Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ “SẤM GIẢNG”(quyển ba) Của Cư Sĩ Thiện Tâm

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 15/1/15.

  1. Buile

    Buile Member


    Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ “SẤM GIẢNG
    (Quyển Ba)
    Của Cư Sĩ Thiện Tâm

    XUẤT XỨ - VĂN THỂ

    Đây là quyển thứ ba, trích trong phần thứ nhứt THI VĂN GIÁO LÝ TOÀN BỘ, do Đức Thầy sáng tác vào cuối mùa Thu năm Kỷ Mão (1939) lúc Ngài còn ở Tổ Đình Thánh địa Hòa Hảo.
    Ngài viết theo điệu văn vần, thể Lục bát, loại thuyết giáo, dài 612 câu. Khởi đầu bằng câu:“Ngồi trên đảnh núi liên đài.” Và chấm dứt bởi câu:“Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan”.

    TIỂU SỬ

    (Xem Lược sử Đức Huỳnh Giáo Chủ, trang…tập 1, Quyển Thượng cũng trong bộ Chú giải nầy).

    NỘI DUNG

    Sám Giảng Quyển Ba, phần nhiều Đức Thầy dạy các phương cách tu tròn Nhân Đạo vẹn đáp Tứ Ân đẻ trả xong nợ thế…Ngài khuyên các môn đồ trong Tam Giáo nên bãi bỏ những nghi lễ thờ cúng rườm rà đượm mùi mê tín; thức tỉnh các Thầy lễ, Nhưn bông, Phù thủy sớm quay về với vô vi chánh Đạo. Ngài còn kêu gọi hạng thanh niên nam nữ đang tập tành những thói hư tật xấu, do nền văn minh vật chất của Âu Tây cám dỗ, sớm trở về với nếp sống thuần phong mỹ tục của nước nhà.

    BỐ CỤC

    Sám Giảng Quyển Ba gồm có 3 phần chánh và 41 tiểu đoạn:
    I - Phần Nhứt, là đoạn khai đề: Đức Thầy cho biết trước khi lâm phàm có thời gian Ngài tu thân tầm Đạo tại Lan Thiên, là một vị trí trên đỉnh núi Tà Lơn. Từ câu 1:Ngồi trên đảnh núi Liên đàitới câu 10:“Bồng Lai một cõi hữu danh chữ đề”.
    II - Phần Nhì, cũng là phần chánh đề, Ngài tiếp tục báo tin những tai nạn binh đao nước lửa sắp xảy đến cho nhân loại. Cơ chọn lọc hiền còn dữ mất qua hai Đại hội: Long Hoa và Long vân. Sau đó, người hiền đức sẽ sum hiệp trong cảnh huy hoàng an lạc của đời Thượng ngươn Thánh đức. Ngài còn khuyên dạy mọi người nên tu tròn Nhơn Đạo, giác tỉnh những kẻ hành nghề Đông Tây y, các phù thủy lên cốt, lên đồng, các Thầy lễ, thầy cúng hãy bãi bỏ những tập tục dị đoan, mê tín và bài trừ các tệ đoan xã hội để lo gìn giữ thuần phong mỹ tục của nước nhà. Từ câu 11:Kể từ Tiên cảnh ta về tới câu 596:Đất khô nảy mục rõ lòng hiếu nhi”.
    III - Phần Ba, cũng là đoạn kết đề. Ngài dạy: là người tu hành, dù ai có nhạo chê phỉ báng ta cũng kiên tâm nhẫn nhục. Đức Phật Thầy thương xót chúng sanh như tình mẹ thương con, mong sao tất cả đều ghi nhớ lời dạy của các Ngài để lo tu thân hành Đạo hầu sau nầy được diện kiến Phật Tiên và chứng thành Đạo quả. Từ câu 597:Mặc ai nhạo báng khinh khitới câu 612:Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan”.

    CHỦ ĐÍCH

    Đức Thầy cảnh tỉnh các giới tu hành trong Tam Giáo đã sai lệch chân truyền nên sớm trở về chân lý của Đạo và Ngài cũng giáo huấn phần nhiều về Nhân Đạo.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 01 đến câu 72)
    1.-Ngồi trên đảnh núi liên đài,
    Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời.
    Lan-thiên một cõi xa chơi,
    4.-Non cao đảnh thượng thảnh-thơi vô cùng.
    Hiu hiu gió thổi lạnh-lùng,
    Phất-phơ liễu yếu lạnh-lùng tòng mai.
    Mùa xuân hứng cảnh lầu đài,
    8.-Lúc còn xác thịt thi tài hùng-anh.
    Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh,
    10.-Bồng-Lai một cõi hữu danh chữ đề.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 tới câu 10)
    Mở đề cho quyển “Sấm Giảng” Đức Giáo Chủ kể lại, trên đường tầm Đạo cứu đời, Ngài đã dừng chân tại “Lan Thiên”- một vị trí trên núi Tà Lơn - để trau giồi tâm trí cho đến khi thành quả.
    Nhân một buổi nhàn du, Ngài nhẹ gót dạo quanh vùng Lan Thiên. Đây là một đỉnh núi cao vút, khiến tâm hồn Ngài lâng lâng, giao hòa cùng kiểng vật. Bỗng từ đâu cơn gió nhẹ đưa về, làm những cành liễu thướt tha, uốn lượn, màn sương thấm lạnh cả tòng mai, hoa kiểng. Hồi tưởng, cũng một mùa Xuân như hiện giờ, khi còn mang nhục thể, Ngài quyết tâm tầm Đạo cứu đời; và sau cuộc thi tài tại hội quần Tiên, Ngài được tuyển làm bậc Tiên Trưởng.
    -Kế nhìn ra xa, thấy bốn bề mây phủ lớp lớp như kết tụi màn che, rồi Ngài gật gù cảm nhận: Đây thật là một cảnh thanh thoát, đúng với danh tiếng “Non Bồng”.

    CHÚ THÍCH
    SẤM GIẢNG:(Xem Chú thích chữ SG trong tiêu đề Q.1)
    ĐẢNH: Cũng đọc là đỉnh. Có nghĩa: Chót vót, đỉnh đầu. Đỉnh cao hơn hết trong một ngọn núi.
    LIÊN ĐÀI: Đài sen. Đây chỉ cho một vồ đá cao nhất ở núi Tà Lơn, nơi Ông Cử Đa tu đắc Đạo.
    TẦM ĐẠO: Tìm kiếm Đạo lý. Tìm Đạo ở đây có nghĩa: cố tu hành cho đạt thông Đạo pháp (đắc Đạo). Đức Thầy có câu:Bác ái xả thân tầm Đạo chánh”.(Luận việc tu hành)
    MỘT MAI: Mai sau hay sau nầy. Đức Thầy có câu:“Một mai dạo được Tây Đông”. (Từ giã làng Nhơn Nghĩa).
    LAN THIÊN: Là một trong nhiều vị trí trên núi Tà Lơn, như Long Thoàn (Long Thuyền), Tứ Giao Điện…
    PHẤT PHƠ: Cũng gọi là phấp phơ: tức lá liễu bị gió đưa qua đưa lại.
    LIỄU YẾU: Loại cây cành mềm, lá nhỏ, cánh dài buông rũ xuống thướt tha. Truyện Kiều có câu:“Lơ thơ tơ liễu buông mành”.
    TÒNG: Cũng gọi là Tùng (thông).Tùng có hai loại : 1- Loại cây thấp người ta trồng làm kiểng.
    2- Loại cây cao, ruột chắc, bốn mùa lá nó vẫn xanh, không thay đổi. Nghĩa bóng: chỉ người có sức chịu đựng và hay che chở kẻ yếu kém.
    Đức Thầy từng viết:
    Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương,
    Tìm Đạo lý hiến cho trần thế”.(Giác mê TK)
    Hoặc là:
    Chừng nào Thầy lại gia trung,
    Thì trong bổn đạo bóng tùng phủ che”.

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    MAI: Cây mai, loại kiểng có hoa vàng hoặc trắng, đỏ…Hoa vàng thường trổ vào mùa Xuân; hoa trắng, đỏ hay trổ theo bốn mùa (tứ quí).
    HÙNG ANH: Hùng là Vua các loài thú; Anh là Vua các loài hoa. Chỉ cho bậc tài giỏi xuất chúng, có chí khí hơn người. Ví dụ: Anh hùng hào kiệt. Đức Thầy có câu:“ Đứng anh hùng dựng nên thời thế”.(Nang thơ Cẩm tú)
    TỨ VI: Bốn phía chung quanh, bao vòng.
    NHIỄU ĐOANH: Mây nhiều có tia nhỏ buông phủ xuống, kết quanh núi Tà Lơn, nhìn như một bức tranh.
    BỒNG LAI: (Xem CT câu 192, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    11.-Kể từ Tiên cảnh Ta về,
    Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm.
    Dạo chơi tầm bực tri-âm,
    Nay vì thương chúng trần-gian phản hồi.
    Nghĩ mình trong sạch đã rồi,
    16.-Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
    Phong-trần tâm đã rời ra,
    Ngọc-Thanh là hiệu ai mà dám tranh.
    Ngày ra chơi chốn rừng xanh,
    20.-Tối về kinh kệ cửi canh mặc người.
    Xuống trần lỡ khóc lỡ cười,
    Ham vui đào mận vuông tròn chẳng xong.
    Chừng nào sấu nọ hoá long,
    24.-Trần-gian mới rõ tấm lòng Thần-Tiên.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 11 đến câu 24)
    -Sau khi được chứng quả Tiên Trưởng, Ngài từ cõi Tiên trở về, an trú tại Lan Thiên một thời gian, rồi Ngài ngao du các nơi để tìm kẻ đồng tâm hạp chí…Nay vì lòng thương xót chúng dân, nên Ngài trở lại cảnh trần khai nguồn Đại Đạo.
    Ngài hồi tưởng lúc còn ở non tiên, hưởng cảnh thanh nhàn tịch mịch, lòng chẳng còn vướng bận trần ai. Nay nhìn thấy lê dân mãi đắm say dục lạc, gây nghiệp trần mê, chẳng lo gìn tròn bổn phận của người hướng thiện. Ngài còn cho biết: đến lúc Sứ Mạng của Ngài hoàn thành thì khắp bá tánh, mới rõ được lòng Từ bi của chư Phật Thánh tiên.

    CHÚ THÍCH
    TRI ÂM: (Xem CT câu 819, T-1, Q.1).
    PHẢN HỒI: Trở lại.
    ĐÀO TIÊN: Đào trồng ở cõi Tiên; tương truyền người được ăn vào sẽ sống lâu và thành Tiên. Ở đây ý nói ông Cử Đa khi đắc Đạo được thưởng Đào tiên.
    PHONG TRẦN: Phong là gió; trần là bụi, ý chỉ cõi đời đầy gió bụi, gian lao vất vả. Truyện Kiều có câu:“Đã đày vào kiếp phong trần”. Cung Oán cũng nói:“Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy”. Đức Thầy nay từng giác tỉnh:
    “Gây ra lắm nợ phong trần,
    Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

    (Cho Ô. Cò Tàu Hảo)
    NGỌC THANH: Đạo hiệu một trong ba Ông Đệ tử lớn (tớ) của Đức Phật Thầy Tây An.(Xem CT câu 75, T-1, Q.1).
    CỬI CANH: Cũng đọc là canh cửi, việc quay sợi dệt vải. Ca dao có câu:“Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa”, nghĩa rộng là chỉ cho sự lo tính làm ăn tranh danh, đoạt lợi,
    ĐÀO MẬN: Đào và Mận là hai loại cây có hoa đẹp, trái ngon. Chữ đào mận ở đây Đức Thầy muốn nói đến sự ăn chơi trụy lạc ham vui tình ái của người đời, do thành ngữ “Bẻ mận hái đào”, Ngài thường cảnh giác:
    “Ham vui đào mận chẳng xong rồi,
    Trung hiếu giữ gìn phận con tôi”.

    (Để chơn đất Bắc)
    CHỪNG NÀO SẤU NỌ HÓA LONG: Sấu trở thành rồng. Ý chỉ cho công việc đến lúc thành công (việc tu hành cũng thế). Đức Thầy có câu:Thần Tiên hiệp mặt thì Cù hóa long”.(Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    TRẦN GIAN: Trần là bụi; gian là khoảng giữa cõi đời. Trần gian là nơi con người phàm tục ở đầy gian lao khổ nhọc. Đức Thầy bảo:Trần gian khói lửa với đao binh”.(Tỉnh bạn trần gian). Đây chỉ cho mọi người trong thế gian.
    THẦN TIÊN: Thần, gồm có 3 bực: 1. Phật Thần hay Tiên Thần, chỉ hạng người tu gần chứng quả Phật. 2. Thánh Thần: là những người Trung quân ái quốc, sau khi lâm chung được chứng đắc. 3. Quỉ Thần: là hạng Thần còn ăn đồ cúng kiếng, như thần A Tu La (tà thần).
    TIÊN: Phạn ngữ: Rhshi. Cũng gọi là Tiên nhơn, tức là những người tu hành ở non núi. Không còn bận việc đời, thảnh thơi, ngoài cảnh tục, nhưng còn một vài vi tế phiền não ràng buộc chưa tròn vẹn lục thông, có thể duy trì mạng sống ngàn muôn tuổi.
    Còn hạng Tiên mà người ta dịch ra ở chữ chư thiên,(Phạn; Deva) là những người ở thế gian có nhiều phước đức, khi thác được hóa sanh, lên các cõi trời dục giới, sắc giới hoặc vô sắc giới. Những hạng Tiên nầy đều được thân tướng đẹp đẽ sáng láng. Như Hoàng hậu Ma Da, sau khi sanh Thái tử Sĩ Đạt Ta bảy ngày thì được thác sanh về cõi Đao Lợi Thiên, tức từng Trời thứ nhì ở cõi dục giới. Đức Thầy có câu:
    Đức Hoàng Hậu đến ngày thứ bảy,
    Dứt nợ trần nên vội qui Tiên”.

    (K/thiện, Q.5)

    CHÁNH VĂN
    25.-Thương đời ta mượn bút nghiên,
    Thở-than ít tiếng giải phiền lòng son.
    Bắt đầu cha nọ lạc con,
    28.-Thân Nầy thương chúng hao mòn từ đây.
    Minh-Hoàng chưa ngự đài mây,
    Gẫm trong thế-sự còn đầy gian-truân.
    Đò đưa cứu kẻ trầm-luân,
    32.-Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi.
    Thảm-thương thế sự lắm ôi,
    Dẫy-đầy thê-thảm lắm hồi mê ly.
    Dạo chơi Lục-Tỉnh một khi,
    36.-Rước đưa người tục tu-trì xa khơi.
    No chiều rồi lại đói mơi,
    Dương-trần sắp vướng bịnh Trời từ đây.
    Khuyên trần sớm liệu bắp khoai,
    40.-Cháo rau đỡ dạ tháng ngày cho qua.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 25 đến câu 40)
    -Vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy dùng bút mực, sáng tác Sấm Kinh để thức tỉnh bá gia, sớm hồi tâm hướng thiện. Từ ngày Chúa tôi Thầy tớ cách xa, trong dân chúng phải chịu mòn hao dần dần.
    -Bởi hiện giờ Đức Minh Vương chưa an ngự tại Nam thành, khắp bá tánh còn phải truân chuyên thảm khổ, nên con thuyền Đại Đạo của Đức Thầy luôn rước đưa chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu ai biết nương về nẻo Đạo, sau nầy sẽ gặp Đức Thánh Vương và an hưởng muôn điều vinh hạnh, cùng giải thoát an vui.
    -Nhận thấy bá tánh sắp lâm cảnh sầu thảm, nên Đức Thầy cỡi thuyền dạo khắp sáu tỉnh miền Nam để khuyên bá tánh sớm tu hành xa rời bể khổ.
    -Sự nghèo đói tới tấp bên lưng, thêm nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, do luật Trời quyết định trừng phạt kẻ tà gian. Đức Thầy kêu gọi nếu ai muốn thoát khỏi tai vạ ấy, phải sớm “Cần kiệm sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất”.( Điều răn cấm thứ nhì) Và “Làm nhơn ái ắt tiêu bịnh tật”.(Kệ Dân, Q.2), chắc chắn sẽ được hạnh phúc vui tươi.

    CHÚ THÍCH
    BÚT NGHIÊN: Bút là cây viết. Nghiên là đồ dùng để mài mực đặng viết (thời xưa). Ý chỉ cho sự học hành hoặc sự nghiệp văn chương. Cổ thơ có câu:“Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Đức Thầy cũng từng nói:Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố trần”.(Viếng làng Phú An)
    LÒNG SON: (Xem CT câu 711, T-1, Q.1).
    MINH HOÀNG: Vị vua sáng suốt. Nghĩa như chữ Minh Vương. Đây chỉ cho vị cầm đầu đất nước, rất mực nhân từ, sáng suốt. Đức Thầy từng viết:“Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu, Lòng hiền đức nào ai có biết”.(Kệ Dân, Q.2)
    ĐÀI MÂY: Do chữ Vân đài, đài cao đến tận mây để trông thấy được xa. Ở đây Đức Thầy ám chỉ đến đài của đấng Minh Vương ngự, Ngài thường dạy:
    “Bớ dân chớ có say mê,
    Trung lương chánh trực dựa kề đài mây”.

    THẾ SỰ: Mọi sự việc trong đời.
    GIAN TRUÂN: Gian nan khổ sở, gặp nhiều chướng ngại không được hanh thông:“Đã nhiều lưu lạc, đã nhiều gian truân”.(Tr.Kiều)
    TRẦM LUÂN: (Xem CT câu 167, T-2, Q.2).
    VẬN ĐẾN: Gặp vận, thời cơ tốt xoay chuyển đến. Đức Thầy có câu:
    “Ngóng trông chờ vận thời đưa đến,
    Đặng chung cùng một tiệc quỳnh tương”.

    (Nang thơ Cẩm tú)
    THÊ THẢM: Buồn rầu đau xót.
    MÊ LY: Say mê đắm đuối theo một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Đây chỉ cho sự mê luyến cõi hồng trần.
    LỤC TỈNH: (Xem CT câu 56, T-1, Q.1).
    TU TRÌ: (Xem CT câu 36, T-1, Q.1).
    XA KHƠI: Xa mé bờ, giữa khoảng trời nước mênh mông. Đức Thầy có câu:
    Con thuyền Bát Nhã xa khơi,
    Dầu cho sóng gió rã rời cũng cam”.

    (Cảm tác)
    BỊNH TRỜI: Bịnh ói ỉa, ban trái…do Trời sai quỉ thần răn phạt những chúng sanh hung ác, ai mắc phải không tài nào chữa trị. Đức Thầy thường cho biết:Tam Thiên lục bá khắp tràng hại dân”.(Thiên lý ca) và:Trời mở cửa quỉ Vương xuống thế(Giác mê, Q.4),hoặc là:
    “Hội công đồng xem xét hẳn hòi,
    Sai chư tướng xuống răn trần thế.
    Đau nhiều chứng dị kỳ khó kể,
    Sắp từ nay lao khổ đến cùng”.
    (Kệ Dân, Q.2)

    CHÁNH VĂN
    41.-Nhắn cùng bổn đạo gần xa,
    Tu hành trì chí mới là liễu mai.
    Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,
    44.-Đặng coi Tiên-Thánh lầu-đài quốc-vương.
    Niệm Phật nào đợi mùi hương,
    Miễn tâm thành-kính tòa-chương cũng gần.
    Lao-xao bể Bắc non Tần,
    48.-Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.
    Tranh phân cho rõ tài ba,
    Cùng nhau giành-giựt mới là thây phơi.
    Khổ-lao đà sắp đến nơi,
    52.-Thế-gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
    Dầu cho có ở xa-xăm,
    Cũng là rán tới viếng thăm dương-trần.
    Ngũ-Hành cùng các chư Thần,
    56.-Từ đây sắp đến xuống gần chúng-sanh.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 41 đến câu 56)
    -Đức Thầy nhắn nhủ khắp bổn đạo, bước tu hành ai có kiên tâm bền chí, mới mong kết quả, hằng ngày thường cầu nguyện cho vạn dân vượt qua các tai nạn, hầu sau nầy đặng thấy đền vàng điện ngọc và:“Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc”.(Không buồn ngủ)
    -Còn sự niệm Phật không luận có đèn nhang hay thời khắc, mà lúc nào cũng vẫn trì niệm;“Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng chấp”.(Kệ Dân, Q.2), và phải thành tâm khẩn thiết, đừng để một vọng tưởng nào xen tạp, tất được dựa kề Phật Thánh.
    -Đức Thầy còn cho biết thêm: Vì quá tham của báu, nên sau nầy vạn quốc sẽ mở cuộc chiến tranh tại biển Bắc non Tần, diễn nên cảnh núi xương sông máu, vô cùng thảm khốc:
    Sấm vang thì lộ bảng vàng,
    Chư nhu thế giới khắp tràng đến thi.
    Chữ thi gần chữ sầu bi,
    Bị ham của báu ly kỳ máu rơi”.

    (Thiên lý ca)
    -Những tai nạn khổ đau về bịnh tật, sẽ xảy đến với chúng sanh không còn xa lắm, nên Đức Thầy khuyên mọi người: Từ đây chẳng nên kêu réo Thần Thánh hay ngũ hành mà sai khiến, hoặc trù rủa một ai. Bởi vì các vị ấy, tuy ở cõi siêu hình xa cách, nhưng nay vì có lịnh Trời sai xuống trần gian, để răn phạt những kẻ vi phạm khẩu nghiệp, hoặc các tội ác khác. Nếu những ai trù rủa hoặc mời mọc đến, tức tự chuốc lấy bịnh khổ cho gia đình thân tộc.

    CHÚ THÍCH
    TRÌ CHÍ: (Xem CT câu 116, T-2, Q.2).
    LIỄU MAI: (Xem CT câu 6, T-3, Q.3). Chữ Liễu mai ở đây, có nghĩa là thấu đạt cơ huyền của Đạo Pháp, hoặc chỉ cho sự tu hành khi được kết quả.
    LẦU ĐÀI QUỐC VƯƠNG: Đền đài lầu các của đất nước Việt Nam sau nầy.
    TÒA CHƯƠNG: Tòa là chỗ ngồi hay ngai vị tôn nghiêm; Chương là một loại ngọc quí, là chỗ an tọa của vị vua hay Đức Ngọc Đế. Đây chỉ cho ngôi vị quí báu. Đức Thầy có nói:
    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

    (Giác Mê, Q.4)
    BỂ BẮC: Biển Bắc, chỉ từ vịnh Bắc kỳ thẳng tới Thái Bình Dương.
    NON TẦN: (Xem CT câu 716, T-1, Q.1).
    QUÂN PHIÊN: Chỉ cho quân đội của ngoại bang.
    CÕI ÂM: Cõi siêu hình, cõi của các thần linh (A Tu La) ở. Đức Thầy có câu trong “Nang thơ cẩm tú”:
    Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
    Chờ mãn phước ra tay bẻ họng”.


    CHÁNH VĂN
    57.-Chuông kia treo sợi chỉ mành,
    Chẳng lo thân phận lo giành bướm ong.
    Hiếu-trung hãy liệu cho xong,
    60.-Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về.
    Bây giờ kẻ Sở người Tề,
    Hiền-lương đến Hội cũng kề với nhau.
    Phật Trời chẳng luận nghèo giàu,
    64.-Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên.
    Hữu phần thì cũng hữu duyên,
    Sửa tâm hiền đức cõi Tiên cũng gần.
    Ta mang mình thịt xác trần,
    68.-Ra tay dắt chúng được gần Bồng-Lai.
    Mai sau nhiều cuộc đất cày,
    Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.
    Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
    72.-Đặng coi hiền-đức được là bao nhiêu.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 57 đến câu 72)
    -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết: Cuộc đời quá mỏng manh, ví như chỉ mành treo chuông, chẳng biết ngày nào đây nó phải rụng nát; thế mà chúng sanh chẳng sớm tu thân lập hạnh, cứ mãi lo ăn chơi trụy lạc. Cho nên, Ngài kêu gọi vạn dân, hãy vẹn gìn trung hiếu, để sau nầy được kiến diện đấng Thánh vương đời Ngươn thượng:
    “Lo bổn phận thảo ngay trọn vẹn,
    Chừng lập đời khỏi thẹn tấm thân”.

    (Vọng Bắc hòa Nam)
    -Tuy ngày nay Chúa tôi, Thầy tớ còn xa cách, nhưng nếu ai biết cư xử đúng lẽ nhơn hiền, sau nầy cũng được hiệp hòa:Hiền lành chừng đó sum vầy, Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi”.(Sám Giảng, Q.3)
    -Lòng Phật Trời lúc nào cũng bình đẳng trong việc tiếp độ chúng sanh, không luận sang hèn hay lớn nhỏ, nếu ai có nhiều phước đức, tất được vào dự hội quần Tiên:“Phước nhiều Tiên cảnh lên rày, Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê”.(K/Thiện, Q.5)
    -Sống giữa thời mạt pháp, chúng ta may mắn sanh được thân người, lại hữu duyên gặp đặng Phật pháp (Nhơn thân nan đắc, kim dĩ đắc; Phật pháp nan văn, kim dĩ văn). Đã hữu phần mà lại hữu duyên, thật có chi quí báu cho bằng:“Rày mừng gặp đặng lúc ban ân, duyên trước ngày nay mới có phần”.(Cho Ô. Hương bộ Thạnh). Chúng ta chỉ cần lo làm lành lánh dữ, trau giồi tâm đức, sẽ được Đức Thầy dùng thuyền từ đưa đến nơi siêu thoát.
    -Ngài còn tiên tri sau nầy, sẽ có cuộc chiến tranh tàn khốc, nào cảnh bom cày đạn xéo, khiến vườn ruộng tan hoang, lầu đài hư đổ, nào cảnh chạy giặc:
    Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
    Tan nát xóm giềng khổ dữ a !
    Nhà không người ở, ôi ! nói trước,
    Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha”.

    (Để chơn đất Bắc)
    Và đến ngày hội Long Hoa, chư Phật Tiên sẽ chọn lọc những người hiền đức được sống còn để kiến tạo cảnh đời Thượng ngươn an lạc:
    Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi,
    Người hiền đức đặng phò chơn chúa”.

    (Kệ Dân, Q.2)

    CHÚ THÍCH
    THÂN PHẬN: Địa vị và phận sự của một con người. Đức Thầy từng dạy trong “Sám Giảng Q.3”:
    Ta là thân phận làm tôi,
    Phải đền phải đáp cho rồi mới hay”.

    BƯỚM ONG: (Xem CT câu 556, T-1, Q.1).
    HIẾU TRUNG: (Xem chữ “Thảo cha ngay chúa” câu 290, T-1, Q.1).
    KẺ SỞ NGƯỜI TỀ: Sở là tên một nước ở Trung Hoa vào thời Xuân Thu, tại trung HồBắc-Hồ Nam bây giờ. Tề cũng là một nước trước kia do Châu Võ Vương cắt phong cho Thái Công Lữ Vọng, sau đến thời Chiến Quốc Xuân Thu chia làm 7 nước: Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Tần. Hai nước Sở và Tề, tuy thuộc địa phận Trung Hoa nhưng cách nhau rất xa. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Những người hiền lương tuy hiện giờ còn xa cách, nhưng sau nầy cũng được hội hiệp:“Tuy ngày nay xa cách Sở Tề, Sau Thầy tớ gặp nhau Phật cảnh”.(Sa Đéc).
    HỮU PHẦN: Có phần, được phần may mắn.
    HỮU DUYÊN: Có căn duyên (tiền duyên), trái với vô duyên. Gặp gỡ nhau mà hợp ý với nhau gọi là có tiền duyên. Tục ngữ thường nói:“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”.(Có duyên ngàn dặm cũng gần, Không duyên dầu gặp mấy lần cũng xa). Về việc Đạo thì những ai có căn duyên với Phật pháp, khi gặp Phật hoặc giáo lý của Ngài liền kính tin hành thiện. Bằng vô duyên thì dầu Phật đứng trước mặt hay ở sát bên, cũng không hề tin nghe. Khế Kinh đã bảo:“Thuốc không trị được bịnh tới số, còn Phật chỉ độ những ai có duyên lành”.(Dược y bất tử bịnh, Phật hóa hữu duyên nhơn). Đức Thầy thường cho biết:
    “Duyên lành rõ được Khùng Điên,
    Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    HIỀN ĐỨC: Hiền là người có trí năng, hay làm việc thiện. Đức là có lòng nhân ái, hiếu Đạo, khoan hòa. Người hiền đức là người gồm đủ: Trí, nhân, hiếu, nghĩa. Đức Thầy có câu:
    Chim tìm cây mới gọi chim khôn,
    Người hiền đức mới là người trí”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    HỘI LONG HOA: Hội tuyển chọn người hiền lành, đạo đức, do pháp mầu của Phật lập ra. (Xem thêm phần CT, đoạn 4, T-1, bài Sứ Mạng).

    CHÁNH VĂN (Từ câu 73 đến câu 152)
    73.-Gian-tà hồn xác cũng tiêu,
    Thảm-thương bá-tánh chín chiều ruột đau.
    Mặc ai tranh luận thấp cao,
    76.-Thương trong lê thứ xáo-xào từ đây.
    Chinh chinh bóng xế về tây,
    Đoái nhìn trần-thế xác thây ê-hề.
    Thương trần Ta cũng rán thề,
    80.-Đặng cho bá-tánh liệu bề tu thân.
    Tu hành chẳng được đức ân,
    Thì Ta chẳng phải xác thân người đời.
    Phật truyền Ta dạy mấy lời,
    84.-Đặng cho trần-thế thức thời tu-thân.
    Nào là luân lý Tứ-Ân,
    Phải lo đền-đáp xác thân mới còn.
    Ai mà sửa đặng vuông tròn,
    88.-Long-Vân đến hội lầu son dựa kề.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 73 đến câu 88)
    -Căn cứ vào lý Tam ngươn thì cơ chọn lọc sẽ chấm dứt thời Hạ ngươn hạ để chuyển sang Thượng ngươn thượng; lúc đó chỉ còn tồn tại hạng người tốt đẹp thiện lương. Còn những kẻ gian tà xảo quyệt đều bị tiêu diệt cả hồn lẫn xác. Đức Thầy nhận biết tình cảnh thê thảm ấy mà xót thương cho bá tánh, dầu tiếng đời có bàn luận mỉa mai cũng mặc. Ngài luôn để tâm thương lo khắp dân chúng từ đây sẽ gặp cảnh chiến tranh loạn lạc.
    -Cuộc thế sắp đến ngày tàn cỗi, nhơn sanh phải chịu cảnh chết chóc dẫy đầy, muốn cứu nguy bá tánh chỉ còn có cách giác tỉnh họ quay đầu hướng thiện. Cho nên Ngài thệ quả quyết với chúng sanh: Nếu có một ai chuyên tâm hành Đạo mà không được thụ hưởng đức ân thì Ngài chẳng phải là con người trong vũ trụ. Xưa kia, Đức Phật cũng từng thệ trước đại chúng: “Hữu nhứt chúng sanh bất thành Phật quả, Ngã thệ bất thành Phật”.(Nếu có một chúng sanh nào tu hành mà không thành Phật thì Ta thệ không thành Phật). Và nay chư Phật đã sắc lịnh cho Đức Thầy khuyên dạy nhơn sanh được hiểu thời cơ, để họ sớm lo trau thân gìn Đạo.
    Trên bước đường tu hành, trước nhứt là phải cư xử, cho tròn Đạo làm người, đền đáp “Tứ đại Trọng ân”.Nếu ai“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo) thì ngày Hội Long Vân tới đây xác thể sẽ còn nguyên vẹn, để chung hưởng cảnh đền vàng điện ngọc, của đời Thượng ngươn Thánh đức.:
    Mấy người còn được xác thân,
    Thì là đài ngọc các lân dựa kề”.

    (S/Giảng Q.3)

    CHÚ THÍCH
    GIAN TÀ HỒN XÁC CŨNG TIÊU: Cơ chọn lọc cuối thời Hạ ngươn hạ, chuyển sang Thượng ngươn thượng, những kẻ tà gian hung ác đều bị luật đào thải diệt vong cả hồn lẫn xác. Bởi căn duyên và cách ăn ở của họ không hợp với thời Thánh đức ấy, nên phải bị:
    “…Hảm giam hồn xác chốn lao tù,
    Làm bùn làm đất làm cây đá,
    Trơ trọi giữa trời vạn kiếp tu”.

    Cuộc đọa lạc ấy diễn tiến qua các thời kỳ:
    1-Nhứt đạo linh hồn cư thủy: Trước hết linh hồn bị tiêu ra làm nước (hồn xác cũng tiêu). Khi đọa làm nước, vừa chịu cho người rửa giặt đồ dơ bẩn, vừa giúp cho bá tánh tắm và đỡ khát để trả nghiệp lần lần.
    2-Nhị đạo linh hồn cư thổ: Khi mãn thời kỳ làm nước, linh hồn chuyển sang làm đất, chịu cho người đời trồng tỉa, đi đứng hoặc xây cất nhà cửa, dinh thự…
    3-Tam đạo linh hồn cư kim thạch: Từ đất, linh hồn tiến lên làm cát, đá, sắt, chì…Để xác minh điều nầy, xưa Đức Phật chỉ tay vào bức tường mà nói:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”.(Vách, phên, ngói, đá đều có Phật tánh như nhau).
    4-Tứ đạo linh hồn cư thảo mộc: Từ sắt đá, linh hồn tiến lên: lúa, rau, cây, cỏ, giúp nhơn loại nhờ nhỏi, sanh sống.
    5-Ngũ đạo linh hồn cư sanh vật: Từ cây cỏ linh hồn tiến lên các loài động vật (thú)…Bằng chứng là các loại tro rơm, cỏ mục bỏ nơi ẩm thấp hay ngoài đồng nội, khi mưa xuống sanh ra các loài côn trùng, cá…hoặc từ rễ cây gáo vàng hóa thành lươn, lịch…(Đoạn nầy, xin các bậc cao minh vui lòng bổ chính !).
    6-Lục đạo linh hồn cư nhân thể: Từ sanh vật linh hồn tiến lên làm thân con người. Theo luật tuần hườn của lý tam ngươn, đến đây đáo lại thời Hạ ngươn Hạ, bởi căn tánh và nghiệp cảm của số linh hồn nói trên chỉ sống hợp với thời kỳ nầy mà thôi; chớ không thể sống hợp với thời Trung ngươn hay Thượng ngươn được, nếu họ không chịu tiến hóa.
    CHÍN CHIỀU RUỘT ĐAU: Đau xót tột độ và nhiều bề. Bởi lòng từ bi của Phật đối với chúng sanh như tình mẹ thương con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử). Nay Đức Thầy thấy chúng sanh lâm vào cảnh khổ mà Ngài thương yêu đau xót như thế. Ngài từng dạy:Phải nhớ rằng: ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ, thì ta cũng phải khổ vì họ vậy”.(Bát chánh: Chánh Tinh Tấn), và:Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.(Sa Đéc).
    Khi xưa, Đức Văn THù Sư Lợi đến thăm bịnh Ngài Duy Ma Cật và hỏi:
    - Bệnh cư sĩ nhơn đâu mà sanh, sanh đã bao lâu, phải thế nào mới mạnh được ?
    Ngài Duy Ma Cật đáp:
    - Bịnh tôi từ ái mà sanh. Vì tất cả chúng sanh bịnh, nên tôi bịnh. Nếu tất cả chúng sanh không bịnh thì bịnh tôi lành. Vì sao ? Bởi Bồ Tát vì chúng sanh mà vào đường sanh tử, hễ có sanh tử thì có bịnh, nếu chúng sanh khỏi bịnh thì Bồ Tát không có bịnh. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, hễ người con bịnh thì cha mẹ cũng bịnh, nếu bịnh của con lành, cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng thế ! Đối với tất cả chúng sanh, thương mến như con, nên chúng sanh bịnh, Bồ Tát cũng bịnh, chúng sanh lành, Bồ Tát cũng lành. - Ngài lại hỏi bịnh ấy nhơn đâu mà sanh? - Bồ Tát có bịnh là do lòng đại bi.
    Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng từng nói:
    “Xuống Bạc Liêu chưa bao nhiêu độ,
    Bỗng ruột tầm quằn quặn rứt đau.
    Phần thương dân phổi héo, gan xàu,
    Ngồi, đi, đứng, nằm lăn lóc mãi”.

    (Gởi Bác sĩ Cao Triều Lợi -Bạc Liêu)
    XÁO XÀO: (Xem CT câu 133, T-1, Q.1).
    TU THÂN : Sửa mình. Sửa bỏ những điều tội lỗi xấu xa: sát sanh, đạo tặc, tà dâm…và làm những điều lương thiện, tốt lành. Sách Đại Học dạy:“Tự Thiên tử dĩ chí u thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn”.(từ Vua quan cho đến thứ dân, ai nấy phải lấy sự sửa mình làm gốc). Đức Thầy hằng dạy:
    Tu thân thiện tín rán chuyên cần,
    Lục tự Di Đà giữ Tứ ân”.

    (Nhẫn đợi thời cơ)
    ĐỨC ÂN: Người biết làm lành, làm phải, có lòng tốt, thương người, mến vật và ăn ở đúng theo Đạo lý, thì được hưởng mọi điều phúc huệ, do Trời Phật ban cho. Đức Thầy đã cho biết:
    Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,
    Xem chung cuộc Phong Thần tại thế”.

    (Giác mê, Q.4)
    THỨC THỜI: Hiểu rõ thời thế.
    LUÂN LÝ: (Xem CT câu 383, T-2, Q.2)
    TỨ ÂN: Bốn điều ơn. Theo Kinh xưa, bốn ơn là: Ân Phụ Mẫu, Ân Quân Vương, Ân Tam bảo và Ân Chúng sanh. Nay vì muốn cho sự giáo hóa chúng sanh được thích hợp với trào lưu hiện đại, nên Tứ Ân theo Đức Thầy dạy có thay đổi một ít chữ như sau: Ân Tổ tiên Cha mẹ, Ân Đất nước, Ân Tam bảo, Ân Đồng bào và Nhơn loại. Kinh Phật có câu:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.(Trên đáp bốn ân lớn, dưới độ ba đường khổ). Đức Thầy nay luôn nhắc nhở:
    “Một câu quân lý tứ ân,
    Ta đừng phai lợt Phong thần bảng ghi”.

    (Để chơn đất Bắc)
    LONG VÂN: (Xem CT câu 62, T-1, Q.1).
    LẦU SON: Lầu đỏ, do chữ “Lầu son các tía”. Đây chỉ cho lầu đài quí báu sau nầy, do Phật Trời ban thưởng cho những người xong tròn Đạo lý, vẹn đáp tứ ân:
    Chừng Bảy núi lầu son lộ vẻ,
    Thì người già hóa trẻ dân ôi !”

    (Đáp lời Ô. Lương văn Tốt)

    CHÁNH VĂN

    89.-Thương đời văn-vật say mê,
    Làm điều gian-ác thảm-thê sau nầy.
    18.-Kể từ hầu hạ bên Thầy,
    92.-Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần.
    Tuy là nương dựa non Tần,
    Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam.
    19.-Qua sông nhờ được cầu Lam,
    96.-Tu hành nào đợi chùa am làm gì.
    Bây giờ bạc lộn với chì,
    Nữa sau lọc lại vít tì cũng chê.
    Bớ dân chớ có say mê,
    100.-Trung-lương chánh-trực dựa kề đài mây.
    20.-Mảng lo gây gổ tối ngày,
    Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền-lương.
    Thân Nầy ăn tuyết nằm sương,
    104.-Chẳng than chẳng thở vì thương thế-trần.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 89 đến câu 104)
    -Đức Thầy thảm thương cho người đời quá đam mê văn minh vật chất, gây nghiệp tà gian hung ác, mà phải gặt lấy quả đau khổ sau nầy. Hồi tưởng, lúc Ngài theo Đức Phật Thầy tu học Đạo Pháp, tại đỉnh núi Tà Lơn. Núi nầy tuy hiện giờ nằm trên địa phận nước Miên, nhưng sau nầy thời thế sẽ xoay chuyển trở thành của nước Việt Nam.
    -Ngài dùng điển ngữ Cầu Lam, ý dạy người muốn tu hành giải thoát, không luận phải tìm nơi chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, dù ở quán xá hay thôn dã, miễn ai có căn duyên và nhiệt tâm hành đạo là được.
    -Giờ đây số người thật giả, tà chánh còn đang lẫn lộn, song đến một ngày kia sự chọn lọc rất rõ ràng, dù còn vi phạm một lỗi nhỏ cũng không xài được:“Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả Đạo”.(Sa Đéc) Ngài còn kêu gọi dân chúng, chẳng nên đua theo làn sóng văn vật của Âu Tây, làm điều dua nịnh, cần giữ lòng ngay chánh, trọn nghĩa quốc dân, để ngày kia được hưởng mọi sự an nhàn nơi Tiên cảnh.
    -Ngài thấy trong lê thứ mãi lo giành giựt xâu xé lẫn nhau, chẳng chịu sớm hồi tâm hướng thiện, trau giồi trí đức. Phần Ngài trên đường châu du độ thế dầu phải lắm gian lao vất vả cũng chẳng hề than thở:Thân ta dầu lắm đoạn trường, Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”. (Cảm tác)

    CHÚ THÍCH
    VĂN VẬT: Sản vật của văn hóa, gồm có lễ vật và chế độ. Đây chỉ cho văn minh về vật chất, trái với văn minh tinh thần. Đức Thầy cho biết trong “Diệu pháp Quang minh”:
    Bởi vì đời văn vật cạnh tranh,
    Nên cấu xé cùng nhau thảm não”.

    ĐÀI MÂY: (Xem CT câu 29, T-2, Q.3).
    NON TẦN: Chỉ cho núi Tà Lơn, nơi ông Cử Đa (Ngọc Thanh) tu đắc Đạo. Vì theo cơ giảng thì Tần ám chỉ cho nước Miên, mà núi Tà Lơn nằm trên địa phận nước Miên, nên gọi là non Tần.
    CẦU LAM: Do chữ “Lam Kiều”, cây cầu bắc ngang dòng sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Tr.Hoa). Nơi đây, Bùi Hàng được gặp Vân Anh và sau thành Tiên. Do điển tích:
    Đời Đường (Tr.Hoa) có anh Bùi Hàng, trên đường đáp thuyền đi Tương Hán, bất ngờ được cùng đi chung thuyền với nàng Vân Kiều, người đẹp vào hàng quốc sắc. Hàng nhờ người hầu gái của Vân Kiều đưa thư hộ, nên được tiếp chuyện với Vân Kiều và được nàng tặng cho bài thơ:
    Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh,
    Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh.
    Lam Kiều tiện thị Thần Tiên quật,
    Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh”.

    (Uống rượu quỳnh tương trăm cảm sinh,
    Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh.
    Lam Kiều vốn thiệt nơi Tiên ở,
    Hà tất băng đường đến Ngọc Kinh).
    -Sau Bùi Hàng y như lời dặn trong thơ đến Lam Kiều, Hàng dừng chân nơi quán trọ bên vệ đường của một bà lão để giải khát. Con gái của bà lão bưng nước ra, Hàng trông thấy rất xinh đẹp bèn hỏi tên, rõ ra là Vân Anh, em ruột của Vân Kiều; Hàng xin bà lão được cưới nàng làm vợ. Lão bà bảo Hàng tìm được cối chày bằng ngọc đem lại, bà sẽ gả Vân Anh cho, khỏi cần vàng bạc chi hết. Nhờ lòng nhiệt thành, Hàng được thần tiên giúp đỡ và cưới được Vân Anh.
    -Lão bà liền chỉ cho Hàng về cách công phu tu tập và bảo Hàng dùng cối chày đó tán thuốc Tiên trọn ba tháng. Khi làm thuốc xong, cả ba người cùng uống, họ đều được thành Tiên hết.
    -Do điển tích trên đây mà các Kinh sách xưa nay cùng các nhà văn, thường dùng từ ngữ cầu Lam, hoặc Lam Kiều, để chỉ con đường đưa đến cảnh Tiên. Cổ thi có câu:“Trăm năm thề chẳng lòng phàm, Sông ngân đưa bạn, cầu Lam rước người”. Đức Thầy nay cũng bảo:
    “Lam Kiều hữu lộ vắng hoe,
    Ngục môn không cửa mà hè nhau đi”.

    (Để chơn đất Bắc)
    TRUNG LƯƠNG: Trung nghĩa và lương thiện. Xưa, Đường thế Dân (Tr.Hoa) xây đắp lăng của vợ (Hoàng Hậu) đẹp hơn lăng của mẹ (Hoàng Thái Hậu). Hôm nọ, vua Đường và Thừa tướng Huỳnh Trung viếng mộ, Vua có ý khoe lăng vợ mình đẹp hơn hết, Huỳnh Trung tâu:
    -Theo mắt của hạ thần, xem thấy lăng của Hoàng Thái Hậu sáng sủa hơn lăng của Hoàng Hậu. Nghe qua vua Đường hiểu ý…liền truyền lịnh hạ bớt vẻ đẹp lăng của vợ và cho xây lăng của mẹ cao tốt hơn trước. Sau đó, vua Đường vời Huỳnh Trung đến khen:
    -Khanh thật là người tôi trung thần của Trẩm !
    Huỳnh Trung liền tâu:
    -Xin Bệ hạ ban cho thần hai chữ: Lương Thần, chớ đừng gọi là Trung Thần.
    Ý muốn nói trung thần như Tỷ Cang, vì can vua Trụ bằng lời khẳng khái nên bị chết; chẳng những không được việc mà còn làm đất nước mất một tôi trung. Còn Huỳnh Trung biết dùng lời nhu hòa khéo léo can vua, chẳng những được vua Đường nghe theo lại còn ban khen nữa, nên gọi là tôi trung lương hay là lương thần. Vì thế ngày nay Đức Thầy thường nói:Tiết trung lương nghĩa khí rạng ngần”. và:Chữ anh tài của đấng trung lương”.(Nang thơ Cẩm tú)
    ĂN TUYẾT NẰM SƯƠNG: Vốn là một thành ngữ. Có nghĩa: sự ăn ngủ giữa trời đầy sương tuyết lạnh lẽo. Ý chỉ cho sự khó khăn vất vả của người đi đường:“Quản bao tháng đợi năm chờ, Những người ăn tuyết nằm sương xót thầm”.(truyện Kiều)
    Ở đây, ý toàn câu: Vì lòng từ bi nên bước đường dạy Đạo cứu dân của Đức Thầy, chẳng quản sự gian lao khổ khó.

    CHÁNH VĂN
    105.-Theo Thầy giảng dạy nhiều lần,
    Dương-gian nào biết thế-trần nào hay.
    Cầu cho dân khỏi nạn tai,
    108.-Qua nơi khổ-não mặc ai chê cười.
    Bạc đâu dám sánh vàng mười,
    U-mê mà lại chê cười Thần Tiên.
    Giã-từ sơn-lãnh lâm-tuyền,
    112.-Về đây hội hiệp sạ duyên tớ Thầy.
    Ở rừng bạn với cáo-cầy,
    Bây giờ xuống thế cáo-cầy lìa xa.
    Thiên-cơ biến đổi can qua,
    116.-Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần.
    Mau mau kíp kíp chuyên cần,
    Chúng sanh còn có lập thân hội này.
    Tuần-huờn Thiên-Địa đổi xây,
    120.-Cảm thương trần-hạ lòng Đây chẳng sờn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 105 đến câu 120)
    -Đoạn nầy ý nói ông Cử Đa đã nhiều lần theo Đức Phật Thầy châu du độ chúng, thế mà dương trần nào ai hay biết. Ngài hằng nguyện cầu cho khắp chúng dân, sớm thoát qua tai khổ, dầu ai có cười chê cũng mặc.
    -Giá trị của bạc không thể so với vàng, cũng như kẻ phàm nhân, làm sao thấu hiểu hành trạng của Phật Thánh, thế bảo làm sao mà họ chẳng cười cho được. Lão Tử đã nói: Bực Thượng sĩ nghe Đạo thì siêng sắng mà làm theo. Bực Trung sĩ nghe Đạo thì dường như còn như mất (nửa tin nửa ngờ, khi làm khi bỏ). Bực Hạ sĩ khi nghe Đạo thì cười lớn. Nếu họ chẳng cười thì không đủ gọi là Đạo. (Thượng sĩ văn Đạo cần nhi hành chi, Trung sĩ văn Đạo nhược tồn nhược vong, Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi. Bất tiếu bất dĩ vi Đạo).Bởi Đạo rất cao thâm, bực hạ căn không thể hiểu nổi, họ cho là huyễn hoặc nên mới chê cười.
    -Nhớ lại lúc còn hành Đạo nơi rừng núi, Đức Cử thường dạy dỗ các loài cầm tnú. Nay Ngài từ giã cảnh vật ấy để trở lại trần gian cùng với Đức Phật Thầy lo giác tỉnh quần sanh.
    -Máy trời đã xoay chuyển, cả thế giới sắp diễn ra cuộc chiến tranh tàn khốc, từ đây đến ngày kết cuộc trong nhân vật phải chịu hao hớt, mười phần chỉ còn hai ba mà thôi:Nhơn vật mười phần hao bảy tám, Thần Tiên thấy vậy cũng châu mày.(Giảng xưa của Đức Phật Thầy) Nên Đức Thầy kêu gọi khắp chúng sanh phải gấp rút tu hành, bởi lẽ:
    “Có một hội nầy lập lấy thân,
    Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
    Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

    (Để chơn đất Bắc)
    Ngài nhìn luật xoay vòng của Trời đất mà thảm thương cho bá tánh, nên quyết tâm cứu độ, dầu gặp bao nghịch cảnh cũng chẳng hề nao núng.

    CHÚ THÍCH
    VÀNG MƯỜI: Vàng thiệt, vàng y. Ý nói giá trị cao quí hơn hết:“Vàng mười, bạc bảy, thau ba”.(Ca dao)
    SƠN LÃNH LÂM TUYỀN: Núi non rừng suối.
    SẠ DUYÊN: Sạ là chữ Sự đọc trại (tiếng địa phương). Vậy Sạ duyên tức là Sự duyên. Có nghĩa duyên do sự việc.
    CÁO CẦY: Loại thú rừng, cùng một loại với chồn, thường ở hang, biết leo, thịt ngon; tức là loại chồn thường hay bắt cá. Có nhiều thứ cầy như: cầy hương, cầy bạc má, cầy bông lao (có khi người ta gọi chó là cầy).
    Ở đây ý nói người đã giác ngộ, lúc nào cũng đầy lòng vị tha từ ái đối với vạn loại chúng sanh. Cho nên trong lúc Đức Thầy ở nơi rừng núi, Ngài cũng có dạy dỗ các loài thú:
    “Chốn non xanh dạy dỗ cáo cầy,
    Xuống trần thế ra tay dắt chúng”.(Giác Mê, Q.4)
    CAN QUA: Can là cái mộc, (thứ binh khí dùng để đỡ mũi gươm, giáo, tên…Qua là cái giáo. Can qua là tiếng nói chung để chỉ cho các loại binh khí, tức là nói đến sự chiến tranh, Đức Thầy có câu:“Vọng cầu thế giới dứt can qua” :“Can qua binh lửa sát sanh linh”.(Mong chờ)
    CHUYÊN CẦN:Chăm chỉ và siêng năng, gắng gổ.
    TUẦN HUỜN THIÊN ĐỊA: Định luật xoay vòng của Trời đất, do câu:“Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ”.(Luật Trời đất xoay giáp vòng thì trở lại chỗ khởi đầu).

    CHÁNH VĂN
    121.-Cũng còn kẻ ghét người hờn,
    Vì không rõ hiểu sạ duơn của Thầy.
    Hổ-lang ác-thú muôn bầy,
    124.-Lớp bay lớp chạy sau nầy đa-đoan.
    Ai mà ăn ở nghinh-ngang,
    Đón đường nó bắt xé tan xác hồn.
    Chữ rằng họa phước vô môn,
    128.-Đáo đầu cũng phải xác hồn tiêu tan.
    Khuyên người hữu phước giàu sang,
    Mau mau làm phước làm doan cho rồi.
    Để sau khó đứng khôn ngồi,
    132.-Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.
    Ai mà ăn ở ngược xuôi,
    Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là.
    Rắn to tên gọi mãng-xà,
    136.-Trên rừng nó xuống nó tha dương-trần.
    Ai mà tu tỉnh chuyên cần,
    Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.
    Thương đời hết dạ cần lo,
    140.-Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì ?


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 121 đến câu 140)
    -Vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ lâm trần khai Đạo, nhưng cũng có số người hờn ghét, vì họ chưa rõ hết duyên do. Ngài cũng tiên báo cho mọi người được biết, đến ngày cùng cuối của buổi Hạ ngươn, sẽ có cuộc chọn lọc bằng cách: có các loài thú dữ, như: hùm, beo, lang, sói…tràn xuống khắp dân gian, tàn sát người hung dữ.
    -Xưa nay, Phật Thánh từng dạy: những việc họa hay phúc đều do chính mình tạo nhân, rồi tự mình rước quả, chớ không phải từ đâu đưa lại. Hễ gieo gió thì gặt bão, dù sự việc rất nhỏ, như: món ăn, thức uống…cũng đều do tiền nghiệp của mình mà nên cả (nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định). Qua cuộc chọn lọc, kẻ ngang tàng bạo ngược đều bị tiêu tan cả hồn lẫn xác.
    -Đức Thầy kêu gọi hạng người giàu có, nên mở lòng bố thí để gieo duyên lành về sau, sẽ được hưởng nhiều phúc huệ cao quí hơn. Bằng ai mãi thương nhà tiếc của:“Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân”.(Khuyên người giàu lòng Phước Thiện)
    -Còn hạng ăn ở ngược xuôi, hành động tráo trở, chẳng tôn trọng lẽ công bằng Đạo lý thì sau nầy, sẽ bị các loài rắn rít to lớn, từ trên rừng núi tràn xuống sát hại, khó mà bảo tồn tánh mạng.
    -Còn những ai biết thức tỉnh tu hành, chuyên cần tinh tấn, hành động theo con đường ngay chánh, tất được chư Thánh Thần gia hộ cho bình yên. Vì lòng từ bi Đức Thầy dốc hết tâm lực vào công việc khuyến dạy nhân sinh; sao chẳng sớm lo niệm Phật làm lành, lại cứ lo toa rập chê bai làm chi cho mang khẩu nghiệp.

    CHÚ THÍCH
    ĐA ĐOAN: Nhiều việc, rất nhiều.
    NGHINH NGANG: Cũng gọi là nghênh ngang. Có nghĩa: ngang tàng bướng bỉnh, không kiêng nể ai. Đức Thầy từng khuyên:
    Nghinh ngang hổn ẩu phải chừa,
    Bà con nội ngoại dạ thưa mới là”.

    (Sám Giảng Q.3)
    HỌA PHƯỚC VÔ MÔN: Do câu:“Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu. Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”.(Họa, phước không có cửa, chỉ do con người tự rước lấy mà thôi. Còn sự báo ứng của việc lành hay dữ, cũng như bóng theo hình).
    Thêm nữa kẻ cầm đuốc đi gió ngược, sẽ bị lửa táp phỏng tay, ngửa mặt phun nước miếng lên Trời, nước ấy sẽ rớt xuống mặt mình. Kẻ làm ác cũng thế, lúc đối đầu chỉ rước họa hại vào thân.
    ĐÁO ĐẦU: Cũng gọi là đối đầu (Xem CT câu 126, T-1, Q.1).
    HỮU PHƯỚC GIÀU SANG: Người có phước nên được giàu sang phú quí. Theo “Luật nhân quả” những người hiện giờ được giàu có uy quyền là do thời gian trước hoặc tiền kiếp họ đã tạo nhân từ thiện, bố thí. Đức Thầy hằng khuyên họ:
    “Ngày nay tốt phước sang giàu,
    Xin thương kẻ khó giúp hào một khi”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    LÀM PHƯỚC LÀM DOAN: (Xem CT câu 810, T-1, Q.1).
    NÀO NGUÔI: Chẳng nguôi, chẳng vơi được. Ý nói cơn sầu thảm kéo dài mãi không lúc nào cùng cạn.
    NGƯỢC XUÔI: Ngược là nghịch, không thuận, đảo dưới lên trên; Xuôi là thuận chiều. Ngược xuôi là khi thuận khi nghịch không thuần nhứt. Đây ý chỉ hạng người xảo quyệt không chơn chánh, lòng dạ đời đổi, ăn nói ngược xuôi.
    MÃNG XÀ: Rắn lớn. Vào năm 1939, Đức Thầy có dắt Đức Ông (thân sinh của Ngài) đi viếng núi Tà Lơn. Khi đến một khu rừng nọ, chính Đức Ông thấy hình như ba cây súc lớn nằm dài, lá cây rụng khuất cả. Đức Ông nói:
    -Người ta đốn cây ở đây làm sao đem xuống núi ?
    Đức Thầy đáp:
    -Đâu phải cây, rắn đó! Nói rồi Ngài liền nhảy lên, dùng chân dậm ít cái rồi nhảy xuống, bỗng đâu ba khúc ấy động đậy, cong lên, lá cây đổ ồ xuống bày ra ba thân con rắn thật lớn, bề tròn độ hai người ôm không giáp. Vảy to, lớn hơn dĩa bàn, mình nó dài lắm, đầu đuôi khuất đâu chẳng thấy. Đức Ông hoảng sợ, chạy lùi lại rất xa. Đức Thầy chạy theo kêu Đức Ông dừng lại và nói:
    -Không sao đâu! Nhưng đến thời tận diệt có cả bầy rắn như thế nầy, chúng bò lội khắp nơi cắn nuốt những người hung tàn bạo ngược.(Dẫn theo lời ông Nguyễn Hữu Truyền, do Đức Ông kể lại cho ông Truyền nghe) Điều nầy trong Sấm Giảng Q.1 Đức Thầy thường nhắc:
    “Ngày sau sẽ thấy thú cầm chỉn ghê.
    Hùm beo Tây tượng bộn bề,
    Lại thêm ác thú mãng xà, rít to.
    Bá gia ai biết thì lo,
    Gác tai gièm siểm đôi co ích gì”.

    HẾT DẠ: Hết lòng, dốc hết tâm trí để lo một việc gì.

    CHÁNH VĂN
    141.-Tu là: tâm trí nhu mì,
    Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.
    Tu cầu cứu vớt Tổ-Tông,
    144.-Với cho bá-tánh máu hồng bớt rơi.
    Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,
    Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản-hồi.
    Tu đền nợ thế cho rồi,
    148.-Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
    Người tu phải lánh hơi men,
    Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình.
    Tu là sửa trọn ân tình,
    152.-Tào-khang chồng vợ bố-kình đừng phai.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 141 đến câu 152)
    -Đoạn nầy Đức Thầy khuyên dạy người tu cần phải lo trau giồi tâm trí, sửa tánh răn lòng cho được hiền hòa chin chắn; hết lòng tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ để được vẹn tròn câu hiếu thảo. Ngoài ra còn phải tu cầu cho Tô Tông dòng họ được siêu thoát và khắp vạn dân khỏi bị chết chóc vì nạn đao binh.
    -Đối với cha mẹ còn sanh tiền thì cầu cho được an nhàn phúc thọ, đất nước sớm phục hồi nền tự chủ. Điều quan trọng là phải trả xong nợ thế, tức lo đền đáp bốn ân. Đồng thời rán ngăn ngừa mười điều ác để diệt trừ nghiệp báo, sanh tử luân hồi. Ai hành trì được như thế, tức đặng siêu thoát về Cực lạc mà an tọa trên tòa sen.
    -Bước tu hành cần phải lánh xa hai điều tệ hại : rượu và sắc dục, vì nếu chè rượu say sưa thì sanh nhiều tội lỗi; còn đắm mê sắc lịch ắt phải đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi. Bởi nguyên nhân của sanh tử là do lòng ái dục (Hải trung sanh tử, ái dục đệ nhất). Riêng phần nhân Đạo trong gia đình, việc đối xử giữa chồng vợ, phải thuận hòa ân nghĩa, không nên vì hoàn cảnh sang hèn mà đổi thay tình ý.

    CHÚ THÍCH
    TÂM TRÍ: (Xem CT câu 253, T-1, Q.1).
    NHU MÌ: (Xem CT câu 49, T-1, Q.1).
    TỔ TÔNG: Ông bà dòng họ, cũng chỉ chung như chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Toàn câu ý nói người quyết chí tu hành cho đến khi đắc Đạo thì độ được Ông Bà dòng họ siêu thoát. Cổ nhân từng bảo:“Nhứt nhơn thành Đạo, cửu huyền thăng”.(Một người tu đắc Đạo, độ được Ông Bà cha mẹ lần lượt siêu thăng). Đức Thầy cũng từng dạy trong bài “Cho ông Cò Tàu Hảo”:
    Ngày nào đắc được lục thông,
    Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.

    QUỐC VƯƠNG THỦY THỔ: Đất nước vua chúa. Chỉ cho đất nước Việt Nam.
    PHẢN HỒI: Hồi phục trở lại. Ý toàn câu dạy tu cầu cho đất nước của mình sớm được thanh bình và lấy lại chủ quyền. Đức Thầy có viết:“Ấy mới mong quốc vận phản hồi”.(Gọi Đoàn)
    NỢ THẾ: Nợ đời, tức những gì ta đã thọ, đã gây tạo. Nợ thế có hai phần:
    a)- Ân nợ: tức là nợ Tứ Ân. Con người có được xác thân là nhờ Tổ tiên cha mẹ; có nơi ăn chốn ở là nhờ đất nước; biết được lẽ Đạo mầu, phải trái là nhờ Tam bảo; có đủ vật liệu cần dùng là nhờ đồng bào nhân loại. Đó là bốn ân lớn mà ai ai cũng phải thọ và phải lo đền trả. Đức Thầy hằng khuyên:“Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn”.(Vọng Bắc hoà Nam) và “Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo).
    b)- Nghiệp nợ: Nợ do tam nghiệp, thập ác gây nên, khiến chúng sanh mãi luân chuyển báo đền. Kinh nói:“Sở dĩ có luân hồi là do ba nghiệp: thân, khẩu, ý gây nên, nó cứ tiếp nối nhau luôn tạo thành sức mạnh, lôi kéo chúng sanh; sau khi mạng chung phải đầu thai vào một thân xác khác để đền trả tiền nghiệp và lòng khát ái của mình. Cho nên Đức Thầy dạy:Muốn làm tròn nhân Đạo phải giữ vẹn Tứ ân, nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”.(Luận về Tam nghiệp) Vì thế Ngài cực lực khuyên bảo:
    “Nợ thế âu toan tròn nợ thế,
    Đường tu sớm liệu vẹn đường tu”.

    (Tỉnh giấc mơ)
    TÒA SEN: Chỗ ngồi bằng sen, nơi Phật ngự. Bởi sen là thứ hoa có đặc tánh trong sạch, không ô nhiễm, nên chư Phật dùng nó làm chỗ an tọa. Ý chỉ người tu khi đắc Đạo thì được ngồi tòa sen báu bên cõi Tây Phương cực lạc. Đức Thầy có câu:Tây phương Cực lạc khùng ngồi tòa sen. (Dặn dò Bổn đạo) hay là:Quyết làm tôi Phật gởi thân liên đài”.(Khuyến Thiện Q.5)
    HƠI MEN: Hơi rượu. Ý chỉ sự uống rượu. Người tu cần phải xa lánh, bởi Kinh Phật từng nói:“Ninh ẩm dương đồng, thân vô phạm tửu”.(Thà uống nước đồng sôi, răn dè chớ uống rượu). Hoặc là:“Rượu là gốc buông lung, muốn khỏi đường ác đừng uống; Thà bỏ trăm nghìn thân, trọn không uống rượu nầy”.
    SẮC LỊCH: Sắc đẹp. Một trong tứ đổ tường, cũng là một trong năm điều ham muốn (ngũ dục).(Ngũ dục là muốn sắc đẹp, muốn tài của, muốn danh tiếng, muốn ăn uống, muốn ngủ nghỉ.) Biết bao tấm gương nhơ nhớp vì đắm say sắc lịch. Chính nó đã gây nên những cuộc đổ nước nghiêng thành, đảo lộn luân thường đạo lý lắm người bị nó nhận chìm trong hố sâu tội lỗi. Cổ nhân từng bảo:“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”.(Sắc đẹp tuy không phải sóng gió nhưng dễ nhận chìm được người). Trong Tỉnh Thế Ngộ Chơn cũng dạy:
    “Sắc tác hậu tự tiền thế đại,
    Tán tinh hao khí, khổ linh hồn”.

    (Nữ sắc tuy dùng nối truyền đời trước, nhưng cũng bởi sắc làm cho con người tán tinh, hao khí và linh hồn bị sa đọa).
    ÂN TÌNH: Ân huệ và tình nghĩa thân yêu. Ví dụ: Ân tình vẹn vẻ đôi đường.
    TÀO KHANG: Cũng gọi là Tao Khang. Tào là tấm (bã rượu). Khang là cám gạo. Ý nói người vợ cưới hồi còn nghèo khổ. Do điển tích:
    Vua Quang Võ, có người chị gái là Hồ Dương Công chúa, sớm góa chồng. Vua có ý định gả cho quan Thượng thư là Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua bèn vời Tống Hoằng đến ướm thử:
    - Trẩm nghe thiên hạ thường nói sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có chăng ? (Ngạn ngữ: Quới dịch giao, phú dịch thê, hữu chư ?).
    Tống Hoằng tâu:
    - Thần nghe: Người bạn lúc hàn vi không nên phụ, người vợ cưới lúc nghèo hèn, không nên bỏ. (Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, Tào Khang chi thê bất khả hạ đường).
    Vua Quang Võ nghe qua biết ý Tống Hoằng không tham giàu phụ khó, nên không ép nữa.
    Do điển tích trên đây, văn chương thường dùng thành ngữ “Tào Khang” để nói vợ chồng lấy nhau từ thuở hàn vi, vẫn giữ tình nghĩa mặn nồng cho đến khi gìa chết mới trọn Đạo:Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác”.(Không buồn ngủ)
    BỐ KÌNH: (Xem CT câu 11, T-1, Q.1).
    PreviousNext

    CHÁNH VĂN (Từ câu 153 đến câu 220)
    153.-Tu cầu Đức Phật Như-Lai,
    Cứu dân qua khỏi nạn tai buổi nầy.
    Chữ tu chớ khá trễ chầy,
    156.-Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên.
    Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,
    Nào ai có rõ Thần Tiên là gì.
    Tu không cần lạy cần quì,
    160.-Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau.
    Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.
    Vinh-hoa phú-quí chẳng màng,
    164.-Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi.
    Con sông dòng nước chiều mơi,
    Dốc lòng trả nợ nước đời cho xong.
    Chừng nào bổn-đạo hiểu thông,
    168.-Thiên-cơ đạo lý để lòng mới thôi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 153 đến câu 168)
    -Đức Thầy dạy tín đồ hằng cầu nguyện với Đức Như Lai, cứu độ bá tánh đồng thoát qua tai nạn hiện thời. Còn việc tu hành không nên chần chờ giải đãi, lúc nào cũng phải chuyên cần trau sửa và thường xem Kệ Giảng để thực hành theo cho kỳ được.
    -Bởi người Pháp kềm kẹp dân ta đủ cách, hễ có một ai được sự uy tín trong quần chúng thì họ bắt bớ tù đày. Lại có số người giả tu thường xưng hô lớn lối để lừa bịp những ai nhẹ dạ mê tín theo. Cộng với hạng thường ỷ mình là khôn lanh, hay phỉ báng Phật Trời, nên Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên để vừa đối lại hai hạng người nói trên và vừa phương tiện giáo hóa chúng sanh.
    -Ngài dạy: Sự tu không phải chỉ trong hai thời lễ bái suông, mà bất cứ ở đâu hay phút nào cũng luôn trau giồi, gội rửa những gì xấu xa tội lỗi mới mau kết quả. Vậy mỗi người tự dùng trí sáng của mình chiếu phá lớp vô minh vọng hoặc và các tư tưởng tà khúc, tất được:“Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo).
    -Trên đường khai hóa nhân sanh, Đức Thầy chẳng màng đến danh lợi và dầu dòng đời có lắm thăng trầm Ngài cũng quyết:Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen.(Tự thán) để đền xong nợ thế, vẹn đáp Tứ Ân. Ngài luôn phổ hóa Đạo mầu cho đến khi nào khắp bổn đạo thấu hiểu và gắn ghi những lời thiên cơ Đạo lý nơi lòng, hầu sớm hôm lo tu thân lập hạnh thì Ngài mới dừng thoàn an nghỉ:
    Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng Lai,
    Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão”.

    (Sa Đéc)

    CHÚ THÍCH
    NHƯ LAI: Phạn ngữ: Tathâgatha, Tàu dịch là Như Lai. Vốn là một trong nhiều danh hiệu của Phật. (10 hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng sĩ, Điền ngự Trượng phu, Thiên Nhơn Sư, Phật.) Có nghĩa: sừng sựng vậy, không từ đâu mà lại, cũng không từ đâu mà đi, nương theo đạo chơn như mà thành bực chánh giác, đó là chơn thân của Như Lai. Nương theo Đạo chơn như đến ba cõi để giáo hóa chúng sanh gọi là ứng thân của Như Lai. Kinh Kim Cang có câu:“Như Lai vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ; cố danh Như Lai”.(Như Lai chẳng từ chỗ nào mà lại và cũng không từ nơi nào mà đi; nhưng đâu đâu cũng có, nên gọi là Như Lai). Như Lai ở đây chỉ cho Đức Phật Thích Ca. Đức Thầy có viết:
    “Nam mô Thích Ca Như Lai,
    Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh”.

    (Kh/Thiện Q.5)
    TRỄ CHẦY: Chậm lụt giải đãi, không tinh tấn chuyên cần. Đức Thầy hằng giục thúc:
    Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
    Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

    (Để chơn đất Bắc)
    KHÙNG ĐIÊN: Danh xưng của Đức Giáo Chủ. Sở dĩ Ngài tá hiệu Khùng Điên là có nhiều dụng ý:
    a)- Đánh lạc hướng người Pháp, khiến họ bớt nghi ngờ, khó khăn, để Ngài tiện bề giáo hóa chúng sanh.
    b)- Đối trị hạng người thường cho mình là khôn ngoan, nhưng họ chỉ dùng cái khôn ngoan ấy gạt gẫm dân chúng để thủ lợi.
    c)- Đối trị các tà thuyết, vì số người nầy ra đời thường hay xưng hô là Phật Thánh, để lừa dối người nhẹ dạ mê tín, nhưng hành động của họ không giống Phật Thánh chút nào.
    Còn phần Đức Thầy tuy xưng hiệu Điên Khùng, nhưng Ngài cảm hóa nhân sanh với lòng từ bi, xả kỷ lợi tha, với giáo lý chơn chánh của Phật Đà:Khùng huyền cơ Khùng đạo Thích Ca”, và:Điên như Ta, Điên giống Tiên rồng, Điên gỡ ách xích xiềng thế tục.(Diệu pháp Quang minh)
    THẦN TIÊN: (Xem CT câu 24, T-2, Q.3).
    TRÍ HIỀN: Trí sáng suốt hiền lành, có diệu năng đoạn trừ những phiền não mê hoặc.
    TÂM ĐỨC: Lòng trong sạch, bình đẳng từ bi, không duyên theo ngoại cảnh, thường ban phúc lạc cho toàn thể chúng sanh mà tâm hằng thanh tịnh làu làu, không hề bị nhiễm ô trần trược.
    THAU RA VÀNG: Thau là loại đồng pha kẽm, sắc vàng nhợt. Vàng là loại kim quí, sắc vàng ánh. Hễ vàng thau pha lộn thì vàng mất giá trị, bằng lọc hết thau ra, còn lại vàng y (ròng). Ý nói tâm của mỗi người từ vô thỉ bị phiền não, vọng tưởng xen tạp nên gọi là chúng sanh. Nếu nay biết giác ngộ tu hành, đoạn trừ hết vô minh vọng hoặc thì còn lại là chơn tâm hay Phật tánh.
    CỠI THOÀN: Ngồi trên thuyền (ghe). Lúc Đức Thầy mới ra đời, có chèo thuyền dạo lục châu để thức tỉnh nhân sanh. Đây còn có nghĩa: Ngài dùng trí tuệ siêu mầu (Thoàn Bát Nhã) viết ra Kinh Giảng giác tỉnh kẻ còn mê sớm hồi tâm hướng thiện, như Ngài thường cho biết:Con thuyền Bát Nhã xa khơi”.(Cảm tác) Hay là:
    Thuyền Bát Nhã ta cầm tay lái,
    Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

    (Diệu pháp Quang minh)
    DÒNG NƯỚC CHIỀU MƠI: Ý nói nước dưới sông có lúc lớn, lúc ròng, khi chảy lên, khi chảy xuống, không ngừng nghỉ. Chiều ở chỗ nầy, mai ở chỗ khác. Nghĩa bóng là chỉ cuộc thăng trầm suy thạnh của dòng đời cứ thay đổi theo thời gian. Thế thì bước đường truyền giáo của Đức Thầy cũng rày đây mai đó.
    NỢ NƯỚC ĐỜI: Nợ nước và nợ đời, có nghĩa như chữ nợ thế. Đây ý nói trước cảnh “Quốc phá gia vong”, Đức Thầy có bổn phận đền nợ Quốc dân và nghiệp nguyện cứu độ chúng sanh:Nợ cùng bách tính hỡi còn vương”.(tặng Bác sĩ Cao Triều Lợi)
    THIÊN CƠ: (Xem CT đoạn 7, bài Sứ Mạng).
    ĐẠO LÝ: (Xem CT câu 155, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    169.-Chữ vinh chữ nhục mấy hồi,
    Đến khi thất vận làm mồi yêu tinh.
    Tu rèn tâm trí cho minh,
    172.-Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.
    Hiểu rồi những việc lao-đao,
    Ở cùng cô bác làm sao cho tròn.
    Kính yêu nào phải hao mòn,
    176.-Ở cho phải nghĩa lòng son mới vừa.
    Nghinh-ngang hỗn-ẩu phải chừa,
    Bà con nội ngoại dạ thưa mới là.
    Xóm diềng phải ở thật-thà,
    180.-Dầu không quen biết cũng là như quen.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 169 đến câu 180)
    -Cuộc thạnh suy, vinh nhục của dòng đời, thay đổi rất mau lẹ, không thể lường trước được; lúc vinh hiển, nếu con người chẳng giác tỉnh tu hành, đến khi thất thời ắt của cải và thân xác phải làm mồi cho kẻ hung tàn giặc cướp. Cốt yếu của sự tu là hành giả phải rèn luyện tâm trí cho được thanh tịnh sáng suốt, tuy có tốn nhiều công phu, nhưng đến khi kiến tánh thành Phật thì thỏa lòng biết mấy !
    -Khi đã hiểu rõ sự lao khổ sắp tới, Đức Thầy dạy nhà tu nên đối xử tốt đẹp với chòm xóm cô bác, ăn ở đúng theo Đạo nghĩa, biết lễ phép kính nhường và thương mến giúp đỡ mọi người.
    -Cần chừa bỏ những lời ngang tang hỗn láo, đối với bà con nội ngoại phải lễ độ khiêm cung, với thôn xóm luôn vui vẻ trong việc giao tiếp, đâu đó đều được hòa hài chơn thật.

    CHÚ THÍCH
    THẤT VẬN: Lỡ vận, hết thời. “Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than”.(Ca dao)
    CHO MINH: Cho được sáng suốt.
    TÁNH KIA THÀNH KIẾNG: Ý nói tâm tánh của mỗi chúng sanh từ khi bị vô minh ô nhiễm trở nên mờ ám. Nay giác ngộ tu hành, cố diệt trừ phiền não và trau giồi cho được trong sáng như mảnh gương, tất sẽ soi các sự vật một cách rõ ràng và chứng thành Đạo quả. Trong Khế Kinh có lời kệ:
    “Phật, Tiên, Kinh, Luật tại lòng ta,
    Trong nhà có báu kiếm đâu xa.
    Cầm xem cho kỹ hồi sanh nhựt,
    Tánh mình trong sạch Phật là Ta”.

    Đức Thầy nay cũng từng bảo trong (Giác mê Q.4):
    “Tâm sáng suốt như Đài nguyệt kiếng,
    Tánh trong như nước bích mùa Xuân”.

    PHỈ TÌNH: Thỏa lòng. Ý nói sự tu hành tuy rất dày công cực nhọc, nhưng đến khi kết quả viên mãn là thỏa lòng, mãn nguyện. Đức Thầy nói:
    “Hết khổ lao thì đến vui cười,
    Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước”.

    (Giác mê, Q.4)
    LAO ĐAO: Lận đận khó khăn, tai nạn khổ sở. Ví dụ: Kiếp sống lao đao, thời vận lao đao.
    PHẢI NGHĨA: Đúng với Đạo nghĩa, hợp với lẽ phải.
    LÒNG SON: (Xem CT câu 711, T-1, Q.1).
    NGHINH NGANG: (Xem CT câu 125, T-2, Q.2).
    HỖN ẨU: Hỗn và vô lễ, lầm lộn, không có thứ tự. Ẩu là đánh lộn lẫn nhau. Chữ hỗn ẩu ở đây chỉ cho sự phạm thượng, vô lễ không biết nhường nhịn ai.
    XÓM DIỀNG: Hàng xóm lân cận với nhau:“Cơm ăn chẳng hết thì treo. Việc làm chẳng hết thì kêu láng diềng”.(Tục ngữ)
    THẬT THÀ: Chơn chất hiền lành, không giả dối. Ví dụ: Ăn nói thật thà, tánh tình thật thà.

    CHÁNH VĂN
    181.-Ở cho cha mẹ ngợi khen,
    Gặp người lâm nạn đua chen giúp giùm.
    Xác thân là cái gông cùm,
    184.-Nếu làm chẳng trọn thú hùm xé thây.
    Cho rồi nhơn-nghĩa mới hay,
    Lễ-nghi phong-hóa đổi thay làm gì ?
    Từ đây biến đổi dị-kỳ,
    188.-Dương-thế chuyện gì cũng có chuyển lay.
    Rèn tâm cho được thẳng ngay,
    Khỏi nơi tà quỉ một mai thấy đời.
    Cũng là người ở trong Trời,
    192.-Cớ sao ăn ở nhiều lời ngổn-ngang.
    Hung hăng ỷ của giàu- sang,
    194.-Chẳng kiêng Trời Phật mê-man ỷ tiền.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 181 đến câu 194)
    -Bổn phận làm con biết ăn ở đúng theo Đạo nghĩa, sẽ được cha mẹ vui lòng mà khen thưởng, và mỗi khi gặp người mắc nạn nên hăng hái tìm cách giúp đỡ. Vì xác thể con người thường bị ý dục ràng buộc như tù ngục. Nếu những ai đối xử không trọn Đạo, sẽ bị luật Trời trừng phạt bằng cách có thú dữ phân thây.
    -Đức Thầy kêu gọi bá tánh, cần cư xử đúng Đạo làm người. Những qui tắc và phong tục của Tổ tiên đã giáo hóa, ta có bổn phận gìn giữ và thiệt thi, không nên học đòi thói mới của Âu Tây mà thay đổi khác đi. Bởi thời Hạ ngươn sắp mãn để chuyển sang Thượng ngươn nên mỗi sự vật trong thế giới đều thay đổi; cuộc đổi xấu ra tốt rất nhiệm mầu kỳ bí, không ngờ trước được.
    -Vậy ai là người thức thời nên tu rèn tâm trí cho được ngay chánh sáng mầu để sau nầy kiến diện cảnh Thượng ngươn Thánh đức. Ta nên xét, cũng là một con người trong nhân loại, nhưng tại sao người ta biết tiến lên quả vị Phật Tiên, còn mình lại ăn ở ác hung và khi dể Phật Trời làm chi cho mang tội khổ. Đức Thầy hằng cảnh giác trong bài “Không buồn ngủ”:
    “Giàu sang lắm kẻ vô nghì,
    Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa nhân.
    Chẳng kiêng chẳng nể Phật Thần,
    Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang”.


    CHÚ THÍCH
    GÔNG CÙM: Gông là đồ làm bằng tre hay bằng gỗ. Cùm cũng gọi là còng, vật làm bằng hai miếng ván ghép lại, có lỗ vừa để giữ chân tay tội nhơn, thời nay người ta làm còng bằng sắt, có ổ khóa.
    NHƠN NGHĨA: (Xem CT câu 868, T-1, Q.1).
    LỄ NGHI: Nghi thức và lễ nghĩa.
    PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa của một Quốc gia hay một dân tộc. Trong “Diệu pháp Quang minh” Đức Thầy có câu:
    “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,
    Chấp bút Thần tả ít bổn Kinh”.

    BIẾN ĐỔI: Sự thay đổi ra khác, từ hình thức công dụng nầy ra hình thức công dụng khác. Ví dụ: Đời có nhiều biến đổi không ngờ.
    DỊ KỲ: (Xem CT câu 321, T-1, Q.1).
    MỘT MAI: (Xem CT câu 2, T-2, Q.3).
    NGỔN NGANG: Bừa bãi, bộn bề, chỉ những người ăn nói ngang tàng, không chừng mực.
    HUNG HĂNG: Hung dữ bạo tợn.
    CHẲNG KIÊNG: Không kiêng dè vị nể ai. Chỉ cho người ngang tàng vô lễ.
    MÊ MAN: Mải mê, quá đắm say.

    CHÁNH VĂN
    195.-Dạy rồi cái đạo tu hiền,
    Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.
    Cũng đừng ghẹo gái có chồng,
    Cũng đừng phá-hoại chữ đồng gái trinh.
    Ra đường chọc ghẹo gái xinh,
    200.-Nữa sau mắc phải yêu-tinh hư mình.
    Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
    Vâng lời cha mẹ mà gìn gia-cang.
    Nghiêm-đường chịu lịnh cho an,
    204.-Loạn-luân cang-kỷ hổ mang tiếng đời.
    Anh em đừng có đổi dời,
    Phụ-phàng dưa muối xe lơi nghĩa-tình.
    Tuy là Trời đất rộng thinh,
    208.-Có Thần xem xét phân minh cho người.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 195 đến câu 208)
    -Sau khi chỉ dạy về phương thức làm lành lánh dữ, Đức Thầy khuyên răn trong hàng thiếu niên, lúc tuổi còn xuân, dầu dục tình đang hăng phát, cũng không nên phá hoại tiết trinh của vợ con người. Kẻ nào thấy gái đẹp hay chọc ghẹo, sau nầy bị lầm lạc yêu tinh, làm hư thân mất mạng.
    -Đối với gia đình thân tộc phải giữ vẹn nghĩa tình, mỗi việc chi đều đợi lịnh của cha mẹ, nhứt là những lời dạy bảo chánh đáng, đều triệt để vâng lời. Phải tôn trọng nền cương thường Đạo lý, từ gia đình đến bà con nội ngoại trong thân tộc, chẳng nên hành động loạn luân, bất chánh mà bị tiếng đời cười chê, xã hội ruồng bỏ.
    -Việc đối xử giữa anh em cần biết kính thuận lẫn nhau, tình nghĩa luôn đậm đà thương mến, không nên vì hoàn cảnh riêng tư, hay sang hèn mà thay lòng phụ nghĩa. Tuy là Trời đất mênh mông, nhưng lời nói riêng của mỗi người trong thế gian, Trời nghe như sấm nổ, còn lòng tính quấy trong nhà kín, song mắt của Thần Thánh thấy rất rõ ràng.(Nhơn gian tư ngữ Thiên văn như lôi, Ám khuất khuy tâm Thần mục như điển – sách “Minh Tâm Bửu Giám”.)

    CHÚ THÍCH
    ĐẠO TU HIỀN: Con đường làm lành lánh dữ. Cũng có nghĩa: Bổn phận của người tu hiền.
    TÌNH DUYÊN: Cũng gọi là duyên tình. Tình ái ân của vợ chồng.
    NỒNG: Hăng quá, gắt quá, mùi làm nực mũi. Nghĩa bóng là rất mực đậm đà.
    CHỮ ĐỒNG GÁI TRINH: Sự trinh tiết của người con gái lúc chưa lấy chồng, chưa bị thất trinh.
    NGHĨA TÌNH: Cũng gọi là tình nghĩa: Tình cảm và ân nghĩa. Ý chỉ việc cư xử với nhau có ân nghĩa mực thước đứng đắn. Ví dụ: Tình nghĩa anh em còn hoài.
    GIA CANG: (Xem CT câu 2, T-1, Q.1).
    NGHIÊM ĐƯỜNG: Người cha. Người Việt Nam đang ở chế độ phụ quyền (người cha là gia trưởng).
    LOẠN LUÂN: Làm rối loạn luân thường đạo lý, lấy một người trong bà con, thân tộc mà phong tục và luật pháp nghiêm cấm, là bị tôi loạn luân.
    CANG KỶ: Cũng gọi là cương kỷ hay kỷ cương, có nghĩa: giềng mối trong luật lệ, tức là trật tự, ngăn nắp của gia đình, đoàn thể, xã hội, quốc gia. Ví dụ: Ăn ở phải có kỷ cương. Đức Thầy nói trong bài “Cảm tác”:
    “Có đâu như thể bây chừ,
    Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.

    PHÂN MINH: Rõ ràng, rành mạch, rạch ròi. Ví dụ: Ăn ở phân minh, xử đoán phân minh.
     
    Sửa lần cuối: 15/1/15
  2. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    209.-Vô duyên chưa nói mà cười,
    Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên.
    Lớn lên phận gái cần-chuyên,
    212.-Làm ăn thì phải cho siêng mới là.
    Phải gìn dục-vọng lòng tà,
    Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân !
    Nghe lời cha mẹ cân phân,
    216.-Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi này.
    Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
    Chớ đừng cải lịnh gió-mây ngoại-tình.
    Đi thưa về cũng phải trình,
    220.-Công, dung, ngôn, hạnh, thân mình phải trau.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 209 đến câu 220)
    -Đoạn giảng trên Đức Thầy dạy hàng nữ lưu, phải có tư cách đứng đắn, sự nói cười cần giữ đúng lời, đúng lúc; chẳng nên vừa nói vừa cười, ngã ngớn. Người con gái mới lớn lên, phải chăm chú siêng năng mọi công việc cho được thứ tự, vén khéo mới tròn bổn phận.
    -Thuở thanh xuân là lứa tuổi dậy thì, dầu dục tình có bộc phát cũng cố chế ngự, không nên chìu theo nó mà làm việc hư thân mất nết, điếm nhục tông môn. Lúc còn nương với cha mẹ, nên vâng lời cân nhắc dạy bảo; khi về nhà chồng phải biết tùy theo ý lịnh của chồng; chẳng may chồng qua đời trước, vợ phải lo nuôi dạy con cái, để xứng đáng là bậc hiền mẫu và được trọn tiết với chồng.
    -Cuộc tình duyên không sớm thì muộn cũng gặp, chẳng nên cãi lịnh cha mẹ, tự gây tạo việc trăng hoa bất chánh mà mang tội bất hiếu. Phận dâu con có lễ giáo, mỗi lúc đi hoặc về đều phải trình thưa cha mẹ; đồng thời lo rèn tập bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

    CHÚ THÍCH:
    VÔ DUYÊN: Cũng gọi là vô doan. Có nghĩa: trơ trẽn, tẻ lạt, không duyên dáng lễ độ…Ví dụ: ăn nói vô duyên. Ca dao có câu:“Vô duyên chưa nói mà cười, Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên”.
    DỤC VỌNG LÒNG TÀ: Lòng ham muốn thèm khát việc tà quấy, do tình dục sai khiến. Kẻ nào bị dục vọng sai khiến sẽ hư thân mất nết, nên Đức Thầy bảo “đừng chìu theo nó”.
    CÂN PHÂN: Cân nhắc phân giải việc hư nên tốt xầu. Ý chỉ lời cha mẹ dạy con.
    TAM TÙNG: (Xem CT câu 203, T-2, Q.2).
    GIÓ MÂY NGOẠI TÌNH: Do chữ “Sở Vũ Tần Vân” (mưa Sở mây Tần). Thành ngữ nầy người ta thường dùng để chỉ cho hạng trai gái tư tình bất chánh (không phải vợ chồng chính thức của mình). Đồng nghĩa với chữ “mây mưa”. Truyện Hoa Tiên có câu:“Lời đầu quyến luyến thanh tân, Rủ rê gió Sở mây Tần hỡi ai”.
    ĐI THƯA VỀ CŨNG PHẢI TRÌNH:Do câu:“Xuất tắc cáo, phản tắc diện”, là khuôn phép của hàng con dâu; khi ra đi hay lúc về nhà đều phải thưa trình với cha mẹ.
    CÔNG DUNG NGÔN HẠNH: Nghĩa của chữ “Tứ Đức”, tức là bốn đức hạnh. Đó là bốn điều dạy nữ giới phải vẹn gìn theo khuôn thước của Đạo làm người.
    “Hãy xem xưa, những bực dâu hiền,
    Kiêm tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh”.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 221 đến câu 308)
    221.-Công là phải sửa làm sao,
    Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.
    Mình là gái mới lớn lên,
    224.-Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.
    Chữ dung là phận đàn bà,
    Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.
    Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,
    228.-Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.
    Ngôn là lời nói mặc dầu,
    Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn-ngoan.
    Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,
    232.-Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
    Hạnh là đức tánh phải không ?
    Ở cùng chòm-xóm đừng cho mất lòng.
    Bốn điều nếu đã làm xong,
    236.-Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 221 đến câu 236)
    -Đoạn nầy, Đức Thầy dạy bổn phận của hàng phụ nữ cần phải trau giồi bốn đức tánh: Công, dung, ngôn, hạnh.
    -Trước nhứt là chữ “Công”, tức mọi sự nấu nướng vá may cho sắc sảo, khéo léo, cùng các việc làm lụng đều được thứ lớp và thu xếp gọn gàng, kỹ lưỡng, không nên để phào phẹt bừa bãi.
    -Thứ nhì là chữ “Dung”; nghĩa là phải giữ trang mạo đằm thắm, cử chỉ hòa hưỡn và mỗi lúc đi, đứng, nằm, ngồi phải dòm ngó trước sau một cách cẩn thận. Thân thể phải cho sạch sẽ, hình dáng đoan trang, ăn mặc giữ được chừng mực kín đáo, không được hở hang, cách điệu quá lẽ.
    -Thứ ba là chữ “Ngôn”: Mỗi khi thốt ra, người phụ nữ cần phải giữ lời nói cho được dịu dàng, lễ nghĩa, không nên dùng những tiếng thô lỗ láo xược, chưởi rủa, tục tằn, tất cha mẹ được vui lòng thỏa mãn.
    -Thứ tư là chữ “Hạnh”, tức phải giữ hạnh nết hiền hậu, tánh ý ôn hòa, hay tha thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ người thiếu hụt. Chốn khuê phòng thường trau giồi giá gương trong sạch. Không xem những loại sách bất chánh, cũng không gần kẻ lả lơi, trây trúa, hổn ẩu tham gian để ngừa hại đến danh thể. - Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu thuận, với ông bà cô bác, anh chị thân quyến cũng giữ mực cung kính khiêm từ đáo để.

    CHÚ THÍCH
    CÔNG: Khéo léo đứng đắn.
    TẦM PHÀO: Cũng gọi là tầm phèo. Có nghĩa: bừa bãi không gọn gàng cẩn thận.
    HỚ HÊNH: Không cẩn thận chu đáo. Công việc hớ hênh là làm việc không kỹ lưỡng, vén khéo.
    DUNG: Hình sắc, dáng điệu.
    TƯƠI TẮN: Xinh xắn, đẹp đẽ. Ví dụ: gương mặt tươi tắn.
    DỊU DÀNG: Yểu điệu tha thướt, tướng đi của giới nữ.
    NGÔN: Lời nói. Đây, ý dạy nữ giới cẩn thận lời nói trong mọi việc đối xử; “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.(Ca dao). Cổ Đức từng bảo:“Lập thân chi yếu, Ngôn hạnh thị tiên”.(Cốt yếu của sự lập thân, ngôn hạnh là trước nhứt). Đức Thầy nay cũng dạy:“Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ”.(Giác Mê TK, Q.4)
    NGHIÊM CHỈNH: Nghiêm trang tề chỉnh, không lả lơi cười cợt. Ví dụ: Người ấy ăn nói nghiêm chỉnh.
    PHANG NGANG: Phang là cầm cây mà vụt mạnh vào ai. Ngang là ương ngạnh, bất chấp lề lối. Tiếng phang ngang là lời nói ngang tàng, thiếu sự dịu dàng mềm mỏng và lễ độ.
    HẠNH: Tánh nết, cách cư xử:“Thương vì hạnh, trọng vì tài”.(Tr.Kiều) Kinh Thơ dạy:“Chẳng giữ hạnh nhỏ có hại cho đức lớn”.(Bất năng tế hạnh chung lụy đại đức).
    ĐỨC TÁNH: Tâm tánh tốt lành nhân ái. Đức Thầy có dạy:Làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả…”.(ĐT đáp lời Ký giả Hồn Quyên)
    BỐN ĐIỀU: Chỉ bốn đức tánh: Công, Dung, Ngôn, Hạnh đã kể qua.
    HIẾU: Lòng ân cần tôn kính, bảo dưỡng và vâng lời khuyên răn của cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy:“Hiếu tử chi sự thân: Cư tắc chí kỳ kính, dưỡng tắc chí kỳ lạc, bệnh tắc chí kỳ ưu, Tang tắc chí kỳ ai, tế tắc chí kỳ nghiêm. Cố bất ái kỳ thân, như ái tha nhân giả, vị chi bội đức”.(Người con hiếu thờ cha mẹ: Lúc ở thì tôn kính rất mực, khi nuôi phải vui hết mực, khi bệnh phải lo lắng hết mực. Khi chịu tang phải buồn hết mực, khi tế thì nghiêm trang hết mực. Cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người ngoài (khác) gọi là trái đức).
    Kinh Đạt Ma có lời khuyên:
    “Ngàn kinh muôn điển hiếu vi tiên,
    Thảo thuận đời sau nhỏ giọt truyền.
    Ở thế Đạo người làm vẹn vẻ,
    Tu hành Tiên Phật sẽ nên duyên.
    Ba năm nhũ bộ công lao nhọc,
    Chín tháng cưu mang mấy đoạn phiền.
    Nghĩa mẹ ơn cha hằng tạc nhớ,
    Ngày qua bể ngạn mới là yên”.

    Đức Thầy nay cũng hằng dạy:Hiếu hạnh gìn lòng chí ư Thiên”.(Hai mươi chín tháng Chạp) Và:
    Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
    Hành thiện tri Kinh thị sĩ hiền”.

    (Hiếu nghĩa vi tiên)
    PHỤC TÒNG: Tùng phục, tuân theo. Vui lòng chịu sự dạy bảo của cha mẹ.
    SONG THÂN: Tiếng gọi chung Phụ thân và Mẫu thân, tức là cha mẹ.

    CHÁNH VĂN
    237.-Dạy rồi những chuyện đức ân,
    Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.
    Lỗi-lầm chớ có hùng-hào,
    240.-Đừng chửi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
    Đem lời hiền-đức tốt tươi,
    Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.
    Cũng đừng gây gổ giận-hờn,
    244.-Cho con bắt chước sạ dươn mới là.
    Nam-Mô sáu chữ Di-Đà,
    Từ-bi tế-độ vậy mà chúng sanh.
    Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh,
    248.-Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.
    Trì tâm thì quá ít-oi,
    Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào.
    Rạch tim đem để Nó vào,
    252.-Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 237 đến câu 252)
    -Sau khi chỉ dạy về bổn phận làm con cháu, từ trong gia đình đối với ông bà, cha mẹ, đến cô bác láng diềng đều cư xử được vẹn vẻ, đức ân. Đức Thầy dạy qua trách nhiệm làm cha mẹ về cách phân xử và dạy bảo con cháu.
    -Mỗi khi con có vi phạm lỗi lầm, làm cha mẹ không nên ra tuồng giận dữ, la ó lớn tiếng hoặc đay nghiến chửi rủa, đánh đập tưng bừng, nên dùng những lời hiền hòa, tốt đẹp ra dạy dỗ chúng, nếu được vậy có chi quí báu cho bằng. Giữa chồng vợ chẳng nên mặt giận, mày hờn ấu đả lẫn nhau vì đó là duyên cớ làm cho con mình bắt chước.
    -Với Pháp môn niệm Phật là phương cách tu giản tiện nhứt, chỉ có trì niệm sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật mà được Đức Phật A Di Đà cứu độ vượt khỏi mọi tai nàn, và đặng phúc báo vãng sanh về cõi cực lạc:“Cứu khổ Nam mô vô lượng phước, Diệt nàn tu rị hữu thiên Kinh”.(Tỉnh bạn trần gian). Thế mà xưa nay, không mấy người chịu hành trì cho đúng cách.
    -Từ trước tới giờ, người niệm Phật chẳng phải là không có, song niệm cho được nhứt tâm bất loạn thì ít ai làm đặng, nên không thấy kết quả. Do đó, Đức Thầy kêu gọi mọi người nay hãy trì tâm niệm Phật cho đúng phương pháp thử coi. Nghĩa là phải niệm làm sao cho tiếng niệm nghe đều đều và hòa vào nhịp thở của con tim. Tuy không niệm ra tiếng mà tai vẫn nghe rõ, từng chữ một nơi tâm, không hề gián đoạn hoặc vọng tưởng xen vào. Nếu niệm Phật được như thế, tất khỏi cảnh máu đổ thịt rơi trong ngày chiến tranh, tận diệt:Chữ lục tự trì tâm bất viễn, Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”.(Kệ Dân, Q.2)

    CHÚ THÍCH
    ĐỨC ÂN: (Xem CT câu 81, T-2, Q.3).
    XỬ PHÂN: Cũng gọi là phân xử. Có nghĩa xử trí cho hợp lẽ. Ví dụ: Phân định việc phải quấy mỗi bên rất công bằng hợp lý.
    HÙNG HÀO: Mạnh mẽ và hào phóng. Đây chỉ cho sự nóng giận, làm dữ. Ví dụ:Ra vẻ hung hào giận dữ.
    HIỀN ĐỨC: (Xem CT câu 66, T-2, Q.3).
    GIÁO HÓA: Dạy dỗ và mở mang (khai hóa). Dùng sự giáo dục mà cảm hóa mọi người. Ví dụ: Cảm hóa dân chúng, cảm hóa con cháu.
    VÀNG MƯỜI: (Xem CT câu 109, T-2, Q.3).
    SẠ DƯƠN: (Xem CT câu 112, T-2, Q.3).
    NAM MÔ: (Xem CT câu 9, T-1, Q.1).
    SÁU CHỮ DI ĐÀ: Do chữ “Lục tự Di Đà”, tức sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Ý dạy tu Pháp môn Tịnh Độ, hành giả luôn trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà, sẽ được Ngài cứu độ vãng sanh Cực Lạc hoặc chứng Di Đà tự tánh. Đức Thầy từng dạy:“Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc”.(Niệm Phật trong Q.6)
    TẾ ĐỘ: Cứu giúp và đưa qua. Chư Phật cùng hàng Bồ Tát dùng pháp giáo và các phương tiện tế độ chúng sanh rời bờ mê, sang bến giác, khỏi bể khổ sanh tử, đến Cực lạc Niết Bàn. Đức Thầy có câu:
    Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
    Ra tay tế độ dắt lần về ngôi”.

    (Bóng Hồng)
    NIỆM SÀNH: (Xem CT câu 106, T-1, Q.1).
    TRÌ TÂM: (Xem CT câu 449, T-2, Q.3).
    RẠCH TIM: Vạch tâm. Ý toàn câu dạy người niệm Phật phải đem tiếng niệm Phật để vào tâm và trì niệm mãi cho đến khi tâm và Phật tương ưng thì được thoát qua các tai nạn khổ ách. Như Đức Thầy từng dạy :“Rán tu đem được Phật vào trong tâm”.(Sấm Giảng Q.1)và:“Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không”.(Sa Đéc)

    CHÁNH VĂN

    253.-Để sau đến việc tả-tơi,
    Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.
    Ngày nay chim đã gặp cành,
    256.-Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa.
    Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa,
    Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng.
    Gẫm trong thế-sự trần-hoàn,
    260.-Người hung người ác tà-gian cũng nhiều.
    Thương đời ta mới đánh liều,
    Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay.
    Muốn tu còn đợi chiều mai,
    264.-Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư.
    Những người có của tiền dư,
    Hãy nên bố-thí dành tư làm gì.
    Sau đây nhiều chuyện ly-kỳ,
    268.-Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi !

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 253 đến câu 268)
    -Đoạn giảng trên Đức Thầy khuyên bá tánh, nếu không sớm lo làm lành niệm Phật, để khi gặp khổ ách, dầu có muốn tu cũng chẳng kịp, bởi sự tu không phải chỉ một sớm một chiều mà thành công được. Sống giữa thời mạt pháp may mắn gặp chánh Đạo, nếu chúng sanh chẳng sớm nương theo, không khác nào loài chim gặp cành cây tốt lành, chẳng chịu đậu, ắt bị mưa bão làm nguy hại.
    -Ở thế gian nhiều kẻ không thích việc tu, còn dùng đủ tiếng gièm pha nhạo báng, song đối với người đã quyết tâm hành Đạo thì chẳng màng kể. Xét lại cõi đời không được mấy người hiền đức, phần đông là kẻ gian tà hung ác.
    -Vì lòng quá thương xót sanh linh, nên dù đời có nhiều bạc đãi, Đức Thầy cũng:“Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi”.(Dặn dò Bổn đạo). Ngài mong sao mọi người đều thức tỉnh tu hành, dầu nhiều ít gì cũng có kết quả. Lại có số người cũng muốn tu, nhưng cứ mãi trù trừ lần lựa, nên Ngài khuyên họ càng sớm tu càng tốt.
    -Đối với những người giàu có, Ngài dạy nên mở lòng bố thí, giúp đỡ hạng cơ bần để gây phúc duyên về sau. Nếu ai mãi:Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân”.(Khuyên người giàu lòng Phước thiện) Bởi sau nầy có nhiều biến chuyển lạ lùng, không sao tả xiết, bao nhiêu của tiền vàng bạc đã dành giụm từ trước phải bị tiêu sạch:
    “Giàu sang như nước trên nguồn,
    Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ”.

    (Sấm Giảng Q.1)

    CHÚ THÍCH
    TẢ TƠI: Cũng gọi là tơi tả. Có nghĩa rách nát, ten ben, lòng thòng nhiều miếng. Ý chỉ cảnh chiến tranh, chạy giặc khiến dân chúng phải đói rách tơi tả.
    GIÈM SIỂM: (Xem CT câu 302, T-1, Q.1).
    TRẦN HOÀN: (Xem CT câu 31, T-1, Q.1).
    TÀ GIAN: Tà vạy, gian xảo, không ngay thẳng, chánh đáng.
    TU TỈNH: (Xem CT câu 342, T-2, Q.2).
    BỐ THÍ: Phạn ngữ: Dâna, phiên âm là Đàn na, dịch là Bố thí. Vốn là một trong Lục độ (sáu pháp Ba La Mật của chư Bồ Tát thường hành). Bố là bủa ra, rải ra. Thí là cấp cho. Vậy, Bố thí là đem cái sở hữu của mình giúp cho kẻ khác. Đức Thầy từng kêu gọi:
    “Nếu đã xả thân tầm Đạo đức,
    Mở lòng bố thí ngộ thần ca”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    Bố thí có 3 cách:
    1/- Tài Thí: Là đem những cái gì thuộc về mình, như: tiền vải, lúa gạo, thuốc men ban cấp cho kẻ nghèo đói bệnh tật, hoặc góp công của vào các việc từ thiện khác.v.v…Đức Thầy hằng dạy:
    “Khá thương những kẻ bần cùng,
    Tâm lành dư của hãy dùng vào đây”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    2/- Pháp Thí: Là dùng lời lẽ, trí huệ giảng dạy Đạo lý hoặc ấn tống Kinh Giảng để người khác được xem nghe, tỉnh ngộ tu hành. Đức Thầy dạy:“… đi các nơi giảng giải Đạo Phật cho đại chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật”.(Ban Huấn luyện và TBĐP). Và về Kinh Giảng, Ngài cũng dạy rõ:
    Hãy Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành.
    (Kh/Thiện, Q.5) Và:
    Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
    Mà truyền bá đặng nhiều phước đức”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    3/- Vô Úy Thí: Là phương tiện giúp cho người khỏi cơn sợ hãi, bằng cách: dùng lời lẽ an ủi hoặc đem tánh mạng đỡ gạt hay bảo vệ cho người được an ổn…
    Bố thí lại còn chia làm hai phần:
    1)- Sự tướng Bố thí: Cũng gọi là Trụ tướng bố thí, tức là lúc đem tài vật thí ra cho người mà lòng còn phân biệt người là kẻ thọ thí, ta là kẻ bố thí, khởi tâm mong cầu tiếng khen và được phúc báo. Nhơn đó làm cho bản ngã càng tăng trưởng, sự tôn ti thêm nảy sanh, khiến cho sự bất bình đẳng một ngày một chất ngất, để rồi phải hưởng cái quả sai biệt nhỏ nhen.
    2)- Lý tánh Bố thí: Cũng gọi là “Vô trụ tướng Bố thí”. Tức là lúc thi hành công việc bố thí xét vì lòng từ bi, vì bổn phận mà làm, ngoài cảnh không chấp mắc, trong tâm chẳng nhiễm ô, không hề tham cầu phước báo; cũng không phân biệt nhơn ngã, tôn ti và chẳng trụ vào: Sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp mà bố thí. Kinh Kim Cang, Phật bảo: Bố thí không trụ tướng thì được phước đức chẳng thể so sánh, nghĩ lường được. (Bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất ngã tư nghị).
    Đức Thầy nay cũng dạy:
    Giúp đời đừng đợi trả ơn,
    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng”.

    (Sám Giảng Q.3)
    LY KỲ: Lạ lùng kỳ dị. Chuyện rất ly kỳ.

    CHÁNH VĂN

    269.-Tại sao chẳng cúng chè xôi,
    Bởi vì tận thế Phật thôi ăn chè.
    Cũng không có muốn hoa-hoè,
    272.-Lầu đài sơn phết cũng là chẳng ham.
    Ai chê khờ dại cũng cam,
    Chớ Tôi cũng chẳng có ham lầu đài.
    Chữ tu hãy rán miệt-mài,
    276.-Đừng kể vắn dài đừng nệ mau lâu.
    Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,
    Bớt điều mị-dối mới hầu thấy Ta.
    Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
    280.-Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen.
    Chết rồi cũng bớt cóc keng,
    Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì.
    Đàn nhu thầy lễ cũng kỳ,
    284.-Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng ?
    Lại thêm đờn địch từng tưng,
    Đem con heo sống mà dưng làm gì ?
    Chủ gia kẻ lạy người quì,
    288.-Làm chuyện dị-kỳ giả-dối hay không ?
    Nếu không thì trả lời không,
    290.-Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 269 đến câu 290)
    -Từ trước đến giờ các chùa thường dùng chè xôi, bánh trái cúng Phật. Nay sắp đến ngày tận diệt, Đức Thầy khuyên bá gia không nên cúng như thế nữa; bởi chư Phật không hề dùng bất cứ một thức ăn nào ở thế gian. Nếu ai quan niệm rằng chư Phật còn ăn uống và cúng có lễ vật mới được chứng minh thì rất sai lầm mê tín:Chẳng ham cúng kiếng chè xôi, Phật Trời chẳng muốn điều tồi ấy đâu”.(Sấm Giảng Q.1) Ngài cũng dạy chư Thiện Tín lìa bỏ âm thinh sắc tướng để:Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu”.(Kệ Dân Q.2), chớ Ngài đâu có muốn chùa lầu sơn phết mà bá tánh lo gây tạo rồi đổ thừa cho Phật.
    -Đức Thầy luôn noi gương Đức Phật, không ham nhà cao chùa lớn, tài sắc vị danh, dù người đời có chê là khờ dại Ngài cũng cam chịu. Trên đường tu mỗi người phải bền tâm kiên chí, không nên chán nản trước lộ trình xa thẳm hay công phu khó nhọc. Vì rằng:Tuy xa mà tới mấy hồi”.(Khuyên người giàu lòng Phước thiện) Và:Hết khổ lao thì đến vui cười”.(Giác Mê TK, Q.4)
    -Ngài khuyên khắp giới tu hành hãy diệt trừ những sự trạng tà mị, gian dối để thật tâm thành ý tu hành, mới mong gặp Thầy thấy Phật. Bỏ hẳn sự giết các sanh vật cúng tế quỉ thần, vì các hạng ăn đồ cúng kiếng của thế gian là tà thần, ma mị. Nếu ta tin tưởng, nó sẽ ăn quen và càng theo phá hại ta mãi.
    -Đến như trong gia đình có người từ trần, không nên rước Thầy Lễ, thầy cúng, bày ra trống đờn chuông mõ, hay nhạc lễ rình rang. Việc báo hiếu Đức Thầy có dạy:Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện, chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn.(Mục Tang Lễ)
    -Còn việc tế thần hoặc làm tuần, làm đám không nên sát sanh hại vật hay đem thịt sống lên bàn thờ mà cúng. Vì các vật ấy người quá vãng chẳng hề dùng được, làm thế không những vô ích mà còn gây thêm nghiệp tội cho người chết. Do đó, Đức Thầy khuyên mọi người nên xét rõ các việc nói trên, nếu thấy là giả dối và mê tín thì hãy mau cải sửa đi !

    CHÚ THÍCH
    TẬN THẾ: (Xem CT câu 25, T-2, Q.2).
    HOA HÒE: Lòe loẹt, rực rỡ màu săc. Ý chỉ những cái đẹp đẽ hào nhoáng bên ngoài, nhưng bên trong chẳng thật tốt. Đây chỉ cho sự sắc tướng.
    CŨNG CAM: Cũng đành lòng, nhận chịu.
    MIỆT MÀI: Cũng gọi là mài miệt. Miệt là mãi miết, cần cù chăm chú. Mài là cọ xát nhau. Nghĩa bóng là bền chí chuyên cần không lơ đễnh.
    MỊ DỐI: Nịnh hót, gian xảo dối trá.
    CÓC KENG: Là chỉ chung cho những thứ trống kèn, chiêng mõ, dùng để đánh lên trong khi tế lễ.
    TẾ XEN: Tế là làm lễ cúng theo nghi tiết; xen là chen vào giữa. Tế xen là cho buổi lễ rình rang thêm lên.
    ĐÀN NHU: Đàn nho. Chỉ việc tế lễ tang ma theo Nho giáo.
    PHỦ PHỤC: Lạy sụp xuống.
    BÌNH HƯNG: Bình là bằng; Hưng là đứng dậy. Tiếng của học trò lễ xướng lên trong khi tế lễ.
    ĐỜN ĐỊCH: Cây đờn và ống tiêu. Ý chỉ chung mọi thứ đờn (đàn). Ví dụ: Đờn địch tối ngày.
    TỪNG TƯNG: Âm thanh nhạc điệu do người khảy đàn phát ra.
    ĐEM CON HEO SỐNG MÀ DƯNG LÀM GÌ: Theo cổ lệ từ trước, những cuộc tế Thần (Thành Hoàng Bổn Cảnh) trong các ngôi Đình; người ta làm thịt heo rồi để sống nguyên con đem chong trước bàn Thần mà tế, chẳng biết vị thần ấy có ăn được thịt sống hay không mà họ cứ nhắm mắt làm càn.
    Vào năm 1939, Đức Thầy có đến Đình Thần xã Hòa Hảo, thấy cuộc cúng tế như vậy, khi về nhà, gặp Đức Ông (thân sinh của Ngài) Ngài cười dài. Đức Ông liền hỏi:
    - Thầy Tư cười chuyện gì vậy ?
    Ngài đáp:
    - Ông Cả xuống dưới Đình mà coi. Ban Hội Tề đem chong con heo sống trước bàn Thần rồi xúm nhau lạy. Ông Thần đâu có đòi ăn thịt sống mà làm như vậy, còn các ông Hội Tề lạy biết chừng nào cho hết tội giết heo. Làm trò mị dối như vậy bảo làm sao chẳng cười cho được ! - Vậy không nên cúng Thần sao ? Đức Ông hỏi lại.
    Đức Thầy đáp:
    - Nên cúng chớ ! nhưng nên biết, ông Thần Đình là vị quan cựu thần trung quân ái quốc, được ghi vào thanh sử, Vua mới sắc phong về đây, là chánh Thần, mà chánh Thần thì Ngài đâu còn ăn thịt sống, thịt chín gì nữa ! Từ nay ông Cả hãy ra lịnh cúng chay đi.
    Nhờ lời giác tỉnh của Đức Thầy mà từ ấy (1939) đến nay, Đình Thần xã Hòa Hảo và các xã lân cận như: Phú An, Hưng Nhơn.v.v…đều sửa đổi, bỏ hẳn tục lệ sát sanh và hát chầu, hằng năm chỉ tế Thần bằng đồ chay. Nhưng phần đông các ngôi đình khác người ta còn mê tín, vẫn giữ y cựu lệ.

    CHÁNH VĂN
    291.-Thương đời Ta luống sầu-bi,
    Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
    Rung đùi ngâm chuyện trên Trời,
    Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
    Thấy đời Ta cũng héo von,
    296.-Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa-nhơn.
    Khoe mình chẳng có ai hơn,
    Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
    Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
    300.-Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.
    Hốt thời cắc bảy cắc ba,
    Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn.
    Lành bay còn ác lại tồn,
    304.-Đến chừng lập Hội xác hồn lìa xa.
    Mấy anh thầy thuốc Lang-sa,
    Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
    Xin trong anh chị đừng phiền,
    308.-Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 291 đến câu 308)
    -Vì thương đời nên lòng Đức Thầy quá xót xa, thấy nhiều người đã học đòi Nho Giáo mà chẳng thi hành nhơn nghĩa; chỉ lo viết thơ ngâm vịnh, nhạo báng thế gian hoặc tình duyên luyến ái.
    -Tự khoe mình tài học chẳng ai bằng, bát cơm, manh áo của họ đều nhờ nghề làm thuốc Bắc, chẳng cần thiết đến việc hiền nhơn Đạo nghĩa là gì. Hễ có bịnh nhơn đem tới, bất luận nghèo hay giàu họ đều thẳng tay đập đổ.
    -Bấy giờ, giá tiền của mỗi thang thuốc cao lắm là một cắc bảy, thế mà họ đòi tới năm cắc làm cho dân chúng phải rên xiết. Suốt đời họ chẳng làm một việc Thiện, nên phúc lành đâu có, chỉ tồn lại các nghiệp tham ác mà thôi. Và những kẻ ấy, đến ngày lập hội khó mong bảo tồn tánh mạng.
    -Đến như ngành Tây y lại còn thâm độc hơn nữa, một số người hành nghề ấy, chẳng những họ cắt cổ lột da lại còn vơ vét tiền bạc, tận xương tủy các bệnh nhân. Thói thường, hễ trung ngôn thì nghịch nhĩ, Đức Thầy khuyên các hạng làm thuốc nói trên, chẳng nên phiền Ngài, mà hãy xét kỹ lại, nên thi thố nhơn nghĩa hơn là tham chứa tiền tài. Bởi tiền bạc không cứu giúp được ta, khi nghiệp quả đã mùi:
    “Gẫm kim tiền bội bạc bất tài.
    Không làm cho ta được sống dai,
    Lại chẳng bước tiễn đưa một bước”.

    (Kh/Thiện, Q.5)

    CHÚ THÍCH

    HÉO VON: Cũng viết là héo don hay héo hon. Có nghĩa khô héo, âu sầu tiều tụy. Ý nói lòng xót xa vô hạn. “Ruột tằm ngày một héo don”.(Tr.Kiều)
    HỌC NHO: Cũng gọi là Nho học. Học thuật của Nho gia, học về giáo thuyết của Đức Khổng Tử.
    NGHĨA NHƠN: (Xem CT câu 868, T-1, Q.1).
    THUỐC BẮC: Thuốc trị bịnh, phần nhiều bằng: lá, vỏ, rễ, củ của các loại cây, chế ở Trung Hoa, do các Đông y dùng điều trị bệnh nhơn. Ví dụ: Hốt thuốc Bắc, thầy thuốc Bắc.
    HIỀN NHƠN: Người có đức độ hiền lành, thuần hậu. Đức Thầy có câu:“Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn”.(Sám Giảng Q.3)
    CẮC BẢY CẮC BA: Tiền bấy giờ (1939) mười xu người ta kêu là một cắc (miền Bắc gọi là một hào). Giá mỗi thang thuốc Bắc thời ấy chừng một cắc ba (0$,13), cao lắm là một cắc bảy (0$,17). Thế mà các thầy thuốc Đông y đòi ăn tới năm cắc (0$,50), số tiền lời của họ gấp bằng hai số vốn.
    THẦY THUỐC LANG SA: Chỉ cho các Bác sĩ, y tá trị bịnh bằng Âu dược (thuốc Tây).
    PHI ÂN: Chẳng phải, chẳng ân nghĩa gì hết.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 309 đến câu 380)
    309.-Muốn sau được dựa Các-Lân,
    Hãy nên trau sửa hiền-nhân mới là.
    Những người quê dốt thật-thà,
    312.-Cũng nên tu niệm nhờ mà thân sau.
    Lập đời mới biết thấp cao,
    Bây giờ chưa biết ai thau ai chì.
    Đời xưa có Ngũ-Viên-Kỳ,
    316.-Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.
    Người xưa còn chẳng cần thân,
    Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.
    Để tâm yên-lặng như tờ,
    320.-Nghĩ suy lời lẽ tỏ mờ thế nao.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 309 đến câu 320)
    -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên: Nếu ai muốn sau nầy được gần đền vàng điện ngọc, thời hiện giờ hãy sớm sửa mình cho trở thành hiền nhơn quân tử. Những người chơn chất làm ăn, tuy là quê dốt, song nếu biết niệm tưởng Phật Trời, tu thân hành Đạo thì thời gian sau hoặc hậu kiếp được hưởng điều cao quí.
    -Hiện giờ kẻ dữ người lành, thật giả còn đang lẫn lộn, nhưng đến ngày lập lại Thượng ngươn, nhơn loại phải trải qua cuộc chọn lọc, chứng ấy sẽ rõ ai cao, ai thấp.
    -Xưa, thời Ngũ Đế có quí ông: Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá, đã dốc hết tâm trí kê cứu các phương thuốc điều trị bệnh nhân. Các Ngài chẳng màng đến sự lao tâm mệt xác, hay lợi lộc; miễn sao cho toàn thể dân chúng được an lành.
    -Nay Đức Thầy khuyên mọi người, nên bình tâm suy nghĩ những lời chỉ dạy của Ngài cho thấu đạt nghĩa lý, thế nào là sáng tỏ vinh quang và thế nào là mê mờ u tối.

    CHÚ THÍCH
    CÁC LÂN: Các là gác lầu; Lân là thềm bực. Ý chỉ cho đền vàng điện ngọc của vị Thánh Vương Việt Nam sau nầy.
    AI THAU AI CHÌ: Thau là loại đồng pha kẽm. Chì cũng đồ kim loại màu xám, chất dễ chảy hơn. Thau có giá trị cao hơn chì. Đây chỉ ngày lập đời sẽ có cuộc chọn lọc để biết rõ ai giả ai thật, hoặc ai cao ai thấp.
    NGŨ VIÊN KỲ: Sách “nội Kinh Huỳnh Đế” có chép: vào thời Ngũ Đế có ba ông: Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá đem hết trí năng nghiên cứu các thứ bịnh và thí nghiệm những loại thảo mộc, để tìm ra dược phẩm trị bịnh cứu dân, lòng các Ngài chẳng hề mong cầu lợi lạc. Đức Thầy nhắc chuyện nầy để chỉ cho sự giúp đời bất vụ lợi, của những bực đầy lòng vị tha bác ái và cũng khuyên mọi người noi gương từ thiện nói trên.
    THỂ NAO: Thế nào, hãy xét rõ công việc ấy coi ra sao ? (như thế nào).

    CHÁNH VĂN
    321.-Luận xem thế sự thấp cao,
    Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.
    Bớt bỏ rình-rang một khi,
    324.-Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
    Là lời truyền-giáo của Thầy,
    Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
    Còn mình muốn đãi làng thôn,
    328.-Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
    Gẫm trong thế sự nực cười,
    Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.
    Mình làm chữ hiếu mới hay,
    332.-Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
    Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
    Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
    Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,
    336.-Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 321 đến câu 336)
    -Sau khi luận việc cao thấp của sự đời, Đức Giáo Chủ khuyên bá tánh trong việc tang ma không nên bày vẽ linh đình mà hãy làm theo lời khuyên dạy của Ngài.
    -Nếu trong gia đình có ông bà hoặc cha mẹ từ trần, nên vọng bàn giữa Trời cầu Phật, trên bàn chỉ được dùng ba món: bông hoa, nước lã và nhang. Khi cầu nguyện xong im lặng đi chôn. Còn đối với làng xóm hãy tùy nghi mà dùng lời lẽ giã ơn với mọi người, bởi “Tiếng chào cao hơn cỗ”. Nếu cần phải đãi đằng cơm nước thì Ngài dạy:“Những điều nào xét ra thấy giản tiện ít lãng phí cứ làm”.
    -Thẩm xét sự đời, Ngài cũng bắt buồn cười cho bá tánh, sao chẳng sớm tu sửa lòng mình cho được ngay chánh và hiếu sự phải tự mình thi hành mới đúng lẽ. Nhược bằng cứ bỏ tiền ra, mướn các thầy đám tụng kinh cầu siêu, không bao giờ được kết quả.
    -Vậy muốn cho nghiệp tội của ông bà cha mẹ mau tiêu rỗi, con cháu cần sớm giác ngộ tu hành, mỗi sáng chiều hằng thành tâm cầu nguyện. Noi gương Đức Mục Kiền Liên rèn lòng từ bi, hiếu hạnh đi đến chỗ chứng Đạo giải thoát. Đức Thầy từng khuyến tấn:
    “Rán tu đắc Đạo cứu Cửu Huyền,
    Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.
    Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,
    Cho ta hình vóc học cơ huyền”.

    (Giải thoát Cửu huyền)

    CHÚ THÍCH
    LÀM MÀU HIẾU NHI: Làm ra vẻ người con hiếu để che miệng thế gian, chớ không thật tâm lo.
    RÌNH RANG: Ồn ào rộn rịp, chưng diện rực rỡ có tính cách long trọng.
    ĐÁP NGÔN: Giã ơn bằng lời nói.
    THÀNH TÂM: Lòng chí thành chí thật. Cổ đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.( Ý nói sức thành tâm khẩn thiết hướng về đâu, có thể chẻ núi phá vàng đến đó). Nên Đức Thầy hằng dạy:
    “Thứ bảy chánh niệm vậy thì,
    Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    MỤC LIÊN CỨU MẸ: Mục Kiền Liên, vốn là một trong “Thập Đại Đệ Tử” của Phật Thích Ca, Ngài là bậc thần thông đệ nhứt. Khi chứng quả A La Hán, Ngài dùng Thiên nhãn nhìn thấy mẹ là bà Thanh Đề đang bị đọa tại ngục A Tỳ, chịu sự hình phạt đói khổ thảm thiết, nên dùng thần thông đem bát cơm đến dâng cho mẹ dùng. Nhưng khi vừa bưng lên, bỗng bát cơm hóa ra lửa bốc cháy, bà ăn không được, nên rất hối hận tội lỗi của mình. Mục Kiền Liên trở về cầu Phật giúp cho phương cách cứu mẹ.
    Thấy lòng hiếu thảo của Mục Liên, Phật động từ tâm, dạy ông thiết lễ Vu Lan Bồn, để nhờ sự hồi hướng công đức của các Thánh Tăng cộng với sự hối hận của bà và oai lực của Đức Phật gia hộ, nên Ngài Mục Liên cứu mẹ ra khỏi ngục A Tỳ.

    CHÁNH VĂN
    337.-Ai ai hãy rán mà suy,
    Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.
    Làm tuần trà rượu xình-xoàng,
    340.-Rồi thì chửi-lộn mà an nỗi gì ?
    Dương-trần làm chuyện dị-kỳ,
    Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.
    Của tiền chớ có bỏ theo,
    344.-Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì ?
    Nếu ai biết chữ tu trì,
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
    Không làm để ở lung-lăng,
    348.-Chửi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
    Ở cho biết nhượng biết tùy,
    Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
    Đạo là vốn thiệt cái đàng,
    352.-Ta ra sức dọn cho toàn chúng-sanh.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 337 đến câu 352)
    -Vì lòng thương đời Đức Thầy mới phân giải rõ ràng: từ trước những đám làm tuần, người ta thường bày ra tiệc lễ linh đình, say sưa rượu thịt. Đã say, đâu còn phân biệt phải quấy, nên giữa anh em tộc họ thường xảy ra cuộc chửi mắng, ấu đả lẫn nhau, như vậy đâu ích lợi và an ổn chút nào.
    -Ở đời, khi có việc xảy ra người ta ít chịu nhận xét cho chính xác để làm theo chân lý. Phần đông là họ cứ bày vẽ nhiều việc lạ lùng, toàn là giả dối. Cho nên Đức Thầy dạy hãy bỏ tục lệ đem tiền của theo cho người quá vãng, bởi kẻ chết đã sang qua cảnh giới khác thì tiền bạc và vật thực cõi nầy, chẳng xài được. Còn việc sát hại gà vịt, bò heo lại là vô lý và tai hại hơn nữa, vì làm thế người chết không dùng được mà còn mang thêm nghiệp quả.
    -Vậy ai là người biết giác ngộ tu hành, muốn báo hiếu cho đúng cách thì lúc cha mẹ còn sanh tiền, nên cung phụng các thức ăn, mặc, ở cho đầy đủ. Thường thấy nhiều người không biết bổn phận đối với cha mẹ, lại còn ăn nói nghinh ngang hỗn ẩu, thật là điều tội lỗi đáng trách !
    -Con người khôn ngoan đạo đức, lúc nào cũng vâng lời cha mẹ, việc cư xử trong gia đình, thân tộc đều biết nhân nhượng thuận hòa, khiến cha mẹ được hài lòng, Đức Thầy đã vạch rõ con đường đạo hạnh, chúng sanh nào muốn đạt đến chỗ vinh quang hạnh phúc, cứ nương theo đó tiến hành, ắt được toại nguyện.

    CHÚ THÍCH
    CHUYỆN NI: (Xem CT câu 890, T-1, Q.1).
    XÌNH XOÀNG: Cũng gọi là xoàng xoàng. Có nghĩa chếch choáng, cháng váng (say rượu). Ví dụ: Mới ba ly đã xình xoàng.
    LÀM TUẦN: Lễ cầu siêu và cúng người chết: mỗi tuần 7 ngày một thất, hoặc 21 ngày 3 thất, hay 49 ngày 7 thất; 100 ngày (bá nhựt); giáp năm, hoặc giáp hai năm (mãn tang hay mãn khó).
    DỊ KỲ: (Xem CT câu 321, T-1, Q.1).
    TẾ LỄ BÒ HEO: Từ trước những gia đình giàu sang, trong nhà có người chết, họ liệm vô quan tài, hoàn lại đó rồi giết bò heo cúng tế cả tuần mới đem chôn. Điều nầy xét ra thấy rất sai lầm, bởi làm thế, người chết đâu có ăn được, lại còn mang thêm nghiệp tội.
    Xưa, có một Trưởng giả rất giàu có, thâm tín Tam Bảo, thường làm nhơn bố thí. Sau khi mạng chung, con cháu dùng hỏa táng, thu nhặt tro tàn đựng vào bình đặt lên bàn hương án. Chúng chuẩn bị gà heo cùng các thứ cao lương quí giá, cúng kiếng linh đình, rồi xúm nhau khóc kể thảm thiết.
    Nhờ nhân bố thí, hồn Trưởng giả được sanh về cõi Trời làm vị Thiên Đế, ông nhìn xuống thấy con cháu dạy dột, vì thương cha mẹ làm việc vô ích. Muốn thức tỉnh con cháu, ông bèn hóa ra tên mục đồng, tay ôm bó cỏ, tay dắt trâu đến sân nhà tế lễ ấy. Đến nơi, vừa cột trâu, trâu ngã ra chết, mục đồng lấy cỏ đút vào mồm trâu bảo ăn, trâu không ăn được, nó giận dữ lấy roi đánh đập, quát tháo ầm ỹ. Mấy người con Trưởng giả thấy vậy bảo:
    - Nầy chú bé kia ! Sao khờ khạo đến thế ? Trâu đã chết làm sao ăn được nữa mà phải hoài công la hét !
    Đứa bé đáp:
    - Trâu mới chết mồm miệng vẫn còn đây, còn có thể hy vọng hơn các người bày lễ linh đình trước bình tro tàn, rồi khóc kể có khôn gì ?
    Cả nhà Trưởng giả nghe trả lời ngạc nhiên tỉnh ngộ, hỏi:
    - Ồ thật rất thông minh. Ngươi là con nhà ai và ở đâu đến đây ?
    Đứa bé đáp:
    - Ta chính là Trưởng giả. Cha các ngươi đây !
    Nhờ phụng sự Phật pháp mà nay ta đã sanh Thiên, thấy các ngươi không nghe theo lời ta, lo tu hành, mãi đeo đắm tình thương quyến thuộc làm điều vô ích, lại gây thêm nghiệp sát hại, nên về đây giác tỉnh các ngươi. Nếu chẳng sớm cải hối, ta cùng các người đồng vương thêm nghiệp tội không nhỏ. Nói xong, Thiên Đế biến lên Thiên cung, con cháu đồng ăn năn tỉnh ngộ, bỏ việc sát sanh.
    Lúc Đức Phật còn trụ thế, Ngài thường dạy các môn đồ:“Nếu ai vì thân nhơn quá vãng mà tu tập các việc phước đức thì trong bảy phần, vong nhơn hưởng một, sáu phần kia người sống tự huởng. Trái lại, nếu vì người chết mà sát hại sanh vật cúng tế tạo nhiều nghiệp ác, ắt vong nhơn phải chịu họa lây”.
    Ngày nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng giác tỉnh:
    “Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,
    Ma lớn chay to phí lắm tiền.
    Tưởng vậy xác thân đa hạnh phúc,
    Nào hay hồn phách lắm oan khiên”.

    (Tỉnh bạn Trần gian)
    TU TRÌ: (Xem CT câu 36, T-1, Q.1).
    THIẾU GÌ: Thiếu chi, nhiều lắm.
    BIẾT NHƯỢNG BIẾT TÙY: Biết nhân nhượng, nhún nhường và vâng lời thuận thảo.
    ĐẠO: (Xem CT câu 337, T-1, Q.1).

    CHÁNH VĂN
    353.-Thôi thôi bớt miệng hùng-anh,
    Ở nơi cửa khẩu thiệt rành tiếng ni.
    Chưng bày quân-tử làm chi,
    356.-Của đồ hổ-bịt vậy thì xưng hô.
    Lũ đàng lũ điếm hồ-đồ,
    Anh-hùng quân-tử xưng hô rền trời.
    Gặp ai mắc nạn cười chơi,
    360.-Chớ không ra sức giúp đời điều chi.
    Hổ mình là bực tu mi,
    Chưa tròn bổn-phận mà ti tôn mình.
    Kể từ thượng lộ đăng trình,
    364.-Vào Nam ra Bắc mặc tình bôn-phi.
    Khuyên răn trần-thế một khi,
    366.-Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 353 đến câu 366)
    -Thường thấy số người miệng hay khoe khoang lớn lối, tự cho mình là tài giỏi, là anh hùng quân tử, nhưng hành động chẳng ra gì, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ bớt tánh xấu ấy đi !
    -Cũng có hạng chỉ biết rong chơi trụy lạc, ăn nói hàm hồ, cống cao tự đại, nhưng khi gặp người lâm nạn thì họ trơ mắt ra nhìn, chẳng hề có chút lương tâm ra tay giúp đỡ, lại còn thỏa thích nhạo chê là khác. Là bực râu mày nam tử, với bổn phận không tròn, họ đã chẳng biết tủi thẹn, lại còn khoe khoang tự đắc.
    -Lúc Đức Thầy lên đường độ thế, từ miền Nam, sang đất Bắc, Ngài hằng lui tới khai truyền chánh pháp, giáo hóa lê dân:“Chuyển miền Nam địa lung lay, Nam, Trung cùng Bắc một tay giáo đời”.( Để chơn đất Bắc) Ngài khuyến cáo cho bá tánh rõ, tuồng đời hiện tại sắp hết, để chuyển sang cuộc diện mới.

    CHÚ THÍCH
    QUÂN TỬ: (Xem CT câu 471, T-2, Q.2).
    CỦA ĐỒ HỔ BỊT: Chỉ những hạng ăn ở lố lăng phách lối. Ví dụ: Thứ hổ bôn hổ bịt, chẳng ra gì.
    LŨ ĐÀNG LŨ ĐIẾM: Bọn người gian xảo ăn chơi phóng đãng (trà đình tửu điếm) Đức Thầy khuyên:“ Điếm đàng đĩ thõa chớ gần”.(Sám Giảng Q.3)
    HỒ ĐỒ: Hàm hồ, không hợp lý; lờ mờ, không rõ ràng gãy gọn. Ví dụ: ăn nói hồ đồ vô lý.Chim khôn tránh bẫy tránh dò, Người khôn tránh tiếng hồ đồ mới khôn.(Ca dao)
    ANH HÙNG: Anh là vua loài hoa. Hùng là vua loài thú. Nghĩa bóng: chỉ người hào kiệt xuất chúng, có tài làm việc to tát. Sách Vương Thông có nói:“Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng”.(Tự biết mình là anh, tự thắng mình là hùng). Nhưng toàn câu giảng trên là chỉ cho kẻ bất tài mà thường hay xưng hô lớn lối. Đó là anh hùng rơm:“Anh hùng gì, anh hùng rơm, Cho một bó lửa hết cơn anh hùng”.(Ca dao)
    TU MI: (Xem CT câu 111, T-2, Q.2).
    BỔN PHẬN: Phận sự, phần việc của mình. Một phần nghĩa của chữ Đạo. Ví dụ: Bổn phận làm con, bổn phận làm công dân, làm cha mẹ.v.v…
    TI TÔN MÌNH: Tự hào, cho mình là tài giỏi, là cao quí hơn người.
    ĐĂNG TRÌNH: Lên đường, khởi hành (ra đi).
    BÔN PHI: Bôn là chạy, phi là bay. Nhưng chữ bôn phi ở đây có nghĩa là bôn ba, lui tới. Đức Thầy có câu:“Bôn phi lê thứ nhiều bề gian nan”.(Để chơn đất Bắc)

    CHÁNH VĂN
    367.-Dương-gian làm huyễn nói càn,
    Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
    Hò reo giục trống nhiều câu,
    Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười.
    Ta khuyên hết thảy các người,
    372.-Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
    Đừng hò đừng réo làm chi,
    Nghinh-ngang kêu múa có khi hại mình.
    Nghe không thì cũng mặc tình,
    376.-Nói cho rõ-rệt dân tin không là.
    Quan-Âm Nam-Hải Phổ-Đà,
    Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo-truyền.
    Thánh Thần không phải thiếu tiền,
    380.-Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 367 tới câu 380)
    -Trong xã hội Việt Nam bấy giờ (1939), có nhiều Phù thủy, đồng bóng, cô bà, họ bày lắm điều huyễn hoặc để lừa bịp dân quê.. Nếu ai có bịnh, rước họ đến thì nào: đờn kèn trống phách, bày binh bố trận, nào sai đồng khiển tướng, tróc quỉ trừ ma toàn là những việc mê tín giả dối; chỉ làm trò cười cho thiên hạ, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ dứt tệ trạng ấy đi.
    -Vì họ chữa trị bịnh nhơn khi thì đọc thần chú, kêu gọi danh tánh các bậc Thần Tiên mà sai khiến làm điều tà mị theo ý muốn, nên phải tội lộng ngôn, phạm thượng; hoặc cho sát sanh hại vật cúng tế quỉ ma, khiến chúng ăn quen mà quanh quẩn theo họ, phá hại xóm làng:Đừng theo lũ quỉ lũ ma, Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”.(Sám Giảng Q.3)
    -Đức Giáo Chủ kêu gọi bá tánh hãy trở lại con đường chánh tín, dầu ai có nghe hay không tùy ý; chớ việc Ngài truyền dạy đây là do sắc lịnh của Đức Quan Âm và Phật Tổ, Phật Thầy. Còn các vị Thần Thánh đâu có thiếu nợ chúng sanh mà muốn sai khiến lúc nào cũng được.

    CHÚ THÍCH

    LÀM HUYỄN: Giả dối, nói làm không chân thật để đánh lừa thiên hạ.
    SAI ĐỒNG KHIỂN QUỈ: Đây là cách trị bệnh của các phù thủy (thầy pháp). Chúng cho người ngồi trùm khăn kín mặt lại, rồi đọc thần chú, khiến một lát thì đồng lên, xưng là cố hỉ thượng động hay thần quỉ chi đó Đồng đòi ăn heo gà đủ thứ, phần nhiều là họ lên giả; thấy việc huyễn hoặc và mê tín, ai xem cũng nực cuời. Nhà thơ Trần Tế Xương đã diễn tả cảnh lên Đồng ấy trong một bài thơ:
    “Khen ai khéo vẽ cảnh lên đồng,
    Một lúc lên luôn sáu bảy ông.
    Sác quỉ, ông dùng cây kiếm gỗ,
    Ra oai, bà giắt cái khăn hồng.
    Cô giương tay ấn tan tành núi,
    Cậu chỉ ngọn cờ cạn dốc sông.
    Đồng giỏi, sao đồng không giúp nước ?
    Hay là đồng sợ súng thần công ?”

    NAM HẢI PHỔ ĐÀ: theo truyền thuyết nơi biển Nam Hải có một hòn núi tên Phổ Đà, do chữ “Phổ Đà Sơn Thượng”, hay “Phổ Đà Đạt Đạo”; Đức Quan Thế Âm thường ngự tại đó.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 381 đến câu 460)
    381.-Nam-Mô Quan-Âm Như-Lai,
    Cầu xin chư Phật cứu nay dương-trần.
    Khuyên đừng chửi Thánh mắng Thần,
    384.-Xưa nay thứ lỗi thế-trần chẳng kiêng.
    Lưỡng Thần ghi chép liên-miên,
    Nào tội nào phước dưới miền trần gian.
    Tâu qua Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
    388.-Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.
    Chúng-sanh ngang-ngược làm liều,
    Ngọc-Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
    Minh-Vương khó đứng khôn ngồi,
    392.-Thảm thương lê-thứ mắc hồi gian-truân.
    Trước đền mắt ngọc lụy rưng,
    Quí yêu bá-tánh biết chừng nào nguôi.
    Làm sao cho dạ được vui,
    396.-Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 381 đến câu 396)
    -Đoạn nầy Đức Thầy cầu nguyện với Đức Quan Âm Như Lai và chư Phật mười phương, cứu độ chúng sanh thoát qua khổ hải cùng khuyên bá tánh từ nay hãy bỏ hẳn sự kêu Thần Thánh mà nguyền rủa hoặc sai khiến. Bởi từ trước các Ngài đã tha thứ nên chúng dân chẳng kiêng sợ.
    -Tất cả hành động tội hay phước của mỗi chúng sanh ở cõi trần đều được hai vị thần ở hai bên ghi chép đầy đủ, để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra, tội của chúng sanh dẫy đầy, còn điều phước thiện chẳng được bao nhiêu.
    -Bởi vì loài người quá ngang tàng, hung bạo, gây nhiều tội trạng, nên Ngọc Đế muốn xử tiêu cho rồi. Song nhờ Đức Minh Vương đầy lòng thương xót lê dân, lâm cơ tận diệt, nên Ngài rất lo lắng tìm phương cứu độ.
    -Ngài thân hành đến quì trước Linh Khứu để cầu xin Đức Phật Tổ nhủ lòng từ bi sắc truyền chư Phật lâm phàm khai đạo, cứu độ lê dân. Điều nầy trong Sấm Giảng Người Đời, Ngài Huệ Lựu nói rõ:
    “Ngọc Hoàng cầm sổ nơi tay,
    Quyết mà giũ bỏ đời nay hỗn hào.
    Nam Tào kinh khủng khấu đầu,
    Xin thương trần thế Đạo mầu truyền ban.
    Ngọc Hoàng nghe nói rất mừng,
    Sai người giá võ qua miền Lôi Âm.
    Kế đó Phật Tổ giá lâm,
    Tâu cùng Ngọc Đế thấp cao tỏ tường.
    Minh Vương có tới Phật Đường,
    Giáo khuyên dưới thế trung ương tu trì”.


    CHÚ THÍCH
    QUAN ÂM NHƯ LAI: Quan âm. Đọc cho đủ là Quan Thế Âm Bồ Tát, do Phạn ngữ AVSLOKI TESVARA BOPHISATT WA. Lại cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa Thủ, đều dịch nghĩa chữ Phạn PADRA PÃNI. Ngài là một vị Đại Bồ Tát rất có lòng từ bi hay cứu khổ cứu nạn nên có danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, ở đâu cũng thờ Ngài và cũng niệm đến danh hiệu Ngài.
    Kinh chép: Lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi vua cha phát tâm tu hành, theo Đức Bảo Tạng Như Lai và khuyên Ngài hết lòng kính tin, sùng bái Tam Bảo. Ngài vâng theo và phát lời thệ nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo và các món thiện căn, tôi đã từng tu tập pháp mầu, xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh nào khổ đau họa hoạn, khi niệm đến danh hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ thoát khổ và đặng an vui…Nếu chẳng đặng lời thề đó, tôi không thành Phật”.
    Vì vậy, trong thế gian, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau, chúng sanh niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu vớt chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quán Thế Âm đang hầu một bên Đức Phật A Di Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh, khắp mười phương về cõi ấy.
    -Nhưng danh từ “QUAN ÂM NHƯ LAI” còn chỉ cho một Đức Phật thời quá khứ. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển Sáu, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có bạch với Đức Thích ca: - Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi còn nhớ vào thời quá khứ, cách đây hằng hà sa số kiếp, có một Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như Lai. Tôi nhờ Đức Phật đó mà phát tâm Bồ Đề, Ngài dạy tôi nương theo ba pháp: Nghe, Nghĩ, Tu mà vào chỗ chánh định…(Thế Tôn ! Ức niệm ngã tích vô số hằng hà sa kiếp, ư thời hữu Phật, xuất hiện ư thế, danh Quán Thế Âm, ngã ư bỉ Phật, phát Bồ Đề tâm, bỉ Phật giáo ngã tùng văn, tư, tu nhập Tam Ma Địa…)
    Và một đoạn khác, Quán Thế Âm Bồ Tát nói:“Bạch Đức Thế Tôn ! bởi tôi cúng dường Thầy tôi là Đức Quán Thế Âm Như Lai, nên tôi nhờ Thầy truyền cho tôi pháp “NHƯ HOẠN, VĂN HUÂN, VĂN TƯ, KIM CANG TAM MUỘI”.(1.- Như Hoạn: như tuồng mị; là nói chỗ công phu lúc ban sơ, phải mượn lấy ảnh hưởng của hai cái nghe: Văn Huân và Văn Tu. 2.- Văn Huân: xông cái nghe; chữ nghe đây là chỉ cái tánh nghe thuộc về thể của bản giác, còn xông là xông ướp (huân tập). Nghĩa là trau giồi, nói bên trong xông cái thể bản giác. 3.- Văn Tu: Tu cái nghe; là quay ngược cái nghe trở vào trong thuộc về trí của thể giác. Còn tu là lấy cái công phu trở lại cái nghe mà tu tới bực viên thông. 4.- Kim Cang Tam Muội: Do nơi cái nghe đã tiến tu mà thành được một tánh đại định bèn chắc như Kim Cương.) Từ lực của tôi đồng với các Phật Như Lai, nên khiến thân tôi thành đặng 32 ứng thân, để tùy thuộc vào các Quốc độ cứu khổ chúng sanh. (Thế Tôn ! Do ngã cúng dường Quán Thế Âm Như Lai. Mông bỉ Như Lai thọ ngã, Như Hoạn Văn Huân, Văn Tu, Kim Cang Tam Muội, dữ Phật Như Lai, đồng từ lực cố, binh ngã thân hành, tam thập nhị ứng, nhập như Quốc độ…).
    CHẲNG RIÊNG: (Xem CT câu 194, T-2, Q.3).
    LƯỠNG THẦN: Hai vị thần ở hai bên vai vác là Tả mạng thần và Hữu mạng thần, có trách nhiệm ghi chép việc tội phước của mỗi người để tấu trình về Thượng Đế. – Ngài Huệ Lựu đã nói:
    Thường đêm hương đốt đừng không,
    Thời là lại có lưỡng Thần chép biên.
    Chung niên nạp sổ thượng Thiên,
    Thiên đình tùy đó phước hiền ban cho”.
    Đức Thầy cũng bảo:
    “Trách lầm mang nghiệp vào thân,
    Chỉn e vai vác Thánh Thần chép biên”.
    (Cảm Tác)

    CHÁNH VĂN
    397.-Lời khuyên xưa cũng một lần,
    Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.
    Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,
    400.-Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời.
    Ở đâu cũng Phật cũng Trời,
    Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.
    Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,
    404.-Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần-gian.
    Gió đưa lướt sóng buồm loan,
    Rước người tu niệm xuê-xang phỉ tình.
    Ai mà Ta dạy chẳng gìn,
    408.-Thì sau đừng trách mất tình yêu-đương.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 397 đến câu 408)
    -Trước kia Đức Giáo Chủ đã có lần khuyên dạy chúng sanh, hôm nay Ngài cũng chuyển kiếp viết ra cơ giảng, giác tỉnh người đời. Kẻ trí, khi nghe được Kệ Kinh của Ngài, lòng bắt bồi hồi suy nghĩ, còn người quá mê mờ thì họ cho đó cũng như các vần thơ nhạo đời mà thôi.
    -Ngài còn dạy rõ, ai muốn tu hành khỏi cần tìm đến núi cao, rừng thẳm hay chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, hễ có lòng thành khẩn, nguyện cầu và chí tâm hành Đạo, tất được thấy cảnh:Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc.(Không buồn ngủ) Bởi Đức Thầy hằng khuyên:Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần, Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh. (Sa Đéc)
    -Giữa lúc thay đổi cõi Hạ ngươn sẽ có Đức Văn Thù Bồ Tát dùng trí lực siêu mầu tiếp độ những người hiền đức lên bờ giải thoát. Còn kẻ nào chẳng nghe lời dạy bảo thì sau đừng trách Phật Tiên thiếu lòng từ ái.

    CHÚ THÍCH
    Ở ĐÂU CŨNG PHẬT CŨNG TRỜI: Ý nói nơi nào cũng có Phật Trời không luận chùa am hay nhà cửa, hễ ai có lòng chí thành chí thiết trong việc công phu hành Đạo thì Trời Phật cảm ứng mà cứu độ ngay. Đức Phật Thầy từng bảo:
    “Đi đâu cho khó nhiều đàng,
    Kìa non Bửu Tự, nọ ngàn Ma Ha.
    Kiểng nào kiểng chẳng có hoa,
    Non nào non chẳng có tòa thiên thai”.

    Đức Thầy cũng thường dạy:
    “Non nước tuy xa đâu cũng Trời,
    Cũng Trời, cũng Phật, cũng an nơi”.

    (Cho Ô. Đỗ văn Viễn)
    TÂM THÀNH: (Xem CT câu 334, T-2, Q.3)
    CHÍ NGUYỆN: Ý muốn đã nuôi trong lòng và chí quyết thực hành cho kỳ được. Đức Thầy có khuyên:Trên dưới một lòng chí nguyện tu.(Dụng Kinh Quyền)
    VĂN THÙ BỒ TÁT: Là tiếng gọi tắt chữ Văn Thù Sư Lỵ hay Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Phạn ngữ: Manjucri. Có nghĩa: Diệu Đức (Đức sáng mầu nhiệm), Diệu Âm (âm thinh mầu nhiệm). Ngoài ra, các kinh điển còn chép tên Ngài là Diệu Thủ Bồ Tát, Phổ Thủ Bồ Tát…Tựu trung đều đề cập đến công hạnh lợi tha, giác chúng của Ngài, với trí tuệ siêu thắng bậc nhất.
    Ngài là một vị Cổ Phật, đã thành Phật từ vô số kiếp, song vì lòng bi mẫn Ngài mới tùy cơ ứng hóa, cứu độ chúng sanh.
    Hồi Đức Phật Thích Ca ra đời, Ngài ứng thân làm Tỳ kheo hầu cận Phật, Ngài đã biểu thị trí tuệ bậc nhứt, trong hàng Đệ tử của Phật, nên Ngài cũng được tôn danh là Pháp Vương Tử (con đấng Pháp Vương). Cho nên đa số các hình tượng thờ Ngài bây giờ, đều với thân tướng trang nghiêm, trên đầu có năm búi tóc biểu thị cho năm trí của Phật. (Năm trí: 1/- Pháp giới thể tánh trí. 2/- Đại viên cảnh trí. 3/- Bình đẳng tánh trí. 4/- Diệu Quan sát trí. 5/- Thành Sở tác trí.) Tay cầm thanh gươm, thị hiện lợi khí của trí tuệ tròn đầy và ngồi trên lưng Sư Tử xanh biểu thị cho sức mạnh của trí tuệ. Chính Ngài đã đem thần chú (Thủ Lăng Nghiêm do Phật truyền dạy) đến nhà Ma Đăng Già, giải thoát cho ông A Nan khỏi sa vào hố tội lỗi.
    Về lược sử của Đức Văn Thù, Kinh Pháp Hoa có chép: Về phương Đông có một nơi gọi là rặng núi Thanh Lương, từ xưa đến nay các vị Bồ Tát đều tập hợp nơi đó. Trong số nầy có Văn Thù Bồ Tát và các quyến thuộc tới một vạn người, nhân đó Ngài Văn Thù thường đến thuyết Pháp hóa độ chúng sanh.
    Trong Văn khố Từ Bi Âm lại chép: Đức Văn Thù Bồ Tát lúc chưa thành Đạo, Ngài là con thứ ba của Vua Vô Thánh Niệm tên là Vương chúng Thái Tử.
    Lớn lên, Ngài nhờ Phụ Vương khuyên bảo nên phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và Tăng chúng trong ba tháng. Và nhờ quan đại thần Bảo Hải (thân phụ của Bảo Tạng Như Lai) khuyên Thái Tử nên đem công đức ấy mà cầu các món trí tuệ, đồng thời nên hồi hướng về ngôi Phật quả, để hóa độ chúng sanh. Cõi của Ngài phải thanh tịnh trang nghiêm, thọ mạng lâu dài…Nếu không được như trên Ngài nguyện không thành Phật. Nguyện xong, Đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử là Phật Đại Trượng Phu, trí tuệ sáng suốt nhiệm mầu. Phật cũng đặt pháp hiệu cho Ngài là Văn Thù Sư Lỵ. Trải vô lượng kiếp sẽ thành Phật, hiệu Phổ Kiến Như Lai, ở thế giới Thanh Tịnh vô cấu bảo chỉ. (Có chỗ chép là Phổ Hiến Như Lai hay Phổ Hiện Như Lai)
    THUYỀN BÁT NHÃ: (Xem CT câu 39, T-2, Q.2).
    BUỒM LOAN:(Xem CT Thuyền loan câu 534, T-1, Q.1).
    XUÊ XANG: Sung sướng, tốt đẹp.
    PHỈ TÌNH: (Xem CT câu 172, T-2, Q.3).
    YÊU ĐƯƠNG: Cũng gọi là yêu đang, có nghĩa: Tình yêu tự nhiên do huyết thống hay ái tình. Nhưng chữ yêu ở đây chỉ cho sự yêu thương của bậc thầy với đệ tử, của Phật đối với chúng sanh. Đức Thầy có câu:
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.

    CHÁNH VĂN
    409.-Bàn-môn tài phép nào tường,
    Kêu Trời giậm Đất cũng thì dạ rân.
    Nói cho trần-thế liệu toan,
    412.-Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.
    Nó làm nhiều phép nhiều môn,
    Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng-sanh.
    Thành binh sái đậu cũng rành,
    416.-Nếu tin thời mắc tan tành về sau.
    Bây giờ bất luận người nào,
    Không dùng của thế sắc màu cũng không.
    Nói cho bổn-đạo rõ lòng,
    420.-Ấy là chơn-chánh mới hòng vinh-vang.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 409 đến câu 420)
    -Đoạn nầy Đức Thầy tiên tri: Sau đây sẽ có Bàn môn tả đạo ra đời nó có nhiều pháp lạ, uy quyền, một tiếng kêu trời, một cái giậm đất cũng đều ứng theo. Vậy bá tánh nên lo liệu trước để xa lánh, kẻo lầm lạc theo nó mà hồn xác tiêu tan.
    -Chúng dùng đủ phương cách gạt gẫm người đời, nào sái đậu thành binh, kêu mưa hú gió, nào bùa chú thuốc mê, tiên đoán thời cơ, thấu tỏ cả tâm lý vận mạng…khiến người dễ mê tín. Nếu ai theo chúng, chẳng đưa mình đi đến đâu, kết cuộc chỉ rước lấy tai hại.
    -Để thấu triệt đâu tà, đâu chánh Đức Thầy dặn dò: Bất cứ một ai, không ham sắc tài danh vị, lìa bỏ sắc tướng thinh âm và chẳng lợi dụng của bá tánh thập phương, đó là người hành đạo chơn chánh, kẻ nào nương theo tất được kết quả cao quý.

    CHÚ THÍCH

    BÀN MÔN: Chỉ cho tà đạo (ngoại đạo), thường dùng yêu thuật lừa gạt hay sát hại sanh linh.
    LIỆU TOAN: Liệu lượng, toan tính, sửa soạn. Đức Thầy có câu;
    “Ai biết nghe thì sớm liệu toan,
    Để đến việc như người thất nghiệp”.

    (Giác Mê Q.4)
    TẢ ĐẠO: (Xem CT câu 77, T-2, Q.2).
    THÀNH BINH SÁI ĐẬU: Phép cầm nắm đậu vãi ra biến hóa muôn ngàn binh tướng, sát hại sanh linh. Đây là phép thuật của bọn bàn môn tả đạo. Truyện Tam Quốc chép: Thời mạt Hớn có giặc Huỳnh Cân (mỗi người đều trích khăn vàng). Cầm đầu là ba anh em Trương Lương, Trương Giác, Trương Bửu; mỗi khi ra trận, chúng hay dùng phép sái đậu thành binh để thắng đối phương. Sau bị Lưu Bị, Quan Công và trương Phi diệt trừ.
    Giữa thời mạt pháp nầy, cũng có lắm tà Đạo ra đời nhiễu hại lê dân. Đức Thầy cùng chư Phật Thánh có trách nhiệm diệt trừ:
    “Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
    Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh Cân”.

    (Đáp lời Ô. Nguyễn Kỳ Trân)
    SẮC MÀU CŨNG KHÔNG: Sắc là sự tướng, chỉ cho cái gì thấy được, cầm nắm sờ mó được kể cả sắc đẹp; Màu là các sắc xanh, đỏ, trắng, vàng. “Cũng không” là chẳng dùng màu sắc và hình tướng. Ở đây ý nói nhà tu nào không còn dùng âm thinh sắc tướng mới là chân chánh. Tỉnh Thế Ngộ Chơn có câu:“Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành”. Đức Thầy cũng từng khuyên:Hãy tìm kiếm cái không mới có.(Kệ Dân Q.2).
    Toàn câu có ý dạy: Ai hành theo chánh pháp vô vi mới đúng chơn lý và Chánh Đạo bằng ngược lại là lạc vào tà thuyết.
    VINH VANG:Tốt tươi thạnh vượng, rực rỡ vẻ vang.
     
    Sửa lần cuối: 16/1/15
  3. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    421.-Địa-Tiên tài phép đa đoan,
    Phi đao bửu kiếm mê-man mắt trần.
    Phật truyền thâu hết phép Thần,
    424.-Cứu an bá-tánh một lần nạn nguy.
    Phiên-binh bốn phía tứ vi,
    Kể sao cho xiết chuyện ni sau này.
    Lớp thì thú ác dẫy-đầy,
    428.-Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.
    Kẻ hung chừng đó làm mồi,
    Cho bầy ác-thú đền bồi tội xưa.
    Bây giờ còn mãi lọc-lừa,
    432.-Chẳng lo kiếm chỗ đụt mưa sau nầy.
    Hiền lành chừng đó sum-vầy,
    Quân-thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
    Đến đó Ta mới mừng cười,
    436.-Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định phân.
    Thiên-Hoàng mở cửa Các-Lân,
    Địa-Hoàng cũng mở mấy từng ngục-môn.
    Mười cửa xem thấy ghê hồn,
    440.-Cho trần coi thử có mà hay không.
    Nhơn-Hoàng cũng lấy lẽ công,
    Cũng đồng trừng-trị kẻ lòng tà-gian.
    Ấy là đến lúc xuê-xang,
    444.-Tam-Hoàng trở lại là đời Thượng-nguơn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 421 đến câu 444)
    -Đoạn giảng trên cho biết, sau nầy phái Địa Tiên dùng đủ tài hay phép lạ trưng bày để lòe mắt trần thế, khiến kẻ nhẹ dạ tưởng là Phật Tiên nên tin theo, không ngờ bị bọn chúng lợi dụng. Song đến ngày kết cuộc nhờ chư Phật dùng thần thông thâu hết tà thuật để cứu nguy bá tánh.
    -Trước khi ấy còn có tai nạn chiến tranh do quân xâm lược kéo đến bao vây, họ tranh giành giết chóc lẫn nhau, suốt cả ngày đêm thật là rùng rợn. Lại thêm các loài hổ lang ác thú, từ miền rừng núi tràn xuống sát hại sanh linh.
    -Những kẻ bấy lâu ăn ở hung bạo, gây nhân độc ác, giờ đây phải chịu cho các loài thú dữ phân thây để đền tội. Thế mà hiện giờ bá tánh mãi còn nghi ngờ lần lựa, chẳng sớm tìm Đạo tu hành hầu sau nầy được thoát qua nạn khổ.
    -Sau cuộc chiến loạn hãi hùng ấy, nhiều người hiền đức được sống còn, giữa Chúa tôi Thầy tớ đồng chung hưởng cảnh thanh bình vui đẹp, lại còn được xem sự định phân, thưởng phạt của Đức Ngọc Đế.
    - Bấy giờ, Vua Trời sẽ mở cửa đền vàng cho mọi người được thấy:
    “Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung.
    Dành cho kẻ lòng trung chánh trực,
    Quân cùng thần náo nức vui tươi”.

    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    Còn Diêm Vương cũng mở rộng mười cửa ngục, tất cả sự trừng phạt tội nhân được phô diễn rõ ràng trước mặt quần chúng, để khách trần thử xem có thật hay không ?
    -Riêng phần Đức Minh Vương (Nhơn Hoàng) cũng dùng lý công bằng mà Xử những kẻ hung hăng tồi tệ, Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn. (Giác Mê TK) Chính giờ phút ấy là bắt đầu của đời Thượng ngươn Thánh Đức.

    CHÚ THÍCH
    ĐỊA TIÊN: Số người tu theo bàn môn tả đạo, luyện bùa chú, phép thuật, được một vài thần thông linh thính. Hoặc chỉ cho những người có bộ óc sáng kiến, chế tạo các vũ khí tàn hại sanh linh. Đức Thầy có câu:
    Chúng lấy thuyết vô thần bài bác,
    Quyết một ngày thông đạt địa tiên”.

    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    PHI ĐAO BỬU KIẾM: Dao bay kiếm báu, một trong nhiều phép của tả đạo thường dùng, họ đọc thần chú rồi phóng đao hoặc kiếm bay đi giết người trong nháy mắt, dù là ở xa ngàn dặm. Ý chỉ kẻ tà đạo hay khoe tài để gạt người mê tín.
    PHIÊN BINH: Chỉ cho quân xâm lược, từ các nước khác kéo đến xâm lấn nước ta. Đức Thầy nói”
    “Lao xao bể Bắc non Tần,
    Quân phiên tham báu xa gần cũng qua.
    Tranh phân cho rõ tài ba,
    Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi

    QUÂN THẦN CỘNG LẠC: Vua tôi cùng hiệp mặt vui vầy. Đức Thầy có câu:
    “Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
    Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”.

    THIÊN HOÀNG: Ông Vua cai quản cõi Trời.
    CÁC LÂN: (Xem CT câu 309, T-2, Q.3).
    ĐỊA HOÀNG: Diêm La Vương, vị Vua cai quản cõi Địa ngục.
    NGỤC MÔN: Cửa ngục. Chỉ nơi nhốt các tội nhơn hung ác (Xem thêm chữ Địa ngục câu 66, T-1, Q.1).
    NHƠN HOÀNG: Vua cõi người, chỉ cho vị Thánh Vương đời Thượng ngươn sắp tới. Ngài Huệ Lựu đã nói:
    “Minh Vương xuất thế ngôi cao,
    Lập đời Thượng cổ anh hào hiền lương”.

    Đức Thầy cũng bảo trong “Kệ Dân, Q.2”:
    Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành,
    Đặng phân xử những người bội nghĩa”.

    XUÊ XANG: (Xem câu 406, T-2, Q.3).
    TAM HOÀNG: Chỉ cho ba vị Vua: Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng vừa giải trên (khác nghĩa với chữ Tam Hoàng thượng cổ).

    CHÁNH VĂN
    445.-Khuyên dân lòng chớ có sờn,
    Rán tu thì được xem đờn trên mây.
    Người hung chết đất chật thây,
    448.-Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.
    Mấy người còn được xác thân,
    Thì là Đài-Ngọc Các-Lân mới kề.
    Bây giờ kẻ nhún người trề,
    452.-Chê Ta rằng dại rằng khờ cũng cam.
    Dương-trần bỏ bớt tánh tham,
    Đừng chơi cờ-bạc đừng làm ác-gian.
    Để sau coi Hội coi hàng,
    456.-Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.
    Điếm-đàng đĩ-thõa chớ gần,
    Để sau xem thấy non Tần xôn-xao.
    Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
    460.-Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 445 đến câu 460)
    -Đức Giáo Chủ khuyên trong dân chúng, chớ nên sờn lòng nao núng trước nghịch cảnh, thử thách, cứ cố gắng tu hành mãi, hầu sau nầy thấy được cảnh:“Chín từng mây nhạc thổi tiêu thiều”.(Kệ Dân Q.2)
    Lức đó, những kẻ hung ác phải chịu thảm sát, thây nằm chật đất:“Cảnh sông máu núi xương tha thiết”.(Giác Mê TK Q.4) Trước tình cảnh ấy ai trông vào cũng bắt thương tâm.
    -Sau cuộc tuyển chọn đó, người nào còn sống nguyên xác thể, vào được đền vàng điện ngọc chầu mừng Chúa Thánh. Còn hiện giờ, dầu người đời có chê Đức Thầy là khờ dại, Ngài cũng cam tâm.
    -Ngài hằng khuyên bá tánh nên diệt trừ lòng tham lam ích kỷ, bỏ hẳn cờ bạc và những hành động gian tà, bạo ác. Đồng thời lo trau giồi đức hạnh, để sau nầy được dự các hội lành và kiến diện Phật Tiên tại miền Bảy Núi.
    -Nhứt là hãy tránh xa những chỗ ăn chơi trụy lạc, hành động hư thân mất nết. Mỗi người an phận với cảnh nghèo, để gìn tròn đạo hạnh, bền tâm kiên chí niệm Phật làm lành, ắt ngày kia được hưởng cảnh an nhàn tự tại.

    CHÚ THÍCH
    TÁNH THAM: (Xem CT câu 840, T-1, Q.1).
    ÁC GIAN: (Xem CT chữ Gian ác câu 264, T-1, Q.1).
    COI HỘI COI HÀNG: Xem các hội lớn. Theo cơ giảng thì sau nầy có nhiều cuộc hội tại miền Thất sơn (Việt Nam) như: Hội do các nước tranh giành châu báu:
    Theo ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hàng Năm non”.

    (Thiên lý ca)
    -Hội Tiên Phật tuyển chọn người hiền:
    “Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà,
    Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.

    (Thức tỉnh một nữ tín đồ)
    Hoặc là:
    Ai mà sửa đặng vuông tròn,
    Long Vân đến hội lầu son dựa kề”.
    (Sám Giảng Q.3)
    Và:
    “Muốn xem được hội Long Đình,
    Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn”.

    (Để chơn đất Bắc)
    ĐIẾM ĐÀNG: Kẻ gian xảo hay lường gạt người. Những kẻ chơi bời, ăn mặc diêm dúa. Ví dụ: dân cờ bạc đàng điếm.
    ĐĨ THÕA: Đĩ, gái điếm, đàn bà bán dâm cho khách làng chơi. Ví dụ: chơi bời đĩ thõa.
    NON TẦN: (Xem CT câu 416, T-1, Q.1).
    XÔN XAO: Cũng gọi nhôn nhao. Có nghĩa ồn ào rộn rịp: Thiên hạ lao xao giữa cõi trần”.(Cổ thi)
    BỀN LÒNG NIỆM PHẬT: Ý dạy người tu môn Tịnh độ (niệm Phật) phải có chí bền. Cứ trì niệm mãi cho đến khi diệt sạch vọng trần. Hoặc:
    Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,
    Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.

    (Cho cô năm Võ thị Hợi)
    Không vì hoàn cảnh khó khăn hay thời gian dài dặc mà đổi thay, thối chuyển. Ngài Huệ Lựu có viết:
    “Bền lòng niệm Phật ân cần,
    Gắng công tu niệm cũng bằng bạc muôn”.

    Đức Thầy nay cũng dạy:
    “Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,
    Di Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn”.

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    THANH NHÀN: Cũng gọi là nhàn thanh. Có nghĩa: thảnh thơi nhàn nhã. Đức Thầy có câu:
    Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”.


    CHÁNH VĂN (Từ câu 461 đến câu 532)
    461.-Đừng quen thói cũ làm càn,
    Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ.
    Khi xưa Ta cũng làm thơ,
    464.-Mà đời trần-hạ làm ngơ ít nhìn.
    Dạy cho trần- thế phỉ tình,
    Đàng Tiên cõi tục phân minh hai đường.
    Bây giờ hát-bộ là thường,
    468.-Để sau Phật hát tỏ tường cho xem.
    Cải-lương tuồng ấy cũ mèm,
    Tốn tiền buồn ngủ lại thèm đồ ăn.
    Nhảy lui nhảy tới lăng-xăng,
    472.-Làm tuồng mèo mả thêm nhăng cho đời.
    Hạ-nguơn lòng dạ đổi dời,
    474.-Bây giờ khổ-não đến đời là đây.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 462 đến câu 474)
    -Đoạn nầy Đức Thầy kêu gọi bá tánh hãy dứt bỏ những thói xấu xa từ trước, như: tham gian, trộm cắp,…làm cho thôn xóm chán ghét. Tiền kiếp Ngài cũng có lần viết Kệ Giảng, khuyến hóa nhân sanh, nhưng không được mấy người để ý.
    -Ngày nay Đức Thầy dạy thật nhiều, để cho dân chúng rõ đâu là đường về Tiên cảnh, siêu thoát an vui và đâu là đọa lạc trần mê sanh tử, hầu chọn một lối đi tốt lành an tịnh. Ngài cũng khuyên mọi người, không nên xem hát xướng, vì lối hát bội từ trước tới nay là thường sự. Hãy lo tu hành đi, rồi sau nầy Trời Phật sẽ giúp cho, xem được cuộc diễn biến của tuồng đời rất ly kỳ.
    -Đến như các đoàn cải lương hiện giờ, họ cũng diễn đi diễn lại những tuồng tích cũ mèm, xem chẳng bổ ích chi, lại còn tốn tiền vô lý. Phần nhiều họ phô diễn các tuồng tích, tình tứ lã lơi, khêu gợi lòng ái dục, khiến con người quên hết nền nếp gia phong, rồi gây thêm nghiệp tội mà giờ đây đành chịu khổ.

    CHÚ THÍCH
    PHỈ TÌNH: (Xem CT câu 172, T-2, Q.3).
    ĐÀNG TIÊN CÕI TỤC: Đàng Tiên là con đường siêu thoát về cõi Tiên; Cõi Tục là cảnh thế gian (phàm tục) chúng sanh đang ở. Ý nói Đức Thầy dùng lời Kệ Giảng phân giải rõ ràng về đường lối, cách thức làm thế nào được về cảnh Tiên hưởng sự tiêu diêu khoái lạc, và hành động ra sao mà phải vào cuộc phàm tục, chịu muôn ngàn khổ não.
    PHÂN MINH: (Xem CT câu 208, T-2, Q.3).
    HÁT BỘ: Cũng gọi là Hát bội. Một lối hát tuồng có sân khấu và tranh cảnh, màn trướng (thời xưa có khi không dùng màn ảnh). Đào kép dùng điệu bộ nhứt định cho từng trường hợp, để diễn tả các cảnh vui buồn. Cách hóa trang, cũng nhứt định cho mỗi vai: Trung, Nịnh, Hiền, Hung, lời đặt để theo ba điệu: Nam, Khách và Nói lối.
    CẢI LƯƠNG: Là hát cải lương. Một lối hát trên sân khấu như hát bội, nhưng tuồng tích có cả xưa và nay cũng được phân màn, phân cảnh như lối hát Âu Châu. Lời hát đặt theo các điệu ca, lý. Nam Bắc, Âu, Tàu; nhạc đệm phần nhiều là nhạc Âu. Trong ngày xưa, Ngài Huệ Lựu đã khuyên:
    “Đừng ham hát bộ cải lương,
    Để sau coi hát của Vương Minh Hoàng.
    Cải lương là thói điếm đàng,
    Hát bộ giễu xóm, giễu làng xưa nay”.

    MÈO MẢ: Do thành ngữ “Mèo mả gà đồng” ý chỉ cho hạng đàn ông, đàn bà hoặc trai gái tư tình với nhau; hẹn hò gặp gỡ nhau nơi nầy, nơi nọ, trái với phong tục lễ giáo. Như mèo đực mèo cái nhảy nhau ngoài gò mả, gà trống đạp gà mái ngoài đồng; gà đồng còn có ý nghĩa loài ếch: chúng thường bắt cặp nhau ở chỗ có nước lắp xắp. Đức Thầy có câu:
    Xưa nay mèo mả lung lăng,
    Làm cho quên mất Đạo hằng Thánh nhơn”.

    (Đáp lời Ô. Lương văn Tốt)

    CHÁNH VĂN
    476.-Rán nghe lời dạy của Thầy,
    Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
    Tây-Phương Thầy lại quá xa,
    Nên Ta mới nói cạn lời dân nghe.
    Đừng ham lên ngựa xuống xe,
    480.-Ăn xài phí của lụa the làm gì.
    Xuống trần Ta dạy cố lỳ,
    Cốt cho trần-thế nghe thì mới thôi .
    79.-Ngày nay xe lết xe lôi,
    484.-Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
    Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê,
    Chúng-sanh thế-giới ê-hề thây phơi.
    Trạng-Trình truyền sấm mấy lời,
    488.-Ngày nay dân-chúng vậy thời rán tri.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 475 đến câu 488)
    -Đức Giáo Chủ khuyên mọi nguời hãy sớm tu hành theo lời dạy bảo của Ngài, kẻo để việc khổ tới nơi rồi tu chẳng kịp và lúc ấy dầu muốn gặp Ngài cũng không thể được. Vì Ngài đã ở quá xa bên cõi Tây phương, tâm hồn của kẻ hung ác làm sao giao cảm với Phật được.
    -Do đó, Ngài dùng đủ lời khuyên dạy: bá tánh chẳng nên ham danh lợi, giàu sang, ăn xài phung phí. Bởi sự sang cả ấy chẳng được bao lâu thì cảnh khổ cũng kề đến.
    -Ngài lâm phàm độ thế, chẳng nệ công lao nhọc, dốc một lòng truyền Đạo mãi mãi cho đến khi nào chúng sanh hướng thiện, Ngài mới an nghỉ.
    -Đức Thầy còn cho biết về thế cuộc từ đây sắp đến, sẽ diễn biến đúng y theo lời Sấm của Cụ Trạng Trình thời nhà Lê, vậy bá tánh hãy rán tìm hiểu. Như trường hợp cuộc Đệ nhị thế chiến vào năm Rồng (Canh Thìn – 1940), chúng sanh phải chịu cảnh chết chóc thê thảm, dẫn đến năm Ất Dậu (1945); chiến cuộc mới chấm dứt, thế giới tạm hòa bình:
    Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
    Can qua xứ xứ khởi đao binh.
    Mã đề dương cước anh hùng tân,
    Thân Dậu niên lai kiến thái bình”.
    (Giảng xưa)
    Việc nầy hồi năm Kỷ Mão (1939), Đức Thầy cũng đã tiên tri trong một đoạn giảng:
    Mèo kêu bá tánh lao xao,
    Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
    Con ngựa lại đá con dê,
    Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
    Khỉ kia cũng bị xáo xào,
    Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng”.

    (S/Giảng Q.1)

    CHÚ THÍCH
    TÂY PHƯƠNG: (Xem CT câu 279, T-2, Q.2).
    LÊN NGỰA XUỐNG XE: (Xem CT câu 143, T-2, Q.2).
    LỜI SẤM TRUYỀN: Cụ Trạng họ Nguyễn, húy Bỉnh Khiêm, tự Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, đời sau gọi Ngài là Tuyết Giang phu tử.
    Cụ sinh năm Tân Hợi (1491), đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ 22, tại làng Cổ Am (Trung An), huyện Vĩnh Lạc (nay là Vĩnh Hảo), tỉnh Hải Dương, Bắc phần Việt Nam.
    Thân sinh là ông Văn Đình, sau được nhà Mạc truy tặng chức Thái Bảo Nghiêm Quận Công. Thân mẫu là con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Nhữ văn Lâu; sau Bà đặng truy tặng là Từ Thục Phu nhân.
    Thuở nhỏ Ông thông minh lạ lùng, mới bốn tuổi được song thân tận tình chỉ dạy truyền khẩu, những nghĩa lý trong Tứ Thơ, Ngũ Kinh cùng các kinh truyện khác. Lớn lên, Ông theo học với quan Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Bỉnh Khiêm học rất giỏi và nổi tiếng về văn thơ.
    Một hôm Lương Đắc Bằng đau nặng, biết không thể sống được, bèn trao cho Bỉnh Khiêm một quyển sách tên là Thái Ất Thần Kinh, quyển sách nầy trước kia do người Tàu tặng cho Ông khi Ông đi sứ sang Trung Quốc. Nguyễn Bỉnh Khiêm cố công nghiên cứu sách ấy, chẳng bao lâu Ông thông suốt những huyền vi của Trời Đất. Từ đó, Ông nổi tiếng về khoa Lý số.
    Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, trong nước loạn lạc, Ông không chịu xuất chính. Nhưng nhà Mạc buộc các sĩ phu phải ra ứnh thí, để triều đình tuyển chọn hiền tài ra giúp nước. Nhân có mẹ già cần đủ y thực cung phụng, và nhiều bạn hết sức khuyên giải, Ông mới miễn cưỡng lai Kinh ứng thí. Bấy giờ Ông được 44 tuổi, đặng đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương. Năm sau thi Đình, Ông đỗ Trạng Nguyên, nhằm niên hiệu Đại chính, đời vua Mạc Đăng Doanh.
    Ông được nhà Mạc phong chức Lại Bộ Tả Thị Lang kiêm Đông Các Đại Học sĩ. Làm quan được 8 năm, Ông có dâng sớ hạch tội và xin Vua nghiêm trị bọn lộng thần; nhưng thấy không hiệu quả Ông bèn từ quan (1542, đời Mạc Phúc Hải) vể trí sĩ. Khi về làng, Ông lập một cái am để tu dưỡng, đặt tên là “Bạch Vân Am”, lấy hiệu là Bạch Vân Cư sĩ. Ông cũng có dựng lên một cái nhà nghỉ mát bên sông Tuyết Giang, đặt tên là Trung Tâm Quán. Do đó về sau môn đệ của Ông tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử.
    Tuy trí sĩ, nhưng nhà Mạc vẫn tôn trọng Ông vô cùng. Có công việc gì khó giải quyết, họ đều đến hỏi Ông. Sau hai năm trí sĩ, nhà Mạc lại phong cho Ông chức Trình
    Nguyên Hầu, rồi lại thăng chức Lại Bộ Thượng thư, tước Trình Quốc Công, nên người đời mới gọi Ông là Trạng Trình.
    Là một bậc túc nho thông kim Bác Cổ, một sĩ phu tài danh lỗi lạc, cũng là một nghệ sĩ có tâm hồn phóng khoáng với những cảm hứng chân thành và cũng là một nhà lý số chân chính, Ông thường dùng thi ca để truyền bá tư tưởng và Đạo đức, vừa có tánh cách giáo dục người đời và vừa tiên tri thời cuộc sắp đến. Về Hán văn, Ông có viết một tác phẩm nhan đề là “Bạch Vân Am tập”, gồm có cả ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả tình. Về thơ Nôm có tập “Bạch Vân Quốc ngữ thi”. Trong tập nầy, những bài thơ thường không có đề mục nhất định, có những bài tả cảnh, tả tình, tán thưởng cuộc đời nhàn hạ, hoặc nói về nhơn tình thế thái. Hiện nay chỉ còn lối 500 bài chữ Hán và 100 bài chữ Nôm, cùng một ít bài Sấm ký.
    Chẳng những toàn nước Việt Nam mà đến người Trung Hoa cũng phục tài tiên tri của Ông, nên có lời ca tụng:An Nam lý học hữu Trình truyền”.(Nước Việt Nam có ông Trạng Trình là bậc tinh thông về khoa Lý học).
    Vì thế, từ vua tôi nhà Mạc đến Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn đều một lòng tôn kính, và thường tới lui thăm viếng, để nhờ ông đoán việc mai hậu.
    Sử chép: Khi Trạng Trình lâm trọng bịnh, Mạc Mậu Hợp biết ông là người thông suốt việc quá khứ vị lai, bèn sai con đến thăm và hỏi hậu vận nhà Mạc. Ông bảo:Nếu sau nầy có biến, nên rút về mạn Cao Bằng. Chỗ nầy tuy nhỏ, nhưng cũng dung thân được vài đời. Nhà Mạc nhớ lời Ông, quả nhiên về sau nhà Lê Trung Hưng đánh bại nhà Mạc, con cháu nhà Mạc thất thế chạy lên chiếm cứ mạn Cao Bằng Lạng Sơn, yên thân ở đây và truyền được hai đời Vua nữa, trước sau được 70 năm nhà Mạc mới dứt.
    -Lại có chuyện: Nguyễn Kim chết, người rể là Trịnh Kiểm chiếm giữ binh quyền, giết em vợ là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng là em ruột sợ vạ lây, liền cho người đến vấn kế Ông. Ông dắt ra chỉ đàn kiến đang bò ở hòn non bộ, cười nói:Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”.(Một dãi Hoành Sơn, có thể yên thân muôn đời). Nguyễn Hoàng hiểu ý, rồi nhờ chị là Ngọc Bảo Công chúa năn nỉ với anh rể là Trịnh Kiểm xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Nhờ đó, mà Nguyễn được cơ hội xây dựng sự nghiệp lâu dài, ứng vào lời tiên tri của Ông.
    -Trạng Trình còn tiên tri việc người Pháp (thằng Tây) bị mất quyền tại Việt Nam, từ ngày, tháng, năm không sai một mảy:
    “Đầu xuân gà gáy hăm tư,
    Thầy tăng mãn hạn hoa trư tuyệt kỳ”.

    Đầu xuân chỉ cho tháng Giêng, gà gáy là năm Ất Dậu (1945), hăm tư là đêm 24 sáng 25, Thầy tăng nói lái lại là thằng Tây. Vậy hiểu chung là chỉ cho thằng Tây (người Pháp), bị mất quyền tại Việt Nam vào đêm 24 rạng 25 tháng Giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 09/03/1945) do Nhựt đảo chánh Pháp.
    Đó là các việc đã qua, còn những việc đang và sắp đến, cũng xin trích dẫn ra đây một vài đoạn để mọi người thử nghiệm xét:
    “Dục thức Thánh Nhân xứ,
    Đa xuất ứng Bảo Giang”
    ---

    “Hoà thôn đa khuyển phệ,
    Mục giả giục nhân canh.
    Bắc hữu kim thành tráng,
    Nam tạc ngọc bích thành.
    Phân phân tùng bách khởi,
    Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.
    Bảo Giang Thiên Tử xuất,
    Bất chiến tự nhiên thành”.

    ---
    “Phá điền Thiên Tử xuất,
    Bất chiến tự nhiên thành”.
    ---
    “Cửu cửu càn khôn dĩ định,
    Thanh minh thời tiết hoa tàn.
    Trực đáo Dương Chi đầu Mã Vĩ,
    Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
    ---
    “Canh niên tàn phá
    Tuất Hợi phục sinh
    Nhị ngũ như bình”.


    -Cụ Trạng Trình mất vào ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) đời vua Mạc Mậu Hợp, niên hiệu Duyên Hành năm thứ 5, tức năm thứ 8 niên hiệu Quang Hưng vua Thế Tôn nhà Lê, hưởng thọ 95 tuổi.

    CHÁNH VĂN

    489.-Hiền nhơn bổn phận tu mi.
    Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền-cơ.
    Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
    492.-Chúng-sanh còn đợi còn chờ chuyện chi.
    Trên Trời xuất hiện Tử-Vi,
    Quang-minh sáng-suốt vậy thì dân ôi !
    Thương dân khó đứng khôn ngồi,
    496.-Xót-xa dạ Ngọc bồi-hồi tâm Trung.
    Gió dông thì cội cây rung,
    Phương xa có giặc thung-dung đặng nào ?
    Trời tây chúng nó hùng-hào,
    500.-Đem lòng gây-gổ máu đào mới tuôn.
    Cầu Trời cho chúng qua truông,
    502.-Thế-gian yên-lặng hát tuồng khải ca.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 489 đến câu 502)
    -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết, bổn phận nam nhi, cần tu sửa thân tâm cho được hiền lương nhơn ái và hãy sớm thức tỉnh suy tầm lẽ huyền cơ Đạo lý. Cuộc thế hiện nay chẳng khác ngọn đèn bị hết dầu, chỉ còn gượng chớp một vài tia sáng, rồi cũng tắt mất, thế mà chúng sanh cứ mãi chần chờ, chẳng chịu sớm tìm lối thoát.
    Bấy giờ vì sao Tử Vi đã xuất hiện trên nền Trời và chiếu sáng để báo tin thời đen tối sắp hết, vị Thánh Quân sẽ trổ mặt, kiến lập cuộc đời mới. Giữa thời gian thay đổi ấy, nhơn loại phải chung chịu cảnh đau thương tang tóc, nên lòng Đức Thầy thương xót khôn cùng.
    -Trời giông bão, cả cây cối đều bị vật ngã xác xơ, cũng như chiến tranh thế giới bùng nổ thì sớm muộn gì nước ta cũng bị vạ lây. Đức Thầy muốn chỉ rõ cuộc đổ máu hiện giờ, là do lòng tham ác từ dân Âu châu tạo ra rồi lan diễn khắp Á châu. Do đó, Đức Giáo Chủ hằng cầu nguyện cho vạn dân, sớm vượt qua khổ nạn, hầu toại hưởng cảnh thái bình an lạc.

    CHÚ THÍCH
    TU MI (Xem CT câu 111, T-2, Q.2).
    HUYỀN CƠ: (Xem CT đoạn 2 bài Sứ Mạng).
    TỬ VI: Theo khoa Tướng số thì Tử Vi là một vì sao chánh trong việc coi bói. Còn theo sách Thiên văn Tàu thì Tử Vi là vì sao của bậc Minh Quân (Bắc Cực Tử Vi Đại Đế). Đây chỉ cho vì sao Đức Thánh Vương của Việt Nam sau nầy.
    DẠ NGỌC: Lòng trong trắng quí báu như châu ngọc. Chỉ cho lòng dạ của bậc cao cả, đã lóng sạch phàm tâm. Đức Thầy có câu:
    Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,
    Không nhắc đến biết đâu dân sửa”.

    (Giác Mê Q.4)
    BỒI HỒI: (Xem CT câu 143, T-1, Q.1).
    TÂM TRUNG: Trong lòng.
    TRỜI TÂY: Cũng gọi là trời Âu. Chỉ cho vùng trời Âu châu, bởi dân Âu châu gây nên cuộc Đệ nhị Thế chiến. Đức Thầy đã nói trong bài “Nang thơ Cẩm tú”:
    Cuộc lung tung rối rắm trời Âu,
    Nên còn ngại bước đường trở gót”.

    QUA TRUÔNG: Truông là vùng đất hoang, cây cỏ rậm rạp như rừng (truông mây). Nghĩa bóng là chỉ cho tai nạn khó khăn. Qua truông là thoát qua tai nạn khổ sở. Đức Thầy có câu:Núi truông qua đặng rán lần dò.(Thiên lý ca)
    KHẢI CA: (Xem CT câu 54, T-2, Q.2).

    CHÁNH VĂN

    504.-Tây-Phương tuy ở cõi xa,
    Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.
    Ước-mong dân khỏi nạn tai,
    Dắt-dìu Tiên-cảnh Bồng-Lai nhiều người.
    Xem trần khó nỗi vui cười,
    508.-Lo giàu lo lợi chẳng rồi bớ dân.
    Mẹ cha là kẻ trọng ân,
    Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già.
    Giường linh đơm quảy mới là,
    512.-Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi !
    Ta là thân phận làm tôi,
    Phải đền phải đáp cho rồi mới hay.
    Mặc ai tranh luận đấu tài,
    516.-Khuyên dân nên hãy miệt-mài chữ Tu.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 503 đến câu 516)
    -Tuy chư Phật ngự từ bên cõi Tây phương xa thẳm, song nếu có một ai biết hối lỗi và thành tâm tưởng nhớ, tất Phật Ngài sẽ cảm ứng ngay và dùng thần lực đến gia hộ cho hành giả đó. Đức Thầy cũng hằng mong mỏi cho vạn dân được thoát qua tai nạn cùng dìu nhau đến cảnh Tiên Phật, hầu chung hưởng cảnh an nhàn siêu thoát. Ngài nhìn khắp cõi trần thấy trong bá tánh khổ nhiều vui ít, thế mà họ mãi chạy theo vật chất tiền tài, rốt cuộc đâu chẳng rồi đâu, chỉ thấy nghiệp khổ càng thêm chồng chập.
    -Đức Thầy luôn kêu gọi mỗi người hãy nhớ đến công ơn sâu dày của cha mẹ, để sớm lo báo đáp. Lúc cha mẹ già yếu, phận làm con phải hết lòng hiếu dưỡng, chăm sóc từ miếng ăn, thức mặc, chí đến lúc ngủ nghỉ ốm đau, nhứt nhứt đều làm cho cha mẹ vui lòng. Chẳng may Ông bà, Cha mẹ từ trần, ta không đợi đến ngày giỗ mới làm mâm cao cổ đầy cúng tế, mà ngay như mỗi bữa ăn dầu dĩa dưa, hạt muối cũng nên, miễn là biết thành lòng tưởng nhớ và nguyện vái “Cửu Huyền Thất Tổ” về thọ dụng với mình là được.“Tưởng sự vong như thể sự tồn”, đó là đúng cách của người con báo hiếu.
    -Cho nên sống trong một gia đình hay một Quốc gia, bổn phận làm tôi con, phải lo đền đáp cho tròn câu hiếu nghĩa. Mặc cho người đời luận tranh cao thấp, phần ta cứ mãi đắp bồi công đức để được viên thành Đạo quả.

    CHÚ THÍCH
    BỒNG LAI: (Xem CT câu 192, T-1, Q.1).
    TRỌNG ÂN: Ân nặng, ý nói công ơn của cha mẹ sanh con và nuôi dưỡng cho đến lúc lớn khôn rất sâu nặng lớn lao. Đây là một trong “Tứ Đại Trọng Ân”. Ca dao có câu:“Gươm vàng rớt xuống hồ tây, Công cha cũng trọng, ân Thầy cũng sâu”. Hoặc là:“Công cha nặng lắm ai ơi ! Nghĩa mẹ bằng Trời chín tháng cưu mang”.
    Đức Thầy cũng dạy:
    Sách có chữ thâm ân dục báo,
    Phận làm người hiếu thảo noi gương”.

    (Sa Đéc)
    DƯỠNG NUÔI BÁO HIẾU: Phận làm con phải biết tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ, để báo đáp công ơn. Bởi:“Hiếu là cái cực điểm của sự lành, còn bất hiếu là cái cực điểm của sự ác”.(Nhẫn nhục Kinh) Và Kinh Báo Hiếu, Phật có dạy:“Con nuôi cha mẹ dùng cam lồ đặng làm vừa miệng, tấu mọi tiếng thiên nhạc để làm vui tai, dâng áo tốt, đồ báu làm đẹp thân thể, một vai cõng mẹ, một vai cõng cha, đi khắp bốn biển. Đó là hạnh hiếu lớn, không gì hơn nữa”. Nhưng Phật còn dạy rằng:“Đó chưa phải là đủ. Nếu cha mẹ ngang trái tối tăm, chẳng thờ Tam Bảo, hung ngược tàn ác làm các nghiệp dữ; con phải can gián, khiến cha mẹ phát lòng tin, qui y chánh Đạo, thường hành lục độ, từ, bi, hỉ, xả, đối diện bậc tri thức, thường hay cung kính, vâng nghe giáo pháp, niệm Phật tu hành, nguyện thoát luân hồi, vãng sanh lạc thổ. Nếu y theo đó mà hành hiếu, mới có thể gọi là báo ân”.
    Đức Thầy nay cũng khuyên:
    “Bần cùng cũng sớm liệu toan,
    Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.
    Mộ khan thần tỉnh cần triêu,
    Khỏi cơn hoạn nạn Lam Kiều được lên”.

    (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    GIƯỜNG LINH: Cũng gọi là giường thờ, do chữ Linh sàng, tức là bàn thờ Ông bà. Nghi thức thờ Ông Bà thời xưa, người ta để giữa, trước mặt một cái bàn cao, có lư hương, chưn đèn, lư…còn phía sau là cái giường nhỏ, thấp, có trải chiếu gối dựa, trầu thuốc đầy đủ, ý tưởng như Ông Bà có ở (nghỉ) thiệt trên đó.
    ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là Quảy đơm. Có nghĩa đem các thức ăn (cổ) lên giường linh cúng Ông Bà cha mẹ. Ví dụ: giỗ quảy hay đơm quảy. Đức Thầy có dạy:Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy” “Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái “Cửu Huyển Thất Tổ”, Ông Bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo.(Sự cúng lạy của người Cư sĩ tại gia)

    CHÁNH VĂN
    517.-Giảng này ra cuối mùa thu,
    Dạy ăn dạy ở chữ Tu vuông tròn.
    Học theo mối đạo làm con,
    520.-Luận xem học mới mấy đon đời nầy.
    Văn-minh sửa mặt sửa mày,
    Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
    Dọn xem hình vóc lả-lơi,
    524.-Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
    Trong tâm nhớ những điều tà,
    Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.
    Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
    528.-Chẳng trau hiền-đức học-hành làm chi?
    Khôn-ngoan thời những chuyện gì,
    Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.
    Người xưa nó lại khinh chê,
    532.-Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 517 đến câu 532)
    -Đức Thầy viết quyển Sấm Giảng nầy vào khoảng tháng chín (cuối muà Thu) năm Kỷ Mão (1939). Ngài chỉ dạy bá tánh về cách ăn ở đối xử cho đúng với ý nghĩa chữ tu, nhứt là bổn phận làm con đối với cha mẹ cần được vẹn toàn câu hiếu nghĩa. Kế đó Ngài bàn đến hạng người đua đòi theo nếp sống mới của Âu Tây.
    -Bởi quá say mê nền Văn minh Vật chất nên phần đông các thanh niên nam nữ lo trau hình sửa dạng, ăn mặc lã lơi, nói năng toàn những việc bướm ong dục lạc.
    -Tâm tư của họ chất chứa điều xằng xiên tà khúc, lo điêu luyện ngôn ngữ khôn lanh, xảo quyệt, ỷ vào tài học thức, tự cho mình là hay giỏi, chẳng màng đến việc hiền đức là gì.
    -Thường thấy họ đem mớ học thức, gian ngoan ấy để lừa bịp dân quê, chớ không giúp ích cho đời được điều chi, trở lại chê đùa khinh dể Ông cha mình, còn cổ hủ mê tối:
    Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
    Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

    (Trao lời cùng Ông Táo)

    CHÚ THÍCH
    VUÔNG TRÒN: Trọn vẹn hoàn toàn:Ai mà sửa đạng vuông tròn, Long Vân đến hội lầu son dựa kề.(Sám Giảng Q.3)
    ĐẠO LÀM CON: Bổn phận làm con đối với cha mẹ phải vẹn tròn câu hiếu thảo. Đức Thầy có dạy:Con thì ăn ở nhu mì, Học theo luân lý kính vì mẹ cha. Và Lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự Hòa Hảo trong đ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh thoát đọa trầm luân”.(Tứ Ân: Ân Tổ Tiên Cha Mẹ)
    MẤY ĐON: Đon là đó (Đại danh từ, tức tiếng để gọi người trang lứa, với ý là tránh tiếng “anh” và “mầy” do chữ “dis done”). Vậy mấy đon là mấy người đó. Ý chỉ cho số người chạy theo nền văn vật của Âu Tây.
    LẢ LƠI: Đùa cợt hở hang, ăn mặc và cách đối xử không trang nghiêm đứng đắn.
    VĂN MINH: (Xem CT câu 521, T-1, Q.1).
    NGUYỆT HOA: Cũng gọi là hoa nguyệt. Có ý nghĩa trăng và hoa. Chỉ cho việc trai gái tư tình với nhau. Cách ăn nói hay đùa mây cợt gió của hạng người hư thân mất nết.
    HIỀN ĐỨC: (Xem CT câu 66, T-2, Q.3).
    HỦ BẠI: Thối nát, quá xưa (cổ hủ) kém văn minh.
    : Tối tăm mờ ám.

    CHÁNH VĂN (Từ câu 533 đến câu 612)
    533.-Tự-do trai gái kết tình,
    Với lo trau-sửa cho mình đẹp tươi.
    Gái trai đến tuổi đôi mươi,
    536.-Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả-lơi.
    So hình sửa sắc chiều mơi,
    Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.
    Cớ sao chê cổ trọng kim,
    540.-Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
    Thấy đời trần-hạ thon-von,
    Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.
    Ông cha thuở trước ngu-si,
    544.-Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
    Học hay lợi dụng tiền tài,
    Lên quan xuống huyện ăn-xài lả-lê.
    Gặp ai đói rách cười chê,
    548.-Miệng kia hễ mở chửi thề vang rân.
    Chẳng lo rèn trí lập thân,
    550.-Để làm xảo-trá khổ thân sau nầy.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 533 đến câu 550)
    -Đoạn nầy cho biết thời nay, trai gái mới lớn lên đã biết tô điểm son phấn, sửa sắc chuốt mày và tự cấu kết tình duyên với nhau, chớ chẳng đợi lịnh của cha mẹ. Khi đến tuổi đôi mươi lại càng không kiêng nể ai nữa, mặc tình nói cười suồng sã.
    -Sớm chiều lo chưng diện hở hang, sửa mình nhắm vóc, để hành động toàn những việc trái ngược với mỹ tục thuần phong, chê đùa nền luân thường đạo nghĩa cổ truyền, phụ rãy tổ tiên nòi giống. Đức Thầy thường cảnh tỉnh hạng người ấy trong bài “Gìn tục cổ”:
    “Cũng dòng dân Việt cũng màu da,
    Sao lại chê bai thói tục nhà.
    Phong hóa lễ nghi trề nhún bỏ,
    Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam gia”.

    -Nhận xét cõi trần sắp đến hồi nguy khổ, thế mà người đời chẳng nghĩ đến công ơn cha mẹ, buông lời khinh chê vô lễ. Tuy Tổ tiên ta trước kia có kém văn minh tiến bộ, nhưng tánh tình rất trung thực hiền hòa hơn con người thời nay.
    -Bây giờ người ta hay dùng tài học thức, khôn xảo, xu phụng hạng quan quyền, lợi dụng tiền bạc của dân quê, để tiêu xài phung phí. Gặp ai nghèo đói tật nguyền, họ lại nhạo chê khinh rẻ, mở miệng thì xưng hô lớn lối, chửi thề thô tục. Thế nên, Đức Thầy kêu gọi hạng người nói trên, hãy lo nuôi chí lập thân, tu rèn trí đức :
    Khuyên bổn đạo lập thân nuôi chí,
    Đặng chờ ngày yết kiến Phật Trời”.

    (Giác mê Tâm kệ, Q.4)
    Đừng hành động gian xảo mà sau nầy phải vương khổ lụy vào thân.

    CHÚ THÍCH

    VÔ LIÊM: Không trong sạch ngay thẳng, mất hết tư cách, phẩm hạnh. Ví dụ: Kẻ vô liêm bất chánh.
    CHÊ CỔ TRỌNG KIM: Chê bỏ cái xưa, cũ, quí trọng yêu chuộng cái mới (tân thời). Đức Thầy từng than:“ Ôi ! đời yểm cựu nghinh tân, Rùng rùng xóa bỏ Phật Thần Thánh Tiên”.(Thu đã cuối)
    THON VON: Gian nan nguy hiểm, khổ sở cô đơn. Bơ vơ đất khách thon von thế nầy.(Cổ thi)
    LỢI DỤNG: Thừa cơ mà vớ lấy để kiếm lợi riêng mình. Làm việc có lợi cho mình mà hại cho người khác. Đây chỉ cho hạng người làm quan xử kiện ăn tiền hết hai bên, hoặc theo bợ đỡ kẻ có quyền thế để lợi dụng.
    ĂN XÀI LÃ LÊ: Ăn xài phung phí, không biết tiết kiệm.
    RÈN TRÍ: Trau luyện, giồi mài trí tuệ cho được sáng suốt. Về phương cách tu rèn trí tuệ, Đức Thầy có dạy:Người học Đạo muốn mở mang trí tuệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội). Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện cái tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bày trừ những: thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bày trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy.(Trong việc Tu thân Xử kỷ)
    LẬP THÂN: Tự mình gây dựng tài trí và danh phận cho mình. Sách Thánh có câu “Lập thân hành Đạo dương danh ư hậu thế…”.Đức Thầy cũng bảo:Một hội nầy rán lập thân danh, (Để chơn đất Bắc) và Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.(Thu đã cuối)
    XẢO TRÁ: Giả dối, không thật lòng. Ví dụ: Ăn nói xảo trá, mưu mô xảo trá.

    CHÁNH VĂN
    552.-
    Giáo-viên các sở các thầy,
    Khuyên mau tỉnh ngộ tập rày lòng nhơn.
    Giúp đời đừng đợi trả ơn,
    Miễn tròn bổn-phận hay hơn bạc vàng.
    Đánh liều Ta cũng nói càn,
    556.-Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo.
    Vinh-hoa như thể bọt-bèo,
    Hiền-lương bất luận khó nghèo cũng xinh.
    Nhắc năm Gia-Tĩnh triều Minh,
    560.-Nàng Kiều vì hiếu bán mình chuộc cha.
    Tuy là lưu-lạc bôn-ba,
    Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng nhìn.
    Ghét ưa Ta cũng mặc tình,
    564.-Nghiệm kim suy cổ biện minh thế nào.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 551 đến câu 564)
    -Đoạn Giảng nầy Đức Thầy khuyên các giới: công viên, giáo chức trong khắp trường sở, hãy sớm thức tỉnh tu hành, rèn tập lòng nhơn ái, biết thương người mến vật hầu tận tâm giúp đỡ. Trong lúc giúp ích cho đời, không nên mong cầu tiếng khen hay phúc báo, cũng chẳng phân biệt ta là người ban phúc còn người kia là kẻ thọ ơn, mà nên xét vì bổn phận phải làm:“Nếu thiệt người thì biết thương người”.(Giác Mê, Q.4) Ai thi hành được như thế thì dầu cho vàng bạc cũng không sánh kịp.
    -Tuy lời khuyên của Đức Thầy không được bao người để ý, nhưng vì lòng từ bi Ngài vẫn tiếp tục nói mãi. Nói với lòng bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu hay già trẻ, trí ngu. Bởi lẽ:Giàu sang nghèo khó cũng người, Nên ta thương hết dầu cười hay khen.(Khuyên người giàu lòng Phước thiện)
    -Ngài còn so sánh cho khách trần được rõ, cảnh vinh hoa phú quý khác nào bóng bọt, bèo trôi, lênh đênh theo dòng nước, chỉ một lượn sóng nhấp nhô cũng đủ làm tan rã. Còn người tuy nghèo khó, nhưng nếu biết tu nhơn tích đức, tất được quí báu và vững bền. Ngài nhắc lại chuyện Nàng Kiều, dù phải mười lăm năm phong trần mệnh bạc, nhụy rữa hoa tàn, song nhờ lòng hiếu thảo mà chàng Kim vẫn trông đợi kính yêu. Đó là Ngài dụng ý khuyên mọi người phải nhớ đến công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ và hiếu hạnh là cao hơn hết.
    -Đối với những lời khuyên dạy trong đây, dầu người đời có ghét hay ưa, Đức Thầy cũng không màng kể, chỉ ý thức cho mọi người nên nghiệm xét chuyện xưa, để thấu hiểu chuyện nay một cách tường tận, rồi sẽ nhận định lời giáo huấn của Ngài, xem có đúng lý và ích lợi cho đời không ?

    CHÚ THÍCH
    TỈNH NGỘ: (Xem CT câu 93, T-2, Q.2).
    LÒNG NHƠN: (Xem CT câu 281, T-2, Q.2).
    HIỀN LƯƠNG: Hiền lành tốt đẹp, biết thương người mến vật, không ưa đánh đập gây gổ. Đức Thầy có câu”
    Phật từ bi độ tử độ sanh,
    Là độ kẻ hiền lương nhân ái”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    NÀNG KIỀU: Theo tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” của cụ Nguyễn Du: Vào triều nhà Minh, vua Gia Tỉnh, tại Bắc Kinh (Tr.Hoa) có nhà họ Vương, sanh đặng ba người con là: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Nhân tiết Thanh minh chị em dắt nhau đi tảo mộ, Kiều gặp Kim Trọng (một Nho sinh) hai người vừa ý, rồi cùng nhau kết hẹn cuộc trăm năm. Nhưng chẳng may Vương Ông lâm nạn. Vì lòng hiếu đễ, Kiều hy sinh tấm thân ngà ngọc tự bán mình để đổi lấy số vàng chuộc thân phụ khỏi nơi lao ngục. Trải qua 15 năm lưu lạc, mưa gió phũ phàng Kiều tủi thân mệnh bạc, bèn nhảy xuống sông Tiền Đường tự sát. Vì căn phần chưa mãn, nhờ Sư cô Giác Duyên cứu sống đem về chùa lo bề tu tỉnh. Thời gian sau, Kim Trọng tìm gặp lại, tuy đóa hoa trinh nữ đã phai màu song với lòng chung thỉ và sự hiếu của Kiều, khiến Kim Trọng càng kính yêu nhìn nhận.
    Cụ Nguyễn Du đã nhận xét:
    Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
    Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.
    Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm,
    Bán mình đã động hiếu tâm đến trời”.

    Ở đây Đức Giáo Chủ chỉ nhắc đến sự hiếu thảo của Nàng Kiều “Vì hiếu bỏ tình”, dám hy sinh hạnh phúc riêng mình để đền ơn cúc dục.
    BÔN BA: Vừa đi vừa chạy, gian nan vất vả:Đi vừa một dặm xa xa, Bỗng đâu Ông Quán bôn ba theo cùng”.(Lục Vân Tiên)
    NGHIỆM KIM SUY CỔ: Suy xét chuyện xưa, để biết chuyện nay. Sách Thánh có câu:“Suy cổ nghiệm kim sở dĩ bất hoặc. Dục tri vị lai tiên sát dĩ vãng”.(Suy xưa nghiệm nay là nơi để cho chẳng lầm, cho nên muốn biết việc chưa tới, trước phải xét việc đã qua). Đức Thầy cũng từng dạy trong bài “Nang thơ Cẩm tú”:
    Đời phải biết suy Kim nghiệm Cổ,
    Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh hiền”.

    BIỆN MINH: Vạch ra cho rõ ràng, phân biệt lẽ phải trái làm cho sáng tỏ câu chuyện. Đức Thầy bảo:Suy cho tường rồi sẽ biện minh.(Sa Đéc)

    CHÁNH VĂN
    565.-Bá-gia kẻ thấp người cao,
    Hiền-thần hiếu-nghĩa rán trau cho rồi.
    Giảng này chỉ các điều tồi,
    568.-Khuyên dân hãy rán mà ngồi mà suy.
    Thân ta, Ta chẳng tiếc chi,
    Miễn cho bá- tánh nạn gì cũng qua.
    Luận xem những việc sâu xa,
    572.-Chúng-sanh tưởng Phật thì là hãy coi.
    Tháng ngày như thể đưa thoi,
    Nguyện cầu thế giới bớt ngòi chiến-tranh.
    Ngồi buồn dân gặp chiếu manh,
    576.-Ta cho bá-tánh bức tranh vô hình.
    Ai ai cũng rán xét mình,
    Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài.
    Cạn lời mà ý còn dài,
    580.-Hiến cho trần-hạ một bài ngụ-ngôn.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 565 đến câu 580)
    -Đúc Thầy khuyên cả vạn dân hãy rán trau giồi tài năng đức hạnh, trung nghĩa vẹn toàn và hành xử “Tứ Đại Trọng Ân” để xứng đáng là một tôi con của gia đình Tổ quốc. Trong quyển Giảng nầy, Ngài đã vạch rõ các điều sai lầm tệ hại, vậy mỗi người nên suy tầm cho thấu hiểu lý mầu trong đó.
    -Riêng thân Ngài dù có mòn hao, gian khổ, cũng không màng tiếc, miễn sao khắp bá tánh được thoát qua các tai nạn là Ngài thỏa nguyện. Bao lời luận giải sâu xa trong đây, người nào biết tin tưởng Phật Trời, hãy rán xem coi tìm hiểu, để lo tu thân gìn Đạo.
    -Vả lại, ngày tháng trôi qua, mau chóng tợ thoi đưa. Cuộc Đệ nhị Thế chiến đang lan diễn khắp nơi, khiến chúng dân luống chịu lầm than, thống khổ. Vì lòng từ bi, Đức Thầy hằng cầu nguyện cho bá tánh và để cứu vãn tình thế, Ngài hưng truyền chánh pháp vô vi, kêu gọi toàn dân hướng thiện, diệt lần mầm sát hại để quả chiến tranh được bớt dần.
    -Nếu mỗi chúng sanh đều biết qui y đầu Phật, thực hành theo chánh pháp vô vi mà Ngài đã truyền dạy. Nghĩa là mỗi hành giả hãy hướng về nội tâm mà tự kiểm soát lọc lừa, loại bỏ những tư tưởng tà vạy, những vọng tâm phiền não (tham, sân, si) tức tâm ta được yên tịnh trong lành, mà vào nơi an lạc, Niết Bàn tự tánh.
    -Viết quyển Sấm Giảng đến đây, Đức Thầy sắp dừng bút, nhưng thiện ý giác đời của Ngài chưa mãn, và những lời giáo huấn trong đây còn có rất nhiều ngụ ý sâu mầu khó tả.

    CHÚ THÍCH
    HIỀN THẦN: Tôi hiền, người tôi gồm đủ tài đức và trung trực đối với quốc gia dân tộc. Ví dụ: Hiền thần ra giúp nước. Đức Thầy có câu:Hiền thần Nhơn Quí người đương ẩn mình.(Từ giã Bổn đạo khắp nơi).
    HIẾU NGHĨA: (Xem CT câu 204, T-2, Q.2).
    NGỒI BUỒN DÂN GẶP CHIẾU MANH: Ngồi buồn là tiếng trong văn chương thường dùng khi mở đầu một câu chuyện có tánh cách tình cảm:Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ! Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.(Ca dao). Nghĩa toàn câu là chỉ cho cảnh đang buồn lại gặp sự may mắn. Ở đây ý nói dân chúng đang lâm cảnh khổ (buồn) lại may mắn gặp cơ cứu độ, tức là gặp Đức Thầy khai nguồn Đạo pháp tế độ quần sanh.
    VÔ HÌNH: Không có hình tướng sắc màu. Bức tranh vô hình là chỉ cho Đạo vô vi hay chánh pháp vô vi mà Đức Thầy đã truyền dạy, trong “Giác Mê Tâm Kệ”:
    “Đạo vô vi của Phật ân cần,
    Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.

    Hoặc:
    “Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
    Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi!”

    (Cho Ô. Tham tá Ngà)
    XÉT MÌNH: Tự kiểm xem xét coi mình đã làm gì: Quấy hay phải, tội hay phước. Ý dạy mỗi người nên xem lại thân, khẩu, ý của mình mà dứt bỏ những gì xấu xa tội lỗi để sớm được trọn lành trọn sáng. Cổ nhân từng bảo:Thẩm xét lòng mình, chẳng bày lỗi người, ở khắp chỗ đều tự nhiên thong thả, không bị ngăn ngại”.
    Đức Lục Tổ cũng dạy:Người tu theo chánh Đạo, muôn vật chẳng tổn thương, lỗi mình hay xét thấy, mới hiệp Đạo chơn thường”.
    BÀI NGỤ NGÔN: Những bài văn hay bài thơ, ngoài nghĩa đen còn có nhiều ngụ ý sâu xa khác. Như nói chuyện loài vật mà ngụ ý chỉ cho việc loài người. Điển hình như bài thơ “Ba con bò ở chung một chuồng”, bài “Cá thia thia”(Cổ thi) hoặc bài Vịnh “Con Beo Đá” của Đức Thầy, như sau:
    “Beo ơi, Beo hi, là Beo!
    Gần cọp sao mi lại giống mèo?
    Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới?
    Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo?”

    Ở đây, ngay trong quyển Sấm Giảng nầy, Đức Thầy cũng có ngụ ngôn rất nhiều đoạn, nên Ngài nhắc cho bá tánh hãy tìm hiểu những điều sâu xa ẩn dụ trong đó.

    CHÁNH VĂN
    581.-Tới đây Ta giả làng thôn,
    Ngọc-Thanh lui gót phi bôn Nam-Kỳ.
    Hiền thần sách sử nêu ghi,
    584.-Miễu son tạc để tu-mi trung thần.
    Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,
    Ta khuyên dân-chúng ân-cần nhìn xem.
    Ra đời dạy-dỗ anh em,
    588.-Xem qua ít bận rán đem vào lòng.
    Người tu như thể bá-tòng,
    Ai ai cũng quí cũng trông cũng nhìn.
    Sửa trau là phận của mình,
    592.-Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ-ràng.
    Chừng nào ta gặp Hớn-Hoàng,
    Chúng-sanh mới hết phàn nàn số căn.
    Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,
    596.-Đất khô nẩy mụt rõ lòng hiếu nhi.


    LƯỢC GIẢI (Từ câu 581 đến câu 596)
    -Viết đến đây Đức Thầy có lời từ giã thôn xóm, đoạn rồi Ngài vân du khắp miền Nam nước Việt để tùy cơ giác tỉnh bá gia. Xưa nay những bậc Trung Quân Ái quốc đều được sách sử ghi biên, miễu son thờ phượng:Tử vì nước còn ghi linh miếu, Thác vì đời thanh sử danh bia.(Diệu pháp Quang minh)
    -Ngài cũng báo tin cho dân chúng biết cảnh khổ sẽ kề một bên, nên Ngài khuyên mỗi người hãy lo âu gắng gổ, tìm phương giải thoát. Khi xem đến lời chỉ dạy của Ngài, mỗi người cần ghi tạc vào thâm tâm, để sớm hôm lo trau thân gìn Đạo.
    -Nếu người nào tu hành thì sau nầy quí báu vô cùng, như loại tòng bá ai cũng yêu kính trông nhìn. Vậy bổn phận của mỗi người hãy tự mình lo tu sửa, xưa nay những lẽ Đạo đức trong các kinh sử, đều có dạy rất rõ ràng.
    Đức Thầy còn tiên tri sắp tới đây đất nước Việt Nam sẽ vô cùng vinh diệu, bởi nhờ có vị Thánh Vương ra đời đức tài gồm đủ. Ngài sẽ:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”.(Phỗng Đá trả lời), và đến đó toàn thể chúng sanh đều chung sống cảnh thanh bình an lạc, chẳng còn phải than thân trách phận. Vậy ai muốn hưởng hạnh phúc ấ thì ngay bây giờ, phải trau giồi hạnh hiếu, noi gương Mạnh Tông xưa kia để hành xong bổn phận.

    CHÚ THÍCH

    PHI BÔN: (Xem CT câu 364, T-2, Q.3)
    TRUNG THẦN: Người tôi trung nghĩa ngay thật đối với đất nước. Ngài Huệ Lựu đã dạy:Luật Nam nghĩa lý hẳn hòi, Ơn cha nghĩa mẹ, sự vua trung thần. Đức Thầy cũng nói:Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ”.(Diệu pháp Quang minh)
    ÂN CẦN: Cần cố, âu lo, gắng gổ. Ví dụ: Làm việc gì có ân cần gắng gổ mới mong kết quả.
    NGƯỜI TU NHƯ THỂ BÁ TÒNG: Bá Tòng là cây trắc và cây tòng (tùng), người ta hay trồng làm kiểng. Sở dĩ Bá Tòng được người đời mến trọng vì nó có bản sắc xanh biếc cả bốn mùa, nhứt là mùa Đông, mọi cây đều tàn cỗi mà riêng nó vẫn được sởn sơ. Vì thế sách ích trí đem người Quân tử ví với Bá Tòng như câu:“Bạch Ngọc vi ư ô nê bất năng tham chấp kỳ sắc, Quân tử xứ ư trược địa bất năng nhiễm loạn kỳ tâm. Cố Tòng Bá khả dĩ nại tuyết sương, minh trí khả dĩ thiệp gian nguy”.(Ngọc trắng vùi nơi bùn lầy mà sắc nó chẳng hề lem ố, người Quân tử ở nơi ô trược không nhiễm loạn cái tâm. Cho nên loại Tòng Bá có thể chịu đựng sương tuyết mà kẻ minh trí cũng có thể vượt lên trên chỗ gian nguy).
    Vì cái đặc tính không dời đổi của Tòng Bá mà Đức Thầy đem người tu để ví với nó, bởi người thật tu thì lúc nào hay ở đâu, lòng vẫn được liêm khiết trung hậu.
    SỬ KINH: Cũng gọi là Kinh Sử, tiếng gọi chung về sách sử và kinh điển.
    HỚN HOÀNG: Vua nhà Hớn. Theo Cơ giảng cho biết thì Quốc hiệu nước Việt Nam sau nầy gọi là Hớn Bang hay Hớn Đàng và sẽ có vị Thánh Vương xuất hiện đem lại sự thái bình cực thịnh cho cả nhân loại. Như trong Giảng “Mười Một Hồi”, Ngài Huệ Lựu đã nói:
    “Nói cho già trẻ lo âu,
    Minh Vương khôi phục Hớn Châu Phong Thần”.

    Hoặc là:
    “Đại Nam xưng hiệu tiền Đường,
    Nối ngôi nhà Hớn bốn phương phục tùng”.

    Và trong “Kim Cổ Kỳ Quan” ông Ba Thới đã viết:
    “Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
    Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ nay cũng bảo:
    “Một tay tá Quốc an bang,
    Nước nhà vững đặt Hớn đàng hiển vinh”

    (Mượn cây Đuốc tuệ)
    Và:
    “Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
    Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay”.

    (Để chơn đất Bắc)
    SỐ CĂN: (Xem CT câu 752, T-1, Q.1).
    MẠNH TÔNG: Ông tên chữ là Cung Võ, người ở đất Giang Hạ, sống dưới triều Ngô, đời Tam Quốc (Tr.Hoa).
    Cha mất sớm nên Mạnh Tông sống với mẹ già. Ông rất hiếu thảo với mẫu thân, sớm hôm phụng dưỡng chuyên cần, chẳng hề biếng trễ.
    Một hôm mẹ Ông mang bịnh nặng, nhiều danh y diệu dược Mạnh Tông đã rước đến, nhưng đều không trị được căn bịnh hiểm nghèo của mẹ. Lòng Ông rối tợ tơ vò, một mặt lo thuốc thang, một mặt lo khẩn vái Phật Trời nhỏ phước cho mẹ Ông tai qua nạn khỏi. Trong lúc bịnh nặng mẹ kêu Ông đến bảo:“Mẹ thèm bát canh măng, nếu ăn được chắc bịnh mẹ chóng lành”. Nghe vậy, Ông vội vàng đi khắp nơi lùng kiếm măng, nhưng nhằm mùa Đông trời giá lạnh, nên măng không có. Ông buồn bã than thầm:“Canh măng không có, chắc mẹ ta khó sống !” Lòng Ông vô cùng buồn bã đau đớn. Cuối cùng, Ông ngồi ôm gốc tre mà khóc !!!
    Lòng hiếu thảo cảm đến Trời đất, bỗng nhiên có mấy mụt măng nẻ đất mọc lên ngay chỗ nước mắt đã rơi. Mạnh Tông hết sức vui mừng, lạy tạ ơn Trời Phật và bẻ vội măng đem về nấu canh cho mẹ dùng, tự nhiên bệnh bà thuyên giảm và lần lần khỏi hẳn. Danh tiếng của Ông được mọi người kính nể và noi theo. Ông được liệt vào “Nhị Thập Tứ Hiếu” bên Trung Hoa.
    Về sau có một loại tre màu xám, được đặt tên là Mạnh Tông, tre có măng hình dáng trông rất đẹp và ăn ngon.
    Do sự tích nói trên, mới biết lòng hiếu thảo cảm động đến Trời Đất và trong sách Thánh đã bảo:“Hiếu từ giả bá hạnh chi tiên. Hiếu chí ư thiên tắc phong vũ thuận thời, hiếu chí ư địa tắc vạn vật hóa thạnh, hiếu chí ư nhơn tắc chúng phước lai trăn”.(Việc hiếu từ là trên hết các hạnh. Hiếu tột đến Trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu động đến đất thì muôn vật hóa sanh, còn hiếu cảm đến người thì các phước đều đến).
    Nhà thơ Lý văn Phức cũng đã tán thán sự hiếu:
    “Cho hay hiếu động cao dày,
    Tình sâu nên khiến cỏ cây cũng tình”.

    Đây là tấm gương nhắc nhở mọi người nên có hiếu với cha mẹ.
    HIẾU NHI: Người con có hiếu.

    CHÁNH VĂN
    597.-Mặc ai nhạo báng khinh khi,
    Phần ta niệm chữ từ-bi độ đời.
    Muốn xem được Phật được Trời,
    600.-Thì là phải rán nghe lời dạy răn.
    Bá-gia cùng các chư tăng,
    Việc tu không đợi hương đăng làm gì.
    Đời cùng tu gấp kịp thì,
    604.-Đặng xem báu ngọc ly-kỳ Năm non.
    Phật thương bổn-đạo như con,
    Muốn cho bổn-đạo lòng son ghi lời.
    Nữa sau đến việc biết đời,
    608.-Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.
    Tới đây cũng dứt giảng kinh,
    Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.
    Nam-mô lòng sở nguyện-cầu,
    612.-Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.


    NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
    (tam niệm)
    Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly.

    LƯỢC GIẢI (Từ câu 597 đến câu 612)
    -Trên con đường khai hóa nhân sanh dầu cho người đời có nhạo chê phỉ báng, Đức Thầy vẫn không màng kể. Lúc nào Ngài cũng lấy lòng từ bi đối với vạn loại chúng sanh và hằng lo cứu độ. Ngài khuyên bá tánh: Ai muốn sau nầy được kiến diện Phật Trời, thì hiện giờ hãy nghe theo lời răn dạy của Ngài.
    -Ngài cũng kêu gọi khắp thiện tín từ giới tại gia Cư sĩ, đến hàng Tăng chúng xuất gia: Sự tu không phải đợi có đủ nghi thức nhang đèn, hay đến giờ ấn định, mới công phu bái sám, mà bất cứ lúc nào hay ở dâu cũng vẫn tu được cả:Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu, Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng chấp.(Kệ Dân, Q.2) Và:Chẳng có cần trà, quả, hương nồng, Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”.(Giác Mê TK, Q.4) Bởi đời Hạ ngươn sắp mãn để lập lại Thượng ngươn, chúng sanh cần tu gấp mới kịp thời kỳ và được thấy cảnh quí báu ở vùng “Năm Non Bảy Núi”:Trên Năm non rồng phụng tốt tươi, Miền Bảy núi mà sau báu quí”.(Kệ Dân, Q.2)
    -Tình thương của chư Phật đối với chúng sanh và môn đồ cũng như tình cha mẹ đối với con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử), lúc nào Tổ Thầy cũng muốn tất cả môn đồ ghi nhớ lời Phật pháp vào thâm tâm để thực hành theo. Còn những lời Cơ Giảng đã tiên tri, vì chưa xảy đến nên bá tánh chẳng chịu tin nghe, nhưng sắp tới đây dân chúng sẽ thấy rõ mọi việc xảy ra không hề sai chạy.
    Trước khi chấm dứt Sấm Giảng Quyển Ba, Đức Giáo Chủ còn khuyên người tu nên xoay về bản tâm của mình mà trau sửa, diệt hết lòng xấu xa tà niệm, tất được sáng mầu, đạt thông Đạo pháp, đây là pháp tu căn bản, bởi ngoài tâm không có Phật:Phật tại tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên non núi.(Kệ Dân, Q.2) Lòng Ngài cũng không ngớt nguyện cầu cho vạn dân được vượt qua mọi tai nạn sầu khổ và thoát mê về giác.

    CHÚ THÍCH
    NHẠO BÁNG: Kiêu ngạo, nói xấu người khác. Ví dụ: Kẻ ngang tàng vô Đạo hay nhạo báng Thần Tiên. Đức Thầy có câu:
    Mãi lo chế nhạo chống kình,
    Chẳng toan Đạo đức mà gìn thôn hương”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    TỪ BI: (Xem CT đoạn 2, bài Sứ Mạng).
    CHƯ TĂNG: (Xem CT câu 320, T-1, Q.2).
    KỊP THÌ: Kịp thời, đúng lúc, đúng với thời gian đó. Ở đây Đức Thầy khuyên bá tánh hãy sớm lo tu hành cho kịp đến thời kỳ chuyển biến lập đời.
    BÁU NGỌC: Ngọc ngà châu báu, chỉ cho thất bảo (bảy báu): Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách. Đức Thầy có câu:“Nam thiên báu ngọc châu trân”.(Để chơn đất Bắc) Và:
    “Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
    Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung”.

    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    LY KỲ: (Xem CT câu 267, T-2, Q.3).
    NĂM NON: (Xem CT câu 83, T-2, Q.2).
    LÒNG SON: (Xem CT câu 83, T-2, Q.3).
    TÂM LINH: Cũng gọi là tâm thần, hay lòng trí lành, linh mẫn, tự có nơi mỗi người. Trước kia vì vô minh vọng tưởng nên tối tăm mờ ám, nếu nay biết tu sửa cho hết vô minh, tức tâm trí sẽ sáng suốt trở lại. Kinh Thiền Môn có nói:Bậc Thánh tìm lòng chẳng tìm Phật, Phàm phu kiếm Phật chẳng kiếm lòng. Người trí trau tâm chẳng giồi thân, Kẻ ngu trau thân chẳng giồi tâm. Và những câu:Ngoài lòng tìm kiếm, Trọn chẳng đặng Đạo, Tự lòng xem xét, Trong một giây phút, liền chứng quả Phật”.
    Đức Thầy cũng từng dạy:
    “Trau tâm luyện tánh cho minh,
    Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”.

    (K/thiện Q.5)
    Và:
    Tâm linh mắt Thánh xem ba cõi,
    Tánh hiển tai thần lóng bốn phang”.

    (Tỉnh bạn trần gian)

     
    Sửa lần cuối: 16/1/15

Chia sẻ trang này