lầm than đói rách. Thế nên Đức Giáo Chủ muốn đem lại cho đời cái chân hạnh phúc sau nầy, bằng cách là khai hóa Đạo mầu, nếu ai chịu thực hành theo ắt được toại hưởng.
    -Ngài còn cho biết cả thế giới, rồi đây sẽ xảy ra những tai vạ: chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật.v.v…nên Phật Tiên phải lâm phàm, tùy phương cứu độ. Và đến khi nào tại miền Bảy Núi (Châu Đốc) diễn ra cảnh các loài thú dữ, nhiễu hại sanh linh thì dân chúng Việt Nam mới nhận rõ, lời tiên tri của Ngài là đúng.
    -Hiện nay trong công cuộc dạy đời, Đức Thầy dùng giấy mực viết ra Kinh Giảng, truyền bá Đạo lành để bá tánh tiện bề tu học; dầu cho người đời có khinh chê, Ngài cũng không màng kể. Chỉ e cho dân chúng sau nầy, biết được sự Đạo đức là cao quý, rồi mới hối tiếc thì việc quá muộn !

    CHÚ THÍCH
    NGOẠI QUỐC: Nước ngoài, chỉ cho các nước khác.
    HẠNH PHÚC: Được vận may phúc tốt. Mọi việc đưa đến đều như ý. Chính hạnh phúc là cái tốt lành trong luân lý, và lý tưởng trong Đạo đức. Cổ thi có câu:“Tìm chân hạnh phúc thoát đường trái oan”. Đức Thầy từng nói trong bài “Không buồn ngủ”:
    “Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng,
    Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc”.

    LAO XAO: (Xem CT câu 129, T-1, Q.1).
    LƯƠNG DÂN: Người dân hiền lành. Nghĩa rộng chỉ chung tất cả dân chúng.
    DU THUYẾT: Đi khắp nơi đem học thuyết hay một đề án gì, biện luận cho mọi người nghe. Đây ý nói Đức Thầy đem giáo pháp truyền dạy khắp nơi, để bá tánh biết tỉnh ngộ tu hành.

    CHÁNH VĂN
    249.-Con phù-du hẫng-hờ nào biết,
    Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.
    Thảm thương thay chết héo chết khô,
    252.-Nhìn đèn nọ thấy mồ phù-dũ.
    Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
    Đeo danh-lợi như con vật ấy.
    Giống xe cát biển Đông thường thấy,
    256.-Tên dã-tràng rất uổng công-trình.
    Khi nước ròng nhờ lúc bình-minh,
    Lúc nước lớn cát kia tan rã.
    Trần phú-quí thì trần thong-thả,
    260.-Chớ còn Ta cứ khổ lao hoài.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 249 đến câu 260)
    -Đức Giáo Chủ sáng tác quyển Giác Mê Tâm Kệ nầy, vào cuối mùa Thu năm Kỷ Mão (1939). Ngài cảnh tỉnh người đời, bằng cách đề cập đến loại phù du, vì ham ánh sáng của bóng đèn mà phải chết thiêu, để ám chỉ hạng người đam mê danh lợi, gây tạo lắm điều tội ác, rồi phải chịu đau khổ chết chóc vì nó:Phú quí tạo đời thêm mệt xác, Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.(Luận việc Tu hành)
    Ngài lại nhắc đến tên Dã Tràng đã hoài công xe cát, ý mong lấp biển tìm châu, để thỏa lòng luyến tiếc, nhưng bị dòng nước lớn cuốn cát trôi đi. Đây cũng chỉ cho những người suốt đời lo chạy theo tiền tài danh vọng, song chẳng hề hưởng được lâu dài, bởi:Lợi danh chớp nháng như luồng gió, Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền”.(Luận việc Tu hành)
    -Lời giác tỉnh trên đây, mặc cho khách trần biết hồi tâm, hay mãi đua tranh theo sự giàu sang, sung sướng. Riêng phần Đức Thầy, vì lòng từ bi độ chúng, nên Ngài chẳng nài sự gian khổ:
    Thân ta dầu lắm đoạn trường,
    Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”.

    (Cảm tác)

    CHÚ THÍCH
    PHÙ DU: Một thứ côn trùng rất nhỏ, đầu giống con chuồn chuồn, nhưng nhỏ hơn. Sanh từ dưới nước, có cánh bay được, lúc ban đêm hễ thấy người ta đốt lửa, hoặc ánh sáng của ngọn đèn thì tự bay vào, rồi chết. Ý nói kiếp sống của con người quá ngắn ngủi, thấy đó rồi mất đi. Nhà thơ Cao Bá Quát có câu:Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Kiếp phù du trông thấy cũng nực cười”.
    Loại phù du cũng gọi là con thiêu thân, bởi nó thấy ánh sáng thì cứ lao đầu vào đó, nên bị chết đốt. Ở đây ám chỉ cho những người mãi tham đắm danh lợi, rồi phải chết vì lợi danh.
    HẪNG HỜ: Cũng đọc là hững hờ hay là hờ hững. Có nghĩa thờ ơ, lạnh nhạt, không quan tâm đến, không để ý đến. Đức Thầy từng bảo trong “Khuyến Thiện, Q.5”:
    Việc tu thân thiện tín hẫng hờ,
    Chừng họa đến e cho khó tránh”.

    PHÙ DŨ: Chỉ cho loại phù du vừa giải trên.
    TÊN DÃ TRÀNG: Cũng gọi là Công Dã Tràng tức là một loại còng nhỏ, trên lưng lõm xuống, thường ở theo bờ biển. Hễ nuớc ròng thì chúng dùng càng vít cát, rồi chở xuống mé nước đổ, để lấp biển, nhưng đến khi nước lớn bị sóng đánh vào, cát liền tan rã. Thành ngữ nầy dùng chỉ cho việc làm nào dày công cực nhọc mà không đem lại kết quả gì:“Dã tràng xe cát biển Đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”(Cổ thi). Ở đây ám chỉ cho những người, suốt đời chỉ biết đeo đắm danh lợi ảo huyền, nhưng khi gặp tai nạn đưa đến thì tất cả đều thả trôi theo dòng nước:“Từ rày trần hạ lợi danh trôi”.(Lộ chút cơ huyền)Và ngày rốt cuộc :Nhắm mắt cũng nắm hai tay”.(Khuyến Thiện Q.5)
    Sau đây là câu chuyện phát xuất thành ngữ Dã Tràng:
    -Ngày xưa, tại tỉnh Sơn Tây (Trung Hoa), có anh thợ săn tên là Dã Tràng, chuyên sống nghề săn bắn. Hôm nọ Dã Tràng đi ngang qua một hang đá, bỗng gặp đôi vợ chồng nhà rắn. Anh chẳng hề đá động đến, nhưng từ độ ấy anh luôn theo dõi cặp rắn, thấy chúng thường sống bên nhau, chừng như hạnh phúc lắm !
    Một hôm, rắn cái tới kỳ lột vỏ, rắn đực đi kiếm mồi về nuôi nấng, chăm sóc. Chẳng bao lâu, tới kỳ lột vỏ của rắn đực, rắn cái chẳng những không làm bổn phận, lại còn đi tư tình với con rắn đực khác, và dắt tình nhân về miệng hang toan hại chồng. Thấy thế, Dã Tràng động lòng nghĩa hiệp, quyết giết con rắn lang chạ ấy; anh liền rút tên, bắn rắn cái chết tốt, tình nhân của nó kinh sợ chạy mất.
    Mấy hôm sau, rắn đực cứng mạnh bò ra miệng hang, gặp vợ bị tên nằm chết, xem lại mũi tên có đề danh Dã Tràng, bèn tìm tới nhà báo thù. Rắn lẻn vô nằm núp dưới giường, bỗng nghe Dã Tràng thuật rõ câu chuyện xảy ra của cặp rắn cho vợ nghe. Bấy giờ rắn đực mới vở lẽ, vợ mình chết là đáng tội. Còn anh thợ săn nầy là ân nhân của ta, nó liền bò ra gật đầu trước mặt Dã Tràng mấy cái và nhả ra một hột ngọc sáng, rồi bò đi mất.
    Từ ngày Dã Tràng được rắn tặng cho viên ngọc, mỗi khi anh để ngọc vào miệng ngậm lại, nghe được tiếng của các loài thú. Hôm nọ, Dã Tràng nghe đàn quạ nói với nhau:“Phía đông, cách đây một dặm đường, có con nai tơ bị thương gần chết”. Dã Tràng đến đó gặp đúng như vậy, anh xẻ nai lấy thịt. Đàn quạ bay theo kịp, kêu nói:“Lấy thịt nai cho chúng tôi bộ đồ lòng, vì công ấy của chúng tôi”. Dã Tràng làm y theo lời quạ. Lần sau cũng thế, nhưng quạ chưa đến kịp, bị chó sói cướp mất bộ đồ lòng. Quạ bay theo trách móc Dã Tràng là kẻ bội ngôn…Dã Tràng biện minh thế nào, chúng cũng không thôi. Thấy quạ hỗn xược, mắng nhiếc đủ điều, Dã Tràng tức giận rút tên bắn quạ. Quạ né khỏi và cắn mũi tên bay đi, nói:“Ta sẽ báo thù, ta sẽ báo thù”, đoạn rồi nó đem mũi tên ấy cắm vào tử thi đang trôi.
    Thế là mấy ngày sau, Dã Tràng bị lính bắt về tội bắn người chết…Anh bị tống giam, chờ ngày lãnh án. Ngồi trong ngục, Dã Tràng nghe bầy chim sẻ nói:“Có nhiều kho lương của Vua để hở, đã bị loài chim ta ăn no nê”, anh bèn cho viên chủ ngục hay điều đó. Lúc đầu họ không tin, nhưng sự việc đúng y như vậy !
    Sau đó, Dã Tràng thấy đàn kiến kéo nhau di chuyển và nói:“Sắp có bão lụt lớn, chúng ta phải lánh nạn”, anh liền báo tin nữa. Lần nầy quan sở tại báo cáo về triều đình để ra lịnh ngừa lụt. Quả nhiên mấy ngày sau lụt lội tơi bời, nhưng nhờ ngừa trước, nên không bị thiệt hại cho lắm.
    Qua cơn lụt, vua ra lịnh tha cho Dã Tràng và vời anh về trào hỏi nguyên do ? Dã Tràng tâu rõ tự sự. Vua liền phong tước và cho ở bên Hoàng cung. Từ đó Vua thường mượn viên ngọc của Dã Tràng ngậm vào miệng, để được nghe tiếng của các loài chim nơi vườn thượng uyển.
    Ngày kia, Vua tổ chức du ngoạn vùng biển, cũng để được nghe các động vật dưới nước trò chuyện. Ngồi trên mạn thuyền, vua nghe các bầy cá tâm sự đủ điều, lòng thỏa thích vô hạn nên cười lên ha hả, bỗng viên ngọc rơi tõm xuống nước. Vua rất hối hận, nhưng không kịp, bèn huy động cả thợ lặn, chài, lưới để tìm lại viên ngọc, song vô hiệu.
    Riêng Dã Tràng thì sầu não, biếng ăn, biếng ngủ và sau cùng nảy ra ý “lấp bể tìm châu”, nên hằng ngày anh ra mé biển, xe cát đổ xuống cho đến khi thân cùng lực tận mà vẫn không tìm được ngọc.
    Sau khi Dã Tràng chết, người ta thấy trên bãi biển xuất hiện giống cua nhỏ (còng), cứ mỗi khi thủy triều xuống (nước ròng) thì chúng xe cát đổ thành đống sát mé nước; nhưng khi dòng thủy trỉều ùa lên (nước lớn) thì cát ấy bị tan đi. Cứ thế mà chúng mãi làm không chán. Thấy vậy, người ta bảo nhau rằng: Có lẽ Dã Tràng chết đi, vì lòng luyến tiếc chưa vẹn nên hóa kiếp làm loại còng nầy, với hoài bão lấp biển để tìm lại viên ngọc quí.
    Điển Dã Tràng, xưa nay văn chương thường dùng để chỉ cho sự lấp biển vá trời, là việc sức người không thể làm được, chỉ hoài công vô ích.
    Còn về Phật học thì ám chỉ cho vạn vật trong thế gian, cái gì có hình sắc hay quyền tước, lợi danh, tình ái đều phải đi theo định luật: thành, trụ, hoại, không, nên dù ta có nhọc công gầy tạo và tham luyến cũng chẳng được bền lâu.
    BÌNH MINH: Bình là yên lành phẳng lặng; Minh là biển. Đây chỉ cho mặt biển êm tịnh, không sóng gió.

    CHÁNH VĂN
    261.-Viết kệ-cơ giảng dạy ít bài,
    Mặc lê-thứ làm không tự ý.
    Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
    264.-Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
    Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
    Chớ chẳng phải của người lãng-trí.
    Mê với tỉnh nhận ra là lý,
    268.-Thấy dương-trần ngủ mãi ngủ hoài.
    Thức dậy mà tầm Đạo kiếm bài,
    Để thi-cử khỏi mang tiếng rớt.
    Sách khuyến-thiện miệng kêu không ngớt,
    272.-Mà nào ai có thức dậy tầm.
    Ta nghĩ suy cũng bắt hổ thầm,
    Nên than-thở cùng trần ít tiếng.
    Tâm sáng suốt như đài nguyệt-kiến,
    276.-Tánh trong như nước bích mùa xuân.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 261 đến câu 276)
    -Đoạn nầy ý cho biết lời kệ cơ khuyên dạy của Đức Thầy, mặc bá tánh có thi hành hay không, tùy ý. Nhưng nếu ai muốn làm theo thì khi xem đến Sấm giảng, cần suy tầm cho thấu hiểu lý thâm sâu trong đó mà thực hành, mới mong kết quả.
    -Tuy nói lời lẽ trong đây là của kẻ Khùng, nhưng toàn lời của bậc Phật, bậc Thầy, chớ chẳng phải như lời của bao nhiêu người lãng trí khác. Vậy hành giả nào có nhận xét và phân tách được, đâu là mê lầm và đâu là giác ngộ, mới rõ được chơn lý nhiệm mầu của Đạo.
    -Bởi thấy chúng sanh mãi ngủ vùi trong cảnh trần thống khổ, nên Đức Thầy kêu gọi họ sớm thức tỉnh tu hành, tìm hiểu cho rõ ràng: Tôn chỉ, mục đích và pháp môn, luật giới của Đạo, rồi cố gắng hành y theo đó, tất được kết quả. Ấy gọi là thi đậu, bằng không đặng vậy là thi rớt. Từ trước tới giờ Ngài đã truyền dạy rất nhiều Kệ Giảng, khuyên bá tánh bỏ dữ về lành, thế mà chưa được mấy người thức tỉnh suy tầm.
    -Do đó, Ngài cũng bắt thẹn thầm, nên không ngớt khuyến tấn người đời sớm tỉnh tâm tu niệm. Ngài còn dạy: Khi người tu hết vọng trần, tâm trí trở nên sáng tỏ như “Đài Nguyệt Kiếng” không một vật nào ngăn che được. Và tánh mình cũng tịch tịnh an nhiên, chẳng còn chút bợn nhơ trần trược.

    CHÚ THÍCH
    HUYỀN SÂU: (Xem CT đoạn 1, T-1, bài Sứ Mạng).
    LÃNG TRÍ: Cũng gọi là nhãng trí hay đảng trí. Có nghĩa không định trí, hay quên, nghĩ sai.
    MÊ VỚI TỈNH NHẬN RA LÀ LÝ: Câu nầy ý nói: người tu hành có phân tách và thấu hiểu được thế nào là mê, thế nào là tỉnh; tức là nhận rõ được chân lý của Đạo. Và từ chỗ đó hành giả nương về với tâm tỉnh giác để tiến đến quả Bồ Đề. Tỉnh Thế Ngộ Chơn có câu:
    Nhơn nhơn tỉnh ngộ, nhơn nhơn Thánh,
    Tại tại hôn mê, tại tại luân”.

    (Người biết tỉnh ngộ, ấy là người Thánh,
    Kẻ tạo hôn mê, tất phải luân trầm).
    Đức Thầy từng kêu gọi:
    Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
    Phải toan sắm sửa rứt trần ai”.

    (Tỉnh bạn Trần gian)
    TẦM ĐẠO KIẾM BÀI: Tìm cho hiểu đường lối, mục đích và tôn chỉ, giáo pháp của Đạo để tu tiến.
    SÁCH KHUYẾN THIỆN: Kinh sách khuyên người làm lành, lánh dữ, Đức Thầy có khuyên:
    "Ai mà muốn đặng phước duyên,
    Nghe lời khuyến thiện lòng liền phát tâm”.

    (K/thiện Q.5)
    HỔ THẦM: Tủi thẹn trong lòng. Đây ý nói vì chúng sanh quá mê mờ ít người hồi tâm, làm cho công cuộc giác đời của Đức Thầy chưa mấy kết quả, nên Ngài cũng âm thầm tủi phận.
    ĐÀI NGUYỆT KIẾNG: Nơi cõi U Minh, tại điện thứ nhứt của Tần Quản Vương, có cái đài treo một tấm kiếng, hình mặt nguyệt, gọi là Đài Nguyệt Kiếng; để dành soi ứng việc làm tội lỗi của các linh hồn không chịu cung khai. Nó có công năng diễn lại mọi hành động tội ác của tội nhân như cuồn phim chiếu bóng trên màn ảnh. Ở đây ý nói, tâm của người tu khi được tròn sáng thì thấu suốt vạn vật. Đức Thầy từng cho biết:
    Ta chí dốc tầm Đài Nguyệt Kiếng,
    Cho dương trần rọi chuyện sai lầm”.
    NƯỚC BÍCH: Do chữ Bích Thủy. Có nghĩa: nước biếc, nước trong xanh. Nước bích mùa xuân là nói nước sông vào mùa Xuân rất trong lặng một màu xanh biếc.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 277 tới câu 354)
    277.-Nếu không tu chừng khổ cũng ưng,
    Đừng có trách sao không chỉ bảo.
    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
    280.-Mắc trong vòng sanh tử luân hồi.
    Xuống Diêm-Đình thấy tội hỡi ôi !
    Đó mới biết có nơi địa-ngục.
    Kỳ xá tội nay còn một lúc,
    284.-Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ.
    Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ,
    Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.
    Địa-ngục cũng tại Tâm làm quấy,
    288.-Về thiên-đàng Tâm ấy tạo ra.
    Cái chữ Tâm là Quỉ hay Ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó.
    Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,
    292.-Nếu lặng Tâm tỏ-ngộ Đạo mầu.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 277 đến câu 292)
    -Theo ý đoạn giảng trên, nếu ai chịu thi hành y lời khuyên dạy của Đức Thầy, thì được chứng Đạo; bằng chẳng tu, đợi khi gặp cảnh khổ đưa đến, phải đành chịu, chớ đừng trách Phật Tiên “sao không chỉ bảo”. Ngài cũng cho biết, khắp chúng sanh trong cõi trần, dầu già, trẻ, trí, ngu, ai cũng phải chịu cảnh chết đi rồi sanh trở lại, và cứ thế mà lên xuống mãi trong sáu đường luân hồi thống khổ:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    -Lại nữa, có nhiều người trong kiếp sống, không tin Phật pháp và luân hồi, nhân quả, nên họ mãi gây tội ác. Kịp khi tử thần gõ cửa, bị đọa vào cảnh giới Địa ngục, phải chịu sự hình phạt đau đớn muôn phần; chừng ấy dầu muốn hối lỗi cũng không sao tránh khỏi. Đức Thầy từng khuyến cáo: thời kỳ “Thiên đình ân xá bớt tội căn…”, chẳng còn bao lâu nữa là hết hạn, sao chúng sanh không sớm thức tỉnh tu hành để được hưởng mọi điều cao quí.
    -Bởi có lắm người không để ý đến lời Kinh, tiếng Kệ, Đức Thầy mới nói rõ lý nhân quả: hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy, để cho mọi người trọn tin nơi việc làm lành hưởng phúc, tạo ác mang tai. Và Ngài cũng cho biết: muôn vật trong thế gian, từ san hà đại địa, đến vạn loại chúng sanh và mọi sự thăng trầm vui khổ, Địc ngục hay Thiên đường, thành Tiên Phật hay làm ma quỉ…cũng đều do tâm mình ra cả. Nghĩa là tùy theo tâm thức của mỗi người, mà có thể tiến lên cảnh siêu thoát an vui, hay bị đọa vào chỗ thấp hèn tội khổ.
    -Vậy ai muốn được cao cả, phải sớm thức tỉnh tu hành, và nếu biết rõ phương cách cũng chẳng khó lắm. Hễ giữ lòng mình được thanh tịnh trừ hết phiền não ngã chấp, tất nhiên được “tỏ ngộ Đạo mầu”.

    CHÚ THÍCH
    LUÂN HỒI: (Xem CT đoạn 1, T-1, bài Sứ Mạng)
    DIÊM ĐÌNH: (Xem CT câu 319, T-2, Q.2)
    ĐỊA NGỤC: (Xem CT câu 66, T-1, Q.1).
    XẢ TỘI: Cũng đọc là xá tội. Có nghĩa: tha tội, miễn tội, cũng như cuộc ân xá, ân giảm cho các tội nhân. Trong Giảng “Mười Một Hồi” Ngài Huệ Lựu bảo:
    “Phật đà cảm động lòng thương,
    Nói cho ai nấy muốn còn tu thân.
    May mà Trời Phật bố ân,
    Xả bớt tội đó thanh nhàn tấm thân”.

    THIÊN ĐÀNG: Cũng đọc là Thiên đường, tức là cõi Trời. Đây chỉ cho cảnh siêu thoát, thường an nhiên tự tại, đối với cảnh Địa ngục, là nơi bị buộc ràng đầy lao khổ. Đức Thầy có câu:
    Thiên đường siêu thoát thời thong thả,
    Địa ngục trầm luân ắt đảo điên”.

    (Tỉnh bạn Trần gian)
    CÁI CHỮ TÂM MÀ QUỈ HAY MA, TIÊN HAY PHẬT CŨNG LÀ TẠI NÓ: Hai câu giảng nầy là nói lên cái lý “Nhứt thiết duy tâm tạo”. Tất cả muôn pháp, muôn cảnh, từ tốt xấu, cao thấp, trí ngu; đến Phật, Tiên, Thần, Thánh hay ma quỉ, cũng đều do tâm tạo ra cả. Trong “Tâm Địa Quán Kinh”, Phật bảo:“Tâm như Họa sư, năng họa chủng chủng sắc cố. Tâm như đồng bộc vi chư phiền não sở sách dịch cố. Tâm như Quốc vương khởi chủng chủng tự đắc tại cố. Tâm như oán tặc, năng linh tự thân thọ đại khổ cố”.(Tâm như thợ vẽ, vẽ được tất cả các thứ hình sắc. Tâm như đứa tớ bé, bị các phiền não thúc hối và sai khiến. Tâm như vị Quốc vương, phát khởi được các việc an vui tự tại. Tâm như cừu thù, khiến tự thân phải chịu các điều thống khổ).
    Và trong “Pháp Bửu Đàn Kinh”, Đức Lục Tổ cũng nói:“Lòng từ bi, tức là Quan Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng và chánh trực) tức là Di Đà”.
    Ngược lại, “lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối trá là quỉ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là Địa ngục, lòng ngu si là súc sanh”. Đức Thầy hiện nay cũng cho biết:
    Làm gian ác là quỉ là ma,
    Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    TỎ NGỘ ĐẠO MẦU: Thấu đạt cái chơn lý diệu mầu của Đạo, gọi tắt là ngộ Đạo, tức là cái tri kiến chơn thật bừng mở ra, liền chứng ngộ Đạo Bồ Đề mà kinh Pháp Hoa thường gọi “Ngộ Phật Tri Kiến”.
    Xưa, Ngài Huy Sơn đến Giang Tây tham học với Tổ Bá Trượng. Tổ vừa thấy liền biết Ngài là bậc đã học đến chỗ sâu kín, bèn cho làm đầu trong đại chúng.
    Hôm nọ, Huy Sơn đang đứng hầu, Tổ kêu Ngài, bảo:
    -Vào trong nhà lấy lửa !
    Ngài vào trong khươi tro hồi lâu trở ra nói:
    -Bạch Thầy ! Trong lò không có lửa.
    Tổ tiên rời chỗ ngồi, bước đến lò lửa bươi sâu xuống, gắp được cục lửa đỏ, đưa lên cho Huy Sơn xem và thốt:
    -Ngươi nói không có lửa, chớ cái gì đây ?
    Ngài Huy Sơn nhơn đó mà tỏ ngộ chơn tánh.
    Câu chuyện trên cho ta thấy; Huy Sơn bươi lò tìm không ra lửa, ý nói chưa rõ tâm mình có Đạo (chơn tánh), và cũng chưa biết phương pháp, nên chưa tỏ ngộ. Còn Tổ sư bươi lò được lửa đưa lên, khiến cho Huy Sơn tỏ ngộ. Ý nói nhờ có Thầy chỉ cho phương cách, Ngài mới hoát nhiên trực nhận bản tâm, liễu ngộ chân tánh.
    Xưa, Ngài Thanh Lương Quốc Sư bảo:“Cái chí lý của Đạo vốn nơi tâm, pháp của tâm vốn nơi vô trụ, tâm vô trụ rất mầu sáng, không tối tăm. Tánh và tướng đều yên lặng, trùm khắp muôn đức, muôn dụng, gồm nhiếp trong ngoài rất sâu rộng, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, không trước không sau, tìm nó không ra, bỏ nó không mất. Mê đắm hiện cảnh thì khổ não rối ren. Bằng tỏ ngộ được chơn tánh thì rỗng thông sáng suốt”.
    Hiện nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng nói rõ:“Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo”, mà ai muốn được tỏ ngộ, tức phải lặng tâm:“Nếu lặng tâm tỏ ngộ Đạo mầu”.

    CHÁNH VĂN
    293.-Cảnh dương-gian muôn thảm ngàn sầu,
    Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
    Sông với núi trước kia mắt ngó,
    296.-Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
    Ai biết đường hãy sớm tẩu-đào,
    Kiếm Đạo-lý mà nhờ mà nhõi.
    Chịu cay-đắng tu hành mới giỏi,
    300.-Ta thương đời len-lỏi xuống trần.
    Đạo vô-vi của Phật ân-cần,
    Nối theo chí Thích-Ca ngày trước.
    Câu phú-quí Ngài không màng-ước,
    304.-Chữ bồ-đề như cội bá-tòng.
    Rán dưỡng-nuôi chữ đó trong lòng,
    306.-Thì là được định chừng diệu-quả.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 293 đến câu 306)
    -Đoạn kệ trên Đức Thầy diễn tả lý vô thường, khổ não, vô ngã. Ý chỉ con người sống trong cảnh trần, phải gánh chịu muôn ngàn đau khổ, nào sự sanh, già, bịnh, chết; nào mưu cầu chẳng thành, thương yêu ly biệt, oán ghét gặp nhau, và ưu sầu lo ngại. Tất cả đều dồn vào một chữ khổ. Hơn nữa, trong lúc sống còn, dẫu ta có tạo bao nhiêu của tiền đài các…Cho đến mọi cảnh vật sơn hà đại địa…Nhưng đến ngày giã biệt cõi đời, ta chẳng mang theo được một sự vật nào cả. Đúng là “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ”.(Khuyến Thiện, Q.5)
    -Vậy ai rõ được lý trên, hãy sớm tìm con đường Đạo lý hầu thoát ly cảnh khổ. Song trên bước hành Đạo, nhà tu cần rèn luyện đức kiên nhẫn: nhịn tất cả lời cay tiếng đắng và vượt qua mọi khó khăn thử thách, để đạt thành mục đích.
    -Bởi lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy đã nhiều lần nhập thế, đem chánh pháp vô vi hưng truyền trong đại chúng. Ngài nêu tấm gương hy sinh tầm Đạo của Đức Thích Ca:“Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ, Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”,(Luận việc tu hành) để khuyên nhủ tín đồ nên phát tâm Bồ đề. Bởi có lòng Bồ đề nhà tu mới đủ nghị lực lướt qua mọi gian khổ, cũng như loại tòng bá, chẳng hề bị tuyết sương làm tàn cỗi. Và nếu ai biết nuôi dưỡng hột giống giác ngộ ấy nơi tâm mãi, thì quả vị Chánh giác lo gì chẳng đạt thành.

    CHÚ THÍCH
    DƯƠNG GIAN: Cũng gọi là nhân gian hay dương thế, dương trần. Chỉ cho cõi đời, nơi loài người sanh sống.
    TẨU ĐÀO: Chạy trốn cho khỏi. Đức Thầy có câu:Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan”.(Thiên lý ca)
    ĐẠO LÝ: (Xem CT câu 155, T-1, Q.1).
    LEN LỎI: Chen mình vào, cố chen cho vào được. Ví dụ: Dầu gặp cản trở vẫn len lỏi vào. Đây ý nói mặc dù đời có nhiều bạc đãi, đầy khó khăn cản trở, nhưng Đức Thầy cũng đã nhiều lần nhập thế độ dân.
    VÔ VI: (Xem CT câu 290, T-2, Q.2).
    THÍCH CA: (Xem CT câu 390, T-2, Q.2).
    BỒ ĐỀ: Phiên âm của Phạn ngữ (Bodhi) Tàu dịch là Chánh Giác. Có nghĩa: lòng giác ngộ chơn chánh. Đức Thầy đã nói:“Lòng Bồ đề sắt đá dám kình”.(Diệu pháp Quang minh)
    DIỆU QUẢ: Quả vị thù diệu của Bồ đề và Niết bàn, do các thắng nhân tu hành mà được.(Thắng nhân là người có năm sức lực siêu thắng (ngũ lực).

    CHÁNH VĂN
    307.-Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn-ngã,
    Người nào đâu có Phật-tánh là.
    Xem kệ này như ngọc như ngà,
    310.-Phải nảy nở như cơn mưa thuận.
    Hạp mùa tiết giống kia bất luận,
    Thảy mọc mầm trổ lá mới mầu.
    Trông chúng-sanh nghĩ tận đuôi đầu,
    314.-Về Cực-Lạc mới là hết khổ.
    Đạo với lý từ đây nhiều chỗ,
    Phải lọc-lừa cho kỹ mà nhờ.
    Chọn nơi nào đạo chánh phượng thờ,
    318.-Thì mới được thân sau cao-quí.
    Nhìn Phật-Giáo mà tìm cái lý,
    320.-Coi tại sao ta phải tu hành.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 307 tới câu 320)
    -Đức Giáo Chủ cho biết, lời luận giải Đạo đức của Ngài, chẳng hề để tâm phân biệt một cá nhân nào, mà vì lòng từ bi của người đã tìm ra chân lý giải thoát, nay có bổn phận giác tỉnh kẻ trần gian:“Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo”.(Sám Giảng Q.3) Cũng như trời mưa không dành riêng cho loại hoa cỏ nào mà bất cứ nơi đâu, hễ có sẵn hột giống và hạp thời tiết thì tự nhiên nức mầm nẩy tược. Vậy ai là người đã có hạt giống Phật, và hữu duyên cùng Đạo pháp, khi nghe đến lời Kệ nầy, hãy sớm tỉnh ngộ tu hành; bởi hiện tình là hợp thời và đúng lúc, cho các căn lành chớm nở.
    -Đức Thầy rất mong đợi mọi người, khi xem Kệ Giảng của Ngài, hãy sớm nghĩ suy cạn lẽ để thấy rằng: đối với cõi Ta bà thống khổ, chỉ có cõi Cực lạc là nơi an vui trường cửu:
    Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
    Có bao người xét cho tột chỗ.
    Tịnh độ vui, tịnh độ nhàn vui,
    Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi,
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo”.

    (Kh/thiện Q.5)
    Nhân đó, Ngài khuyên chư thiện tín, nên nhứt tâm niệm Phật làm lành, để được vãng sanh về Lạc Quốc.
    -Ngài cũng nói rõ, giữa thời nầy có rất nhiều mối Đạo ra đời, tà chánh lẫn lộn:Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân. (Thiên lý ca) Vậy ai muốn tu hành, hãy dùng trí sáng suốt của mình mà chọn lọc cho kỹ, xem nền Đạo nào thật sự là giải khổ cho chúng sanh. Và có đủ giới luật, tôn chi, cũng như phương pháp tu hành, để đưa chúng sanh đến mục đích giải thoát mà nương theo, tất tương lai được kết quả cao quí. Bằng ngược lại, sẽ lạc vào tà thuyết, mê tín, rất nguy hại cho đời mạng ta:“Lầm tà đạo nhơn hư bất dụng”.(Kim cổ Kỳ quan của Ô. Ba Thới)
    -Song muốn cho sự tu hành được kết quả chắc chắn, hành giả phải nghiên cứu sâu vào giáo lý Đạo Phật, coi tại sao ta phải tu, tu với phương pháp nào và được kết quả ra sao ? Có thế ta mới vững đức tin và gắng sức tu tiến đến ngày viên mãn.

    CHÚ THÍCH

    LỜI THUYẾT PHÁP CHẲNG VÌ NHƠN NGÃ: Câu giảng nầy ý nói lời thuyết pháp của Đức Thầy, chẳng hề có lòng phân biệt, người và ta trong chỗ cao thấp, trí ngu mà chỉ vì lòng từ mẫn. Ngài có bổn phận đánh thức kẻ còn mê để sớm được tỉnh giác. Trong Hoa Nghiêm, Phật có nói;“Ví như mặt trời mọc, trước tiên chiếu các dãy núi chúa, kế đến chiếu tất cả núi lớn, rồi chiếu núi Kim Cang Bảo, sau rốt chiếu khắp đại địa. Ánh sáng mặt nhựt chẳng nghĩ rằng: trước tiên ta nên chiếu các núi chúa lớn, lần lượt mới chiếu đến đại địa. Nhưng vì núi non đất liền có cao thấp, nên ánh sáng chiếu có trước sau. Tâm của Đức Như Lai cũng y như vậy, Ngài thành tựu vô lượng vô biên pháp giới trí huệ, nhựt luân thường phóng vô lượng trí huệ quang minh vô ngại, trước hết chiếu các vị Bồ Tát,…Kế đến chiếu các bậc Duyên Giác, Thinh Văn, kế nữa chiếu những chúng sanh có thiện căn, quyết định tùy theo chỗ đáng hóa độ. Sau cùng chiếu đến cả thảy chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định, vì họ mà làm nhơn duyên lợi ích cho đời vị lai…”
    Đức Thầy hiện nay cũng từng nói:
    “Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    CỰC LẠC: (Xem CT câu 28, T-2, Q.2)
    ĐẠO CHÁNH: (Xem CT câu 161, T-2, Q.2).
    NHÌN PHẬT GIÁO MÀ TÌM CÁI LÝ, COI TẠI SAO TA PHẢI TU HÀNH: Hai câu giảng trên có ý khuyên mỗi người hãy nhìn sâu vào Giáo lý của nhà Phật để tìm hiểu coi do đâu mà ta phải tu ?
    Thấy rằng, xưa nay số người tu hành rất đông, nhưng trường hợp phát tâm thì ít ai giống ai, xét bởi cơ duyên và trình độ chẳng đồng nhau. Song căn cứ vào giáo lý của Đức Phật, Đức Thầy ta có thể đại lược một ít lý do chánh như sau:
    1/- Vì muốn cứu khổ vạn loại chúng sanh: Bởi lòng từ bi, thấy chúng sanh mãi luân chuyển trong bể trần thống khổ, nên các bậc đại căn đại trí, phát tâm tìm Đạo để giải khổ cho muôn loài. Như trường hợp Đức Thích Ca cùng chư Bồ tát trước kia. Cũng như Ngài Kim Sơn Phật hiện nay cho biết:“Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời”.(Sám Giảng Q.3)
    2/- Vì có duyên lành gặp được Phật pháp: Bởi có gieo sâu duyên lành với Đạo pháp, trong nhiều tiền kiếp, nên kiếp nầy vừa nghe được lời sấm kinh là chúng ta phát tâm tu niệm. Ví như có hột giống sẵn, hễ gặp mưa thì nứt mầm đâm tược:
    Duyên lành rõ được Khùng Điên,
    Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    3/- Vì tin nơi luật Nhân quả: Bởi nhận xét sự trả vay của luật nhân quả rất nghiêm minh, hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy; mọi cuộc sống sang hèn vui khổ trên đời, đều do nghiệp nhân của mỗi người đào tạo vừa qua mà bây giờ nó trả lại:“Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.(Giác Mê TK, Q.4) Và:
    Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

    (Kh/Thiện, Q.5)
    Do đó chúng ta cải ác tùng thiện.
    4/- Vì nghĩ đến nỗi khổ của xác thân: Xét thấy xác thân là nguyên nhân của sự khổ, hễ có sanh ra tất có già, bịnh, chết và mọi sự ái ân phiền não ràng buộc không ngừng. Khi chết đi chưa phải là hết khổ, thần thức phải tùy theo nghiệp lực, mà tạo thành thân chúng sanh khác, để rồi tiếp tục chịu khổ. Đối với cảnh giả tạm đau khổ nầy, là có Niết Bàn, Cực lạc. Thân người ở cõi ấy:“Không già không bịnh chẳng ngày nào lo”.(Từ giã làng Nhơn Nghĩa) và an lạc trường miên, vì thế chúng ta mới phát tâm tu hành để thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử.
    5/- Vì tin sự chuyển biến của lý Tam ngươn: Bởi nhận xét quả Địa cầu sắp đến ngày biến hoại, nhân sanh phải trải qua cuộc tang thương biến đổi, để lập lại Thượng ngươn, mà bấy giờ chỉ có những phần tử ưu tú, thiện lương mới được tồn tại:
    Khắp lê thứ biến vi thương hải,
    Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn”.

    Và:
    “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
    Người tu niệm sống đời thượng cổ”.

    (Kệ Dân Q.2)
    Đại khái 5 lý do vừa kể trên, tùy theo căn duyên của mỗi người mà lý do nào cũng là nguyên nhân khiến chúng ta phát tâm hành Đạo.

    CHÁNH VĂN
    321.-Vì yêu dân Ta kể ngọn-ngành,
    Khuyên lê-thứ làm lành mà tránh.
    Cảnh Niết-Bàn là nơi cứu cánh,
    324.-Về chốn ni xa lánh hồng-trần.
    Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhờ hai chữ trung-quân ái-quốc.
    Chừng lập Hội biết ai còn mất,
    328.-Giờ chưa phân chưa biết chánh tà.
    Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,
    Đền Linh-Khứu sơn trung chịu mạng.
    Nền đạo-đức Ta bày quá cạn,
    332.-Mà dương-gian còn gạn danh từ.
    Làm cho Ta lỡ khóc lỡ cười,
    Khóc là khóc thương người ngu muội.
    Thấy Điên Khùng làm như sắt nguội,
    336.-Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi.
    Ngó về Tây niệm chữ từ-bi,
    338.-Cười trần-thế mê-si thái quá.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 321 đến câu 338)
    -Bởi lòng quá thương xót dân sanh, nên Đức Thầy đem nguồn Đạo lý giải bày cặn kẽ, khuyên mọi người sớm hồi tâm hướng thiện, để được tránh khỏi cảnh khổ đau giả tạm. Nếu ai y pháp tu hành, đúng theo đường lối mà Ngài đã vạch, tất được siêu sanh về cõi Tịch tịnh (Niết Bàn). Chính nơi ấy là mức giải thoát cuối cùng của nhà tu. Bằng ai chưa trừ dứt hoặc nghiệp phiền não, chỉ lo tu tròn nhân Đạo, bảo vệ Quốc dân, cũng đặng liệt vào bậc Thần Thánh.
    -Hiện giờ chánh tà còn đang lẫn lộn, nhưng đến ngày Phật Tiên lập hội Long Hoa, sẽ có cuộc chọn lọc, khi ấy sự chơn giả tà chánh rất phân minh:“Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.(Thức tỉnh một nữ Tín đồ) Đức Thầy còn cho biết: Ngài lâm phàm độ chúng, là vì vâng sứ mạng của Đức Phật Tổ tại Linh Khứu Sơn.
    -Ngài giảng dạy giáo pháp rất đầy đủ, rành mạch cho bá tánh nghe, thế mà có nhiều người mãi còn nghi nan gạn hỏi, làm cho lòng Ngài bắt buồn cười, rất thương xót cho những kẻ quá si mê, mờ ám.
    -Cũng có lắm người thấy Đức Thầy ra đời dạy Đạo, đầy lòng nhu hoà nhẫn nhịn, chẳng hề tranh luận, hơn thua với ai, họ lại khinh chê nhạo báng. Nhưng Ngài lúc nào cũng yên tâm hướng về Đức Phật và nhủ lòng thương xót các chúng sanh đó, vì quá tối tăm nên phải lầm lỗi đáng tiếc !

    CHÚ THÍCH

    NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ (Nirvara) Tàu dịch có nhiều nghĩa như sau:
    a)- Diệt độ: một cõi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.
    b)- Viên tịch: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần, gọi là viên; trí huệ cụ túc dứt sạch nghiệp chướng, khổ lụy gọi là tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch, để thoát trầm nịch khổ hải.
    c)- Tịch diệt: lặng lẽ, trống không và dứt hết các họa hại của sanh tử.
    d)- Bất sanh bất diệt: Chẳng còn một niệm sanh nên chẳng còn sự chết khổ.
    e)- Vô vi: không có nhơn duyên tạo tác, không có bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt.
    g)- Giải thoát: Chẳng còn các vi tế phiền não ràng buộc.
    h)- An lạc: Yên ổn khoái lạc, dứt hết nghiệp nhân khổ não.
    Lại nữa cảnh trí Niết Bàn có bốn đức, gọi là “tứ đức Ba La Mật” (Giải thoát cõi mê, sang qua bờ giác), tức là: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã và chơn tịnh.
    -Chơn thường: Là đạt được cái tánh thể Niết Bàn (Pháp thân thường trụ) chẳng biến đổi, không sanh không diệt; nhưng lại thường tùy duyên ứng dụng không dứt.
    -Chơn lạc: Thường thường an vui, dứt hết khổ lụy, lại vận dụng các pháp, hợp với chơn tâm một cách tự tại.
    -Chơn ngã: Vào tới cái thể chơn thật (đại ngã) và ứng dụng độ chúng không chi ngằn ngại.
    -Chơn tịnh: Được vào cái thể an nhiên trong sạch lại tùy duyên khai hóa chẳng hề bị ô nhiễm trần trược. Trong Pháp Bửu Đàn Kinh, Đức Lục Tổ nói :
    Ấy tịch diệt chơn thường lạc hiện,
    Thế mới là thật diệu Niết Bàn…”

    Đức Thầy hiện nay cũng khuyên:
    Tầm vô vi kiếm cảnh Niết Bàn”.

    (Diệu pháp QM)
    Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.(Bài nguyện trước bàn thờ Ông Bà)
    Sự chứng đắc Niết Bàn lại chia làm hai thời kỳ:
    1/- Nhà tu nhờ nương theo “Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo”, diệt trừ hết tập nghiệp vô minh phiền não nên được chứng quả A La Hán, tức đắc Niết Bàn; nhưng vẫn tiếp tục hành hóa Đạo mầu, rộng độ chúng sanh, đây gọi là “Hữu dư Niết Bàn”, như trường hợp các Đại đệ tử của Đức Phật.
    2/- Những bậc đã qua thời kỳ tu hạnh “Lục Ba La Mật”(Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ) tiến tới thi hành “Tứ vô lượng tâm”,( Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) dẫn đến khi hoàn toàn thanh tịnh: tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn, tức đạt quả vị Bồ Tát và Như Lai, và đến ngày nhập diệt gọi là đắc “Đại Niết Bàn”. Ấy cũng gọi là “Vô dư Niết Bàn”, như trường hợp Đức Bổn Sư Thích Ca.
    Kinh Đại Niết Bàn, Phật bảo:“Tất cả phàm phu vì nghiệp chẳng thanh tịnh nên chẳng có Niết Bàn. Như Lai vì nghiệp thanh tịnh nên gọi là đại định, do đại định nên gọi là “Đại Niết Bàn”.
    CỨU CÁNH: Phiên âm của Phạn ngữ Utara. Có nghĩa cái kết quả cuối cùng, giải thoát rốt ráo. Đại thừa khởi Tín luận có câu:Lìa tất cả khổ não, Tất được an lạc cứu cánh. Và trong “Bát Nhã tâm Kinh” cũng nói:Bực Bồ Tát nhờ nương theo các đại hạnh trí huệ, tâm không quái ngại, lìa xa những điên đảo mộng tưởng, nên được cứu cánh Niết Bàn”.
    Vậy cứu cánh là chỗ giải thoát rốt ráo của nhà tu Phật.
    CHỐN NI: Chốn nầy, chỉ cảnh cứu cánh Niết Bàn vừa kể trên.
    HỒNG TRẦN: (Xem CT câu 249, T-1, Q.1).
    THẦN: (Xem CT câu 24, T-2, Q.3).
    TRUNG QUÂN ÁI QUỐC: Lòng ngay thật thương yêu Quốc dân (Xem thêm phần CT câu 586, T-2, Q.3 và câu 290, T-1, Q.1).
    NGỌC TÒA: Chỗ an tọa (ngồi) bằng ngọc, chỗ ngai vị cao quí. Đây chỉ nơi Đức Phật Tổ ngự. Đức Thầy thường nói:“Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai ta”.(Tối Mùng Một)
    LINH KHỨU: Phạn ngữ Grudhakyta, phiên âm là Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa có nhiều danh xưng: Linh Khứu Sơn, Linh Thứu Sơn, cũng gọi là Kê Túc Sơn. Một ngọn núi ở gần thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, thuộc Trung bộ xứ Ấn Độ. Đứng xa nhìn nó như con chim Khứu (Kên kên) nên gọi là Khứu Lĩnh. Lúc Đức Phật Thích Ca còn trụ thế Ngài thường cu hội đại chúng thuyết pháp. Có lần Ngài thuyết Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa tại đây. Kinh Sách xưa nay thường dùng Linh Thứu Sơn để chỉ cho xứ Phật hay chỗ Phật ngự. Đức Thầy nay cũng từng bảo:
    Quyết đưa chúng về nơi Non Thứu,
    Tạo lư bồng ngỏ hội quần Tiên”.

    (Diệu pháp Quang minh)
    TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, T-1, bài Sứ Mạng)
    THÁI QUÁ: Quá chừng mực, quá lắm, vượt hơn mức bình thường.

    CHÁNH VĂN

    339.-Tranh với luận đặng giành cơm cá,
    Khuyến-dụ người đặng kiếm bạc tiền.
    Thấy chúng-sanh ghét ngỏ ganh hiền,
    342.-Theo chế-nhạo những người tu tỉnh.
    Tu không tu cũng không mời thỉnh,
    Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê.
    Thương lê-dân còn mảng say mê,
    346.-Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng.
    Thấy Ta lại nói cay nói đắng,
    Đắng với cay Ta cũng chẳng màng.
    Chừng trần-gian kiến thấy phụng-hoàng,
    350.-Sè cánh múa chào mừng Phật Thánh.
    Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh,
    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm.
    Ai biết tri việc phải cứ làm,
    354.-Sau mới biết ai Phàm ai Thánh.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 339 đến câu 354)
    -Người sống trong thế gian, phần đông mãi lo tranh giành lợi lộc, họ dùng đủ mưu mô xảo quyệt dụ dỗ dân chúng, lợi dụng tiền bạc. Hễ thấy ai có tài năng, đức hạnh hơn mình thì ghét ghen, đố kỵ, khinh chê gièm siểm.
    -Do đó, Đức Thầy cho biết: Lời khuyến tu của Ngài, mặc tình ai kính mộ tu hành, hay chê bai khinh rẻ. Chớ lòng Ngài lúc nào cũng thương hết chúng sanh, mãi còn đắm say trong cảnh đời ảo mộng, nên Ngài dùng đủ phương tiện đánh thức họ sớm tỉnh ngộ tu hành, hầu vượt qua mọi khổ nạn tới dây.
    -Lại có hạng người thấy sự độ dân của Đức Thầy, chẳng những không nhận được, còn dùng đủ lời cay đắng; nhưng dù họ đối xử bất nhã như thế nào, Ngài cũng chẳng màng kể. Ngài còn tiên tri đến chừng nào dân chúng được nghe:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng” tất được thấy:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.(Không buồn ngủ)
    Thêm nữa, trên con đường học Phật và tu Phật để tiến tới mục đích giải thoát, đa số người tu chỉ thấy Đạo lý qua mặt văn tự và lời luận giải, chớ ít ai thấy được chân tánh của mình; bởi nó còn lẫn lộn trong tâm hồn của mỗi chúng sanh, ví như chất vàng còn lộn quặng. Do đó, Đức Giáo Chủ dạy tín đồ hãy:“…tìm kiếm chân tánh của mình”. Muốn thế hành giả cần xoay vào nội tâm, theo dõi tư tưởng từng giây, từng phút, rồi dùng trí huệ thanh lọc hết vọng trần phiền não, tất màn vô minh tan mất, Phật tánh hiện bày:“Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.(Sám Giảng Q.3)
    Vậy ai là người đã suy tầm thấu rõ chơn lý của Đạo, thì cứ hành y theo Tôn chỉ của Đức Thầy đã vạch cho đến ngày kết cuộc, tất sẽ thấy rõ ai phàm ai Thánh.

    CHÚ THÍCH
    GHÉT NGỎ GANH HIỀN: Cũng gọi là ganh hiền ghét ngỏ. Là một thành ngữ để chỉ cho những kẻ thấy ai có tài đức, được nhiều người mến chuộng thì hay ghét ganh đố kỵ. Đức Thầy từng nói:
    Thấy Đạo lý còn lu chưa tỏ,
    Dân ganh hiền ghét ngỏ làm chi”.(Thiên lý ca)
    TRỌNG KỈNH: Cũng gọi là kính trọng. Có nghĩa tôn kính và quí trọng. Ví dụ: Kính trọng Trời Phật hoặc bậc già cả. Đức Thầy có câu:
    “Rán nghe lời của kẻ Khùng Điên,
    Phật Tiên Thánh hãy nên trọng kỉnh”.

    (Kệ Dân Q.2)
    PHỤNG HOÀNG: Cũng gọi là Phượng hoàng, tên của một loài chim quí thời xưa, được liệt vào một trong bốn con thú linh: Long, Lân, Qui, Phụng. Con trống gọi là Phụng hay Phượng, con mái gọi là Hoàng. Phụng Hoàng Linh Điểu là chúa các loài chim (đứng đầu 360 giống). Khi nào và nơi đâu có chim Phụng Hoàng xuất hiện, đó là điềm báo trước sẽ có Thánh Nhân hoặc Thánh Vương ra đời. Như thời Nghiêu, Thuấn chim Phụng có mặt khắp đồng nội còn đời Châu Võ Vương thì nghe tiếng chim Phụng gáy trên núi Kỳ Châu, sự trạng nầy Đức Giáo Chủ đã nói:
    Xưa mạt Thương, Phụng gáy non Kỳ,
    Bởi Võ Vương đáng bậc tu mi
    Nay trở lại khác nào đời trước”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    Và Ngài cũng cho biết về tương lai:
    Phải ngóng chờ cho Phụng gặp Kê,
    Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    Phụng Hoàng còn ám chỉ cho các bậc có tài đức.
    PHẬT THÁNH: (Xem CT câu 149, T-3, Q.4)
    THẤY ĐẠO LÝ CHỚ NÀO THẤY TÁNH. CÒN ẨN NƠI TIM ÓC XÁC PHÀM:Hai câu nầy có nghĩa phần đông người tu chỉ thấy giáo lý của Đạo, chớ ít kẻ được thấy tự tánh của mình. Bởi nó tiềm ẩn nơi tim óc của mỗi người, đây là chỉ cái bản tánh chơn như sẵn có từ vô thỉ, nhưng bị lấp vùi bởi vô minh vọng niệm. Ví như trong ly nước đục vẫn có sẵn thể nước trong, nhưng vì ta chưa lọc được số bùn cặn ra, nên không thấy được nước trong.
    Kinh Di Đà Sớ Sao, có chép:Linh minh đổng triệt, trạm tịch thường hằng, phi trược, phi thanh, vô bối vô hướng, đại tai chân thể bất khả đắc như tư nghị giả(Người đời hễ có huyễn thân, tất nhiên có tự tánh. Bản thể của tự tánh là linh thiêng sáng suốt, rổng rang thông thấu, trong trẻo vắng lặng, còn hoài chẳng mất, chẳng phải trược, chẳng phải thanh, không lui, không tới; rất lớn thay cái chơn thể của nó, không thể nghĩ bàn được).
    Vậy hành giả muốn thấy được tự tánh cần phải phản chiếu nơi tâm một cách rõ ràng vi tế, không để một nhân duyên tập khí nào ám ảnh, và lòng cứ luôn như thế, mới hoát nhiên trực kiến được bản tánh. Lúc ấy ta sẽ tự thấy viên minh, tự tại vô ngại, không còn bị trói trăn câu thúc, trong lẽ hư vọng vô minh. Đúc Thầy có dạy:
    Tu rèn tâm trí cho minh,
    Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau”.

    (Sám Giảng Q.3)
    VIỆC PHẢI: Việc đúng lẽ phải. Ý nói cả hành động, ngôn ngữ và ý nghĩ đều đúng theo Đạo nghĩa và chơn lý.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 355 tới câu 430)
    277.-Nếu không tu chừng khổ cũng ưng,
    Đừng có trách sao không chỉ bảo.
    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
    280.-Mắc trong vòng sanh tử luân hồi.
    Xuống Diêm-Đình thấy tội hỡi ôi !
    Đó mới biết có nơi địa-ngục.
    Kỳ xá tội nay còn một lúc,
    284.-Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ.
    Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ,
    Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.
    Địa-ngục cũng tại Tâm làm quấy,
    288.-Về thiên-đàng Tâm ấy tạo ra.
    Cái chữ Tâm là Quỉ hay Ma,
    Tiên hay Phật cũng là tại nó.
    Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,
    292.-Nếu lặng Tâm tỏ-ngộ Đạo mầu.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 277 đến câu 292)
    -Theo ý đoạn giảng trên, nếu ai chịu thi hành y lời khuyên dạy của Đức Thầy, thì được chứng Đạo; bằng chẳng tu, đợi khi gặp cảnh khổ đưa đến, phải đành chịu, chớ đừng trách Phật Tiên “sao không chỉ bảo”. Ngài cũng cho biết, khắp chúng sanh trong cõi trần, dầu già, trẻ, trí, ngu, ai cũng phải chịu cảnh chết đi rồi sanh trở lại, và cứ thế mà lên xuống mãi trong sáu đường luân hồi thống khổ:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    -Lại nữa, có nhiều người trong kiếp sống, không tin Phật pháp và luân hồi, nhân quả, nên họ mãi gây tội ác. Kịp khi tử thần gõ cửa, bị đọa vào cảnh giới Địa ngục, phải chịu sự hình phạt đau đớn muôn phần; chừng ấy dầu muốn hối lỗi cũng không sao tránh khỏi. Đức Thầy từng khuyến cáo: thời kỳ “Thiên đình ân xá bớt tội căn…”, chẳng còn bao lâu nữa là hết hạn, sao chúng sanh không sớm thức tỉnh tu hành để được hưởng mọi điều cao quí.
    -Bởi có lắm người không để ý đến lời Kinh, tiếng Kệ, Đức Thầy mới nói rõ lý nhân quả: hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy, để cho mọi người trọn tin nơi việc làm lành hưởng phúc, tạo ác mang tai. Và Ngài cũng cho biết: muôn vật trong thế gian, từ san hà đại địa, đến vạn loại chúng sanh và mọi sự thăng trầm vui khổ, Địc ngục hay Thiên đường, thành Tiên Phật hay làm ma quỉ…cũng đều do tâm mình ra cả. Nghĩa là tùy theo tâm thức của mỗi người, mà có thể tiến lên cảnh siêu thoát an vui, hay bị đọa vào chỗ thấp hèn tội khổ.
    -Vậy ai muốn được cao cả, phải sớm thức tỉnh tu hành, và nếu biết rõ phương cách cũng chẳng khó lắm. Hễ giữ lòng mình được thanh tịnh trừ hết phiền não ngã chấp, tất nhiên được “tỏ ngộ Đạo mầu”.

    CHÚ THÍCH
    LUÂN HỒI: (Xem CT đoạn 1, T-1, bài Sứ Mạng)
    DIÊM ĐÌNH: (Xem CT câu 319, T-2, Q.2)
    ĐỊA NGỤC: (Xem CT câu 66, T-1, Q.1).
    XẢ TỘI: Cũng đọc là xá tội. Có nghĩa: tha tội, miễn tội, cũng như cuộc ân xá, ân giảm cho các tội nhân. Trong Giảng “Mười Một Hồi” Ngài Huệ Lựu bảo:
    “Phật đà cảm động lòng thương,
    Nói cho ai nấy muốn còn tu thân.
    May mà Trời Phật bố ân,
    Xả bớt tội đó thanh nhàn tấm thân”.

    THIÊN ĐÀNG: Cũng đọc là Thiên đường, tức là cõi Trời. Đây chỉ cho cảnh siêu thoát, thường an nhiên tự tại, đối với cảnh Địa ngục, là nơi bị buộc ràng đầy lao khổ. Đức Thầy có câu:
    Thiên đường siêu thoát thời thong thả,
    Địa ngục trầm luân ắt đảo điên”.

    (Tỉnh bạn Trần gian)
    CÁI CHỮ TÂM MÀ QUỈ HAY MA, TIÊN HAY PHẬT CŨNG LÀ TẠI NÓ: Hai câu giảng nầy là nói lên cái lý “Nhứt thiết duy tâm tạo”. Tất cả muôn pháp, muôn cảnh, từ tốt xấu, cao thấp, trí ngu; đến Phật, Tiên, Thần, Thánh hay ma quỉ, cũng đều do tâm tạo ra cả. Trong “Tâm Địa Quán Kinh”, Phật bảo:“Tâm như Họa sư, năng họa chủng chủng sắc cố. Tâm như đồng bộc vi chư phiền não sở sách dịch cố. Tâm như Quốc vương khởi chủng chủng tự đắc tại cố. Tâm như oán tặc, năng linh tự thân thọ đại khổ cố”.(Tâm như thợ vẽ, vẽ được tất cả các thứ hình sắc. Tâm như đứa tớ bé, bị các phiền não thúc hối và sai khiến. Tâm như vị Quốc vương, phát khởi được các việc an vui tự tại. Tâm như cừu thù, khiến tự thân phải chịu các điều thống khổ).
    Và trong “Pháp Bửu Đàn Kinh”, Đức Lục Tổ cũng nói:“Lòng từ bi, tức là Quan Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng và chánh trực) tức là Di Đà”.
    Ngược lại, “lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối trá là quỉ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là Địa ngục, lòng ngu si là súc sanh”. Đức Thầy hiện nay cũng cho biết:
    Làm gian ác là quỉ là ma,
    Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    TỎ NGỘ ĐẠO MẦU: Thấu đạt cái chơn lý diệu mầu của Đạo, gọi tắt là ngộ Đạo, tức là cái tri kiến chơn thật bừng mở ra, liền chứng ngộ Đạo Bồ Đề mà kinh Pháp Hoa thường gọi “Ngộ Phật Tri Kiến”.
    Xưa, Ngài Huy Sơn đến Giang Tây tham học với Tổ Bá Trượng. Tổ vừa thấy liền biết Ngài là bậc đã học đến chỗ sâu kín, bèn cho làm đầu trong đại chúng.
    Hôm nọ, Huy Sơn đang đứng hầu, Tổ kêu Ngài, bảo:
    -Vào trong nhà lấy lửa !
    Ngài vào trong khươi tro hồi lâu trở ra nói:
    -Bạch Thầy ! Trong lò không có lửa.
    Tổ tiên rời chỗ ngồi, bước đến lò lửa bươi sâu xuống, gắp được cục lửa đỏ, đưa lên cho Huy Sơn xem và thốt:
    -Ngươi nói không có lửa, chớ cái gì đây ?
    Ngài Huy Sơn nhơn đó mà tỏ ngộ chơn tánh.
    Câu chuyện trên cho ta thấy; Huy Sơn bươi lò tìm không ra lửa, ý nói chưa rõ tâm mình có Đạo (chơn tánh), và cũng chưa biết phương pháp, nên chưa tỏ ngộ. Còn Tổ sư bươi lò được lửa đưa lên, khiến cho Huy Sơn tỏ ngộ. Ý nói nhờ có Thầy chỉ cho phương cách, Ngài mới hoát nhiên trực nhận bản tâm, liễu ngộ chân tánh.
    Xưa, Ngài Thanh Lương Quốc Sư bảo:Cái chí lý của Đạo vốn nơi tâm, pháp của tâm vốn nơi vô trụ, tâm vô trụ rất mầu sáng, không tối tăm. Tánh và tướng đều yên lặng, trùm khắp muôn đức, muôn dụng, gồm nhiếp trong ngoài rất sâu rộng, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, không trước không sau, tìm nó không ra, bỏ nó không mất. Mê đắm hiện cảnh thì khổ não rối ren. Bằng tỏ ngộ được chơn tánh thì rỗng thông sáng suốt”.
    Hiện nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng nói rõ:Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo”, mà ai muốn được tỏ ngộ, tức phải lặng tâm:Nếu lặng tâm tỏ ngộ Đạo mầu”.

    CHÁNH VĂN
    293.-Cảnh dương-gian muôn thảm ngàn sầu,
    Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
    Sông với núi trước kia mắt ngó,
    296.-Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
    Ai biết đường hãy sớm tẩu-đào,
    Kiếm Đạo-lý mà nhờ mà nhõi.
    Chịu cay-đắng tu hành mới giỏi,
    300.-Ta thương đời len-lỏi xuống trần.
    Đạo vô-vi của Phật ân-cần,
    Nối theo chí Thích-Ca ngày trước.
    Câu phú-quí Ngài không màng-ước,
    304.-Chữ bồ-đề như cội bá-tòng.
    Rán dưỡng-nuôi chữ đó trong lòng,
    306.-Thì là được định chừng diệu-quả.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 293 đến câu 306)
    -Đoạn kệ trên Đức Thầy diễn tả lý vô thường, khổ não, vô ngã. Ý chỉ con người sống trong cảnh trần, phải gánh chịu muôn ngàn đau khổ, nào sự sanh, già, bịnh, chết; nào mưu cầu chẳng thành, thương yêu ly biệt, oán ghét gặp nhau, và ưu sầu lo ngại. Tất cả đều dồn vào một chữ khổ. Hơn nữa, trong lúc sống còn, dẫu ta có tạo bao nhiêu của tiền đài các…Cho đến mọi cảnh vật sơn hà đại địa…Nhưng đến ngày giã biệt cõi đời, ta chẳng mang theo được một sự vật nào cả. Đúng là “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ”.(Khuyến Thiện, Q.5)
    -Vậy ai rõ được lý trên, hãy sớm tìm con đường Đạo lý hầu thoát ly cảnh khổ. Song trên bước hành Đạo, nhà tu cần rèn luyện đức kiên nhẫn: nhịn tất cả lời cay tiếng đắng và vượt qua mọi khó khăn thử thách, để đạt thành mục đích.
    -Bởi lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy đã nhiều lần nhập thế, đem chánh pháp vô vi hưng truyền trong đại chúng. Ngài nêu tấm gương hy sinh tầm Đạo của Đức Thích Ca:“Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ, Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”,(Luận việc tu hành) để khuyên nhủ tín đồ nên phát tâm Bồ đề. Bởi có lòng Bồ đề nhà tu mới đủ nghị lực lướt qua mọi gian khổ, cũng như loại tòng bá, chẳng hề bị tuyết sương làm tàn cỗi. Và nếu ai biết nuôi dưỡng hột giống giác ngộ ấy nơi tâm mãi, thì quả vị Chánh giác lo gì chẳng đạt thành.

    CHÚ THÍCH
    DƯƠNG GIAN: Cũng gọi là nhân gian hay dương thế, dương trần. Chỉ cho cõi đời, nơi loài người sanh sống.
    TẨU ĐÀO: Chạy trốn cho khỏi. Đức Thầy có câu:“Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan”.(Thiên lý ca)
    ĐẠO LÝ: (Xem CT câu 155, T-1, Q.1).
    LEN LỎI: Chen mình vào, cố chen cho vào được. Ví dụ: Dầu gặp cản trở vẫn len lỏi vào. Đây ý nói mặc dù đời có nhiều bạc đãi, đầy khó khăn cản trở, nhưng Đức Thầy cũng đã nhiều lần nhập thế độ dân.
    VÔ VI: (Xem CT câu 290, T-2, Q.2).
    THÍCH CA: (Xem CT câu 390, T-2, Q.2).
    BỒ ĐỀ: Phiên âm của Phạn ngữ (Bodhi) Tàu dịch là Chánh Giác. Có nghĩa: lòng giác ngộ chơn chánh. Đức Thầy đã nói:Lòng Bồ đề sắt đá dám kình.(Diệu pháp Quang minh)
    DIỆU QUẢ: Quả vị thù diệu của Bồ đề và Niết bàn, do các thắng nhân tu hành mà được.(Thắng nhân là người có năm sức lực siêu thắng (ngũ lực).

    CHÁNH VĂN
    307.-Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn-ngã,
    Người nào đâu có Phật-tánh là.
    Xem kệ này như ngọc như ngà,
    310.-Phải nảy nở như cơn mưa thuận.
    Hạp mùa tiết giống kia bất luận,
    Thảy mọc mầm trổ lá mới mầu.
    Trông chúng-sanh nghĩ tận đuôi đầu,
    314.-Về Cực-Lạc mới là hết khổ.
    Đạo với lý từ đây nhiều chỗ,
    Phải lọc-lừa cho kỹ mà nhờ.
    Chọn nơi nào đạo chánh phượng thờ,
    318.-Thì mới được thân sau cao-quí.
    Nhìn Phật-Giáo mà tìm cái lý,
    320.-Coi tại sao ta phải tu hành.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 307 tới câu 320)
    -Đức Giáo Chủ cho biết, lời luận giải Đạo đức của Ngài, chẳng hề để tâm phân biệt một cá nhân nào, mà vì lòng từ bi của người đã tìm ra chân lý giải thoát, nay có bổn phận giác tỉnh kẻ trần gian:“Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo”.(Sám Giảng Q.3) Cũng như trời mưa không dành riêng cho loại hoa cỏ nào mà bất cứ nơi đâu, hễ có sẵn hột giống và hạp thời tiết thì tự nhiên nức mầm nẩy tược. Vậy ai là người đã có hạt giống Phật, và hữu duyên cùng Đạo pháp, khi nghe đến lời Kệ nầy, hãy sớm tỉnh ngộ tu hành; bởi hiện tình là hợp thời và đúng lúc, cho các căn lành chớm nở.
    -Đức Thầy rất mong đợi mọi người, khi xem Kệ Giảng của Ngài, hãy sớm nghĩ suy cạn lẽ để thấy rằng: đối với cõi Ta bà thống khổ, chỉ có cõi Cực lạc là nơi an vui trường cửu:
    Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
    Có bao người xét cho tột chỗ.
    Tịnh độ vui, tịnh độ nhàn vui,
    Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi,
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo”.

    (Kh/thiện Q.5)
    Nhân đó, Ngài khuyên chư thiện tín, nên nhứt tâm niệm Phật làm lành, để được vãng sanh về Lạc Quốc.
    -Ngài cũng nói rõ, giữa thời nầy có rất nhiều mối Đạo ra đời, tà chánh lẫn lộn:“Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”. (Thiên lý ca) Vậy ai muốn tu hành, hãy dùng trí sáng suốt của mình mà chọn lọc cho kỹ, xem nền Đạo nào thật sự là giải khổ cho chúng sanh. Và có đủ giới luật, tôn chi, cũng như phương pháp tu hành, để đưa chúng sanh đến mục đích giải thoát mà nương theo, tất tương lai được kết quả cao quí. Bằng ngược lại, sẽ lạc vào tà thuyết, mê tín, rất nguy hại cho đời mạng ta:“Lầm tà đạo nhơn hư bất dụng”.(Kim cổ Kỳ quan của Ô. Ba Thới)
    -Song muốn cho sự tu hành được kết quả chắc chắn, hành giả phải nghiên cứu sâu vào giáo lý Đạo Phật, coi tại sao ta phải tu, tu với phương pháp nào và được kết quả ra sao ? Có thế ta mới vững đức tin và gắng sức tu tiến đến ngày viên mãn.

    CHÚ THÍCH

    LỜI THUYẾT PHÁP CHẲNG VÌ NHƠN NGÃ: Câu giảng nầy ý nói lời thuyết pháp của Đức Thầy, chẳng hề có lòng phân biệt, người và ta trong chỗ cao thấp, trí ngu mà chỉ vì lòng từ mẫn. Ngài có bổn phận đánh thức kẻ còn mê để sớm được tỉnh giác. Trong Hoa Nghiêm, Phật có nói;Ví như mặt trời mọc, trước tiên chiếu các dãy núi chúa, kế đến chiếu tất cả núi lớn, rồi chiếu núi Kim Cang Bảo, sau rốt chiếu khắp đại địa. Ánh sáng mặt nhựt chẳng nghĩ rằng: trước tiên ta nên chiếu các núi chúa lớn, lần lượt mới chiếu đến đại địa. Nhưng vì núi non đất liền có cao thấp, nên ánh sáng chiếu có trước sau. Tâm của Đức Như Lai cũng y như vậy, Ngài thành tựu vô lượng vô biên pháp giới trí huệ, nhựt luân thường phóng vô lượng trí huệ quang minh vô ngại, trước hết chiếu các vị Bồ Tát,…Kế đến chiếu các bậc Duyên Giác, Thinh Văn, kế nữa chiếu những chúng sanh có thiện căn, quyết định tùy theo chỗ đáng hóa độ. Sau cùng chiếu đến cả thảy chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định, vì họ mà làm nhơn duyên lợi ích cho đời vị lai…”
    Đức Thầy hiện nay cũng từng nói:
    “Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    CỰC LẠC: (Xem CT câu 28, T-2, Q.2)
    ĐẠO CHÁNH: (Xem CT câu 161, T-2, Q.2).
    NHÌN PHẬT GIÁO MÀ TÌM CÁI LÝ, COI TẠI SAO TA PHẢI TU HÀNH: Hai câu giảng trên có ý khuyên mỗi người hãy nhìn sâu vào Giáo lý của nhà Phật để tìm hiểu coi do đâu mà ta phải tu ?
    Thấy rằng, xưa nay số người tu hành rất đông, nhưng trường hợp phát tâm thì ít ai giống ai, xét bởi cơ duyên và trình độ chẳng đồng nhau. Song căn cứ vào giáo lý của Đức Phật, Đức Thầy ta có thể đại lược một ít lý do chánh như sau:
    1/- Vì muốn cứu khổ vạn loại chúng sanh: Bởi lòng từ bi, thấy chúng sanh mãi luân chuyển trong bể trần thống khổ, nên các bậc đại căn đại trí, phát tâm tìm Đạo để giải khổ cho muôn loài. Như trường hợp Đức Thích Ca cùng chư Bồ tát trước kia. Cũng như Ngài Kim Sơn Phật hiện nay cho biết:“Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời”.(Sám Giảng Q.3)
    2/- Vì có duyên lành gặp được Phật pháp: Bởi có gieo sâu duyên lành với Đạo pháp, trong nhiều tiền kiếp, nên kiếp nầy vừa nghe được lời sấm kinh là chúng ta phát tâm tu niệm. Ví như có hột giống sẵn, hễ gặp mưa thì nứt mầm đâm tược:
    Duyên lành rõ được Khùng Điên,
    Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    3/- Vì tin nơi luật Nhân quả: Bởi nhận xét sự trả vay của luật nhân quả rất nghiêm minh, hễ gieo giống chi tất hưởng trái nấy; mọi cuộc sống sang hèn vui khổ trên đời, đều do nghiệp nhân của mỗi người đào tạo vừa qua mà bây giờ nó trả lại:Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.(Giác Mê TK, Q.4) Và:
    Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

    (Kh/Thiện, Q.5)
    Do đó chúng ta cải ác tùng thiện.
    4/- Vì nghĩ đến nỗi khổ của xác thân: Xét thấy xác thân là nguyên nhân của sự khổ, hễ có sanh ra tất có già, bịnh, chết và mọi sự ái ân phiền não ràng buộc không ngừng. Khi chết đi chưa phải là hết khổ, thần thức phải tùy theo nghiệp lực, mà tạo thành thân chúng sanh khác, để rồi tiếp tục chịu khổ. Đối với cảnh giả tạm đau khổ nầy, là có Niết Bàn, Cực lạc. Thân người ở cõi ấy:“Không già không bịnh chẳng ngày nào lo”.(Từ giã làng Nhơn Nghĩa) và an lạc trường miên, vì thế chúng ta mới phát tâm tu hành để thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử.
    5/- Vì tin sự chuyển biến của lý Tam ngươn: Bởi nhận xét quả Địa cầu sắp đến ngày biến hoại, nhân sanh phải trải qua cuộc tang thương biến đổi, để lập lại Thượng ngươn, mà bấy giờ chỉ có những phần tử ưu tú, thiện lương mới được tồn tại:
    Khắp lê thứ biến vi thương hải,
    Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn”.

    Và:
    “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
    Người tu niệm sống đời thượng cổ”.

    (Kệ Dân Q.2)
    Đại khái 5 lý do vừa kể trên, tùy theo căn duyên của mỗi người mà lý do nào cũng là nguyên nhân khiến chúng ta phát tâm hành Đạo.

    CHÁNH VĂN
    321.-Vì yêu dân Ta kể ngọn-ngành,
    Khuyên lê-thứ làm lành mà tránh.
    Cảnh Niết-Bàn là nơi cứu cánh,
    324.-Về chốn ni xa lánh hồng-trần.
    Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhờ hai chữ trung-quân ái-quốc.
    Chừng lập Hội biết ai còn mất,
    328.-Giờ chưa phân chưa biết chánh tà.
    Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,
    Đền Linh-Khứu sơn trung chịu mạng.
    Nền đạo-đức Ta bày quá cạn,
    332.-Mà dương-gian còn gạn danh từ.
    Làm cho Ta lỡ khóc lỡ cười,
    Khóc là khóc thương người ngu muội.
    Thấy Điên Khùng làm như sắt nguội,
    336.-Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi.
    Ngó về Tây niệm chữ từ-bi,
    338.-Cười trần-thế mê-si thái quá.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 321 đến câu 338)
    -Bởi lòng quá thương xót dân sanh, nên Đức Thầy đem nguồn Đạo lý giải bày cặn kẽ, khuyên mọi người sớm hồi tâm hướng thiện, để được tránh khỏi cảnh khổ đau giả tạm. Nếu ai y pháp tu hành, đúng theo đường lối mà Ngài đã vạch, tất được siêu sanh về cõi Tịch tịnh (Niết Bàn). Chính nơi ấy là mức giải thoát cuối cùng của nhà tu. Bằng ai chưa trừ dứt hoặc nghiệp phiền não, chỉ lo tu tròn nhân Đạo, bảo vệ Quốc dân, cũng đặng liệt vào bậc Thần Thánh.
    -Hiện giờ chánh tà còn đang lẫn lộn, nhưng đến ngày Phật Tiên lập hội Long Hoa, sẽ có cuộc chọn lọc, khi ấy sự chơn giả tà chánh rất phân minh:“Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.(Thức tỉnh một nữ Tín đồ) Đức Thầy còn cho biết: Ngài lâm phàm độ chúng, là vì vâng sứ mạng của Đức Phật Tổ tại Linh Khứu Sơn.
    -Ngài giảng dạy giáo pháp rất đầy đủ, rành mạch cho bá tánh nghe, thế mà có nhiều người mãi còn nghi nan gạn hỏi, làm cho lòng Ngài bắt buồn cười, rất thương xót cho những kẻ quá si mê, mờ ám.
    -Cũng có lắm người thấy Đức Thầy ra đời dạy Đạo, đầy lòng nhu hoà nhẫn nhịn, chẳng hề tranh luận, hơn thua với ai, họ lại khinh chê nhạo báng. Nhưng Ngài lúc nào cũng yên tâm hướng về Đức Phật và nhủ lòng thương xót các chúng sanh đó, vì quá tối tăm nên phải lầm lỗi đáng tiếc !

    CHÚ THÍCH

    NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ (Nirvara) Tàu dịch có nhiều nghĩa như sau:
    a)- Diệt độ: một cõi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.
    b)- Viên tịch: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần, gọi là viên; trí huệ cụ túc dứt sạch nghiệp chướng, khổ lụy gọi là tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch, để thoát trầm nịch khổ hải.
    c)- Tịch diệt: lặng lẽ, trống không và dứt hết các họa hại của sanh tử.
    d)- Bất sanh bất diệt: Chẳng còn một niệm sanh nên chẳng còn sự chết khổ.
    e)- Vô vi: không có nhơn duyên tạo tác, không có bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt.
    g)- Giải thoát: Chẳng còn các vi tế phiền não ràng buộc.
    h)- An lạc: Yên ổn khoái lạc, dứt hết nghiệp nhân khổ não.
    Lại nữa cảnh trí Niết Bàn có bốn đức, gọi là “tứ đức Ba La Mật” (Giải thoát cõi mê, sang qua bờ giác), tức là: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã và chơn tịnh.
    -Chơn thường: Là đạt được cái tánh thể Niết Bàn (Pháp thân thường trụ) chẳng biến đổi, không sanh không diệt; nhưng lại thường tùy duyên ứng dụng không dứt.
    -Chơn lạc: Thường thường an vui, dứt hết khổ lụy, lại vận dụng các pháp, hợp với chơn tâm một cách tự tại.
    -Chơn ngã: Vào tới cái thể chơn thật (đại ngã) và ứng dụng độ chúng không chi ngằn ngại.
    -Chơn tịnh: Được vào cái thể an nhiên trong sạch lại tùy duyên khai hóa chẳng hề bị ô nhiễm trần trược. Trong Pháp Bửu Đàn Kinh, Đức Lục Tổ nói :
    Ấy tịch diệt chơn thường lạc hiện,
    Thế mới là thật diệu Niết Bàn…”

    Đức Thầy hiện nay cũng khuyên:
    Tầm vô vi kiếm cảnh Niết Bàn”.
    (Diệu pháp QM)
    Hoặc là:Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.(Bài nguyện trước bàn thờ Ông Bà)
    Sự chứng đắc Niết Bàn lại chia làm hai thời kỳ:
    1/- Nhà tu nhờ nương theo “Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo”, diệt trừ hết tập nghiệp vô minh phiền não nên được chứng quả A La Hán, tức đắc Niết Bàn; nhưng vẫn tiếp tục hành hóa Đạo mầu, rộng độ chúng sanh, đây gọi là “Hữu dư Niết Bàn”, như trường hợp các Đại đệ tử của Đức Phật.
    2/- Những bậc đã qua thời kỳ tu hạnh “Lục Ba La Mật”(Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ) tiến tới thi hành “Tứ vô lượng tâm”,( Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) dẫn đến khi hoàn toàn thanh tịnh: tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn, tức đạt quả vị Bồ Tát và Như Lai, và đến ngày nhập diệt gọi là đắc “Đại Niết Bàn”. Ấy cũng gọi là “Vô dư Niết Bàn”, như trường hợp Đức Bổn Sư Thích Ca.
    Kinh Đại Niết Bàn, Phật bảo:“Tất cả phàm phu vì nghiệp chẳng thanh tịnh nên chẳng có Niết Bàn. Như Lai vì nghiệp thanh tịnh nên gọi là đại định, do đại định nên gọi là “Đại Niết Bàn”.
    CỨU CÁNH: Phiên âm của Phạn ngữ Utara. Có nghĩa cái kết quả cuối cùng, giải thoát rốt ráo. Đại thừa khởi Tín luận có câu:“Lìa tất cả khổ não, Tất được an lạc cứu cánh”. Và trong “Bát Nhã tâm Kinh” cũng nói:“Bực Bồ Tát nhờ nương theo các đại hạnh trí huệ, tâm không quái ngại, lìa xa những điên đảo mộng tưởng, nên được cứu cánh Niết Bàn”.
    Vậy cứu cánh là chỗ giải thoát rốt ráo của nhà tu Phật.
    CHỐN NI: Chốn nầy, chỉ cảnh cứu cánh Niết Bàn vừa kể trên.
    HỒNG TRẦN: (Xem CT câu 249, T-1, Q.1).
    THẦN: (Xem CT câu 24, T-2, Q.3).
    TRUNG QUÂN ÁI QUỐC: Lòng ngay thật thương yêu Quốc dân (Xem thêm phần CT câu 586, T-2, Q.3 và câu 290, T-1, Q.1).
    NGỌC TÒA: Chỗ an tọa (ngồi) bằng ngọc, chỗ ngai vị cao quí. Đây chỉ nơi Đức Phật Tổ ngự. Đức Thầy thường nói:“Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai ta”.(Tối Mùng Một)
    LINH KHỨU: Phạn ngữ Grudhakyta, phiên âm là Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa có nhiều danh xưng: Linh Khứu Sơn, Linh Thứu Sơn, cũng gọi là Kê Túc Sơn. Một ngọn núi ở gần thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, thuộc Trung bộ xứ Ấn Độ. Đứng xa nhìn nó như con chim Khứu (Kên kên) nên gọi là Khứu Lĩnh. Lúc Đức Phật Thích Ca còn trụ thế Ngài thường cu hội đại chúng thuyết pháp. Có lần Ngài thuyết Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa tại đây. Kinh Sách xưa nay thường dùng Linh Thứu Sơn để chỉ cho xứ Phật hay chỗ Phật ngự. Đức Thầy nay cũng từng bảo:
    Quyết đưa chúng về nơi Non Thứu,
    Tạo lư bồng ngỏ hội quần Tiên”.
    (Diệu pháp Quang minh)
    TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, T-1, bài Sứ Mạng)
    THÁI QUÁ: Quá chừng mực, quá lắm, vượt hơn mức bình thường.

    CHÁNH VĂN

    339.-Tranh với luận đặng giành cơm cá,
    Khuyến-dụ người đặng kiếm bạc tiền.
    Thấy chúng-sanh ghét ngỏ ganh hiền,
    342.-Theo chế-nhạo những người tu tỉnh.
    Tu không tu cũng không mời thỉnh,
    Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê.
    Thương lê-dân còn mảng say mê,
    346.-Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng.
    Thấy Ta lại nói cay nói đắng,
    Đắng với cay Ta cũng chẳng màng.
    Chừng trần-gian kiến thấy phụng-hoàng,
    350.-Sè cánh múa chào mừng Phật Thánh.
    Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh,
    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm.
    Ai biết tri việc phải cứ làm,
    354.-Sau mới biết ai Phàm ai Thánh.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 339 đến câu 354)
    -Người sống trong thế gian, phần đông mãi lo tranh giành lợi lộc, họ dùng đủ mưu mô xảo quyệt dụ dỗ dân chúng, lợi dụng tiền bạc. Hễ thấy ai có tài năng, đức hạnh hơn mình thì ghét ghen, đố kỵ, khinh chê gièm siểm.
    -Do đó, Đức Thầy cho biết: Lời khuyến tu của Ngài, mặc tình ai kính mộ tu hành, hay chê bai khinh rẻ. Chớ lòng Ngài lúc nào cũng thương hết chúng sanh, mãi còn đắm say trong cảnh đời ảo mộng, nên Ngài dùng đủ phương tiện đánh thức họ sớm tỉnh ngộ tu hành, hầu vượt qua mọi khổ nạn tới dây.
    -Lại có hạng người thấy sự độ dân của Đức Thầy, chẳng những không nhận được, còn dùng đủ lời cay đắng; nhưng dù họ đối xử bất nhã như thế nào, Ngài cũng chẳng màng kể. Ngài còn tiên tri đến chừng nào dân chúng được nghe:Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng tất được thấy:Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.(Không buồn ngủ)
    Thêm nữa, trên con đường học Phật và tu Phật để tiến tới mục đích giải thoát, đa số người tu chỉ thấy Đạo lý qua mặt văn tự và lời luận giải, chớ ít ai thấy được chân tánh của mình; bởi nó còn lẫn lộn trong tâm hồn của mỗi chúng sanh, ví như chất vàng còn lộn quặng. Do đó, Đức Giáo Chủ dạy tín đồ hãy:“…tìm kiếm chân tánh của mình”. Muốn thế hành giả cần xoay vào nội tâm, theo dõi tư tưởng từng giây, từng phút, rồi dùng trí huệ thanh lọc hết vọng trần phiền não, tất màn vô minh tan mất, Phật tánh hiện bày:“Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.(Sám Giảng Q.3)
    Vậy ai là người đã suy tầm thấu rõ chơn lý của Đạo, thì cứ hành y theo Tôn chỉ của Đức Thầy đã vạch cho đến ngày kết cuộc, tất sẽ thấy rõ ai phàm ai Thánh.

    CHÚ THÍCH
    GHÉT NGỎ GANH HIỀN: Cũng gọi là ganh hiền ghét ngỏ. Là một thành ngữ để chỉ cho những kẻ thấy ai có tài đức, được nhiều người mến chuộng thì hay ghét ganh đố kỵ. Đức Thầy từng nói:
    Thấy Đạo lý còn lu chưa tỏ,
    Dân ganh hiền ghét ngỏ làm chi”.(Thiên lý ca)
    TRỌNG KỈNH: Cũng gọi là kính trọng. Có nghĩa tôn kính và quí trọng. Ví dụ: Kính trọng Trời Phật hoặc bậc già cả. Đức Thầy có câu:
    “Rán nghe lời của kẻ Khùng Điên,
    Phật Tiên Thánh hãy nên trọng kỉnh”.(Kệ Dân Q.2)
    PHỤNG HOÀNG: Cũng gọi là Phượng hoàng, tên của một loài chim quí thời xưa, được liệt vào một trong bốn con thú linh: Long, Lân, Qui, Phụng. Con trống gọi là Phụng hay Phượng, con mái gọi là Hoàng. Phụng Hoàng Linh Điểu là chúa các loài chim (đứng đầu 360 giống). Khi nào và nơi đâu có chim Phụng Hoàng xuất hiện, đó là điềm báo trước sẽ có Thánh Nhân hoặc Thánh Vương ra đời. Như thời Nghiêu, Thuấn chim Phụng có mặt khắp đồng nội còn đời Châu Võ Vương thì nghe tiếng chim Phụng gáy trên núi Kỳ Châu, sự trạng nầy Đức Giáo Chủ đã nói:
    Xưa mạt Thương, Phụng gáy non Kỳ,
    Bởi Võ Vương đáng bậc tu mi

    Nay trở lại khác nào đời trước.
    (Kệ Dân, Q.2)
    Và Ngài cũng cho biết về tương lai:
    Phải ngóng chờ cho Phụng gặp Kê,
    Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    Phụng Hoàng còn ám chỉ cho các bậc có tài đức.
    PHẬT THÁNH: (Xem CT câu 149, T-3, Q.4)
    THẤY ĐẠO LÝ CHỚ NÀO THẤY TÁNH. CÒN ẨN NƠI TIM ÓC XÁC PHÀM:Hai câu nầy có nghĩa phần đông người tu chỉ thấy giáo lý của Đạo, chớ ít kẻ được thấy tự tánh của mình. Bởi nó tiềm ẩn nơi tim óc của mỗi người, đây là chỉ cái bản tánh chơn như sẵn có từ vô thỉ, nhưng bị lấp vùi bởi vô minh vọng niệm. Ví như trong ly nước đục vẫn có sẵn thể nước trong, nhưng vì ta chưa lọc được số bùn cặn ra, nên không thấy được nước trong.
    Kinh Di Đà Sớ Sao, có chép:Linh minh đổng triệt, trạm tịch thường hằng, phi trược, phi thanh, vô bối vô hướng, đại tai chân thể bất khả đắc như tư nghị giả (Người đời hễ có huyễn thân, tất nhiên có tự tánh. Bản thể của tự tánh là linh thiêng sáng suốt, rổng rang thông thấu, trong trẻo vắng lặng, còn hoài chẳng mất, chẳng phải trược, chẳng phải thanh, không lui, không tới; rất lớn thay cái chơn thể của nó, không thể nghĩ bàn được).
    Vậy hành giả muốn thấy được tự tánh cần phải phản chiếu nơi tâm một cách rõ ràng vi tế, không để một nhân duyên tập khí nào ám ảnh, và lòng cứ luôn như thế, mới hoát nhiên trực kiến được bản tánh. Lúc ấy ta sẽ tự thấy viên minh, tự tại vô ngại, không còn bị trói trăn câu thúc, trong lẽ hư vọng vô minh. Đúc Thầy có dạy:
    Tu rèn tâm trí cho minh,
    Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau”.

    (Sám Giảng Q.3)
    VIỆC PHẢI: Việc đúng lẽ phải. Ý nói cả hành động, ngôn ngữ và ý nghĩ đều đúng theo Đạo nghĩa và chơn lý.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 431 tới câu 506)
    431.-Việc đạo-đức bất cần thối thắng,
    Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi.
    Thấy Thiên-cơ khó nỗi yên ngồi,
    434.-Thương lê-thứ tới hồi khổ-não.
    Thầy lạc tớ không ai chỉ bảo,
    Như vịt con dìu-dắt nhờ gà.
    Phải nghĩ suy cạn lẽ mới là,
    438.-Nay gặp gốc phải mau tìm gốc.
    Để gặp Phật ngồi mà than khóc,
    Gỡ làm sao hết rối mà về.
    Mắt nhìn xem yêu quái bốn bề,
    442.-Bởi ác đức nên không ai cứu.
    Mang thủy ách hồi năm Đinh-Sửu,
    Đến năm nay tái lại một lần.
    Khổ ách này đặng thức-tỉnh trần,
    446.-Rằng thiên-định tuồng đời sắp hạ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 431 đến câu 446)
    -Đoạn giảng qua, Đức Thầy khuyên dạy tín đồ trên con đường hành đạo: không nên bê trễ, cũng không quá vội vàng mà phải từ từ tiến mãi:Đường đạo đức bước đi từ nấc.(Diệu pháp Quang minh) Xét thấy cơ trời đã biến chuyển khắp chúng sanh sẽ gặp hồi thảm khổ, nên Đức Thầy động lòng từ bi, lâm phàm cứu thế.
    -Sau thời Đức Lục Tổ Huệ Năng bặt truyền y bát, cả môn đồ Phật Giáo phải chịu tình cảnh bơ vơ như mẹ gà con vịt, chưa biết nương tựa vào đâu, bởi tà chánh khó phân, không rõ ai là người kế truyền tâm ấn của Phật:Từ ngàn xưa Phật pháp gài then, Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo”.(Diệu pháp QM) Ngày nay, Đức Thầy được sắc lịnh của Đức Phật Tổ, hưng truyền chánh pháp vô vi:“ Đạo vô vi của Phật ân cần, Nối theo chí Thích Ca ngày trước.(Giác Mê TK, Q.4) Và “Ngọc toà Phật Tổ nấy sai ta”.(Tối Mùng Một) Vậy mỗi người hãy suy xét tận tường, nếu nhận đây là chơn lý thì nương theo (nay gặp gốc). Và nên gấp rút trau sửa thân tâm để được kiến diện Phật lòng nơi tự tánh (mau tìm gốc).
    -Bằng ai chẳng tìm ra chơn lý của Đạo Phật không sớm giác ngộ tu hành, đến một ngày kia ắt phải khóc than, vì không giải được nghiệp ác để yết kiến chư Phật. Và giữa giờ phút ấy; nào yêu ma thú dữ, nào chiến tranh giặc cướp tư bề. Chư Phật vốn đầy lòng tử bi, nhưng không thể nào cứu kẻ hung ác, bởi quả dữ của họ đã mùi:Cứu lương hiền chẳng cứu người hung, Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt.(Kệ Dân. Q.2)
    -Đức Thầy còn nhắc lại hồi năm Đinh Sửu (1937) đã xảy ra tai nạn lụt lội, khiến chúng dân chịu cảnh đói rách, tài vật tiêu hao…Năm nay (1939) nạn lụt lại tái diễn:Đồng khô lúa ngập coi xơ xác, Cảnh đói buông lung nõi giạt bèo.(Cám cảnh dân nghèo) Ngài cũng nói rõ: Tai ách khổ thảm ấy là cơ thức tỉnh chúng sanh, hiểu rằng cõi đời sắp đến hồi tàn cỗi.

    CHÚ THÍCH

    ĐẠO ĐỨC: Đạo có nhiều nghĩa: Đạo là con đường, là bổn phận, là chơn lý (bản thể) tuyệt đối và cũng gọi là chánh pháp hay chơn tánh. Đức là tâm lành, là thể hiện của nhân lành. Việc đạo đức là công việc hiền lành đạo nghĩa đúng theo con đường của chánh pháp và chơn lý. Đức Thầy có nói:Ơn nhà đạo đức quyết đền ân.(Tỉnh bạn Trần gian)
    THIÊN CƠ: (Xem CT đoạn 1, T-1, bài Sứ Mạng).
    THẦY LẠC TỚ KHÔNG AI CHỈ BẢO, NHƯ VỊT CON DÌU DẮT NHỜ GÀ: Thường thấy bầy vịt con do vịt mẹ ấp ra thì sự chăm sóc rất đầy đủ, khi ở trên bờ hay lúc lội dưới nước, vịt mẹ đều theo sát bên con để bảo vệ. Trái lại, nếu bầy vịt con bởi gà mẹ ấp ra, thì lúc ở trên bờ gà mẹ theo gìn giữ được, nhưng khi vịt con lội xuống nước thì gà mẹ không thể lội theo. Bấy giờ rủi có gặp quạ diều nhiễu hại, đàn vịt chẳng biết nương vào, vì không có mẹ bảo vệ.
    Tình cảnh tớ thầy xa cách cũng thế, cả môn đồ phải ngơ ngác, vì chẳng còn sự dạy bảo trực tiếp của Thầy mình.
    Đây ý chỉ thời mạt pháp, lại gặp lúc Tổ Thầy vắng mặt, cả tín đồ phải sống trong trạng huống bơ vơ. Tuy Phật, Thầy còn để lại kho tàng pháp giới; nó có thể đưa hành giả tới bờ bến, nhưng cũng không bằng lúc có Tổ, Thầy dạy bảo:“…bởi đời nầy pháp môn bế mạc, Thánh Đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối…”(bài Sứ Mạng).
    ÁC ĐỨC: Thất đức (mất đức), tánh hay làm việc hung ác, không kể đạo đức.Ví dụ: ăn ở ác đức bất nhơn. Đức Thầy có câu:“Kẻ ác đức hậu lai khổ thảm”.(Cho Ô. Tham Tá Ngà)
    THỦY ÁCH: Tai nạn nước lụt. Lụt lớn làm cho người chết, tài vật tiêu hao; lụt nhỏ thì mùa màng thất bát, dân chúng chịu cảnh nghèo đói điêu linh.
    NĂM ĐINH SỬU: Là năm 1937, trước Kỷ Mão hai năm.
     
    Sửa lần cuối: 16/1/15
  3. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    447.-Trẻ nhỏ tuổi đời nầy lăng-mạ,
    Bị văn-minh cám dỗ loài người.
    Kể từ rày cười một khóc mười,
    450.-Kẻo chúng nó dể-ngươi Phật Thánh.
    Đạo Quỉ-Vương rất nhiều chi ngánh,
    Khuyên dương-trần sớm tránh mới mầu.
    Để ngày sau đến việc thảm-sầu,
    454.-Rán nghe kỹ lời Ta mách trước.
    Thuyền chúng nó thẳng buồm chạy lướt,
    Lọt ngoài khơi mới hết hò khoan.
    Tu mà ham cho được giàu sang,
    458.-Với quyền tước là tu dối thế.
    Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế,
    Tạo chùa-chiền khắp nước tu hành.
    Đến chừng sau ngạ tử Đài-thành,
    462.-Phật bất cứu vì tâm còn ác.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 447 đến câu 462)
    -Đức Thầy cho biết trong hàng thanh niên nam nữ thời nay, bị văn minh vật chất cám dỗ, đua theo sự ăn chơi trụy lạc, tánh tình trở nên hỗn láo ngang tàng, chẳng kiêng nể Thánh Thần, Trời Phật. Cho nên sắp tới đây họ phải vương mang tai nạn, khổ nhiều vui ít.
    -Lại thêm,”Trời mở cửa Quỉ Vương xuống thế”, chúng chủ trương bày ra nhiều học thuyết, nhiều ngành, nhiều phái, để mê hoặc chúng sanh. Thế nên Đức Thầy báo tin trước cho mọi người được rõ, hãy dùng trí sáng mà nhận định kỹ càng, kẻo bị rơi vào cạm bẫy của chúng, mà chuốc lấy sự sầu khổ.
    -Bọn Quỉ Vương thường hay khoe khoang cổ võ, để lôi kéo quần chúng về mình, mọi việc đều phỏng tay trên để tranh đoạt tài lợi, vị danh, chẳng khác nào thuyền gặp gió. Nhưng khi đã chạy trớt ngoài biển khơi thì chúng mới hết huênh hoang tự đắc. Còn đối với sự tu hành, nếu kẻ nào tham muốn cao sang quyền tước, tức là kẻ dối tu.
    -Ngài cũng nhắc lại chuyện vua Lương Võ Đế thời xưa, vì chưa nhận được giáo lý thâm huyền của Đạo Phật; tưởng đâu công việc cất chùa, tạo tượng là tu, nên ông chỉ chạy theo các pháp tướng, mong hưởng phúc báo. Chẳng chịu trở về nội tâm mà diệt trừ tội chướng ba đời. Do đó, đến ngày kết cuộc, Võ Đế phải đành chịu chết đói tại Đài Thành để trả cái quả do tiền kiếp ông đã dụng ác tâm làm chết một con khỉ.
    CHÚ THÍCH
    LĂNG MẠ: (Xem CT câu 405, T-1, Q.1).
    VĂN MINH: (Xem CT câu 521, T-1, Q.1)
    QUỈ VƯƠNG: Vua Quỉ, Quỉ chúa, kẻ cầm đầu trong hàng Quỉ. Theo Phật học Từ điển thì quỉ có nhiều loại, tựu trung chỉ có hai hạng:
    1- Hạng quỉ có tánh lành, hay ủng hộ người tu hiền.
    2- Hạng quỉ hung ác thường hay phá khuấy dân chúng và Phật pháp, hiểu nghĩa cũng như Ma vương.
    Nhưng chữ Quỉ Vương ở đây là chỉ cho loài quỉ hung ác, đối với các Đạo giáo, nhứt là Đạo Phật. Chúng bày ra nhiều chi phái, nhiều học thuyết, nhiều hình thức, bùa linh phép thuật, đoán tâm lý, dị đoan mê tín.v.v…để phá hại Phật pháp. Trong Giảng “Mười Một Hồi” Ngài Huệ Lựu đã nói:
    “Năm năm sáu tháng cơ hàn,
    Quỉ Vương gây loạn nào an thế trần.
    Chỗ nào nó cũng muốn giành,
    Thương cho Tần Quốc mười phần còn hai”.

    Nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng bảo:Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”.(Thiên lý ca) Hoặc là:
    Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
    Khóc tử lang tâm biến họa dân.
    Tà quái hạ ngươn khai ác chiến,
    Ất niên bình thự kiến Quân thần”.

    (Đức Thầy đáp họa Ô. Huỳnh Hiệp Hòa)
    Và:
    Bàn môn tài phép nào tường,
    Kêu Trời giậm đất cũng thì dạ rân.
    Nói cho trần thế liệu toan,
    Chớ theo tả đạo mà tan xác hồn”.

    (Sám Giảng Q.3)
    MÁCH TRƯỚC: Cho biết trước, báo tin trước, sẽ có việc gì sắp xảy ra.
    HÒ KHOAN: Tiếng hò sau câu hát để cùng nhau theo nhịp mà ra sức:Ghe bầu dọn dẹp keó neo, Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan(Hò). Nghĩa rộng: là ra vẻ vui mừng khoe khoang tự đắc. Đức Thầy từng nói:
    “Kìa kìa anh hố hò khoan,
    Tình lang về mất hổ hang mặt mày”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    LƯƠNG VÕ ĐẾ: Vua Lương Võ Đế là Thái Tổ nhà Lương (502-549), tên thật là Tiêu Diễn. Trước lam quan Thứ sử cho nhà Tề, cai trị đất Ung châu; sau diệt Tề lập nhà Lương trị vì được 48 năm. Võ Đế rất sùng ngưỡng Đạo Phật, chính ông đã chấp nhận và ủng hộ các cao tăng Ấn Độ, sang truyền đạo tại Trung quốc.
    Lúc Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền Đạo, có vào yết kiến và đàm luận Phật pháp với Võ Đế: Bởi quá chú trọng hình thức, nên Vua không thấu triệt được nghĩa lý diệu mầu trong lời Pháp giáo của Tổ, sanh tâm nghi ngờ. Thấy vậy, Tổ sư từ giã Vua vào chùa Thiếu Lâm ngồi quay mặt vào vách thiền định…
    Võ Đế cho thiết lập trên 70 ngôi chùa trong khắp nước, để bá tánh có nơi sùng ngưỡng, chiêm bái. Vua có thỉnh chư Tăng soạn thành bộ Kinh sám hối với nhan đề là “Lương Hoàng Sám”, đến nay vẫn còn truyền tụng.
    Sở dĩ Võ Đế được làm Vua và ham mộ Đạo pháp, nhưng lại bị chết đói thảm khốc, là do duyên nghiệp sâu xa từ kiếp trước…
    Tiền thân của Võ Đế, xưa là một tiều phu, thường vào rừng đốn củi đổi gạo. Hôm nọ tiều phu gặp một cốt Phật trơ trọi ngoài trời, nắng chảy mưa chan. Ông động lòng ái truất, liền lột cái nón lá đang đội, đội lên cho cốt Phật. Nhờ công phước của tấm lòng thành kính cúng dường ấy, nên kiếp sau ông được phước báo làm vua và hết lòng kính tin, phụng thờ Tam Bảo.
    Cũng trong kiếp tiều phu ấy, thường ngày ông lên rừng đốn củi, có mang theo gói cơm để trên vồ đá, đợi khi đói lòng lấy ra dùng. Nhưng đã hai lần khi đốn củi xong, trở lại thì gói cơm của ông “không cánh mà bay đâu mất”, ông rất bực tức đành nhịn đói trở về.
    Lần thứ ba ông quyết định tìm ra nguyên nhân vì đâu mà hai lần bị mất gói cơm. Cũng như mọi khi, lần nầy ông để gói cơm trên vồ đá rồi giả vờ xách búa ra đi, nhưng ông núp vào bụi rậm gần đó để rình xem. Một chập sau, thấy một con khỉ lớn đến ôm gói cơm chạy đi. Ông nhảy ra tốc rượt theo quyết đập con khỉ một búa cho hả giận. Khỉ hốt hoảng, song vì mắc ôm gói cơm nên leo lên cây chẳng được, túng cùng thấy cái hang đá gần bên, khỉ liền chun ngay xuống. Tiều phu cậy đá lấp miệng hang. Khỉ ở dưới ăn hết gói cơm lên không được, nên bị đói dần mà chết.
    Bởi nghiệp nhân đó, nên khi Lương Võ Đế làm vua, thì con khỉ ấy đầu thai làm Hầu Kiển, lớn lên làm Quân sư cho Võ Đế. Sau Hầu Kiển sanh tâm muốn cướp ngôi vua nên lập kế hoạch gạt vua lên Đài Thành, rồi cho quân bao vây, cấm không cho ai được mang lương thực cho Vua. Thế là Võ Đế phải chết đói tại Đài Thành, để trả cái nghiệp ác tâm đã gây thuở trước.
    NGẠ TỬ ĐÀI THÀNH: Chết đói tại Đài Thành.

    CHÁNH VĂN
    463.-Tu biết cách như đươn biết đát,
    Đươn đát rành được dựa Xe-Loan.
    Ai biết nghe thì sớm liệu toan,
    466.-Để đến việc như người thất nghiệp.
    Phải qui căn cùng nhau hội hiệp,
    Rán mau chơn mới kịp Đạo-mầu.
    Sớm với chiều gắng chí nguyện-cầu,
    470.-Thì sẽ được Toà-Chương dựa kế.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 463 đến câu 470)
    -Phàm người muốn làm nên cái thúng để xài, nếu chỉ học đươn mà không biết đát thì không thành cái thúng mà chỉ thành cái mê. Còn người tu biết cách thì phải thực hành đúng theo Tôn chỉ của Đức Thầy đã dạy, tức là hai phần “Học Phật” và “Tu Nhân” cần phải thiệt thi cho trọn vẹn. Trước hết lo đền đáp tứ ân, diệt trừ thập ác và rèn luyện các đức tánh tốt đẹp để hoàn thành phần Nhân Đạo, tức là trả xong nợ thế. Ấy gọi là đươn.
    Đồng thời phải nghiêm trì giới luật, thực hành theo các pháp môn tu Phật, như: Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo hoặc trì niệm Lục tự Di Đà v.v…tức gọi là biết đát. Nếu ai thi hành trọn vẹn hai phần kể trên thì chẳng những gần được “Bệ ngọc các lân” của đời Thượng ngươn Thánh đức, mà còn được siêu sanh về Cực lạc, Niết bàn. Có đặng vậy, gọi là người tu biết cách.
    Do đó, Đức Thầy giục thúc nhân sanh hãy nghe lời khuyên bảo của Ngài, để sớm lo tu thân hành Đạo cho kịp với thời kỳ:Đời cùng tu gấp kịp thì, Đặng xem báu ngọc ly kỳ năm non”.(Sám Giảng, Q.3) Bằng ai cứ mãi trễ bê lần lựa thì ngày kết cuộc, ắt gặp nhiều thất bại:Nếu không, gặp cảnh bơ vơ, Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không”.(Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    -Vậy hỡi ai là người hữu duyên cùng Phật pháp, hãy sớm quay về với gốc lành Đạo cũ:Cả kêu lớn nhỏ quay vìa, Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân”.(Thiên lý ca) và gấp rút tu sửa thân tâm, trau giồi đức tánh, cộng với hai thời lễ bái: sáng chiều phải chuyên cần, cùng chí tâm khẩn nguyện, chắc chắn sẽ được:“Chầu Phật hòa vui cõi Đại Đồng”.(Cho bà Năm Cò)

    CHÚ THÍCH

    XE LOAN: Do chữ Loan xa hay Loan giá. Có nghĩa : xe của Vua đi. Thời xưa xe của Vua đi thường có chạm hình chim Loan, do 4 con ngựa kéo (tứ Mã), trên cổ ngựa có treo lục lạc (chuông); khi chạy đi tiếng chuông vang lên, tượng trưng cho chim Loan kêu. Vậy chữ dựa xe Loan là nói sự được gần vị Thánh Vương đời Ngươn thượng. Cũng có ý chỉ cho sự tu hành khi được kết quả.
    LIỆU TOAN: Cũng gọi là toan liệu. Có nghĩa lo nghĩ trước và chuẩn bị trù liệu mọi việc cho kịp thời:“Chim bay về núi tối rồi, Anh không toan liệu còn ngồi chi đây?”.(Ca dao) Đức Thầy từng khuyên:
    Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
    Rứt bụi trần bận bịu làm chi”.

    (Đáp lời Ô. Lương văn Tốt)
    THẤT NGHIỆP: Mất sở làm, không có công ăn việc làm. Ở đây ý nói không có công phước gì để được dự hội Long Hoa và hưởng cảnh đời Thượng ngươn Thánh đức.
    QUI CĂN: Trở về với gốc lành, với Đạo lành. Ý nói người biết qui y Tam bảo để trở về với tánh lành sẵn có từ trước. Đức Thầy kêu gọi:
    “Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
    Trở về nơi cũ cho gần Phật Tiên”.

    (Thu đã cuối)
    ĐẠO MẦU: (Xem CT câu 901, T-1, Q.1).
    TÒA CHƯƠNG: (Xem CT câu 46, T-2, Q.3)

    CHÁNH VĂN
    471.-Chúng-sanh thể như gà thất thế,
    Phải nằm chờ tới nước bắt ra.
    Thời-kỳ này nhiều quỉ cùng ma,
    474.-Trời mở cửa Quỉ-Vương xuống thế.
    Nên Ta mới ra tay cứu-tế,
    Kẻo chúng-sanh bịnh khổ quá chừng.
    Sau Quỉ-Vương đi đứng nửa lừng,
    478.-Thêm tên tuổi chúng-sanh nó biết.
    Làm đủ cách xuống lên tha-thiết,
    Ở ngoài đường nó biết tên mình.
    Tin cùng không thì cũng mặc tình,
    482.-Chớ Ta lắm công trình dạy-dỗ.
    Hồi thuở trước Thích-Ca Phật-Tổ,
    Ngồi tham-thiền bị nó ghẹo hoài.
    Mà cũng không rúng động đặng Ngài,
    486.-Nên cố oán phá đời mãi mãi.
    Trong bổn-đạo cùng là sư vãi,
    Rán bền lòng cho được hiền từ.
    Hết khổ lao thì đến vui cười,
    490.-Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 471 đến câu 490)
    -Bởi kẻ hung ác hiện đang gặp thời, họ dùng đủ cách nhiễu hại lê dân, trước tình cảnh ấy, người tu như con gà bị thất thế giữa trường, nên Đức Giáo Chủ khuyên kẻ thức thời hãy ẩn nhẫn cho qua hồi vận bĩ:“ Đấng nam nhi ẩn nhẫn tùy thời, Vậy mới gọi khôn ngoan hữu chí.(Giác Mê TK, Q.4)
    -Lại nữa, chúng sanh đã gây nghiệp tội ác từ lũy kiếp, nên nay bị luật trời phân xử, mở cửa cho các loài ma quỉ xuống thế, gây tai họa chiến tranh, bệnh chết cho sanh linh. Do đó Đức Thầy phải gấp rút lâm trần mở cơ cứu độ, để chúng sanh kịp thời cải dữ về lành hầu vượt qua cảnh sầu khổ.
    Ngài còn cho biết: bọn quỉ vương ra đời, chúng có đủ tài phép lên trời xuống đất, hiểu rành tên tuổi và tâm lý của cả chúng sanh; chúng dùng đủ thứ bùa ngãi thính linh, ông lên, bà xuống, soi căn, cầu hồn.v.v…số người nào còn mê tín sẽ bị thảm sầu vì chúng. Đức Thầy cũng đã nhiều lần và khổ công nhắc nhở, mặc cho bá tánh có tin nghe hay không tùy ý.
    Đức Thầy còn kể lại, thời gian Đức Thích Ca ngồi tham thiền tại gốc Bồ Đề, gần bờ sông Ni Liên Thiền, bọn Ma Vương Quỉ quái cũng tìm đủ cách theo phá khuấy, nhưng tâm Ngài vẫn an nhiên định tĩnh và dùng thần thông nghị lực hàng phục được chúng. Tuy đã khâm phục Phật, song lòng chúng ma còn căm tức mãi nên phát thệ:“Hiện giờ bọn ta phá Phật không được, nhưng cũng thệ quyết qua đời sau sẽ phá hại Phật pháp và cả đồ chúng cho kỳ được mới nghe”. Vì thế từ độ ấy nhẫn nay, lúc nào cũng có chúng Ma quỉ: hoặc dùng áp lực bên ngoài, hoặc len lỏi vào nội bộ để tìm đủ cách phá hại nền Phật pháp.
    -Do đó, Đức Thầy kêu gọi tất cả môn đồ nhà Phật, trong giới xuất gia hay hàng cư sĩ, từ đây hãy rán kiên tâm bền chí trên đường tu học và gắng sức rèn luyện thân tâm cho được trọn lành trọn sáng; được thế, chẳng những không bị chúng quỉ ma nhiễu hại mà còn đặng chứng thành Đạo quả. Và chúng ta phải tin chắc rằng: hết hồi khổ công hành đạo, dĩ nhiên phải tới lúc giải thoát an vui, và khi đó nhà tu sẽ thỏa lòng mãn nguyện.

    CHÚ THÍCH
    CHÚNG SANH THỂ NHƯ GÀ THẤT THẾ, PHẢI NẰM CHỜ TỚI NƯỚC BẮT RA: Thường thấy những cuộc chọi (đá) gà, sau khi cáp độ xong, người ta dùng cây nhang phân ra nhiều chặn (?), rồi treo đồng xu ngay chặn phân đó. Khi gà bắt đầu đá thì đốt nhang, nhang cháy đến chặn, xu rớt xuống gọi là một nước gà. Bấy giờ hai bên đều bắt gà ra cho uống nước, săn sóc, o bế ít phút cho gà khỏe, rồi tiếp tục thả ra đá nước khác. Đến khi nào có một con chạy, hoặc chết tại chỗ là biết ăn thua. Trong khi ấy, nếu có một con thất thế, té xuống hay bị thương đá nữa không nổi, nó chỉ nằm đó, không chết, không chạy, thì chưa phải thua. Song nếu nó còn chòi đạp sẽ bị con gà kia cắn đá tất phải chết. Bằng nó biết khôn một chút, giả nằm yên tại chỗ thì con gà kia tưởng đâu đối thủ sắp chết, nên chỉ đứng nghiềm đó, chớ không cắn đá nữa. Nhờ đó kịp khi tới nước, người chủ bắt con gà thất thế ra cho nước, và may các vết thương, gà lấy lại sức khỏe. Bấy giờ chủ thả gà vào trường đá nữa, nhiều khi thắng được gà kia một cách dễ dàng.
    Ở đây Đức Giáo Chủ muốn nói: hiện giờ nhằm lúc thạnh thời của Ma quỉ và kẻ hung ác, chúng dùng đủ cách đàn áp, phá hại người lương thiện:Quân tử tùy thời hơi sút bước, Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông”.(Cho Ô. Chín Diệm) cũng như con gà bị thất thế. Vậy mỗi người nên ẩn nhẫn (chờ tới nước):“Nhẫn nhẫn cho rồi cơn bĩ cực, Thời lai sẽ được cảnh tiêu dao”.(Mấy đoạn tơ lòng)
    QUỈ VƯƠNG: (Xem CT câu 322, T-1, Q.1)
    CỨU TẾ: Giúp đỡ và độ rỗi người ra khỏi tai nạn khổ não. Cứu tế là một trong nhiều nghĩa của chữ Bồ Tát (Bồ giả phổ dã, Tát giả tế dã cứu nhơn chi cấp, tế nhơn chi nguy, nãi thị Bồ Tát). Đức Thầy từng nói:“Phổ tế chúng sanh qua bể khổ”.(Tỉnh bạn Trần gian)
    THA THIẾT: (Xem CT câu 322, T-1, Q.1).
    CÔNG TRÌNH: (Xem CT câu 381, T-3, Q.4).
    THÍCH CA PHẬT TỔ: (Xem CT câu 390, Q.2 và câu 242, T-2, Q.2).
    THAM THIỀN: Do Phạn ngữ Dhyana. Tham là suy gẫm. Thiền là tịnh lự, là Tư duy. Nói chung là để tâm yên lặng chăm chú vào một chỗ mà suy nghiệm tìm hiểu Đạo lý mầu nhiệm. Tham thiền cũng hiểu như chữ Thiền na, Thiền định hay Nhập định. Đức Thầy từng khuyên:Phật pháp thiền na dốc thực hành”.(Cho cô Võ thị Hợi)
    BỔN ĐẠO: (Xem CT câu 116, T-2, Q.2).
    SƯ VÃI: Các nhà Sư và Ni cô (Xem thêm chữ Tăng đồ, câu 364, T-3. Q.4).
    PHỈ TÌNH: (Xem CT câu 172, T-2, Q.3).
    NGUYỆN ƯỚC: Cũng gọi là ước nguyện. Có nghĩa thề nguyền ước hẹn, thề hứa với lòng một việc gì. Ví dụ: Nguyện ước tu hành cho đến khi thành quả.

    CHÁNH VĂN
    491.-Bọn gái mới ra đường tha-thướt,
    Bỏ hết trơn nề-nếp ông cha.
    Khác tánh-tình người cổ nước ta,
    494.-Nên phải chịu đớn-đau đủ cách.
    Trai với gái rán coi sử sách,
    Đứng trung thần với kẻ tiết-trinh.
    Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh,
    498.-Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt.
    Dạy chẳng đặng lòng như lửa đốt,
    Khắp dương-gian chưa đặng ba phần.
    Kể từ nay Tiên, Phật, Thánh, Thần,
    502.-Lo dạy-dỗ dương-trần chẳng xiết.
    Đức Thượng-Đế ngự đền Ngọc-Khuyết,
    Nhìn dương-gian cũng luống thở dài.
    Thấy chúng- sanh trau-trỉa mặt mày,
    506.-Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 491 đến câu 506)
    Nhận thấy một số phụ nữ thời nay đua đòi theo nếp sống mới của Âu Tây, ăn mặc se sua kiểu cách:Diện áo quần, son phấn lấn chen, Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.(Trao lời cùng Ông Táo) Vội quên đi phong tục cổ truyền của ông cha ta từ trước. Tánh tình họ trở nên hỗn láo, vô lễ, không còn được như hàng nữ lưu tốt đẹp thời xưa. Đức Thầy thường thống trách hạng người ấy:
    Cớ sao chê cổ trọng kim,
    Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con”.

    (Sám Giảng Q.3)
    do thế, mà sắp tới đây họ phải chịu lắm tai nạn khổ sầu.
    -Bởi lý do kể trên, Đức Thầy khuyên dạy trong hàng nam nữ hãy thường xem sử liệu để học đòi theo những tấm gương trung trinh tiết liệt. Và rán lo trau sửa phần tâm đức bên trong, mới là điều đáng quí, chớ chẳng chẳng phải lo ăn diện sắc lịch bên ngoài mà gọi là tốt đẹp được.
    -Đức Thầy cũng sốt lòng, vì đã giác tỉnh chúng sanh nhiều lần, nhưng mãi đến nay, vẫn chưa được ba phần mười thức tỉnh. Cũng vì thế, từ đây sẽ có các đấng Phật, Tiên, Thần, Thánh, cùng với Đức Thầy, dùng đủ phương tiện giác tỉnh quần sanh.
    -Lại nữa, nơi đền Ngọc Khuyết, Đức Ngọc Đế xót thương cho chúng sanh trong cõi trần. Bởi việc khổ sắp kề bên mà họ mãi chạy theo cái đẹp hào nhoáng bên ngoài: lo trang sức vàng ròng son phấn, ăn dọn lụa là…chớ không sớm hồi tâm hướng thiện, để lo tu sửa trí lành, giồi mài tâm đức, hầu sau nầy được thoát qua tai khổ và dựa kề Tiên Phật.

    CHÚ THÍCH
    THA THƯỚT: Cũng gọi là thướt tha. Có nghĩa yểu điệu, lả lơi. Ví dụ: dáng điệu tha thướt. Tha thướt ở đây chỉ cho nữ giới có tánh nết ăn dọn kiểu cách lả lơi, theo nếp sống văn vật.
    NỀ NẾP: Cũng gọi là nền nếp. Có nghĩa: Lề lối, kỷ cương trong một gia đình hoặc cả dân tộc, quốc gia. Đức Thầy từng cảnh tỉnh:
    Gương Tổ phụ còn roi lại đó,
    Sao không theo nề nếp gia phong”.

    (Kh/thiện, Q.5)
    SỬ SÁCH: Sách viết về lịch sử để lưu lại đời sau. Ví dụ: Chuyện ấy có sử sách đành rành.
    TRUNG THẦN: (Xem CT câu 586, T-2, Q.3).
    TIẾT TRINH: (Xem CT câu 22, T-2, Q.2)
    ĐỀN NGỌC KHUYẾT: Một cái đền ở thượng giới (cõi Trời) của Đức Ngọc Đế ngự.
    TRAU TRỈA: Cũng đọc là trau tria. Trau là giồi mài chải chuốc, đánh bóng. Trỉa là tỉa, là xen bớt. Ví dụ: tỉa bớt tóc râu. Trau trỉa ở đây chỉ cho sự trau hình chuốc dạng, cạo sửa mặt mày, tô son đánh phấn.


    CHÁNH VĂN (Từ câu 507 tới câu 594)
    507.-Kẻ đói khó người sang hay lánh,
    Bước lại gần chê lũ tanh-hôi.
    Cõi ta-bà Ta thấy hỡi ôi !
    510.-Sầu bá-tánh quá nên kiêu-cách.
    Người tàn-tật đui-cùi đói-rách,
    Ít có ai để mắt nhìn vào.
    Chuộng những người dù võng sắc màu,
    514.-Cậu với mợ, ông-thầy, cô-bác.
    Thị kẻ khó như rơm như rác,
    Ta quá rầu đài-các văn-minh.
    Mấy ai mà giữ dạ sắt-đinh,
    518.-Theo Tông-Tổ của mình thuở trước ?
    Đầu với tóc áo quần láng-mướt,
    Chữ lanh khôn của quỉ của ma.
    Chớ nó không có giống người ta,
    522.-Ma với quỉ sanh người hung ác.
    Lo tâp luyện những câu đờn hát,
    Chớ chẳng lo dạy-dỗ ngu-khờ.
    Để cái tâm yên-lặng như tờ,
    526.-Coi Ta nói câu nào bất chánh ?

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 507 đến câu 526)
    -Tâm lý kẻ giàu hiện nay, phần đông chẳng lúc nào họ muốn gần gũi người nghèo, nếu trường hợp đặc biệt không thể tránh được, buộc phải tiếp xúc với kẻ nghèo thì họ luôn tỏ vẻ khi dể, né mình, bịt mũi, vì cho là hôi hám khó chịu. Đức Thầy nhìn tâm trạng loài người trong cõi khổ mà bắt hỡi ôi ! Ngài rất buồn thương cho những kẻ quá kiêu căng hống hách.
    -Lại có số người không hề đoái tưởng đến những kẻ tật nguyền cùng khổ, chỉ lo bưng bợ và yêu chuộng hạng cao sang quyền thế.
    -Đối với kẻ nghèo hèn thiếu ăn thiếu mặc họ xem chẳng xứng đáng vào đâu, Đức Thầy buồn thương cho những người quá đam mê xa hoa phung phí theo nền văn minh vật chất. Xét ra, chẳng còn bao người bền gan chặt dạ, ăn ở đúng theo nền nếp, gia phong của Tổ tiên từ trước:Gan vàng sắt đá lòng son mấy người?”(Giác Mê của Đức Phật Thầy)
    -Họ chỉ lo chưng diện lụa the màu sắc, tập tành theo lối sống gian ngoan, quỉ quyệt, mất cả lòng nhơn. Đức Thầy cho những kẻ thiếu tình nhân loại ấy, chưa xứng đáng là một con người. Bởi từ chỗ khôn ma, khôn quỉ đó, sẽ đưa họ đến hung tàn bạo ác, gây đau khổ cho nhân loài.
    -Cũng có hạng cho mình là kẻ học thức, nhưng họ chỉ biết điêu luyện tiếng đờn giọng hát, để ru hồn tuổi trẻ, chạy theo nếp sống xa hoa trụy lạc, không để tâm chỉ dạy người quê dốt. Đến đây Đức Giáo Chủ kêu gọi mọi người trong xã hội hãy bình tâm suy nghĩ lời luận giải của Ngài, xem có chánh lý hay không ?

    CHÚ THÍCH
    TA BÀ: (Xem CT câu 183, T-2, Q.2).
    KIÊU CÁCH: Cách điệu kiêu hãnh, khi người; hoặc bằng lời nói, bằng dáng điệu ngạo nghễ, lập dị. Ví dụ: Cử chỉ kiêu cách, lời giọng kiêu cách. Đức Thầy hằng răn dạy:
    Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu cách,
    Các con lành khá chọn ngay đường”.

    (Nang thơ Cẩm tú)
    VĂN MINH: (Xem CT câu 521, T-1, Q.1).
    DẠ SẮT ĐINH: Sắt và đinh là thứ kim loại, màu xám, chất nó cứng và chắc. Dạ sắt đinh là lòng dạ cứng bền trước sau như một, không hề thay đổi và không ai có thể làm lay chuyển được. Ví dụ: gan vàng dạ sắt. Đức Thầy từng khuyên:
    “Rèn lòng giữ dạ sắt đinh,
    Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh thơi”.

    TÔNG TỔ: (Xem CT câu 143, T-2, Q.3).

    CHÁNH VĂN
    527.-Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,
    Nếu thiệt người thì biết thương người.
    Thấy kẻ khờ quê dốt ngạo cười,
    530.-Nào có lấy lời chi chỉ bảo.
    Ta thương xót lo tần lo tảo,
    Chẳng thấy ai rể thảo dâu hiền.
    Làm cho người Thượng-Cổ thêm phiền,
    534.-Rất đau xót cho nòi cho giống.
    Biết chừng nào được qui nhứt thống,
    Khắp hoàn-cầu dân biết thương nhau.
    Nhắc ra thì dạ ngọc đớn-đau,
    538.-Không nhắc đến biết đâu dân sửa.
    Cơm được chín ta nhờ có lửa,
    540.-Dân được vui nhờ lúc khải-hoàn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 527 đến câu 540)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên mọi người nên noi gương và thực hành theo lời giảng huấn của Phật Thánh. Nếu là một con người thì phải có lòng nhân, thương yêu và tận tâm giúp đỡ những kẻ chung quanh. Thấy hạng quê mùa dốt nát, không vội khinh chê mà phải thật lòng chỉ bảo họ, những điều hay lẽ phải.
    -Bởi lòng quá thương xót sanh linh, nên Đức Thầy chẳng ngại sự gian khổ, dùng đủ phương tiện tế độ bá gia, và sáng tác Sấm kinh, luận giải Đạo lý, cho thuốc trị bịnh. Với dụng ý là làm cho mọi người đều biết giác ngộ, quay về con đường Đạo đức; thế mà chưa được bao người, biết xử sự cho đúng với bổn phận, dâu hiền rể thảo. Do đó, khiến cho người xưa phải não lòng xót dạ cho dân tộc ta, cũng là nòi giống tiên rồng, mà nay lại để mất đi những đức tánh hiền lương tốt đẹp:Giống lành xưa cũng Rồng Tiên, Ngày nay hung ác đảo điên khắp cùng”.(Viếng làng Phú An)
    -Đức Giáo Chủ cũng mong đến một ngày cả nhơn loại trong địa cầu đều biết qui về gốc thiện, mọi người cùng thương nhau như ruột thịt, chẳng còn diễn ra cảnh đau thương tang tóc. Và mỗi khi nhắc đến sự thống khổ của nhân sanh, Ngài cũng bắt đau lòng chua xót. Nếu Ngài không nhắc nhở thì dân chúng biết đâu mà ăn năn hối cải.
    -Vả lại, người sống trong trần nhờ có lửa, mới nấu được cơm chín mà dùng, còn đất nước gặp thuở thanh bình, dân chúng mới hưởng cuộc đời an vui hạnh phúc. Vậy ai muốn sống cảnh ấy, hiện giờ phải lo gieo trồng giống thiện.

    CHÚ THÍCH

    PHẬT THÁNH: (Xem CT câu 149, T-3, Q.4)
    LO TẢO LO TẦN: Tảo tần là hai loại rau, do chữ “thái tảo, thái tần”. Nghĩa rộng là chỉ cho sự đảm đang nhiều việc, làm lụng cực nhọc, nào buôn tảo bán tần, nào việc nầy việc nọ để nuôi sống gia đình. Ca dao có câu “Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần, Thức khuya dậy sớm tảo tần với anh”.
    Lo tảo lo tần ở đây ý nói: Vì quá thương xót chúng sanh, Đức Thầy phải dày công cực nhọc, dùng mọi phương tiện cứu độ, như Ngài từng nói:
    Tảo tần lo liệu năm ba,
    Biết sao hiệp mặt lòng già mới nguôi”.

    (Từ giã Bổn đạo khắp nơi)
    RỂ THẢO DÂU HIỀN: Rể thảo, do chữ rể Đông sàng, tức người rể xứng đáng, có lòng hiếu thảo với cha mẹ vợ, cũng như cha mẹ ruột. Người xưa từng nói:“Dâu hiền là gái, rể thảo là trai”.
    Dâu hiền, do chữ dâu Nam gián, cũng gọi là dâu nên, tức là người dâu hiền đức, hết lòng tôn kính và phụng dưỡng cha mẹ chồng:Dâu hiền như báu trong nhà, Khác nào như gấm thêu hoa rõ ràng.(Ca dao)
    Trong văn chương Việt Nam có tác phẩm “Thoại Khanh Châu Tuấn”, đã nói lên tấm gương dâu hiền rất mực: Sống trong gia đình nghèo túng với một mẹ già, Châu Tuấn lại đi thi, Thoại Khanh hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng, hằng ngày bắt ốc hái rau nuôi mẹ…
    Đến Kinh đô, Tuấn thi đỗ cao, nhưng bị nhà vua ép gả Công chúa, Tuấn từ chối vì đã có vợ nhà. Vua nổi giận, đày Tuấn qua xứ khác. Mẹ con ở nhà trông đợi mãi, càng lúc càng bặt tin. Thoại Khanh liền dắt mẹ tìm chồng, trên đường đi, gặp nhiều gian nan vất vả. Khi được tin Tuấn bị đày, mẹ khóc thương mù cả đôi mắt. Thoại Khanh tiếp tục cõng mẹ, băng rừng vượt suối để đến với Tuấn. Thời gian bị lạc trong rừng, vì mẹ đói quá, nàng hy sinh lóc thịt nướng cho mẹ ăn đỡ đói. Một hôm, nàng lại bị hung thần bắt ép phải ưng nó làm chồng, bằng không thì phải chịu móc đôi mắt, thế là nàng đành chịu mất đôi mắt để tròn câu chung thỉ với Châu Tuấn.
    Do lòng trọn thảo với mẹ và trinh tiết với chồng, nên Trời đất cảm động ban phúc cho cặp mắt Khanh sáng lại và cho thần Sơn quân (cọp) cõng hai mẹ con đưa đến gặp Tuấn.
    Bấy giờ Châu Tuấn đã thi đậu lại lần nữa, cả nhà vui mừng sum họp và sống cuộc đời hạnh phúc vinh quang.
    Đó là một tấm gương dâu hiền đáng kính và đáng noi theo. Nhưng nhìn lại hàng phụ nữ thời nay thì quá hiếm, cho nên Đức Thầy thường khuyến tấn:
    “Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,
    Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền”.

    (Kh/thiện,Q.5)
    NGƯỜI THƯỢNG CỔ: Người thời xưa. Đây chỉ cho Tổ tiên ta, những người đã sản sanh giống Tiên rồng Việt Nam.
    NÒI GIỐNG: Cũng gọi là giống nòi. Chỉ cho nguồn gốc dòng dõi của một dân tộc, như dân tộc Việt Nam là nòi giống Tiên Rồng, con Hồng cháu Lạc:
    “Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên,
    Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu ?”

    (Từ giã Bổn đạo khắp nơi)
    QUI NHỨT THỐNG: Gom về một mối. Đây ý nói đến thời kỳ mà cả nhân loại đều biết trở về với tánh lành, tánh nhân từ bác ái thì chẳng còn ai gây khổ cho ai nữa. Đức Thầy từng nói trong bài “Thu đã cuối”:
    Chấn hưng Phật giáo học đường,
    Dưới trên hòa thuận chọn đường qui nguyên”.

    HOÀN CẦU: (Xem CT câu 42, T-2, Q.2).
    DẠ NGỌC: (Xem CT câu 496, T-2, Q.3).
    KHẢI HOÀN: (Xem CT câu 54, T-2, Q.2).

    CHÁNH VĂN
    541.-Phật Như-Lai cho phép Khùng troàn,
    Cho bổn-đạo khắp nơi đặng biết.
    Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
    544.-Đợi cho người hết giận ta khuyên.
    Chữ nhẫn-hòa ta để đầu tiên,
    Thì đâu có mang câu thù-oán.
    Việc hung-ác hễ vừa thấp-thoáng,
    548.-Chữ từ-bi ta diệt nó liền.
    Sự oán-thù đáp lại chữ hiền,
    Thì thù-oán tiêu-tan mất hết.
    Chữ bạn tác dầu cho đến chết,
    552.-Cũng keo-sơn gắn chặt mới là.
    Bước ra đường ăn nói thiệt-thà,
    Dầu khôn-khéo cũng là giả dại.
    Nếu tranh-đương ắt ta bị hại,
    556.-Thêm sa-cơ lại bị xích-xiềng.
    Vì đời nay chúng nó dụng tiền,
    558.-Ít ai dụng chữ nhơn chữ nghĩa.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 541 đến câu 558)
    -Đức Thích Ca Như Lai đã sắc lịnh cho Đức Thầy truyền dạy khắp môn đệ, nhiều pháp tu hành. Trong đây có pháp nhẫn nhục, nó ví như áo giáp tường đồng để bảo vệ nhà tu, khỏi nổi cơn nóng giận trước sự khiêu khích của kẻ khác. Khi có người đến mắng nhiếc chửi rủa thì ta giả như không nghe, không thấy; tâm xét rằng: vì họ thiếu Đạo nghĩa, mới lấn hiếp mình như thế, vậy đáng thương hại hơn là thù ghét, và luôn giữ lòng nhẫn nhục, tha thứ lỗi lầm của họ. Đợi qua cơn giận dữ, ta sẽ dùng lời dung hòa ra khuyên giải, tức nhiên lòng thù oán giữa ta và họ sẽ tiêu tan.
    -Thêm nữa, nhà tu cần theo dõi lòng mình từ phút giây, hễ thấy một niệm hung dữ vừa chớm nghĩ, lập tức dùng tâm từ bi giải trừ. Còn đối với sự thù oán phải lấy lòng hiền đức ra đối trị, bởi “Dĩ đức báo oán, oán tự tiêu tan”; bằng : “Dĩ oán báo oán thì oán kết thêm mãi”.
    -Đức Thầy cũng dạy về đạo bằng hữu, cần phải giữ lòng thương mến, tương trợ lẫn nhau cho được thỉ chung như nhất. Và về mặt giao tiếp với mọi người hãy nói năng chơn chất, chẳng nên khoe khoang lớn lối, dầu ta có đủ tài trí cũng giả như kẻ thật thà quê dốt, là yên thân nhất.
    -Vì rằng: nếu ta ham đua tranh, giành giựt với mọi người, ắt không tránh khỏi va chạm đến quyền lợi, hay lòng tự ái của kẻ khác; rồi dẫn đến chỗ tranh tụng kiện cáo, nhiều khi phải chuốc lấy sự thất bại, tù tội. Bởi thời nay, người ta xem tiền bạc là trên hết “Đa kim ngân phá luật lệ” chớ ít ai thi thố lòng nhơn nghĩa.

    CHÚ THÍCH

    NHƯ LAI: (Xem CT câu 153, T-2, Q.3).
    NHẪN HÒA: Nhẫn nhịn và khoan hòa, dung thứ mọi người. Đây là một đức tánh, cũng là phương pháp, có diệu năng trừ được lòng nóng giận hung ác.
    THẤP THOÁNG: Lấp loáng, vừa nhoáng lên, vừa thoáng qua. Đây ý nói tánh hung ác vừa mới chớm phát.
    TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, T-1, bài Sứ Mạng).
    OÁN THÙ: Cũng gọi là thù oán. Có nghĩa thù nghịch oán hận và căm tức trong lòng để chờ dịp làm cho lợi gan. Đức Thầy có câu:
    “Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn
    Mới có cuộc tranh tài đấu lực”.

    (Kh/thiện Q.5)
    BẠN TÁC: Làm bạn. Do chữ “Bằng hữu”, tức tình bè bạn. Cũng có nghĩa là kết bạn giữa hai người xuýt xoát tuổi với nhau. Ở đây chỉ cho Đạo bè bạn, một trong “Ngũ luân”, đã kết bạn với nhau thì phải đối xử đứng đắn, trước sau như một. Sau đây là câu chuyện tình bạn tác cho đến chết vẫn còn keo sơn gắn chặt.
    -Thời Chiến Quốc (Tr.Hoa) có đôi bạn thân là Tả Bá Đào và Dương Giác Ai, cùng nhau đến nước Sở để lập công danh. Đường xa diệu vời, tắm nắng dầm mưa. Bá Đào vương phải bệnh, nằm lạnh run, suy tính: số y thực mang theo chỉ đủ một người dùng, mới đi đến nơi, nên anh khuyên Giác Ai: hãy đi một mình để anh ở lại, nhưng Giác Ai không đồng ý.
    Độ ấy, mưa càng lúc càng nhiều, trời rét buốt, Bá Đào kêu Giác Ai nói:
    -Anh mệt mỏi và lạnh quá đi không được nữa !
    Giác Ai liền đỡ Bá Đào nằm trên tảng đá, rồi chạy đi kiếm củi để đốt hơ, nhưng khi trở lại, thấy Bá Đào cởi hết y phục xếp lại, để mình trần nằm đó chờ chết. Giác Ai ngạc nhiên hỏi:
    -Anh sao thế ? Bá Đào đáp:
    -Anh sức kém lại học ít, liệu tới nước Sở cũng chẳng làm được gì, nếu không khéo, cả hai ta đều chết đói giữa đường. Vậy em hãy lấy hết y thực mà đi, anh đành chết nơi đây. Nói xong Bá Đào tắt thở ! Giác Ai khóc than thảm thiết, toan liều mình chết theo bạn, xong nghĩ làm vậy, tức phụ lòng anh, bèn lo chôn xác Bá Đào, chất đá làm dấu, rồi bùi ngùi ôm gói ra đi.
    Tới nơi, Giác Ai được vua Sở trọng dụng, phong tước Trung Đại Phu. Giác Ai đem sự tình tâu hết cho Vua nghe, và xin phép trở lại xây mộ cho anh. Vua chuẩn y, lại cũng truy phong cho Bá Đào chức Trung Đại phu và cắt quan quân, theo hộ vệ Giác Ai.
    Công việc xây mộ vừa xong, Giác Ai nằm mộng thấy Bá Đào về cho biết: Anh rất cám ơn em lo danh phận và mồ của anh chu đáo, ngặt nơi đây gần mộ Kinh Kha, một thần linh ở đất nầy; bộ hạ y sanh đố kỵ, nên mấy hôm nay xua đuổi và đánh đập anh khổ sở lắm !
    Giác Ai thức giấc, liền đòi làng xóm sở tại đến hỏi. Quả có mộ Kinh kha gần đó. Giác Ai cấp tốc đến miếu phân bày hơn thiệt: bảo Kinh Kha từ rày không được cho bộ hạ đến hiếp anh ta nữa ! Nhưng đêm sau Bá Đào cũng ứng mộng bảo Giác Ai: nên dời mộ anh đi nơi khác, vì Kinh Kha và bộ hạ y chẳng khứng để yên.
    Giác Ai tỉnh dậy, liền viết sớ tâu vua hay và kêu đoàn tùy tùng nói: -Bọn Kinh Kha ỷ mạnh ăn hiếp anh ta đến đỗi, ta phải chết theo anh để trừ kẻ cường nghịch, đoạn rồi anh rút gươm tự tử.
    Đêm đó giữa lúc canh ba, gió mưa sấm sét tưng bừng, nghe tiếng la hét vang dội. Sáng lại người ta thấy mồ Kinh Kha bể nát, xương cốt văng lên mặt đất, cây cối chung quanh tróc gốc ngã lăn. Miễu môn cũng cháy sạch như chỗ đất bằng. Vua Sở được tin, liền sai quan đến nơi ấy lập miễu thờ hai anh em Dương Giác Ai và Tả Bá Đào để tưởng nhớ đôi bạn “Chí thân tử hữu”. Người sau thường dùng điển tích nầy để tỉnh đời:
    Thương nhau như gã Ai Đào,
    Mong chi ai xẻ đồng bào nhiều phe”.

    KEO SƠN: Keo và sơn là hai chất dính khó làm cho tróc ra. Cổ thi có câu:“Cổ giao đầu tốt trung, Thùy năng biệt ly thử”.(Lấy keo bỏ vào trong sơn thì ai chia rẽ cho được).Đây ý nói tình bạn thương yêu, đoàn kết nhau rất khắn khít như keo với sơn dính liền. Đức Thầy nay từng nói trong bài “Viếng làng Mỹ Hội Đông”: “Keo sơn đâu cật liền lưng”.
    TRANH ĐƯƠNG: Tranh đua giành giựt, chống cự lẫn nhau.
    SA CƠ: Bị việc không may, phải thua, phải thất bại. Ví dụ: Sa cơ thất thế,
    XÍCH XIỀNG: Xích là sợi dây bằng sắt, có nhiều khoen móc liền nhau. Xiềng là trói buộc lại. Xích xiềng là bị cột trói bằng dây xích. Nghĩa bóng là bị sự tù tội, ràng buộc khổ sở, Đức Thầy bảo:
    Tham chi giả tạm của tiền,
    Như chim vào lưới xích xiềng trói thân”.(Hoài Cổ)
    NHƠN NGHĨA: (Xem CT câu 868, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    559.-Theo học Đạo mặc ai mai-mỉa,
    Ta cũng đừng gây-gổ với người.
    Được mấy điều thì đáng vàng mười,
    562.-Thiệt hiền-đức có ai mắng chửi.
    Xưa đức Thánh luận bàn cái lưỡi,
    Ngài nói rằng các việc tại mầy.
    Thuận với hòa hay ghét với rầy,
    566.-Cũng cái lưỡi làm thầy các việc.
    Phải kiếm cách đặng ta trừ tuyệt,
    Lấy tâm thần làm chủ mới mầu.
    Cũng chẳng nên theo tánh Võ-hầu,
    570.-Thấy chẳng nói mà nhăn mà nhướng.
    Hãy liệu sức chớ nên nói bướng,
    Dầu việc chi liệu lượng mà làm.
    Điên Khùng nầy chẳng có nói xàm,
    574.-Nói những chuyện từ-bi bác-ái.
    Nếu bổn-đạo còn ai làm sái,
    Coi kệ này mình sửa lấy mình.
    Ta không tranh mà cũng không kình,
    578.-Cho bá-tánh gièm-pha thoả chí.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 559 đến câu 578)
    -Đã quyết tâm tu học đạo pháp thì dù ai có gièm siểm nhạo chê, ta cũng đừng sân si với họ, hầu để tâm yên tĩnh lo thi hành việc Đạo nghĩa; mỗi người đều biết tu sửa như vậy, ắt được quí báu hơn vàng ngọc. Và nếu ta đã thật tâm tu niệm, tức nhiên mọi kẻ chung quanh đều kính nể, thì đâu còn ai khinh khi mắng chửi.
    -Xưa Thánh nhơn thường răn đời, nên thận trọng lời nói, bởi mọi thành quả thấp cao, tội phước hòa vui hay thù hận, cũng đều do miệng lưỡi mà ra. Cho nên ngày nay Đức Thầy thường chỉ dạy tín đồ:“…phải giữ cho lời nói mình được thành thật chánh đáng, được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ khác.(Ác lưỡng thiệt)
    -Song muốn trừ tuyệt các lời nói quấy ta phải tự chủ thân tâm, mỗi khi muốn nói hay làm việc gì, trước phải dùng thần trí sáng suốt mà xét suy kỹ lưỡng; nếu thấy điều đó là ôn thuần đạo nghĩa mới thực hiện. Bỏ hẳn những tánh tình thô bạo, những cử chỉ hăm he, nhăn nhện làm cho kẻ khác khó chịu.
    -Và trước khi thi thố điều chi, ta cần phải suy lường cân nhắc, chớ không nên làm càng nói bướng. Còn những lời khuyên dạy trên đây, là tiếng lòng từ ái của Đức Giáo Chủ, chớ chẳng phải là lời nói nhảm, mà bá tánh thờ ơ không lưu ý.
    -Ngài cũng kêu gọi khắp bổn đạo, mỗi người hãy tự kiểm, nếu thấy mình quấy phạm thì xem theo lời dạy trong quyển “Giác Mê Tâm Kệ” nầy, mà tu sửa thân tâm, rèn luyện ngôn ngữ cho được ngay chánh. Riêng phần giáo độ nhân sanh của Đức Thầy, Ngài chẳng hề tranh luận chống kình với một ai, nên dầu cho tiếng đời có nhạo chê gièm siểm cũng mặc:“Cay đắng siểm gièm thân lão chịu, Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông”.(Phòng vắng đêm khuya)
    MAI MỈA: Cũng gọi là mỉa mai. Có nghĩa châm biếm, chế nhạo, nói cạnh khía, nói cười nửa chơi nửa thật, nhưng có ẩn ý khi dể. Ví dụ: nói mỉa mai, cười mai mỉa.
    VÀNG MƯỜI: (Xen CT câu 109, T-2, Q.3).
    CŨNG CÁI LƯỠI LÀM THẦY CÁC VIỆC: Lưỡi là một bổn phận của cơ quan tiêu hóa, bằng thịt nằm trong miệng, có nhiều hạch nước miếng, dùng để nếm, lừa thức ăn và cũng để nói chuyện.
    Sách Tây phương có sự tích:
    Erope, một triết gia, cũng là một nhà thơ nổi tiếng nhất ở Hy Lạp, sống vào khoảng thế kỷ thứ VI và thứ VII, trước Tây lịch. Lúc ông còn làm nô lệ, một hôm chủ bảo ông ra chợ mua thức ăn nào ngon nhất. Ông bèn mua toàn là lưỡi heo, đem về làm các thức ăn, chủ lấy làm lạ hỏi lý do. Ông đáp:
    -Lưỡi là cái chìa khóa của tất cả lý lẽ. Nhờ nó mà con người được địa vị cao sang, nhiều kẻ khác kính nể.
    Ít hôm sau, người chủ muốn thử ý, bèn sai ông đi mua món nào xấu và dở nhất về nấu ăn, ông cũng mua toàn lưỡi heo. Người chủ ngạc nhiên hỏi:
    -Tại sao nay cũng mua lưỡi heo nữa ?
    Ông đáp:
    -Nếu nói về cái quí thì không gì quí hơn lưỡi, nhưng tìm cái xấu thì cũng không gì xấu hơn nó. Chính cái lưỡi đã khiến con người ưa tranh biện, gây chia rẽ, vu cáo, nói những lời bất nghĩa, bất nhân. Tài hùng biện của Erope khiến người chủ phải chịu thua.
    Đây ngụ ý lời nói (lưỡi) là nguồn cội của sự chân thật hay là điêu ngoa xảo trá. Ngạn ngữ Việt Nam có câu :“Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Thánh Khổng Tử cũng bảo:Nhất ngôn bất đúng, vạn sự bất thành”. Và “Cổ ngôn chi bất xuất, Sĩ cung chi bất đãi dã(Người xưa chẳng dám khinh dễ lời nói, sợ e chẳng theo kịp lời nói mà hổ ngươi).Bởi mọi việc hư nên tốt xấu gì, cũng do nơi lời nói mà ra cả.
    TÂM THẦN: Phần tinh thần của thể xác, tức là sự linh diệu sáng suốt của tâm trí mình. Đức Thầy có câu:Tâm thần hoài tưởng chuyện xa xôi.(Thi Xuân)
    VÕ HẦU: Loài khỉ, tánh võ hầu là tánh hay nhảy nhót, bực dọc, nhăn nhướng.
    LIỆU LƯỢNG: Toan tính, suy lường, cân nhắc đâu đó chu toàn. Ví dụ: Việc đó đã liệu lượng xong rồi.
    BÁC ÁI: (Xem CT câu 40, T-1, Q.1).
    GIÈM PHA: Đặt chuyện nói xấu người với một kẻ khác, hoặc nói vô nói ra cho hư chuyện người.

    CHÁNH VĂN
    579.-Ai làm phước in ra mà thí,
    Thì được nhiều hạnh-phúc sau nầy.
    Chốn non xanh dạy-dỗ cáo-cầy,
    582.-Xuống trần-thế ra tay dắt chúng.
    Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
    Chỉ đem theo hai chữ thành-lòng.
    Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,
    586.-Mong sanh-chúng từ-lòng hối-ngộ.
    Kẻ xa-xuôi có lòng ái mộ,
    Xem Kệ nầy tu tỉnh tại nhà.
    Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,
    590.-Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc.
    Chay bốn bữa ấy là quy-tắc,
    Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng-sanh.
    Con Phật thì chẳng có khôn lanh,
    594.-Đời văn-vật khôn ma khôn quỉ.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 579 đến câu 594)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyến dạy chư thiện tín, nếu ai muốn tạo nhân từ thiện, hãy xuất tiền in kệ giảng, truyền bá trong quảng đại quần chúng, vì đó là công tác pháp thí (một trong 3 món bố thí) thì sau nầy được hưởng nhiều phúc hạnh sáng mầu. Bởi đầy lòng từ bi đối với cả chúng sanh, nên lúc còn an trú nơi rừng núi, Đức Thầy đã độ rổi các loài cầm thú, nay lâm phàm Ngài có bổn phận hướng dẫn nhân sanh, tiến lên đường Đạo đức.
    -Vậy ai muốn qui đầu Phật pháp, khi đến với Ngài, khỏi phải bận tâm dùng lễ vật, chỉ cần có sự thật lòng thành tín là được. Bởi những lễ lộc như: nhang, đèn, bánh trái.v.v…của trần gian, Ngài và chư Phật chẳng hề màng đến:“Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham”.(Hai mươi chín tháng Chạp) Ngài mong sao mọi người đều biết trở lại với tâm lành, hối cải những lầm lỗi vừa qua và tự quyết không còn tái phạm.
    -Đến như những kẻ ở quá cách xa, không đủ phương tiện tới gặp Đức Thầy, song họ có lòng thành, kính mộ đạo đức thì cứ ở ngay tại nhà, xem theo lời dạy trong Kệ nầy mà phát nguyện qui y Tam Bảo, cũng được Ngài và Tam Bảo ứng chứng cho.
    -Về qui tắc của PGHH, mỗi tín đồ khi mới đặt chân vào cửa đạo, cần giữ đúng Tám điều răn cấm và phải ăn chay mỗi tháng bốn ngày (Ngày 14, rằm, 29 và 30, tháng thiếu thì 29 và mùng Một) rồi tùy theo lòng nhân và trình độ của mỗi hành giả mà tiến dần lên. Đức Thầy còn dạy rằng: đã tự nguyện làm tôi con của Phật thì sự nói năng phải giữ cho được chân thật hiền hòa, không nên đua chen, tập nhiễm theo nếp sống văn vật kim thời mà ăn nói khôn lanh xảo quyệt.
    HẠNH PHÚC: (Xem CT câu 240, T-3, Q.4)
    THÀNH LÒNG: (Xem CT câu 27, T-2, Q.2).
    HỐI NGỘ: Ăn năn và tỉnh ngộ, tức là tự tỉnh biết mình đã làm quấy mà ăn năn cải sửa. Đây là nghĩa của chữ Sám Hối (Xem thêm phần CT câu 407, T-3. Q.4).
    ÁI MỘ: Yêu chuộng, ưa thích và kính tin. Ví dụ: ái mộ Đạo đức, ái mộ việc lành.
    TU TỈNH: (Xem CT câu 342, T-2, Q.2).
    THỜI KHẮC: Giờ khắc. Một ngày có 24 giờ, một giờ gọi là một thời và có 60 phút, cứ 15 phút là một khắc. Vậy một khắc là một phần tư của một giờ. Người ta căn cứ vào thời khắc mà phân định thời gian làm việc, tu hoặc ăn nghỉ (xem thêm phần CT câu 42, T-1, Q.1).
    QUI TẮC: Do chữ “Qui tắc chuẩn thằng”. Qui là cái đồ vẽ hình tròn (compa), tắc là cây thước của người thợ dùng để đo góc vuông (thước vuông). Chuẩn thằng là dây chuẩn dây tiêu dây mực. Nhờ các món ấy mà người thợ làm nên món đồ ngay thẳng, khéo đẹp. Nghĩa rộng là chỉ cho luật lệ phép tắc. Ở đây ý chỉ cho qui luật, nghi thức của Đạo mà mỗi tín đồ phải hành trì, cho đúng theo đó.
    VĂN VẬT: (Xem CT câu 89, T-2, Q.3).

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 595 tới câu 674)
    595.-Lo trang-sức kim-thời huê mỹ,
    Rồi phụ-phàng tục cổ nước nhà.
    Trong tâm thì chứa chữ gian-tà,
    598.-Chớ chẳng chứa tấm lòng bác-ái.
    Học chữ nghĩa cho thông cho thái,
    Đặng xuê-xang đài-các xe-tàu.
    Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu,
    602.-Trong tâm-ý mưu-mô đủ thế.
    Ta còn mắc phiêu-lưu dương-thế,
    Dạo Lục-Châu đặng cứu bá-gia.
    Mặc tình ai xem kệ ngâm-nga,
    606.-Hay sửa-đổi tùy lòng hưu-hỷ.
    Thương sanh-chúng tỏ bày quá kỹ,
    Hỡi dương trần nên sớm quày đầu.
    Đặng sau xem Phật-pháp nhiệm-mầu,
    610.-Với báu-quí đài-lầu tươi-tốt.
    Xác Ta vốn là người quê dốt,
    Nên mở mang chưa được mấy rành.
    Khắp dương-gian như sợi chỉ mành,
    614.-Mong bổn-đạo tâm thành trở lại.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 595 đến câu 614)
    -Con người thời nay hay tập nhiễm theo sự ăn xài chưng diện, trang sức lụa là v.v…vội quên đi phong tục tốt đẹp của nước ta từ xưa. Lòng họ luôn chứa chấp điều ác gian tà vạy, chẳng hề để tâm thương xót một ai.
    -Lại nữa từ ngày có làn sóng văn vật của Tây Âu tràn ngập vào, phần đông dân ta đua đòi theo lối học mới, ai cũng muốn lo cho mình văn hay chữ giỏi, song chỉ để tranh đoạt lợi danh, tiêu xài xa xí. Về sự giao thiệp họ tỏ vẻ ngọt ngào óng chuốt bên ngoài, nhưng trong thâm ý thì đủ đầy mẹo mưu để lường gạt mọi người.
    -Riêng phần Đức Thầy còn phải rày đây mai đó, dạo qua 6 tỉnh miền Nam nước Việt, để đánh thức vạn dân sớm giác ngộ tu hành. Và dù bá tánh khi xem đến Kệ Giảng của Ngài, chỉ biết ngâm nga tiêu khiển hay vui vẻ thực hành theo, tùy ý; chớ Ngài chẳng hề nài ép một ai.
    -Bởi quá thương xót chúng sanh nên Ngài giải bày cặn kẽ để mỗi người nhận thức được lẽ tội phước mà qui y đầu Phật, gấp rút tu rèn tâm trí, bòn mót phước nhân hầu sau nầy thấy sự diệu mầu trong Đạo pháp, và cảnh quí báu đền vàng điện ngọc của nước Việt Nam.
    -Đức Giáo Chủ cũng khiêm nhượng cho biết: Ngài là người ít học quê mùa, việc Đạo đức chưa rành mấy, nhưng vì nhận thấy cõi đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn cỗi, như chỉ mành treo chuông. Vốn sẵn lòng từ bi, Đức Thầy đâu nỡ yên nhìn chúng sanh đang vướng vòng khổ lụy, nên Ngài không ngần ngại ra tay tế độ. Vậy mỗi người trong bổn đạo, muốn vượt qua truông khổ, phải thật lòng tu thân, hành thiện mới mong kết quả:“Tu thật tâm thì được thảnh thơi”.(Kệ Dân Q.2)

    CHÚTHÍCH

    TRANG SỨC: Ăn mặc lụa là và đeo đồ nữ trang để chưng diện cho đẹp.
    KIM THỜI: Thời đại hiện giờ, sự mới mẻ.
    HUÊ MỸ: Cũng gọi là hoa mỹ. Có nghĩa đẹp đẽ lộng lẫy.
    PHỤ PHÀNG: Bỏ bê khinh bạc, không kể đến.
    TỤC CỔ: Những phong tục lễ nghi của ông cha từ xưa để lại.
    THÔNG THÁI: Hiểu biết rộng rãi hơn người. Đây chỉ cho sự thông hiểu về việc đời (thế trí biện thông).
    XUÊ XANG: (Xem CT câu 600, T-3, Q.4).
    MƯU MÔ: Mưu mẹo khôn xảo quỉ quyệt.
    PHIÊU LƯU: Phiêu là gió thổi bay; lưu là trôi đi. Ví như con thuyền bị trôi giạt theo sóng gió, linh đinh vô định. Đây ý nói vì muốn rộng độ chúng sanh, Đức Thầy phải lưu hành khắp nơi, rày đây mai đó, như Ngài từng nói trong bài “Đến làng Nhơn Nghĩa”:
    Thân Khùng vận bĩ trớ trêu,
    Phiêu lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng”.

    LỤC CHÂU: (Xem CT câu 56, T-2, Q.1).
    HƯU HỶ: Vui vẻ.
    PHẬT PHÁP: (Xem CT đoạn 5, T-1, bài Sứ Mạng).
    NHIỆM MẦU: Cũng gọi là mầu nhiệm. Có nghĩa sự cao sâu huyền diệu khó nghĩ lường. Ý nói lý nghĩa trong Phật pháp sâu kín mầu nhiệm, không thể dùng ngôn ngữ hay bút mực mà diễn tả cho hết được. Chỉ có kẻ tu hành khi trực nhận được bản tâm mới thông đạt mà thôi.

    CHÁNH VĂN
    615.-Dầu cực-khổ thân này chẳng nại,
    Chẳng cần ai bái lạy khẩn-cầu.
    Bỏ dị-đoan mới thấy Đạo-mầu,
    618.-Bớt giả-dối gặp Người Thượng-Cổ.
    Gốc thuở trước của Tông của Tổ,
    Đâu có bày dối-mị như vầy.
    Những sấm truyền xưa của Phật Thầy,
    622.-Dân rán kiếm mà truy thì biết.
    Xưa để lại nhiều câu thảm-thiết,
    Mà nào ai có biết để lòng.
    Chuyện Thiên-Cơ nói rất não-nồng,
    626.-Câu hữu lý bá tòng khó sánh.
    Chốn tựu hội chớ nên léo hánh,
    Vì lời xưa có dặn rạch-ròi.
    Dân chớ nên phụ bạc giống nòi,
    630.-Thì lao-lý tấm thân vô ích.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 615 đến câu 630)
    -Trên con đường độ chúng của Đức Giáo Chủ, dầu có gặp nhiều gian khổ, Ngài cũng chẳng nệ hà, và không hề mong mỏi một ai cung phụng bái quì. Ngài còn kêu gọi mọi người, hãy bỏ dứt các điều kỳ hoặc, mê tín để thật lòng tu niệm, mới mong thấu đạt lý thâm huyền của Đạo pháp và được kiến diện người xưa, trong ngày lập hội.
    Bởi từ căn nguyên ông cha ta cũng từng sùng ngưỡng Đạo mầu, song chẳng hề có hành động mị dân dối chúng. Vậy ai muốn rõ thông con đường chánh tín, hãy tìm xem những sấm kinh của Đức Phật Thầy xưa kia truyền lại.
    -Vì trong đó Ngài giải bày rành mạch, vế chánh Pháp vô vi của Đạo Phật, và cho biết trước những tai nạn khổ sầu của chúng sanh sau nầy. Các lời tiên tri ấy, ai xem đến cũng bắt buồn thảm cho cảnh khổ chung của nhơn loại. Còn những lời dạy Đạo, đúng với chơn lý, nếu ai chịu thực hành theo sẽ được kết quả cao diệu. Cho nên nói loại tòng bá đều có sức vững bền, chịu đựng với thời gian, sương tuyết, nhưng cũng không thể sánh được một câu hữu lý !
    -Đức Thầy cũng đã hằng khuyên mọi người, chẳng nên bén mảng đến các nơi tựu hội đông đảo, để ăn chơi xa xí, hoặc hành động điều vô liêm bất nghĩa và cũng chẳng chạy theo một hội nhóm nào, có tánh cách phụ rải Tổ Tiên nòi giống, bởi giảng xưa đã từng giáo huấn minh bạch điều nầy:
    Đạo nhà chẳng tưởng, tưởng Đạo xa,
    Đạo gốc Nam bang Đạo nước nhà.
    Đạo của Phật thầy truyền kim cổ,
    Đạo trung Đạo hiếu Đạo nhơn hoà”.

    Nếu ai chẳng tuân theo lời chỉ dạy trên, ắt sau nầy khó tránh khỏi cảnh khổ sầu lao lý.

    CHÚ THÍCH
    DỊ ĐOAN: (Xem CT câu 73, T-2, Q.2).
    ĐẠO MẦU: (Xem CT câu 901, T-1, Q.1).
    NHỮNG SẤM TRUYỀN XƯA CỦA PHẬT THẦY Phật Thầy là Đức Phật Thầy Tây An (xem CT chữ “Đức Thầy Bửu Sơn”, câu 38, T-1, Q.1).
    Ngài đã tiên đoán về thiên cơ thời cuộc, từ đó nhẫn nay, mọi việc đều xảy ra rất đúng. Những sấm truyền ấy còn để lại khá nhiều; ngoài bài “Tứ Bửu Linh Tự” và các đoạn trong phần CHÚ THÍCH từ ngữ “Những chuyện lạ kỳ”(câu 122, Q.1). Ở đây chúng tôi trích dẫn thêm ít đoạn.
    -Về cuộc đổi đời:
    Thế nay cạn sự đã rồi,
    Mở mang dời đổi lập đời Thượng ngươn.
    Chuyển luân thiên địa tuần hườn,
    Hội nầy thấy lửa tàm lam cháy mày”.
    -Về các tai biến xảy ra:
    Nghĩ trong cuộc thế chơi vơi
    Khổ tăng gia khổ trong đời gian nan
    Kìa kìa quỉ mị khởi loan,
    Xà thương hổ giảo đa đoan hội nầy
    Phần thời giặc giả phủ vây.
    Phần thời đói khát thân rày chẳng yên
    Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,
    Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi”.

    -Về thời gian:
    Mèo kêu vang, mèo kêu vang
    Rắn rồng sợ chạy vào ngàn ẩn thân”.

    Hoặc là:
    Cuộc đời càng gắt lại càng gay
    Ngặt nỗi thiên cơ chẳng dám bày
    Rắn núp dưới hang coi ngựa chạy
    Khỉ ngồi trên ngọn ngó gà bay
    Đông Tây chộn rộn trời che xác
    Nam Bắc ê hề đất chở thây
    Nhơn vật mười phần hao bảy tám,
    Thần Tiên thấy vậy cũng châu mày”.
    -Về lập hội và cuộc thái bình:
    Long Hoa thắng hội tiêu diêu
    Dữ lành đến đó mai chiều sẽ hay”.

    Và:
    Bao giờ hưởng thọ kỳ hương,
    Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài”.

    NÃO NỒNG: Cũng đọc là não nùng. Có nghĩa buồn thảm, xót xa đau đớn.
    CÂU HỮU LÝ BÁ TÒNG KHÓ SÁNH: Ý dạy rằng một câu nói đúng với lý nghĩa Đạo đức, thì cao cả quí báu vô cùng, vẫn được truyền tụng mãi mãi, dù thời đại nào cũng được mọi người học theo. Cổ nhân từng bảo:“Nhứt ngôn đắc ngữ thắng thiên kim”.( Được người nói cho nghe một lời lành, quí báu hơn ngàn lượng vàng). Cho nên loại tòng bá là thứ cây sống lâu, có đặc tánh không thay đổi, dù vậy chớ không sánh được lời hữu lý.
    CHỐN TỰU HỘI: Những nơi hội họp đông đảo vui chơi trái với đạo nghĩa hoặc các đảng nhóm có tánh cách hại dân phản nước, bội bạc phong tục tốt đẹp của nòi giống Tiên Rồng.
    LÉO HÁNH: Bén mảng đến gần. Ví dụ: nơi đó nguy hiểm, ta không nên léo hánh đến.
     
    Sửa lần cuối: 16/1/15
  4. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    631.-Phải nhẫn-nhục chờ Người Cổ Tích,
    Phật với Trời phân định cho Ta.
    Người xưa tuy ít chữ nôm-na,
    634.-Chớ chơn-chất người ta ngay thẳng.
    Dạy bổn-đạo lấy câu trung đẳng,
    Chẳng nói cao vì sắp rốt đời.
    Đấng nam-nhi ẩn-nhẫn tùy thời,
    638.-Vậy mới gọi khôn-ngoan hữu chí.
    Ta ra sức viết câu huyền-bí,
    Chúng dân ôi ! Rán kiếm rán tầm.
    Giống thú kia là loại sanh cầm,
    642.-Mà còn biết kiếm tầm đạo-đức.
    Thú-vật biết tu-hành náo-nức,
    Còn người sao chẳng rứt hồng-trần ?
    Việc tu-hành phải vẹn nghĩa ân,
    646.-Kinh với sấm chúng dân thường thấy.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 631 đến câu 646)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên tín đồ, nên nhẫn nhịn tu hành cho qua thời gian khó khăn, thử thách để chờ người xưa trở lại, và chờ sự phân định của Phật Trời, tất hưởng được mọi điều cao quí. Nhắc lại ông cha ta thuở xưa, tuy ít người thông minh chữ nghĩa, nhưng tấm lòng rất thật thà ngay chánh.
    -Bởi muốn rộng độ các tầng lớp nhân sanh trong thời mạt hạ, nên Đức Thầy dùng những lời lẽ trung hòa giản dị mà giáo hóa, để mỗi ai khi xem, nghe đều được thấu hiểu. Và Ngài còn khuyên: bổn phận nam nhi phải biết tùy thời xử thế, lúc gặp nghịch cảnh, cần nên ẩn nhẫn để nuôi chí, chờ thời. Pháp Nhẫn ví như tánh của nước (Quân tử tánh như thủy), tuy nó rất mềm yếu, nhưng cũng cứng mạnh vô cùng. Bởi nó có thể xói mòn cả sắt đá. Và cũng ví như con rồng, có khi phải nép mình nơi vực sâu kín đáo, rồi có lúc nó tung bay theo mây gió, dạo khắp bốn phương. Cho nên người có ý chí cao cả cũng phải thức thời như thế.
    -Đức Thầy còn cho biết trong Sấm Kinh của Ngài đã hàm chứa nhiều lý nghĩa, thâm huyền diệu pháp, vậy mỗi người hãy tìm hiểu cho chính xác để thi hành theo. Lại nữa, từ xưa đến nay, Kinh sách thường ghi chép: các loại cầm thú còn biết quày đầu hướng thiện, huống chi ta là loài người, có tánh linh hơn muôn vật mà chẳng sớm xa lánh trần ai, tầm đường giải thoát thì so với loài vật chẳng thẹn lắm sao ?
    -Do đó, Đức Thầy khuyên khắp tín đồ, đã là người tu hành thời những nghĩa ân mà ta đã thọ cần phải lo đền đáp cho tròn vẹn, vì đó là điều căn bản, xưa nay sách kinh nào cũng dạy như thế.

    CHÚ THÍCH

    NHẪN NHỤC: Do chữ Phạn Kshâti, phiên âm là Sẵn đề, dịch là Nhẫn nhục. Có nghĩa: Nhẫn là nhịn chịu; nhục là xấu xa hèn kém. Là một pháp tu, hành giả nén lòng chịu đựng với những sự khó khăn, từ mọi cảnh vật bên ngoài, đến các vọng tâm phiền não bên trong và thời gian dày đặc, để hoàn thành Đạo hạnh..
    Nhẫn nhục là một trong sáu pháp “Ba La Mật” mà chư Bồ Tát thường hành, gồm có ba phần như sau:
    1-Sanh nhẫn: Khi có kẻ khác dùng quyền lực, áp bức hay đánh đập hoặc chửi mắng, trêu tức, ta vẫn nhẫn nhịn không chống trả, không chứa chấp oán hờn.
    2-Pháp nhẫn: Nhà tu cam chịu với mọi hoàn cảnh khó khăn, do các tai nạn xảy đến cho mình, như: lạnh nóng, gió mưa, đói rách, bịnh tật.v.v…mà lòng không hề than buồn thối chí trên đường Đạo đức.
    3-Vô sanh pháp nhẫn: Đã nhịn được các tai họa do chúng sanh khác và mọi cảnh vật đưa đến mà mình chẳng hề còn chút động tâm phân biệt. Vì đã quán xét rằng: thân chúng sanh và vạn pháp, vạn cảnh đều không thật thể (vô ngã), không sanh khởi và cũng không còn thấy, có pháp chi để nhẫn diệt.
    Xưa, Đức Phật có kể lại rằng: Vào thời quá khứ, trong một tiền kiếp Ngài mang tên là Xằn Đề Ba La, chuyên tu hạnh nhẫn nhục trên một hòn núi.
    Hôm nọ, vua Ca Lợi Vương dắt quan quân và cung nữ lên núi du ngoạn. Lúc trời trưa nắng, vua dừng lại một nơi, truyền căng lều nghỉ. Bấy giờ các cung nữ tản mát chung quanh, hái hoa ngắm cảnh; bỗng gặp Đại Tiên đang ngồi trên tảng đá, dáng vẻ trang nghiêm, tịch tĩnh, cả bọn đem lòng kính tin, bèn dâng hoa cúng dường cầu được nghe pháp. Đại Tiên liền xuất định thuyết pháp cho đám cung nữ nghe.
    Khi Ca Lợi Vương tỉnh giấc, thấy các cung nữ vắng mặt hết, liền cùng quan cận vệ đi tìm. Đến nơi, gặp bọn cung nữ đang quì nghe Đại Tiên thuyết pháp. Vua sanh lòng đố kỵ, liền bước lại với dáng điệu tự kiêu, hỏi:- Ông ở đây tu hành có rõ được pháp tứ không thiền định chăng ? Hãy giải cho Trẫm nghe thử ?
    Đại Tiên thưa:
    -Rất hổ thẹn cho phận tôi, chưa thấu đạt pháp ấy.
    Vua đổi giọng, nói:
    -Những điều đó ngươi chưa thông hiểu vậy mà dám thuyết pháp cho cung nữ nghe, ai mà tín nhiệm cho ? Vậy ngươi ở đây tu pháp gì ?
    -Thưa, tôi ở đây tu pháp nhẫn nhục.
    -À ! Vậy để ta làm coi ngươi có nhẫn nhục được không? Vua liền rút gươm chặt đứt tay chân của Đại Tiên quăng ra, rồi hỏi tiếp:
    -Ngươi ở đây tu pháp gì ?
    Lúc ấy Đại Tiên vẫn an nhiên, mặt không đổi sắc, ôn tồn đáp:
    -Tôi ở đây tu pháp nhẫn nhục.
    Vua giận thêm liền cắt tai, thẻo mũi của Đại Tiên nữa !
    Bấy giờ các vị Lôi thần thấy lòng của Vua Ca Lợi quá độc ác, bèn kéo mây nổi sấm toan đánh chết nhà vua, nhưng vị Đại Tiên ngước mặt lên trời van xin:
    -Các Ngài ơi ! Các Ngài nên vì tôi mà tha tội cho người nầy đi ! Tức thời mây tan sấm tạnh.
    Lúc ấy, vua Ca Lợi khiếp sợ, nhưng còn gượng hỏi:
    -Ngài nhẫn nhục như vầy, biết lấy chi làm bằng chứng cho Ngài thật lòng ?
    -Đại Tiên liền phát nguyện: Nếu tôi thật tâm nhẫn nhịn, không hề có chút hờn oán nhà vua thì xin Trời Phật chứng minh cho các vết thương của tôi đều lành lại như cũ và máu chảy ra được trở thành sữa. Linh nghiệm thay ! Đại Tiên vừa nguyện xong thì thân thể và máu của ông đều chứng nghiệm như ý.
    Vua quá cảm phục liền quỳ lại Đại Tiên, cầu được ăn năn sám hối và qui y thọ giáo. Ít hôm sau vua Ca Lợi lập pháp tòa, rước Đại Tiên về thuyết pháp cho cả thần dân cùng nghe.
    Xét ra, nhờ pháp “Nhẫn nhục” mà Đại Tiên Xằn Đề Ba La cảm hóa được Ca Lợi Vương và Thần dân trong nước, biết tỉnh ngộ tu hành.
    Thêm nữa, trong văn chương Việt Nam, có tác phẩm “Quan Âm Thị Kính” đã nói lên đức nhẫn nhục của nhà tu, qua hai câu thơ:
    Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa
    Nhẫn điều khó nhẫn, mới là chơn tu”.

    -Song chữ nhẫn nhục ở đây, ý Đức Thầy dạy phải nhịn chịu với thời gian dày dặc, khó khăn cho qua cơn vận bĩ. Cũng như Hàn Tín xưa kia, tuy có đủ tài thao lược, nhưng phải nhẫn bọn thiếu niên, để chờ đến thời Hán Bái Công mới trổ tài làm nên danh phận:
    “Gương trước Hớn, Tần Hàn Tín nhẫn
    Đã không khổ nhục khỏi ưu phiền”.

    (Nhẫn đợi Thời cơ)
    NGƯỜI CỔ TÍCH: (Xem CT câu 662, T-1, Q.1 và câu 553, Q.2)
    CHƠN CHẤT: (Xem CT câu 409, T-2, Q.2).
    TRUNG ĐẲNG: Cấp giữa, bực giữa (trung dung) chẳng cao quá, cũng không thấp quá, cũng gọi là “con đường trung Đạo”. Ở đây chỉ cho lời luận giải giản dị rõ ràng, người nghe dễ lãnh hội. Đức Thầy có câu:
    Quyết dạy trần nên nói lời thường,
    Cho sanh chúng đời nay dễ biết”.(Giác Mê, Q.4) HỮU CHÍ: (Xem CT câu 216, T-3, Q.5).
    HUYỀN BÍ: (Xem CT câu 30, T-3, Q.4).
    SANH CẦM: Chỉ chung cho hai loài vật, là thượng cầm và hạ thú.
    THÚ VẬT BIẾT TU HÀNH NÁO NỨC, CÒN NGƯỜI SAO CHẲNG RỨT HỒNG TRẦN: Dầu loài người hay loài vật đồng có Phật tánh như nhau:Nhứt thiết chúng sanh, Giai hữu Phật tánh, nhưng vì nghiệp mê quá nặng, nên chúng sanh phải đầu thai làm thú, đến khi nghiệp thú trả gần hết và gặp bậc Đạo đức cao cả khai hóa thì biết tu hành. Trong Tây Qui trực chỉ có chép:
    Đời Trinh ngươn nhà Đường có Bùi thị ở đất Hà Đông, nuôi một con két, thường học theo người mà niệm Phật. Một hôm trời quá ngọ mà nó bỏ ăn, lúc gần chết, nó niệm lên 10 tiếng Phật thì dứt hơi. Người chủ đem xác nó ra thiêu thì được hơn 10 hột ngọc xá lợi chiếu sáng lòa cả mắt. Ông Huệ Quang thấy vậy mới dựng tháp thờ.
    Lại ở đất Đàm Châu có người nuôi một con Cưởng, cũng học nói được tiếng người và thường niệm Phật. Khi nó chết, bỗng có một hoa sen từ trong miệng mọc ra. Nhơn đó Ngài Liên tri Đại sư có lời rằng:Giống chim Két, chim Cưởng dạy nó còn biết niệm Phật, huống chi người lại không biết niệm Phật, há chẳng thẹn lắm ru ?”
    Còn gần đây, trong chuyện chung quanh Đức Phật Thầy Tây An được nhiều người kể lại:
    Lúc còn ở trại ruộng Thới Sơn, một hôm Ngài kêu các đệ tử, đem xấp vải màu đỏ ra xé nhỏ cỡ ngón tay, dài năm sáu tấc, vì mai nầy có người ta đến thọ giáo rất đông.
    Sáng lại, ai cũng trông xem lễ qui y ấy ra sao ? Bỗng thấy đủ loại thú rừng, từ từ kéo đến sắp hàng trước cửa trại càng lúc càng đông. Đức Phật Thầy liền bảo các môn đồ, đem số vải đã xé hôm qua, cột trên cổ, trên sừng của mỗi con thú một sợi. Nhiều người trông thấy quá sợ sệt, chỉ có các đại đệ tử, đạo pháp cao siêu mới dám thi hành. Cột xong, Đức Phật Thầy bèn thuyết pháp cho chúng nghe và dặn dò, từ đây hãy ẩn ánh tu hành.v.v…
    Nghe xong, cả đoàn thú đồng cúi đầu, tỏ vẻ vâng lời dạy bảo, rồi lui ra tản mát vào rừng núi mất dạng. Từ độ ấy, người ta ít gặp chúng lai vãng phá vườn rẫy nữa và những người đi viếng non, thỉnh thoảng cũng bắt gặp vài lọai thú ẩn trong hang vắng, tánh tình chúng đã đổi lại rất hiền từ.
    NGHĨA ÂN: Cũng gọi là Ân Nghĩa, tức là tình nghĩa và ân đức, như ân nghĩa giữa cha con, thầy trò, chồng vợ.v.v…Tình xưa ân trả nghĩa đền(Tr.Kiều). Nghĩa ân ở đây chỉ cho những ân đức, mà con người đã thọ như:“Tứ Đại Trọng Ân”, giờ đây ta có bổn phận đền đáp. Đức Thầy từng nói:
    “Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn
    Cảnh non bồng kỳ hẹn ngày kia”.


    CHÁNH VĂN
    647.-Chữ Bát-Chánh rõ-ràng trong giấy,
    Là chơn truyền của Đức Thích-Ca.
    Người tu hành cần phải tìm ra,
    650.-Cho dân biết mục đầu Chánh-Kiến.
    Trí linh-mẫn nhìn xem các chuyện,
    Phải đừng cho lầm-lạc nẻo tà.
    Dầu việc người hay việc của ta,
    564.-Nên phán-đoán cho tường cho tận.
    Tội với phước xét coi nhiều bận,
    Mới khỏi lầm tà-kiến đem vào.
    Chánh Tư-Duy mục ấy thanh-cao,
    658.-Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ.
    Trên cùng dưới dầu thầy hay tớ,
    Cũng tưởng điều trung-chánh mới mầu.
    Việc vui say mèo-mả đâu đâu,
    662.-Hãy dẹp gác nhớ câu Lục-Tự.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 647 đến câu 662)
    -Bát Chánh là pháp tu căn bản, trước tiên do Đức Thích Ca truyền dạy, các kinh xưa đều có ghi chép rạch ròi. Ngày nay Đức Kim Sơn Phật cũng thuyết giáo môn đồ :Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo”.(Cho Ô. Chín Diệm) và:“…Vì đó là quyển Kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”.(Luận về Bát Chánh) Vậy người tu cần phải tìm học cho thông suốt để thật hành theo.
    -Đứng đầu hết là Chánh Kiến, dạy hành giả lúc nào cũng lấy trí thông minh mà phán xét mọi việc cho đặng ngay chánh đúng với sự thật (chơn lý). Bất cứ việc chi dù đời hay Đạo, từ cá nhân đến xã hội, ta phải tận tâm suy cứu, cân nhắc nhiều lần để thấy rõ tận gốc của các việc chánh tà, tội phước rồi sẽ quyết đoán. Có thế, ta mới khỏi bị tà kiến ám ảnh, nhận định sai lầm.
    -Đến thứ nhì là Chánh Tư Duy, chánh nầy khuyên ta nên giữ tư tưởng cho được chân chánh trong sạch, lọc bỏ tư tưởng xấu xa, tà vạy và những ý nghĩ bông lơn, dục lạc; dù là nghĩ việc hiện tại, quá khứ hay vị lai cũng đều trừ sạch. Thay vào những ý tưởng đạo đức cao siêu, từ bi hỉ xả, hoặc trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” không để sơ hở, gián đoạn. Đặng vậy, tâm trí ta sẽ đặng bình tĩnh sáng suốt mà tiến thẳng theo con đường chơn lý giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    BÁT CHÁNH: Nói cho đủ là Bát Chánh Đạo, do Phạn ngữ Aryatanga-marga. Có nghĩa tám con đường chơn chánh, đối trị với Bát tà (tám điều tà vạy). Bát Chánh Đạo cũng gọi là Bát Thánh Đạo (tám nẻo ra), vì pháp nầy có diệu năng đưa hành giả giải thoát sanh tử, đạt đến Thánh quả A La Hán và chứng đắc Niết Bàn. Bát Chánh là nghĩa của Đạo Đề, một trong “Tứ Diệu Đề”(bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật).
    Xưa, lần đầu tiên Đức Phật đã thuyết Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo tại rừng Lộc Giả, gần thành Ba La Nại, cho năm anh em Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm vị nầy đều chứng quả A La Hán. Cho nên Bát Chánh Đạo được xem là pháp tu căn bản của Đạo Phật. Có lần các môn nhơn hỏi Phật, qua đời sau lấy chi làm chứng cứ để biết đâu tà, đâu chánh ? Phật liền đáp:
    -“Nơi nào có Bát Chánh Đạo là Chánh Đạo, nơi nào không có Bát Chánh Đạo là tà Đạo. Do đó, nên Đức Thầy nói Bát Chánh Là chân truyền của Phật Thích Ca”.
    Ngày nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc lại:
    Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
    Non tuyết rèn ra Bát Chánh kìa.
    Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
    Hoàn cầu bốn biển khắc bia chung”.

    CHÁNH KIẾN: Cũng viết là Chánh tri kiến, do Phạn ngữ Samyak-droti. Có nghĩa nhận thấy xét đoán chân chánh đúng với sự thật (chơn lý). Chánh kiến có hai bực:
    1-Chánh kiến hữu lậu thế gian: Cũng gọi là Chánh kiến Tiểu thừa, tức là bực nhận thấy thế gian và vạn vật đều là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh của các pháp hữu vi, rồi tự tu giải thoát cho chính mình.
    2-Chánh kiến vô lậu xuất thế gian: Cũng gọi Chánh kiến Đại thừa, tức là nhận thấy tất cả chúng sanh và vạn pháp đều có Phật tánh, nên không chỉ riêng tu đạt chơn lý giải thoát cho mình mà còn cho cả vạn loại chúng sanh và quyết định tiến tới Phật quả (Đại Niết bàn).
    TRÍ LINH MẪN: Trí linh diệu sáng suốt, thông minh hoạt bát.
    PHÁN ĐOÁN: Xem xét và định đoán coi phải trái thế nào ?
    TÀ KIẾN: Ý kiến Tà Khúc, nhận thấy lầm lạc. Không nhận có, có nhận không chẳng tin nhân quả báo ứng, cho rằng sau khi chết là mất, thấy ngược lại chơn lý và chánh kiến. Tà Kiến là một trong “Ngũ lợi sử”(Năm cái thấy biết lầm lạc mê chấp danh lợi). [Ngũ lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm kiến thủ].
    Niết Bàn Kinh có chép:Bồ Tát tu hành theo lý Kinh Đại Niết Bàn, vì quả chánh giác, vì độ khắp chúng sanh, tự mình rời xa tà kiến”.
    CHÁNH TƯ DUY: Do Phạn ngữ Samyak Samkagia .Có nghĩa: Suy gẫm và tư tưởng chơn chánh. Là một cách hành đạo trong Bát Chánh, chỉ chuyên suy xét nghĩ tuởng về Đạo lý, và chiêm nghiệm các pháp môn thoát khổ, dứt sạch phiền não, vọng tưởng danh, lợi, tình v.v…Đức Thầy từng dạy trong bài “Dặn dò Bổn đạo”:
    Thứ ba Tư Duy bằng nay,
    Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu”.

    TRUNG CHÁNH: Ngay thẳng chân chính, không thiên vị.

    CHÁNH VĂN

    663.-Câu Chánh-Nghiệp cũng là quá bự,
    Dầu nghề chi làm việc ngay đường.
    Ta đừng nên theo kẻ bất lương,
    666.-Học ngón xảo để lừa đồng loại.
    Chánh Tinh-Tấn dầu thành hay bại,
    Cứ một đường tín-ngưỡng của mình.
    Dầu cho ai phá rối đức tin,
    670.-Ta cũng cứ một đàng đi tới.
    Mục Chánh-Mạng chúng sanh ơi hỡi,
    Cho hồn-linh cai-quản châu-thân.
    Lấy chơn-nhơn dẹp tánh phàm-trần,
    674.-Mới có thể mong về Cực-Lạc.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 663 đến câu 674)
    -Chánh Nghiệp là phương cách quan trọng của nhà tu giải thoát, bất cứ việc làm nào cũng giữ ngay chánh thiện lương và hằng an vui cứu khổ cho vạn loại chúng sanh. Bỏ hẳn những hành động gian ác, xảo quyệt, gây tai hại cho kẻ khác.
    -Đến Chánh Tinh Tấn, Đức Giáo Chủ dạy ta rèn luyện cho mình có một đức tánh dõng mãnh, một ý chí sắt đá kiên trinh. Dù ai có dùng quyền lực áp bức, hay tà thuyết vô thần cám dỗ, cũng không thể làm lay chuyển được lòng mình, để vững tiến trên con đường chánh Đạo, hầu đạt quả Niết bàn và rộng độ quần sanh.
    -Còn phần Chánh Mạng dạy ta tạo một nếp sống thanh khiết về tinh thần, lấy chơn thân linh diệu điều khiển lục căn đừng để duyên nhiễm lục trần, và trừ sạch những tư tưởng trần tục thường tình. Đặng vậy, tâm hồn ta sẽ được nhập vào thể thanh tịnh (liên hoa), chơn trí sáng mầu mà chứng đắc “Niết Bàn tự tánh”.

    CHÚ THÍCH
    CHÁNH NGHIỆP: Do Phạn ngữ Samyak Karmanta.
    Có nghĩa: việc làm ngay chánh, lương thiện, tức nhà tu dùng thân xác làm những việc có lợi ích cho mình và cả chúng sanh. Chánh Nghiệp là một cách hành Đạo trong Bát Chánh, kẻ xuất gia hay cư sĩ đều tu được cả. Hành Chánh Nghiệp tránh được ba điều tội: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm; không làm việc nào có tai hại cho Quốc dân và cả chúng sanh. Lại còn hay bố thí, phóng sanh và hoằng pháp độ muôn loài, như Đức Thầy có dạy trong bài “Dặn cò Bổn đạo”:“Thứ tư Chánh nghiệp mặc dầu, Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay”.
    BẤT LƯƠNG: Tánh gian xảo hung ác, không hiền từ, không có lương tâm, Đức Thầy có câu:
    Có đâu như thể bây chừ,
    Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.

    (Cảm tác)
    NGÓN XẢO: Mánh khóe, xảo trá cách khéo léo để gạt người.
    CHÁNH TINH TẤN: Cũng viết là Chánh Tin Tấn, do Phạn ngữ Samyak Vyayama. Có nghĩa tín ngưỡng chơn chánh, trong sạch và mạnh mẽ lướt tới, tức là siêng năng dõng mãnh diệt trừ phiền não để hoàn thành Đạo hạnh giải thoát. Đây là một cách hành Đạo trong Bát Chánh, đối trị tánh giải đãi, yếu ớt, tà vọng mê tín. Đức Thầy hằng khuyên (trong bài “Dặn dò Bổn đạo”):
    Thứ năm Tinh Tấn hội đàm,
    Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan”.

    TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và hướng theo một Tôn giáo hay một chủ nghĩa, học thuyết. Tín ngưỡng khác với mê tín.
    ĐỨC TIN: Lòng tin tưởng tốt lành chánh đáng.
    CHÁNH MẠNG: Do Phạn ngữ Samyak Ajiva có nghĩa: Sanh mạng chơn chánh trong sạch, tức là cuộc sinh hoạt đời sống của nhà tu lúc nào cũng lấy giới hạnh làm căn bản. Cả tư tưởng, hành động, ngôn ngữ luôn giữ được thuần chánh cao khiết; chẳng hề để lục trần cám dỗ làm mờ đục trí huệ. Đây là một cách hành Đạo trong Bát Chánh, có hiệu năng đối trị Tà mạng.
    CHO HỒN LINH CAI QUẢN CHÂU THÂN: Theo Đạo giáo thì mỗi người có ba hồn: Linh hồn, Giác hồn và Mê hồn. Giác hồn thì thường khiến linh hồn làm điều phải, còn Mê hồn hay xúi linh hồn tạo việc quấy. Hồn linh ở đây chỉ cho Giác hồn. Đức Thầy dạy người tu đừng để linh hồn bị Mê hồn lôi cuốn làm việc quấy ác, mà luôn luôn lấy Hồn linh chỉ huy mọi việc. Cho đến khi tâm được hoàn toàn giác ngộ thì ba hồn ấy không còn nữa mà chỉ còn lại một là “Giác tánh”(Phật tánh). Như Đức Lục Tổ có nói:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả hoán tác linh hồn”.(Người tỏ ngộ thì xưng là Phật tánh, người chưa tỏ ngộ thì gọi là Linh hồn).
    CHƠN NHƠN: (Xem CT câu 20, T-3, Q.4).


    CHÁNH VĂN (Từ câu 674 tới câu 762)
    675.-Câu Chánh-Ngữ lòng son ghi tạc,
    Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường.
    Nói những điều đức-hạnh hiền-lương,
    678.-Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi.
    Việc tráo-chác ấy là nguồn cội,
    Lời xảo ngôn do đó mà ra.
    Kinh-nghiệm rồi Ta mới diễn ca,
    682.-Câu Chánh-Niệm thiết-tha nhiều nỗi.
    Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi,
    Phải làm tròn các việc vẹn toàn.
    Dân chớ nên làm bướng làm càn,
    686.-Trong lúc ấy niệm cho lấy có.
    Mục Chánh-Định thiệt là rất khó,
    Giữ tâm lòng bất động như như.
    Cho hồn-linh yên-lặng an-cư,
    690.-Thì mới được huờn-nguyên phản-bổn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 675 đến câu 690)
    -Đức Thầy dạy cả môn đồ nên chạm khắc phần chánh ngữ vào tâm khảm của mình, để mỗi khi thốt ra lời chi đều được ngay chánh đúng với sự thật và nói toàn những việc đạo đức hiền từ, có ích lợi cho quần sanh. Hãy dứt bỏ các tiếng lừa dối, thêm bớt, những lời láo khoét huyễn hoặc, gây xáo trộn hoặc làm chướng tai kẻ khác, để mình chẳng còn vương mang tội lỗi về khẩu nghiệp. Đó là điều Đức Thầy đã thực nghiệm rồi, mới đem ra giáo hóa chúng sanh.
    -Đến phần Chánh Niệm, Ngài dạy nhà tu nên trừ sạch các niệm tưởng xấu xa tà mị, ích kỷ tổn nhơn mà phải luôn nhớ nghĩ đến việc chánh chơn cao khiết. Và mỗi khi lễ bái nguyện cầu, đều cần được thành tâm khẩn thiết, chẳng nên làm chiếu lệ cho qua thời.
    -Còn mục đích Chánh định, tuy thấy khó hành nhưng nó giúp cho hành giả được giải thoát rốt ráo hơn hết. Miễn là đối với vạn cảnh, vạn pháp tâm mình vẫn giữ như như bất động, chẳng hề khởi lòng phân biệt câu chấp hay thiên lệch, thủ xả. Bấy giờ tâm thần được an định mà trở về với chơn như thật tướng của mình, ấy gọi là chứng đắc Niết Bàn tịch tịnh.

    CHÚ THÍCH

    CHÁNH NGỮ: Do Phạn ngữ Samyak Vae. Có nghĩa: lời nói chơn chánh thành thật, chẳng hề dùng tiếng: Lưỡng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ. Mỗi khi mở miệng đều nói những lời ngay chánh, dung hòa, chơn thật và trong sạch hiền từ; và còn dùng phương tiện lợi ích giáo hóa kẻ khác. Đây là một cách hành Đạo trong Bát Chánh Đạo mà bất luận kẻ tại gia hay xuất gia, tiểu thừa hay đại thừa đều phải giữ hạnh Chánh ngữ. Kinh Kim Cang, Phật có nói:Như Lai thị chơn ngữ giả, bất dị ngữ giả.(Lời nói của Như Lai là lời nói chơn thật, lời nói như một, không nói dối, không nói khác).
    Chánh ngữ còn là danh từ dịch nghĩa của phiên âm Át Bệ, tên của một trong năm vị Tỳ Kheo, được Đức Phật độ trước hết tại rừng Lộc Giả. Át Bệ là vị tăng sư rất đoan chánh trong mọi oai nghi, cử chỉ và ngôn ngữ. Chính vì nhờ cảm phục đức độ và ngôn hạnh của sư Át Bệ mà Ngài Xá Lợi Phất bỏ tà sư ngoại đạo, để đến qui y với Phật.
    GHI TẠC: Khắc chạm, in sâu vào trí nhớ:Ghi lòng tạc dạ chớ quên”.(Cổ thi)
    ĐỨC HẠNH: (Xem CT câu 384, T-2, Q.2).
    TRÁO CHÁC: Lừa dối gạt gẫm, điêu ngoa xảo trá. Ví dụ: Con người đó tánh hay tráo chác lắm. Đức Thầy thường khuyên:Nói với ai cũng phải lựa điều, Đừng tráo chác cho người khinh dễ”.
    (Kh/thiện, Q.5)
    XẢO NGÔN: (Xem CT câu 142, T-3, Q.4)
    KINH NGHIỆM: (Xem CT đoạn 1, bài Sứ Mạng).
    DIỄN CA: Cách trình bày, viết ra một vấn đề gì theo lối thi ca (điệu văn vần). Như “Việt Nam Quốc Sử diễn ca” chẳng hạn. Kinh giảng của Đức Thầy hiện nay, phần nhiều Ngài viết theo điệu thi ca (văn vần).
    CHÁNH NIỆM: Do Phạn ngữ Samyak-Snoti. Có nghĩa: Nhớ tưởng chơn chánh, nhứt tâm suy xét về chánh Đạo, nó có hiệu năng đối trị Tà niệm. Chánh Niệm là cách hành đạo thứ bảy trong Bát Chánh, người hành theo đây, tư tưởng trở nên chân chánh hiền lành, diệt sạch phiền não mà chứng Đạo giải thoát.
    CHÁNH ĐỊNH: Do Phạn ngữ Samyak-Samadhi. Có nghĩa suy gẫm chơn chánh (hiểu nghĩa cũng như chữ Thiền định). Người hành Chánh định diệt được vọng tưởng mê lầm, thấu đạt chơn lý của vạn pháp, đối trị được tà định. Chánh định là con đường giải thoát rốt ráo của Bát chánh Đạo. Song tùy theo công hạnh của mỗi hành giả mà sự chứng đắc có hai bực:
    1-Bực chứng đắc lần lần từ quả Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán hay Duyên giác (phần Tiểu thừa).
    2-Bực chứng đắc từ quả vị trong thập địa của hạnh Bồ Tát cho đến quả rốt ráo của Phật Thế Tôn (phần Đại thừa).
    NHƯ NHƯ: Lý thể của Pháp tánh. Thể của nó vốn bình đẳng, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Đới với vạn pháp vạn cảnh đều xem như nhau, không nhiễm ô thiên chấp. Như như cũng có nghĩa là Trung đạo (đệ nhất nghĩa của Niết Bàn).
    Vô lượng Thọ Kinh, Phật có nói:Các hàng Bồ Tát sanh qua cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, hiểu rằng các pháp đều là như như”. Và trong Trung luận cũng chép:Chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng một, cũng chẳng khác, chẳng lại, cũng chẳng đi.v.v…Những tướng, những pháp như vậy, tức là như như, cũng gọi là Như Lai”.
    Đức Thầy nay cũng có câu:
    Cảnh như như chẳng có đổi thay,
    Không màng biết phân chia nhơn ngã”.

    (Kh/thiện, Q.5)
    AN CƯ: Ở yên. Đây chỉ cho người tu khi được trở về với Pháp thân thanh tịnh (Niết Bàn).
    HƯỜN NGUYÊN PHẢN BỔN: Trở lại nguồn gốc xưa, tức trở lại bản tánh Chơn Như của mình từ trước.

    CHÁNH VĂN
    691.-Tà với chánh còn đương trà-trộn,
    Người muốn tu phải sớm lọc-lừa.
    Tứ-Diệu-Đề ai có mến ưa,
    694.-Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa.
    Chữ Tập-Đề nay đà mở cửa,
    Để đem vào khuôn-khổ người hiền.
    Rán cực lòng một bước đầu tiên,
    698.-Sau mới được làm nên Phật-Thánh.
    Về Thượng-Giái cõi Tiên mới bảnh,
    Đến Diệt-Đề trừ vật-dục xưa.
    Cõi hồng-trần các việc mến ưa,
    702.-Sự giả tạm ta nên rứt bỏ.
    Muốn tâm-tánh ngày kia sáng tỏ,
    Thì Khổ-Đề phải chịu nhọc-nhành.
    Lòng dục tu thì phải thiệt-hành,
    706.-Chớ đừng có ham điều sung-sướng.
    Đức Phật-Tổ nào đâu hẹp lượng,
    Chịu nhọc-nhằn mới rõ Đạo-Đề.
    Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê,
    710.-Ôi chừng đó mới là mầu-nhiệm.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 691 đến câu 710)
    -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết từ trước tới giờ đã có nhiều mối Đạo ra đời, song giữa tà chánh đang lộn lạo, khó mà phân biệt được. Vậy ai muốn tu hành cần phải lọc lừa cho kỹ, để:“Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ, Thì mới được thân sau cao quí”.(Thức tỉnh một nữ Tín đồ) Còn người nào đã qui y Phật, nay muốn thực hiện theo pháp Tứ Diệu Đề, Đức Thầy cũng lược giải ra đây, để mỗi hành giả nghiệm xét và tu tập.
    -Thứ nhứt là Tập Đề: là khi đặt chân vào cửa Đạo, nhà tu cần khép mình trong khuôn khổ luật nghi và lo trau sửa thân tâm, cho đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy. Với công hạnh tu sửa nầy, dầu gặp nhiều khó khăn, chặt buộc, ta cũng phải cố gắng trì hành:
    Qui y thì phải làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    Có được vậy, sau nầy mới chứng quả Phật Thánh và siêu sanh về cảnh Niết Bàn cực lạc.
    -Thứ nhì là Diệt Đề: Có nghĩa đồng thời với sự khép mình vào qui điều giới luật, nhà tu phải cương quyết diệt trừ các tập nghiệp vô minh phiền não, như: tham, sân, si hay thất tình lục dục.v.v…những phiền não dục tình ấy đã kết thành ác nghiệp từ lũy kiếp, làm cho tâm trí mê mờ mà luân chuyển mãi trong sáu đường sanh tử, nên nay ta phải cố gắng tiêu trừ tận nguồn gốc của nó, mới mong kết quả.
    -Còn phần thứ ba là Khổ Đề: tức từ lâu ta đã quen theo việc làm quấy, nói quấy, tưởng quấy (tam nghiệp, thập ác). Giờ đây muốn đổi lại việc phải (thập thiện) là một điều rất khó. Ngoài việc khó nầy còn có bao nhiêu điều khó khác, khêu động, thử thách hoặc tai nạn, dễ làm cho lòng mình thối chuyển; song ta phải kiên nhẫn để lướt qua các trở ngại ấy, hầu tiến tới mục đích.
    -Thứ tư là Đạo Đề: Ý dạy rằng, đồng thời với sự kiên trì vượt qua mọi khó khăn thử thách ấy, ta phải thật tâm thành ý, tiến thẳng theo con đường Bát Chánh Đạo của Tổ Thầy đã vạch, tất được hốt ngộ chỗ quang minh vi diệu vô cùng, vô tận của Đạo tâm, ấy gọi là đắc thành Đạo quả.

    CHÚ THÍCH
    TỨ DIỆU ĐỀ: Cũng gọi là Tứ Thánh Đế hay Tứ Chơn Đế, do Phạn ngữ Aryasatiâni hay Catvariaryasa. Có nghĩa: Bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật.
    Theo Kinh xưa thì Đức Phật đã thuyết pháp Tứ Diệu Đề cho năm anh em Kiều Trần Như nghe trước hết, bốn pháp ấy đại lược như sau:
    1-Khổ Đề: Gồm có các sự khổ trong đời (bát khổ).
    2-Tập Đề: Gồm có các tập nhơn (vô minh phiền não) sanh ra quả khổ.
    3-Đạo Đề: Phương pháp diệt khổ để hưởng quả Niết Bàn.
    4-Diệt Đề: Gồm có tám đường chánh (Bát chánh đạo).[Căn cứ bài “Sơ giải Tứ Diệu Đề” Đức Thầy có giải theo ý Đức Phật.]
    Còn căn cứ theo quyển “Giác Mê Tâm Kệ” nầy thì Đức Thầy lược giải Tứ Diệu Đề gồm có:
    1/-Tập Đề: Có nghĩa tập sửa mình đúng theo qui luật pháp giáo của Đạo.
    2/-Diệt Đề: Trừ diệt nghiệp nhân phiền não và lòng ham muốn vật chất, danh lợi tình.v.v…
    3/-Khổ Đề: Chịu khó tu hành cho kỳ được các qui điều pháp giáo và diệt trừ những phiền não dục tình như đã kể trên.
    4/-Đạo Đề: Thực hành theo con đường Bát chánh Đạo để hoàn thành đức giải thoát…
    Sở dĩ, giữa Tứ Diệu Đề của Đức Phật và của Đức Thầy giảng dạy, có thay đổi thứ tự và phương cách một vài chỗ; là vì thời chánh pháp Đức Phật phương tiện cho chúng sanh biết: các nỗi khổ hiện tại là do chúng sanh tạo nghiệp phiền não vô minh ở quá khứ. Bây giờ muốn khỏi các quả khổ ở vị lai thì phải diệt trừ các phiền não vô minh hiện tại, bằng cách hành đúng Đạo Bát Chánh, tất nhiên các nỗi khổ sau nầy sẽ dứt sạch và tự tại vào cõi Niết Bàn.
    Còn vào đời mạt pháp nầy Đức Thầy phương tiện cho chúng sanh biết: hiện kiếp ta phải tập làm các nhân lành, diệt trừ các nghiệp ác, và chịu khổ tu hành đừng thối chí, tất sẽ tỏ ngộ Đạo mầu, khỏi vòng sanh tử mà đến cõi giải thoát (Niết Bàn).
    Xem đây, thấy rằng hai cách giải bày Tứ Diệu Đề của Đức Phật và của Đức Thầy, chỉ khác nhau ở phương tiện sửa cho thích ứng với trình độ và căn cơ của chúng sanh, chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau.
    Khi nhận được chỗ tương đồng và phương tiện như thế, người tu Phật cần khảo nghiệm cả hai cách giải bày của Đức Phật và Đức Thầy để dung hội lại hầu thật hành cho đến khi nào đạt được Đạo quả vô thượng Đại Bồ Đề. Đức Thầy khuyên:
    Câu Bát Chánh rán mài chạm dạ,
    Tứ mục điều người khá hành y”.

    (Thiên lý ca)
    THƯỢNG GIÁI: Cõi trên, ý chỉ cõi siêu thoát, đối với hạ giái (cõi trần chúng ta đang ở).
    VẬT DỤC: (Xem CT đoạn 5, T-1, bài Sứ Mạng).
    SỰ GIẢ TẠM: Sự vật không thiệt, không bền chắc, chỉ có được thời gian rồi mất. Ý chỉ cho vạn vật trong thế gian, những cái gì thuộc về hình tướng, như: gia tài sự nghiệp, vợ đẹp con ngoan hay xác thân của ta, đều đi theo định luật “Thành, trụ, hoại, không”, chẳng có một vật nào giữ còn mãi mãi, nên gọi là giả tạm. Cổ nhân từng bảo:
    Thương bấy người đời không vẫn không,
    Ruộng vườn nhà cửa có như không.
    Vợ con cha mẹ lâu rồi chết,
    Danh lợi giàu sang rốt cuộc không.
    Trăm khéo trăm khôn đều giả tạm,
    Ngàn mưu ngàn kế cũng hườn không.
    Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp,
    Nhắm mắt hai tay vẫn phủi không”.
    Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy:
    Nhất thiết hữu vi pháp,
    Như mộng huyễn bào ảnh.
    Như lộ, diệc như điển,
    Ưng tác như thị quán”.

    Tạm dịch: - Phật rằng muôn pháp trong đời,
    Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
    Chiêm bao điện chớp tiếng vang,
    Đến như thân xác hơi tàn còn đâu ?

    Đức Thầy nay hằng cho biết “…Cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác…rồi đến người khác nữa…”(Luận về Bát chánh - Chánh định)
    NHỌC NHÀNH: Cũng viết là nhọc nhằn. Có nghĩa vất vả, nhiều việc khó khăn cực nhọc:Kẻ ăn người ở trong nhà, Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn.(Ca dao)

    CHÁNH VĂN
    711.-Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm,
    Trễ thời kỳ khó gặp đặng Ta.
    Rồi hành luôn Bát-Nhẫn mới là,
    Thì muôn việc đều an bá tuế.
    715.-Chữ thứ nhứt Nhẫn-Năng-Xử-Thế,
    Là người hiền khó kiếm trong đời.
    Lập thân danh tuần trải nơi nơi,
    718.-Chờ thời-đại mới là khôn khéo.
    Chữ Nhẫn-Giái trì tâm trong trẻo,
    Khuyên dương-trần giữ phận làm đầu.
    Nhẫn-Hương-Lân cùng khắp đâu đâu,
    722.-Trên cùng dưới đều hòa ý hỉ.
    Nhẫn-Phụ-Mẫu gọi trang hiền sĩ,
    Phận xướng-tùy chồng vợ nhịn nhau.
    Nhịn xóm-chòm cô bác mới cao,
    726.-Nhẫn-Tâm nọ ngày ngày an-lạc.
    Nhịn tất cả những người tuổi tác,
    Nhẫn-Tánh lành yên-tịnh dài lâu.
    Giữ một lòng hiền-hậu mới mầu,
    Quanh năm cũng bảo toàn thân-thể.
    730.-Chữ Nhẫn-Đức kể ra luôn thể,
    Thì trong đời vạn sự bình an.
    Chữ Nhẫn-Thành báu-quí hiển-vang,
    734.-Khắp bá-tánh được câu hòa-nhã.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 711 đến câu 734)
    -Đoạn giảng trên, ý Đức Thầy kêu gọi toàn dân hãy rán tìm cho ra lý thâm huyền trong Đạo pháp hầu sớm lo tu sửa, nếu để trễ thời kỳ, ắt khó gặp đặng Ngài. Và sau khi thông hiểu được pháp Tứ Diệu Đề, cần phải hành thêm tám điều nhẫn nhịn, thì trên đường tu tiến sẽ được vững bền đến khi thành đạt mục đích.
    -Trước nhất, là mặt xử thế tiếp vật, ta phải biết nhẫn nhịn để đem lại sự hòa khí cùng mọi người, mọi giới trong xã hội. Cũng như bước lập thân hành Đạo ta cần phải biết tùy thời thích trung mà xử sự:Đấng nam nhi ẩn nhẫn tùy thời, Vậy mới gọi khôn ngoan hữu chí.(Giác Mê TK, Q.4)
    -Còn sự nghiêm trì giới luật, dĩ nhiên là phải gặp nhiều khó khăn, nhưng lòng nhẫn nại sẽ giúp ta gìn giữ thân tâm sớm được trọn lành trọn sáng. Chính đó là bổn phận trước hết của nhà tu. Ngoài ra, còn việc giao tiếp với thôn xóm, ta phải dùng sự dung hòa đối xử với mọi người, khiến ai nấy đều được an vui, chẳng còn muốn gây thù kết oán với nhau nữa.
    -Phần trong gia đình đối với cha mẹ, phận làm con phải hết lòng tôn kính bảo dưỡng, đôi khi có bị rầy la xử ép cũng phải nhịn chịu để cha mẹ được vui lòng. Giữa cô bác, anh em, chồng vợ cần nhường nhịn lẫn nhau, hầu đem lại sự hòa vui hạnh phúc và luôn biết kính nhường, lễ độ đối với các bậc cao niên kỷ trưởng.
    -Về việc trau tâm sửa tánh muốn được an toàn vĩnh cửu, Đức Giáo Chủ dạy người tu cần có kiên trì trong công cuộc tẩy trừ vọng tâm phiền não. Từ lâu những sự nóng giận tham lam, gây thù kết oán đều phát xuất từ nơi đó và kết thành thói quen lâu đời. Nay muốn gội rửa tâm tánh cho được trong sạch, thì đức tánh kiên trì, nhẫn nại là một trong các phương tiện chính yếu sẽ giúp ta được an thân và thành công viên mãn.
    -Đến phần thứ bảy, Đức Thầy dạy nhà tu nên kiên nhẫn để rèn luyện các đức độ:Từ bi, bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độđể đối với quần sanh và vạn loại. Dầu đặng vậy, nhưng lòng chẳng hề có ý nghĩ vui mừng, tự đắc…cón đức nhẫn thứ tám là khuyên hành giả phải nhịn chịu mọi sự khó khăn để hoàn thành tám điều nhẫn nhịn vừa kể trên, nhưng lòng không còn thấy có tu, có chứng. Nhờ đó, ta thể hiện được tình hòa hảo với mọi người chung quanh hầu cảm hóa họ hướng về nẻo Đạo và sớm đạt đến giác hạnh viên mãn.

    CHÚ THÍCH
    BÁT NHẪN: Tám điều nhẫn nhịn, gồm có: Nhẫn năng xử thế, Nhẫn Giái, Nhẫn Hương lân, Nhẫn Phụ mẫu, Nhẫn tâm, Nhẫn tánh, Nhẫn đức, Nhẫn thành.
    Tám điều nhẫn nầy, khởi nguyên từ Đức Phật Thầy Tây An (1807-1856), Ngài viết ra trong một bài thi Bát cú bằng Hán văn để cho ông Đạo Thắng một đệ tử của Ngài gìn giữ và truyền lại cho con cháu. Đồng thời Đức Phật Thầy cũng mật ký thêm cho ông Đạo Thắng một bài thi khoán thủ bát cú, trong đó có tám chữ “Đạt Đạo, Ngao Du, Châu Di, Viễn Cận” đều thuộc về bộ Xước. Ngài còn dặn rằng: nếu sau nầy có ai viết được bài thi đúng y văn tự như vầy, đó là Ngài chuyển kiếp trở lại. Ông Đạo Thắng giữ kín bài thi ấy mãi, đến khi sắp từ trần mới truyền lại cho con ông, rồi con ông truyền lại cho cháu nội là Nguyễn Phước Còn ở xã Long Kiến, Chợ Mới (An Giang). Bài thi ấy coi như là vật gia bảo, ngoài ba người ấy, không hề có một ai được biết tới.
    Đến năm 1939, Đức Giáo Chủ khai sáng PGHH tại xã Hòa Hảo, quận Tân châu (Châu Đốc), thì ông Còn được chư thần kêu cho biết: Đức Phật Thầy đã tái sanh tại làng Hòa Hảo con của ông Cả Bộ. Kêu hai lần như vậy, ông Bảy Còn cũng chưa tin, đến lần thứ ba ông mới chịu ra đi.
    Đến nơi, vừa giáp mặt với Đức Thầy, Ngài liền ngó ngay ông Bảy Còn, nói:
    -Dữ hôn ! Đợi chư thần đòi ba lần ông mới chịu đi à ? Thôi, mời ông vào nhà !
    Nghe thế ông Còn cũng chưa tin thật. Đức Thầy liền bước lại bàn, viết hai bài thi bằng Hán văn nói trên đưa ra, ông Bảy Còn mới chịu nhìn nhận và qui phục. (Xem thêm quyển “Đức Huỳnh Giáo Chủ” của Vương Kim có kể rõ câu chuyện và hai bài thi cả văn Hán và Việt)
    Dưới đây là y văn bài thi Bát Nhẫn của Đức Thầy viết ra (dịch lại chữ Việt):
    Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
    Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
    Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ,
    Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
    Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên”.

    BÁ TUẾ: Trăm tuổi (trăm năm). Ý chỉ thời gian lâu dài.
    NHẪN NĂNG XỬ THẾ: Đức nhẫn thường hay nhịn nhục, hầu đối xử với đời và nhẫn đợi thời cơ để làm nên danh phận của bực hiền nhơn.
    LẬP THÂN DANH: Gầy dựng thân danh cho mình do câu:“Lập thân hành Đạo dương danh ư hậu thế, Dĩ hiển kỳ Phụ Mẫu hiếu chi chung giả”.(Lập thân thi hành Đạo lý để danh thơm về sau, làm vẻ vang cha mẹ, ấy là điều sau cùng của Đạo hiếu). Đức Thầy cũng từng kêu gọi:
    Cuộc biến động nay mai nguy ngập,
    Một hội nầy rán lập thân danh”.

    (Để chơn đất Bắc)
    NHẪN GIÁI: Đức kiên nhẫn mọi sự khó khăn để giữ tròn giới luật.
    NHẪN HƯƠNG LÂN: Nhẫn nhịn đối với mọi người chung quanh để giữ được sự hòa khí trong thôn xóm.
    Ý HỈ: Vui và vừa ý tầt cả.
    NHẪN PHỤ MẪU: Đức nhẫn để trọn lòng hiếu kính đối với cha mẹ.
    XƯỚNG TÙY: Do câu “Phu xướng Phụ tùy”(chồng xướng lên thì vợ nghe theo). Đây ý nói về Đạo chồng vợ, cư xử với nhau rất hòa thuận. Đức Thầy có câu:Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác.(Không buồn ngủ)
    NHẪN TÂM: Đức nhẫn để diệt hết lòng dục vọng tham lam, để tâm được thanh tịnh an vui.
    AN LẠC: Bình yên vui vẻ.
    NHẪN TÁNH: Đức nhẫn nhịn để thay đổi tánh ý sân si, hung ác của chúng sanh, hầu được trở lại tánh hiền lành giác ngộ của Phật Thánh.
    YÊN TỊNH: Trong sạch yên lặng.
    BẢO TOÀN: Gìn giữ đâu đó được trọn vẹn lâu bền.
    NHẪN ĐỨC: Đức nhẫn rèn luyện cho mình có những đức độ: hiền hòa, từ bi cao cả và khi có được các hạnh đức đức ấy, lòng chẳng hề tự mãn hoặc khoe khoang đắc ý.
    NHẪN THÀNH: Đức nhẫn do sự thật tâm thành ý để viên mãn pháp Bát nhẫn mà tâm không còn thấy có chỗ được để tiến thẳng đến mức giải thoát, cứu cánh.
    HIỂN VANG: Cũng gọi là hiển vinh hay vinh hiển. Có nghĩa sang trọng vẻ vang.
    HÒA NHÃ: Ôn hòa nhã nhặn.

    CHÁNH VĂN
    735.-Câu Đạo-đức bay mùi thơm lạ,
    Muốn nếm thì phải rán sưu tầm.
    Các Đạo tà mưu khéo âm thầm,
    738.-Dân rán tránh kẻo lâm mà khổ.
    Chúng nó xuống khuyên-răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu loè mắt chúng-sanh.
    Ai ham linh theo nó tập-tành,
    742.-Sa cạm-bẫy khó mong sống sót.
    Ta chẳng phải dùng lời chuốt-ngót,
    Mà làm cho dân-chúng say mê.
    Nẻo chánh tà biện-luận nhiều bề,
    746.-Cho bá-tánh tìm nơi cội-gốc.
    Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
    Đừng để lầm thợ khéo sơn da.
    Thì sau này đến lúc phong-ba,
    750.-Dông gió lớn cột kèo khỏi gãy.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 735 đến câu 750)
    -Đoạn nầy ý nói trong lời lẽ Đạo đức, vốn có mùi vị thơm tho ngào ngạt, không sao kể xiết “Tiếng lành như thể hương bay nực nồng”.(Cảm tác) Song ai muốn nếm được hương vị ấy cần phải chí tâm tìm hiểu và thực hành theo Kệ giảng chớ chẳng phải nhìn qua loa bên ngoài mà được. Đức Giáo Chủ còn cho biết: hiện nay có rất nhiều Tà đạo ra đời, mỗi người hãy nhận định cho sáng suốt để xa lánh, kẻo bị lạc lầm theo chúng mà phải mang khổ về sau:Đừng bạ đâu tin tưởng nghe càn, Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.
    -Các tà Đạo xuất hiện nhiều nơi và dựng đặt nhiều lý thuyết, để cám dỗ nhân sanh. Ngoài ra, chúng còn bày vẽ: nào luyện bùa trao phép, ơn trên nhập xác, nào phong tước đặt tên, soi căn đoán tâm lý v.v...nếu ai ham linh thính hoặc còn mến tríu lợi danh, chạy theo tập tành với chúng, chẳng khác nào loài chim bị sa vào cạm bẫy, mong gì được thoát khổ.
    -Đức Thầy còn cho biết: Ở đây không phải Ngài dùng lời ngọt ngào, chuốt ngót để lôi kéo quần chúng về mình mà chỉ vì lòng từ bi, chẳng nỡ ngồi nhìn chúng sanh bị lạc vào tà Đạo, nên Ngài phải luận giải phân tách rõ ràng, để mỗi người nhận được đâu là tà ngụy mà xa lánh, và đâu là chơn lý giải khổ để nương theo, hầu trở về với gốc lành tự tánh của mình.
    -Vậy từ nay trở đi, ai muốn tu theo Đạo nào, trước hết phải cẩn thận dò xét về tôn chỉ, luật giới và mục đích của mối đạo ấy, xem họ sẽ đưa nhân loại đi đến đâu, và có đúng chân lý không ? Nhứt là phần hạnh đức, trí năng của kẻ hướng Đạo có xứng đáng cho ta tôn trọng làm Thầy hay không ? Nếu chánh lý ta sẽ nương theo, bằng họ chỉ tô phết một lớp sơn đạo đức bên ngoài, còn thực chất chẳng có đường lối rõ rệt thì ta nên xa lánh. Cũng ví như người muốn kiến tạo ngôi nhà, trước phải lựa thứ cây danh mộc (chắc chắn) để làm kèo cột mới bảo đảm lâu dài bởi các thứ cây đó mối mọt không thể ăn được và sau nầy dầu có gặp bão tố, nhà cũng không bị hư sập.

    CHÚ THÍCH

    ĐẠO ĐỨC: (Xem CT câu 431, T-3, Q.4).
    SƯU TẦM: Tìm tòi lục kiếm để được thấu hiểu. Ví dụ: Sưu tầm kinh điển, sưu tầm tài liệu. Đức Thầy hằng khuyên trong bài “Tối mùng Một”:
    Sớm tỉnh Kệ kinh tìm hiểu lý,
    Một ngày hiệp mặt hết mờ lu”.

    ĐẠO TÀ: (Xem CT câu 77, T-2, Q.2).
    TẬP TÀNH: Học tập rèn luyện theo một cách thức gì, do người khác bày ra. Đây chỉ cho sự tập luyện theo các tà thuyết và bùa phép của tà đạo.
    CẠM BẪY: Những đồ dùng gạt cầm thú sa vào mà bắt. Ở đây chỉ cho các Đạo tà hay bọn giả tu, thường dùng đủ mưu chước khéo xảo, hoặc bùa phép thính linh.v.v…để lừa gạt bá tánh tin theo một cách mù quáng, rốt cuộc cả Thầy trò đều chuốc lấy tai hại.
    Xưa, có một Tỳ kheo đã xuất gia tu hành mà tánh hay lười biếng, không lo học hỏi kinh pháp, tâm ý buông lung, thường vi phạm giới luật nên bị trong Đạo trục xuất, bá tánh thấy vậy không ai cúng dường nữa, Tỳ Kheo rất buồn thẹn, ôm gói ra đi.
    Cùng thuở ấy có một con quỉ cũng phạm tội, bị Tỳ Sa Môn Thiên Vương đuổi đi. Quỉ xuống trần gian tìm nơi nương tựa kiếm ăn, bỗng gặp Tỳ kheo đang đi thơ thẩn bèn hiện hình người, đón hỏi duyên do ?
    Tỳ kheo tỏ thiệt đầu đuôi. Quỉ an ủi Tỳ kheo: Ông đừng lo nữa, tôi có đủ phép thần thông giúp ông lấy lại uy tín, nhưng khi ông được người tặng vật thực chi, phải cúng vái tôi. Tỳ kheo đồng ý, quỉ liền cõng Tỳ kheo bay về chỗ cũ. Những người ở tụ lạc chỉ thấy Tỳ kheo, chớ không thấy được quỉ, ngỡ rằng: Tỳ kheo đã đắc Đạo biết đằng vân, bèn cùng nhau lễ bái thỉnh về chùa, lại còn trách trong Đạo xét đoán không công minh, nỡ đuổi oan một thầy tu đã chứng quả.
    Từ ấy tiếng đồn vang dội, bá tánh đồng đem lễ vật đến dâng cúng. Tỳ kheo cũng nhớ lời hứa, mỗi món đều vái cúng cho quỉ trước.
    Họm nọ, Quỉ đang cõng Tỳ kheo du hành trên không, để biểu diễn lòe mắt thiên hạ, chẳng may gặp quan thuộc hạ của Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Quỉ thất kinh ném Tỳ kheo và tận lực đào tẩu. Tỳ kheo bị rơi từ không trung xuống đất nát thây…
    Lại nữa, gần đây (1940) có vụ Đạo Quốc cầm đầu phong trào Đạo Tưởng ở chùa Long Châu, gần Quận lỵ Tân châu (Châu Đốc). Y giả xưng là Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương nhưng y chủ trương theo tà thuyết: lên xác, tập luyện phép linh, bùa chú để nuôi mộng tranh đoạt lợi danh. Dân chúng ham linh mê tín theo y, rèn tập hằng đêm. Chẳng bao lâu bị nhà đương cuộc bao vậy, bắn chết một số, cón lại bao nhiêu đều bị bắt cho đi ngồi tù.
    Xuyên qua hai câu chuyện chứng minh cho Đạo tà, thấy rằng: người muốn tu cần phải thận trọng trong việc lựa chọn mối Đạo mà nương theo. Nếu không khéo sẽ bị rơi vào cạm bẫy của tà giáo mà nguy khốn cả thể xác lẫn linh hồn.
    Đức Giáo Chủ thường căn dặn tín đồ:
    “Ra đi dặn lại ít lời,
    Khuyên trong bổn đạo vậy thời rán nghe.
    Dầu ai tài phép bày khoe,
    Ham linh, ham nghiệm sợ e mang nghèo.
    Lựa cho phải cột phải kèo,
    Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
    Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
    Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    CHUỐT NGÓT: Nói tốt, quảng cáo. Ý chỉ lời ngọt ngào khéo léo.
    BIỆN LUẬN: Cũng gọi là luận biện. Có nghĩa bàn bạc, luận giải cho ra lý lẽ phải trái. Đức Thầy có câu:
    Ta là kẻ tu hành thiển kiến,
    Xét thế trần luận biện đôi điều”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    DANH MỘC: Các loại cây tốt, thịt chắc, có danh tiếng, dùng làm nhà hay đóng bàn ghế, xài lâu hư, như: cẩm lai, trắc, bên, thao lao, căm xe.v.v…Đây ý chỉ chánh Đạo, nơi có pháp giới tu hành đúng theo chân lý của Đạo Phật và đưa người giải thoát sanh tử. Không dùng thinh âm sắc tướng hay bày trò mê tín dị đoan. Đức Thầy thường cho biết:Vô vi chánh Đạo hỡi người ơi !”(Cho Ô. Tham tá Ngà)
    PHONG BA: (Xem CT câu 2, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    751.-Thấy sanh-chúng nhiều người khờ dại,
    Chẳng biết gìn phong-hóa lễ-nghi.
    Nên ta đem đạo đức duy-trì,
    754.-Gìn tục cổ để người chẳng rõ.
    Còn chậm-chạp Đạo-mầu chưa tỏ,
    Như rừng hoang mới dọn một đường.
    Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
    758.-Muốn cứu thế sá chi bùn trịn.
    Thương quá sức nên Ta bịn-rịn,
    Quyết độ đời cho đến chung thân.
    Nếu thế-gian còn chốn mê tân,
    762.-Thì Ta chẳng an vui Cực-Lạc.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 751 đến câu 762)
    -Đức Giáo Chủ nhận thấy chúng sanh hiện nay, phần đông quá mê khổ, đắm say dục lạc và chạy theo lối sống văn vật tân thời, vội quên đi phong hóa cổ truyền. Do đó, Ngài khai hóa Đạo mầu, kêu gọi bá tánh hãy hồi tâm thức tỉnh, tập sửa cách ăn ở đúng theo lễ nghi, phong tục tốt đẹp của ông cha ta từ trước.
    -Sở dĩ thời nay chưa được bao người, thấu rõ lý mầu của Đạo pháp, là vì Đức Thầy mới vừa khai sáng nền Đạo. Cũng như khu rừng hoang vu từ trước, mà nay mới dọn được một lối đi…Ngài còn cho biết: trên con đường giác chúng độ đời, dầu có gặp nhiều khó khăn, thử thách hoặc tiếng đời nhạo chê phỉ báng, song Thầy trò Ngài chẳng chút ngại ngùng:Tớ thầy nào nệ cần lao, Thương dân dạy dỗ xiết bao nhọc nhằn”.
    (Để chơn đất Bắc)
    Bởi lòng Đức Thầy quá thương xót sanh linh, nên Ngài phát thệ suốt quãng đời: Có sông có núi cùng cây cỏ, Độ tận chúng sanh khỏi dại khờ”. (Đầu năm) Chẳng những thế, Ngài còn hứa nguyện: nếu chúng sanh còn mãi đắm chìm trong sông mê bể khổ, thì Ngài chẳng nỡ yên vui nơi Phật cảnh:
    Nếu chừng nào khai thông nền Đạo Đạo,
    Đuốc từ bi rọi khắp cả nhơn gian.
    Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,
    Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”.

    (Trao lời cùng Ông Táo)

    CHÚ THÍCH
    PHONG HÓA LỄ NGHI: (Xem CT câu 186, T-2, Q.3).
    DUY TRÌ: Cầm giữ lại, không để hư mất.
    GÌN CỔ TỤC: Giữ gìn những phong tục, lễ nghi tốt đẹp của Ông Cha ta từ xưa để lại. Đức Thầy từng khuyên:
    Nhắc nhở con hiền noi tục cổ,
    Kêu chừng trẻ thảo gốc trời Đông”.

    (Chí thanh cao)
    ĐẠO MẦU: (Xem CT câu 901, T-1, Q.1).
    NÀO QUẢN: Đâu nài hà, chẳng ngại chi.
    BÙN TRỊN: Cũng viết là bùn sình. Bùn là chất đất nhão, trịn (sình) là chất bùn lỏng, chất đất bẫy lầy ở đáy nước. Nghĩa bóng là chỉ cho sự nhọc nhằn, khổ nhục đủ cách.
    BỊN RỊN: Bận bịu, không nở rời đi được !
    CHUNG THÂN: Suốt đời mình, đến khi từ biệt cõi đời. Đức Thầy có câu:“Chung thân quyết chí dốc làm lành”.(Thiên lý ca)
    MÊ TÂN: Bến mê. Chỉ cho phía chúng sanh đang ở, nơi còn luân hồi sanh tử, đầy thống khổ. Đối với giác ngạn (bờ giác) chỗ chư Phật ngự, nơi giải thoát an vui. Đức Thầy từng nói (trong bài Viếng làng Mỹ Hội Đông):
    Làm sao khỏi chốn mê tân,
    Đào nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng”.


    CHÁNH VĂN (Từ câu 763 tới câu 836)
    763.-Dạy bổn-đạo lấy lời đích-xác,
    Mà chẳng tu là bởi không ưa.
    Chớ nước sâu mà bị gàu thưa,
    766.-Dân đông-đảo lời truyền chẳng xiết.
    Nên phải tạm mượn cây ngòi viết,
    Đem Đạo-mầu như hạn cho mưa.
    Đặng tố-trần tâm ý Người Xưa,
    770.-Chữ thậm thâm trong kinh Phật-Giáo.
    Nền chơn lý chúng chê rằng láo,
    Mà nào Ta có lợi-dụng ai.
    Trong bá-gia nhiều ít lòng chay,
    774.-Để giữ trọn trong nền Phật-Pháp.
    Gìn giới cấm sửa tâm ô-tạp,
    Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà.
    Nhớ từ-bi hai chữ ngâm-nga,
    778.-Dầu làm lụng cũng là trì chí.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 763 đến câu 778)
    -Lời khuyên dạy của Đức Giáo Chủ rất rõ ràng chính xác, thế mà người đời chẳng chịu hồi tâm hướng thiện, là vì lòng họ không thích Đạo đức. Vả lại, một cái hầm sâu, nước rất nhiều, chiếc gàu lại thưa thì bảo làm sao tát cho mau cạn được. Cũng như lời thuyết giáo của Ngài, trong cấp thời chưa ban đều hết vạn dân.
    -Thế nên Ngài phải tạm dùng giấy mực, sáng tác Kệ kinh, để làm cho nguồn giáo pháp mưa rãi khắp nơi. Chính đó là phương tiện cho Ngài, vừa tỏ bày tâm ý và vừa luận giải giáo lý thâm huyền trong Đạo Phật.
    -Ngài giảng dạy cách thức tu hành rất thật tế, đúng theo chân lý Phật giáo, chẳng hề có ẩn ý lợi dụng một ai; lại có số người cho đó là lời không thiệt. Ngài còn bảo: Trên đường tu học Phật pháp, ai muốn được kết quả phải thật lòng trì chay, hoặc nhiều hoặc ít. Nghĩa là tùy theo trình độ và lòng nhân ái của mỗi hành giả, mà từ chỗ ăn chay kỳ, sẽ tiến đến trường chay một cách trọn vẹn.
    -Còn phần giới luật, mỗi người cần nghiêm giữ chính chắn, lọc sạch các vọng tâm đen tối. Đồng thời phải nhiếp tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật”; để diệt trừ những ý nghĩ tà khúc, xấu xa. Song muốn cho sự niệm Phật có hiệu quả, mỗi khi: đi, đứng, nằm, ngồi hoặc nói, làm, ăn uống đều phải kiên trì niệm Phật như vậy:“Tu uống nước niệm Phật uống vào, Ăn cơm niệm Phật chỗ nào cũng tu.(Kim Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới)

    CHÚ THÍCH
    LỜI CHÍNH XÁC: Lời nói chính xác, rõ ràng, thật đúng. Ví dụ: Luận giải rất chính xác.
    TỐ TRẦN: Bày tỏ ra. Đức Thầy có câu:Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố trần”.(Viếng làng Phú An).
    THẬM THÂM: Rất cao sâu mầu nhiệm. Chữ thậm thâm là lời pháp giáo có nghĩa lý sâu mầu khó tả. Kinh Phật xưa có câu:“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”. Đức Thầy nay cũng nói:Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền.(Kh/thiện, Q.5)
    CHƠN LÝ: (Xem CT câu 301, T-1, Q.1)
    LÒNG CHAY: Do chữ “Tâm chay”. Chay cũng viết là Trai (theo Hán tự), tức là chỉ sự ăn chay. Xưa nay, trong giới tu hành dù ai cũng phải trì chay. Song vì hoàn cảnh và trình độ của mỗi người mà sự ăn chay hoặc nhiều hoặc ít chẳng đồng nhau.
    Đại khái có hai cách:
    1-Chay trường: cũng gọi là tố thực, tức ăn toàn những thứ không phạm tội sát sanh, như: muối, dưa, tương đậu, rau cải.v.v…và cứ ăn luôn như vậy cho đến mãn kiếp hoặc thành Đạo.
    2-Chay kỳ: là mỗi tháng chỉ ăn bốn ngày chay, hoặc sáu hay mười ngày; hoặc mỗi năm ăn chay luôn ba tháng có các ngày rằm lớn, như: Thượng ngươn (tháng giêng), Trung ngươn (tháng bảy), Hạ ngươn (tháng mười).
    Song dù ăn chay cách nào cũng phải giữ tâm chay mới được kết quả quí báu. Nghiã là phải tăng trưởng lòng nhơn, diệt tâm tham sát, tránh sự sát sanh vô cớ. Trong cửu khúc của ông Nguyễn Văn Thới có câu:Tu biết thương vốn thiệt chay trường”. Và Đức Thầy nay cũng từng bảo:
    Chữ Nam mô trì giái giữ chay,
    Chay được tánh chay tâm mới quí”.

    (Sa Đéc)
    PHẬT PHÁP: (Xem CT đoạn 5, T-1, bài Sứ Mạng).
    GIỚI CẤM: Cũng đọc là giái cấm. Phạn ngữ là Sila, phiên âm là Thi la, dịch là giái cấm, hoặc gọi là cấm giái, Phạn ngữ: Protimôksha, dịch là Ba la đề mộc xoa; tức là “giái ác cấm phi”. Có nghĩa: răn chuyện dữ, cấm điều quấy. Hai chữ giới và cấm đồng một nghĩa, nhưng viết ghép lại cho rõ nghĩa thêm. Giới cấm do Tổ Thầy lập ra để răn cấm môn đồ không cho quấy phạm.
    Theo Kinh Phật từ xưa thì gồm có: Ngũ giới, Bát giới, Thập giới, Cụ túc giới và Tam Tụ giới của hạnh Bồ Tát.
    Còn theo Sấm kinh PGHH, hiện nay gồm có Bát giới (tám điều răn cấm) và Thập giới (diệt thập ác v.v…). Nhưng trong đây gồm nhiếp cả Ngũ giới và Tam Tụ giới của hạnh Bồ Tát.
    Tóm lại, người tu hành có giữ gìn giới cấm, thân tâm mới được an định trong sạch, và tâm có định trí tuệ mới phát khai, chứng thành Đạo quả. Kinh Phật gọi ba món ấy là tam học (giới, định, huệ), nó có diệu năng trừ được tam độc (tham, sân, si).
    Xưa, Đức Phật từng phán dạy:“Giới là kho diệu pháp, là của xuất thế. Giới là tàu bè lớn, đưa người qua biển khổ sanh tử. Giới là pháp vô úy phá tan tà kiến độc hại. Giới là tướng dõng mãnh dẹp hết ma quân. Giới là hào, thành ngăn che được giặc phiền não. Giới là đất bằng, để kiến tạo lầu đài định huệ”.
    Ngài Đàm Nhứt Luật Sư cũng bảo:
    Tam Thế Phật Pháp, giới vi căn bổn.
    Bổn chi bất tu, Đạo viễn hồ tai”.

    (Chư Phật ba đời thuyết Pháp đều lấy giới luật làm căn bản, căn bản không tu thì xa Đạo lắm rồi !).
    Đức Thầy hiện nay hằng dạy tín đồ:“…cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày…”(Lời khuyên Bổn đạo). Và phải:“…Tôn trọng giới luật của Đạo, rán sửa mình cho trong sạch để gây quả phúc tốt cho linh hồn và xác thịt”.(Lời tâm huyết)
    TÂM Ô TẠP: Lòng hỗn loạn đen tối, thường nghĩ tưởng và ô nhiễm việc nhơ xấu tội ác.
    LÒNG TÀ: Tâm vọng tưởng việc tà vạy, tội ác.
    TRÌ CHÍ: (Xem CT câu 116, T-2, Q.2).

    CHÁNH VĂN
    779.-Chờ Thiên-Địa châu-nhi phục-thỉ,
    Như đời xưa có gã Tử-Phòng.
    Xem thời cơ người đã rõ thông,
    782.-Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh.
    Đời vật-chất văn-minh tranh-cạnh,
    Chữ lợi quyền giựt-giết lẫn nhau.
    Động lòng hiền chư Phật đớn-đau,
    786.-Cho kinh sấm dạy-răn trần-thế.
    Nhìn thấy chuyện gạo châu củi quế,
    Nghèo bạc vàng đạo-đức cũng nghèo.
    Ta xuống trần nhằm lúc nạn eo,
    790.-Nên phải bị kẻ hung khinh-bỉ.
    Vì bác-ái nên thân Cuồng-Sĩ,
    Phải chịu điều khổ hạnh sâu-xa.
    Mong cho đời gặp lúc khải-ca,
    794.-Trong bốn biển thái bình mới toại.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 779 đến câu 794)
    Hiện thời dân tộc Việt Nam đang bị sự kềm kẹp, dưới chánh sách độc ác của bạo quyền (Pháp), nên Đức Thầy khuyên mọi người hãy kiên trinh nhẫn nại để chờ định luật xoay vần của trời đất:“Xây vần trời đất tiết thì, Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai”.(Khuyên người giàu lòng Phước thiện) Cũng như trường hợp của Trương Tử Phòng xưa kia, bấy giờ dân chúng liên tiếp gánh chịu hai chế độ tàn ác, của Tần Thủy Hoàng và Hạng Võ. Tử Phòng phải lánh mình tầm sư học Đạo, sau khi thông đạt thời cơ, ông theo phò Hán Bái Công và vận dụng đủ cơ mưu, trước đánh đổ bạo Tần; và sau cùng, ông chỉ dùng khúc tiêu thổi lên mà phá được quân binh của Hạng Võ tại Cửu Lý Sơn, chấm dứt cuộc “nắng Sở mưa Tần”, đem lại sự hoà bình an lạc cho dân chúng.
    -Bởi nhân loại thời nay chạy theo văn minh vật chất, lòng tham vọng dẫy đầy, gây nên cuộc chiến tranh tàn khốc, khắp năm châu. Do đó, chư Phật đầy lòng Từ Bi, sắc lịnh cho Đức Thầy, lâm phàm truyền bá kệ kinh, khuyên dạy người đời sớm cải ác tùng thiện.
    -Ngài tiên tri sắp tới đây, bá tánh phải chịu cảnh nghèo đói:Gạo lúa kém là đồ sản thổ, Hàng hóa cao ấy của ngoại bang vào”.(Trao lời cùng Ô. Táo) Sự nghèo túng về vật chất, như: Gạo lúa vàng bạc đã đành, song phần tinh thần Đạo đức, trong bá tánh cũng ít người tầm cầu tu sửa. Và công cuộc độ thế của Đức Thầy cũng bị lắm kẻ khinh khi nhạo báng:Hung đồ cường nghịch một hồi cười reo. (Để chơn đất Bắc)
    Hơn nữa, vì lòng thương xót vạn loại sanh linh nên Đức Giáo Chủ chẳng nài sự gian khổ, giả dạng điên khùng, len lỏi khắp nơi để tùy phương giáo hóa. Ngài hằng mong đến một ngày kia, toàn dân Việt Nam hát khúc khải hoàn và cả thế giới đều vui sống cảnh thanh bình:
    Mong tạo hóa sắp xong tuồng cổ điển,
    Đặng nhơn sanh kiến cảnh thái bình hòa”.

    (Không buồn ngủ)

    CHÚ THÍCH

    CHỜ THIÊN ĐỊA CHÂU NHI PHỤC THỈ: Do câu: “Thiên địa tuần hườn châu nhi phục thỉ”. Có nghĩa luật xoay chuyển trong trời đất, hễ giáp vòng rồi phải trở lại mối đầu và cứ thế mà xoay mãi. Ý nói cuộc đời hết suy tới thạnh, hết nhục tới vinh, hết chiến tranh loạn lạc, đến hồi yên ổn thái bình. Đức Thầy từng nói:Tuần hườn Thiên địa đổi xây”.(Sám Giảng Q.3) Và:
    Nam thức Quân thần cuồng lão sĩ,
    Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân”.

    (Tỏ câu Huyền bí)
    TỬ PHÒNG: Ông tên tộc là Trương Lương, hiệu là Tử Phòng, người ở nước Hàn (Tr.Hoa), con của Nguyên Soái Trương Xa. Khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở thì Trương Lương gặp cảnh nước mất nhà tan, muôn dân bị kềm kẹp dưới chế độ bạo Tần. Ông cảm thấy mình có trách nhiệm phục thù cho Quốc dân; nên thường giao du khắp thiên hạ, tìm liên kết các dũng sĩ để đánh đổ bạo Tần. Thời gian ông cùng với Thượng Hải Công hành thích vua Tần, song việc bất thành, ông lánh nạn qua xứ khác.
    Trên đường lưu vong, Trương Lương gặp Tiên Ông Huỳnh Thạch Công, cho ba quyển Thiên thơ đồ trận, ông liền xem đó mà học tập; sau thấy Lưu Bang (Hán Bái Công) là người tài đức gồm đủ, nên theo phò. Chính nhờ mưu kế của Trương Lương mà Bái Công chiếm được Kinh đô nhà Tần, buộc con vua Tần là Nhị Đế (Tử Anh) ra hàng. Đoạn rồi lui về Bao Trung để chuẩn bị binh lương, đốt Sạn đạo khiến Hạng Võ dời đô về Bành Thành.v.v…
    Trương Lương còn tìm được Hàn Tín, tiến cử làm Phá Sở Đại Nguyên Soái, đánh lấy Tam Tần, nhanh chóng khiến quân Sở trở tay không kịp. Điểm quan trọng là khi Hàn Tín và tướng sĩ nhà Hán bao vây Hạng Võ tại Cửu Lý Sơn. Thấy vây lâu ngày mà chưa hạ được Hạng Võ, nên đêm nọ Trương Lương lên núi Kê Minh cầm tiêu thổi lên, tiếng tiêu phát ra âm điệu vừa du dương, vừa buồn bã tha thiết ! Bản tiêu ấy trong truyện “Hán Sở tranh hùng” có dịch:
    Đêm thu mù mịt trời sương,
    Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng.
    Sa trường vó ngựa,
    Trẩy gót binh nhung,
    Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa!
    Cơ hàn đau đớn mẹ cha,
    Canh khuya vò võ tuổi già đợi con !
    Chí trai vạn dặm,
    Hồ thỉ bốn phương,
    Nhưng con đi đã lầm đường,
    Giúp người tàn bạo không thương dân lành.
    Mơ màng nửa giấc ba sinh,
    Một đi, một nhớ, một mình canh thâu”.

    Khúc tiêu trổi giọng, muôn vạn cung sầu len vào tâm hồn của binh tướng Sở, khiến người người đều nhớ quê hương, con vợ, mẹ cha…Trong đêm ấy có hai phần ba tướng sĩ, mất hết tinh thần chiến đấu, bỏ ngủ ra đi; tám ngàn học trò trước kia, nay chỉ còn lại vài trăm. Cuối cùng Hạng Võ cắt đầu tuẫn tiết tại bến Ô Giang.
    Khi Lưu Bang thống nhất sơn hà, lên ngôi xưng là Cao Tổ nhà Hán thì Trương Lương từ quan, theo thầy là Huỳnh Thạch Công, về núi tu hành và sau được thành Tiên.
    THỜI CƠ: (Xem CT đoạn 1, T-1, bài Sứ Mạng).
    TÔI THIỂU: Theo văn tự thì nghĩa là tôi ít, nhưng chữ Tôi thiểu ở đây nói lái lại là“tiêu thổi”(lối văn lộng ngữ).
    Lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hoà Hảo, có ông Cả Đô ở làng Tân An (Tân Châu). Ông đến gặp Đức Thầy nhiều lần để nghe Ngài thuyết pháp. Ông để ý thường thấy Đức Thầy chỉ ngồi trên hai cái ghế trong số tám cái để hai bên chiếc bàn dài, nên thừa lúc Ngài đi ra đường, ông liền đổi cái ghế mà Ngài thường ngồi (cũng giống hệt như mấy cái kia). Xong rồi ông đi theo Đức Thầy ra ngoài lộ, hỏi:
    -Bạch Thầy ! xưa nay người ta phải dùng nhiều tôi lương đống mới tế thế an bang được. Tại sao Ngài lại nói dùng tôi ít trong câu giảng:Dùng tôi thiểu mà an bá tánh ?” Đức Thầy liền đáp:
    -Tôi nói lái đấy ! Tôi thiểu là tiêu thổi !...
    Thầy trò nói chuyện một chập rồi trở vô nhà, đi lại hai hàng ghế, Đức Thầy vừa nhìn ông Đô nói chuyện và cũng vừa nhắc cái ghế mà Ngài thường ngồi, đổi lại cái ghế mới thay vào khi nãy. Sau khi dứt câu chuyện Ngài ngồi trên cái ghế đã ngồi từ trước một cách tự nhiên, như không có gì xảy ra. Bấy giờ ông Cả Đô và mọi người có mặt đều thì thầm thán phục.
    Chữ “tôi thiểu” tức là “tiêu thổi” trên đây, ý Đức Thầy muốn nhắc lại chuyện Trương Lương dùng tiếng tiêu phá được binh Sở, chấm dứt tai vạ “nắng Sở mưa Tần”. Từ đấy dân chúng được hưởng cảnh thái bình an lạc, như Ngài từng nói (trong bài Thu đã cuối):
    Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở,
    Trải qua rồi việc dở hóa hay.
    Thế gian sẽ biết Thánh tài,
    Bế bồng con dại hát bài khải ca”.

    VẬT CHẤT VĂN MINH: (Xem CT câu 89, T-2, Q.3).
    LỢI QUYỀN: Tài lợi và quyền tước vị danh, hai điều trong lục dục.
    GẠO CHÂU CỦI QUẾ: Cũng gọi là “củi quế gạo châu”. Đây là một thành ngữ. Ý nói thời chiến tranh hoặc gặp lúc thất mùa thì gạo củi mắc như châu như quế (giá sinh hoạt quá đắt đỏ).
    KHINH BỈ: Khi dể, khi thị, coi không ra gì.
    BÁC ÁI: (Xem CT câu 40, T-1, Q.1).
    CUỒNG SĨ: Cũng gọi là sĩ cuồng. Có nghiã là người có chí khí lớn và hăng hái tiến thủ. Cuồng sĩ còn có nghĩa là kẻ sĩ không thiệt tánh.
    Nhưng chữ cuồng sĩ ở đây có ngụ ý ẩn danh, và đối lại hạng người khôn lanh quỉ quái. Cũng như hai chữ khùng điên mà Đức Giáo Chủ dùng làm danh hiệu, Ngài đã từng thốt (trong bài “Tỏ câu Huyền bí”):
    Nam thức quân thần cuồng Lão sĩ,
    Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân”.
    Ngài cũng đã từng dùng biệt hiệu “Sĩ Cuồng” để ký tên cho tác phẩm:Hồi chuông cảnh tỉnh những kẻ trông Tây hững hờ với nạn đói Bắc Kỳ”.
    KHẢI CA: (Xem CT câu 54, T-2, Q.2).
    BỐN BIỂN: Do chữ Tứ hải, tức bốn biển lớn bao quanh lục địa, gồm có: Thái Bình Dương, Nam Băng Dương, Bắc Băng Dương, Đại Tây Dương. Đây có ý chỉ cho khắp thế giới, khắp thiên hạ. Đức Thầy có câu:Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”.(Diệu pháp Quang Minh)

    CHÁNH VĂN
    795.-Phật, Tiên, Thánh, lòng nhơn hà-hải,
    Những ước-ao thế-giới hòa-bình.
    Nên khuyên đời truyền-bá sử-kinh,
    798.-Cho sanh-chúng sửa mình trong sạch.
    Giàu đổi bạn khinh-khi kẻ rách,
    Là những câu trong sách Minh-Tâm.
    Tánh kẻ sang đổi vợ nào lầm,
    802.-Thánh-nhơn để nhiều câu hữu-lý.
    Có mấy kẻ ăn-năn xét kỹ ?
    Mãi ỷ tài chê bướng chê càn.
    Thì ngày sau đừng có trách than,
    806.-Những tội lỗi của mình tạo lấy.
    Bị háo-thắng việc người không thấy,
    Rồi mảng lo gièm-siểm nhiều lời.
    Vì vậy nên tình nghĩa xe lơi,
    810.-Đâu gần-gũi mà tường diệu lý.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 795 đến câu 810)
    -Lòng thương xót của Phật Tiên Thánh bao la như sông dài biển rộng, lúc nào cũng mong ước cho bá tánh được sống cảnh thanh bình an lạc. Cho nên các Ngài thức tỉnh người đời, bằng cách quảng truyền Kinh Giảng khắp nơi, để mỗi hành giả xem theo đó mà tu sửa, cho thân tâm sớm trở nên trong sạch tốt lành.
    -Nhìn lại loài người sống trong xã hội hiện thời, ít ai ăn ở theo luân thường Đạo nghĩa, vì lòng quá tham giàu sang quyền tước mà những cuộc thay vợ đổi chồng, bạn bè không thành tín, thường thấy xảy ra liên tiếp. Từ trước các bậc Thánh Hiền đã cảnh giác người đời bằng những câu danh ngôn, được ghi lại trong sách “Minh Tâm Bửu Giám”. Xét ra toàn là những câu hữu lý, thế mà dân chúng thời nay ít ai chịu học theo.
    -Số người ấy, chẳng những họ không suy xét để cải hối các điều sái quấy, lại ỷ tài ỷ tận chê bai Kinh Sách. Đức Thầy còn cho biết những kẻ đã gieo nhân tội ác, trái với tinh thần đạo đức thì sau nầy họ sẽ gặt lấy hậu quả đau khổ; chừng đó dầu có trách than cũng không sao thoát khỏi.
    Tai hại nói trên, phần lớn là do lòng háo thắng, lúc nào cũng chỉ thấy có mình là hay giỏi hơn hết, chẳng hề để tâm xét kỹ hạnh đức của người khác, và cũng chẳng tìm hiểu coi lời lẽ trong Kinh Sách dạy chỉ như thế nào; có đúng chơn lý hay không ? Hễ mỗi khi nghe ai nhắc đến việc Đạo, hoặc vừa thấy quyển Kinh là họ gièm pha đủ cách. Do đó, càng ngày càng cắt đứt duyên lành, tình cảm với những nhà Đạo đức và lần lần xa lánh Sấm Kinh. Ấy là duyên cớ làm cho họ không hiểu được lý mầu nhiệm trong Kệ Giảng.

    CHÚ THÍCH

    LÒNG NHƠN HÀ HẢI: Tâm nhơn đức thương xót khắp chúng sanh rộng lớn như sông biển.
    TRUYỀN BÁ: (Xem CT 452, T-2, Q.2).
    GIÀU ĐỔI BẠN, SANG ĐỔI VỢ: Do câu “Phú dịch giao, quới dịch thê” và câu “Tiểu nhân sạ phú tiện khi bần”(Kẻ tiểu nhân bỗng trở nên giàu có thì hay khi thị kẻ nghèo hèn). Trong đời có lắm người như thế.
    Xưa, vào thời Đông Châu (Tr.Hoa) có Ngô Khởi người nước Vệ, rất giỏi về việc cầm binh, được vua Tề gả công chúa, nhưng sau bỏ Tề đầu Lỗ. Ngô Khởi đành giết vợ để được vua Lỗ tin dùng và đặng lấy vợ khác là công chúa Lỗ Lâm. Tuy đánh Tề có công và được phong tước cao, song cũng không được Lỗ tin cậy. Túng thế phải bỏ Lỗ sang đầu Sở và sau cùng bị chết ở Sở, khi nước nầy có loạn. Cổ thi có câu:
    Kìa Ngô Khởi tấm gương còn đó,
    Giết vợ hiền chẳng rõ nhục vinh”.
    -Lại một hành động phản bạn của Bùi Kiệm và Trịnh Hâm trong tác phẩm Văn học Việt Nam (Lục Vân Tiên) của cụ Đồ Chiểu. Ngày nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc lại (trong bài Diệu pháp Quang minh):
    Được vinh hoa khinh bỉ kẻ hèn,
    Bạn phản bạn như người Bùi Kiệm.
    Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
    Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
    Nhìn Trịnh Hâm lão bắt mũi lòng,
    Than cặn kẽ kêu dân sớm tỉnh”.

    Ngược lại, cũng có những tầm gương tình bạn rất tốt, như: Lưu Bình, Dương Lễ và Tống Hoằng, đã chứng tỏ cho việc giàu không đổi bạn, sang không đổi vợ. (Xem thêm CT chữ Bố Kình, câu 11, Q.1).
    SÁCH MINH TÂM: Quyển sách viết bằng chữ Tàu, thâu lượm trong các sách thời xưa mà kết tập lại, nhan đề là “Minh Tâm Bửu Giám”. Có nghĩa: tấm gương quí báu, sáng sủa để soi tỏ lòng người. Giảng xưa có câu:Minh Tâm là sách Hớn đàng, Hiếu chỉ rõ ràng sao chẳng học coi ?”
    ĂN NĂN: (Xem CT đoạn 7, T-1, Bài Sứ Mạng).
    HÁO THẮNG: Thích tranh đua, muốn ra mặt hơn người, kiểu cách không khiêm nhượng.
    DIỆU LÝ: Diệu là tốt đẹp, sáng suốt, ngon ngọt, sạch sẽ, tinh tế, nhiệm mầu. Những đức tính ấy diễn tả không kể xiết, suy nghĩ cũng không cùng. Tức là cái lý của chơn tâm diệu minh. Diệu còn đối với thô trược, là thoát khỏi phiền não, ngũ dục của phàm phu, chứng đắc thánh quả (diệu quả). Lý là lẽ phải, không biến đổi, không sai chạy, là điều suy luận bằng tinh thần trí tuệ. Lý cũng là cảnh giới giác ngộ thuộc phần của tâm tánh; cho nên lý là đối với sự tướng.
    Vậy chữ diêu lý, nói cho đủ là “diệu huyền chơn lý”. Nghĩa gọn của nó là giáo lý mầu nhiệm chơn thật của Đạo. Nó chính là nghĩa của chữ “Niết Bàn diệu tâm”. Đức Giáo Chủ thường nói:Say câu diệu lý hỡi người ơi !”(Say). Và:
    Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.

    (Tỉnh bạn trần gian)

    CHÁNH VĂN
    811.-Trong Lục-Tỉnh ai là người trí,
    Mau thức thời tìm Đạo nhiệm-sâu.
    Khuyên dân đừng chia áo rẽ bâu,
    814.-Phải hợp tác gieo trồng giống quí.
    Coi rồi phải thân mình tự-trị,
    Chẳng độ xong Phật khó dắt-dìu.
    Thả thuyền Từ bến Giác nâng-niu,
    818.-Kẻ hiểu Đạo mau mau bước xuống.
    Việc trải qua như mây gió cuốn,
    Nhìn cuộc đời ngày tháng thoi đưa.
    Trời sáng ra kế lại thấy trưa,
    822.-Năm cũ đó rồi qua năm mới.
    Mười hai tháng mà còn mau tới,
    Thì tuồng đời cũng chóng đổi thay.
    Chữ phù-vân phú-quí nay mai,
    826.-Luân với chuyển dời qua đổi lại.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 811 đến câu 826)
    -Đức Giáo Chủ kêu gọi khắp sáu tỉnh miền Nam, ai là người trí thức hãy sớm biết thời cơ, suy tầm lẽ cao sâu, mầu nhiệm trong Đạo lý. Toàn dân nên quay về nẻo Đạo, thương yêu đoàn kết lẫn nhau trong công cuộc gieo trồng giống thiện.
    -Song ai muốn cho sự tu hành được kết quả như ý thì khi xem đến kệ kinh phải tự sửa trị các điều sái quấy của thân, khẩu, ý. Có đặng vậy mới mong được sự tiếp độ của chư Phật; bằng ngược lại, ắt khó đặng sự gia hộ của tha lực. Con thuyền từ bi (Đạo) của Đức Giáo Chủ, lúc nào cũng chực rước chúng sanh đưa sang bờ giác. Vậy ai là người có duyên lành và thông hiểu Đạo pháp hãy sớm hành y theo lời chỉ giáo của Ngài. Ấy là người đã được đứng trên thuyền từ, nhứt định sớm muộn gì cũng đến bờ bên kia (giác ngạn).
    -Xét lại cuộc đời thay đổi như làn mây trước gió, ngày giờ, năm tháng trôi qua, qua mãi không dừng và rất lẹ như thoi đưa. Từ năm cũ sang năm mới nào khác bóng ngựa qua song cửa.
    -Trong mười hai tháng mà còn xem lẹ như chớp mắt, thì sự vinh nhục của tuồng đời cũng chóng tợ sao băng. Đến như cảnh giàu sang phú quí và gia tài, sự nghiệp cũng thay đổi từ tay người nầy sang người khác, rất mau lẹ như gió thoảng mây bay.

    CHÚ THÍCH

    LỤC TỈNH: (Xem CT câu 56, T-1, Q.1).
    HỢP TÁC: Góp sức cùng làm chung với nhau một việc gì.
    GIỐNG QUÍ: Giống Bồ Đề, tức là giống giác ngộ, cũng gọi là giống Đạo. Đức Thầy từng nói:
    “Chí toan gieo giống Bồ Đề,
    Kiếm người lương thiện dắt về Tây phang
    .
    (K/thiện)
    -Lúc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền phó chánh Pháp cho Lục Tổ Huệ Năng, Ngài có kệ rằng:
    Hữu tình lai hạ chưởng,
    Nhơn địa quả hườn sanh.
    Vô tình diệc vô chưởng,
    Vô tánh diệc vô sanh”.

    -Đại ý nói: Kẻ hữu tình gieo trồng hạt giống thì nhân đó phải nhờ nơi đất, quả mới phát sanh. Còn là vô tình thì hạt giống đã không gieo tất nhiên nó không có tính và cũng không có cái gì để phát sinh ra nữa.
    TỰ TRỊ: Mình tự trừng trị những điều tội ác nơi thân tâm của mình, đừng cho phát sanh ra nữa. Đây là cách tu tự lực (Thiền Tông), trước kia do mình tạo tội, bây giờ cũng tự mình chừa bỏ; trước do mình mê đắm trần ai sanh tử, giờ cũng tự mình tỏ ngộ giải thoát.
    THUYỀN TỪ: Nói cho đủ là Thuyền Từ Bi. Cũng gọi là thuyền Đạo. Ý nói vì lòng Từ bi, Đức Thầy mới khai truyền Đại Đạo để cứu chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử. Cho nên Đạo pháp ví như chiếc thuyền, có diệu năng đưa hành giả rời bờ mê, sang bến giác, như Ngài từng nói:
    Thuyền từ bi thẳng cánh lướt sang,
    Qua Đông độ vớt người hữu đức.”

    (Diệu pháp QM)
    BẾN GIÁC: Do chữ “Giác ngạn”, tức bờ giải thoát của Phật. Đối với bờ mê (mê tân), bờ mê khổ của chúng sanh đang ở. Đức Thầy có câu (trong “Để chơn đất Bắc”):
    Bến giác bờ mê, mê phải tránh,
    Ly biệt hồng trần hỡi ai ơi !”.

    NÂNG NIU: Săn sóc vỗ về, cưng dưỡng. Ý nói Đức Thầy dùng thuyền Đạo rước đưa chúng sanh sang qua cõi Phật (giác ngạn).
    PHÙ VÂN PHÚ QUÍ: Do thành ngữ “Phú quí như phù vân”. Có nghĩa giàu sang quyền tước như đám mây nổi, mới họp kế tan, thấy đó rồi mất đó, không bền chắc lâu dài. Đức Giáo Chủ đã từng nói:“Vinh hoa phú quí chòm mây bạc.(Hai mươi chin tháng Chạp) Và Ngài cũng thường cảnh tỉnh người đời:“…họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác…rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quí, đi theo những vặt vụn, tiểu ti eo hẹp”.

    CHÁNH VĂN
    827.-Cõi Ta-Bà mấy ai tồn-tại,
    Sống dư trăm như tuổi lão Bành.
    Đời Hạ-Nguơn hay chết tuổi xanh,
    830.-Như thuở trước Nhan-Hồi còn trẻ.
    Miễn cho được ngày hai cơm tẻ,
    Buổi bần hàn đặng có tu thân.
    Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,
    834.-Xem chung cuộc Phong-Thần tại thế.
    Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ,
    836.-Thưởng những người trung-nghĩa vẹn toàn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 827 đến câu 836)
    Tất cả chúng sanh hiện sống trong cảnh trầm luân thống khổ, ít ai bảo tồn được sanh mạng lâu dài, như Bành Tổ xưa kia mà hầu đeo đắm lợi danh tài sắc. Hơn nữa, thời Hạ ngươn mạt pháp phần đông nhân loại bị chết lúc tuổi còn xuân như Nhan Hồi thuở trước.
    -Đã nhận được kiếp sống của con người quá ngắn ngủi, kẻ thức thời nên an phận thủ thường; vui sống với cảnh nghèo để tu thân lập hạnh:Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh”.(Bát chánh – Chánh Tư duy) Nếu ai hành trì như thế, sẽ được Trời Phật độ qua các tai nạn và đặng chứng kiến cảnh phong thần tại thế tới đây:Thời rõ việc phong thần trở lại”.(Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    -Cuộc phong thần ấy là một sự tuyển chọn rất công minh. Trời đất căn cứ vào nghiệp nhân của mỗi chúng sanh mà trừng trị kẻ tà gian hung ác, và ban thưởng cho những ai vẹn lòng hiếu trung tiết nghĩa Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu, Người tu niệm sống đời thượng cổ”.(Kệ Dân, Q.2)

    CHÚ THÍCH
    CÕI TA BÀ: (Xem CT câu 183, T-2, Q.2).
    LÃO BÀNH: Cũng gọi là Bành Tổ. Căn cứ theo sách Ấu Học thì Lão Bành sống vào đời Đường Nghiêu (Tr.Hoa), tên thật là Tiền Kiên, con của Trưởng Lão Lục Chung. Tương truyền mẹ ông mang thai 12 năm, hôm nọ bỗng nhiên nứt hông bên hữu sanh ra 6 người con, mà Ông là người thứ ba.
    Thuở nhỏ Ông học rất thông minh, lớn lên được Vua Nghiêu phong làm quan trấn giữ đất Bành Thành. Ông sống tới 880 tuổi (cũng có sách chép Bành Tổ sống 800 hoặc 700 tuổi), có 49 người vợ và 54 người con. Do sự sống lâu nên người đương thời gọi Ông là Bành Tổ hay là Lão Bành.
    Ông làm quan rất liêm chính, hết lòng giúp đỡ lương dân. Tuy làm quan, song Ông thường tìm nơi thanh tịnh, di dưỡng tánh tình, không hề để cho lợi danh chi phối. Ông phò luôn cả bốn triều vua: Đường, Ngu, Hạ, Thương.
    Đức Thầy nhắc chuyện trên, ý muốn nói ở đời mấy ai sống được lâu như Bành Tổ mà mong hưởng danh lợi:
    “Mấy ai trăm tuổi ở đời,
    Được như Bành Tổ mà rời lợi danh”.

    (Viếng làng Phú An)
    ĐỜI HẠ NGƯƠN: (Xem CT đoạn 5, T-1, Bài Sứ Mạng)
    NHAN HỒI: Cũng gọi là Nhan Uyên, Nhan Tử hay Tử Uyên, sanh tại nước Lỗ, thời Đông Châu (Tr.Hoa), khoảng 514-483 trước Tây Lịch.
    Ông là học trò của Đức Khổng Tử, bản tánh thông minh và hiếu học, hỏi một thì luận ra tới mười. Ông có tiếng là người đức hạnh và không bao giờ ông phạm lỗi hai lần. Nhà Ông nghèo, chỗ ở chật hẹp, ăn uống khắc khổ, một giỏ cơm, một bầu nước lã; theo người khác đã không chịu nổi, nhưng ông vẫn vui vẻ và an phận như thường (tri túc thường lạc).
    Khổng Tử thường nói:Từ ngày có Nhan Hồi, học trò ta càng đông. Và Ngài từng khen ngợi ông:“Anh ấy thật là người tốt, ăn cơm gạo sô, uống nước lã, ở nơi chật hẹp, nếu là người khác đã ngã lòng thối chí; thế mà vẫn an phận vui vẻ, thật là người đáng quí”.
    Năm Nhan Hồi 29 tuổi, tóc đã bạc hết và ông mất vào năm 31 tuổi. Đức Khổng Tử vô cùng thương xót, tiếc than !
    Lúc đầu Nhan Hồi được liệt vào hàng Thập nhị hiền triết trong Nho giáo, nhưng sau đặng xếp vào bậc Tứ Phối, kế Đức Khổng Tử và được tôn làm Phục Thánh.
    Đức Giáo Chủ nhắc tích Nhan Hồi là ý nói con người sanh thời ngươn Hạ hay bị chết lúc còn trẻ như Nhan Hồi vậy.
    BAN BỐ: (Xem CT câu 174, tập 1, Q.1).
    PHONG THẦN: Vua ban chức tước và cấp vàng bạc, đất vườn cho bầy tôi trung nghĩa có công. Phong Thần còn có nghĩa phong tặng chức phận cho các vị Thần Thánh.
    Trong truyện Phong Thần có kể rằng: Vào thời Mạt Thương, sắp chuyển sang nhà Châu, chư Tiên có hội nghị, lập bảng Phong Thần. Giao trọng trách cho Ngươn Thỉ Thiên Tôn, truyền lịnh cho học trò là Khương Thượng Tử Nha, xuống giúp nhà Châu, hưng binh phạt Trụ và dựng đài Phong Thần. Các trận chiến trong cuộc diệt Trụ hưng Châu, những người chưa đủ phước đức để chứng quả Phật Tiên hoặc sống hưởng cuộc thái bình, thì bị chết hồn bay vào đó. Chờ xong việc, Khương Thượng y theo danh sách đã lập sẵn, gọi từng tên các hồn ấy ra mà phong đặt địa vị. Kế đó Võ Vương ban thưởng chức vụ và cấp đất cho các quan viên tướng sĩ có công trận.
    Đức Giáo Chủ cho biết cuộc Phong Thần tại thế tới đây, tức là việc chọn lọc hiền còn dữ mất để lập lại cảnh đời Thượng ngươn an lạc:
    Như thuở xưa trời sắp cuộc Phong Thần,
    Diệt kẻ quấy lọc lừa dân lương thiện”.

    (Không buồn ngủ)
    TRUNG NGHĨA: Trung hiếu tiết nghĩa. Đức Thầy có câu:“Gương trung nghĩa Thánh Thần cảm động”.(Tặng Đoàn thanh niên ái quốc)


    CHÁNH VĂN (Từ câu 837 tới câu 846)
    837.-Ra Kệ này hai chữ bảo-an,
    Cho trần-thế được tâm thanh-tịnh.
    Ngọc báu quí ẩn trong Nam-đỉnh,
    840.-Muốn tìm kim đáy biển gắng công.
    Thấy dân tình luống những ước-mong,
    Gặp giống tốt hãy mau cày cấy.
    Ai có nói Ta là người quấy,
    844.-Ta cũng cam bụng chịu tiếng lời.
    Tỏ ít câu cầu chúc cho đời,
    846.-Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát.

    NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 837 đến câu 846, hết)
    -Sắp chấm dứt quyển “Giác Mê Tâm Kệ” Đức Giáo Chủ bảo: Trong đây có đủ phương pháp giúp cho mọi người gìn giữ kiếp sống được an lành. Nhứt là về mặt tâm trí, nếu ai biết tu sửa đúng theo lời dạy của Ngài tức được bình tịnh sáng mầu. Ngài còn mách cho khách trần hiểu rõ, biết bao ngọc ngà châu báu còn ẩn dấu trong dãy Thất Sơn tại miền Nam đất Việt:
    Trên năm non rồng phụng tốt tươi,
    Miền bảy núi mà sau báu quí
    .
    (Kệ Dân, Q.2)
    Vậy ai muốn đặng thừa hưởng cảnh ấy, cần gắng công bền chí tu sửa thân tâm cho được trọn lành trọn sáng. Cũng như kẻ bòn vàng phải lặn xuống biển sâu, đãi từng rổ bùn, lượm từng mảnh vụn rồi đem nấu lọc mới thành khối vàng y, tốt đẹp:Tu như lọc cát thành vàng, Việc đâu phải dễ chớ toan ngã lòng.(Lời Vàng Trong Mộng của Thanh Sĩ)
    -Mỗi khi nghe nhắc đến điều quí báu nói trên thì ai cũng mong ước đặng gặp, đó là tâm trạng chung của bá tánh. Song kẻ nào muốn được cái ân huệ tốt lành ấy, điều thực tế là ngay bây giờ ta hãy gieo trồng hạt giống Đạo mầu đi. Và trên con đường khai hóa nhân sanh, dù đời có lắm tiếng gièm pha chế nhạo, Đức Thầy cũng cam lòng !
    -Sau cùng là Ngài có lời cầu chúc cho khắp vạn dân sớm hồi tâm hướng thiện “Giải thoát mê ly”.
    Tóm lại, chủ đích của quyển “Giác Mê Tâm Kệ” là Đức Thầy dùng trí tuệ siêu mầu khai vạch một lối đi, và đưa nhiều phương tiện, để giúp hành giả tiến thẳng qua bờ giác với sức tự lực của chính mình (Thiền tông). Hay nói cách khác là Trực nhận nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”.

    CHÚ THÍCH
    BẢO AN: Giữ gìn và đem lại sự yên lành tốt đẹp.
    THANH TỊNH: Cũng gọi là tịnh thanh hay thanh tĩnh. Có nghĩa: yên lặng trong sạch, không còn phiền não, vọng niệm, thô ác. Thanh tịnh cũng chỉ cho cõi vô vi Niết Bàn. Vậy tâm thanh tịnh là lòng bình lặng trong sáng. Trong A Hàm Kinh. Phật dạy rằng:Thanh tịnh tâm thoát dâm, nộ, si, thành tựu ư tam minh.(Người tu hành tâm được thanh tịnh, mới diệt được lòng dâm dục, sân hận, mê si; lại còn thành tựu ba điều thông suốt: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tân minh).
    Trong loạt bài “Những câu chú thường Niệm” Đức Thầy có dịch:
    Đắc được thân tâm thanh tịnh lạc,
    Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp mê linh”.

    Hoặc là:
    “Trổi bước tìm cuộc vô sanh,
    Đến nơi sang suốt tịnh thanh Niết Bàn”.

    NAM ĐỈNH: Đỉnh núi ở miền Nam nước ViệtNam. Đây ý chỉ cho miền Thất sơn (Châu Đốc).
    MUỐN TÌM KIM ĐÁY BIỂN GẮNG CÔNG: Câu nầy có ý nói người muốn tìm vàng thì phải thì phải xuống đáy biển xúc từ rổ bùn lên mà đãi mới được, còn kẻ tu hành có dày công cực khổ mới mong thành Đạo giải thoát, kiến diện Phật tâm:Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.(Sám Giảng Q.3)
    Xưa, Đức Phật từng nói:Hết ngày nầy sang qua ngày khác, hết giờ nọ sang giờ kia, anh thợ vàng phải tốn nhiều công phu mới lọc ra được vàng ròng, người tu muốn cho thân tâm mình trở nên trong sạch cũng phải cố gắng khó nhọc rèn luyện như thế.(Pháp cú)
    TIẾNG LỜI: Lời ra tiếng vào. Ý nói chê bai gièm siểm đủ cách. Đây chỉ cho người đời, thường dùng lời tiếng thị phi chê cười ngạo nghễ kẻ tu hành. Đức Thầy hằng thốt:
    Thêm nhiều tiếng thấp cao nhẹ nặng,
    Làm cho người tu tỉnh phải xót xa”.

    (Trao lời cùng Ô.Táo)
    Nhưng đối với Ngài thì:
    “Mặc tình tiếng nọ lời kia,
    Chẳng màng thế sự đặt bia nhiều lời

    (Viếng làng Phú An)
    GIẢI THOÁT: (Xem CT câu 117, T-3, Q.2 (?))
     
    Sửa lần cuối: 16/1/15

Chia sẻ trang này