Chú thích những điển cổ và Điển Tích thông dụngtrong “Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý PGHH”

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 24/1/15.

  1. Buile

    Buile Member

    Chú thích những điển cổ và Điển Tích trong “Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý PGHH”

    TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG
    Chú thích những Điển cổ và Điển tích trong
    “Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý PGHH”

    Những điển cổ thông dụng và Điển Tích trong “Sấm Giảng Thi Văn” qua những bài Thi Hán do Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH viết ra hoặc đáp họa với các bậc túc nho vào thời kỳ 1939 – 1947.

    Lời đầu sách
    Từ lâu việc biên tập nội dung quyển “Sấm giảng Thi văn” của Đức Huỳnh Giáo Chủ, tuy đã có các bậc tôn túc làm công tác đó rất hoàn hảo. Nhưng tác giả biên tập dưới hình thức CHÚ GIẢI (Chú thích và Giải nghĩa) trong sáu quyển (1) và Thi văn tiếng Việt. Riêng tiếng Việt gốc Hán vẫn còn bỏ ngõ.
    Năm 1972 chúng tôi gặp ông Đặng thành Tựu, quê ở ấp Kiến Hưng 2, xã Kiến An, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vốn là nhà Nho, lúc bấy giờ ông là Giảng viên Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo. Chúng tôi thỉnh ý việc Chú thích phần “Tiếng Việt gốc Hán”, ông mỉm cười bảo: “Thánh ý thâm u, phàm tâm nan trắc”. (Ý của Thánh nhân rất cao siêu, phàm nhân khó thấu hiểu).
    Sau năm 1988, ông Bùi văn Ưởng (Bút hiệu Thiện Tâm). Nguyên là cựu Giám đốc các Trung tâm đào tạo Trị sự viên & Giảng viên Phật Giáo Hòa Hảo, Phó Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương – và là một Giảng viên kỳ cựu truyền bá tư tưởng Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ông cũng viết sách, thuyết trình và trả lời nghi vấn trong nhiều thập niên qua. Ông khuyến khích chúng tôi Chú thích, phiên dịch những bài THI HÁN.
    Đến năm 1996, chúng tôi tìm đến các bậc kỳ lão trong Phật Giáo Hòa Hảo, cụ thể là quí ông: Lâm thế Xương (2) và ông Ngô văn Lài (3), cũng với nội dung trên. Quí vị tán thành, khuyến khích chúng tôi nên khởi sự biên tập, cứ làm thành “cái sườn”, sau nầy sẽ có hậu nhân điểm xuyết.
    Gần đây nhứt, ngày 12 tháng 6 năm 2005, Đàm Liên Tịnh Sĩ (Bút hiệu của chú Tám Bửu), hầu hết tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo đều biết đến. Ông là một Tu sĩ kỳ cựu, là Giảng viên các khóa đào tạo Trị sự viên & Giảng viên Phật Giáo Hòa Hảo, ông cũng viết sách nói về Phật Giáo Hòa Hảo. Đã gặp gỡ đề nghị chúng tôi nên thực hiện càng sớm càng tốt.
    Những hảo ý trên là nguồn sinh khí, hỗ trợ tinh thần, động cơ thôi thúc chúng tôi tinh tấn khởi thảo.
    Trong công tác biên tập, đã gặp không ít khó khăn trở ngại bởi:
    - Chính từ đó, danh từ đó nguyên gốc là Hán ngữ, nhưng lại in tiếng Việt. Chúng tôi phải cân nhắc, đối chiếu, hoặc tùy theo vị trí của nó mà phiên âm sang chữ Hán cho đúng tự vựng và xác nghĩa.
    Thí dụ: Trong bài “Lý lịch”, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã viết: Tứ hải bất hòa khởi liên giang”.
    Chữ “Giang” ở đây không phải là “Sông” mà chữ Giang có nghĩa là: Kết bè, kết đảng.
    - Có những từ không phải là Hán ngữ, chúng tôi phải tùy theo ý nghĩa mà phiên âm “Nôm”.
    Thí dụ: Trong bài “Vén màn bí mật” của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Chữ “Vén” ở đây không phải là Hán ngữ, nên phải Nôm là (…). Nghĩa đen: Vén lên, kéo lên. Nghĩa bóng: Hé lộ.
    - Có những bài thi vấn đáp, sử dụng cao từ, ẩn ngữ hoặc chiết tự.
    Thí dụ: Trong bài thi của ông Huỳnh Hiệp Hòa, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ có phải là Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám? Điển hình như hai câu đầu:
    Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,
    Khẩu tụng Văn Vương vị bốc tường.

    -Chữ “Phiến” và chữ “Đại” thêm một chấm. Hợp thành chữ TRẠNG.
    -Chữ “Khẩu” và chữ “Vương” hợp thành chữ TRÌNH.
    Hai câu trên chiết tự thành TRẠNG TRÌNH.
    Chúng tôi phải xem xét, đối chiếu những dữ liệu bao gồm: Xuất xứ, thời gian và sự kiện để Chú thích cho chính xác (4).
    Công việc “Vạn sự khởi đầu nan”, những sơ suất và sai sót là không thể tránh khỏi. Mong các bậc cao minh chỉ giáo và hợp tác để việc biên tập được hoàn chỉnh hơn, đó là niềm vạn hạnh và điều mong ước đối với chúng tôi.
    Xin chân thành kính cảm ơn và đa tạ!
    Kính đề!
    Nguyễn văn Chơn

    Chú thích
    (1) Sáu quyển:
    Quyển thứ nhứt: Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm.
    Quyển thứ nhì: Kệ Dân của người Khùng.
    Quyển thứ ba: Sấm giảng.
    Quyển thứ tư: Giác Mê Tâm Kệ.
    Quyển thứ năm: Khuyến Thiện.
    Quyển thứ sáu: Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn đạo.
    (2) Ông Lâm Thế Xương, còn có tên là Ngô Trung Hưng, sinh năm 1912. Từ trần lúc 13 giờ, ngày mồng 9 tháng giêng, năm Quí Mùi (2003). Hưởng thọ 91 tuổi, nguyên quán xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
    (3) Ông Ngô văn Lài, còn có tên là Ngô tường Hoa, sinh năm 1921, hiện thường trú xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
    (4) Biên tập chia làm 2 phần chính:
    - Phần thứ nhứt: Những bài Thi Hán (tiếng Việt, gốc Hán.
    * Việt văn dịch ra Hán văn.
    * Chú thích Từ ngữ, Danh từ, Thành ngữ và Điển tích.
    - Phần thứ nhì:
    * Những điển cố thông dụng.
    * Những điển tích có liên quan đến Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    Kính dâng hương hồn các Nhà văn đã tô đậm, mở đường cho những thế hệ kế thừa, trong sự nghiệp truyền bá tư tưởng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    Chân thành kính tri ân những bậc tôn túc Phật Giáo Hòa Hảo, đã khích lệ, đóng góp mỹ ý trong phần biên tập nội dung.
    Cùng chư quí đồng đạo đã hỗ trợ mọi mặt, để chúng tôi hoàn thành công việc đạo sự.
    Xin nguyện cầu hồng ân Tam Bảo, gia hộ cho các quí vị thân tâm thường lạc, đạo quả viên dung.

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Nguyễn văn Chơn

    Bài thứ nhứt -> Bài thứ Mười


    Bài thứ nhứt

    Ông THANH TÂN vấn Gia đình


    Gia đình kỷ cá hội long đàn,
    Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.
    Phi vụ tiết phong tầm chánh lý,
    Nho Tông vị bác hiệp tôn nhan.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    Ông Thanh Tân hỏi gia đình

    1/-GIA ĐÌNH:
    Dùng để chỉ những người thân trong nhà như: Cha mẹ, vợ chồng và con cái…
    KỶ CÁ: Mấy người.
    HỘI LONG ĐÀN: Nhiều người được hưởng tiếng thơm.
    2/-NGƯỠNG VỌNG: Ngẩng đầu nhìn lên để trông mong điều gì.
    CAO ÂN: Ân đức sâu dày.
    TỐ NGHIỆP XANG: Vốn sẳn có tiếng tăm, địa vị trong xã hội.
    3/-PHI VỤ: Ra sức để chuyên chú vào một công việc gì.
    TIẾT PHONG: Tiết: Những gì người ta phải giữ vững, để bảo vệ thanh danh. Phong: Tập tục trong xã hội. Nghĩa rộng: Giữ vững thuần phong mỹ tục.
    TẦM: Tìm.
    CHÁNH LÝ: Lý lẽ đứng đắn ngay thẳng.
    4/-NHO TÔNG: Tông chỉ của đạo Nho (Nho giáo).
    VỊ BÁC: Vị: Ngôi thứ, chỗ đứng. Bác: Rộng lớn, sự thông suốt. Nghĩa bóng: Có tiếng tăm và địa vị trong xã hội.
    HIỆP TÔN NHAN: Cùng góp mặt. Nghĩa bóng: Đồng thấu hiểu, thông suốt.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Gia đình Ông (chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ) có được bao nhiêu người ? những thành viên trong nhà ? Xin ông nói lại cho rõ ?
    Bài thứ hai
    ĐỨC THẦY Đáp họa


    Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
    Hai chữ từ bi thẩm nghiệp an.
    Bài trí năng soi chơn giáo lý,
    Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-MỘNG SẦU: Chiêm bao thấy cảnh lo lắng, phiền muộn.
    TAN GIÁC: Tan: Tản ra. Giác: Biết. Nghĩa bóng: Khi tỉnh mộng, khi tỉnh ngộ.
    HIỆP LIÊN ĐÀI: Tiếng lành được lan rộng.
    2/-HAI CHỮ TỪ BI: Hai trong bốn đại đức của chư Phật (đức từ, đức bi, đức hỉ và đức xả). Hiền lành và thương xót.
    THẨM: Xem xét, cất nhắc rõ ràng, kỹ lưỡng.
    NGHIỆP AN: Sự nghiệp, việc làm, công việc được yên ổn. Nghĩa rộng: Công danh được toại nguyện.
    3/-BÀI TRÍ: Sắp đặt cho có thứ tự, ngăn nắp.
    NĂNG SOI: Thường được làm sáng tỏ.
    CHƠN GIÁO LÝ: Tánh chân thật của Tôn giáo hay luận lý học thuật (thuyết) của Tôn giáo.
    4/-PHẬT TIỀN: Trước bàn thờ Phật. Nghĩa rộng: Gặp Phật. “Phật tiền thảm lấp sầu vùi.(Kiều).
    HƯỞNG ỨNG: Đáp lại lời người khác kêu gọi.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    LONG NHAN: Long: Rồng. Nhan: Mặt mày. Mặt rồng.Nghĩa rộng: Thấy mặt vua.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Chỉ có một mình ta như kể trên, có gọi thì đáp, có hưởng thì tất có ứng.

    Bài thứ ba

    HIẾU NGHĨA VI TIÊN


    Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
    Hành thiên tri kinh thị sĩ hiền.
    Kiếm huệ phi tiêu đoàn nghiệp chướng,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    Việc hiếu nghĩa làm đầu
    1/-NHƠN SANH: Đời sống của con người.
    HIẾU NGHĨA: Hiếu đạo và lẽ phải.
    DĨ VI TIÊN: Lấy làm trước.
    2/-HÀNH THIỆN: Làm điều lành.
    TRI KINH: Tri: Biết. Kinh: Sách của Thánh hiền. Nghĩa rộng: Thấu hiếu lời lẽ của Thánh hiền.
    THỊ SĨ HIỀN: Ấy là kẻ sĩ có phẩm hạnh.
    3/-KIẾM HUỆ: Kiếm: Thanh gươm. Huệ: Thông minh. Nghĩa bóng: Trí huệ thông minh sáng suốt, ví như thanh gươm có công năng cắt đứt mọi nghiệp chướng, phiền não do vô minh gây nên.
    PHI TIÊU: Phi: Tan ra. Tiêu: Mất đi, hết. Làm cho mất hết.
    ĐOÀN CHƯỚNG NGHIỆP: Điều do mình tạo ra, trở thành vật trở ngại. Nghĩa rộng: Việc làm ở kiếp trước, ảnh hưởng đến kiếp sau.
    4/-PHẬT TIỀN: Trước bàn thờ Phật, Phật tại gia.
    HỮU NHỰT: Có ngày, (lúc) nào đó.
    VĨNH: Lâu dài.
    AN NHIÊN: Tự nhiên được yên ổn.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Việc trước tiên của đạo làm người là giữ hiếu thảo, xuất xứ hợp lẽ phải mà sách Thánh hiền đã dạy kẻ sĩ. Đồng thời phải dùng gươm trí huệ dọn sạch ma chướng phiền não, để trí huệ phát khai, thì mọi việc sẽ được yên ổn. (Ý nói Phật tính sẽ phát khai).

    Bài thứ tư
    BÀI CẦU CƠ (1)


    Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân,
    Đa công hoài luyện thập niên phần.
    Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
    Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.


    (1). Bài thi nầy do một số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, muốn biết rõ Đức Thầy có phải là Nguyễn Đa (tức ông Cử Đa), ông Nguyễn Trung Trực, Quan Thượng Đại Thần trở lại hay không ? Họ mới lên núi xin bài cầu cơ nầy.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    Bài thi nói về vận số, máy trời.
    1/-NGUYỄN ĐẮC: Là họ Nguyễn (Lấy họ Nguyễn).
    THANH DANH: Danh tiếng, tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    TAM HỮU PHÂN: Ba lần nói ra.
    2/-ĐA CÔNG: Nhiều việc, nhiều sự kiện.
    HOÀI LUYỆN: Hoài: Mong, tưởng nhớ. Luyện: Rèn tập. Nghĩa bóng: Khắc sâu trong lòng.
    THẬP NIÊN: Mười năm.
    PHẦN: Cái được phân ra, chia ra.
    3/-CHÚNG KỲ: Nhiều người cùng chung sống với nhau ở một nước.
    VẬT XẢO: Vật: Những gì tồn tại trong trời đất.Xảo: Tốt đẹp. Ý nói những điều tốt đẹp trong đời.
    THIÊN: Trời.
    TRUYỀN BÁ: Tung ra khắp nơi. Nghĩa rộng: Lưu truyền mãi mãi.
    4/-PHƯỚC LỘ: Phô bày sự tốt lành.
    HOÀNH THÂN: Có tiếng tăm, địa vị trong xã hội.
    NGŨ: Số năm.
    SẮC VÂN: Sắc: Màu, hình sắc có thể ngắm nhìn.Vân: Mây. Màu sắc của đám mây.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đã ba lần nói rõ là họ Nguyễn, ngót 10 năm tu tập, nay vì chúng sinh mà đem điều tốt đẹp để truyền bá, khiến danh rạng như mây năm sắc.

    Bài thứ năm
    ĐỨC THẦY Đáp họa


    Nãi chí thi âm tất hữu phân,
    Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần.
    Vạn ninh hà hải vi vương bá,
    Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-NÃI CHÍ: Cho nên mới hướng đến mục đích, hay hành động theo định hướng đã vạch ra.
    THI ÂN: Tiếng thơ, lời thơ.
    TẤT HỮU PHÂN: Hẳn như vậy, có lần nói đến.
    2/-THIÊN NHIÊN: Luật tuần hoàn. Nghĩa rộng: Sự vận hành của tạo hóa.
    LIÊN HUỆ: Sự thông minh, sáng suốt.
    TÁC NHI PHẦN: Điều đã dành sẵn, việc đã sắp bày.
    3/-VẠN NINH: Sự yên ổn lâu dài.
    HÀ HẢI: Sông biển.
    VI VƯƠNG BÁ: Làm vua chúa.
    4/-VIỄN VỌNG: Viễn: Xa xôi. Vọng: Trông. Mong đợi những điều xa vời.
    THANH TÂN: Thanh: Tiếng. Tân: Mới. Nghĩa bóng: Đã được tiếng tăm, địa vị trong xã hội.
    TẢO: Diệt trừ, loại bỏ.
    PHI VÂN: Mây bay.
    TẢO PHI VÂN: Quét sạch đám mây trước mắt đó đi.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Trong văn thơ đã nói đến, trời dành sẵn những điều tốt đẹp cho mỗi người. Nếu là vua chúa thì phải đem lại ấm no hạnh phúc cho dân chúng.
    Bài thứ sáu
    LỤY TAM CHÂU


    Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
    Thập bát chư bang động can qua.
    Dương gian mãnh thú trừ tàn ác,
    Lê thứ hậu lai khổ thiết tha.
    Tần bang hậu hận tiêu diêu động,
    Nam quốc lương dân kiến linh xa.
    Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
    Dư đảng dọc ngang cấp Ma Ha.

    Hòa Hảo, tháng 8 năm Kỷ Mão (1939)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    Lệ đổ ở tam châu.
    LỤY: Còn đọc là lệ : Nước mắt.
    1/-TAM CHÂU: Ba địa danh: Châu Đốc, Châu Phú trong huyện Châu Phú có xã Phú Châu.
    HỮU NGẠN: Hữu: Bên phải. Ngạn: Bờ phía bên tay phải, tính từ thượng nguồn nhìn xuống. (Từ trên Châu Đốc nhìn xuống Vàm Nao).
    NHỎ SA: Nhỏ: Rơi xuống. Sa: Nhỏ xuống từng giọt. Nghĩa bóng: Nước mắt chảy từng dòng, nạn chiến tranh giặc giã hay khổ cực liên tiếp xảy ra.
    2/-THẬP BÁT: Mười tám.
    CHƯ BANG: Chư: Nhiều. Bang: Nước. Những nước lân cận.
    ĐỘNG: Khởi sự.
    CAN QUA: Giáo mác. Nghĩa bóng: Cảnh chiến tranh. Kinh Lễ: “Năng bị can qua, dĩ vệ xã” (Thường đầy đủ giáo mác để giữ xã tắc).
    3/-DƯƠNG GIAN: Dương: Cõi dương, ám chỉ cõi thế gian. Gian: Khoảng giữa. Nghĩa rộng: Hiện đang sống trong cảnh giới Ta bà.
    MÃNH THÚ: Thú vật mạnh mẽ, hung tợn. Nghĩa rộng: Những hạng người hay quốc gia ỷ lại vào binh cường tướng mạnh.
    TRỪ: Loại bỏ, bớt đi. Diệt sạch, làm cho tan hết.
    TÀN ÁC: Hung dữ, độc hại.
    4/-LÊ THỨ: Dân đen, dân thường. Nghĩa rộng: Những người cùng sống trong quả đất.
    HẬU LAI: Sau đó, sẽ đến.
    KHỔ: Khó nhọc, vất vả.
    THIẾT THA: Thiết: Cắt. Tha: Mài. Nghĩa rộng: Hết sức cần đến.
    5/-TẦN BANG: Tần: Tên gọi Cao Miên quốc (Người Đông Nam Á gọi Cao Miên là nước Tần). Bang:Nước. Nước Cao Miên (Campuchea).
    HẬU HẬN: Hậu: Sau. Hận: Giận. Mang mối hận về sau.
    TIÊN: Trước.
    DIÊU ĐỘNG: Sự thay đổi, sự biến dạng.
    6/-NAM QUỐC: Ý chỉ nước Việt Nam.
    LƯƠNG DÂN: Lương: Lành. Dân: Người dân. Dân lành.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    LINH XA: Xe tang. Nghĩa bóng. Ý chỉ cảnh chết chóc do chiến tranh hay tai nạn gây ra.
    7/-PHỒN HOA: Chốn đô hộ (thành thị), nơi nhiều người tụ tập, sống bằng nghể thương mãi.
    ĐÔ HỘI: Nơi có nhiều người lui tới.
    LƯU GIANG HUYẾT: Lưu: Chảy. Huyết: Máu. Máu chảy thành sông. Cảnh chiến tranh hay tai nạn gây cảnh chết chóc cho nhiều người.
    8/-DƯ ĐẢNG: Một nhóm người họp nhau để làm công việc gì.
    DỌC NGANG: Xuôi ngược khắp nơi. Nghĩa rộng: Tung hoành bốn biển.
    CẤP: Gấp, mau.
    MA HA: Phạn ngữ (Mâha): Nghĩa: Rộng lớn, còn gọi đại đạo.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Sau nầy tại (Châu Đốc, Châu Phú…) sẽ xảy ra chiến tranh, do mười tám nước khởi binh. Cao Miên và Việt Nam cùng chịu ảnh hưởng, mà trước tiên là Tần quốc, sau đó đến Việt Nam. Lúc bấy giờ người hung ác mới chịu quay đầu hướng thiện.

    Bài thứ bảy
    VÉN MÀN BÍ MẬT


    Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
    Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền.
    Sa vi đông hải tri thiều nhạc,
    Nam đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên.
    Đởm lực hà quê trung trực thử,
    Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
    Sơn ly Phật cảnh hồi Nam Việt,

    Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên.

    CHÚ THÍCH ĐẠI Ý
    Hé lộ những điều bí mật
    VÉN MÀN: Vén: Kéo lên. Màn: Tấm vải, hay tấm bình phong dùng để che chắn. Nghĩa bóng: Hé lộ, nói ra cho biết.
    BÍ MẬT: Không để lộ ra ngoài, giữ kín không tiết lộ với ai.
    1/-GIỤC THÚC: Kêu gọi, hối thúc.
    ĐẠO ĐỒNG: Còn gọi là đồng đạo. Những người cùng tín ngưỡng một Tôn giáo.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    THÚY QUYÊN: Thúy: Cao sâu. Quyên: Tốt đẹp. Cao sâu, tốt đẹp. Nghĩa bóng: Ý nói đến đạo đức.
    2/-CHƯ BANG: Chư: Nhiều. Bang: Nước. Nhiều quốc gia lân cận.
    ĐIỀM TĨNH: Suy nghĩ chính chắn trước khi hành động. Nghĩa rộng: Bờ cõi vững lặng.
    : Người có học thức (Một trong bốn bậc trong xã hội ngày xưa: Sĩ, nông, công, thương).
    DANH HIỀN: Bậc hiền tài, có tiếng tăm và địa vị trong xã hội.
    SA VI: Tuy nhỏ nhặt nhưng rất tinh tế.
    ĐÔNG HẢI: Đông: Phương đông, hướng đông. Hải: Biển. Biển hướng đông.
    TRI: Biết.
    THIỀU NHẠC: Tên một khúc hát của vua Thuấn. Nghĩa bóng: Ý nói đến cảnh thanh bình, thạnh trị.
    4/-NAM ĐỈNH: Đỉnh núi ở miền Nam Việt Nam (Ám chỉ miền Thất sơn, nằm trong địa phận Châu Đốc). Nghĩa rộng: Vật báu quí).
    Ngọc báu quí ẩn trong Nam đỉnh”.( ĐHGC)
    NGỌC ĐÀI: Đền đài, cung điện bằng ngọc được xây trên cao.
    LỘ: Phô bày, hiển hiện ra trước mắt.
    KỶ TIÊN: Kỷ: Mấy. Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật, cốt tu cho được trường sanh bất lão. Nghĩa bóng: Ý nói đến các bậc Tiên Trưởng trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
    5/-ĐỞM LỰC: Đủ sức gánh vác, cáng đáng mọi công việc.
    HÀ QUÊ: Tuy (có phải) là quê mùa, mộc mạc.
    TRUNG TRỰC: Ngay thẳng một lòng một dạ.
    THỬ: Ấy, vậy.
    6/-HÙNG CA: Bài ca hay bài thơ hùng tráng, ca ngợi những chiến công hiển hách hoặc hào khí của một nhân vật nào.
    BÁO QUỐC: Báo: Đền đáp, trả lại. Quốc: Nước. Trả nợ đất nước.
    NGHĨA: Việc làm thích hợp với lẽ phải.
    ĐÀO THIÊN: Đào: Lọc lừa. Thiên: Trời. Nghĩa rộng: Sự gạn lọc, đào thải liên tục của tạo hóa.
    7/-SƠN LY: Sơn: Núi. Ly: Cách, lìa. Lìa non xuống núi. Nghĩa bóng: Lâm phàm, xuống thế. Chữ Sơn ở đây ám chỉ Đức Thầy, Ngài có Phật hiệu là KIM SƠN PHẬT.
    PHẬT CẢNH: Cõi Phật. Nghĩa rộng. Nơi Phật ngự.
    HỒI: Trở lại, quay về.
    NAM VIỆT: Miền Nam Việt Nam. Ngoài ra còn có nghĩa: Đất nước Việt Nam.
    8/-DIỆT KHỔ: Làm cho hết cực nhọc, vất vả. Nghĩa bóng: Chấm dứt chiến tranh hay tai họa, gây cảnh chết chóc cho dân chúng.
    SANH KỲ: Đến thời điểm, đến cơ Thiên định.
    VỊ: Ngôi thứ, địa vị. Nghĩa rộng: Chỗ đứng trong xã hội hay hàng Phật quả.
    TRƯỜNG MIÊN: Lâu bền hay ám chỉ bậc trên trước. (Ý nói đến những người của thế hệ trước).

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thúc giục tín đồ hãy tìm đạo đức. Ngài cho biết sau nầy ViệtNam sẽ gánh lấy quyền chủ đạo. Chừng đó sẽ biết Ngài là ai.

    Bài thứ tám
    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)

    Bửu ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
    Sơn đài lộ vẻ liễu huyền vi.
    Kỳ thâm tá giả thi thành thủy,
    Hương vị âm thầm mộc túy vi.
    Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử,
    Non lịch đài mây rạng tu mi.
    Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ,
    Núi ngự Hoàng san tự đỉnh chi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ:
    1/-BỬU NGỌC: Ngọc quí. Nghĩa bóng: Một nhân vật có tiếng tăm địa vị trong xã hội hay một địa danh ẩn chứa nhiều điều sâu xa kín đáo.
    TRƯỜNG QUANG: Trường: Dài. Quang: Sáng. Nghĩa bóng: Tiếng tăm địa vị sáng chói, lưu danh hậu thế.
    ẨN TÍCH: Che dấu tên tuổi, nơi ăn chốn ở.
    KỲ: Hạn định. Có thời gian nhứt định. Câu “Bửu ngọc trường quang ẩn tích kỳ”, chúng tôi xin mở dấu ngoặc để làm rõ sự kiện giữa Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo (Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ) Trong bài thi vấn của ông Chín Diệm, có câu: “Vị tri đại đức giáng hà tiên”.(Chưa rõ ông là vị Tiên nào ở sông Tiền xuống thế). Đức Huỳnh Giáo Chủ đáp họa: “Sơn Trung hồi dã bí danh tiên”.(Ta là một vị tiên trong hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng không thể xưng danh). Do đó câu “Bửu ngọc trường quang ẩn tích kỳ”, ý nói Ngài còn đang ẩn danh và ẩn cư để chờ cơ Thiên định. Chừng ấy Đức Huỳnh Giáo Chủ mới hoàn thành sứ mạng, khai lập Hội Long Hoa, đánh dấu một kỷ nguyên mới: Thượng ngươn thời đại.
    SƠN ĐÀI: Đền đài trên núi (Ý nói đến đền vàng điện ngọc trên Thiên Cẩm Sơn).
    LỘ VẺ: Nghĩa bóng: Phô bày nét thanh tân của giang san cẩm tú.
    LIỄU: Xong. Nghĩa rộng: Hiểu thấu đáo.
    HUYỀN VI: Sự mầu nhiệm của Tạo hóa. Nghĩa bóng: Vận mệnh hay máy trời.
    3/-KỲ THÂM: Lạ lùng, sâu kín.
    TÁ GIẢ: : Tạm, mượn. Giả: Người, kẻ. Mượn tên người khác.
    THI: Còn gọi là Thơ. Lời văn có vần điệu, theo luật lệ nhứt định.
    THÀNH THỦY: Như nước chảy.
    4/-HƯƠNG VỊ: Mùi vị thơm tho. Nghĩa bóng: Lời giáo pháp rất sâu xa kín đáo.
    ÂM THẦM: Không nói ra. Nghĩa bóng: Thấm thía tận đáy lòng.
    MỘC: Gội nhuần.
    TÚY VI: Còn gọi là thúy vi: Sâu xa, thâm diệu.
    5/-NĂM NĂM: Nghĩa rộng: Năm nầy sang năm khác, thời gian kéo dài.
    LỤC NGOẠT: Sáu tháng. Nghĩa rộng: Chỉ thời gian ngắn. Nghĩa bóng. Câu: “Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử”, ý nói nạn đói lạnh, phải chịu từ ngày nầy sang ngày khác, năm nầy sang năm khác.
    CƠ HÀN: Đói lạnh. Nghĩa bóng: Cảnh nghèo khó cơ cực.
    THỬ: Ấy vậy. Ví dụ: Thử thứ: Lần ấy.
    6/-NON LỊCH: Núi non thanh tú, ý chỉ nơi ông Thuấn cày ruộng tại Lịch Sơn, được vua Nghiêu truyền ngôi).
    ĐÀI MÂY: Đền đài trên mây. Nghĩa rộng: Cõi Tiên hay nơi vua ngự. Nghĩa bóng: Tiếng tăm địa vị cao cả.
    RẠNG: Rỡ ràng, đáng mặt.
    TU MI: Râu mày. Nghĩa rộng: Người đàn ông (Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    7/-BẢY NIÊN: Bảy năm. Con số ước định (Chừng ấy).
    HÒA ĐỊA: Những khu vực trên trái đất được sống hòa bình. Nghĩa bóng: Ám chỉ đời Thượng ngươn.
    NHƠN: Người.
    HIỀN THỦ: Người có đức hạnh đứng đầu. Nghĩa bóng: Người đứng đầu trong bậc hiền. “Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền”.( Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    8/-NÚI NGỰ: Nghĩa bóng: Nơi vua ở. (Ám chỉ Thiên Cẩm Sơn, có đền vàng điện ngọc) “Đền vàng núi Cấm lộ nay mai, Mà ruột năm non có các đài”.( ĐHGC)
    HOÀNG SAN: Nghĩa bóng: Đời tân có vua trị vì. (Ý nói đến đời Thượng ngươn Thánh đức theo quan điểm của PGHH).
    TỰ: Chính mình, bởi vì.
    ĐỈNH CHI: Địa vị cao nhứt. Câu “Núi ngự Hoàng san tự đỉnh chi”, chúng tôi xin mở dấu ngoặc để được làm sáng tỏ thêm. Thời Minh đế ra đời tại Hoàng san (Thiên Cẩm Sơn) tức khắc biết vị vua ấy là bậc tài đức vẹn toàn. Trong cụm từ “Núi ngự Hoàng san” có liên quan đến danh xưng Minh Mạng. Phật Thầy Tây An đã nói rõ:
    Bửu Sơn Kỳ Hương
    Ngọc Trung niên xuất
    Quân Sư Trạng Trình
    Minh Mạng tái sanh
    Việt Nam phục nghiệp
    Nguyên tiền quốc yên

    Căn cứ vào nội dung bài thi trên, ta thấy nói đến:
    · Tông Phái Bửu Sơn Kỳ Hương
    · Phật Thầy Tây An tái sanh
    · Minh Mạng là vua
    · Trạng Trình là quân sư
    · Trời đất đều đổi mới
    · Việt Nam dựng nghiệp (Thượng Ngươn).
    · Khởi đầu nước yên.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, có sứ mạng lập đời Thượng Ngươn, khai hội Long Hoa để chọn người hiền.

    Bài thứ chín
    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)


    Hòa bình thế giới kiến tiên bang,
    Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
    Hồ Thiên tiểu ẩn quân tu ký,
    Lương thứ dương trần đạo dĩ an.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HÒA BÌNH: Hòa hợp, yên ổn. Không xung đột lẫn nhau.
    THẾ GIỚI: Còn gọi là vũ trụ, gồm nhiều quốc gia trong một hành tinh.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    TIÊN BANG: Nước tiên. Nghiã rộng: Cõi Tiên, nơi tiên ở.
    2/-NGÔ GIẢ: Các người, mọi người.
    TÙNG NHUNG: Theo việc binh bị.
    KHÍ: Tính chất, phần tinh thần phát ra.
    ĐỞM GIAN: Đủ sức để vượt qua thử thách, gian nguy.
    3/-HỒ THIÊN: Bầu trời. Do sự tích Phi Tồn ngày xưa học đạo Tiên, gặp Trương thân Thường hay đeo cái bầu to lớn, thâu cả Trời, đất, trăng, sao…Đêm đêm thường chui vài đó ngủ, nên có người gọi ông là Hồ Công (Ông có bầu). Nghĩa rộng: Mỗi người riêng một cõi.
    TIỂU ẨN: Giấu tên và nơi ở.
    QUÂN: Ông hay ta (tớ). Lý Bạch có câu “Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu”.(Say nằm bãi cát đừng cười tớ). Chữ Quân ở đây ám chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    TU KÝ: Nên cần. Nghĩa rộng: Nhớ lấy, ghi lấy. Quân tu ký: Ông nên nhớ lấy.
    4/-LƯƠNG THỨ: Dân lành, chỉ chung mọi người.
    DƯƠNG TRẦN: Cõi đời nơi chúng sanh đang sống.
    ĐẠO: Đường đi, lối đi hợp với lẽ phải. Từ chỉ về Tôn giáo.
    DĨ AN: Được yên ổn.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Hiện tại Đức Huỳnh Giáo Chủ còn ẩn tích để chờ cơ Thiên định.

    Bài thứ Mười

    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)


    Đào nguyên di khả tứ hồ văn,
    Khảo đáo tâm trung mãi vạn năng.
    Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
    Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.


    Hòa Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-ĐÀO NGUYÊN: Đào: Cây đào. Nguyên: Nguồn. Nguồn đào. Có chỗ gọi là động Đào nguyên hoặc động Bích. (Bích: Màu xanh, đá xanh) Do sự tích: Đào Tiềm đời Tấn viết Đào Hoa Nguyên kể rằng: Tại huyện Võ Lăng có ông chài chèo thuyền đánh cá dọc theo khe suối, thấy có hoa đào trôi trên mặt nước. Thầm nghĩ ở đấy có dân cư, thuyền đi mãi đến một nơi có người khá đông, ăn mặc theo lối nhà Tần. Hỏi thì họ bảo lánh nạn hà khắc của Tần Thủy Hoàng, di cư đến đây đã được mấy đời rồi. Ngư phủ chèo thuyền về thuật chuyện lại với mọi người, sau trở lại tìm chốn cũ nhưng không được. Người ta ngờ ông chài ấy đã lạc vào cảnh Tiên.
    “Nào hay là khách Đào nguyên đã về”.(Hoa Tiên)
    “Làm sao khỏi chốn mê tân,
    Đào nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng”.( ĐHGC)
    Ngoài ra Đào nguyên cũng có chỗ chép Truyện Từ Thức (Xem Đào Nguyên - Phần Điển Tích).
    DI KHẢ: Đến được. Nghĩa rộng: Có thể làm được. Sẽ thành công.
    TỨ HỒ VĂN: Lời hay ý đẹp có dịp đem ra sử dụng. Nghĩa rộng: Tính thiên phú về văn chương.
    2/-KHẢO ĐẢO: Gặp phải, mắc phải. Nghĩa rộng: Lâm vào hoàn cảnh khó khăn, trở ngại.
    TÂM TRUNG: Ngay thẳng, một lòng một dạ.
    MÃI: Mua. Nghĩa rộng: Gây dựng.
    VẠN NĂNG: Đủ sức gánh vác mọi công việc.
    3/-THÌ LAI: Còn gọi là Thời lai: Đến thời đến lúc.
    ĐÃI ANH: Nghĩa rộng: Chờ tin, chờ người.
    CHƠN THIÊN XUẤT: Vua trời xuất hiện (Ra đời). Nghĩa bóng: Đức Minh Chúa trị vì đời Thượng nguơn thánh đức.
    4/-VẬN THỚI: Gặp dịp, gặp thời. Nghĩa rộng: Cơ hội đã đến.
    THÔ TRÌNH: Đoạn đường xấu. Nghĩa bóng: Gặp hoàn cảnh, giai đoạn khó khăn.
    TRỰC: Ngay thẳng.
    BỈNH THĂNG: Đi lại dễ dàng, công việc thuận lợi.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cơ hội (Thời cơ) đã đến, cho dù có gặp đoạn đường xấu (khó khăn trở ngại) cũng vẫn vượt qua.

    Bài thứ mười một -> Bài thứ hai mươi

    Bài thứ mười một

    BÁT NHẪN

    Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
    Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
    Nhẫn dã hương lân hòa ý hỉ,
    Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
    Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo tuyền.
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.

    Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    Tám điều nhẫn nhục
    1/-NHẪN NĂNG: Nhẫn: Chịu đựng. Năng: Gánh vác. Sức chịu đựng.
    XỬ THẾ: Cách ăn ở, giao tiếp trong đời.
    THỊ: Phải (phản nghĩa với trái), ấy vậy, như thế..
    NHƠN HIỀN: Người lương thiện, nết na.
    2/-NHẪN GIÁI: Giữ gìn qui điều giáo giới của đạo (Răn cấm của Tôn giáo).
    KỲ TÂM: Do ở tấm lòng.
    THẬN: Kỹ lưỡng, cẩn trọng.
    THỦ TIÊN: Giữ gìn trước hết.
    3/-NHẪN DÃ: Nhẫn nhục là như vậy.
    HƯƠNG LÂN: Hàng xóm. Láng diềng (giềng). Chỉ chung những người sống gần với mình.
    HÒA: Thuận thảo.
    Ý HỈ: Mừng rỡ, thân thiện.
    4/-NHẪN HÒA: Nhịn nhục để sống thuận thảo.
    PHU PHỤ: Chồng vợ.
    THUẬN: Theo lẽ phải, hợp với đạo lý.
    TÌNH DUYÊN: Mối liên kết giữa hai vợ chồng, hoặc những người thân thiện.
    5/-NHẪN TÂM: Hết lòng chịu đựng.
    NHỰT NHỰT: Ngày ngày, hàng bữa.
    THƯỜNG: Luôn luôn.
    AN LẠC: Yên ổn, vui vẻ.
    6/-NHẪN TÁNH: Gìn giữ hạnh nết khi gặp nghịch cảnh.
    NIÊN NIÊN: Năm năm. Năm nầy sang năm khác.
    ĐẮC: Được.
    BẢO TUYỀN: Bảo: Che chở, gìn giữ, bao bọc.Tuyền (toàn): Chu tất. Bảo vệ toàn vẹn mọi mặt.
    7/-NHẪN ĐỨC: Giữ lấy tâm lành, đủ sức chịu đựng nghịch cảnh.
    BÌNH AN: Yên ổn.
    TIÊU: Làm cho mất đi.
    VẠN SỰ: Muôn việc, nhiều việc.
    8/-NHẪN THÀNH: Cố gắng để đạt được mục đích.
    PHÚ QUÍ: Giàu sang vinh hiển.
    VĨNH: Lâu dài, bền bỉ.
    LIÊN MIÊN: Mãi mãi, dài dằng dặc.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Việc đầu tiên của người tu là phát huy khả năng chịu đựng, giữ gìn những điều răn cấm. Sống hài hòa với những người lân cận, chồng vợ hòa thuận thủy chung. Ngày ngày an lạc thân tâm, năm năm hạnh nết thuần khiết. Có được như thế thì mọi việc sẽ thành đạt, sống trong cảnh sang giàu hạnh phúc.

    Bài thứ mười hai

    (Để có đầy đủ tài liệu về Những bài thi của Phật Thầy Tây An, chúng tôi xin trích bài thi “ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHU DI VIỄN CẬN”) * Bài thi nầy là vật gia bảo của ông Đạo Thắng, nội tổ của ông Bảy Còn (Nguyễn Phước Còn) để lại. Trước năm 1856, Phật Thầy đã giao cho ông Đạo Thắng giữ và căn dặn nếu sau nầy có ai viết lại được bài thi khoán thủ cách cú (8 chữ bằng Hán văn, đều mang bộ Sước) thì Ngài trở lại. Sau ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939), ông Bảy mang bài thi lên Hòa Hảo dự định để thử Đức Huỳnh Giáo Chủ. Nhưng ông rất ngạc nhiên vì Ngài đã biết trước, viết và đọc cho ông nghe không sai một chữ, khiến ông phải nhìn nhận là Phật Thầy Tây An tái sinh.
    Đạt đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
    Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
    Ngao du thế giới hoàn sanh chúng,
    Quới tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
    Chu di phục thỉ an bá tánh,
    Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
    Viễn cận chư châu qui nhứt thống,
    An cư lạc nghiệp phước vô biên.

    Phật Thầy Tây An (1849-1856)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    ĐẠT ĐẠO: Con đường ai ai cũng có được, đạo lý người người đều theo được.
    NGAO DU: Đi dạo (se promener), từ nầy dùng cho các bậc Tiên trưởng. Còn từ Du lịch (voyager), để chỉ khách tham quan.
    CHU DI: Chu: Vòng quanh, một tinh kỳ 7 ngày (Une semaine). Di: Để lại cho người sau.
    VIỄN CẬN: Xa gần.
    1/-ĐẠT ĐẠO: (Xem CT chữ nầy ở phần tiêu đề).
    HOẰNG KHAI: Mở rộng ra khắp nơi.
    KẾ NGHIỆP: Nối tiếp công việc của người trước.
    TRUYỀN: Trao cho (người nầy trao cho người khác, nơi nầy sang nơi khác).
    2/-CHƯ BANG: Chư: Nhiều. Bang: Nước. Những nước lân cận.
    HÀNH THIỆN: Làm điều lành.
    HIẾU: Hết lòng thờ phụng ông bà, cha mẹ.
    VI TIÊN: Làm trước (việc trước hết).
    3/-NGAO DU: Dạo chơi.
    THẾ GIỚI: Đồng nghĩa với vũ trụ. Chỉ các nước trên trái đất.
    HOÀN: Trở lại, trở về.
    SANH CHÚNG: Còn gọi chúng sanh, chỉ chung những loài có mạng sống (Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh).
    4/-QUỚI TIỆN: Giàu nghèo.
    TRÍ NGU: Thông minh và đần độn.
    TRẠCH: Lựa chọn.
    NHÂN HIỀN: Người hiền đức.
    5/-CHU DI: Chu: Vòng quanh. Di: Để lại.
    PHỤC THỈ: Trở lại như trước.
    AN: Yên ổn.
    BÁ TÁNH: Trăm họ, chỉ chung mọi người.
    6/-THƯỢNG CỔ: Còn gọi Thượng ngươn. Nghĩa rộng: thời xa xưa.
    HOÀN Ư: Trở lại như xưa.
    THẾ: Đời, cõi chúng sanh đang sinh sống.
    TỰ NHIÊN: Tự: Chính mình. Nhiên: Vậy. Không do ai làm ra cả.
    VIỄN CẬN: Xa gần.
    CHƯ CHÂU: Nhiều nơi.
    QUI: Gom về.
    NHỨT THỐNG: Một mối (gom về một mối).
    AN CƯ: Sống yên ổn.
    LẠC NGHIỆP: Vui vẻ làm ăn.
    PHƯỚC: Tốt đẹp, may mắn.
    VÔ BIÊN: Không thể suy lường.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ chuyển kiếp kế thừa sự nghiệp đạo đức của Phật Thầy Tây An. Ngài đã đi khắp nơi trên thế giới, tiếp xúc với hầu hết mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội. Khuyến khích thực thi sự giao hòa cùng các nước, để cùng sống trong một xã hội bình đẳng, chính là thời Thượng Nguơn Thánh đức, do Thánh chúa trị vì.

    Bài thứ mười ba

    Cho Ông Hương Chủ Bó ở Hòa Hảo

    Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
    Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền.
    Huỳnh Long lộ vĩ năng kỳ diệu,
    Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên.
    Danh sơn khai bút dìu sanh chúng,
    Trung Trực phò nguy đãi lịnh Thiên.
    Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
    Qui hồi tự lập diệt tiền khiên.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-TÂM HÀNH: Hướng tâm về việc gì đó (Chú ý vào công việc).
    TỪ THIỆN: Thương yêu và làm lành.
    VỊ: Chỗ đứng, thứ bậc.
    AN NHIÊN: An: Yên ổn. Nhiên: Vậy. Yên ổn vậy.
    2/-PHỔ HÓA: Dạy dỗ khắp nơi.
    HIỀN NHƠN: Người có tâm lành (hiền đức).
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    PHẬT TIỀN: Trước bàn thờ Phật (Thấy Phật hiện tiền hay trước mặt có Phật).
    3/-HUỲNH LONG: Rồng vàng (Trong bài Lý Lịch, Đức Huỳnh Giáo Chủ tự nhận có khi là Thượng Đẳng Đại Thần, có khi là Huỳnh Long).
    Thượng thẩm đạo mầu nẻo cao sâu,
    Đẳng đẳng hãy làm chớ để lâu.
    Đại pháp vô vi là chánh lý,
    Thần làm trọn vẹn khỏi lo âu.

    Hoặc:
    Huỳnh Long tự thế gần sanh chúng,
    Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.

    LỘ VĨ: Lộ: Bày ra. : Đuôi. Nghĩa bóng: Xuất hiện sau nầy.
    NĂNG: Đủ sức.
    KỲ DIỆU: Kỳ: Lạ lùng. Diệu: Khéo léo (sâu kín mầu nhiệm). Lạ lùng và khéo léo.
    4/-XUẤT THẾ: Ra đời.
    ĐIỀU ĐÌNH: Điều: Hòa hợp. Đình: Ngừng lại. Giải hòa để ngừng hẳn xung đột.
    CHỬA: Chưa có.
    HIỆU TIÊN: Tên tự đặt hay do người khác gọi. (Khác với tên cha mẹ đặt cho, ngày xưa người ta gọi là nhũ danh: Tên cha mẹ đặt lúc còn bú sữa).
    5/-DANH SƠN: Tên núi. Đức Giáo Chủ cho biết, Ngài có liên hệ mật thiết với Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương: Huỳnh Sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
    Tự giác âm thầm kiến Tiên bang.
    Bửu Ngọc Sơn Trung Kỳ Hương chí,
    Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

    KHAI BÚT: Khai: Mở ra, bắt đầu. Bút: Cây viết. Nghĩa rộng: Bắt đầu sáng tác. Nghĩa bóng: Ra đời khai đạo phổ truyền chánh pháp.
    DÌU: Dẫn dắt.
    SANH CHÚNG: Còn gọi chúng sanh. Chỉ chung các loài có mạng sống (Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh).
    6/-TRUNG TRỰC: Tộc danh là Nguyễn Trung Trực, anh hùng dân tộc (1838-1868). Xem phần Điển Tích.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ có nhắc đến như sau:
    THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu,
    ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
    ĐẠI pháp vô vi là chánh lý,
    THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.

    PHÒ NGUY: Phò: Giúp đỡ, gánh vác. Nguy: Không yên ổn. Giúp đỡ, gánh vác khi gặp nguy cấp.
    ĐÃI: Đợi chờ.
    LỊNH THIÊN: Lịnh: Ra hiệu, sai khiến. Thiên: Trời. Lịnh của Trời (Đức Ngọc Đế).
    7/-TẠO XÁC: Tạo: Làm nên, sanh ra. Xác: Thân thể. Xác thân phàm tục (Còn gọi thân tứ đại do đất, nước, gió và lửa kết hợp thành).
    PHÙ VÂN: Phù: Nổi. Vân: Mây. Đám mây nổi.
    KHAI: Mở.
    NHỨT ĐIỂM: Nhứt: Một. Điểm: Chấm. Nghĩa rộng: Một phương diện nào đó.
    8/-QUI HỒI: Trở về, trở lại.
    TỰ LẬP: Tự: Chính mình. Lập: Đứng. Tự đứng ra gánh vác hay làm việc gì đó.
    DIỆT: Làm cho tiêu hết.
    TIỀN KHIÊN: Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm. Điều lầm lỗi do trước kia đã gây nên.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa Tông Phái Bửu Sơn Kỳ Hương (Giáo Chủ là Phật Thầy Tây An), tùng Thiên mệnh nên không thể xưng danh hiệu. Ngài cho biết ra đời khai đạo, có sứ mạng lập đời Thượng ngươn.

    Bài thứ mười bốn
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)


    Kỷ Mão hạ san mượn xác trần,
    Cảm tình đồng đạo Lão khuyên dân.
    Thậm thâm đây đó niềm liên ái,
    Hợp tác cùng nhau nối bút thần.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-KỶ MÃO: Lấy cái móc kể từ ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo, ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939).
    HẠ SAN: Xuống núi. Nghĩa bóng: Lâm phàm.
    MƯỢN: Lấy, nhờ tạm cái gì để làm việc khác.
    XÁC TRẦN: Thân do tứ đại hợp thành (Đất, nước, gió và lửa), đang sống tại thế gian.
    2/-CẢM TÌNH: Cảm: Xúc động. Tình: Sự đối đãi lẫn nhau. Do tiếp xúc với ngoại cảnh hoặc gần gũi mà phát sinh tình cảm.
    ĐỒNG LOẠI: Cùng chung một loài với nhau.
    LÃO: Già cả. Một trong những danh xưng của Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo.
    “Lão đây vưng lịnh Phật tôn”.
    KHUYÊN DÂN: Dạy dỗ mọi người.
    3/-THẬM THÂM: Thậm: Rất. Thâm: Sâu. Hết sức sâu xa mầu nhiệm.
    ĐÂY ĐÓ: Chỗ nầy, chỗ nọ.
    NIỀM: Lòng nghĩ tưởng việc gì.
    LIÊN ÁI: Liên: Liền, kết chặt. Ái: Yêu mến. Nghĩa bóng: Kết chặt tình thương, sự yêu mến lâu bền.
    4/-HỢP TÁC: Cùng nhau làm việc, cùng chung hành động.
    CÙNG NHAU: Nghĩa của chữ hiệp lực. Chung sức chung lòng.
    NỐI: Gắn liền.
    BÚT THẦN: Nghĩa bóng: Lời văn của các bậc Thánh nhân, có sức cảm hóa kỳ diệu.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), Ngài có sứ mạng phổ truyền chánh pháp của Phật Tổ Thích Ca, lập Thượng nguơn để gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang.

    Bài thứ mười lăm
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)


    Vi lộ Thiên oai bảo giác dân,
    Ngọc Nam ẩn sĩ dị thường nhân.
    Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
    Tứ hải hòa giai tất hữu phân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-VI LỘ: Vi: Tinh diệu. Lộ: Bày ra. Những điều xảy ra rất huyền diệu, sâu kín.
    THIÊN OAI: Thiên: Trời. Oai: Còn gọi là Uy: Sức mạnh, quyền thế. Nghĩa rộng: Lịnh của Thượng đế hay uy quyền của nhà vua.
    BẢO: Giữ gìn, bao bọc.
    GIÁC DÂN: Làm cho mọi người tỉnh ngộ hay hiểu biết một việc gì.
    2/-NGỌC NAM: Ngọc: Quí giá, tốt đẹp. Nam: Người đàn ông. Nghĩa rộng. Người đàn ông có tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    (Một cách ẩn danh kín đáo của Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,
    Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà.
    Mượn xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
    Chờ thời Thiên định thiết hùng ca.

    Hoặc:
    Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
    Tự giác âm thầm kiến Tiên bang.
    Bửu Ngọc Sơn Trung Kỳ Hương chí,
    Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

    ẨN SĨ: Ẩn: Giấu kín. : Người có học thức và đạo đức cao cả. Kẻ sĩ ở ẩn (Không cho biết danh tánh và nơi ở).
    DỊ THƯỜNG: Lạ lùng, khác thường.
    NHƠN: Người.
    3/-SƠN GIANG: Núi và sông. Một địa danh gắn liền với Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đức Huỳnh Giáo Chủ xác nhận:
    Bửu châu công luyện chốn non tần,
    Sơn thủy môn giang bảo giác dân”.
    THỦ LĨNH: Người đứng đầu một đoàn thể hay một quốc gia.
    THỪA: Đón nhận, chịu trách nhiệm.
    TIÊN ĐỊNH: Tiên: Trước. Định: Dành sẵn. Đã dành phần sẵn.
    4/-TỨ HẢI: Bốn biển: Nghĩa rộng: Khắp nơi.
    HÒA GIAI: Hòa: Thuận thảo. Giai: Tốt đẹp. Cùng chung sống hài hòa thuận thảo.
    TẤT: Hẳn là như vậy.
    HỮU PHÂN: Hữu: Có. Phân: Chia ra. Nghĩa rộng: Sự minh định rõ ràng.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo, có nhiệm vụ mang lại hòa bình thạnh trị cho thế giới. Sau nầy người ta sẽ biết vị Giáo chủ ấy là ai.

    Bài thứ mười sáu
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)


    Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
    Nam nhân hữu chí kiến Bồng Lai.
    Nhìn xem hiệu Lão trong thơ ấy,
    Tứ cú Nho gia đã cạn bày.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-MUỐN THẤY: Mong găp mặt.
    NGƯỜI XƯA: Nghĩa của chữ Cổ nhân. Ý nói đến người Thượng cổ thời đại.
    PHẢI VẸN MÀY: Tròn bổn phận làm trai.
    2/-NAM NHÂN: Người đàn ông.
    HỮU CHÍ: Có khí tiết, có hoài bảo thanh cao.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    BỒNG LAI: Một trong ba hòn đảo ở biển Bột Hải (Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu). Nghĩa bóng: Nơi Tiên ở, cảnh tiêu diêu thanh thoát.
    3/-NHÌN XEM: Nhận cho biết đích xác, hiểu một cách tường tận.
    HIỆU LÃO: Danh tánh của bậc Trưởng thượng.( Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    TRONG THƠ ẤY: Trong những bài thi đã sáng tác. (Ý nói đến quyển Sấm Giảng Thi Văn của Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, đã sáng tác từ năm 1939 đến năm 1947.
    4/-TỨ CÚ: Tứ: Bốn. : Câu. Bài thi tứ tuyệt gồm 4 câu, 3 vần.
    NHO GIA: Nhà Nho. Nghĩa rộng: Người theo Khổng Giáo, Giáo chủ là Đức Khổng Tử. (Xem phần Điển Tích).
    ĐÃ: Việc đã qua.
    CẠN BÀY: Nói rõ ràng, tường tận. Nghĩa rộng: Sự việc đã cặn kẽ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Muốn thấy được cảnh Tiên đời Thượng cổ, bậc tu mi nam tử phải trọn vẹn đạo nhân luân.

    Bài thứ mười bảy
    HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH


    Bửu châu công luyện chốn non thần,
    Sơn thủy môn giang bảo giác dân.
    Kỳ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
    Hương nồng dành thưởng kẻ tròn ân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    THIÊN ĐỊNH: Thiên: Trời. Định: Quyết chắc chắn không thay đổi. Nghĩa rộng: Trời đã sắp đặt sẵn, Tạo hóa đã an bày.
    1/-BỬU CHÂU: Đồ quí như ngọc. Nghĩa bóng: Khí chất hay phần tinh thần cao cả.
    CÔNG LUYỆN: Công: Kết quả, hiệu năng của việc làm. Luyện: Tập rèn. Nghĩa rộng: Công thành danh toại do chính mình tạo dựng.
    CHỐN: Nơi, chỗ.
    NON THẦN: Chốn núi cao linh hiển. Nghĩa bóng: Ý chỉ nơi các vị Thần hay chư Tiên quần tựu.
    2/-SƠN THỦY: Sơn: Núi. Thủy: Nước. Nói về phong cảnh vừa có núi non, vừa có sông hồ. Nghĩa rộng: Đất nước.
    MÔN GIANG: Cửa sông. Nghĩa bóng: Nơi phát sinh, nơi phát xuất (Ra đời, thị hiện). Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
    Tứ hải hòa giai tất hữu phân”.

    Hoặc:
    “Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục,
    Hương giải thao tồi thị bảo giang”.

    BẢO: Giữ lấy. Nghĩa rộng: Nhận lãnh trách nhiệm.
    GIÁC DÂN: Giác: Biết, tỉnh ngộ. Dân: Người dân. Nghĩa rộng: Làm cho mọi người được giác ngộ về một phương diện nào.
    3/-KỲ QUÁI: Hết sức lạ lùng.
    CHỜ NƠI: Đợi một chỗ nào. Nghĩa bóng: Chờ đến vận hanh thông, đúng lúc, phải chỗ.
    THIÊN: Trời.
    NHỨT ĐỊNH: Quyết chắc chắn là như vậy, không thể thay đổi.
    4/-HƯƠNG NỒNG: Hương: Mùi thơm. Nồng: Đậm. Mùi thơm đậm đà hay tiếng thơm bay xa.
    DÀNH THƯỞNG: Dành: Để cho. Thưởng: Ban tặng. Tuyên dương và tưởng thưởng cho những người có công.
    KẺ TRÒN ÂN: Người vẹn toàn trung hiếu.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thừa kế Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương (Giáo Chủ là Phật Thầy Tây An), phổ hóa chúng sanh tu hành, để sau nầy thấy được giang san gấm vóc đổi mới.

    Bài thứ mười tám
    HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH (tt)


    Từ bi hai chữ sắc nâu sồng,
    Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công.
    Vận bĩ xa chờ câu thạnh thới,
    Buồn ai châm chích chữ cay nồng.

    Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/- TỪ BI: Hiền lành và thương xót. Hai trong bốn đại đức của chư Phật (Đức từ, đức bi, đức hỉ và đức xả).
    HAI CHỮ: Hai trong bốn hạnh đức của chư Phật, tùy theo chỗ đứng mà ý nghĩa khác nhau. “Hai chữ từ bi thẩm nghiệp an”.( ĐHGC)
    SẮC: Màu. Nghĩa bóng: Hình thể nhận diện được để phân biệt.
    NÂU SỒNG: Nâu: Loại cây leo, có củ màu dà sẫm để làm thuốc nhuộm. Sồng: Giống cây có lá dùng nhuộm màu đen. “Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng”.(Trần Tế Xương). Màu nâu và màu đen. Nghĩa rộng: Sắc phục của Tăng Ni Phật tử. “Nâu sồng từ bén màu thiền”.(Nguyễn Du). 2/-GẮNG CHÍ: Gắng: Cố sức. Chí: Điều hướng đến của tâm. Mục đích (tiêu chí) đã nhắm.
    DẠY ĐỜI: Dạy: Chỉ bảo, giáo hóa. Đời: Còn gọi là thế gian, cõi chúng ta đang ở. Nghĩa rộng: Lâm phàm mở đạo giáo hóa chúng sanh.
    CHẲNG TIẾC CÔNG: Không sợ hao tổn sức lực, chẳng ngần ngại khó nhọc để cứu giúp mọi người.
    3/-VẬN BĨ: Vận: Khí số. : Xấu. Khí số còn xấu. Nghĩa bóng: Chưa đến thời, đến lúc.
    XA CHỜ: Đợi mãi vẫn chưa thấy được.
    CÂU: Nhiều chữ hợp lại thành một câu. Nghĩa rộng: Một lời, một đoạn.
    THẠNH THỚI: Còn gọi Thạnh thái. Thạnh: Dồi dào. Thới: Yên vui. Hạnh phúc, yên vui dài lâu.
    4/-BUỒN AI: Buồn: Không được vui (có tâm sự). “Ngồi buồn vọc nước giữa trăng, Nước xao trăng lặn buồn ơi là buồn”. (Ca dao) Ai: Tiếng nói trống, không chỉ rõ người nào. “Ai về cầu ngói Thanh toàn, Cho em về với vầy đoàn cho vui”.(Ca dao)
    CHÂM CHÍCH: Nói xoi mói (móc méo) khó chịu.
    CHỮ: Nghĩa của Tự. Dấu viết ra chắp lại với nhau để biểu thị tiếng nói.
    CAY NỒNG: Cay: Hăng nồng, làm nóng tê đầu lưỡi. Nồng: Gắt mùi, xông mùi. Nghĩa bóng: Rất cay đắng, khổ sở. “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín, Thi không ăn ớt thế mà cay”.(Trần Tế Xương).

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Người tu Phật phải lấy đức từ bi mà xử thế tiếp vật, vận thời chưa đến nên Đức Huỳnh Giáo Chủ không được vui, khi chứng kiến cảnh chống báng lẫn nhau.
    Bài thứ mười chín
    Ông HUỲNH HIỆP HOÀ

    (làng Bình Thủy, tỉnh Long Xuyên) xướng:

    Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
    Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm.
    Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
    Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
    Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
    Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
    Thị nhị giáo sư đoàn thuyết pháp,
    Tảo tương thích điển chúng sanh tầm.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-PHỎNG CẦU: Phỏng: Tìm tòi. Cầu: Tìm hiểu, mong muốn. Tìm tòi thăm hỏi. Nghĩa rộng: Nhờ vả điều gì đó hoặc hỏi để biết việc gì đó.
    TIÊN PHẬT: Tiên: Người tu trên núi, bậc trường sanh bất lão. Phật: Nói cho đủ là Phật Đà, do câu “Phật dã Phật Đà chi tinh xưng, thị giác ngộ tự tâm đạt đáo viên mãn giả chi đức hiệu”. (Chữ Phật nói cho đủ là Phật Đà, bậc đã hoàn toàn giác ngộ chơn tâm. Chính là danh hiệu của Ngài)
    DẪN: Chỉ bảo, dìu dắt.
    KIM CHÂM: Cây kim bằng vàng. Nghĩa bóng: Lời vàng ngọc.
    2/-PHẠN NGỮ: Tiếng Phạn. Thứ chữ cổ của người Ấn Độ, được chia làm hai loại: Nam Phạn (Pali) và Bắc Phạn (Sankrit). 1.- Nam Phạn: Phật Giáo nguyên thỉ (Tiểu thừa), dùng Pali chép kinh, truyền về Nam Ấn Độ, rồi sang Tích Lan, Xiêm La (Thái Lan), Miến Điện (Myanmar), Miên (Cam Bốt) v.v…2.- Bắc Phạn: Phật Giáo Đại thừa, dùng Sankrit chép kinh truyền khắp miền Bắc Ấn Độ, rồi sang Trung Hoa, Cao Ly và Việt Nam.
    TRUYỀN LAI: Truyền: Người nầy trao lại cho người kia. Thế hệ nầy lưu lại cho thế hệ tiếp nối. Lai: Lại. Nghĩa rộng: Để lại, truyền lại.
    TỐI: Rất mực.
    THẬM THÂM: Thậm: Rất. Thâm: Sâu. Hết sức sâu xa, mầu nhiệm.
    3/-PHANH LUYỆN: Phanh: Làm cho rộng ra. Luyện: Tập rèn. Dày công vun đắp xây dựng.
    Ô KIM: Ô: Sắc đen. Kim: Vàng. Vàng đen. Nghĩa rộng: Vật quí giá. Nghĩa bóng: Sự cao cả quí trọng.
    MONG: Chờ đợi, hi vọng.
    ĐIỂM ĐẠO: Điểm: Chỉ bảo. Đạo: Đường lối hợp với lẽ phải. Nghĩa bóng: Chứng nhận đã đắc pháp.
    TIỄN NGAO: Tiễn: Đưa người nào đi đâu. Ngao: Đi đây đi đó. Nghĩa bóng: Dõi theo bước vân du giáo hóa của các vị Phật Thánh Tiên…
    THẾ CHỈ: Thế: Cơ hội. Chỉ: Lấy tai mà trỏ. Nghĩa bóng: Chỉ có cơ hội nầy.
    HÓA: Thay đổi, xin hay dạy dỗ.
    KHAI TÂM: Khai: Mở mang. Tâm: Lòng. Mở mang tấm lòng.
    THUẤN NGHIÊU: Thuấn: Tức Đế Thuấn (2256-2195 Trước TL), họ Diêu, tộc danh Trùng Hoa. Nổi tiếng là người hiếu tử, được vua Nghiêu gả con và truyền ngôi, đóng đô ở Đồ Bàn. Trị vì được 61 năm, thọ 101 tuổi. Nghiêu: Tên một ông vua Trung Hoa thời xưa, nổi tiếng có hiếu và thương dân. Họ là Đào Đường, trị vì được 72 năm.
    THỌ THỌ: Nhận chịu lâu dài, hay nhận lãnh mãi mãi…
    NGUY: Cao.
    DUY HIỂN: Duy: Chỉ có. Hiển: Danh vọng, tiếng tăm. Nghĩa rộng: Ám chỉ một nhân vật nào đó có tiếng tăm, địa vị trong xã hội.
    6/-PHẬT LÃO: Phật: Đạo Phật, còn gọi là Phật Giáo (Giáo Chủ là Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni). Lão: Đạo Lão (Giáo chủ là Đức Lão Tử). Hai tôn giáo ở Ấn Độ và Trung Hoa.
    HƯ KHÔNG: : Trống rỗng. Không: Khoảng mênh mông của bầu trời. Nghĩa bóng: Không vương vấn, bận bịu điều gì.
    BÍ: Không thể lường được (hiểu được).
    KHUYẾT THẦM: Khuyết: Thiếu sót cần bổ sung. Thầm: Lặng lẽ. Nghĩa bóng: Cần phải được bổ sung, chỉnh lý lại.
    7/-THỊ NHỊ: Thị: Ắt, phải (phản nghĩa với trái). Nhị: Hai, xếp thứ nhì. Nghĩa bóng: Ý nói Đức Huỳnh Giáo Chủ là đệ tử của Phật Tổ Thích Ca (Thứ hai sau Đức Phật), hoặc một trong hai đoàn thuyết pháp của Phật Giáo là Lão Giáo.
    GIÁO SƯ: Giáo: Dạy dỗ. : Ông Thầy. Thầy giáo, Thầy dạy học, Thầy dạy nghề.v.v…Ngày nay từ Giáo sư dùng riêng cho khoa Sư phạm (Dùng cho các nhà mô phạm trong những cấp học). Đặc biệt từ cấp Phổ thông Cơ sở (Cấp II) trở lên. Ngoài ra, từ Giáo sư còn dùng để phong tặng trong sự nghiệp “Giáo Dục và Đào Tạo”.
    ĐOÀN: Tụ, kết hợp nghiều người, nhiều thành phần.
    THUYẾT PHÁP: Thuyết: Nói. Pháp: Phép tắc, những lời của chư Phật được kết tập lại thành Tam tạng Kinh điển (Kinh, Luật và Luận). Nghĩa rộng: Đem Giáo lý của nhà Phật giảng giải cho mọi người theo đó mà tu tập.
    TẢO TƯƠNG: Tảo: Sớm, buổi sáng sớm. Tương: Lên tột cao (Tên một ngôi sao). Nghĩa bóng: Công danh, sự nghiệp chóng thành đạt trong độ tuổi thanh xuân. Ngoài ra, TẢO TƯƠNG (Tương: Cùng) còn nghĩa rộng khác là sốt sắng, mau mắn cùng nhau hợp sức để công việc mau thành công.
    THÍCH ĐIỂN: Thích: Phù hạp (hợp). Điển: Chủ trường công việc gì. Nghĩa rộng: Thích hợp với việc làm hoặc phù hạp khả năng.
    CHÚNG SANH: Chỉ chung các loài có mạng sống (Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh).
    TẦM: Tìm tòi.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Ông HÒA cho biết tiếng Phạn rất khó hiểu, mong Đức Huỳnh Giáo Chủ là đệ tử Phật Tổ Thích Ca, nên khai hóa nhân sanh trở lại cuộc đời như thuở Thuấn Nghiêu mà Phật Giáo và Lão Giáo chính Ngài đã nói đến.

    Bài thứ hai mươi

    ĐỨC THẦY (Đáp họa)


    Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
    Pháp giáo Phạn văn bác diệu thâm.
    Lam thất thanh chơn hà khuyết đạo,
    Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
    Môn gia khảo sát lai duy hiển,
    Vị khí nan thông ký cảm thầm.
    Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
    Hòa giai nam đỉnh tác thi tầm.

    Hòa Hảo, mồng 1 Tết năm Canh Thìn (1939)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-MÃ HỒI: : Ngựa. Hồi: Trở lại. Ngựa quay về. Nghĩa bóng: Tin theo, làm theo.
    NHƠN DIỆN: Nhơn: Người. Diện: Mặt mày. Mặt người. Nghĩa rộng: Ám chỉ nhân vật nào đó.
    NGÃ: Ta. Ám chỉ Phật tính.
    KIM CHÂM: Cây kim bằng vàng. Nghĩa bóng: Lời vàng tiếng ngọc, lời khuyên quí báu.
    2/-PHÁP GIÁO: Pháp: Thuộc về đạo lý nhà Phật. Giáo: Dạy bảo. Truyền bá giáo lý Đạo Phật. Ý nói những lời chư Phật nói ra, được các đại đệ tử kết tập thành Tam tạng Kinh điển (Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng)
    PHẠN VĂN: Tiếng Phạn. Thứ chữ cổ của người Ấn Độ, chia làm hai loại Nam Phạn (Pali) và Bắc Phạn (Sankrit).
    BÁC: Rộng rãi, rộng khắp.
    DIỆU THÂM: Diệu: Tốt đẹp. Thâm: Sâu xa.
    3/-LAM THẤT: Lam: Màu xanh (xanh lam). Thất: Nhà. Nhà lam. Nghĩa rộng: Cửa thiền, nhà chùa.
    THANH CHƠN: Thanh: Trong sạch. Chơn: Thật thà, ngay thẳng.
    : Từ dùng để hỏi. Ví dụ: Vì sao ? Tại sao ?...
    KHUYẾT ĐẠO: Khuyết: Thiếu sót. Đạo: Đạo đức. Thiếu đạo đức.
    4/-QUI HỒI: Qui: Về. Hồi: Trở về. Nghĩa rộng: Tìm về nguồn gốc nguyên thỉ.
    BÍ HIỂM: : Không thể làm được. Hiểm: Khó khăn, trở ngại. Rất khó khăn, trở ngại.
    TRỊ: Làm cho yên ổn.
    NHƠN TÂM: Lòng người.
    5/-MÔN GIA: Môn: Dòng, phái. Gia: Nhà. Nghĩa rộng: Nhà Tôn giáo.
    KHẢO SÁT: Khảo: Kiểm tra. Sát: Xem xét. Nghĩa bóng: Tìm hiểu chính xác.
    LAI: Lại, đến.
    DUY HIỂN: Duy: Chỉ một mình. Hiển: Có danh vọng. Duy nhứt có được tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    6/-VỊ KHÍ: Vị: Bao tử (Dạ dày), tên một ngôi sao trong nhị thập bát tú. Khí: Tính chất. Nghĩa bóng: Tinh thần phát lộ ra ngoài.
    NAN THÔNG: Nan: Khó khăn. Thông: Khắp, suốt. Nghĩa bóng: Khó hiểu cho thấu đáo.
    : Đã.
    CẢM THẦM: Cảm: Nhận, tâm ứng với ngoại vật mà xúc động. Thầm: Mặc nhận. Nghĩa bóng: Tự tin mặc nhận.
    7/-NGÃ THỊ: Ngã: Ta, tiếng tự xưng. Thị: Phải (phản nghĩa với trái). Nghĩa rộng: Ta chính là…
    VÔ BIÊN: : Không. Biên: Giới hạn. Không có giới hạn, không thể lường hết được.
    NHIÊN: Như, vậy thì…
    LẬP PHÁP: Làm nên phép tắc. Nghĩa bóng: Viết ra Giáo lý cho Tôn giáo
    8/-HÒA GIAI: Hòa: Thuận hảo. Giai: Cùng, đều. Cùng nhau hài hòa thuận thảo.
    NAM ĐỈNH: Vật quí báu của nước Nam. (Ám chỉ vùng Thất Sơn, có đền vàng điện ngọc). Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Ngọc báu quí ẩn trong nam đỉnh”.
    TÁC: Làm nên, tạo dựng.
    THI TẦM: Thi: Văn thơ. Tầm: Tìm tòi. Tìm hiểu trong văn thơ.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Phạn văn rất cao thâm, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết như thế và tự hỏi: Tại sao ở trong Chùa mà lại thiếu đạo đức ? Hãy quay lại chơn tâm sẽ cảm nhận được những gì mà Ngài đã nói trong văn thơ.

    Bài thứ hai mươi mốt -> Bài thứ ba mươi

    Bài thứ hai mươi mốt

    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng


    Chúng sanh tầm đắc đạo nan minh,
    Bửu bối trùng tâm thể dụng tinh.
    Cầm kiếm đảnh lư an trí thủ,
    Càn khôn nhựt nguyệt dị đồng linh.
    Siêu phàm ôn dưỡng âm dương số,
    Nhập Thánh đề khai thế tục tình.
    Thái Thượng Thích Ca luân kiếp giáo,
    Đơn song đồ đệ cổ kim minh.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CHÚNG SANH: Chỉ chung những loài có mạng sống (Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh).
    TẦM ĐẮC: Tầm: Tìm. Đắc: Được. Nghĩa rộng: Gặp được, hiểu được.
    ĐẠO: Đường lối hợp với lẽ phải. Từ chỉ chung về Tôn giáo.
    NAN MINH: Nan: Khó khăn. Minh: Rõ ràng, thông suốt. Nghĩa rộng: Chưa được thông thoáng, suốt khắp.
    2/-BỬU BỐI: Bửu (Bảo): Quí. Bối: Vật quí hiếm. Nghĩa rộng: Những vật Gia bảo hiếm hoi. Nghĩa bóng: Ý nói đến qui điều giáo giới dùng để chế ngự nhân tâm.
    TRỪNG TÂM: Trừng: Ngăn ngừa, chế ngự. Tâm: Tấm lòng. Nghĩa rộng: Gìn giữ, ngăn chận vọng tâm.
    THỂ: Hình dáng, vật hữu hình có thể nhìn, nắm bắt được.
    DỤNG TINH: Dụng: Dùng. Tinh: Tinh thần, phần khéo léo thiêng liêng. Nghĩa rộng: Tính khôn ngoan khéo léo của con người.
    3/-CẦM KIẾM: Cầm: Bắt. Kiếm: Cây gươm. (Thứ khí cụ dùng để đánh nhau). Sử dụng gươm. (Thường nhà Phật ví trí huệ như lưỡi gươm. Có công năng diệt sạch ma chướng phiền não).
    ĐẢNH LƯ: Đảnh: Đồ dùng ngày xưa có ba chân, hai tai; đúc bằng kim loại lớn nhỏ khác nhau. Vua chúa ngày xưa thường xem như là vật “Gia Bảo”, dùng để truyền quốc. Lư: Còn gọi là Lô: Bày tỏ, truyền lại. Nghĩa rộng: Vật gia bảo của đất nước.
    AN: Yên ổn.
    TRÍ THỦ: Trí: Thông minh, hiểu biết rõ ràng. Thủ: Gìn giữ. Nghĩa rộng: Bảo toàn một cách có qui củ.
    CÀN KHÔN: Tên hai quẻ trong Bát quái. Quẻ Càn tượng trưng Trời, quẻ Khôn tượng trưng Đất. Càn Khôn có nghĩa là Trời Đất. “Càn khôn còn rộng tạo đoan còn dài”. (Phan Trần).
    NHỰT NGUYỆT: Mặt trời và mặt trăng, còn có nghĩa: Ngày tháng.
    DỊ: Khác thường.
    ĐỒNG LINH: Đồng: Cùng chung. Linh: Ứng nghiệm, thiêng liêng.
    5/-SIÊU PHÀM: Siêu: Vượt lên trên. Phàm: Bình thường. Nghĩa rộng: Vượt lên trên những người bình thường, vượt trội hơn hết.
    ÔN DƯỠNG: Ôn: Học lại, tập lại. Dưỡng: Nuôi nấng. Nghĩa rộng: Luyện tập cho thuần thục.
    ÂM DƯƠNG: Âm: Khí âm. Dương: Khí dương. Hai thứ khí do Thái cực sanh ra và biến hóa thành muôn vật. Âm thuộc về mặt trăng (đêm). Dưong thuộc về mặt trời (ngày). Nghĩa rộng: Sự vận hành của trời đất.
    SỐ: Vận mệnh của một người.
    6/-NHẬP THÁNH: Nhập: Vào. Thánh: Bậc đã thông suốt, có nhân cách đạo đức hơn người (sanh nhi tri). Nghĩa rộng: Trở nên bậc Thánh triết.
    ĐỀ KHAI: Đề: Cất nhắc, nâng lên. Khai: Mở mang. Làm cho được hanh thông.
    THẾ TỤC: Thế: Đời. Tục: Thói. Thói thường ở đời.
    TÌNH: Những mối cảm xúc ở trong lòng phát ra. Thường do tiếp cận ngoại cảnh mà biểu hiện.
    THÁI THƯỢNG: Thái: Rất. Thượng: Cao. Rất cao sâu. Ngoài ra còn ám chỉ Thái Thượng Lão Quân (Xem phần Điển Tích).
    THÍCH CA: Tức Thích Ca Mâu Ni Phật. Giáo chủ cõi Ta bà.
    LUÂN KIẾP: Luân: Bánh xe, sự chuyển đông liên tục. Kiếp: Thời gian dài, sánh với một đời người. Nghĩa bóng: Sự thay đổi theo luật vận hành của Tạo hóa.
    GIÁO: Dạy dỗ, khuyên bảo.
    8/-ĐƠN SONG: Đơn: Một mình. Song: Một cặp. Nghĩa rộng: Một hai, một số ít.
    ĐỒ ĐỆ: Đồ: Học trò. Đệ: Em, như chữ đệ tử. Học trò theo học với Thầy giáo hay Đệ tử qui y theo Giáo chủ (phạm trù Tôn giáo).
    CỔ KIM: Xưa và nay. Nghĩa rộng: Đã qua và hiện hữu.
    MINH: Sáng.

    ĐẠY Ý 8 CÂU
    Chúng sanh tìm đạo khó được, ví như người cầm kiếm ở dưới đất, mà nhựt nguyệt thì ở trên cao. Còn ông (chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ) là người thấu đạt lẽ âm dương hay đã vào hàng Thánh quả. Vậy xin được hỏi: Ông là Lão Tử hay Thích Ca, hoặc một trong đồ đệ của hai vị ấy mà cổ kim đều thông hiểu ?

    Bài thứ hai mươi hai
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Chúng sanh khổ diệt diện nan minh,
    Ly cấu từ bi cái thế tinh.
    Nhan Thước duyên do tam diễn thủ,
    Can trừ danh vị nã kỳ linh.
    Ngộ thâm nan liễu âm dương số,
    Xác tục trần gian cố dục tình.
    Thổ phỉ nam lương toàn khuyến giáo,
    Tâm hồn ngôn xuất biện kim minh.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-CHÚNG SANH: Chỉ chung những loài có mạng sống (Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hạ sanh).
    KHỔ DIỆT: Khổ: Khó nhọc, vất vả. Diệt: Làm cho tan mất. Nghĩa rộng: Không còn khó nhọc vất vả.
    DIỆN: Gương mặt hay hướng mặt về.
    NAN MINH: Nan: Khó khăn. Minh: Sáng, thông suốt. Khó thông thoáng, sáng tỏ.
    2/-LY CẤU: Ly: Chia lìa, xa cách. Cấu: Bụi bặm. Nghĩa bóng: Sạch vết nhơ (bợn nhơ).
    TỪ BI: Hiền lành và thương xót, hai trong bốn đại đức của chư Phật (Đức từ, đức bi, đức hỉ và đức xả).
    CÁI THẾ: Cái: Bao trùm gồm khắp. Thế: Đời. Suốt trong cõi đời không mấy ai sánh nổi. “Hạng Lương lực bạt sơn hề, khí cái thế” (Hạng Lương sức nhổ núi hề, khí trùm đời). “Anh hùng cái thế phút đâu lỡ làng” (Lục Vân Tiên).
    TINH: Phần khéo léo thiêng liêng (tinh thần).
    3/-NHAN THƯỚC: Nhan: tức Nhan Hồi, người nước Lỗ, đời Xuân Thu, tự là Tử Uyên. Còn gọi là Nhan Uyên, học trò giỏi của Đức Khổng Tử. Tương truyền mới 29 tuổi mà đầu đã bạc, ông mất năm 34 tuổi. Nhà nghèo nhưng tính hiếu học, ông là tấm gương sáng về tính cần cù nhẫn nại trên con đường học vấn. Thước: hiệu tự Biển Thước, ông sanh vào thời Chiến Quốc, ở đất Mạc, họ Tần tên Việt Nhân, là một danh y rất xưa. Tự đời Hiên Viên đã có từ nầy.
    DUYÊN DO: Duyên: Mối liên lạc. Do: Vì đâu mà ra. “Thấy người Sinh mới kể lời duyên do”.(Hoa Tiên truyện).
    TAM: Ba. Do câu: “Nhứt quá tam” (Không quá ba lần). Nghĩa rộng: Không để (thể) kéo dài.
    DIỄN THỦ: Diễn: Suy rộng, y theo cách thức mà học tập. Thủ: Gìn giữ. Nghĩa rộng: Giữ gìn trọn vẹn.
    4/-CAN TRỪ: Can: Vật để chia ngày giờ năm tháng. Trừ: Bỏ, bớt đi. Nghĩa bóng: Thời gian bớt đi hay bị đánh mất.
    DANH VỊ: Danh: Tên. Vị: Chỗ đứng cá nhân trong xã hội. Tên tuổi và địa vị.
    : Truy đuổi.
    KỲ LINH: Kỳ: Lạ lùng. Linh: Ứng nghiệm, thiêng liêng. Nghĩa rộng: Những điều ứng nghiệm rất lạ thường.
    5/-NGỘ THÂM: Ngộ: Hiểu rõ. Thâm: Sâu xa. Nghĩa rộng: Thấu đáo sự việc.
    NAN LIỄU: Nan: Khó khăn. Liễu: Xong xuôi, rồi. Hết gặp khó khăn trở ngại.
    ÂM DƯƠNG: Âm: Khí âm. Dương: Khí dương. Hai thứ khí do thái cực sanh ra và biến thành muôn vật. Âm thuộc về đêm (mặt trăng), dương thuộc về ngày (mặt trời). Nghĩa rộng: Sự vận hành của trời đất.
    SỐ: Vận mệnh của một người.
    XÁC TỤC: Thân do tứ đại hợp thành (Đất, nước, gió và lửa).
    TRẦN GIAN: Trần: Bụi bặm. Gian: Khoảng, cõi. Nghĩa rộng: Giữa cõi đời cát bụi.
    CỐ: Cho nên.
    DỤC TÌNH: Sự ham muốn về xác thịt.
    7/-THỔ PHỈ: Thổ: Đất. Phỉ: Giặc: Giặc do dân chúng địa phương nổi lên, còn gọi là giặc cỏ. Nghĩa bóng: Nghiệp lực do phiền não sanh vô minh, đều do ở mỗi con người gây nên.
    NAM LƯƠNG: Nam: Người đàn ông. Lương: Giỏi, tốt. Nghĩa rộng: Người đàn ông toàn diện.
    TOÀN: Đầy đủ, trọn vẹn.
    KHUYẾN GIÁO: Khuyến: Khuyên. Giáo: Dạy dỗ. Khuyên bảo, dạy dỗ.
    8/-TÂM TỒN: Tâm: Lòng. Tồn: Còn. Còn, cất giữ. Nghĩa bóng: Gìn giữ chơn tâm hay làm chủ chơn tâm.
    NGÔN XUẤT: Ngôn: Lời nói. Xuất: Ra, đem ra. Nghĩa rộng: Liệu lời mà nói.
    BIỆN: Phân biệt, không nghi ngờ.
    KIM MINH: Kim: Tức thì. Minh: Sáng suốt. Mau sáng suốt, thông minh.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Chúng sanh khổ công tìm đạo mà không đạt được. Đạo rất khó, cũng như người tự thấy gương mặt của mình, đó chẳng qua là sự ly cấu mà thôi. Làm thầy thuốc phải như Biển Thước, học đạo thì như Thầy Nhan. Muốn đạt thấu lẽ âm dương là điều rất khó, bởi vì thân tứ đại chìu theo vật dục. Ta đây (Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ) hiền ngu gì cũng dạy: “Hễ tâm tồn thì ngôn xuất”.
     
    Sửa lần cuối: 24/1/15
  2. Buile

    Buile Member


    Bài thứ hai mươi ba

    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng


    Hội trung bửu cái cổ kim truyền,
    Trí giác hư linh kế lập thiên.
    Xiển, Triệt phân minh Châu Võ kỷ,
    Âm dương chuyển luyện Hớn thê tiên.
    Lôi Âm kinh ký khai đàn việt,
    Sơn Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
    Gia bác na thời di phổ hóa,
    Huyền cơ như thử kiếp trần yên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HỘI TRUNG: Hội: Nhóm họp. Trung: Giữa. Nghĩa rộng: Giữa lúc hội họp.
    BỬU CÁI: Bửu: Quí báu. Cái: Chiếc lọng. Lọng quí. “Cờ xen bảo cái, tàn lồng tràng phan” (Phan Trần truyện). CỔ KIM: Cổ: Xưa. Kim: Nay. Xưa và nay. Nghĩa rộng: Đã qua và hiện tại.
    TRUYỀN: Trao. Người nầy trao cho người khác. Nơi nầy sang nơi khác.
    2/-TRI GIÁC: Tri: Biết. Giác: Sự cảm nhận mà biết. Nghĩa rộng: Tự mình cảm nhận mà thấu triệt.
    HƯ LINH: : Trống rỗng. Linh: Ứng nghiệm, thiêng liêng.
    KẾ LẬP: Kế: Nối tiếp. Lập: Làm nên. Nghĩa rộng: Nối truyền sự nghiệp.
    THIÊN: Trời.
    3/-XIỂN TRIỆT: Xiển: Rõ ràng, mở ra. Triệt: Thông suốt, cùng khắp. Xiển Triệt còn ám chỉ Xiển Giáo và Triệt Giáo, do hai vị Giáo chủ đời Phong thần là Nguơn Thỉ Thiên Tôn (Xiển Giáo) và Thông Thiên Giáo Chủ (Triệt Giáo), thuộc nhà Châu. Nghĩa bóng: Chánh phái (giáo) và Tà phái (giáo).
    PHÂN MINH: Phân: Chia ra. Minh: Sáng, rõ ràng. Nghĩa rộng: Chia ra từng phần, từng nhóm rõ ràng.
    CHÂU: tức Châu văn Vương, họ Cơ, tên Xương. Sanh ra Võ Vương, sau Võ Vương diệt được nhà Ân lên ngôi, mới tôn là Văn Vương. Dưới thời vua Trụ, Văn Vương thi hành nhân chính, chư hầu theo về rất đông. Sùng hầu Hổ gièm pha cùng Trụ Vương, bắt giam tại ngục Dũ Lý bảy năm. Tán Nghi Sanh đem gái đẹp cùng châu báu dâng lên vua Trụ, nên Văn Vương mới được tha. Các chư hầu ở phương Tây, Văn Vương lớn hơn cả, nên gọi là Tây Bá Hầu. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Xưa Tây Bá thất niên Dũ Lý”.
    VÕ KỶ: Còn gọi Võ Vương, tức Châu Võ Vương. Tên thật là Cơ Phát, con thứ hai của Văn Vương, trị vì được 7 năm, thọ 93 tuổi. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Bởi Võ Vương đáng mặt tu mi”.
    4/-ÂM DƯƠNG: Âm: Khí âm. Dương: Khí dương. Hai thứ khí do Thái cực sanh ra và biến hóa thành muôn vật. Âm thuộc đêm (mặt trăng), dương thuộc về ngày (mặt trời). Nghĩa rộng: Sự vận hành của Trời đất.
    CHUYỂN LUYỆN: Chuyển: Dời đi, đưa đi.Luyện: Tập rèn. Luyện rèn cho được thuần thục.
    HỚN: Còn đọc là Hán, tên một triều đại ở Trung Hoa. Lưu Bang Hán Cao Tổ diệt được nhà Tần, đặt quốc hiệu là Hán, đóng đô ở Trường An, truyền được 12 đời vua (212 năm), rồi Vương Mãn soán nghịch, đó là tiền Hán (hoặc gọi là Tây Hán). Quang Võ trung hưng, dời đô ra Lạc Dương truyền 12 triều vua (196 năm), rồi nhường ngôi cho Ngụy. Đó là Hậu Hán hoặc Đông Hán. Chiêu Liệt Đế Lưu Bị (còn gọi Lưu Huyền Đức hay Lưu Hoàng Thúc) ở đất Thục, sử gọi là cuối đời Hán (Hán quí) hay Thục Hán.
    THÊ: Đậu lại, nơi dừng chân.
    TIÊN: Người tu trên núi, đã được trường sanh bất lão.
    5/-LÔI ÂM: Lôi: Sấm. Âm: Tiếng. Tiếng sấm. Nghĩa rộng: Tên một ngôi chùa “Lôi Âm Tự” bên Ấn Độ. Nơi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, thường ngự ở đây để thuyết pháp.
    KINH KÝ: Kinh: Sửa sang. : Đi qua. Nghĩa rộng: Đã cải thiện, làm cho nó trở nên tốt đẹp.
    KHAI: Mở mang.
    ĐÀN VIỆT: Chữ của nhà Phật, tức là Thí chủ. (Người làm việc bố thí). Chữ Phạn là Đà Na Bát Để, dịch thành Thí chủ. Đà Na: Thí. Bát Để: Chủ. Hoặc dịch là Đàn Việt, tức lượt đi ba chữ: Na Bát Để, lấy chữ Đà chuyển âm thành Đàn, rồi thêm chữ Việt (Vượt). Ý nói công đức Bố thí, có thể vượt khỏi bần cùng, để đời sau khỏi chịu nghèo khổ. Ngoài ra từ nầy cũng để chỉ những người vãng cảnh chùa “Có người Đàn Việt lên chơi cửa dà”(Kiều).
    6/-SƠN THỨU: tức Linh Sơn Thứu, tiếng Phạn Grudhakyta, phiên âm là Kỳ Xà Quật. Đứng từ xa trông giống như con chim Khứu (như loài chim Kên Kên bên xứ ta), nơi nầy khi Phật Tổ Thích Ca còn trụ thế, thường cu hội đại chúng để thuyết pháp. Linh Thứu dùng để chỉ xứ Phật hay nơi Phật ngự.
    TỪ TĂNG: Từ: Hiền lành. Tăng: Nhà sư. Nhà tu hiền lành.
    PHẢN BỔN: Phản: Trở lại. Bổn: Căn gốc. Nghĩa rộng: Trở lại bản thể Chân như hay Phật tính.
    NGUYÊN: Đầu tiên.
    7/-GIA BÁC: Gia: Tăng, thêm, làm. Bác: Rộng khắp. Nghĩa rộng: Mở mang khắp cả bốn phương.
    NA THỜI: Na: Thời gian ngắn. Thời: Lúc, khi. Nghĩa rộng: Trong thời gian ngắn.GIA BÁC NA THỜI: Đơn vị nhỏ nhứt. Nghĩa bóng: Sự kiện, việc làm tuy ngắn ngủi, nhưng đạt được kết quả mỹ mãn, tốt đẹp nhứt.
    DI: Chuyển dịch.
    PHỔ HÓA: Phổ: Rộng rãi, khắp nơi. Hóa: Dạy dỗ.
    HUYỀN CƠ: Huyền: Màu đen. Nghĩa bóng: Sâu xa, kín đáo. Cơ: Máy móc. Nghĩa rộng: Máy Thiên cơ rất mầu nhiệm.
    NHƯ THỬ: Như vậy, ấy như…
    KIẾP: Thời gian dài, thông thường để chỉ cho một đời người.
    TRẦN: Bụi bặm. Nghĩa rộng. Chỉ cõi chúng sanh đang sinh sống đầy nhớp nhơ, đau khổ.
    YÊN: An ổn.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Từ xưa tới nay trí đứng hàng đầu, dầu là âm dương, Xiển Triệt gì cũng vậy. Nay ông ở chùa Lôi Âm sang đây, hay là mấy vị tăng ở đền Linh Khứu, trong một thời gian ngắn đi truyền đạo, thì việc huyền cơ cũng vậy, để cõi trần đầy khổ đau nầy đâu an.

    Bài thứ hai mươi bốn
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Bửu gia nan hối thế gian truyền,
    Tam thế hư không tế kiệm thiên.
    Nhơn ngã hạ nguơn phân bất ký,
    Qui hồi thượng cổ bút thê tiên.
    Chất âm thinh sắc phi tiêu diệt,
    Bài phỏng liêm gia bế hộ nguyên.
    Lập chí hiền nhu đương kế hóa,
    Thi thần ký chú định hòa yên.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-BỬU GIA: Bửu: Quí báu, những vật quí. Gia: Nhà. Của quí trong nhà. Nghĩa bóng: Ý nói mỗi người đều có Phật tính. Kinh Phật: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tính”.
    NAN HỐI: Nan: Khó khăn. Hối: Dạy bảo. Nghĩa rộng: Khó khuyên răn, dạy bảo.
    THẾ GIAN: Thế: Đời. Gian: Khoảng. Nghĩa rộng: Khoảng giữa đời. Cõi chúng ta đang sinh sống.
    TRUYỀN: Trao lại. Nghĩa rộng: Người nầy trao lại cho người kia, thế hệ nầy đến thế hệ khác.
    TAM THẾ: Tam: Ba. Thế: Đời. Ba đời. Kể từ ông Nội xuống tới đời cháu. Theo Phật Giáo: Đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhất thiết sự vật đều có ba đời ấy, khi chưa phát sinh thì là Vị lai, khi đã phát sinh là Hiện tại và sau khi tiêu diệt là Quá khứ.
    HƯ KHÔNG: : Trống rỗng. Không: Khoảng trống mênh mông. Nghĩa rộng: Không có gì cả, chỉ là một khoảng không gian mênh mông.
    TẾ: Cứu trợ, giúp đỡ.
    KIỆM THIÊN: Kiệm: Điều tiết, dè sẻn. Thiên: Trời. Nghĩa bóng: Thích nghi với thời tiết hay hoàn cảnh do thiên nhiên gây ra.
    3/-NHÂN NGÃ: Nhân: Người. Ngã: Ta. Người và ta.
    HẠ NGUƠN: Nguơn cuối cùng của Lý Tam Nguơn (Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn).
    PHÂN: Chia ra.
    BẤT KỶ: Bất: Không. Kỷ: Rành rẽ. Không rõ ràng, minh bạch.
    QUI HỒI: Trở lại.
    THƯỢNG CỔ: Còn gọi là Thượng nguơn. Nguơn đầu của Lý Tam Nguơn. Nghĩa rộng: Thời xa xưa.
    BÚT: Cây viết.
    THÊ TIÊN: Thê: Cái thang. Tiên: Bậc tu trên núi, có pháp thuật, cốt trường sanh bất tử. Nghĩa bóng: Đường lên cõi tiên.
    5/-CHẤT ÂM: Chất: Bản thể của sự vật. Âm: Tiếng. Nghĩa rộng: Những gì thuộc về hình thức (vật chất), vẫn tồn tại trong trời đất.
    THINH SẮC: Thinh: Tiếng. Sắc: Màu sắc. Những vật vô hình và hữu hình.
    PHI: Chẳng phải.
    TIÊU DIỆT: Tiêu: Làm mất đi, tan biến đi. Diệt: Làm tắt đi. Nghĩa rộng: Không con nữa, không còn tồn tại trong thế gian.
    BÀI PHỎNG: Bài: Sắp đặt, nói ra. Phỏng: Tìm tòi, tìm hiểu. Nghĩa bóng: Chủ động để tìm cho ra manh mối.
    LIÊM GIA: Liêm: Ngay thật, biết phân biệt phải trái. Gia: Nhà. Nghĩa rộng: Chốn công đường vốn nghiêm minh, liêm chính.
    BẾ HỘ: Bế: Đóng. Hộ: Cửa (nhà). Đóng cửa.
    NGUYÊN: Đầu, đứng đầu.
    7/-LẬP CHÍ: Lập: Dựng nên. Chí: Quyết tâm theo dõi một mục đích (công việc gì). Nghĩa rộng: Nhất quyết phải đạt được mục đích đã đề ra.
    HIỀN NHU: Hiền: Người có tài đức. Nhu: Thuận hòa, ổn thỏa. Nghĩa rộng: Người có nhân cách và phẩm hạnh cao thượng.
    ĐƯƠNG: Gánh vác.
    KẾ HÓA: Kế: Suy nghĩ, toan tính. Hóa: Dạy dỗ. Nghĩa rộng: Tìm biện pháp để cải thiện, thay đổi trở nên tốt đẹp.
    8/-THI THẦN: Thi: Thơ. Thần: Một đấng thiêng liêng. Nghĩa rộng: Thi văn của bậc Thần tiên.
    KÝ CHÚ: : Ghi nhớ, gởi gấm...Chú: Để tâm vào công việc. Nghĩa rộng: Dặn dò cho nhớ
    ĐỊNH HÒA: Định: Quyết chắc chắn. Hòa: Thuận thảo. Nghĩa rộng: Chắc chắn không xung đột lẫn nhau. (Theo quan điểm của một số đồng đạo PGHH, thì vùng đất Định Hòa, tọa lạc tại huyện Chợ Mới – Cù lao Ông Chưởng ngày xưa gọi là Cù lao Tiêu Mộc. Nơi đây sau nầy sẽ được bình an vô sự, còn các địa phương khác phải bị cảnh chiến tranh hay tai họa xảy ra. Chúng tôi xin ghi lại để các quí vị tham khảo).
    YÊN: An ổn.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Vật báu ở trong nhà không thể cho mượn. Dù cho ở trong gầm trời, thì ba đời hư không cũng hoàn không mà thôi. Bởi vì cõi hạ nguơn, không biết thuợng ngươn cổ. Âm thinh sắc tướng không cần phải tiêu diệt, chỉ cần bịt tai (Tức định huệ) tinh tường thì hòa được, hòa được thì ổn được.

    Bài thứ hai mươi lăm
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng


    Ngọc quang cảnh nội chủ càn khôn,
    Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
    Âu Á chiến tranh thùy thắng lợi ?
    Kim lê uổng tử sắc hà môn.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-NGỌC QUANG: Ngọc: Vật quí. Quang: Ánh sáng. Ánh sáng của viên ngọc. Nghĩa bóng: Một vật thể, một nhân vật tốt đẹp, có tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    CẢNH NỘI: Cảnh: Hình sắc. Nội: Trong. Nghĩa bóng: Giữ gìn chơn tâm.
    CHỦ: Người đứng đầu.
    CÀN KHÔN: Tên hai quẻ trong Bát quái. Quẻ Càn tượng Trời, quẻ Khôn tượng Đất. Càn Khôn: Trời đất.
    2/-TAM NHỨT: Tam: Ba. Nhứt: Đứng đầu. Nghĩa rộng: Một trong ba.
    VÔ CÙNG: : Không. Cùng: Hết, tận. Không bao giờ hết.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    THÚC TÔN: Thúc: Chú. Tôn: Cao quý. Nghĩa rộng: Coi Ngài là bậc chú (người lớn).
    3/-ÂU Á: Tức Châu Âu và Châu Á. Châu Âu: Phiên dịch từ Âu La (Europe), một trong năm Châu của Thế giới. Âu Châu nhỏ hơn hết, thuộc phía tây bắc đại lục. Diện tích 10 triệu kí lô mét vuông. Bắc giáp Bắc Băng Dương, Nam giáp Địa Trung Hải và núi Cô Cút (Caucase), Đông giáp biển Cát Biên (Caspienne) và dãy núi Ô Ranh (Aural), Tây giáp Đại Tây Dương. Á Châu: Một châu trong Ngũ Đại Châu. Nước ta thuộc về Châu Á (Asie).
    CHIẾN TRANH: Chiến: Đánh nhau. Tranh: Giành giựt. Hai nước hoặc hai phe dùng vũ lực đánh nhau để giành đất đai hoặc quyền thế.
    THÙY: Ai. Một nhân vật nào đó. Thi hào Lý Bạch: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.(Ngày xưa mấy kẻ ai không chết, Chỉ để lòng son tấm tre xanh). [Ngày xưa người ta viết sử trên những thanh tre, thuở ấy chưa có giấy như ngày nay. Những bộ sử thuộc loại anh hùng ca thường thấy ở Trung Quốc cũng được viết như vậy].
    THẮNG LỢI: Thắng: Được, hơn. Lợi: Cái có ích mà con người thu được.
    4/-KIM LÊ: Kim: Hiện nay, tức thì. : Dân đen, chỉ chung mọi người đang sinh sống trong quả địa cầu.
    UỔNG TỬ: Uổng: Phí công. Tử: Chết. Nghĩa rộng: Chết một cách oan ức.
    SẮC: Bản văn ban ra.
    HÀ MÔN: : Từ dùng để hỏi: Vì sao ? Tại sao ? Môn: Dòng phái. Nghĩa rộng: Một Võ đường hay một Tôn giáo…

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Ông (Ám chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ) như viên ngọc, làm chủ cả trời đất. Trong ba ngôi (Nho, Thích, Lão, còn gọi nhật, nguyệt, tinh), ông chiếm lấy một. Xin cho tôi gọi bằng chú. Giờ đây cháu hỏi chú: Âu Á đánh nhau, ai thắng ai thua, mà nay dân mình chết oan uổng như vậy ?

    Bài thứ hai mươi sáu

    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng


    Hà môn giáp tý giáng lâm trần,
    Đào tạo lương tâm khổ não dân.
    Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến.
    Cấu ai trị địa hội quân thần.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HÀ MÔN: : Từ dùng để hỏi. Vì sao ? Tại sao ? Môn: Dòng phái. Nghĩa rộng: Nói đến một Võ đường hay một Tôn giáo.
    GIÁP TÝ: Giáp: Chữ dùng đầu thập can. : Chữ dùng đầu thập nhị chi. Hai chữ nầy dùng để chỉ năm tháng.
    GIÁNG LÂM: Giáng: Trên trời rơi xuống. Nghĩa bóng: Lâm phàm. Lâm: Đến. Nghĩa rộng: Dùng để chỉ các đấng thiêng liêng xuất thế cứu độ chúng sanh.
    TRẦN: Bụi bặm, cõi đầy nhớp nhơ. Ý nói đến cõi chúng ta đang sinh sống.
    2/-ĐÀO TẠO: Đào: Rèn luyện. Tạo: Làm nên. Nghĩa rộng: Giáo hóa thành người hữu dụng.
    LƯƠNG TÂM: Lương: Tốt đẹp. Tâm: Lòng. Tấm lòng tốt đẹp, nhân hậu. “Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm”.(Nhị thập tứ hiếu)
    KHỔ NÃO: Khổ: Đau đớn, vất vả. Não: Phiền bực. Nghĩa rộng: Suy nghĩ lao lung.
    DÂN: Người dân.
    3/-XUẤT HIỆN: Xuất: Ra. Hiện: Cho người ta thấy. Hiện ra cho mọi người cùng thấy tạn mặt.
    MẠNG CHƠN: Còn gọi chơn mạng. Mạng: Số phận con người. Chơn: Ngay thật. Mạng sống chơn thật. Nghĩa bóng: Người có chơn mạng làm vua.
    PHI: Không đúng, không chánh đáng.
    QUYẾT CHIẾN: Quyết: Nhất định. Chiến: Đánh nhau. Nhất định phải đánh nhau.
    4/-CẤU AI: Cấu: Gây nên, kết thành. Ai: Đau đớn, xót thương. Nghĩa bóng: Sự thương cảm sâu sắc.
    TRỊ ĐỊA: Trị: Đem lại trật tự, làm cho yên ổn. Địa: Những khu vực trên quả đất. Nghĩa rộng: Đem lại hòa bình cho các nước.
    HỘI: Nhóm họp, nhiều người lập thành một tổ chức, cùng theo đuổi một mục đích chung.
    QUÂN THẦN: Quân: Vua. Thần: Những bậc có công với dân với nước. Khi chết được vua sắc phong hay dân chúng tôn sùng vọng bái. Nghĩa rộng: Vua tôi.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Vì sao năm Giáp Tý lạ giáng trần, làm khổ sở cho dân chúng, bởi xuất hiện một người không đánh giặc, rồi lấy ai để trị dân, trị nước.

    Bài thứ hai mươi bảy
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Thành tha ngũ nội nã càn khôn,
    Cái thế vô linh mạng Thích Tôn.
    U lịch bá trừ nô bính lợi,
    Tiền đồ Lê dị đắc giang môn.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-THÀNH THA: Thành: Lòng chơn thật. Tha: Người ấy.( Đại danh từ chỉ nhân vật, ngôi thứ ba).
    NGŨ NỘI: Ngũ: Năm. Nội: Trong. Nghĩa rộng: Năm món ở trong con người: Tâm, can, tỳ, phế và thận.
    NÃ: Truy đuổi.
    CÀN KHÔN: Tên hai quẻ trong bát quái. Càn tượng Trời, Khôn tượng Đất. Càn khôn có nghĩa là Trời Đất.
    *Tóm lược ý câu “Thành tha ngũ nội nã càn khôn”: Những bậc chơn giác trong xã hội thì rất hiếm hoi.
    2/-CÁI THẾ: Cái: Bao trùm. Thế: Đời. Suốt trong cõi đời không ai địch nổi. “Hạng Lương lực bạt sơn hề, khí cái thế”.(Hạng Lương sức nhổ núi, khí trùm trời đất).
    VÔ LINH: : Chẳng, là. Linh: Ứng nghiệm, thiêng liêng. Nghĩa rộng: Linh hiển vô cùng.
    MẠNG: Còn gọi Mệnh. Vận số của con người.
    THÍCH TÔN: Thích: Nói rõ. Nghĩa rộng: Họ của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni (Giáo chủ cõi Ta Bà). Tôn: Cao cả.
    *Tóm lược ý câu “Cái thế vô linh mạng Thích Tôn”: (Ta cũng là người chịu dưới sự chi phối của trời đất, thì cho dù ai đi nữa, có sức mạnh bạt sơn cũng đều ảnh hưởng bởi luật dịch hóa).
    3/-U LỊCH: U: Mờ mờ, ẩn giấu. Lịch: Trải qua. Nghĩa rộng: Trải qua chừng…
    BÁ TRỪ: : Một trăm. Trừ: Loại bỏ, làm cho mất đi.
    : Người đầy tớ (Người giúp việc). Nghĩa rộng: Lời khiêm tốn nhún nhường.
    BÍNH LỢI: Bính: Chữ thứ ba trong thập can. Lợi: Cái có ích mà mình thu được. Nghĩa bóng: Đến thời, đến lúc có thể thành công được.
    *Tóm lược ý câu “U lịch bá trừ nô bính lợi”: Hiện tại người đứng đầu (Minh chủ), hiện còn ẩn dạng, sau nầy sẽ nắm lấy thiên hạ, đem lại hòa bình cho thiên hạ.
    4/-TIỀN ĐỒ: Tiền: Trước. Đồ: Mưu tính. Nghĩa rộng: Đất nước. Con đường tương lai của nước nhà.
    LÊ DỊ: : Nhà Lê. Dị: Có thể là vị. Ngôi thứ. Ngôi vị của nhà Lê.
    ĐẮC: Được.
    GIANG MÔN: Giang: Sông. Môn: Cửa. Cửa sông. Nghĩa bóng: Nơi phát sinh, xuất hiện. Trong từ Giang môn Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết:
    Bửu châu công luyện chốn non thần,
    Sơn thủy môn giang bảo giác dân..

    Ý nói Cửa môn giang chính là nơi Thiên tử xuất hiện.
    *Tóm lược ý câu “Tiền đồ Lê dị đắc giang môn”: Đất nước nhà Lê sẽ có thánh chúa trị vì, sẽ đem lại hòa bình thạnh trị cho thiên hạ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Lòng mình đã có sự chí thành, thì đuổi bắt kịp vũ trụ vạn hữu khác thường và linh hiển vô cùng. Đó là chơn mạng của Thích đạo, chỉ non một trăm năm là ta thoát ách nô lệ, nhờ có con sông báu.

    Bài thứ hai mươi tám
    ĐỨC THẦY đáp họa (tt)


    Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
    Khóc tử lang tâm biến họa dân.
    Tà quái hạ ngươn khai ác chiến,
    Ất niên bình thự kiến quân thần.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-TAM THIÊN: Tam: Ba. Thiên: Một ngàn. Ba ngàn.
    LỤC BÁ: Lục: Sáu. : Một trăm. Sáu trăm.
    TAM THIÊN LỤC BÁ: Ba ngàn sáu trăm, tượng trưng cho con số nhiều.
    GIÁNG LÂM: Giáng: Xuống. Lâm: Đến. Nghĩa rộng: Từ nơi nầy đến nơi nọ hay từ trên cao xuống dưới thấp.
    TRẦN: Bụi bặm. Nghĩa rộng: Ý nói cõi chúng ta đang sinh sống đầy nhớp nhơ bụi bặm.
    *Tóm lược ý câu: “Tam thiên lục bá giáng lâm trần”: Ba ngàn sáu trăm bàng môn tả đạo cùng nhau xuống thế, hãm hại sanh chúng. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”.
    2/-KHỐC TỬ: Khốc: Khóc chảy nước mắt. Tử: Chết. Có người chết thì khóc thương.
    LANG TÂM: Lang: Chó sói (thú dữ). Tâm: Lòng. Nghĩa rộng: Lòng độc ác như thú dữ.
    BIẾN: Thay đổi khác thường.
    HỌA DÂN: Họa: Điều tai hại, rủi ro. Dân: Người dân. Tai họa đối với dân lành.
    *Tóm lược ý câu “Khóc tử lang tâm biến họa dân”: Lòng nham hiểm độc ác của con người như loài thú dữ, đã gây ra thảm họa cho dân lành.
    3/-TÀ QUÁI: : Không ngay thẳng. Từ gọi chung các loài yêu ma, quỉ quái. Quái: Lạ lùng, khác thường.
    HẠ NGƯƠN: Nguơn cuối cùng của lý Tam nguơn (Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn). Nghĩa rộng: Cõi chúng ta đang sinh sống.
    KHAI: Mở rộng.
    ÁC CHIẾN: Ác: Hung tợn. Chiến: Hai bên đánh nhau. Trận đánh nhau dữ dội.
    *Tóm lược ý câu “Tà quái hạ nguơn khai ác chiến”: Cõi hạ nguơn bọn tà ma quỉ quái thường gây chiến đánh nhau dữ dội.
    4/-ẤT NIÊN: Ất: Chữ thứ hai trong thiên can (Giáp, ất, bính, đinh…). Niên: Năm. Căn cứ theo bài thi trên thì năm Ất Dậu (1945).
    BÌNH THỰ: Bình: Bằng phẳng, yên ổn. Thự: Viết, ký tên. Nghĩa rộng: Góp tay vào việc làm cho yên ổn.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    QUÂN THẦN: Quân: Vua. Thần: Tôi. Vua tôi.
    *Tóm lược ý câu “Ất niên bình thự kiến quân thần”: Đến năm Ất Dậu sẽ có người làm bình chiến cuộc, tôi chúa trùng phùng.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Ba ngàn sáu trăm kẻ xuống phá đời, nó làm cho nhơn tâm biến đổi. Cảnh chết chóc xảy ra khắp nơi, lòng dạ trở thành lang sói (thú dữ), mất hẳn tính người, nên gây nên cảnh chiến tranh. Đến năm Ất Dậu mới bình ổn chiến sự. (1)
    (1) Để làm rõ hai bài Thi Hán của ông Huỳnh Hiệp Hòa và hai bài Thi Hán đáp họa của Đức Huỳnh Giáo Chủ, chúng tôi xin mở dấu ngoặc để thưa chuyện cùng chư quí vị !
    Theo lời kể của anh Nguyễn văn Phạn, hiện thường trú tại Thánh địa Hòa Hảo. Trước năm (1975), anh là Thư ký của Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo, sau khi đọc xong bài thi xướng của ông Hòa và hai bài thi đáp họa của Đức Huỳnh Giáo Chủ, anh luôn nghi vấn trong lòng. Nhân một hôm có dịp gặp và thưa chuyện cùng ông Trần văn Nhựt (Bút hiệu là Dật Sĩ), lúc bấy giờ ông là Giáo sư các trường Trung học, Nhà văn và Giảng viên các trung tâm Đào tạo nhân sự Phật Giáo Hòa Hảo. (Khoảng năm 1963-1964). Được ông trả lời như sau:
    Trước đây ông Hòa cũng có những cái thắc mắc như cháu (lúc ấy tuổi anh Phạn đáng con cháu), ông Hòa đã tìm gặp hỏi chuyện cùng Đức Thầy và được trả lời: (Xem hai bài thi vấn của ông Hòa và hai bài thi đáp họa của Đức Thầy), sau khi đọc xong, một tay cầm viên phấn, một tay dẫn ông Hòa ngồi xuống. Ngài viết chữ LỊCH (chữ Hán), rồi chiết tự ra ĐẠI NHỰT BỔN (chữ Hán), Ngài giải thích: Trong bài thi đáp có nghĩa là tới năm Ất Dậu (1945), Nhựt Bổn giải giáp bởi Đồng Minh.(Do hai quả bom nguyên tử của đồng minh, thả xuống hai thành phố HIROSHIMA và NAGASHAKI của Nhật Bổn, làm thiệt mạng khoảng hai trăm ngàn người. Chính vì thế mà Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng). Nhờ đó dân ta thoát khỏi ách nô lệ.(Người hỏi hậu ý khéo léo, Đức Giáo Chủ giải thích lại càng sâu xa, tinh tường hơn nữa. Âu cũng là một câu chuyện thật lý thú).

    Bài thứ hai mươi chín
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng


    Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
    Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.
    Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
    Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
    Mã lai thủ thị danh thương pháp,
    Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
    Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
    Tứ minh tam vị hiển văn chương.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-PHIẾN NGÔN: Phiến: Một tấm, một mảnh. Ngôn: Lời nói. Một lời nói.
    ĐẠI CHẤN: Đại: To lớn. Chấn: Sửa soạn, chỉnh đốn. Nghĩa rộng: Chỉnh trang, sửa soạn lại cho hoàn thiện hơn.
    ĐIỂM: Một chấm, điểm tựa.
    NAM CƯƠNG: Phía nam, vùng giáp giới phía nam (Ám chỉ miền nam Việt Nam).
    *Tóm lược ý câu “Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương”: Một lời nói ra làm cho mọi sự được an lành, khắp nơi đều yên ổn (Ý nói Đức Thầy khai đạo, chấn chỉnh lại giềng mối đạo nhân luân).
    -Chiết tự câu “Phiến ngôn đại chấm điểm nam cương”: Chữ Phiến, thêm chữ Đại và chữ điểm (tức là một chấm) thành ra chữ TRẠNG.
    2/-KHẨU TỤNG: Khẩu: Miệng. Tụng: Đọc. Miệng đọc hay ngâm nga.
    VĂN VƯƠNG: Tức Châu văn Vương, họ Cơ, tên Xương, sanh ra Võ Vương. Nguyên là chư hầu của nhà Ân (tức vua Trụ), sau Võ Vương diệt được nhà Ân lên nối ngôi, mới tôn là Văn Vương. Dưới thời vua Trụ, Văn Vương thi hành nhân chính, chư hầu theo về rất đông. Sùng Hầu Hổ gièm pha cùng Trụ Vương, bắt giam Văn Vương tại ngục Dũ Lý. Nhờ Tán Nghi Sanh đem gái đẹp, cùng châu báu dâng lên vua Trụ, nên Văn Vương mới được tha. Các chư hầu ở phương Tây, Văn Vương lớn hơn cả, nên gọi là Tây Bá Hầu. Đức Thầy: “Xưa Tây Bá thất niên Dũ Lý”.
    VỊ: Chưa rõ, chưa hiểu.
    BỐC TƯỜNG: Bốc: Bói toán để biết việc đã qua hay sắp đến. Tường: Hiểu một cách chính xác. Nghĩa rộng: Tìm hiểu một cách chính xác.
    VỊ BỐC TƯỜNG: Chưa nói ra đã biết trước.
    *Tóm lược ý câu “Khẩu tụng Văn Vương vị bốc tường”: Ý nói Đức Thầy có tiếng tăm địa vị như vua Văn Vương, chưa nói ra ông Hòa đã biết.
    -Chiết tự câu “Khẩu tụng Văn Vương vị bốc tường”: Chữ Khẩu trên và chữ Vươngdưới. Thành ra chữ TRÌNH. Hai câu:
    Phiến ngôn đại chiến điểm nam cương,
    Khẩu tụng Văn Vương vị bốc tường.
    Chiết tự ra thành TRẠNG TRÌNH. Ý nói ông Hòa hỏi Đức Thầy có phải là ông Trạng Trình hay không ?
    3/-DỮ THIỆN: Cùng làm lành.
    NGÔN NGÔN: Lời nói tiếp nối.
    TUNG NHỨT NHỊ: Có một không hai.
    *Tóm lược ý câu “Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị”: Cùng với việc làm lành, đối với Ngài trên đời có một không hai.
    -Chiết tự câu: “Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị”. Chữ Dữ, cùng chữ Tung, thêm nét sổ xuống một gạch, cộng với chữ Nhị, hai gạch ngang, thành chữ CỬ.
    4/-HÀNH NHƠN: Người cùng đi.
    TỊCH TỊCH: Đêm đêm, đêm nầy sang đêm khác.
    MUỘI TÂM LƯƠNG: Lòng lành bị lu mờ. Nghĩa bóng: Tâm lành chưa được mở rộng.
    *Tóm lược ý câu “Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương”: Người đi trong đêm tối. Nghĩa rộng: Ý nói tuy có lòng lành, mà vẫn còn tối tăm, tâm lòng chưa được mở rộng.
    -Chiết tự câu “Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương”. Hai chữ Tịch cộng lại thành chữ ĐA. Hai câu:
    Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
    Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
    Chiết tự ra thành CỬ ĐA. Ý nói ông Hòa hỏi Đức Thầy có liên hệ gì với ông Cử Đa hay không ?(1)
    (1) Vấn đề giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và ông Cử Đa có liên hệ mật thiết, trên quan điểm ý thức hệ tư tưởng, chúng tôi xin mở dấu ngoặc để trích đoạn đầu quyển Lan Thiêncủa ông Cử Đa (tộc danh Nguyễn Đa, đạo hiệu Ngọc Thanh) và quyển thứ ba Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    Lan Thiên
    Lan Thiên một cõi chép chơi,
    Sơn cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng.
    Hiu hiu gió thổi đậm đùng,
    Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai.
    Mùa xuân tới cảnh lầu đài,
    Tháng giêng mười chín thi tài hùng anh.
    Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh.
    Bồng Lai một cõi hữu danh chữ đề.

    (Ông Cử Đa)
    Sấm Giảng
    Lan Thiên một cõi xa chơi,
    Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng.
    Hiu hiu gió thổi lạnh lùng,
    Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai.
    Mùa xuân hứng cảnh lầu đài,
    Lúc còn xác thịt thi tài hùng anh.
    Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh,
    Bồng lai một cõi hữu danh chữ đề.

    (Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    Và:
    Kể từ Phú Quốc mới về,
    Long Thoàn lên ở dựa kề hai năm.
    Dạo chơi mấy điệu tri âm,
    Tỏ lời sau trước mấy năm phản hồi.
    Phận mình trong sạch đã rồi,
    Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
    Dương trần còn gọi Cử Đa,
    Cõi Tiên chữ đặt hiệu là Ngọc Thanh.
    Ngày ra chơi chốn rừng xanh,
    Tối về kinh kệ cửi canh mặc người.

    (Ông Cử Đa)
    Kể từ Tiên cảnh ta về,
    Non Bồng ta ở dựa kề mấy năm.
    Dạo chơi tầm bực tri âm,
    Nay vì thương chúng trần gian phản hồi.
    Nghĩ mình trong sạch đã rồi,
    Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
    Phong trần tâm đã rời ra,
    Ngọc Thanh là hiệu ai mà dám tranh.
    Ngày ra chơi chốn rừng xanh,
    Tối về kinh kệ cửi canh mặc người.

    (Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    5/-MÃ LAI: Ngựa đến.
    THỦ THỊ: Tay cầm (Tay huơi).
    DANH THƯƠNG PHÁP: Đường thương và binh pháp gia truyền có tiếng.
    *Tóm lược ý câu “Mã lai thủ thị danh thương pháp”: Ngựa đã đến, tay cầm thương lên tuấn mã, trong bụng sẵn có binh thư đồ trận (Ý nói vốn là một danh tướng tài ba xuất chúng).
    -Chiết tự câu “Mã lai thủ thị danh thương pháp”. Chữ Thủ, đi với chữ Thị, là chữĐỀ.
    6/-THỦY KIỆT: Nước cạn.
    CHƯỞNG THÂM: Thọc sâu bàn tay, tay mò sâu. (Chưởng: Bàn tay, lòng bàn tay).
    TẨY KHỔ TRƯỜNG: Hết gian nan, vất vả dài lâu.
    *Tóm lược ý câu “Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường”: Gặp lúc nước cạn, dùng bàn tay tìm nước (Ý nói gặp cơn hoạn nạn ra tay gánh vác, dìu dắt ra khỏi chỗ ấy).
    -Chiết tự câu “Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường”. Chữ Thâm mất nước (bộ Thủy) còn lại chữ (…). Chữ Chưởng và chữ Thủ, đều chỉ về bàn tay, cánh tay. Thêm chữ Thủ, thành ra chữ THÁM. Hai câu:
    Mã lai thủ thị danh thương pháp
    Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
    Chiết tự thành ĐỀ THÁM. Ý ông Hòa muốn hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ, có liên quan gì với ông Đề Thám hay không ?
    7/-THI VẤN: Thi: Bài vận văn (văn vần). Vấn: Hỏi. Bài thơ để hỏi.
    HỒI ÂM: Đáp lại.
    TRI BỬU HIỆU: Biết danh tánh, hiệu tự quí báu.
    *Tóm lược ý câu “Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu”: Thi hỏi xin cho biết quí tánh tôn danh ?
    8/-TỨ MINH: Ý tứ rõ ràng, minh bạch.
    TAM VỊ: Tam: Ba. Vị: Ngôi thứ, cấp bậc. Tam vị ở đây ý nói đến ba ông Trạng Trình, Cử Đa và Đề Thám.
    HIỂN VĂN CHƯƠNG: Đã nói rõ trong văn thơ.
    *Tóm lược ý câu “Tứ minh tam vị hiển văn chương”: Ba ông: Trạng Trình, Cử Đa và Đề Thám mà Ngài có nhắc đến trong văn thơ.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Ông Hòa cho rằng: Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo, tiếng tăm vang dội miền nam Việt Nam. Vậy Ngài có liên hệ gì với ba ông: Trạng Trình, Cử Đa và Đề Thám, mà ông đã nói trong văn thơ ?

    Bài thứ ba mươi
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
    Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
    Tề tướng cam phong an diện nhị,
    Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
    Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp,
    Phật lý di khai đại hội trường.
    Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
    Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HỒI ĐẦU: Quay lại điểm xuất phát. Nghĩa rộng: Làm theo, tin theo điều gì.
    ĐIỂM ĐẠO: Điểm: Chỉ bảo. Đạo: Đường đi, lẽ phải. Từ chung chỉ về Tôn giáo.
    CHUYỂN: Bánh xe quay, trở ngược lại hay dời đi.
    PHONG CƯƠNG: Phong: Cảnh tượng. Cương: Vùng. Nghĩa bóng: Cảnh sắc hay ý thức hệ tư tưởng.
    *Tóm lược ý câu “Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương”: Hãy hướng về con đường đạo đức, sẽ hiểu được tính thực dụng của nó, từ đó ý thức hệ cũng sẽ thay đổi.
    2/-HÁO THẮNG: Thích hơn người. Nghĩa rộng: Hơn thua cao thấp.
    BI LY: Thương xót, xa cách.
    ĐẠO: Con đường thích hợp với lẽ phải, từ chỉ chung về Tôn giáo.
    KHỔ TƯỜNG: Khổ: Lo lắng, khó nhọc. Tường: Hiểu rõ ràng, chính xác.
    *Tóm lược ý câu “Háo thắng bi ly đạo khổ tường”: Nếu còn tranh hơn thua cao thấp sẽ khó được gần gũi, chính ông là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết.
    3/-TỀ TƯỚNG: Tướng nước Tề.
    CAM PHONG: Cam: Tự nguyện, đành chịu. Phong: Thái độ.
    AN DIỆN NHỊ: Cả hai mặt (hai bên) đều được yên ổn.
    *Tóm lược ý câu “Tề tướng cam phong an diện nhị”: Ngài giống như tướng nước Tề, dù có gặp khó khăn vẫn đem đạo dạy đời, làm cho êm đẹp cả hai mặt đời và đạo.
    4/-HÀN NHƠN: Người họ Hàn, ám chỉ Hàn Tín.
    THỌ KHÓA: Thọ: Nhận lãnh. Khóa: Một lớp học. Nghĩa rộng: Một giai đoạn nào để nhận lãnh một bài học.
    TÁC TÂM LƯƠNG: Giữ vững tâm lương thiện.
    *Tóm lược ý câu “Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương”: Người họ Hàn phải nhận lãnh một bài học, vì chẳng thức tri thời thế. (Nghĩa là Hàn Tín khi vang danh bốn bể, không biết con đường thối như Trương Lương, nên về sau phải chết về tay một người đàn bà).
    5/-THIÊN TÔN: Thiên: Trời. Tôn: Cao cả. Ngôi trời.
    MẬT SÁT: Tìm hiểu những điều sâu xa, kín đáo.
    NHƠN GIAN PHÁP: Giáo lý nhà Phật tại thế gian, để cho mọi người tu theo. Nghĩa rộng: Thế gian pháp.
    *Tóm lược ý câu “Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp”: Đức Huỳnh Giáo Chủ có sứ mạng truyền bá Giáo pháp của Phật Tổ Thích Ca, để cho chúng sanh nương theo đó mà tu hành.
    6/-PHẬT LÝ: Lời lẽ của Phật hay Giáo lý chư Phật.
    DI KHAI: Mở rộng ra khắp mọi nơi.
    ĐẠI HỘI TRƯỜNG: Nơi hội họp rộng rãi, có đông người đến tham dự. Nghĩa bóng: Ý nói Hội Long Hoa, đó là trường thi công đức. Ngày kết thúc Hạ nguơn, đánh dấu thời Thượng nguơn thánh đức.
    *Tóm lược ý câu “Phật lý di khai đại hội trường”: Đức Huỳnh Giáo Chủ truyền bá Giáo pháp của Phật Tổ Thích Ca, chúng sanh nương theo đó mà tu tập, để sau nầy dự hội Long Hoa, đây cũng là trường thi công đức của bậc hiền nhơn.
    7/-TAM BÁ: Tam: Ba. : Trăm. Ba trăm.
    NGOẠI NIÊN: Ngoại: Ngoài. Niên: Năm. Ngoài con số đã ấn định.
    TAM BÁ NGOẠI NIÊN: Ngoài ba trăm năm hay hơn ba trăm năm.
    CHƠN: Thật thà, ngay thẳng.
    BÚT HIỆU: Tên tự và hiệu tự của nhà văn.
    *Tóm lược ý câu “Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu”: Trăn ba trăm năm về trước, đó mới chính thức là tên hiệu của Ta (ám chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    8/-HÀN LÂM: Rừng bút. Nơi hội tụ nhiều Văn nhân, Thi sĩ.
    NHỨT ĐẤU: Một lít. Nghĩa bóng: Lương nhiều hơn hết trong giới quan Hàn Lâm (Hay đứng đầu trong giới quan Hàn Lâm).
    VỊNH: Ngâm, đọc. Nghĩa rộng: Sáng tác.
    THIÊN CHƯƠNG: Thiên: Ngàn. Chương: Bài văn. Một ngàn bài văn.
    *Tóm lược ý câu “Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương”: Ta là quan Đại học sĩ, đứng đầu một triều vua, có sáng tác một ngàn bài thơ.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên ông Huỳnh Hiệp Hòa hãy sớm quay đầu hướng thiện, nếu còn tranh hơn thua cao thấp sẽ không gần được đạo. Ngài cho biết có sứ mạng vâng lịnh Phật Tổ lâm phàm khai đạo, lập hội Long Hoa, chọn người hiền đức. Trên ba trăm năm Ngài là quan Đại học sĩ, đứng đầu một triều vua, có sáng tác một ngàn bài thơ.(1)
    (1) Chúng tôi xin mở dấu ngoặc, để làm rõ việc cụ Trạng Trình và Đức Huỳnh Giáo Chủ, có liên hệ mật thiết:
    Cụ Trạng Trình tộc danh là Nguyễn Bỉnh Khiêm sanh năm Tân Hợi (1491), mất ngày 28 tháng 11, năm Ất Dậu (1585). Nguyên quán làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Ngài có hiệu tự là Bạch Vân Cư Sĩ, trong sự nghiệp văn chương, Ngài đã trước tác một ngàn bài thơ, gồm nhiều thể loại. Tên tác phẩm là “Bạch Vân Thi Tập” và “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi”.
    Nếu tính vào thời điểm Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo, ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) và năm mất của cụ Trạng Trình (1585), chúng ta sẽ thấy:
    (1939 – 1585 = 354 năm)
    Do đó, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xác nhận: “Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu” (Ngoài ba trăm năm mới chính là tên hiệu của Ngài). Ngoài ra Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xác nhận Ngài có liên hệ mật thiết với cụ Trạng Trình: “Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa” (Ta là Trạng Trình ở làng Cổ Am) và trong bài “Để chơn đất Bắc”, Ngài có nói rõ:
    Vân vân bạch bạch thức sinh thần,
    Cổ quán thôn hương nhứt dị nhân.
    Tiên sinh hậu kiếp phò Lê chúa,
    Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.


    Bài thứ ba mươi mốt-> Bài thứ bốn mươi


    Bài thứ ba mươi mốt
    THỜI LAI DIỆN MỤC


    Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
    Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
    Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
    Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    Đã đến lúc ra mặt
    THỜI LAI: Thời: Cũng đọc Thì: Lúc, khi. Lai: Lại, đến. Đến lúc nào đó. Nghĩa rộng: Cơ hội đã đến.
    DIỆN MỤC: Diện: Mặt. Mục: Mắt. Hai bộ phận của con người. Nghĩa rộng: Hiện ra trước mặt.
    1/-HỒNG NHẠN: Hồng: Con ngỗng trời. Nhạn: Con vịt trời. Theo người Trung Hoa: Con Hồng và Nhạn là loài chim, bay bao giờ cũng có hàng lối, trật tự.
    Ô QUI: Ô: Con quạ. Qui: Con rùa.
    THÁN: Tiếng than thở.
    GIẢ HỒ: Giả: Từ chỉ về người (như Hiền giả, học giả…), ngoài ra còn dùng để phân biệt các việc khác nhau. Thí dụ: “Nhân giả, nhân dã”: Người ấy, kẻ ấy; Lòng nhơn từ vậy. Hồ: Sao ? Người ấy làm sao ? Sự việc như thế nào ?
    *Tóm lược ý câu “Hồng nhạn ô qui thán giả hồ”: Con người, vật ở trong đời không thật hay sao ?
    2/-THI THẦN: Thi: Thơ. Thần: Đấng thiêng liêng. Thi văn của các bậc Thánh hiền.
    ĐỞM KHÍ: Đảm: Lá gan (?). Khí: Tính chất mạnh mẽ của con người. Nghĩa rộng: Có một tinh thần mạnh mẽ.
    NGỘ HÀ MÔ: Ngộ: Gặp gỡ. : Từ dùng để hỏi.: Bắt chước theo. Nghĩa rộng: Tại sao phải làm theo, nghe theo ?
    *Tóm lược ý câu “Thi thần đởm khí ngộ hà mô”: Khí tiết trong văn thơ bộc phát khi đổi cảnh sanh tình. Vì cớ làm sao vậy ? Chính nó là lẽ tự nhiên của con người.
    3/-ĐIỆN PHONG: Điện: Nhà ca lớn, cái đền. Về sau người ta dùng để chỉ nơi vua ở, hoặc chốn thờ phụng Phật Thánh. Phong: Cảnh tượng.
    VẠN HỘ: Vạn: Một muôn, mười ngàn. Từ dùng để chỉ số nhiều. Hộ: Nhà. Nghĩa rộng: Nhiều nhà, nhiều người chung hoàn cảnh hay một nghề.
    : Không, chăng.
    THIÊN ẢNH: Thiên: Dời đổi. Ảnh: Bóng.
    *Tóm luợc ý câu “Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh”: Đền đài, điện ngọc của vua chúa, nhà cửa của dân chúng trên đời đều là giả tạm.
    4/-TỔN KHÍ: Tổn: Giảm bớt. Khí: Tính chất, phần tinh thần
    THAO TỒI: Còn gọi Tháo hồi (Một cách nói của người xưa): Quay trở lại hay thụt lui lại phía sau.
    VỌNG NHỨT VÔ: Vọng: Mong ngóng, trông nhìn. Nhứt: Đứng đầu. : Không. Nghĩa bóng: Chỉ thấy được một, trong ngàn cái đã thấy.
    *Tóm lược ý câu “Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô”: Cho dù có thông minh tài giỏi đến đâu, cũng chỉ là cái kết quả ít ỏi, trong vô vàn cái thành quả chưa có.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Một cái không ở trong ba cái thấy sai khác, đến chừng trời quang mây tạnh, cõi hạ giới được mở ra, sẽ thấy mặt mày của người làm nên chuyện.

    Bài thứ ba mươi hai
    THỜI LAI DIỆN MỤC (tt)


    Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
    Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
    Khai cảnh nguyệt đài thông hạ giới,
    Thời lai diện mục tác hài công.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-NHỨT VÔ: Nhứt: Đứng đầu. : Không. Nghĩa rộng: Không một lần đạt được mục đích. Nghĩa bóng: Chỉ thấy được một trong ngàn cái thấy.
    TAM KIẾN: Tam: Ba. Kiến: Thấy, gặp gỡ. Nghĩa bóng: Nhiều lần gặp gỡ.
    CÁI THIÊN HỒNG: Cái: Bao trùm, trùm khắp.Thiên: Trời. Hồng: Sắc đỏ. Nghĩa rộng: Sắc đỏ bao trùm khắp cả bầu trời.
    *Tóm lược ý câu “Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng”: Cái đạo duy nhứt là to lớn, bao trùm cả bầu trời.
    2/-TÔNG TÍCH: Tông: Còn đọc là Tôn: Dòng họ, hay một giáo phái. Tích: Dấu vết. Hình ảnh một phủ thờ hay một Tôn giáo. Nghĩa bóng: Ý nói đến Giáo Chủ khai đạo cứu độ chúng sanh.
    KỲ SANH: Kỳ: Lạ lùng, khác thường. Sanh: Ra đời.
    CHUYỂN KIẾP THÔNG: Chuyển: Bánh xe quay, dời đi hay trở ngược lại…Kiếp: Thường dùng để ví với một đời người. Thông: Khắp suốt. Nghĩa rộng: Giáo pháp được phổ truyền khắp mọi nơi.
    *Tóm lược ý câu “Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông”: Tôn Giáo do Đức Huỳnh Giáo Chủ khai mở, có điều khác thường là chính Ngài chuyển kiếp trở lại, có “Sứ mạng” của Đức Ngọc Đế và Phật Tổ Thích Ca.
    3/-KHAI CẢNH: Khai: Mở, làm cho được thông suốt. Cảnh: Hình sắc có thể ngắm và thưởng thức. Nghĩa rộng: Cảnh tượng hiển hiện ra trước mắt để cho mọi người trông thấy.
    NGUYỆT ĐÀI: Còn gọi Đài nguyệt kiếng: Trên đài treo tấm kiếng hình mặt trăng. Theo Phật Giáo, nơi cõi u minh, tại điện thứ nhứt của Tần Quảng Vương, có cái đài treo tấm kiếng hình mặt nguyệt, gọi là Đài nguyệt kiếng để chiếu rọi hành vi của người chết, khi tội nhân không chịu cung khai. Nghĩa bóng: Tâm được tròn sáng thì thông suốt vạn vật. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiếng”. Hoặc: “Ta chí dốc tầm Đài nguyệt kiếng, Cho dương trần rọi chuyện sai lầm”.
    THÔNG HẠ GIỚI: Suốt khắp cả thế gian.
    *Tóm lược ý câu “Khai cảnh nguyệt đài thông hạ giới”: Khi tâm được tròn sáng thì thông suốt vạn vật.
    4/-THỜI LAI: Thời: Còn đọc Thì: Lúc, khi. Lai: Lại. Nghĩa rộng: Đã đến lúc…Nghĩa bóng: Cơ hội đã đến.
    DIỆN MỤC: Diện: Mặt. Mục: Mắt. Nghĩa rộng: Hiển hiện ra trước mắt.
    TÁC HÀI CÔNG: Tác: Làm. Hài: Nói chung về hình thể. Công: Thợ. Nghĩa bóng: Người làm nên sự việc hay cảnh sắc nào đó.
    *Tóm lược ý câu “Thời lai diện mục tác hài công”: Bây giờ đã đến thời điểm thi hành phận sự.

    Bài thứ ba mươi ba
    Ông NGUYỄN THANH TÂN xướng


    Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
    Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
    Cực vọng Nam minh dân tiếp thủy,
    Tường khan Bắc chỉ thạch tranh vinh.
    Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt,
    Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình.
    Kim nhựt phùng chơn tu tận túy,
    Hựu tương ly biệt não bình sanh.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-TIẾT PHONG: Tiết: Khí hậu chia thành từng thời gian trong một năm, theo Âm lịch thì mỗi năm chia thành 24 tiết. Phong: Gió. Nghĩa rộng: Sự vận hành của Tạo hóa.
    MỘT VÕ: Một: Một, con số chỉ định. Ví dụ: Một thế: Trọn đời. Võ: Mưa. Nghĩa rộng: Nói chung về thời tiết của Tạo hóa.
    NHỨT: Đứng đầu.
    THÂN KHINH: Thân: Thân thể hay thể xác con người. Khinh: Xem nhẹ. Xem nhẹ mạng sống. “Nhẹ xem mạng sống như màu cỏ cây”.(Chinh phụ ngâm khúc).
    *Tóm lược ý câu “Tiết phong một võ nhứt thân khinh”: Theo sự vận hành của Tạo hóa, con người cũng phải chịu dưới quyền chi phối ấy.
    HẢO: Ham thích.
    ĐẠO: Con đường hợp với lẽ phải, là bổn phận và trách nhiệm của con người. Từ chỉ chung về Tôn giáo.
    THƠ SANH: Còn gọi Thư sanh. Thư: Sách vở.Sinh: Học trò, người đọc sách. Nghĩa rộng: Người có học thức.
    CẢM KHỐC TÌNH: Cảm: Xúc động. Khốc: Khóc chảy nước mắt. Tình: Những mối cảm xúc trong lòng phát lộ ra ngoài. Nghĩa rộng: Khi tiếp xúc với ngoại cảnh mà biểu cảm thái độ đến rơi nước mắt.
    *Tóm lược ý câu “Hảo đạo thơ sanh cảm khốc tình”: Hiểu được mối đạo của Đức Thầy là chánh giáo, khiến ông Thanh Tân cảm động đến rơi nước mắt.
    3/-CỰC VỌNG: Cực: Rất, hết sức. Vọng: Mong ngóng. Nghĩa rộng: Rất hy vọng.
    NAM MINH: Nam: Phương Nam. Minh: Là biển. Biển nằm về phương Nam. Nghĩa rộng: Một nơi rất xa xôi. Trang Tử: “Thị điểu dã, hải vận tắc tương tỉ ư nam minh. Nam minh giả, thiên trì dã”.(Con chim ấy, nếu bay đường biển, thì cơ hồ đến được nam minh. Nam minh là ao của trời vậy).
    DÂN: Người dân. Nói chung những sắc dân sinh sống trong trái đất hay một đất nước.
    TIẾP THỦY: Tiếp: Đón nhận. Thủy: Nước.
    *Tóm lược ý câu “Cực vọng nam minh dân tiếp thủy”: Rất muốn được đến nơi khó đến. Ý nói mong muốn được hiểu thấu con đường đạo đức hay một Tôn giáo.
    4/-TƯỜNG KHAN: Tường: Hiểu rõ. Khan: Cũng đọc là Khán: Xem, giữ gìn. Nghĩa rộng: Cần hiểu thấu đáo để đánh giá công việc.
    BẮC CHỈ: Bắc: Một trong bốn hướng: Đông, Tây,Nam và Bắc. Chỉ: Duy nhứt, chỉ có.
    THẠCH TRANH: Thạch: Đá, tấm bia bằng đá. Tranh: Giành giựt. Nghĩa rộng: Chiếm đoạt vật gì có lợi cho mình.
    VINH: Vẻ vang, thịnh vượng.
    *Tóm lược ý câu “Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh”: Hiểu rõ ràng sự tranh giành ở một nơi nào đó, để đem lại lợi ích cho mình.
    5/-MỘNG HỒI: Mộng: Giấc chiêm bao, giấc mơ.Hồi: Quay trở lại. Nghĩa rộng: Giấc chiêm bao thấy cảnh tượng nào đó, rồi mãi đắn đo suy nghĩ. Nghĩa bóng: Sự hoài vọng cho mục đích vẫn còn canh cánh bên lòng.
    CỐ QUỐC: Cố: Cũ, xưa, nguyên nhân. Quốc: Nước. Nghĩa rộng: Đất nước xưa kia.
    TAM CANH NGUYỆT: Tam: Ba. Canh: Thời gian một phần năm (1/5) của đêm, canh ba của một đêm, từ 1 giờ đến 2 giờ. Nguyệt: Mặt trăng, chỉ về đêm. Canh ba của một đêm.
    *Tóm lược ý câu “Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt”: Suốt canh thâu luôn nhớ về đất nước.
    6/-TỈNH KHỞI: Tỉnh: Thức giấc. Khởi: Bắt đầu. Nghĩa bóng: Đã thức dậy sau một giấc ngủ, hay đã hiểu ra một vấn đề nào đó cần phải có trách nhiệm.
    CÔ BANG: Cô: Lẻ loi, lời các chư hầu tự xưng khiêm nhượng. Bang: Nước. Đất nước nhỏ bé.
    VẠN: Một muôn, mười ngàn. Từ dùng để chỉ số nhiều.
    LÝ TRÌNH: : Dặm, đường dài. Trình: Đo lường. Nghĩa rộng: Ước lượng con đường dài bao nhiêu.
    *Tóm lược ý câu “Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình”: Nên hiểu rằng: Nước nhà vẫn còn bị ảnh hưởng bởi ách đô hộ của các cường quốc.
    7/-KIM NHỰT: Kim: Nay. Nhựt: Ngày. Ngày nay, hiện nay.
    PHÙNG CHƠN: Phùng: Gặp. Chơn: Thật thà, ngay thẳng. Nghĩa rộng: Ủng hộ, gặp được điều hay lẽ phải.
    TU: Sửa đổi, chỉnh đốn cho được tốt đẹp hơn.
    TẬN TÚY: Tận: Hết sức. Túy: Thuần chất, thuần khiết. Nghĩa rộng: Rất thuần một chất liệu. Nghĩa bóng: Tinh thần hoàn hảo.
    *Tóm lược ý câu “Kim nhựt phùng chơn tu tận túy”: Ngày nay gặp được đạo, làm cho tinh thần trở nên hoàn hảo hơn.
    8/-HỰU TƯƠNG: Hựu: Lại một lần nữa. Tương: Cùng nhau, lẫn nhau. Nghĩa rộng: Lại một lần nữa cùng lập lại, làm lại điều gì đó.
    LY BIỆT: Ly: Chia lìa. Biệt: Xa cách. Cách xa nhau.
    NÃO: Buồn phiền, bực tức.
    BÌNH SANH: Bình: Yên ổn. Sanh: Ra đời, đời sống. Nghĩa rộng: Đời sống yên ổn.
    *Tóm lược ý câu “Hựu tương ly biệt não bình sanh”: Luôn luôn làm cho đời sống được bình an vô sự.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Ông Thanh Tân cho biết: Kẻ sĩ ngày nay không còn được quý trọng, khi biết được Đức Huỳnh Giáo Chủ làm cho ông cảm động. Bởi vì Ngài cùng chung lý tưởng với ông, là lo cho vận mệnh nước nhà trong tương lai. Nhưng cuộc hội ngộ không bao lâu, nay lại xa cách khiến ông phải xúc động.
    Bài thứ ba mươi bốn
    ĐỨC THẦY đáp họa


    Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh,
    Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
    Quí hóa ai thi hà quốc thủy,
    Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
    Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
    Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
    Phúc họa trù phong nhiên Bính tý,
    Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.


    Mỹ Hội Đông, ngày 22-1-Canh Thìn (1940)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-HẢI QUI: Hải: Biển, vật tụ hợp lại. Qui: Về. Nghĩa rộng: Tập trung mọi vật.
    THIẾT LƯỢNG: Thiết: Đặt. Lượng: Đo lường, chứa đựng.
    NGỐC: Đần độn, tối tăm.
    NHƠN KHINH: Nhơn: Người. Khinh: Nhẹ, xem thường. Nghĩa rộng: Khi người.
    *Tóm lược ý câu “Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh”: Trên đời người có chí hướng hay bị kẻ thiển cận chê bai châm biếm.
    2/-CỐ VIỄN: Cố: Xưa, nguyên nhân. Viễn: Xa, lâu dài.
    HÀ QUA: : Sông. Qua: Như chữ quá: Qua, sang, vượt. Nghĩa rộng: Qua sông.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    HỮU TÌNH: Hữu: Có. Tình: Những mối cảm xúc trong lòng phát lộ ra ngoài.
    *Tóm lược ý câu “Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh, Cố viễn hà qua kiến hữu tình”: Ta thấy ông mà lòng thương xót, kẻ vốn không chuyên môn đi biển, mà lại nhìn người đi biển thì phải bật cười, không cười sao đủ gọi là đạo.
    3/-QUÍ HÓA: Quí: Cao sang. Hóa: Thay đổi. Nghĩa rộng: Trở nên giàu sang vinh hiển.
    AI THI: Ai: Đau thương. Thi: Thơ, bài vận văn viết theo luật. Nghĩa rộng: Bài thơ nói về nỗi thương đau.
    HÀ: Sông.
    QUỐC THỦY:Nói chung ao, hồ, đầm, bãi…Nghĩa rộng: Đất nước.
    *Tóm lược ý câu “Quí hóa ai thi hà quốc thủy”: Bài thơ nói về nỗi nước nhà còn bị nô lệ.
    4/-ĐÀI PHI: Đài: Một kiến trúc xây trên nền cao, đứng trên ấy có thể nhìn khắp bốn phương. Phi: Cao, bay.
    SƠN LÃNH: Sơn: Núi. Lãnh: Chóp núi, có đường ăn thông qua các chóp núi cao hơn cả trong các rặng núi.
    VỊ: Chưa.
    THÀNH VINH: Thành: Nên. Vinh: Vẻ vang, thịnh vượng. Nghĩa rộng: Trở nên vẻ vang vinh hiển hay có tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    *Tóm lược ý câu “Đài phi sơn lãnh vị thành vinh”: Đứng trên cao sẽ thấy suốt khắp vạn vật hay đứng ở địa vị cao cả sẽ làm nên đại sự.
    5/-PHÙ VÂN: Phù: Nổi, lộ ra. Vân: Mây. Đám mây xuất hiện.
    LỘ THỨC: Lộ: Phô bày. Thức: Biết. Kiến thức luôn được phát huy có tác dụng, làm cho mọi người thán phục hiểu biết.
    NHIÊN: Tự nó hành động, không do một tác nhân nào điều khiển. Còn gọi là luật tự nhiên.
    ÂM NGUYỆT: Âm: Thứ khí âm, thứ khí do Thái cực sanh ra và biến hóa thành vạn vật, còn gọi Cõi Âm. Nguyệt: Mặt trăng, chỉ về đêm hay tháng.
    *Tóm lược ý câu “Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt”: Khi đám mây bay qua để lộ ra vầng trăng.
    6/-TỐ GIẢ: Tố: Nói cho biết. Giả: Chỉ về người. Nói cho ai đó biết về vấn đề gì.
    VONG BANG: Vong: Mất. Bang: Nước. Mất nước.
    KỶ: Mình.
    TRÁNG TRÌNH: Tráng: Mạnh, lớn. Trình: Đường đi, kỳ hạn.
    *Tóm lược ý câu “Tố giả vong bang kỷ tráng trình”: Nói lên điều mất nước, xem có ai thức tỉnh lên đường.
    7/-PHÚC HỌA: Phúc: Những gì tốt đẹp, may mắn. Họa: Điều tai hại rủi ro.
    TRÙ PHONG: Trù: Liệu, tính hay kế hoạch. Phong: Cảnh vật hay cảnh tượng.
    NHIÊN: Như, vậy thì…
    BÍNH TÝ: Bính: Chữ thứ ba trong thập can. Tý: Chữ đứng đầu trong 12 con giáp. Căn cứ theo nội dung mang thời gian tính, thì năm Bính Tý có thể là năm (1936).
    *Tóm lược ý câu “Phúc họa trù phong nhiên Bính Tý”: Đến năm Bính Tý sẽ biết được phước họa.
    7/-TRÙNG LAI: Trùng: Lập lại, hai lần, lần nữa. Lai: lại. Lại xảy ra lần nữa, đến lần thứ hai. Nghĩa rộng: Việc đã xảy ra rồi, nhưng nay đến nữa.
    HỮU NHỰT: Hữu: Có. Nhựt: Ngày. Có ngày.
    TẠI: Ở, còn.
    HOÀI SANH: Hoài: Tưởng nhớ. Sanh: Ra đời. Nghĩa rộng: Đánh dấu một sự kiện khi sinh ra hay ra đời.
    *Tóm lược ý câu “Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh”: Hẹn có ngày gặp lại để thỏa lòng mong ước.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Người có chí cao xa thường dễ bị người thiển cận chê bai, rất may ông lại biết được. Nhưng thời chưa có thì làm gì mà vinh hiển, nếu gặp lại lần nữa, sẽ thỏa được lòng mong ước.

    Bài thứ ba mươi lăm

    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN tức CHÍN DIỆM

    (ở làng Định Yên, tỉnh Long Xuyên) xướng :

    Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
    Vị tri đại đức giáng hà tiên ?
    Hi Di ngũ quí kim an tại,
    Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
    Độc nhãn Sa Đà tàng bắc địa,
    Liên mi chơn mạng ẩn nam thiên.
    Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
    Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CƯỜNG KHẤU: Cường: Mạnh mẽ. Khấu: Nổi loạn, cướp giựt. Nghĩa rộng: Quân cướp của giết người.
    XÂM LĂNG: Xâm: Phạm đến, chiếm lầy. Lăng: Phạm vào. Nghĩa rộng: Chiếm lấy, chiếm đóng.
    KỶ: Mấy.
    THẬP NIÊN: Mười năm.
    *Tóm lược ý câu “Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên”: Giặc Pháp chiếm đóng ViệtNam đã mấy chục năm qua.
    2/-VỊ TRI: Vị: Chưa. Tri: Biết. Chưa biết.
    ĐẠI ĐỨC: Đại: Lớn. Đức: Tâm lành, có tài năng phẩm hạnh. Nghĩa rộng: Người có tài cao, đức trọng.
    GIÁNG: Xuống. Nghĩa bóng: Lâm phàm.
    HÀ TIÊN: : Từ dùng để hỏi. Tiên: Tên vị Tiên. Xin cho biết tên tự của vị Tiên nào đó. (1)
    *Tóm lược ý câu “Vị tri đại đức giáng hà tiên ?”: Xin cho biết ông là vị Tiên nào giáng trần ?
    [(1) Ngoài ra cũng có một số đồng đạo cho rằng từ Hà Tiên, nguyên chữ Hán là (….). Chữ : Sông. Tiên: Trước. Con sông trước, tức là Tiền Giang, chạy dọc theo làng Hòa Hảo, nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai đạo. Do đó câu “Vị tri đại đức giáng hà tiên: Ông là vị Tiên nào ở con sông trước ?” Chúng tôi ghi vào đây để quý vị rộng tầm nghiên cứu ].
    3/-HI DI: Còn có tên là Trần Đoàn. Tên một vị Tiên ông ở ẩn núi Hoa Sơn, thần thông biến hóa vô cùng. Gặp thời loạn lạc nhiễu nhương, ông phải ẩn cư luôn ba năm (Tương truyền nhiều khi ông ngủ luôn một giấc đến một trăm ngày mới thức dậy). Đến khi Triệu Khuông Dẫn lên ngôi, hiệu là Tống Thái Tổ, Trần Đoàn cỡi lừa đi đến, vừa tớp rượu, vừa vỗ tay cười ngất rằng: Từ đây về sau thiên hạ mới được yên ổn. Ông cất tiếng ngâm:
    Vận khí xoay vần chuyện hợp tan,
    Huỳnh bào đấp cật vững âu vàng.
    Trần gian từ đấy đà vô sự,
    Ta trở về ngôi ngủ mới an.
    NGŨ QUÍ: Còn gọi Ngũ bá: Tên những triều đại của Trung Hoa: Tề Hoàn Công, Tấn văn Công, Tống vương Công, Tần mục Công và Sở trang Công.
    KIM: Nay, hiện nay.
    AN TẠI: An: Yên ổn. Tại: Ở, còn. Hiện giờ còn tại đó.
    *Tóm lược ý câu “Hi Di ngũ quí kim an tại”: Có phải là Trần Đoàn thời Ngũ quí nay trở lại ?
    4/-THÁI THƯỢNG: Tức là Thái Thượng Lão Quân, tự là Hồng Quân Lão Tổ. Thầy của Thông Thiên Giáo Chủ, Nguơn Thỉ Thiên Tôn và Lão Tử.
    TAM VƯƠNG: Lấy cái mốc từ thời vua Nghiêu, truyền lại cho vua Thuấn: Thành Thang Vương, Châu văn Vương và con là Cơ Phát, diệt được nhà Ân (Trụ Vương), lên ngôi lấy hiệu là Châu Võ Vương, giữ được hơn tám trăm năm. Ngoài ra cũng có chỗ ghi là: Ba vị vua thời cổ nước Tàu: Vua Đại Võ nhà Hạ, vua Thành Thang nhà Thương, vua Văn Vương và Võ Vương nhà Châu.
    CỔ: Xưa.
    BẤT TRUYỀN: Bất: Không. Truyền: Trao lại, truyền lại. Nghĩa rộng: Người nầy trao lại cho người kia. Thế hệ nầy sang thế hệ khác. Không còn được kế thừa.
    *Tóm lược ý câu “Thái Thượng tam vương cổ bất truyền”: Đạo của Văn Vương và Lão Tử bên Trung Hoa vào thời cổ (Tam vương) đã bặt truyền.
    5/-ĐỘC NHÃN: Rồng một con mắt, tước hiệu của Lý Khắc Dụng. Người đời nhà Đường (bên Trung Hoa), chỉ sáng có một con mắt, nhưng rất có tài bách chiến bách thắng. Người đời thường gọi Lý Khắc Dụng là Độc Nhãn Long.
    SA ĐÀ: Tên chữ của Lý Khắc Dụng.
    TÀNG: Ẩn, giấu.
    BẮC ĐỊA: Đất Bắc.
    *Tóm lược ý câu “Độc nhãn Sa Đà tàng Bắc địa”: Cũng như Lý Khắc Dụng còn ẩn dạng ở nơi đất Bắc.
    6/-LIÊN MI: Chơn mày liền. Triệu Khuông Dẫn vốn có chơn mày liền, người có chơn mạng đế vương. Một hôm Trần Đoàn Lão Tổ rủ Khuông Dẫn đánh cờ, với điều giao ước: Nếu ông thua thì chung tiền, còn Khuông Dẫn thất bại, phải ký tờ giao núi Tây Nhạc Huê San cho ông. Triệu Khuông Dẫn thầm nghĩ: Núi nầy vốn của Quốc gia, nào phải của riêng ta, ông liền bằng lòng. Tuy Khuông Dẫn là tay cao cờ, nhưng làm sao địch nổi Trần Đoàn, vì thế phải bị thua luôn mấy ván. Sau khi được thiên hạ, ông phải giao núi Huê Sơn cho Trần Đoàn Lão Tổ.
    CHƠN MẠNG: Chơn: Thật thà, ngay thẳng. Mạng: Khí số, sai khiến. Mệnh đúng thật của Trời ban cho một người nào.
    ẨN: Che dấu.
    NAM THIÊN: Trời Nam.
    *Tóm lược ý câu “Liên mi chơn mạng ẩn Nam thiên”: Hoặc như Triệu Khuông Dẫn còn ẩn mặt ở Trời Nam.
    7/-PHÒNG NGƯ: Phòng: Tên loài cá. Ngư: Cá. Cá phòng.
    XÍCH VĨ: Xích: Màu đỏ. : Đuôi. Đuôi màu đỏ.
    PHÒNG NGƯ XÍCH VĨ: Cá phòng đuôi màu đỏ. Nghĩa bóng:Ý chỉ lá cờ Tam sắc của Pháp.
    ĐƯƠNG: Đang, hiện thời.
    KIM NHỰT: Kim: Nay. Nhựt: Ngày. Ngày nay. Nghĩa rộng: Hiện đang còn tại đây.
    *Tóm lược ý câu “Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt”: Hiện nay lá cờ của thực dân Pháp hiện đang còn tại nước Việt Nam.
    8/-DẪN LÃNH: Dẫn: Trương cung lên, đem đến. Lãnh: Nhận làm một việc gì. Nghĩa rộng: Phải hành động khi cần thiết.
    MINH LƯƠNG: Minh: Sáng suốt. Lương: Hiền lành. Từ rút gọn “Minh quân lương tướng” (Ông vua sáng suốt và viên tướng tài giỏi).
    TRỨ: Rõ rệt.
    TỔ TIÊN: Tổ: Người khai sanh một dòng họ hay môn phái. Tiên: Lấy roi mà quất. (Ở đây có thể hiểu là cây roi Thần của ông Tô Địch).
    *Tóm lược ý câu “Dẫn lãnh minh lương trứ Tổ tiên”: Nếu Ngài là bậc minh triết, xin hãy đả cho nó một cây roi thần.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Giặc Pháp chiếm Việt Nam đã mấy mươi năm, chưa biết Ngài là vị Tiên nào lâm phàm. Chứ ngày nay những bậc Tiên nhân như ông Trần Hi Di, Triệu Khuông Dẫn…, đều ẩn khuất cả đất Bắc trời Nam. Chỉ thấy bọn Pháp ở khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Nếu Ngài là bậc minh triết, thì xin hãy đả cho nó một cây roi thần.

    Bài thứ ba mươi sáu
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
    Sơn Trung hồi giả bí danh Tiên.
    Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
    Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
    Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa,
    Xích Mi hải hội luật trừng thiên.
    Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
    Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-THIÊN KÝ: Thiên: Trời. : Nhớ, ghi lại. Nghĩa rộng: Trời định sẵn.
    LẠC HỒNG: Họ Hồng Bàng sinh ra Lạc Long Quân, là một ông vua rất xưa của nước ta, gọi chung là Lạc Long, tức là Hồng Lạc và Hồng Bàng. Tổ tiên của người Việt nam.
    ĐẮC: Được.
    NGŨ NIÊN: Ngũ: Số năm. Niên: Năm. Năm năm.
    *Tóm lược ý câu “Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên”: Giống Lạc Hồng chịu nạn thực dân Pháp 5 năm nữa. (Lấy cái móc ông Nguyễn Kỳ Trân hỏi Đức Thầy năm Canh Thìn (1940), đến năm Ất Dậu (1945) Nhật hất chân Pháp ra khỏi Đông Dương. Đức Thầy mới nói: Giống dân Lạc Hồng còn chịu 5 năm nạn của thực dân Pháp. Ngài trả lời câu hỏi trong giai đoạn ông Kỳ Trân nghi vấn. (Thật ra, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiên đoán thế nào Nhựt cũng thất bại trong năm Ất Dậu (1945). Câu:“Nhựt Bổn không ăn hết nửa con gà”. Quả nhiên, từ ngày 26-7-1945, Đồng Minh chánh thức kêu gọi Nhựt đầu hàng, và ngày 6-8-1945, hai quả bom nguyên tử do Đồng Minh thả xuống hai thành phố của Nhựt là Hiroshima và Nagasaki, đưa nước Nhựt vào tình thế phải quyết định đầu hàng Đồng Minh ngay. Ngài cũng tiên liệu, nếu Nhựt bại trận thì bắt buộc họ phải cướp chánh quyền cai trị Đông Dương, để ứng phó với tình hình trong cái thế chủ động. Chính vì thế mà người Pháp bị ảnh hưởng đến thế lực ở Đông Dương).
    2/-SƠN TRUNG: Danh từ riêng để chỉ hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Trong bài Tứ Bửu Linh Tự, Đức Phật Thầy Tây An có bốn chữ khoán thủ, đề danh cho Tông phái của Ngài:
    Bửu ngọc quân minh Thiên Việt nguyên,
    Sơn Trung sư mạng địa Nam tiền.
    Kỳ niên Trạng tái tân phục quốc,
    Hương xuất Trình sanh tạo nghiệp yên.
    Ngoài ra chữ Sơn cũng là danh hiệu của một vị Phật. Có thể hiểu Kim Sơn Phật là Phật hiệu của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    HỒI GIẢ: Hồi: Trở lại. Giả: Người, kẻ. Nghĩa bóng: Ý nói Đức Huỳnh Giáo Chủ chuyển kiếp, thừa kế vĩ nghiệp Tôn giáo của Phật Thầy Tây An.
    BÍ: Kín đáo, không nói lộ ra.
    DANH TIÊN: Tộc danh của một vị Tiên nào đó.
    *Tóm lược ý câu “Sơn Trung hồi giả bí danh Tiên”: Ta thuộc hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng không thể nói tên.
    3/-TRẦN NHƠN: Người họ Trần, tức là Trần Đoàn, hiệu là Trần Hi Di. (Xem Hi Di, phần trước).
    ĐÃI THẾ: Chờ thời vận.
    NAM: Tức phía Nam, miền Nam Việt Nam.
    TỒN TẠI: Tồn: Còn. Tại: Ở đây. Còn ở đây.
    *Tóm lược ý câu “Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại”: Người họ Trần (tức Trần Hi Di) hiện còn ở tại miền Nam Việt Nam. (Ý nói Đức Huỳnh Giáo Chủ có liên hệ với họ Trần, hiện còn ở miền Nam Việt Nam chờ cơ Thiên định).
    4/-LÃO ĐẠO: Tức đạo Lão. Thỉ Tổ là Lão Tử. Ông sinh năm 570 và mất năm 490 trước TL.
    TIỀN PHONG: Tiền: Trước. Phong: Dồi dào.
    BẮC: Phương Bắc (chỉ Trung Hoa).
    Ý TRUYỀN: Ý: Tư tưởng. Truyền: Trao, người nầy trao cho người khác.
    *Tóm lược ý câu “Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền”: Đạo Lão đầu tiên khai lập ở Trung Hoa, thỉ tổ là Đức Lão Tử.
    5/-TRÌNH MỖ: Trình: Tức cụ Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm), sanh năm Tân Hợi (1491), mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585). Nguyên quán làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Ngài có hiệu tự là Bạch Vân Cư Sĩ, trong sự nghiệp văn chương Ngài đã trước tác khoảng một ngàn bài thi, trong hai tác phẩm: “Bạch Vân Thi Tập” và “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi”. Mỗ: Tiếng tự xưng thân thiện như Tôi, Ta. Nghĩa rộng: Ta là Trạng Trình.
    NGỘ KIM: Ngộ: Không hẹn mà gặp, gặp. Kim: Hiện nay. Nghĩa rộng: Bây giờ đã gặp nhau.
    KHUÊ: Cửa nhỏ trong cung. Nghĩa rộng: Nơi chốn.
    CỔ ĐỊA: Cổ: Xưa. Địa: Đất. Đất xưa. Nghĩa rộng: Nơi, nguyên quán của một người nào đó.
    *Tóm lược ý câu “Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa”: Ta là Trạng Trình tại làng Cổ Am, hiện nay đã trở lại.
    6/-XÍCH MI: Tức Xích Mi Lão Tổ, có nhiệm vụ xuống núi giúp Lưu Kim Đính, diệt trừ Dư Hồng và Dư Triệu để giải giá Thọ Châu thành. Hoặc Xích Mi Lão Tổ vâng mệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống trần hỏi tội Khuông Dẫn vì đã hại bạn mình là Trịnh Ân.
    HẢI HỘI: Hải: Biển. Hội: Nhóm họp có nhiều người tham dự. Nghĩa rộng: Phiên họp có rất đông người, gồm nhiều thành phần đến tham dự.
    LUẬT TRỪNG THIÊN: Phép tắc của Trời để răn đe những người phạm thượng. Có thể hiểu như Luật nhân quả.
    *Tóm lược ý câu “Xích Mi hải hội luật trừng thiên”: Sứ mạng của Đức Huỳnh Giáo Chủ như Xích Mi Lão Tổ.
    7/-VỊ PHI: Vị: Chưa, chừng. Phi: Chẳng phải. Nghĩa rộng: Chưa đến lúc, chẳng phải như vậy.
    MINH ĐẾ: Minh: Sáng suốt. Đế: Ông vua. Ông vua sáng suốt.
    VỊ PHI MINH ĐẾ: Thời kỳ của Minh Đế chưa đến hay chẳng phải thời kỳ của Minh Đế.
    ĐỒ: Mưu tính.
    TÔN NHỰT: Cha ông ngày nay.
    ĐỒ TÔN NHỰT: Mưu tính làm bá chủ.
    *Tóm lược ý câu “Vị phi Minh Đế đồ tôn nhựt”: Ngày nay không phải là thời quân chủ.
    8/-THẠNH KHÍ: Gặp thời vận.
    ĐÀO THINH: Đào: Cây đào. Thinh: Tiếng. Ý nói ba anh em kết nghĩa ở vườn đào là Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi.
    GIÁC: Biết.
    KỶ TIÊN: Kỷ: Mấy. Tiên: Lấy roi mà quất.
    *Tóm lược ý câu “Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên”: Đến thời vận, chẳng những có một cây, mà còn có nhiều chiếc roi để quất nó.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết dân tộc của mình, còn phải chịu nạn của giặc Pháp một thời gian nữa, Ngài xác nhận ở trong hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng không nói danh hiệu. Trong hai câu chuyển và kết, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho rằng: Thời kỳ quân chủ chưa đến, chớ khi có vua rồi thì chẳng những một cây, mà còn có nhiều chiếc roi để đả nó.

    Bài thứ ba mươi bảy
    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN

    tức CHÍN DIỆM xướng

    Tổ tiên cứu loạn hựu phò nguy,
    Hướng thiện khử tà chúng bất tri.
    Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu,
    Toàn trung toàn hiếu thế gian hy.
    Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
    Tiết giác thâm tang trạch thủy qui.
    Bất tậm tam tâm danh lợi khách,
    Đáo đầu thâm mãnh niệm từ bi.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-TỔ TIÊN: Tổ: Người khai sanh một dòng họ hay một hệ phái. Tiên: Trước. Nghĩa rộng: Thế hệ trước.
    CỨU LOẠN: Cứu: Giúp đỡ. Loạn: Lộn xộn, binh biến. Nghĩa rộng: Làm cho được yên ổn.
    HỰU: Lại lần nữa.
    PHÒ NGUY: Phò: Giúp đỡ, hỗ trợ. Nguy: Hiểm nghèo, tai hại. Nghĩa rộng: Đem ra khỏi cảnh nguy hiểm.
    *Tóm lược ý câu “Tổ tiên cứu loạn hựu phò nguy”: Thế hệ trước đã từng cứu giúp dân lành và gánh vác non sông mỗi khi hữu sự.
    2/-HƯỚNG THIỆN: Làm việc lành, quay trở về con đường lành.
    KHỬ TÀ: Khử: Trừ bỏ. : Không ngay thẳng, ma quỉ. Diệt trừ ma quỉ.
    CHÚNG: Mọi người, chỉ chung con người cùng sinh sống trong cộng đồng thế giới.
    BẤT TRI: Bất: Không. Tri: Biết. Không biết, không hiểu rõ.
    *Tóm lược ý câu “Hướng thiện khử tà chúng bất tri”: Ít người hiểu rõ việc làm lành và diệt trừ thói hư tật xấu.
    3/-VÔ TRÁNH: : Không. Tránh: Cản ngăn. Không cản ngăn.
    VÔ TRANH: : Không. Tranh: Giành giựt. Không giành giựt, tranh đoạt của người khác.
    THIÊN HẠ: Chỉ chung mọi người cùng sinh sống trong quả đất.
    THIỂU: Ít, đối với nhiều.
    *Tóm lược ý câu “Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu”: Ít có người không tranh giành địa vị, quyền lợi cho riêng mình.
    4/-TOÀN TRUNG: Tròn bổn phận làm tôi: Trung quân ái quốc.
    TOÀN HIẾU: Tròn bổn phận đối với Tổ tiên, cha mẹ.
    THẾ GIAN: Thế: Đời. Gian: Khoảng giữa. Nghĩa rộng: Ý nói cõi chúng sanh đang sống.
    HY: Ít thấy, lạ thường.
    *Tóm lược ý câu “Toàn trung toàn hiếu thế gian hy”: Vẹn toàn trung hiếu ít có ở thế gian.
    5/-ÁI MAO: Ái: Yêu thương. Mao: Lông, nghĩa rộng: Họ. Nghĩa bóng: Nuối tiếc một dòng họ hay một triều đại.
    VỊ TIỆN: Vị: Chưa. Tiện: Thuận lợi. Chưa thuận lợi. Nghĩa bóng: Chưa đến thời cơ để thi hành phận sự.
    NGÔ ĐỒNG: Tên một thứ cây, đến mùa thu thì lá rụng trụi cành. Thơ cổ: “Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu” (Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu).
    PHỤNG: Con chim phượng hoàng, một trong tứ linh (Long, lân, qui và phượng).
    *Tóm lược ý câu “Ái mao vị tiện ngô đồng phụng”: Vì thương cái bộ lông, nên con chim phượng hoàng chọn cây ngô đồng mới đậu, nhưng chưa gặp được cây ấy. (Nghĩa bóng: Vì chưa gặp được minh chủ nên còn ẩn nhẫn chờ đợi).
    6/-TIẾT GIÁC: Tiết: Lộ ra ngoài. Giác: Chiếc sừng. Nghĩa rộng: Đã có sừng.
    THÂM TÀNG: Thâm: Sâu xa. Tàng: Cất giữ, giấu kín.
    TRẠCH: Ân huệ mưa móc.
    THỦY QUI: Thủy: Nước. Qui: Con rùa. Con rùa ở dưới nước.
    *Tóm lược ý câu “Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui”: Vì con qui đã có sừng (Ý nói loài tổ của rùa), gọi là rắn tổ, nên còn trầm mình ở đáy vực sâu. (Nghĩa bóng: Ý nói một nhân vật tiếng tăm nào đó, còn đang chờ thời cơ thuận tiện).
    7/-BẤT TẬN: Bất: Không. Tận: Cùng tột. Không cùng tột. Nghĩa bóng: Không thể đo lường, sánh nổi.
    TAM TÂM: Có hai nghĩa: a)- Tam tâm: - Nhục đoàn tâm: Trái tim. - Duyên lự tâm: Lòng lo lắng. - Chơn như tâm: Tánh Phật. b)- Tam tâm: Tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai. Trong Kim Cang Kinh: Tỷ dụ chuyện bà lão: Có một người đàn ông ôm chồng sách đến quán bà để giải khát. Bị bà lão hỏi về Tam tâm trong kinh Kim Cang, Bà nói: Tâm hiện tại nó là một khối thịt không hơn không kém. Tâm quá khứ nó đã qua, ta không còn thấy. Tâm vị lai (hiện tại)(?) là chưa có, ta không thể biết. Vậy chẳng hay ba tâm ngài dụng tâm nào ? Người đàn ông thật lúng túng.
    DANH LỢI: Danh: Tên tuổi, tiếng tăm địa vị trong xã hội. Lợi: Cái mà mình thu được. Nghĩa rộng: Công danh và lợi lộc.
    KHÁCH: Người từ phương xa đến. Nghĩa bóng: Ý nói chúng sanh đang sinh sống trong cõi Ta bà, tạm bợ như người khách. [Vấn đề chủ khách, chúng tôi xin trích một đoạn trong kinh: “Ông A Nan nói: Những món mà ông tìm thấy đều là khách, nghĩa là có tới có lui, có vinh thì có nhục, có xuất hiện rồi cũng có hư hoại, không thật vĩnh cửu. Cho nên ông đi tức là khách, còn cái nào ông tìm gặp nó thì đời đời theo ông mãi. Nó không rời xa ông, cái đó ông giữ lấy tức là chủ ].
    *Tóm lược ý câu “Bất tận tam tâm danh lợi khách”: Trong tam tâm của mọi người không thể nói rõ đầu mối, bàn bạc không rốt ráo được. Chỉ biết nó ở trong ta như là một người khách.
    8/-ĐÁO ĐẦU: Đáo: Đến. Đầu: Đầu mối, chuyện. Nghĩa rộng: Đến cuối cùng và bắt đầu trở lại. Nghĩa bóng: Tạo nhiều nghiệp dữ, nhưng sau cùng cũng phải từ bỏ nó.
    THÂM MÃNH: Thâm: Sâu xa. Mãnh: Manh, từng phần, nghĩa rộng: Dữ dội. Nghĩa bóng: Điều gì đó xảy ra rất dữ dội, hậu quả không thể đo lường được.
    NIỆM: Nghĩ đến.
    TỪ BI: Từ: Hiền lành. Bi: Thương xót. Hai trong bốn đại đức của chư Phật (Đức từ, đức bi, đức hỉ và đức xả).
    *Tóm lược ý câu “Đáo đầu thâm mãnh niệm từ bi”: Sau cùng cũng quay về con đường đạo.

    ĐẠI Ý 8 CÂU
    Ông đã nói rõ: Gia đình của ông là một gia đình cách mạng (Nói theo đúng nguyên văn), và là một gia đình biết phục thiện, nhưng người tôi chưa rõ biết. Bây giờ cho ông nói rằng: Gia đình ông không tranh không cải, trung hiếu lưỡng toàn. Hay nói một cách khác: Con chim phượng nó bay cao tìm gặp cây ngô đồng, nó không thèm đậu. Theo danh lợi chừng nào ông gặp Phật, ông sẽ vui lòng niệm chữ từ bi.

    Bài thứ ba mươi tám
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
    Lượng trí bồi thành thử tất tri.
    Võ kỷ hung phong nhơn mạt thiểu,
    Thần Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
    Thí sanh tán địa liên đài phụng,
    Nam sĩ bài kỳ phục kiết qui.
    Vạn vật an ninh thông điện khách,
    Nhứt trường Lê thứ kiến vô bi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-KỶ TIÊN: Kỷ: Mấy. Tiên: Cây roi. Nghĩa rộng: Nhiều cây roi.
    HỮU NHỰT: Hữu: Có. Nhựt: Ngày. Có ngày.
    NGÃ: Ta. Tiếng tự xưng.
    ĐÌNH NGUY: Đình: Chỉ một triều vua (Triều đình). Nguy: Hiểm nghèo. Nghĩa bóng: Đất nước gặp nguy biến.
    *Tóm lược ý câu “Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy”: Có ngày ta cũng sử dụng đến chiếc roi đó.
    2/-LƯỢNG TRÍ: Lượng: Đo lường. Trí: (có thể là Tri). Nghĩa rộng: Sức hiểu biết.
    BỒI THÀNH: Bồi: Vun đắp. Thành: Bức thành. Nghĩa bóng: Ra sức để vun đắp cho sự nghiệp hay một vị trí nào đó.
    THỬ: Ấy, vậy.
    TẤT TRI: Tất: Hẳn như vậy. Tri: Biết. Nghĩa rộng: Hẳn đã am tường.
    *Tóm lược ý câu “Lượng trí bồi thành thử tất tri”: Lấy cái trí bồi thành đắp lũy ấy sẽ biết.
    3/-VÕ KỶ: : Còn gọi Vũ: Mưa. Kỷ: Mình. Nghĩa rộng: Tự coi mình như gió to mưa lớn. Nghĩa bóng: Tự xem mình hơn người.
    HÙNG PHONG: Hùng: Mạnh mẽ. Phong: Bộ dạng. Hình dáng mạnh mẽ. Từ “Võ kỷ hùng phong” ý nói một lối xưng hô:“Vỗ ngực xưng tên”, tự coi mình là trên hết.
    NHƠN: Người.
    MẠT THIỂU: Mạt: Ngọn, không có. Thiểu: Ít (đối với nhiều).
    *Tóm lược ý câu “Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu”: Tự coi mình như gió to mưa lớn. Ý nói tánh tự cao tự đại thì không phải ít
    4/-THẦN TIÊN: Thần: Trời đất sinh ra vạn vật. Vật đều có chủ với tính cách thiêng liêng, gọi là Thần. Ví dụ: Thần núi, Thần lửa v.v…Hoặc những người có công trạng với dân với nước, sau khi chết được phong thần. Tiên: Người tu trên núi, để được trường sanh bất lão, thường biết pháp thuật. (Do đó chữ Tiên có chữ Nhân và chữ San, hợp thành chữTiên). Ý nói người tu trên núi được thành Tiên.
    TIỂU ẨN: Tiểu: Nhỏ. Ẩn: Che dấu. Nghĩa rộng: Chưa ra mặt.
    CỔ: Xưa.
    LAI HY: Lai: Đến. Hy: Ít, lạ thường. Lai Hy: Viết tắt câu “Tự cổ lai hy” (Từ xưa đến nay ít thấy). Nghĩa rộng: Ít thấy xảy ra trong đời thường.
    *Tóm lược ý câu “”Thần Tiên tiểu ẩn cổ lai hy”: Thần Tiên mà còn có lòng nho nhỏ, từ xưa đến nay hiếm thấy trong đời.
    Ý nói là bậc Thần Tiên thì không còn riêng tư thiên vị.
    5/-THÍ SANH: Thí: Đi thi. Sinh: Học trò. Người học trò đi thi.
    TÁN ĐỊA: Cũng như chữ Dịch Địa. Nghĩa bóng: Thay đổi cái thế đứng.
    LIÊN ĐÀI: Liên: Nối liền. Đài: Nhà cung đình cất trên cao.
    PHỤNG: Con phượng, một trong vật tứ linh (Long, lân, qui và phụng).
    Tóm lược ý câu “Thí sanh tán địa liên đài phụng”: Sau nầy có cuộc tẩy trần, thì mới biết ai phượng ai không.
    6/-NAM SĨ: Kẻ sĩ ở phương Nam.
    BÀI KỲ: Bài: Bày ra, đặt ra, còn có nghĩa lay động. Kỳ: Cờ.
    PHỤC: Trở lại như xưa.
    KIẾT QUI: Kiết: Còn gọi là Cát: Tốt lành. Qui: Con qui. Nghĩa rộng: Con qui hiền lành.
    *Tóm lược ý câu “Nam sĩ bài kỳ phục kết qui”: Nước Việt Nam sau nầy có Quốc kỳ, đến thế thì qui, rùa, phụng gì mới rõ.
    7/-VẠN VẬT: Vạn: Một muôn, mười nghìn. Tượng trưng cho con số nhiều. Vật: Những gì ở chung quanh ta. Nghĩa rộng: Mọi vật trong vũ trụ.
    AN NINH: An: Yên ổn. Ninh: Ổn định. Nghĩa rộng: Hài hòa yên ổn.
    THÔNG: Suốt, khắp. Nghĩa rộng: Qua lại với nhau.
    ĐIỆN KHÁCH: Điện: Nhà cao lớn. Nơi vua ở hay chốn thờ Phật Thánh Tiên. Khách: Người từ phương xa đến. Ngoài ra gọi chung người ta cũng dùng chữ khách. Như: Chính khách, Hiệp khách…
    *Tóm lược ý câu “Vạn vật an ninh thông điện khách”: Nghĩa bóng: Chế ngự được vọng tâm, không để vương theo cảnh, thì sẽ làm chủ được càn khôn.
    8/-NHỨT TRƯỜNG: Nhứt: Một. Trường: Khoảng đất rộng, có nhiều người tụ họp. Nghĩa rộng: Một việc gì sau khi đã kết thúc.
    LÊ THỨ: Lê: Đông đúc, còn có nghĩa Lê dân. Nghĩa rộng: Dân chúng đông đúc, mọi người dân đều đầu đen, máu đỏ. Thứ: Nhiều, dân sự. Chỉ chung những người cùng sống trong quả đất.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    VÔ BI: : Không. Bi: Thương xót.
    *Tóm lược ý câu “Nhứt trường lê thứ kiến vô bi”: Có ngày mọi người sẽ sống bình yên hạnh phúc, không còn cảnh đau thương.

    ĐẠI Ý 8 CÂU

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: Cũng sẽ sử dụng đến những cây roi, để cứu nguy cho bá tánh (Ý nói cứu nguy cho cái ta, tức bản ngã). Người lấy cái chí, lượng trí bồi thành mà xét thì biết, kẻ coi mình không ai hơn cái đó thì nhiều. Vả lại, Thần Tiên mà còn ẩn mặt là điều hiếm thấy xảy ra, còn có thi thì đậu rớt sẽ xảy ra hãy hay (1).
    (1) Chữ ngã ở đây là bản ngã, tức cái ta ở mỗi con người. Cái ta nầy cần phải đánh nó. Vì sao ? – Vì cái ta ấy mắc kẹt trong cái đình nguy nan vạn khổ. Còn ông (Chỉ ông Chín Diệm), với tài năng: Lượng trí bồi thành, sao lại không rõ ? Những hạng người hay ỷ lại nầy không phải là ít. Còn việc Thần Tiên mà phải chịu tiểu ẩn, xưa nay là có mấy người ? Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    Xưa nay không có mấy khi,
    Dương trần có Phật vậy thì xuống đây.
    Thật là một ngon roi đả Thần Tiên, vừa đánh trúng vào tâm lý của ông Chín Diệm. Còn chuyện đậu hay rớt; qui, rùa, phượng hay không phượng thì sau khóa thi sẽ rõ.
    @Để có cái nhìn toàn diện đối với những bài thi mà ông Nguyễn Kỳ Trân (Chín Diệm) đã xướng và Đức Huỳnh Giáo Chủ họa lại. Hai bài thi sau đây của ông Chín Diệm tuy không phải là gốc Hán, nhưng phát nguồn từ nội dung các bài thi mà ông đã xướng vừa qua. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng đáp lại và tặng thêm hai bài. Do đó, chúng tôi cũng biên tập vào đây để quí vị rộng tầm nghiên cứu: Dòng tư tưởng của ông Chín Diệm và Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo.

    Bài thứ ba mươi chín
    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN xướng


    Gió xuân muôn vật toại lòng rồi,
    Nghĩ lại bâng khuâng đạo chúa tôi.
    Cá phụ vẫy vùng trong dấu cạn,
    Trông chừng dấu nước luống ngậm ngùi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-GIÓ XUÂN: Gió: Không khí chuyển động từ trên cao xuống dưới thấp. Xuân: Mùa đứng đầu trong năm (Xuân, Hạ, Thu và Đông).
    MUÔN VẬT: Nghĩa của từ Vạn vật. Mọi vật chung quanh ta, đại loại gồm có con người và các loài kể cả Động vật và Thực vật.
    TOẠI: Thỏa lòng mong ước.
    LÒNG RỒI: Tâm hồn được thảnh thơi.
    *Tóm lược ý câu “Gió xuân muôn vật toại lòng rồi”: Gió mùa Xuân làm cho vạn vật mát mẻ, thoải mái trong lòng. Nghĩa bóng: Gặp được sự may mắn làm cho tâm hồn được yên ổn.
    2/-NGHĨ LẠI: Đắn đo suy xét thật kỹ lưỡng.
    BÂNG KHUÂNG: Buồn lo một cách vô cớ, canh cánh mãi bên lòng một điều gì đó.
    ĐẠO: Là một con đường, là một bổn phận, là chân lý tuyệt đối. Đức Huỳnh Giáo Chủ:“Chân lý ấy là cái đạo của mình đối với Trời Phật, của mình đối với Đồng bào Nhân loại và của mình đối với mình”.Con đường hợp với lẽ phải, từ chỉ chung về Tôn giáo.
    CHÚA TÔI: Nghĩa của chữ quân thần. Ông vua và bầy tôi.
    *Tóm lược ý câu “Nghĩ lại bâng khuâng đạo chúa tôi”: Suy cho cùng bổn phận thần tử đối với vua và đất nước chưa tròn, đó là điều đắn đo mãi không thể nói ra được.
    3/-CÁ PHỤ: : Loại động vật sống ở dưới nước. Phụ: Do chữ tự phụ: cho mình là hay giỏi. Nghĩa bóng: Loài cá sống dưới nước cho mình là thong thả hơn hết. Cũng như con người thường hay khoe khoang hơn kẻ khác.
    VẪY VÙNG: Tunh hoành khắp chốn.
    TRONG DẤU CẠN: Còn mắc trong vũng nước cạn, chưa thoát được ra sông sâu bể cả. Nghĩa bóng: Còn trong vòng cương tỏa.
    *Tóm lược ý câu “Cá phụ vẫy vùng trong dấu cạn”: Con cá phải sống phụ thuộc vào vũng nước, nhưng vẫn tự phụ cho rằng mình thong thả. Còn con người đang mắc trong vòng sanh tử luân hồi, mà vẫn cho mình sung sướng hạnh phúc.
    4/-TRÔNG CHỪNG: Thỉnh thoảng nhìn xem.
    ĐẤU NƯỚC: Đấu: Đồ dùng để đong ngày xưa. Nước: Thể lỏng. Nghĩa bóng: Diện tích nước rất hạn hẹp, ý nói con người còn mắc trong vòng cương tỏa.
    LUỐNG: Uổng, mất công.
    NGÙI NGÙI: Cảm động một cách sâu sắc.
    *Tóm lược ý câu “Trông chừng đấu nước luống ngùi ngùi”: Thấy nước sắp cạn kiệt mà lấy làm lo lắng cho loài cá. Ý nói cuộc đời sắp kết thúc mà lấy làm tiếc thương, cảm động cho những người quá ư thờ ơ lãnh đạm.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Tuy gió mùa Xuân làm cho con người khoan khoái, nhưng suy nghĩ cho cùng, đạo làm tôi chưa vẹn, ngổn ngang trăm mối tơ lòng, bởi kiếp người như cá chậu chim lồng, không biết ngày nào bị đào thải, vì thế mà phải xúc động trong lòng.

    Bài thứ bốn mươi
    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN xướng (tt)


    Ngùi ngùi trông thấy đám mây xanh,
    Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành.
    Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc,
    Dầu ai đấp lũy nguyện bồi thành.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-NGÙI NGÙI: (Xem bài trước).
    TRÔNG THẤY: Nhìn cảnh vật một cách rõ ràng, hiện ra trước mắt.
    ĐÁM MÂY XANH: Nghĩa của Phù thanh vân. Cổ thi có câu: “Nhất đán công đạo khai, công danh tại bình địa”.(Một mai đường công danh mở, thanh vân tại đất bằng). Nghĩa bóng: Điềm lành, tin lành.
    *Tóm lược ý câu “Ngùi ngùi trông thấy đám mây xanh”: Cảm động khi thấy nguồn đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ, như báo hiệu một tin lành cho hết thảy mọi người.
    2/-THOẠT VẬY: Thoắt một cái đã…như thế.
    MƯA TUÔN: Trời mưa nặng hạt, mưa lớn.
    ĐƯỢM: Nhuộm thắm.
    NHÁNH NHÀNH: Cành con.
    *Tóm lược câu “Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành”: Như thể là một đám mưa, làm cho cây cối tốt tươi. (Ý nói Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo, mọi người sẽ hưởng được nguồn ân pháp nhũ).
    3/-THẨM ĐẾN: Thẩm: Đồng nghĩa với thắm. Nghĩa rộng: Tươi tốt khắp nơi.
    RỪNG NHU: Do câu “Rừng Nhu bể Thánh” (Chữ nghĩa của Thánh hiền nhiều và rộng lớn như rừng, như biển. Nghĩa bóng: Ý nói bậc Nho sĩ hay Đạo Nho.
    TƠI: Rách tưa.
    VẬT SẮC: Vật thể và màu sắc.
    Tóm lược ý câu “Thẩm đến rừng Nhu tơi vật sắc”: Ông nói ông là nhà Nho hủ lậu, nếu mưa thường thì không thấm.
    4/-DÙ AI: Dẫu cho người nào đó.
    ĐẤP LŨY: Xây hàng rào bao bọc kiên cố để ngăn chặn. Nghĩa bóng: Đứng chịu bước tiến của giặc.
    NGUYỆN: Mong muốn, mong ước.
    BỒI THÀNH: Bồi: Vun đắp. Thành: Cái thành. Nghĩa rộng: Bảo vệ thành trì kiên cố.
    *Tóm lược ý câu “Dù ai đấp lũy nguyện bồi thành”: Cho dù ai có tài năng đấp lũy, còn ông thì nguyện bồi thành (Việc làm nhẹ hơn).

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Ngày nay ông gặp được Phật rồi, ông sẽ lần lần tiến bước trên con đường đạo pháp.

    Bài thứ bốn mươi mốt-> Bài thứ năm mươi


    Bài thứ bốn mươi mốt

    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Đạo đức truyền ban cũng chửa rồi,
    Xa đường nguyện ước chuyện con tôi.
    Mưa tuôn vừa tiết ngư thong thả,
    Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-ĐẠO ĐỨC: Con đường hợp với lẽ phải, dẫn đến tâm lành.
    TRUYỀN BAN: Truyền: Trao từ người nầy đến người kia. Thế hệ nầy sang thế hệ khác. Ban: Phát ra, người trên cho kẻ dưới.
    CŨNG CHỬA RỒI: Hiện còn đang dở dang, chưa xong.
    *Tóm lược ý câu “Đạo đức truyền ban cũng chửa rồi”: Đạo đức truyền cho chúng sanh hiện còn dang dở.
    2/-XA ĐƯỜNG: Nghĩa bóng: Đạt đến đích còn xa diệu vợi, chưa có thể thành công.
    NGUYỆN ƯỚC: Mong muốn, ước mơ.
    CHUYỆN CON TÔI: Do câu “Quân thần phụ tử” (Vua tôi, cha con). Nghĩa bóng: Đạo làm người.
    *Tóm lược ý câu “Xa đường nguyện ước chuyện con tôi”: Hãy còn xa điều hi vọng.
    3/-MƯA TUÔN: Mưa lớn từ trên cao rơi xuống. Nghĩa bóng: Nguồn giáo pháp được lan tỏa khắp mọi nơi.
    VỪA TIẾT: Đúng lúc, đúng thời điểm.
    NGƯ: Cá.
    THONG THẢ: Không bận bịu.
    *Tóm lược ý câu “Mưa tuôn vừa tiết ngư thong thả”: Đạo đức đem dạy chúng sanh thật là đúng lúc. (Cũng như cá sắp chết vì cạn nước, may gặp trời mưa lớn nên thoát nạn).
    4/-DẠ THẢM: Lòng đau xót.
    LÒNG VUI: Tâm hồn khoan khoái, thong thả.
    CŨNG BẮT NGÙI: Ngùi: Cảm động. “Bên trời cây lá cờ bay ngùi ngùi”. Cũng phải cảm động trong lòng.
    *Tóm lược ý câu “Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi”: Ta thì buồn thảm, còn ông thì vui, thật trớ trêu thay !

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: Việc dạy đạo còn đang dang dở, lòng nhân đạo ít có người nghĩ đến. Tuy đem đạo dạy đời thật đúng lúc, người ta thì vui vẻ, còn mình thì xúc động bồi hồi.

    Bài thứ bốn mươi hai
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh,
    Sum hiệp cùng nhau cội nhánh nhành.
    Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc,
    Quyết lòng trợ thế với bồi thành.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-BẮT NGÙI: (Xem Bắt Ngùi phần trên).
    CHO KẺ: Ý chỉ người nào đó.
    BẠC ĐẦU XANH: Bạc đầu: Nghĩa của từ Bạch phát. Xanh: Còn trẻ. Nghĩa rộng: Kẻ còn trẻ, người thì đã già.
    *Tóm lược ý câu “Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh”: Cảm động khi kẻ thì già, người thì còn trẻ. (Ý nói đến ông Trân và Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    2/-SUM HIỆP: Cùng sống chung hay họp chung lại đông đúc.
    CÙNG NHAU: Với ai đó.
    CỘI NHÁNH NHÀNH: Cây nhiều cành con. Nghĩa bóng: Có nhiều điềm lành đưa đến. Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    Hiệp chung một cội nhánh nhành,
    Sum sê lá thắm chim xanh nối đường.
    *Tóm lược ý câu “Sum hiệp cùng nhau cội nhánh nhành”: Sau nầy mọi người sẽ cùng sống trong một xã hội bình đẳng hạnh phúc. (Điển hình như đời Thượng Nguơn).
    3/-GẶP LÚC: Thời cơ thuận tiện.
    TIẾT HÒA: Do câu “Mưa thuận gió hòa”. Nghĩa rộng: Hợp thời tiết.
    MƯA ĐƯỢM SẮC: Mưa làm cho cây cỏ tốt tươi. Nghĩa bóng: Nguồn đạo đức rất cần thiết cho mọi người, để tu sửa trở thành tốt đẹp.
    *Tóm lược ý câu “Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc”: Thời vận hanh thông thì nguồn đạo đức được phát khai.
    4/-QUYẾT LÒNG: Nhất định phải thực hành cho bằng được.
    TRỢ THẾ: Giúp đời.
    VỚI: (Giới từ): Nối liền…
    BỒI THÀNH: Bồi: Vun đắp. Thành: Cái thành. Nghĩa bóng: Luôn giữ vững lập trường truyền bá đạo đức.
    *Tóm lược ý câu “Quyết lòng trợ thế với bồi thành”: Phải quyết tâm đem sức ra nâng đỡ đất nước và dân chúng, trở nên thịnh vượng và hạnh phúc. Chớ không được lựa chỗ ở yên thân.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Vì lo cho dân cho nước khiến cho người già tóc trắng phau đã đành, còn tuổi trẻ cũng phải sớm bạc đầu. Bởi cùng chung lý tưởng lo trợ thế, thì cũng phải bồi thành.

    Bài thứ bốn mươi ba

    ĐỨC THẦY cho thêm:


    Bồi thành mới phải đạo văn Nhu,
    Có lẽ ngày kia rắn hóa cù.
    Lũ lượt đàn chim bay kiếm ổ,
    Rán mà theo dõi bớ văn Nhu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-BỒI THÀNH: (Xem Bồi thành phía trước).
    MỚI PHẢI: Đúng như vậy.
    ĐẠO: Con đường hợp với lẽ phải. Bổn phận của mỗi người phải đền đáp. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Chân lý ấy là cái đạo của mình đối với Trời Phật, của mình đối với Đồng bào Nhân loại và của mình đối với mình”. Ngoài ra còn chỉ về Tôn giáo.
    VĂN NHU: Còn gọi Văn Nho. Văn chương Nho Giáo. Nghĩa rộng: Do chữ Nho sinh: Học trò đạo Nho (Tức học trò của Đức Khổng Tử, Giáo chủ Nho Giáo).
    ĐẠO VĂN NHU: Đạo của Đức Khổng Tử, Giáo chủ Nho Giáo.
    *Tóm lược ý câu “Bồi thành mới phải đạo Văn Nhu”: Người Nho sinh thì phải giữ gìn nhân cách và hành động với đạo nhân luân mà Đức Khổng Tử đã chủ xướng.
    2/-CÓ LẼ: Hi vọng đạt thành nguyện vọng.
    NGÀY KIA: Lúc nào đó.
    RẮN HÓA CÙ: Con rắn do tu mà trở thành con cù (Tức con rồng). Nghĩa rộng: Nhờ công phu tu tập phàm thân trở nên Tiên Thánh.
    3/-LŨ LƯỢT: Từng đàn, từng nhóm.
    ĐÀN CHIM BAY: Nhiều con bay đi có hàng ngũ.
    KIẾM Ổ: Tìm chỗ để nghỉ cánh. Nghĩa rộng: Nơi an cư lạc nghiệp.
    *Tóm lược ý câu “Lũ lượt đàn chim bay kiếm ổ”: Nhiều người sẽ quay đầu hướng thiện, tìm về đạo đức để có cuộc sống an lành hạnh phúc.
    4/-RÁN MÀ: Hãy nên cố gắng.
    THEO DÕI: Tìm hiểu và thực hành theo.
    BỚ: Lời động viên, kêu gọi.
    VĂN NHU: (Xem văn Nhu phần trước).
    *Tóm lược ý câu “Rán mà theo dõi bớ văn Nhu”: Đức Thầy động viên ông Trân hãy cố gắng tu hành và giữ tròn khí tiết của một Nho sĩ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên ông Trân rán giữ gìn phẩm hạnh và khí tiết của nhà Nho, theo dõi con đường đạo đức sau nầy sẽ trở nên bậc hiền nhơn Thánh triết, cũng như con rắn biết tu cũng có thể hóa rồng.

    Bài thứ bốn mươi bốn
    ĐỨC THẦY cho thêm:


    Văn Nhu vẹt phá sụp ao tù,
    Tước túng dân nghèo lại thiếu xu.
    Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp,
    Phân trần cụ lão chuyện người tu.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-VĂN NHU: (Xem văn Nhu phần trên).
    VẸT PHÁ: Vẹt: Vạch ra hai bên. Phá: Làm cho tan mất. Nghĩa rộng: Làm cho nó khác đi, trở thành tốt đẹp hữu dụng.
    SỤP AO TÙ: Phá bỏ điều xấu, trút ách nô lệ.
    *Tóm lược ý câu “Văn Nhu vẹt phá sụp ao tù”: Là văn Nhu thì phải vẹt phá ách nô lệ, tìm đường để cứu dân cứu nước.
    2/NƯỚC TÚNG: Nước nhà còn nghèo khó, chưa mở mang phát triển.
    DÂN NGHÈO: Mọi người sống trong cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc.
    LẠI THIẾU XU: Lại không có tiền để chi dụng hằng ngày hoặc khi đau ốm, bệnh hoạn.
    *Tóm lược ý câu “Nước túng dân nghèo lại thiếu xu”: Nước ta đã nghèo, mà người dân lại quá nghèo.
    3/-KHỔ, KHỔ: Hết sức gian lao vất vả.
    THƯƠNG ĐỜI: Quan tâm đến xã hội mà người dân kém phát triển, còn nghèo túng vất vả quanh năm.
    LUÂN CHUYỂN KIẾP: Hết phàm thân nầy, đến phàm thân khác để khai đạo dạy đời.
    *Tóm lược ý câu “Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp”: Thấy người dân lâm vào hoàn cảnh cực kỳ khổ sở, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ luôn luôn ở bên cạnh để cải thiện đời sống và xã hội trở nên giàu sang thịnh vượng. Ý nguyện nầy chính Ngài đã thố lộ:“Bể trầm luân khô cạn sáu đàng, Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”. hoặc:“Nếu chúng sanh còn chốn mê tân, Thì ta chẳng an vui Cực Lạc”.
    4/-PHÂN TRẦN: Bày tỏ rõ ràng, minh bạch.
    CỤ LÃO: Ông già (Ý chỉ ông Nguyễn Kỳ Trân).
    CHUYỆN NGƯỜI TU: Vấn đề của người tu hành, phải tự trau sửa thânn tâm và khuyên tấn mọi người làm theo, để trở nên tốt đẹp. (Ý nói đến Đức Huỳnh Giáo Chủ).
    *Tóm lược ý câu “Phân trần cụ lão chuyện người tu”: Đức Huỳnh Giáo Chủ cho ông Trân biết: Sứ mạng của Ngài là khai đạo, chọn người hiền để dự Long Hoa đại hội.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đạo của Thánh hiền không khéo giữ gìn và phát huy, đến ngày nào đó sẽ bị mai một. Nước ta đã nghèo mà dân lại càng quá nghèo. Cho nên Ngài mới luân chuyển kiếp khai đạo, chọn người hiền đức lập đời Thượng Nguơn, để mọi người được sống trong cộng đồng an vui tự tại.
     
    Sửa lần cuối: 25/1/15
  3. Buile

    Buile Member


    Bài thứ bốn mươi lăm

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN (Châu Đốc)


    Lưng chưng một bước lạ làng,
    Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền cơ.
    Người đời lòng những ước mơ,
    Một câu đạo hạnh lỡ ngờ chuyện xa.
    Đêm khuya còn vắng tiếng gà,
    Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố trần.
    Ô kim vàng ấy ngàn cân,
    Dương gian muốn đổi lập thân cho tròn.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LƯNG CHƯNG: Chưa ở một nơi nào nhứt định.
    LUẬN BÀN: Bình luận và bàn bạc.
    HUYỀN CƠ: Huyền: Sâu xa, kín đáo. : Máy móc. Nghĩa rộng: Sự vận hành của Tạo hóa như một cổ máy, không ai có thể biết được.
    ƯỚC MƠ: Mong mỏi, hy vọng.
    ĐẠO HẠNH: Đạo: Con đường, bổn phận hợp với lẽ phải. Hạnh: Nết na. Nghĩa rộng: Hành vi có đạo đức và tính nết tốt đẹp.
    LỠ NGỜ: Lỡ: Trót đã. Ngờ: Chưa tin. Nghĩa rộng: Vì chưa quyết đoán nên để mất cơ hội.
    BÚT NGHIÊN: Như nghĩa chữ Bút Mặc. Bút: Cây viết. Nghiên: Đồ dùng để mài mực (Ngày xưa người ta còn sử dụng tiếng Hán nên viết bằng bút lông) và Mặc: Mực. Nói chung chỉ cây viết và mực. Nghĩa rộng: Văn chương, học hành.
    TỜ HOA: Giấy dùng để viết thư có vẽ hoa. Có thể hiểu như Từ hoa: Văn chương hoa mỹ. Nghĩa rộng: Dùng văn để bày tỏ việc làm.
    TỐ TRẦN: Tố: Nói cho biết. Trần: Trình bày. Nói rõ ràng minh bạch. Trình bày phân minh.
    Ô KIM: Ô: Màu đen, sắc đen. Kim: Vàng, loại kim khí quí giá. Vàng đen.
    NGÀN CÂN: Chỉ cho con số nhiều.
    DƯƠNG GIAN: Dương: Cõi dương. Gian: Khoảng giữa. Cõi dương như chữ Dương thế. Nghĩa rộng: Cõi đời của mọi sinh vật đang tồn tại.
    LẬP THÂN: Lập: Dựng nên. Thân: Thân thể. Tu dưỡng, học tập cho nên người hữu dụng.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đêm vắng vẻ, Đức Huỳnh Giáo Chủ dùng giấy mực viết ra Giảng Kệ, khuyên mọi người tu hành, để trở thành người tài đức vẹn toàn, hữu dụng cho dân cho nước.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)

    Trăm năm ghi tạc miễu son,
    Trung quân ái quốc hãy còn danh bia.
    Mặc tình tiếng nọ lời kia,
    Chẳng màng thế sự đặt bia nhiều lời.
    Gẫm ra chuyện lạ ở đời,
    Kẻ ngu người trí nhiều lời phân vân.
    Xưa kia bạo ngược nhà Tần,
    Đem lòng hung ác giết lần văn Nhu.
    Ước mơ rắn đặng hóa cù,
    Đồng tâm hiệp chí chữ tu dắt dìu.
    Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều,
    Xem kinh niệm Phật mỹ miều mặc ai.
    Hưng vong suy thạnh xưa nay,
    Cuộc đời vay trả, trả vay đổi dời.
    Mấy ai trăm tuổi ở đời.
    Được như Bành Tổ mà rời lợi danh
    .


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TRĂM NĂM: Nghĩa của chữ Bách niên.
    GHI TẠC: Khắc (viết) vào. Nghĩa rộng: Ghi nhớ vào trong lòng không thể nào quên.
    MIỄU SON: Miễu: Nghĩa của chữ Miếu. Son: Màu đỏ. Đền thờ được sơn son thiếp vàng, nơi phụng tự các bậc công Thần.
    TRUNG QUÂN: Trung: Hết lòng ngay thẳng. Quân: Vua. Hết lòng trung với vua và hiếu với dân.
    ÁI QUỐC: Ái: Yêu. Quốc: Nước. Yêu nước.
    DANH BIA: Khắc tên vào tấm bia đá.
    THẾ SỰ: Chuyện đời.
    ĐẶT BIA: Kiếm chuyện để nói.
    KẺ NGU NGƯỜI TRÍ: Kẻ dốt nát, cho đến người có học thức. Nghĩa rộng: Kẻ còn mê muội, người đã giác ngộ.
    PHÂN VÂN: Phân: Lộn xộn. Vân: Tạp lạn. Nhiều thứ lẫn lộn, trí não lộn xộn. Nghĩa thông thường: Chưa quyết định được.
    BẠO NGƯỢC: Hung dữ, ngang ngược. Rất hung hãn.
    NHÀ TẦN: Tức Tần Thủy Hoàng, vua nhà Tần. Tộc danh là Chính, hiệu Thủy Hoàng, lên ngôi lúc 13 tuổi. Thống nhất được Trung Quốc, có tài nhưng rất bạo ngược. Sai Mông Điền đấp Vạn Lý Trường Thành để phòng chống giặc Hung Nô. Sợ dân chúng nổi loạn, nên thu hết binh khí của chư hầu hủy đi. Dựng cung A Phòng, xây Hoàng Lăng ở Ly Sơn tốn đến sáu vạn nhân công. Nghe lời Lý Tư, thu sách vở trong nước đem đốt đi và chôn 460 nhà Nho, để không ai còn đàm tiếu nhà vua nữa. Vì thế, các nhà văn thường dung chữ “Tần”, để nói đến chánh sách cai trị hà khắc, hung tàn bạo ngược của Tần thủy Hoàng.
    HUNG ÁC: Hung: Dữ tợn. Ác: Làm hại kẻ khác.
    VĂN NHU: Còn gọi Văn Nho: Đạo lý của Thánh Hiền (Giáo lý của Khổng Tử). Ngoài ra còn có nghĩa: Nho sĩ: Học trò theo học đạo Nho với Đức Khổng Tử.
    ƯỚC MƠ: Mong mỏi, hi vọng.
    RẮN ĐẶNG HÓA CÙ: Rắn: Loài bò sát. : Con rồng. Nghĩa rộng: Rắn nhờ tu luyện mà hóa kiếp trở thành con rồng. Nghĩa bóng: Người phàm tục nhờ công phu tu tập mà trở thành Thánh Tiên.
    ĐỒNG TÂM: Hiệp một lòng.
    HIỆP CHÍ: Hiệp: Cùng chung. Chí: Điều hướng đến của tâm. Nghĩa rộng: Cùng chung chí hướng, cùng chung mục đích, hoài bảo.
    TU: Sửa đổi, chỉnh đốn để được tốt đẹp hơn.
    DẮT DÌU: Dẫn nhau đi.
    MỸ MIỀU: Vẻ đẹp bề ngoài. Ngoài ra từ Mỹ miều có thể hiểu như sau: Mỹ: Áo thêm một lớp. Ví dụ: Vàng mỹ, tức là vàng giả được áo bên ngoài một lớp kim loại. Miều: Làm màu, làm mè. Mỹ miều: Phô trương, khoe khoang hình thức.
    HƯNG VONG: Hưng: Nổi lên. Vong: Mất đi. Nghĩa rộng: Thịnh vượng và suy sụp.
    SUY THẠNH: Suy: Đang thạnh trở nên sa sút. Thạnh: Dồi dào. Suy sụp và thịnh vượng.
    VAY TRẢ, TRẢ VAY: Định luật bù trừ của Tạo hóa. Hết giàu tới nghèo, hết khốn cùng đến phú quí. Theo Phật Giáo, đó là luật Nhân Quả.
    ĐỔI DỜI: Không đứng yên một chỗ. Nghĩa rộng: Không lấy gì làm bền chắc.
    BÀNH TỔ: Người đời Thượng cổ, tộc danh Tiền Kiên, cháu của Xuyên Húc hoàng đế. Ông sống từ đời nhà Hạ, đến cuối đời nhà Ân, hơn 800 tuổi. Vì ở Bành Thành nên người ta gọi ông là Bành Tổ.
    LỢI DANH: Lợi: Cái có ích thu được. Danh: Tiếng tăm. Lợi ích và tiếng tăm. “Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh”.(Cung oán Ngâm khúc).

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Những bậc trung quân ái quốc, được dân chúng lập đền thờ, khắc tên vào bia ký. Người tu hành mặc ai khoe khoang, phô trương hình thức, ta hãy cố gắng tu dưõng tài đức, để trở thành người hữu dụng. Bởi vì ngày nay ít có ai sống được như tuổi của Lão Bành.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Quyết lòng tìm kiếm cõi thanh,
    Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên.
    Trả cho rồi nợ tiền khiên,
    Đến ngày hiệp mặt kiểng Tiên vui vầy.
    Làm sao rõ mặt tớ Thầy,
    Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường.
    Bây giờ nạn ách còn vương,
    Cha làm con chịu nhiều đường gai chông.
    Nhiều người Kinh sử lảu thông,
    Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê.
    Kiếm con hiền đức dắt về,
    Về nơi cõi Phật Tây Phương an nhàn.
    Nợ trần còn sớm liệu toan,
    Nghĩa nhơn trọn vẹn mới an tấm lòng.
    Thuyền từ kêu gọi ngóng trông,
    Trông cho dân chúng bớt lòng tham ô.
    Chừng nào thấy được cơ đồ,
    Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TRẦN TỤC: Trần: Bụi bặm, thế giới chúng ta đang ở. Tục: Nơi mọi người cùng chung sống với nhau (khác với cõi Tiên, cõi Phật).
    ĐƯỜNG TIÊN: Con đường tu tập để chứng đắc quả Tiên hay lên được cảnh Tiên.
    TIỀN KHIÊN: Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm. Điều lỗi lầm trước kia gây ra.
    KIỂNG TIÊN: Còn gọi Cảnh Tiên. Cảnh: Hình sắc có thể ngắm nhìn. Tiên: Người tu trên núi đắc đạo. Nghĩa rộng: Nơi Tiên ở.
    ĐÀI MÂY: Đài: Một kiến trúc trên cao, đứng trên có thể nhìn thấy bốn phía. Mây: Nghĩa của chữ Vân. Nghĩa rộng: Nơi các bậc Tiên giá lâm.
    TƯỜNG: Hiểu rõ.
    NẠN ÁCH: Hoạn nạn và tai ương.
    VƯƠNG: (Đt. Retenu): Mắc phải.
    KINH SỬ: Kinh: Sách (Dùng để chỉ chung 5 quyển sách Ngũ kinh: Thi, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu). Sử: Truyện cũ của các nước bên Trung Hoa. Nghĩa rộng: Sách của người xưa học để thi cử: “Năm xe kinh sử một tay vẽ vời” (Cao Bá Nhạ).
    LẢU THÔNG: Biết suốt cả.
    MÀ KHÔNG SỬA TÁNH, BỞI LÒNG CÒN MÊ: Tánh: Tình thương biểu lộ ra ngoài. Lòng: Nghĩa của chữ Tâm. : Bị cám dỗ, lầm lạc. Rối loạn mất khả năng nhận thức, như: Mê đắm danh, lợi, tình…Câu:“Nhiều người kinh sử làu thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê”. Ý nói người có kiến thức rộng rãi, nhưng vẫn còn bị “”, ở đây là tham luyến danh lợi tình. Ba thứ “Mê thuật” ấy không loại bỏ bất cứ một ai. Bởi chữ “” không phải là “U mê” ám chướng để chỉ cho người ngu dốt.
    HIỀN ĐỨC: Người có tài năng, phẩm hạnh.
    CÕI PHẬT: Nghĩa của Phật cảnh. Nơi Phật ở.
    TÂY PHƯƠNG: Danh từ dùng để chỉ thế giới Cực Lạc, Giáo Chủ là Đức Phật A Di Đà.
    AN NHÀN: An: Yên ổn. Nhàn: Rảnh rang. Rảnh rang yên ổn.
    NỢ TRẦN: Nợ: Theo Phật Giáo gọi là Nghiệp, những gì mình còn thiếu của người khác (Bổn phận phải đền trả). Trần: Bụi bặm, nơi chúng sanh đang sinh sống. Nghĩa rộng: Còn ở lại để trả nợ trần gian.
    NGHĨA NHƠN: Nghĩa: Việc hợp với lẽ phải. Nhơn: Lòng thương người mến vật. Nghĩa rộng: Hành động vì việc công.
    THUYỀN TỪ: Danh từ đặc dụng: Theo quan điểm của Phật Giáo Hòa Hảo có thể hiểu là Thuyền Từ bi hay Thuyền đạo. Nghĩa bóng: Lòng từ bi khai đạo để cứu vớt chúng sanh qua bể khổ, ví như chiếc thuyền đưa người từ bờ mê, sang qua bến giác. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Thả thuyền từ bến giác nâng niu, Kẻ hiểu đạo mau mau bước xuống”.
    DÂN CHÚNG: Dân: Người ở trong làng, trong nước. Chúng: Đông người. Toàn thể hay một số lớn nhân dân.
    THAM Ô: Tham: Ham muốn thái quá. Ô: Nhơ nhớp. Những kẻ tham lam hay làm điều xấu xa, trái với đạo lý.
    CƠ ĐỒ: : Nền móng. Đồ: Mưu tính, còn có nghĩa: Đất nước. Nghĩa rộng: Sự nghiệp vững vàng, chắc chắn.
    NHƠN VÔ VIỄN LỰ: Nhơn: Người. : Không. Viễn: Xa. Lự: Lo. Người không còn phải lo xa.
    GIA VÔ NHƠN ĐÌNH: Gia: Nhà. : Không. Nhơn: Người. Đình: Cửa. Nhà không người dừng lại. Nghĩa bóng: Nhà không cần phải đóng cửa, bởi vì không ai dừng lại lấy trộm.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Đức Huỳnh Giáo Chũ khuyên hãy cố gắng tu hành để sau nầy gặp được Phật Tiên. Nhiều người tuy làu thông kim cổ, nhưng họ vẫn còn tham đắm danh lợi tình, thường làm điều trái với đạo đức. Đến ngày Thượng Nguơn trở lại, mới hết lo toan mọi nỗi.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)

    Đến đây thấy cảnh sanh tình,
    Lòng son đòi đoạn công trình dạy khuyên.
    Cứ lo chế nhạo Khùng Điên,
    Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau.
    Ngọt bùi lời đạo thanh thao,
    Đời còn mê muội chừng nào mới thôi.
    Vinh hoa một bả làm mồi,
    Để câu kẻ dại việc tồi chất lên.
    Muốn mình lên được bực trên,
    Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh Hiền.
    Giống lành xưa cũng Rồng Tiên,
    Ngày nay hung ác đảo điên khắp cùng.
    Mặc tình nghe phải thì dùng,
    Chớ đừng bỉ bạc kẻ Khùng làm chi.
    Buồn đời gát bút nghĩ suy,
    Suy cho cạn lẽ sầu bi quá chừng.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LÒNG SON: (Dt Fidélité): Lòng tốt, lòng trung thành.
    ĐÒI ĐOẠN: Từng khúc, từng hồi. “Mối sầu đoạn thảm thêm vương vào lòng”. (Đồ Chiểu)
    CÔNG TRÌNH: Công: Việc. Trình: Độ lượng, mức độ. Tiến trình để hoàn thành công việc.
    CHẾ NGẠO: Cười chê ngạo nghễ.
    KHÙNG ĐIÊN: Danh xưng khiêm nhượng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    THANH THAO: Thanh: Trong sạch. Thao: Nước mênh mông, chảy cuồn cuộn. Nghĩa rộng: Trong sạch như nước chảy.
    MÊ MUỘI: : Rối trí. Muội: Tối tăm. Trí não bị mờ tối.
    VINH HOA: Vinh: Cỏ đơm bông. Hoa: Cây đơm bông. Kinh Lễ: “Thảo mộc vinh hoa”. (Cây cỏ đơm bông). Nghĩa rộng: Hiển đạt.
    BẢ: Đồ ăn có trộn thuốc độc. Cái có thể lừa người. “Bả vinh hoa lừa gã công khanh”. (Nguyễn Du). Như cụm từ “Bả vinh hoa, mùi phú quí”(Appât de la gloire).
    VIỆC TỒI: Việc làm tồi tệ và tồi bại. Tồi tệ: Ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội. Tồi bại: Ảnh hưởng đến luân thường đạo lý.
    RÈN ĐÚC: Giồi mài tập luyện cho được thuần thục.
    THÁNH HIỀN: Thánh: Bậc “Sanh nhi tri”, thấu hiểu mọi việc, tài đức vẹn toàn.Hiền: Người có học thức và phẩm hạnh.
    RỒNG TIÊN: Giống dân Việt Nam. Con cháu của Ông Lạc long Quân và Bà Âu Cơ. Tương truyền: Ông Lạc long Quân lấy Bà Âu Cơ sanh ra cái bọc 100 trứng. Nở ra được 100 người con, năm mươi người con trai theo cha xuống biển, tượng trưng Rồng. Năm mươi người con gái theo mẹ lên non, tượng trưng cho Tiên. Nên giống dân Việt Nam gọi là Rồng Tiên.
    HUNG ÁC: Hung: Dữ tợn. Ác: Làm hại kẻ khác. Nghĩa rộng: Gieo rắc tai họa cho người khác.
    ĐẢO ĐIÊN: Đảo: Lật đổ. Điên: Ngã nhào xuống. Nghĩa rộng: Rối trật tự, đang xuôi bỗng nhiên lật ngược.
    BỈ BẠC: Bỉ: Quê mùa, thô tục. Bạc: Mỏng, trái với “Hậu” là dày. Nghĩa rộng: Khinh bỉ, xem thường một người nào.
    GÁT BÚT NGHĨ SUY: Ngưng lại không viết nữa, để suy nghĩ về một việc gì. (Ý nói Đức Huỳnh Giáo Chủ vì xúc động mà không tiếp tục sáng tác).[Trong nguyên văn in là “Gát bút”, viết cho đúng là “Gác bút”].
    SẦU BI: Sầu: Buồn rầu. Bi: Thương xót. Buồn rầu và đau xót vì gặp nghịch cảnh trớ trêu.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Giống dân Hồng Lạc, vốn là con Rồng cháu Tiên. Hãy cố gắng phát huy truyền thống tốt đẹp đó, bằng cách tu hành để được chứng đắc quả Thánh Hiền, trở nên người hữu dụng cho nước nhà. Quá thương dân chúng đang sống trong cảnh giới Ta Bà, chịu nhiều nỗi đau thương thống khổ, vì cảm động nên Ngài tạm ngưng dừng bút để suy nghĩ.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)

    Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
    Thiện duyên tác phước ý như hà.
    Phô trương vạn lượng tam hài tuế,
    Hội Thính na thời kiến thạnh hoa.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-CẦU NGÃ: Cầu: Tìm tòi, xin người trợ giúp. Ngã: Ta, tiếng tự xưng.
    KIẾN VĂN: Kiến: Thấy, gặp gỡ. Văn: Nghe. Những điều tai nghe mắt thấy.
    TỐI: Rất, hết sức.
    THẬM ĐA: Rất nhiều.
    *Tóm lược ý câu “Cầu ngã kiến văn tối thậm đa”: Xin được diện kiến để nghe thấy và hiểu biết những điều hết sức tốt đẹp.
    2/-THIỆN DUYÊN: Duyên lành.
    TÁC PHƯỚC: Tác: Làm. Phước: Những điều tốt đẹp. Nghĩa rộng: Làm điều phước thiện hay cho người khác được hưởng phước thiện.
    Ý: Suy nghĩ.
    NHƯ HÀ: Như: Giống như…: Câu hỏi. Giống như thế, làm thế nào…
    *Tóm lược ý câu “Thiện duyên tác phước ý như hà”: Được hưởng những điều tốt đẹp, là bởi trước kia có duyên lành, là ý làm sao như vậy ? làm thế nào được như vậy ?
    3/-PHÔ TRƯƠNG: Phô: Bày ra. Trương: Giăng ra. Bày ra với ngụ ý khoe khoang, để cho mọi người hiểu biết về mình.
    VẠN LƯỢNG: Vạn: Mười ngàn, một muôn. Từ chỉ con số nhiều. Lượng: Đo lường, chứa đựng. Nghĩa rộng: Sức chịu đựng, sức chứa.
    TAM: Số ba (3).
    HÀI TUẾ: Hài: Trẻ thơ. Tuế: Năm, tuổi. Nghĩa rộng: Tuổi còn nhỏ.
    *Tóm lược ý câu “Phô trương vạn lượng tam hài tuế”: Đừng nên ỷ lại vào sức mạnh non trẻ của mình. Dù cho có dõng mãnh tới đâu, đến ngày nào đó cũng sẽ bị băng hoại. Nghĩa bóng: Thế lực và tài sản trùm khắp, có ngày cũng biến hoại.
    4/-HỘI THÍNH: Còn gọi Hội Thánh. Hội: Nhóm họp đông người. Thánh: Bậc “Sanh nhi tri” không học mà biết. Có tài năng đức độ hơn người. Nghĩa rộng: Ngày hội của các bậc Thánh Tiên.
    NA THỜI: Na: Thời gian ngắn. Thời: Lúc, khi. Nghĩa rộng: Thời gian qua mau.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    THẠNH HOA: Thạnh: Dồi dào, lớn lao. Hoa: Rực rỡ.
    *Tóm lược ý câu “Hội thính na thời kiến thạnh hoa”: Đến lúc hanh thông, mọi người sẽ được hưởng muôn điều phúc lạc.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Nhờ hữu phước nên gặp Đức Thầy khai đạo để tu hành. Ngài nhắc nhở mọi người đừng nên ỷ lại vào tài ba, sản nghiệp của mình, bởi vì nó là vật tạm bợ. Rán tu tâm dưỡng tánh sẽ có mặt tại Hội Long Hoa, hưởng muôn điều hạnh phúc.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)

    Viễn lự ô hô chí Lão Bành,
    Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
    Hải qui thế giới nam hòa vọng,
    Nguyện dữ như hà dụng thức canh.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-VIỄN LỰ: Viễn: Xa. Lự: Lo lắng. Lo xa.
    Ô HÔ: Tiếng than.
    CHÍ: Đến.
    LÃO BÀNH: Tức Bành Tổ (Xem Lão Bành, hay Bành Tổ - Phần Điển tích).
    *Tóm lược ý câu “Viễn lự ô hô chí Lão Bành”: Hỡi ơi ! Con người dù cho có lo xa đến đâu, cũng chỉ sống như Lão Bành mà thôi. (Nghĩa là cũng phải chịu dưới sự chi phối của sanh, lão, bệnh và tử).
    2/-NHƠN THÌ: Nhơn: Người. Thì: Lúc, khi.
    SANH DƯỠNG: Sanh: Ra đời, đời sống. Dưỡng: Nuôi nấng. Nghĩa rộng: Sanh ra và nuôi nấng cho được nên người.
    KHÍ: Tính chất, tinh thần phát lộ ra ngoài.
    TỒN THANH: Tồn: Còn, gìn giữ. Thanh: Tiếng. Nghĩa rộng: Giữ gìn tiết tháo.
    *Tóm lược ý câu “Nhơn thì sanh dưỡng ý tồn thanh”: Con người cốt giữ gìn khí tiết thanh cao.
    3/-HẢI QUI: Hải: Biển. Qui: Về.
    THẾ GIỚI: Thế: Đời. Giới: Đất đai nằm trong một khu vực. (Thế: Chỉ về thời gian: Quá khứ, hiện tại và tương lai).(Giới: Chỉ về không gian và gồm có các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới).
    NAM: Phương Nam.
    HÒA VỌNG: Hòa: Thuận thảo. Vọng: Mong ngóng, trông mong. Nghĩa rộng: Mong muốn sống thuận thảo cùng nhau.
    *Tóm lược ý câu “Hải qui thế giới nam hoài vọng”: Tất cả mọi vật hữu hình, đều phải chịu chi phối bởi luật dịch hóa.
    4/-NGUYỆN DỮ: Nguyện: Mong muốn, ao ước. Dữ: Giao hảo với nhau cho được. Nghĩa rộng: Mong muốn cho được hài hòa tốt đẹp.
    NHƯ HÀ: Như: Cùng, ví như…: Từ dùng để hỏi. Làm sao ?
    DỤNG: Dùng.
    THỨC CANH: Thức: Biết. Canh: Tiếp tục.
    *Tóm lược ý câu “Nguyện dữ như hà dụng thức canh”: Mong ước mang lại hòa bình cho nhân loại, nhưng làm sao đạt được nguyện vọng đó ?

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đời sống của con người dù cho có lo xa đến đâu, cũng chỉ thọ như Lão Bành. Điều cốt yếu là để tiếng thơm lại cho hậu thế. Nguyện vọng duy nhứt là ước mong nhân loại sống trong cảnh thanh bình, nhưng làm thế nào để thực hiện được mục đích đó ?

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)

    Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
    Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
    Duyên do phước thọ lai duy hiển,
    Thủ đảnh thư hùng thục sử kinh.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-KIM PHỤNG: Kim: Vàng (vật quí báu). Phụng: Chim phượng. Một trong tứ linh (Long, lân, qui và phượng). Nghĩa bóng: Con phượng đặt trong triều vua, tượng trưng cho vật quí phái.
    TRIỀU VƯƠNG: Triều: Vua tôi hội họp để bàn việc nước hay chầu vua. Vương: Vua. Nghĩa rộng: Nói về một triều đại nào đó.
    VIỄN: Xa.
    KHỨ ĐÌNH: Khứ: Những gì đã qua. Đình: Chỉ triều đình, những nơi như: Huyện đình, Quận đình…
    *Tóm lược ý câu “Kim phụng triều vương viễn khứ đình”: Nói về một triều đại đã qua, từng có những thành tích đem lại an bình, thạnh trị cho dân chúng.
    2/-BÀI HỒI: Bài: Bày ra, trừ bỏ. Hồi: Quay trở lại.
    PHONG NHÃ: Phong: Tức Quốc phong, tên một thiên trong Kinh Thi. Nhã: Tao nhã, không thô tục. Nghĩa rộng: Cái gì có một vẻ văn chương thanh tao, thì gọi là tao nhã. “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”(Kiều).
    LẠC: Vui vẻ, yên ổn.
    TRẦM THINH: Trầm: Chìm, say đắm. Thinh: Tiếng.
    *Tóm lược ý câu “Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh”: Cái thời huy hoàng nay đã qua.
    3/-DUYÊN DO: Duyên: Mối liên lạc. Do: Vì đâu mà ra. Nghĩa rộng: Những mối liên quan tự nhiên mà phát sinh.
    PHƯỚC THỌ: Phước: Những gì may mắn, tốt đẹp. Thọ: Sống lâu: Sống lâu và được hạnh phúc.
    LAI: Lại, đến.
    DUY HIỂN: Duy: Chỉ một mình. Hiển: Sáng tỏ, có danh vọng. Nghĩa rộng: Nói về địa vị, tiếng tăm trong xã hội của một nhân vật nào đó.
    *Tóm lược ý câu “Duyên do phước thọ lai duy hiển”: Trong nhiều tiền kiếp biết tạo phước đức, nên hiện kiếp được hưởng giàu sang danh vọng.
    4/-THỦ ĐẢNH: Thủ: Đứng đầu. Đảnh: Điểm cao. Nghĩa rộng: Ở trên hết về mọi phương diện.
    THƯ HÙNG: Thư: Con mái. Hùng: Con trống. Con mái và con trống. Nghĩa bóng: Thua và được. Truyện Sử ký: “Hạng Võ cùng Hán Vương khêu chiến, quyết thư hùng một trận”. Các nhà văn thường dùng “quyết một trận trống mái” để chỉ hai bên đánh nhau một mất một còn.
    THỤC: Quen, xét kỹ.
    SỬ KINH: Sử: Ghi chép công việc của nước nhà (Lịch sử quốc gia), tác giả ghi chép những gì xảy ra trong nước, qua nhiều thời đại, có khi ghi chép chuyện của nước ngoài.Kinh: Sách của Thánh Hiền.
    *Tóm lược ý câu “Thủ đảnh thư hùng thục sử kinh”: Xưa nay những bậc vua chúa, công thần được lịch sử ghi chép, hầu để lại đời sau.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Những bậc vua chúa và công thần, đều được lịch sử ghi chép thành tích, để đời sau hiểu biết mà noi theo, ngày nay đã trở thành dĩ vãng.

    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Quang minh diện mục khả hồ sơ,
    Nhứt diệu phù vân phú quới cơ.
    Quân tử Thánh nhân hà đại lượng,
    Liên hồng vạn thử cảnh thiên thư.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-QUANG MINH: Sáng sủa, rực rỡ.
    DIỆN MỤC: Diện: Mặt. Mục: Mắt. Mặt mày.
    KHẢ: Đáng được, có thể.
    HỒ SƠ: Hồ: Sao?. : Đầu.
    *Tóm lược ý câu “Quang minh diện mục khả hồ sơ”: Những tấm gương sáng của các bậc Thánh hiền đáng được ghi chép để lưu truyền hậu thế.
    2/-NHỨT DIỆU: Nhứt: Đứng đầu. Diệu: Tốt đẹp.
    PHÙ VÂN: Phù: Nổi lên. Vân: Mây. Đám mây nổi.
    PHÚ QUỚI: Phú: Giàu có. Quới: Sang trọng.
    : Hầu như, báo trước.
    *Tóm lược ý câu “Nhứt diệu phù vân phú quới cơ”: Giàu sang danh vọng chỉ có một lần đến với mỗi người, nhưng nó rất mong manh như đám mây nổi, thấy đó rồi tan đó.
    3/-QUÂN TỬ: Bậc có tài đức vẹn toàn. Kinh Lễ viết: “Bác văn cường thức nhi nhượng, đôn thiện hạnh nhi bất đãi vị chi quân tử” (Biết rộng hiểu nhiều mà khiêm cung, đôn đốc nết thiện không ngừng, ấy là quân tử). Hoặc Nhan Uyên thiên trong Luận Ngữ: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo” (Địa vị của người quân tử như gió, địa vị của kẻ tiểu nhân như cỏ).
    THÁNH NHƠN: Thánh: Người có tài đức vẹn toàn, phẩm hạnh cao khiết. Bậc không học mà biết (Sanh nhi tri). Nhơn: Người. Người đắc quả Thánh. Nghĩa rộng: Chỉ chung hang Thánh quả. (Thường để chỉ Đức Khổng Tử).
    HÀ: Từ dùng để hỏi.
    ĐẠI LƯỢNG: Đại: Lớn. Lượng: Sự chứa đựng. Sức chứa đựng rộng lớn. Nghĩa bóng: Tính tình rộng rãi, vị tha.
    *Tóm lược ý câu “Quân tử Thánh nhơn hà đại lượng”: Bậc quân tử và Thánh nhơn được mọi người kính trọng là tại làm sao ? Bởi vì các bậc ấy tính tình rộng rãi, biết thương người mến vật.
    4/-LIÊN HỒNG: Liên: Hoa sen. Hồng: Màu đỏ, sắc đỏ. Hoa sen màu đỏ. Nghĩa bóng: Ám chỉ Hoa sen ở ao Bát Đức cõi Tây Phương Cực Lạc, do công phu tu tập, đến khi lâm chung, thần thức nhập vào hoa sen (Gọi là thai sen). Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Thần thức nhập thai sen tinh hảo”.
    VẠN THỬ: Vạn: Mười ngàn, một muôn. Từ chỉ con số nhiều. Thử: Thứ bậc, chỗ, nơi.
    CẢNH: Hình thức có thể ngắm và thưởng thức.
    THIÊN THƯ: Thiên: Trời, Thư: Sách. Sách của trời. Nghĩa bóng: Sự vận hành của Tạo hóa.
    Tóm lược ý câu “Liên hồng vạn thử cảnh thiên thư”: Người tu hành chân chính, khi lâm chung được nhập vào thai sen, có mặt ở Tây phương Cực lạc. Đó là thiên ý đã sắp đặt sẵn. (Có thể hiểu như là luật nhân quả).

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Những tấm gương sáng được người đời nhắc nhở. Còn giàu sang danh vọng cũng như đám mây nổi, không lấy gì bền chắc. Chỉ có con đường tu hành mới có thể tiến đến cõi bất sinh bất diệt, đó là chơn lý mà Phật trời đã định sẵn.

    Bài thứ bốn mươi sáu

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ

    Đời đạo liên quan rạng chói ngời,
    Trần hoàn biển khổ thẳm vơi vơi.
    Thanh minh đạo đức câu huyền bí,
    Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    ĐỜI ĐẠO: Đời: Khoảng thời gian từ lúc sống cho đến khi chết. “Đời người đến thế cũng xong một đời”(Nguyễn Du). Một khoảng thời gian chừng 60 năm, tính cho tuổi thọ con người (Sáu mươi năm cuộc đời). Hay khoảng thời gian trị vì, như Đời nhà Lê, đời nhà Nguyễn…Đạo: Con đường hợp với lẽ phải, bổn phận của mỗi người phải hành xử. Từ dùng trong lãng vực Tôn giáo. Đời đạo là hai thái cực khác nhau, Đời: Tranh đấu cho vật chất, đem lại lợi ích cho cá nhân hay tập thể. Đạo: Tranh đấu cho tinh thần. Tự bản thân tu sửa trở thành người tài đức vẹn toàn, đồng thời hướng dẫn mọi người cùng tu tiến để trở nên người hữu dụng cho xã hội. Phật Giáo gọi là tự giác và giác tha.
    LIÊN QUAN: Liên: Nối liền. Quan: Dính líu. Tương quan, dính líu với nhau.
    CHÓI NGỜI: Chói: Sáng lòa. Ngời: Ánh lên. Nghĩa bóng: Phân minh, sáng sủa.
    TRẦN HOÀN: Trần: Bụi bặm, chỉ thế giới chúng ta đang sinh sống. Hoàn: Khu vực rộng lớn. Nghĩa rộng: Nói chung cõi Ta Bà mà chúng sanh đang sống.
    BIỂN KHỔ: Nghĩa của chữ khổ hải: Sự gian lao, vất vả rộng lớn ví như biển cả. Lăng Nghiêm kinh: “Xuất ư khổ hải” (Ra khỏi bể khổ). Nghĩa rộng: Hết sức cực khổ.
    THẲM: Sâu, vực thẳm.
    VƠI VƠI: Như chữ diệu vợi. Xa xôi, mù tăm. “Theo em công thật là công. Đường đi diệu vợi cách sông trở đò”(Ca dao).
    THANH MINH: Thanh: Trong sạch. Minh: Sáng, không vẩn đục.
    ĐẠO ĐỨC: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải. Lễ kinh: “Đạo đức nhân nghĩa phi lễ bất thành”( Đạo đức và nhân nghĩa không phải lễ thì chẳng thành). Đức: Tâm lành. Chu lễ viết: “Đạo là nhiều tài nghệ, đức là có hạnh tột cùng”.
    HUYỀN BÍ: Huyền: Sâu xa. : Kín đáo. Nghĩa rộng: Sự mầu nhiệm khó hiểu biết trước được.
    BÚT NGHIÊN: Bút: Cây viết. Nghiên: Dụng cụ mài mực. Ngày xưa người ta dùng bút bút lông để viết chữ, nên phải có cái nghiên để mài mực. Nghĩa bóng: Nghiên cứu, học tập, sáng tác…

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đời và đạo tuy hai lãnh vực khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết. Đức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm khai đạo để cải thiện người đời trở thành bậc chân tu, để kiến tạo một xã hội bình đẳng, mọi người sống trong hạnh phúc tự do.

    Bài thứ bốn mươi bảy

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Hồng Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
    Sao mà dương thế mảng lo chơi.
    Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí,
    Đạo đức nhiệm mầu Lão khuyến mời.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HỒNG LẠC: Còn gọi Lạc Hồng, ám chỉ họ Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên của nước Việt Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc long Quân là “Hồng Lạc”, tức là Tổ Tiên của người Việt.
    Nhớ câu mộc bổn thủy nguyên,
    Cháu con Hồng Lạc lưu truyền ngàn xưa.(Cổ thi)
    GIỐNG: Như chữ giống nòi. Cái gốc, nguyên thỉ sanh ra muôn loài vạn vật. Thí dụ: Giống nòi của dân tộc Việt Nam là họ Hồng Bàng.
    TUYỆT VỜI: Tuyệt: Hết sức (rất). Vời: Diệu vợi. Nghĩa bóng: Hết sức cao thâm diệu vợi.
    DƯƠNG THẾ: Dương: Cõi dương. Thế: Đời. Nghĩa rộng: Cõi đời của mọi sinh vật đang sống.
    TÂM TRÍ: Tâm: Lòng. Trí: Não. Hai cơ quan suy nghĩ có trong con người.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem Đạo đức phần trước).
    NHIỆM SÂU: Nhiệm (tĩnh từ P.secret): Sâu kín. Sâu: Chiều sâu (profondeur). Nghĩa bóng: Thông suốt tận ngọn ngành.
    LÃO: Danh xưng khiêm nhượng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    KHUYẾN MỜI: Khuyến: Khuyên. Mời (P. inviter): Lời yêu cầu làm việc gì. “Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay” (Nguyễn Du). Nghĩa rộng: Khuyến khích một cách tích cực.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Dân tộc Việt Nam thuộc giống nòi Hồng Lạc, đó là điều mà Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng nhắc nhở, để chúng ta nhớ mà hành động cho xứng đáng với truyền thống vẻ vang đó.

    Bài thứ bốn mươi tám

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
    Tông tích cổ kim lượng thử hà.
    Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp
    Ngã hồi dương thế thuyết huyền ca.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-THIÊN SANH: Thiên: Trời. Sanh: Ra đời. Nghĩa rộng: Sự hiện hữu của nhân vật nào đó.
    THIỆN TÁNH: Thiện: Lành. Tánh: Tính tình, tính chất. Minh Tâm Bửu Giám: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” (Người mới sinh ra tính vốn lành). Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Người mới sanh tánh thiện trời dành”. Nghĩa rộng: Tính vốn đã lành.
    TÁC: Làm, hành động.
    THÌ GIA: Thì: Lúc, khi. Gia: Người có học thức (Nho gia: Nhà Nho), kẻ tôn trưởng trong gia đình.
    *Tóm lược ý câu: “Thiên sanh thiện tánh tác thì gia”: Khi mới sanh ra, con người vốn sẵn tính lành mà trời đã dành sẵn. Ngoài ra còn có thể hiểu: Đức Thầy ra đời khai đạo, Ngài là bậc trọn lành trọn sáng.
    2/-TÔNG TÍCH: Tông: Tổ cao nhứt là Ông Tổ, Tổ thứ hai là Tôn (Tông), một Giáo phái hay Tôn Giáo. Tích: Xưa, trước. Nghĩa bóng: Ám chỉ Phật Giáo (Đạo Phật), Giáo Chủ là Phật Tổ Thích Ca.
    CỔ KIM: Cổ: Xưa, lâu. Kim: Nay, hiện tại. Nghĩa rộng: Xưa nay. Trước kia và hiện tại.
    LƯỢNG: Đo lường, chứa đựng.
    THỬ HÀ: Thử: Ấy, vậy. : Sông. Nghĩa rộng: Con sông ấy.
    *Tóm lược ý câu “Tông tích cổ kim lượng thử hà”: Đức Huỳnh Giáo Chủ xác nhận: Đạo Phật Giáo Hòa Hảo phát xuất từ gốc của Phật Tổ Thích Ca:“Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn, Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp”.
    3/-SƯ GIẢ: : Ông Thầy (Thầy dạy học), Thầy (Thầy dạy nghề). Giả: Chỉ về người. Ông thầy Giáo hay Thầy hướng nghiệp.
    HẠ TRẦN: Hạ: Xuống. Trần: Bụi bặm, cõi chúng ta đang ở. Nghĩa rộng: Lâm phàm hay xuống cõi thế gian.
    NHƠN: Người.
    MẠT KIẾP: Mạt: Cuối cùng. Kiếp: Đời người. Nghĩa rộng: Đời hạ nguơn, nguơn cuối cùng của lý Tam nguơn (Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn).
    *Tóm lược ý câu “Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp”: Hạ nguơn là nguơn cuối cùng mà con người đang sinh sống.
    4/-NGÃ HỒI: Ngã: Ta, tiếng tự xưng. Hồi: Trở lại. Nghĩa rộng: Ta đã trở lại.
    DƯƠNG THẾ: Dương: Cõi dương. Thế: Đời. Cõi đời của mỗi sinh vật đang sống.
    THUYẾT: Nói cho biết.
    HUYỀN CA: Bài văn nói về sự mầu nhiệm, kín đáo hay sự vận hành của tạo hóa.
    *Tóm lược ý câu “Ngã hồi dương thế thuyết huyền ca”: Sự vận hành của Tạo hóa rất sâu xa, kín đáo. Không ai có thể hiểu được.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời có sứ mạng của Phật Tổ Thích Ca. Ngài cho biết Hạ nguơn đã hết đời để lập lại Thượng nguơn.

    Bài thứ bốn mươi chín

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Đài phong liễu khước tạo
    Nam gia,
    Thiện chí Hồ thiên thức Ngọc Tòa.
    Trung Sơn tế giáng Lư Bồng kiểng,
    Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-ĐÀI PHONG: Đài: Một kiến trúc xây trên nền cao, nơi đó nhìn thấy bốn phía.Phong: Ban tước hiệu. Vua ban tước hiệu cho chư hầu lập quốc.
    LIỄU KHƯỚC: Liễu: Hiểu, xong xuôi. Khước: Từ chối, không nhận.
    TẠO: Xây dựng, mở đầu.
    NAM GIA: Nam: Phương Nam. Gia: Nhà. Nghĩa rộng: Nước Nam, Việt Nam.
    *Tóm lược ý câu “Đài phong liễu khước tạo Nam gia”: Nước Việt Nam chưa thật sự độc lập, nay được ban ơn lập quốc.
    2/-THIỆN CHÍ: Thiện: Lành, tốt đẹp. Chí: Ý mình hướng về điều gì. Nghĩa rộng: Chí hướng tốt đẹp.
    HỒ THIÊN: Hồ: Cái bầu. Thiên: Trời. Bầu trời. Phi Tồn học đạo Tiên, gặp Trương Thân Thường đeo một cái bầu rất lớn thâu cả trời đất, trăng sao. Đêm đến Thân Thường chui vào đó ngủ, nên có người gọi là Hồ Công (Ông có bầu). Nghĩa bóng: Mỗi người riêng một cõi. “Hồ Thiên riêng chốn phương nam”(Hoa Tiên truyện).
    THỨC: Biết.
    NGỌC TÒA: Ngọc: Vật quí báu. Tòa: Còn gọi Tọa: Ngồi, đặt để. Nghĩa bóng: Nơi Đức Ngọc Đế ngự. “Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc Tòa” (ĐHGC).
    *Tóm lược ý câu “Thiện chí Hồ Thiên thức Ngọc Tòa”: Đức Huỳnh Giáo Chủ chịu lịnh của Đức Ngọc Đế lâm phàm khai đạo.
    3/-TRUNG SƠN: Danh từ chỉ Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương “Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngọc Trung niên xuất”. Phật Thầy Tây An viết bài “Tứ Bửu Linh Tự” có bốn chữ khoán thủ đề danh cho Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương:
    Bửu Ngọc quân minh Thiên Việt nguyên
    Sơn trung sư mạng địa Nam tiền.
    Kỳ niên Trạng tái tân phục quốc,
    Hương xuất Trình sanh tạo nghiệp yên.
    TẾ GIÁNG: Tế: Cứu giúp. Giáng: Xuống. Nghĩa rộng: Lâm phàm cứu dân độ thế.
    LƯ BỒNG: Nơi chư Tiên hội họp.
    KIỂNG: Còn gọi Cảnh: Hình sắc có thể ngắm và thưởng thức.
    *Tóm lược ý câu “Trung Sơn tái giáng lư Bồng kiểng”: Đức Huỳnh Giáo Chủ thừa kế Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, để lập Hội Long Hoa chọn người hiền đức.
    4/-GIÁC TỈNH: Giác: Biết. Tỉnh: Hiểu biết, thức giấc. Nghĩa rộng: Đã giác ngộ, hết mê lầm.
    SANH KỲ: Sanh: Ra đời. Kỳ: Lạ lùng, khác thường. Nghĩa rộng: Xuất hiện rất lạ lùng khó hiểu.
    TỐI: Rất, hết sức.
    DIỆU ĐA: Diệu: Tốt đẹp, khéo léo. Đa: nhiều.
    *Tóm lược ý câu “Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa”: Sự ra đời của Đức Huỳnh GiáoChủ rất diệu kỳ, sâu xa kín đáo.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Nước Việt Nam chưa thật sự tự chủ, Đức Huỳnh Giáo Chủ thừa truyền Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, để lập Hội Long Hoa chọn người hiền đức, hành động của Ngài thật là sâu xa kín đáo.

    Bài thứ năm mươi

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Bửu ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
    Sơn đài hồ hải luyện tứ phang.
    Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục,
    Hương giải thao tồi thị Bảo giang.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-BỬU NGỌC: Bửu: Quí báu. Ngọc: Những viên ngọc quí. Kinh Xuân Thu: “Đạo thiết bảo ngọc, đại cung”(Lấy trộm bảo ngọc và cung lớn). Ngày xưa hai thứ nầy đều là vật quí giá. Được lưu truyền từ đời nầy sang đời khác.
    MAI DANH: Ở ẩn để không ai biết đến mình nữa.
    NHỤC TRÀNG: Nhục: Nồng hậu. Tràng: Dài.
    *Tóm lược ý câu “Bửu ngọc mai danh ẩn nhục tràng”: Một vị Tiên trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương còn ẩn dạng.
    2/-SƠN ĐÀI: Sơn: Núi. Đài: Một kiến trúc xây dựng trên cao có thể nhìn thấy bốn phía. Nghĩa rộng: Đài trên núi, nơi các vị Tiên nhóm họp.
    HỒ HẢI: Hồ: Cái hồ. Hải: Biển. Nghĩa bóng: Có chí lớn giang hồ bốn biển.
    LUYỆN: Tập rèn cho thuần thục. Nghĩa rộng: Am hiểu.
    TỨ PHANG: Tứ: Bốn. Phang: Còn gọi là Phương: Phương hướng. Nghĩa rộng: Bốn phương hướng: Đông, Tây, Nam và Bắc.
    *Tóm lược ý câu “Sơn đài hồ hải luyện tứ phang”: Tuy vị Tiên ấy còn ẩn dạng, nhưng chí cả thì trùm khắp bốn phương.
    3/-KỲ SANH: Kỳ: Lạ lùng, khác thường. Sanh: Ra đời. Nghĩa rộng: Sự ra đời thật lạ lùng, khác thường ít thấy xảy ra.
    TẠO GIẢ: Tạo: Gây dựng, ở đầu. Giả: Từ chỉ về người. Nghĩa rộng: Người khởi tạo, dựng nên.
    THI: Thơ văn, những bài vận văn. (Văn vần).
    TRUYỀN TỤC: Truyền: Trao từ đời nầy sang đời khác, thế hệ nầy qua thế hệ khác.Tục: Cõi trần. Nghĩa rộng: Những lời lưu truyền nơi trần thế.
    *Tóm lược ý câu “Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục”: Sự ra đời và Giảng kệ của các bậc Tiên thật lạ lùng khác thường.
    4/-HƯƠNG GIẢI: Hương: Mùi thơm. Giải: Không hẹn mà gặp. Nghĩa rộng: Mùi thơm tự nhiên. Nghĩa bóng: Tiếng tăm địa vị đã có từ trước.
    THAO TỒI: Thao: Lớn mênh mông. Tồi: Đau xót. Nghĩa rộng: Rất đau đớn, xót xa trong lòng.
    THỊ: Tỏ bày, nói cho biết.
    BẢO GIANG: Bảo: Quí báu. Giang: Sông. Con sông quí báu.(1)
    *Tóm lược ý câu “Hương giải thao tồi thị bảo giang”: Hiện nay nhân sanh đang sống trong cảnh khốn khổ, lòng dạ của Đức Thầy cũng thấy xót xa. Ngài khuyến cáo hãy chờ đợi con sông quí báu, đồng nghĩa với ngày chúa Thánh ra đời.
    (1) Chúng tôi xin mở dấu ngoặc để nói về Bảo Giang: Con sông quí báu. Nơi đây sau nầy Thiên Tử sẽ xuất hiện. Sự kiện nầy đi song song với Bửu Ngọc: Viên ngọc quí, ở về phương Nam. Còn phương Bắc có thành vàng. Ông Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm) đã nói rõ:
    Bảo giang Thiên Tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Lê dân đào bảo noản
    Tứ hải lại âu ca
    ...
    Bắc hữu kim thành tráng
    Nam tạc ngọc bích thành
    (Sông bảo giang có Thiên Tử giáng
    Chẳng đánh mà tự nhiên thành
    Nhân dân chạy trốn nay về được ấm no
    Bốn phương lạc nghiệp âu ca

    Bắc phương có thành vàng
    Phương Nam có viên ngọc bích.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Vị Đại Tiên hãy còn ẩn danh chờ cơ Thiên định. Đến ngày con sông báu xuất hiện, đồng nghĩa với chúa Thánh trị vì đời Thượng Nguơn. Chừng ấy mới biết bậc ẩn danh ấy là ai.

    Bài thứ năm mươi mốt-> Bài thứ sáu mươi


    Bài thứ năm mươi mốt

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Ngũ hồ ly cấu tạn hài Tiên,
    Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên.
    Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc,
    Đa giả khứ hồi giải nghiệp duyên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-NGŨ HỒ: Tên gọi năm cái hồ lớn ở Trung Hoa: Tây Hồ và Thái Hồ (Ở giữa hai tỉnh Giang Tô và Chiết Giang), Động Đình Hồ, Sài Hồ và Phan Dương Hồ.
    Dao chơi phong cảnh ngũ hồ,
    Nước non xinh lịch bày phô thợ trời.(Cổ thi)
    LY CẤU: Ly: Hai người cùng sánh với nhau, như chữ “Ly tao”. Ly: Gặp gỡ. Tao: Lo lắng. Gặp nỗi lo lắng nên Khuất Nguyên làm khúc Ly Tao. Cấu: Kết thành. Nghĩa rộng: Nỗi lo lắng mãi canh cánh bên lòng.
    TẠN: Giáp mặt, gặp tại chỗ.
    HÀI TIÊN: Hài: Chiếc giày. Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật. Cốt tu cho được trường sanh bất lão. Nghĩa rộng: Thần thông của Tiên đi lại dễ dàng.
    *Tóm lược ý câu “Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên”: Nơi ngũ hồ thường hay gặp gỡ Tiên, báo hiệu điềm lành cho người lo tu hành chân chính.
    2/-NGUYỀN THUYẾT: Nguyền: Như chữ Nguyện: Nguyện cầu, những điều mong ước trong lòng.Thuyết: Nói cho biết. Nghĩa rộng: Mong muốn nói cho người nào đó hiểu rõ việc gì mà mình muốn truyền đạt.
    THANH DANH: Thanh: Tiếng tăm. Danh: Tên. Nghĩa rộng: Có tiếng tăm, tên tuổi trong xã hội hay cộng đồng thế giới.
    TÁC: Làm.
    THIỆN DUYÊN: Thiện: Lành. Duyên: Mối liên lạc từ kiếp trước, lưu lại kiếp sau giữa hai người.“Duyên lành rõ được Khùng Điên, Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần” (ĐHGC).
    *Tóm lược ý câu “Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên”: Gặp được Đức Huỳnh Giáo Chủ và hiểu rõ “Sứ mạng” của Ngài là tiền kiếp đã gieo duyên lành.
    3/-THẬM THÂM: Thậm: Rất. Thâm: Sâu, nồng hậu. Nghĩa rộng: Rất sâu xa, nồng hậu.
    TỐI THIỂU: Tối: Rất, nhiều. Thiểu: Ít. Nhiều ít.
    KIM TÀNG CỐC: Kim: Nay. Tàng: Ẩn dấu. Cốc: Cái hang. Nghĩa rộng: Hiện nay còn ẩn dạng.
    *Tóm lược ý câu “Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc”: Mối tương quan giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và chúng sanh rất sâu nặng, không nhiều thì ít vẫn còn chất chứa trong lòng.
    4/-ĐA GIẢ: Nhiều người, nhiều kẻ.
    KHỨ HỒI: Khứ: Đi. Hồi: Về. Đi và về. Nghĩa rộng: Trở lại.
    GIẢI: Cởi bỏ.
    NGHIỆP DUYÊN: Nghiệp: Việc mình làm.Duyên: Nguyên nhân, mối liên lạc từ kiếp trước lưu lại kiếp sau.
    *Tóm lược ý câu “Đa giả khứ hồi giải nghiệp duyên”: Nhờ có duyên lành nên qui y theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, hầu thoát ly mọi đau khổ kiếp trần ai.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Nhờ có sâu duyên cùng Đức Huỳnh Giáo Chủ nên gặp được Chánh Pháp, hầu tinh tấn tu hành cho đến ngày chứng đắc.

    Bài thứ năm mươi hai

    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
    Ngã thứ trung sanh trực thế chờ.
    Ngỡi khí yêng hùng ghi đởm lược,
    Hà giang lương thố vẽ Thiên cơ.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CANH TRÀNG: Canh: Thời gian của một phần năm đêm (Mỗi canh là hai giờ). Tràng: Dài. Nghĩa rộng: Đêm dài.
    DẠ ĐOẢN: Dạ: Ban đêm. Đoản: Ngắn. Nghĩa rộng: Đêm ngắn.
    ĐOẢN CANH SƠ: Thời gian ngắn. : Đầu. Nghĩa rộng: Đầu canh.
    *Tóm lược ý câu “Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ”: Trăn trở thức suốt thâu canh.
    2/-NGÃ THỨ: Ngã: Ta, tiếng tự xưng. Thứ: Dân chúng. Nghĩa rộng: Giữa mình và người khác.
    TRUNG SANH: Sanh ra đời giữa lúc, nhằm lúc…
    TRỰC: Thẳng.
    THẾ CHỜ: Thế: Đời. Chờ: Đợi để gặp mặt.
    *Tóm lược ý câu “Ngã thứ trung thông trực thế chờ”: Đức Huỳnh Giáo Chủ và chúng sanh hiện giờ còn phải chờ cơ Thiên định.
    3/-NGỠI KHÍ: Ngỡi: Còn gọi là Nghĩa: Việc họp với lẽ phải. Khí: Tinh thần phát lộ ra ngoài. Nghĩa rộng: Chí khí anh hùng được thể hiện bằng hành động.
    YÊNG HÙNG: Yêng: Còn gọi là Anh: Cái gì đẹp nhứt trong loài hoa cỏ. Hùng: Con vật xuất sắc nhứt trong các loài thú. Nghĩa bóng: Những kẻ xuất sắc nhất, hơn người về mọi phương diện.
    GHI: Đánh dấu, biên vào cho nhớ.
    ĐẢM LIỆT: Can đảm, cứng rắn, ngay thẳng. Không a dua nịnh bợ.
    *Tóm lược ý câu “Ngỡi khí yêng hùng ghi đảm liệt”: Người anh hùng luôn có nghĩa khí và tiết tháo.
    4/-HÀ GIANG: : Từ dùng để hỏi: Đâu, nào.Giang: Sông. Nghĩa rộng: Con sông nào ?
    LƯƠNG THỐ: Lương: Tốt lành. Thố: Con thỏ, ám chỉ mặt trăng.
    VẼ: Dùng bút mà chấm nên hình. Nghĩa bóng: Lời văn.
    THIÊN CƠ: Thiên: Trời. : Máy móc. Trời sắp đặt mọi việc như có guồng máy vận hành bí mật, người ta không thể hiểu được những gì xảy ra.
    *Tóm lược ý câu “Hà giang lương thố vẽ Thiên cơ”: Không thể hiểu được sự vận hành của tạo hóa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Con sông nào có trăng đẹp của đất trời, mà ta đang chờ đợi, và đã từng gây nên sóng gió ?

    Bài thứ năm mươi ba
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
    Vạn năng sĩ tử hiệp hòa ngôi.
    Tam thanh truyện tích ghi biên tự,
    Khán giả tận tường liệt võng khôi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-KHỞI ĐIỆU: Khởi: Còn đọc là Khỉ: Bắt đầu, nổi lên. Điệu: Qui luật của âm nhạc, đem chỗ nầy qua chỗ khác. Nghĩa rộng: Bắt đầu một sự việc hay sự kiện nào đó rất quan trọng.
    TẦM VƯƠNG: Tầm: Tìm. Vương: Vua. Nghĩa rộng: Chờ đợi Minh chủ.
    PHẬT: Bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Do câu: “Phật dã Phật Đà chi tỉnh xưng, thị giác ngộ tự tâm đạt đáo viên mãn, giả chi đức hiệu” (Chữ Phật nói cho đủ là Phật Đà, bậc đã hoàn toàn giác ngộ tự tâm, đó là danh hiệu của Ngài).
    CỔ HỒI: Cổ: Xưa. Hồi: Về, trở lại. Trước kia nay đã trở lại.
    *Tóm lược ý câu “Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi”: Đang trông đợi Phật Vương khai đời Thượng Nguơn.
    2/-VẠN NĂNG: Vạn: Một muôn, mười ngàn. Từ dùng để chỉ con số nhiều. Năng: Tài năng, giỏi. Nghĩa rộng: Có nhiều tài năng hơn người, không ai sánh kịp.
    SĨ TỬ: : Học trò. Tử: Người. Người học trò. Nghĩa bóng: Ý nói đến những người có tài năng, đức độ hơn người.
    HIỆP: Cùng nhau.
    HÒA NGÔI: Hòa: Thuận thảo. Ngôi: Thứ bậc. Nghĩa rộng: Không phân chia giai cấp.
    *Tóm lược ý câu “Vạn năng sĩ tử hiệp hòa ngôi”: Đời Thượng Nguơn không phân chia giai cấp, ngôi vị tùy theo công phu tu tập mà có.
    3/-TAM THANH: Tam: Ba. Thanh: Tiếng động. Nghĩa bóng: Ý chỉ ba tiếng sấm nổ.
    TRUYỆN TÍCH: Truyện: Ghi chép lại. Tích: Xưa lâu. Nghĩa rộng: Ghi chép những điều đã qua.
    GHI: Đánh dấu, chép vào.
    BIÊN TỰ: Biên: Ghi chép. Tự: Chữ. Nghĩa rộng: Dùng chữ để ghi lại những gì cần thiết.
    *Tóm lược ý câu “Tam thanh truyện tích ghi biên tự”: Sau nầy đến ngày chấm dứt Hạ nguơn, để lập lại Thượng Nguơn, sẽ có những hiện tượng xảy ra trong Trời đất, chẳng hạn như ba tiếng sấm nổ. “Sấm vang thì lộ bảng vàng” (ĐHGC).
    4/-KHÁN GIẢ: Khán: Xem. Giả: Đại từ thay thế người hoặc vật. Người đi xem biểu diễn. Người đi nghe diễn thuyết.
    TẬN TƯỜNG: Tận: Hết sức. Tường: Rõ ràng đến nơi, đến chốn. Nghĩa rộng: Hiểu thật chính xác, tường tận.
    LIỆT: Bày ra.
    VÕNG KHÔI: Võng: Cái lưới. Khôi: To lớn. Ví dụ như chữ “Khôi khôi”: Lồng lộng. “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọi một ai).
    *Tóm lược ý câu “Khán giả tận tường liệt võng khôi”: Người ta không ai có thể sống ngoài luật chi phối của tạo hóa. Ý nói luật Nhân quả rất công bằng, không hề thiên vị một ai. Có vay thì có trả. “Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy” (ĐHGC).

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đến ngày khai lập Thượng Nguơn, có Phật Vương trị vì để công bình thưởng phạt. Luật nhân quả thật công minh, không hề thiên vị một ai.

    Bài thứ năm mươi bốn
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Canh niên viễn lự tối thi thần,
    Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
    Nam thức quân thần cuồng Lão sĩ,
    Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CANH NIÊN: Canh: Chữ thứ 7 trong thập can.Niên: Năm, tuổi tác. Nghĩa rộng: Thời gian tính bằng con số.
    VIỄN LỰ: Viễn: Xa. Lự: Lo lắng. Nghĩa rộng: Lo xa.
    TỐI: Rất, nhiều.
    THI THẦN: Thi: Thơ, bài vận văn hay lời lẽ.Thần: Một đấng thiêng liêng (Nói về phần tinh thần). Nghĩa rộng: Bài thơ của đấng thiêng liêng hay bài thơ nói về tinh thần linh ứng.
    *Tóm lược ý câu “Canh niên viễn lự tối thi thần”: Bài thơ nói về máy trời, rất sâu xa mầu nhiệm.
    2/-KÊ THỦ: : Tra cứu, nghiên cứu. Ngoài ra còn có nghĩa: Cúi lạy cung kính. Thủ: Đầu. Nghĩa rộng: Cúi đầu sát đất để lạy.
    NHỨT TRÀNG: Nhứt: Một, đồng loại. Tràng: Một việc gì sau khi xong xuôi. Nghĩa bóng: Sự việc đã quyết định.
    VẠN ĐỊCH NHÂN: Vạn: Một muôn, mười ngàn. Từ dùng để chỉ con số nhiều. Địch: Chống đối. Nhân: Người. Nghĩa rộng: Người có sức mạnh phi thường. Nghĩa bóng: Nhiều người không chấp hành.
    *Tóm lược ý câu “Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân”: Mặc dù có nhiều người chống đối, nhưng sau cùng họ cũng phải cúi đầu thần phục.
    3/-NAM THỨC: Nam: Người đàn ông, đứa con trai. Thức: Biết. Nghĩa rộng: Người trí thức biết thời thế để hành xử.
    QUÂN THẦN: Quân: Ông vua. Thần: Tôi. Vua và tôi thần.
    CUỒNG: Người mất trí.
    LÃO SĨ: Lão: Ông già. : Từ chỉ người có học thức. Nghĩa rộng: Ông già có học thức.
    CUỒNG LÃO SĨ: Ông già mất trí. Hiểu theo quan điểm Phật Giáo Hòa Hảo: Đây là một danh xưng của Đức Huỳnh Giáo Chủ, một lối xưng danh khiêm nhượng. Nhưng Ngài cũng xác nhận: “Ta Khùng mà chẳng có cơn” hoặc “Khùng toán biết âm dương kết liễu, Khùng huyền cơ Khùng đạo Thích Ca”.
    *Tóm luợc ý câu “Nam thức quân thần cuồng Lão sĩ”: Một lối xưng danh khiêm nhượng của Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhận mình là Cuồng Lão sĩ.
    4/-CHÂU NHI PHỤC THỈ: Châu: Trọn vẹn. Nhi: Mà. Phục: Lại. Thỉ: Đầu. Cứ hết một vòng thì trở lại ban đầu. Nghĩa bóng: Sự vận hành của Tạo hóa. Hết suy tới thạnh và trái lại.
    CỔ: Xưa.
    ĐỒNG LÂN: Đồng: Cùng chung, bằng nhau. Lân: Bên cạnh. Nghĩa rộng: Gần bên cạnh nhau.
    *Tóm lược ý câu “Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân”: Trong lý Tam nguơn, hết Hạ nguơn sẽ trở lại Thượng nguơn, mọi người sẽ sống trong hòa bình, hạnh phúc.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Những lời thơ rất sâu xa mầu nhiệm, nói về đời Thượng nguơn Thánh đức. Những người chống đối cũng phải phục tòng, còn hiền đức thì được hạnh phúc.

    Bài thứ năm mươi lăm
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Bửu kiến trừng tâm dụng thể tiên,
    Sơn sanh giả kế chưởng quyền Thiên.
    Kỳ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
    Hương vị trầm thinh bí kỷ niên.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-BỬU KIẾN: Bửu: Vật quí báu. Kiến: Thấy, gặp gỡ. Nghĩa rộng: Thấy được vật quí báu.
    TRỪNG TÂM: Trừng: Răn đe. Tâm: Lòng. Nghĩa rộng: Gìn giữ tấm lòng trong sạch, không để vương theo thất tình lục dục.
    DỤNG THỂ TIÊN: Dụng: Dùng. Thể: Lối. Tiên: Trước hết. Nghĩa rộng: Việc cần làm trước hết.
    *Tóm lược ý câu “Bửu kiến trừng tâm dụng thể tiên”: Trước hết phải giữ lòng cho được sạch trong, đừng để vương theo lục dục thất tình.
    2/-SƠN SANH: Sơn: Núi. Sanh: Ra đời, đời sống. Nghĩa rộng: Vị trí, nơi phát sinh trái núi.
    GIẢ KẾ: Giả: Chỉ về người. Kế: Nối tiếp.
    CHƯỞNG: Trông coi, lòng bàn tay.
    QUYỀN THIÊN: Quyền: Như từ Quyền biến: Gặp phải sự cố, tùy lúc mà hành động, nhưng phải hợp với đạo lý. Thiên: Trời. Nghĩa rộng: Chịu mệnh trời.
    *Tóm lược ý câu “Sơn sanh giả kế chưởng quyền Thiên”: Đức Huỳnh Giáo Chủ chịu mệnh Trời (Ý nói Đức Ngọc Đế) ra đời khai đạo.
    3/-KỲ THÂM: Kỳ: Lạ lùng. Thâm: Sâu xa, huyền bí. Nghĩa rộng: Hết sức sâu xa huyền diệu.
    HẠ GIÁI: Hạ: Dưới. Giái: Vùng, cõi. Nơi người trần đang sinh sống. Nghĩa rộng: Xuống trần, lâm phàm.
    LY: Lìa, xa cách.
    ĐÀI NGUYỆT: Đài: Một kiến trúc trên cao, có thể nhìn thấy bốn phương. Nguyệt: Hình mặt trăng. Nghĩa rộng: Nơi các Tiên ở.
    *Tóm lược ý câu “Kỳ thâm hạ giái ly đài nguyệt”: Sứ mạng lâm phàm của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất sâu xa huyền bí, khó mà hiểu cho thấu đáo.
    4/-HƯƠNG VỊ: Hương: Mùi thơm. Vị: Mùi. Mùi thơm tho. Nghĩa bóng: Đạo lý cao sâu, mầu nhiệm vô cùng.
    TRẦM THINH: Trầm: Ẩn giấu. Thinh: Tiếng. Nghĩa rộng: Giấu tiếng.
    : Kín đáo, không lộ ra, không thể lường được.
    KỶ NIÊN: Kỷ: Mấy. Niên: Năm. Mấy năm. Nghĩa rộng: Nhiều năm.
    *Tóm lược ý câu “Hương vị trầm thinh bí kỷ niên”: Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã mấy thập niên vừa qua.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã mấy thập niên qua. Ngài có sứ mạng lập Hội Long Hoa, chọn người hiền để phò chơn chúa.

    Bài thứ năm mươi sáu
    DIỆT TIỀN KHIÊN


    Bồng Lai như khứ khổ nan truyền,
    Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.
    Quốc thủy đài chương trung liệt cổ,
    Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    DIỆT: Làm cho nó mất đi.
    TIỀN KHIÊN: Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm. Những lỗi lầm trước kia đã gây ra.
    1/-BỒNG LAI: Còn gọi Bồng Hồ, tên hòn đảo Tiên ở trong biển. Cùng với Phương Trượng (Phương Hồ) và Doanh Châu (Doanh Hồ) là hòn đảo Tiên. Ba hòn nầy hình giống bầu rượu (Hồ: Bầu rượu). Nghĩa rộng: Nơi Tiên ở.
    NHƯ KHỨ: Như: Giống như, đi đến một nơi nào. Khứ: Những gì đã qua. Nghĩa rộng: Việc xưa, chuyện đã qua.
    KHỔ: Chịu khó nhọc, lo lắng.
    NAN TRUYỀN: Nan: Khó khăn. Truyền: lưu lại. Người nầy trao cho người khác. Nghĩa rộng: Khó gìn giữ để lưu lại.
    *Tóm lược ý câu “Bồng lai như khứ khổ nan truyền”: Nói đến cõi Tiên người ta khó tin, vì đó là chuyện xa xưa.
    2/-CẢM TÁC: Cảm: Xúc động. Tác: Làm, viết. Nghĩa rộng: Do ngoại cảnh tác động mà viết ra.
    QUYỀN HỒ: Quyền: như quyền biến, hành động dùng lúc gặp sự cố, nhưng phải hợp lẽ phải. Hồ: Sao ?
    TỐ: Vốn sẵn.
    THIỆN DUYÊN: Thiện: Lành. Duyên: Mối liên lạc từ kiếp trước, lưu lại kiếp sau. Nghĩa rộng: Sự may mắn, duyên lành.
    *Tóm lược ý câu “Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên”: Vì xúc động nên mới sáng tác. Cũng như có duyên làn nên được hiểu biết, gặp gỡ.
    3/-QUỐC THỦY: Quốc: Nước. Thủy: Ở đây còn có nghĩa là Thổ: Đất. Nghĩa rộng: Đất nước.
    ĐÀI CHƯƠNG: Hay là Chương Đài, tên một con đường ở Trường An bên Trung Hoa. Đời Đường, Hàng Hoành lấy một người kỷ nữ tên Liễu ở Chương đài. Hàng Hoành làm quan xa, Liễu ở nhà bị tướng Phiên cướp đi. Ba năm sau Hàng Hoành và Liễu mới được đoàn tụ. Lúc xa cách, Hoành gởi cho Liễu một bức thơ, trong ấy có những câu: “Chương đài liễu tích nhật thanh thanh kim tại phủ ? Giả ưng phan chiết tha nhơn thủ” (Liễu chương đài ngày xưa xanh xanh nay còn chăng ? Hay tay người khác đã bẻ mất rồi). Dùng để tỏ sự lưu luyến, mà cũng có ý thầm trách móc.
    Khi về hỏi liễu chương đài,
    Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay (Kiều).
    TRUNG LIỆT: Trung: Hết lòng với vua, với nước. Liệt: Ngay thẳng. Nghĩa rộng: Một mực trung quân ái quốc.
    CỔ: Xưa, lâu.
    *Tóm lược ý câu “Quốc thủy đài chương trung liệt cổ”: Ân quốc vương thủy thổ, từ xưa tới nay có bao người lo cho trọn vẹn.
    4/-TRẦN GIAN: Trần: Bụi bặm, cõi đời chúng ta đang ở. Gian: Khoảng giữa. Nghĩa rộng: Cõi chúng sanh đang sống.
    NGÃ ĐÁO: Ngã: Ta, tiếng tự xưng. Đáo: Đến. Nghĩa rộng: Ta đã có mặt.
    DIỆT: Làm cho mất hết.
    TIỀN KHIÊN: Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm. Nghĩa rộng: Những lỗi lầm mà trước kia đã gây nên, kết thành.
    *Tóm lược ý câu “Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên”: Đức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm để dìu dắt chúng sanh vào con đường chân chính, lìa bỏ những tội lỗi xấu xa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Trung quân ái quốc là nền tảng của đạo nhân luân. Nếu xuất xử trọn vẹn sẽ được sống đời Thượng Nguơn, thoát ra khỏi nghiệp chướng trần gian.

    Bài thứ năm mươi bảy
    DIỆT TIỀN KHIÊN (tt)


    Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn,
    Danh Tiên liễu bá định hồi yên.
    Vị phi lai tục đa ưu lự,
    Sơn hải điền viên tất tảo nan.

    Hòa Hảo, tháng giêng, năm Canh thìn (1940)

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/- VẠN LÝ: Vạn: Một muôn, mười ngàn. Từ dùng để chỉ con số nhiều. : Một dặm đường. Nghĩa rộng: Đường dài. (Tính theo Anh quốc: 1 dặm là 1609 thước – mille – Anglais. Tính theo Pháp quốc: 1 dặm là 1852 thước – Mille marin - Francais).
    TRƯỜNG ĐỒ: Trường: Dài. Đồ: Đường. Con đường dài.
    MỘ: Mến.
    NHỨT SƠN: Nhứt: Cùng nhau. Ví dụ: Nhứt tâm: Đồng lòng với nhau hay một lòng một dạ. Sơn: Núi (Ám chỉ Thất sơn).
    *Tóm lược ý câu “Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn”: Con đường đi đến đời Thượng Nguơn rất dài.
    2/-DANH TIÊN: Danh: Tên. Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật, cốt tu cho được trường sanh bất lão. Nghĩa rộng: Tên một vị Tiên đã đắc đạo.
    LIỄU BÁ: Liễu: Xong, đã. : Người lớn nhứt trong các chư hầu, hoặc một trong năm tước ngày xưa vua ban: Công, Hầu, Bá, Tử và Nam. Nghĩa rộng: Đã có tên tuổi, ngôi vị từ lâu.
    ĐỊNH: An ninh, trật tự.
    HỒI YÊN: Hồi: Quay trở lại. Yên: An ổn. Nghĩa rộng: Trở lại như xưa, lúc nào cũng bình an vô sự.
    *Tóm lược ý câu “Danh tiên liễu bá định hồi yên”: Tên của ông Tiên ấy đã có ngôi vị.
    3/-VỊ PHI: Vị: Vì. Phi: Không đúng, chẳng phải. Nghĩa rộng: Không phải như vậy hay chẳng phải như vậy.
    LAI TỤC: Lai: Trở lại. Tục: Cõi chúng ta đang ở. Nghĩa rộng: Sống tại thế gian hay lâm phàm, xuống thế.
    ĐA: Nhiều.
    ƯU LỰ: Lo nghĩ.
    *Tóm lược ý câu “Vị phi lai tục đa ưu lự”: Vì ở tại cõi thế gian, nên còn nhiều điều lo nghĩ.
    4/-SƠN HẢI: Sơn: Núi. Hải: Biển. Núi và biển.
    ĐIỀN VIÊN: Điền: Ruộng. Viên: Vườn. Ruộng vườn.
    TẤT TẢO NAN: Khó tồn tại được.
    *Tóm lược ý câu “Sơn hải điền viên tất tảo nan”: Cảnh vật như núi, biển, ruộng và vườn không thể tồn tại.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Con đường tiến đến Thượng Nguơn thời đại rất dài và khó khăn. Nay đã có vị Tiên đắc đạo lâm phàm, nhắc nhở cho mọi người biết, cảnh sắc cõi thế gian không thể tồn tại.

    Bài thứ năm mươi tám

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC

    Để chơn đất Bắc Thầy trò,
    Dân còn quê kịch hát hò nghêu ngao.
    Xóm làng Đồng Thạnh xôn xao,
    Cùng nhau bàn tán khác nào trong Nam.
    Chúng dân tựu ngũ tùng tam,
    Kẻ ma người mị kẻ ham người cười.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    ĐẤT BẮC: Còn gọi Bắc Bộ, Bắc Phần hay Bắc Kỳ. Nước Việt Nam trước kia chia làm ba miền: Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần. Còn gọi là ba Kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là sự phân chia của người Pháp. Đất Bắc: Tức là Miền Bắc nước Việt Nam.
    THẦY TRÒ: Nghĩa của chữ Sư đồ. Đức Huỳnh Giáo Chủ và đệ tử của Ngài. “Thầy là Huệ Lựu tớ là Huệ Tâm” (ĐHGC).
    DÂN: Từ chỉ chung cho mọi người cùng sống trong quả địa cầu.
    QUÊ KỊCH: Quê: Mộc mạc, chất phác. Kịch: Như chữ kệch: Thô. Nghĩa rộng: Người dân còn mộc mạc, kém mở mang dân trí.
    HÁT HÒ: Một điệu hát bình dân, có âm tiết đơn giản đều đều, hoặc là theo điệu hát khi chèo đò.
    NGHÊU NGAO: Vơ vẩn, không chủ đích nhất định. Ví dụ: Nghêu ngao suốt ngày.
    XÓM LÀNG: Như từ Ấp, Xã bây giờ.
    ĐỒNG THẠNH: Một địa danh ở miền Bắc. Ngày xưa là Làng Đồng Thạnh, nay là Xã Đồng Thành (Bắc Giang).
    XÔN XAO: Rộn rịp, ồn ào. “Xôn xao oanh yến, dập dìu trúc mai” (Kiều).
    BÀN TÁN: Bàn ra tán vô. Bày tỏ ý kiến dông dài.
    TRONG NAM: Tức miền Nam, Việt Nam.
    CHÚNG DÂN: Chúng: Nhiều người. Dân: Người dân. Nghĩa rộng: Nhiều người dân cùng sinh sống trong một quốc gia hay thế giới.
    TỰU NGŨ: Họp năm.
    TÙNG TAM: Kéo ba.
    TỰU NGŨ TÙNG TAM: Chia thành từng nhóm.
    KẺ MA, NGƯỜI MỊ: Kẻ thì khôn lanh, xảo quyệt. Người thì nịnh hót tâng bốc.
    KẺ HAM, NGƯỜI CƯỜI: Kẻ thì tham lam, người thì chê bai khinh dễ.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ra Bắc. Xứ nầy ngày xưa dân trí còn thấp, dân chúng mộc mạc chất phác.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Làng nầy đông đúc nhiều người,
    Dân tình cũng được đôi mươi tu hành.
    Nhiều người già cả lòng lành,
    Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa.
    Tới đâu cũng ít người ưa,
    Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ dành.
    Trưng bày tích cũ đành rành,
    Thiên cơ đạo đức tu hành phận tôi.
    Dân quê nghe nói hỡi ôi !
    Hung đồ cường nghịch một hồi cười reo.
    Dâu đây mà có hùm beo,
    Khéo bày bá láp nghe theo làm gì.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    ĐÔNG ĐÚC: Nhiều người ở.
    DÂN TÌNH: Tình cảnh của người dân hay tình cảm của người dân.
    ĐÔI MƯƠI: Hai mươi. Con số ít.
    TU HÀNH: Tu: Sửa đổi, chỉnh đốn lại cho được hoàn hảo, tốt đẹp. Hành: Làm theo. Nghĩa rộng: Theo một Giáo Lý của Tôn giáo mà mình đã qui y, để trở nên người lương thiện.
    GIÀ CẢ: Nghĩa của chữ Niên Lão hay Lão trượng. Nghĩa rộng: Người có tuổi tác.
    LÒNG LÀNH: Nghĩa của chữ Thiện tâm.
    KỲ LÃO: Người già cả, có tuổi tác và đức độ, tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    TÍCH XƯA: Tích: Sự tích xảy ra đã lâu, chuyện trước kia. Xưa: Thời đã qua. Những câu chuyện đã xảy ra trước đó.
    CA HÁT: Hát theo nhịp điệu. Tùy theo nội dung mà ra bộ cho ăn nhịp.
    SỚM TRƯA: Suốt buổi.
    DỖ DÀNH: Vỗ về và dành riêng ra để cho ai. Vỗ về an ủi một người nào.
    TRƯNG BÀY: Trưng: Chứng cớ. Bày: Phô trương, sắp đặt. Nghĩa rộng: Có bằng chứng rõ ràng.
    TÍCH CŨ: Như chữ tích xưa.
    ĐÀNH RÀNH: Rõ ràng, minh bạch.
    THIÊN CƠ: Thiên: Trời. : Máy móc. Trời sắp đặt mọi việc như có cả một guồng máy vận hành bí mật, mọi người không thể biết được những gì xảy ra.
    ĐẠO ĐỨC: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải, bổn phận phải đền đáp. Đức: Tâm lành. Nghĩa rộng: Việc làm tốt đẹp hay con đường của tâm lành.
    HỠI ÔI: Như tiếng Than ôi ! Lời than vãn.
    HUNG ĐỒ: Hung: Ác độc. Đồ: Bọn. Bọn hung tàn, bạo ác.
    CƯỜNG NGHỊCH: Cường: Mạnh mẽ. Nghịch: Trái ngược. Nghĩa rộng: Ỷ sức mạnh hiếp yếu.
    HÙM BEO: Hai loại thú dữ, ăn thịt người.
    BÁ LÁP: Như chữ Ba láp: Bậy bạ, không đáng kể, không ăn nhập vào đâu.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Đức Huỳnh Giáo Chủ đã đến làng Đồng Thạnh (Bắc Bộ), nơi đây dân chúng chưa mở mang dân trí, tánh tình chất phác.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Thấy trong lê thứ cũng kỳ,
    Đi đâu cũng bị dân tì ghét vơ.
    Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,
    Trị chơi ít bịnh ngẩn ngơ xóm riềng.
    Cũng không thèm trọng bạc tiền,
    Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi.
    Bắc Kỳ dân ít mép môi,(1)
    Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê hề.
    Thương dân nên chịu nặng nề,
    Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.
    Tớ Thầy nào nệ cần lao,
    Thương dân dạy dỗ xiết bao nhọc nhằn.


    (1) Có bản chép: “Bắc Kỳ dân lắm mép môi”.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LÊ THỨ: : Dân đen. Dân chúng đông đúc, mọi người dân đều đầu đen máu đỏ.Thứ: Dân chúng. Nghĩa rộng: Mọi người cùng sống trong quả địa cầu.
    GHÉT VƠ: Không ưa, cố ý xua đuổi.
    CÒN MƠ: Hiểu một cách mập mờ. Nửa tin nửa ngờ.
    TRỊ CHƠI ÍT BỊNH: Chữa trị cho vài bệnh nhân mắc chứng nan y, lành bệnh mà không lấy tiền.
    NGẨN NGƠ: Ngạc nhiên, ngơ ngác. Như chuyện không có thật, mà có thật xảy ra trước sự chứng kiến của nhiều người.
    XÓM RIỀNG: Như chữ xóm giềng: Xóm: Một phần của làng (cũng như hiện giờ là ấp). Giềng: Lân cận. Những người sống gần nhau. Ngoài ra từ Xóm giềng cũng như Láng diềng: Những người sống chung quanh mình. “Bà con xa không bằng láng diềng gần” (Tục ngữ).
    NGƯỜI HIỀN: Người có tài đức và phẩm hạnh. Không còn ham muốn của thế gian.“Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền”( ĐHGC).
    BẮC KỲ: (Xem Đất Bắc).
    DÂN: Người dân. Nói chung những người sống trong trái đất.
    ÍT MÉP MÔI: Ít: Không nhiều. Mép môi: Đầu môi chót lưỡi, tìm đủ cách nói để cho người ta tin mà nghe theo. Nghĩa rộng: Ít gian ngoa, xảo quyệt.
    CÚNG KIẾNG: Cúng: Dâng lên để thờ phụng. Kiếng: Dâng lên. Cúng lễ chánh thức, cùng các mâm dâng lên các bậc khác đáng được hưởng gọi là Kiếng.
    CHÈ XÔI: Hai thứ đều làm bằng nếp. Chè: Nếp xay thành bột trộn đường, vò viên tròn, nhân bằng đậu xanh ướp nước dừa nấu chín. Xôi: Nếp hấp chín. Theo các lễ cúng trong dân gian vào những ngày “Sóc vọng” đều có chè xôi.
    Ê HỀ: Tràn trề, thừa thải.
    NẶNG NỀ: Bị sức ép đè nén cả hai mặt, vật chất lẫn tinh thần.
    LỜI ĂN TIẾNG NÓI: Những lời gièm pha, những câu bóng gió chỉ trích.
    THẤP CAO: Thấp: Kém, thiếu trí. Cao: Hơn người. Nghĩa bóng: Nói những lời ỷ ngôn, thiếu văn hóa.
    CẦN LAO: Siêng năng; khó nhọc.
    DẠY DỖ: Chỉ dạy và khuyến khích động viên.
    NHỌC NHẰN: Mệt mỏi kéo dài.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Người ta chưa tin tưởng, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ phải dùng huyền diệu của Tiên gia chữa lành bệnh để gây sự chú ý của dân chúng. Ngài cũng cho biết dân quê còn mê tín dị đoan, tin theo những tục lệ lỗi thời.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam cang trung trực người rằng ngu si.
    Viết ra mới bốn bài thi,
    Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên.
    Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,
    Nhắc ta nhiều khúc Rồng Tiên Hồng Bàng.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    NGŨ LUÂN: Ngũ: Năm. Luân: Đạo thường ở đời, lẽ đương nhiên ở đời. Mạnh Tử:“Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu tín”(Cha con có tình thân, Vua tôi có nghĩa, vợ chồng có phân biệt, anh em có trật tự, bằng hữu lấy đức tin làm trọng). Nghĩa rộng: Đạo nhân mà con người phải xuất xử.
    LỄ NGHĨA: Lễ: Cử chỉ bày tỏ lòng kính trọng. Nghĩa: Việc làm đúng theo lẽ phải. Nghĩa rộng: Phép tắc hợp với lẽ phải của xã hội, mọi người phải tuân theo.
    NĂM HẰNG: Còn gọi Ngũ thường: Năm việc làm hằng ngày đối với mọi người: Nhơn, nghĩa, lễ, trí và tín.
    TAM CANG: Còn gọi Tam cương. Ba giềng mối: Quân thần cang, Phụ tử cang và Phu thê cang. Nghĩa rộng: Ba mối quan hệ trong đạo làm người: Vua tôi, Cha con và Chồng vợ.
    TRUNG TRỰC: Trung: Hết lòng với vua. Trực: Ngay thẳng. Nghĩa rộng: Ngay thẳng một lòng một dạ.
    NGU SI: Khờ khạo, mê muội. Không biết phân biệt phải trái.
    BỐN BÀI THI: Bốn bài vận văn, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết theo thể “Thất ngôn tứ tuyệt” trong bài Để chơn đất Bắc. Mở đầu câu thứ nhứt:
    Nam thiền vô ngại đại Hoành sơn”…
    Và câu thứ mười sáu:
    Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa”.
    TRẦN THẾ: Trần: Bụi bặm. Thế: Đời. Cõi đời đầy bụi bặm nhớp nhơ. Nghĩa rộng: Cõi chúng ta đang ở.
    THẦN TIÊN: Thần: Trời đất sinh ra vạn vật. Vật đều có chủ với tính cách thiêng liêng gọi là Thần. Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật. Cốt tu cho đặng trường sanh bất lão. Theo Phật Giáo: Bậc đã chứng đắc quả Tiên là thoát khỏi vòng sanh tử.
    KHÙNG ĐIÊN: Một danh xưng khiêm nhượng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    NHIỀU KHÚC: Nghĩa bóng: Nhiều sự kiện, lịch sử. Hay nhiều giai đoạn sự kiện, lịch sử.
    RỒNG TIÊN HỒNG BÀNG: Rồng Tiên: Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sanh ra cái bọc, nở một trăm người con. Năm mươi người theo cha xuống biển (Gọi là Rồng). Năm mươi người theo mẹ lên non (Gọi là Tiên). Do đó mới gọi là Rồng Tiên. Hồng Bàng: Sanh ra Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên của nước Việt Nam (Ngày xưa gọi là Văn Lang). Hồng Bàng chính là Thỉ Tổ của dân tộc Việt, gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là “Hồng Lạc”, tức Tổ Tiên của người Việt.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc nhở mọi người về nguồn gốc Tổ Tiên của dân tộc ViệtNam. Chính là con Rồng cháu Tiên.

    Bài thứ năm mươi chín

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nam thiền vô ngại đại Hoành sơn,
    Nhiên khước hành vi kỷ khách hườn.
    Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
    Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-NAM THIỀN: Nam: Phương Nam. Thiền: Một trong mười Tông của Phật Giáo. Nghĩa rộng: Phật Giáo đã du nhập vào miền Nam Việt Nam.
    VÔ NGẠI: : Không. Ngại: Ngăn trở. Không có gì ngăn cách. Nghĩa rộng: Như từ Phật trí: Gọi là Vô ngại trí (Trí huệ của Phật thông suốt, không có gì ngăn trở được).
    ĐẠI: To lớn.
    HOÀNH SƠN: Tên một dãy núi ở giữa hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, có một cửa ải gọi là Hoành Sơn Quan. Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn thị Ngọc Bảo, giúp lời với Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa, được Trịnh Kiểm chấp thuận, Nguyễn Hoàng cho người ra tận Hải Dương, nơi Bạch Vân Am xin ý kiến của cụ Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Cụ không trả lời dứt khoát, nhân đang đứng ngắm đàn kiến đang bò quanh hòn non bộ, cụ lấy tay chỉ vào hòn giả sơn mà nói: “Hoành sơn nhứt đái vạn đại dung thân” (Dãy núi Hoành Sơn có thể dùng làm nơi yên thân đến muôn đời). Đúng như lời tiên tri ấy, Nguyễn Hoàng nhờ đó mà dựng nghiệp lâu dài cho dòng dõi nhà Nguyễn sau nầy.
    *Tóm lược ý câu “Nam thiền vô ngại đại Hoành sơn”: Đạo của ta (ám chỉ Đạo Phật), không như ngọn Hoành Sơn làm cản trở bước đi của nhiều người.
    2/-NHIÊN KHƯỚC: Nhiên: Như, nhưng mà, vậy thì…Khước: Không nhận. Nghĩa rộng: Xác định không nhìn nhận.
    HÀNH VI: Việc làm của một người nào.
    KỶ: Mấy.
    KHÁCH HUỜN: Khách: Người khách, người từ phương xa đến. Huờn: Trở lại. Nghĩa rộng: Người từ xa đến địa phương của mình. Hoặc người không phải ở tại địa phương.
    *Tóm lược ý câu “Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn”: Nhưng mà có bao nhiêu người đi đến đó, rồi thụt lùi trở lại.
    3/-TÂN TẠO: Tân: Mới. Tạo: Làm nên, lập ra. Nghĩa rộng: Mới xây dựng, mới làm nên.
    HUYỀN SANH: Huyền: Sâu xa, kín đáo. Sanh: Ra đời. Nghĩa rộng: Sự ra đời một cách khác thường.
    HỒI: Quay trở lại.
    CHÂU NGỌC: Châu: Hạt trai. Ngọc: Viên ngọc. Nghĩa rộng: Những vật, thứ quí giá.
    *Tóm lược ý câu “Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc”: Đức Huỳnh Giáo Chủ có sứ mạng khai đạo, dẫn dắt chúng sanh tu hành để trở thành con người hiền lương đức hạnh.
    4/-HỮU NHỰT: Hữu: Có. Nhựt: Ngày. Nghĩa rộng: Có một ngày nào đó.
    TIÊN THẦN: Tiên: Bậc tu trên núi, có phép thuật. Cốt tu cho được trường sanh bất lão. Thần: Đấng linh thiêng do trời đất lập nên hay bậc trung hiếu lưỡng toàn, khi chết được sắc phong hay dân chúng tôn trọng thành thần.
    HIỆP: Cùng chung.
    LUYỆN ĐƠN: Luyện: Tinh chế. Đơn: Còn gọi Đan: Thuốc viên. Nghĩa rộng: Nấu thành thuốc để chữa bệnh cho mọi người. Nghĩa bóng: Cùng nhau đem đạo lý phổ truyền, để dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu thoát ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
    *Tóm lược ý câu “Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn”: Có ngày các vị Thần Tiên cũng về đây hội hiệp.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cửa đạo ở phương Nam không như ngọn Hoành Sơn, chắn bước đi của con người. Thế mà có biết bao người chồn bước. Hãy trở lại đời sống mới, rồi đây sẽ có Thần Tiên hiệp mặt.

    Bài thứ sáu mươi

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Vân vân bạch bạch thức sinh thần,
    Cổ quán thôn hương nhứt dị nhân.
    Tiên sinh hiện kiếp phò Lê chúa,
    Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-VÂN VÂN: Vân: Mây. Nghĩa rộng: Mây và mây. Mây lồng mây. Nghĩa bóng: Khoảng không gian huyền ảo.
    BẠCH BẠCH: Bạch: Trắng. Nghĩa rộng: Sáng. Sáng và sáng. Nghĩa bóng: Thanh thiên bạch nhựt. Rất sáng suốt.
    THỨC: Biết.
    SINH THẦN: Sinh: Ra đời, đời sống. Thần: Tinh thần, phần thiêng liêng của con người (nói về sức mạnh của tinh thần). Nghĩa rộng: Phần tâm linh của con người.
    *Tóm lược ý câu “Vân vân bạch bạch thức sinh thần”: Nói về sự ra đời của bậc đại đức, có một sức mạnh tinh thần vô biên (Ở đây muốn nhắc đến nơi ẩn cư của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm).
    2/-CỔ QUÁN: Cổ: Xưa. Quán: Quê ở nhiều nơi. Nghĩa rộng: Chỗ ở trước kia, như nguyên quán.
    THÔN HƯƠNG: Thôn: Xóm. Hương: Làng, Nghĩa rộng: Xóm làng.
    NHỨT: Đứng đầu.
    DỊ NHÂN: Dị: Lạ thường. Nhân: Người. Người khác thường.
    *Tóm lược ý câu “Cổ quán thôn hương nhứt dị nhân”: Nguyên quán của bậc dị nhân (Ý chỉ cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại (Hải Dương) (1)
    (1) Chúng tôi xin mở dấu ngoặc để nói rõ về sự liên quan giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và Cụ Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Trong bài thi của ông Huỳnh Hiệp Hòa vấn Đức Thầy, câu thứ bảy và thứ tám:
    Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
    Tứ minh tam hiệu hiển văn chương.
    (Thơ hỏi xin cho biết một trong ba vị: Trạng Trình, Cử Đa và Đề Thám, mà ông đã nói đến trong văn thơ).
    Trong bài thơ đáp họa, cũng hai câu thứ bảy và thứ tám, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết:
    Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
    Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương”.
    (Hơn ba trăm năm về trước mới thật là bút hiệu của ta. Trước kia là quan nhứt phẩm trong viện Hàn Lâm, đã sáng tác một ngàn bài thơ).
    Cụ Trạng Trình tộc danh là Nguyễn Bỉnh Khiêm, sanh năm Tân Hợi (1491), mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585). Nguyên quán làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại (Hải Dương). Ông có hiệu tự là Bạch Vân Cư Sĩ, trong sự nghiệp văn chương, ông đã trước tác cả ngàn bài văn, bao gồm mọi thể loại. Điển hình hai tác phẩm “Bạch Vân Thi Tập” và “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi”.
    Nếu tính vào thời điểm Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai đạo, ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), trừ đi năm mất của cụ Trạng trình (1585), ta thấy:
    Năm 1939 – 1585 = 354 năm.
    Chính vì thế mà Đức Huỳnh Giáo Chủ xác nhận:
    “Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
    Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương”.

    Đồng thời, Ngài cũng khẳng định trong câu đáp họa bài thi vấn của ông Chín Diệm:
    “Trình Mỗ ngộ kim khuê cổ địa” (Ta là Trạng Trình ở đất xưa. Ý nói làng Cổ Am, huyện Vĩnh Liạ, tỉnh Hải Dương).
    3/-TIÊN SINH: Tiên: Trước. Sinh: Ra đời. Những người sinh ra trước, lớn tuổi mà ta kính trọng. Nghĩa bóng: Ám chỉ cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
    HIỆN KIẾP: Hiện: Trong lúc nầy, bây giờ. Kiếp: Thời gian dùng thông thường đối với một đời người. Nghĩa rộng: Lúc còn sanh tiền.
    PHÒ: Giúp đỡ, hỗ trợ.
    LÊ CHÚA: Nhà Lê, bắt đầu từ triều đại của vua Lê Uy Mục trở về sau, vận nước dần dần suy yếu. Mạc Đăng Dung nhân đó mới tiếm vị, lập ra nhà Mạc. Lúc bấy giờ cụ Trạng Trình, vốn biết trước nhà Lê có ngày sẽ được trung hưng, và cũng muốn trọn đạo với nhà Lê, ông không chịu xuất chính. Nhưng vì tình thế bắt buộc, nên ông mới đi thi đỗ đạt và ra làm quan với nhà Mạc. Nhưng vì có sự bất hòa, nên ông về trí sĩ, trong khi đó vẫn nhớ về nhà Lê và nuôi hy vọng phục hưng Lê nghiệp.
    *Tóm lược ý câu “Tiên sinh hiện kiếp phò Lê chúa”: Lúc sinh thời cụ Trạng Trình vẫn tôn thờ Lê chúa, cũng như gặp lúc suy vong, ông luôn nhớ về nhà Lê và nuôi hi vọng phục hưng.
    4/-HẬU TRUYỀN: Hậu: Sau. Truyền: Trao cho. Nghĩa rộng: Sau nầy, về sau.
    ĐỘ CHÚNG: Độ: Cứu giúp. Chúng: Tất cả, đông đúc. Nghĩa rộng: Cứu giúp mọi người.
    CẢM: Tâm ứng với ngoại vật mà động. Nghĩa rộng: Xúc động.
    HOÀI ÂN: Hoài: Tưởng nhớ, mang trong lòng. Ân: Ơn. Nhớ ơn.
    *Tóm lược ý câu “Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân”: Sau nầy (Đức Huỳnh Giáo Chủ) ra đời khai đạo, cứu giúp mọi người thoát khỏi hoạn nạn tai ương. Ân đức đó sẽ được thế nhân ghi nhớ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và cụ Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm) có sự liên hệ mật thiết: Cùng tôn thờ Lê Chúa và vì dân mà phục vụ, vì nước mà dám quên mình. Đức ân đó đáng được hậu thế ghi nhớ.

    Bài thứ sáu mươi mốt-> Bài thứ bảy mươi


    Bài thứ sáu mươi mốt

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Liên hồng cảm kích vĩ long tuyền,
    Đồng Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
    Kiển sám truyền danh lưu hậu thế,
    Nam Việt trung thần đệ nhứt Tiên.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-LIÊN HỒNG: Liên: Hoa sen. Hồng: Màu đỏ. Hoa sen màu đỏ. Nghĩa bóng: Hoa sen to lớn ở Tây Vức (Tây Phương Cực Lạc), nơi mà linh hồn được vãng sanh, thần thức nhập vào hoa sen (gọi là thai sen), sau đó được nở ra lớn nhỏ, tùy theo công đức tu tập của mỗi người.
    CẢM KÍCH: Cảm: Xúc động. Kích: Nước bắn lên. Nghĩa rộng: Xúc động mạnh.
    : To lớn, người ta dùng từ Vĩ đại để nói đến một nhân vật hay một sự kiện quan trọng, lớn lao.
    LONG TUYỀN: Long: Mạch núi hay tên một thanh gươm. Tuyền: Suối. Nghĩa rộng: Vượng khí thiêng của một nơi nào. Ngoài ra Long tuyền có thể là: Tên một thanh gươm quí. Trương Hoa nhìn thấy giữa khoảng sao Ngưu và sao Đẩu có ánh sáng rực rỡ màu tím, liền hỏi Lôi Hoán đó là điềm gì ? Lôi Hoán bảo đó là ánh sáng của thanh gươm quí, chiếu từ huyện Phong Thành. Trương Hoa liền bổ Lôi Hoán làm Tri Huyện nơi ấy. Sau đó, Lôi Hoán đào ở dưới đất gặp cái hòm bằng gỗ, trong ấy có hai thanh gươm khắc chữ “Long Tuyền” và “Thái A”. Lôi Hoán đem dâng cho Trương Hoa thanh kiếm Thái A, còn Long Tuyền thì giữ lại bên mình. Sau khi đào được hai thanh kiếm rồi, ánh sáng giữa sao Ngưu và sao Đẩu cũng biến mất.
    *Tóm lược câu “Liên hồng cảm kích vĩ long tuyền”: Người chứng đắc liên hoa hóa thân, hội đủ công đức được về cõi Tây Phương Cực Lạc.
    2/-ĐỒNG THẠNH: Một làng ngày xưa ở miền Bắc. Ngày nay là xã Đồng Thành, tỉnh Bắc Giang.
    HÀNG KỲ: Hàng: Lớp người. Kỳ: Ám chỉ mấy kỳ lão. Nghĩa rộng: Lớp người cao niên.
    TÁC: Làm.
    THIỆN DUYÊN: Thiện: Lành. Duyên: Mối liên lạc từ kiếp trước lưu lại kiếp sau.
    *Tóm lược ý câu “Đồng Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên”: Đức Huỳnh Giáo Chủ đến làng Đồng Thạnh (Bắc Bộ), để gieo duyên lành với mọi người.
    3/-KIỂN SÁM: Như chữ Kinh sám: Sách của Thánh Hiền.
    TRUYỀN DANH: Truyền: Trao lại, để lại từ nơi nầy sang nơi khác. Thế hệ nầy qua thế hệ khác. Danh: Tên. Nghĩa rộng: Lưu danh hậu thế.
    LƯU: Để lại.
    HẬU THẾ: Hậu: Sau. Thế: Đời. Nghĩa rộng: Đời sau.
    *Tóm lược ý câu “Kiển sám truyền danh lưu hậu thế”: Những lời dạy của Thánh Hiền được lưu lại từ đời nầy sang đời khác.
    4/-NAM VIỆT: Quốc hiệu nước Việt Nam vào thời nhà Triệu (206-211 trước TL), thời nhà Nguyễn gọi Nam Việt là miền Nam nước Việt Nam. Thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ. “Nam Việt cúi lòn dài dặm dặc”( ĐHGC).
    TRUNG THẦN: Trung: Hết lòng với vua, với nước. Thần: Bề tôi. Nghĩa rộng: Bề tôi trung quân ái quốc.
    ĐỆ NHỨT TIÊN: Đứng đầu trong hàng Tiên phẩm.(Theo quan điểm của Phật Giáo Hòa Hảo, có thể hiểu câu “Nam Việt trung thần đệ nhứt Tiên”, đó là ám chỉ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực).

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết, bậc trung hiếu lưỡng toàn sẽ có quả vị xứng đáng, xưa nay sách Thánh hiền đều ghi chép như thế.

    Bài thứ sáu mươi hai
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc hà,
    Cổ súy lương thần vịnh phong ca.
    Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
    Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-NHÂN DANH:Nhân: Người. Danh: Tên. Nghĩa rộng: Tộc danh của một người nào đó.
    LY BIỆT: Ly: Chia lìa. Biệt: Chia cắt. Nghĩa rộng: Xa cách nhau.
    NGẠN: Bờ. Nghĩa rộng: Ranh giới.
    BẮC HÀ: Bắc: Miền Bắc. : Sông. Nghĩa rộng: Con sông miền Bắc.
    NGẠN BẮC HÀ: Bờ sông phía Bắc. Ngày xưa trước năm (1975), nước Việt Nam chia ra hai miền: Bắc Phần (Bắc Kỳ) và Nam Phần (Nam Kỳ). Lấy sông Bến Hải làm giới hạn.
    *Tóm lược ý câu “Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc hà”: Người vốn ở miền Bắc, nhưng đã rời khỏi quê hương mình.
    2/-CỔ SÚY: Cổ: Đánh trống. Súy (Xúy): Thổi. Nghĩa rộng: Đánh trống và thổi kèn. Nghĩa bóng: Sự cổ võ hăng hái, nhiệt tình.
    LƯƠNG THẦN: Lương: Hiền lành. Thần: Bậc trung với vua, thương dân, thương nước. Khi chết được sắc phong của Vua và dân chúng lập đền thờ tự.
    VỊNH: Ngâm, đọc.
    PHONG CA: Cảnh tượng, tập tục có vẻ thi thơ.
    *Tóm lược ý câu “Cổ súy lương thần vịnh phong ca”: Những bậc công thần đều có chỗ đứng trong hàng quan phẩm và khi chết cũng được tôn thờ ngôi vị cao cả.
    3/-THỌ TỬ: Thọ (thụ): Nhận, chịu. Tử: Chết. Nghĩa rộng: Nhận lấy cái chết, Hi sinh than mình.
    TÂM TRUNG: Tâm: Lòng. Trung: Hết lòng trung với Vua, thương dân, thương nước. Nghĩa rộng: Một lòng trung quân ái quốc.
    TRƯNG: Chứng cớ.
    HÙNG KHÍ: Hùng: Mạnh mẽ. Khí: Tinh thần phát lộ ra ngoài. Nghĩa rộng: Sức mạnh tinh thần. Tinh thần mạnh mẽ.
    *Tóm lược ý câu “Thọ tử tâm trung trưng hùng khí”: Thà chịu chết để tỏ lòng trung quân ái quốc.
    4/-QUI HỒI: Qui: Trở lại. Hồi: Trở về. Nghĩa rộng: Đồng quay trở lại. Cùng nhau trở về.
    QUỐC THỦY: Nước nhà.
    TIỆN: Thuận lợi.
    PHƯƠNG HOA: Phương: Thơm. Hoa: Rực rỡ. Nghĩa rộng: Tiếng tăm địa vị trong xã hội lan rộng khắp nơi.
    *Tóm lược ý câu “Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa”: Đất nước Việt Nam sau nầy sẽ được thế giới biết đến và tiếng tăm vang dội khắp nơi.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Ngày xưa (Vị tướng ấy) cũng ở xứ Bắc Kỳ, nhưng vì sứ mạng nên phải xa quê hương để phù trợ dân chúng, kiến tạo nước nhà trở nên hùng mạnh.





     
    Sửa lần cuối: 25/1/15
  4. Buile

    Buile Member

    Bài thứ sáu mươi ba
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Bốn bài thơ đã làm xong,
    Văn Nho bàn bạc nhiều ông lắc đầu.
    Nghĩ ra mới biết cơ cầu,
    Người chi thi phú công hầu cổ nhân.
    Nghiệm suy lời lẽ thiệt hơn,
    Dặn dò bá tánh thi ơn xóm làng.
    Nào Ta có nói bướng càn,
    Về An Giang tỉnh rõ ràng ai hay.
    Từ đây Nam Bắc chuyển quay,
    Khi đây khi đó ra tài khuyên dân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    BỐN BÀI THƠ: Tức bốn bài “Thất ngôn tứ tuyệt”, trong tác phẩm “Để chơn đất Bắc” của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    VĂN NHO: Người Nho sĩ theo học đạo Nho (thường gọi chung là học trò Đức Khổng Tử).
    BÀN BẠC: Đem ra cứu xét cho được rõ ràng minh bạch.
    LẮC ĐẦU: Cử chỉ tỏ ý không hiểu, không chấp nhận.
    CƠ CẦU: : Cái thúng. Cầu: Áo cừu. Kinh Lễ:“Lương cung chi tử tất học vi cơ, lương dạ chi tử, tất học vi cầu” (Người thợ làm cung giỏi, con cái tuy không khéo léo về nghề làm cung, có thể học được nghề của cha, đem áp dụng lối uốn tre, vót tre để làm thúng. Con cháu người thợ thuộc da, bắt chước ông cha, chắp vá các loài da để làm áo cừu). Nghĩa bóng: Con cháu nối nghiệp ông cha.
    THI PHÚ: Thi: Thơ văn. Phú: Một thể vận văn khi xưa. Nghĩa rộng: Thi phú dùng để tiêu biểu cho các loại vận văn.
    CÔNG HẦU: Hai trong 5 tước ngày xưa: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Nghĩa rộng: Dùng để chỉ những người có quan tước, danh phận trong triều đình.
    CỔ NHÂN: Cổ: Xưa. Nhân: Người. Người xưa. Nghĩa rộng: Những bậc tiền bối thuộc thế hệ trước.
    NGHIỆM SUY: Nghiệm: Xem xét, khảo sát. Suy: Tìm hiểu. Nghĩa rộng: Tìm hiểu một cách chính xác.
    DẶN DÒ: Bảo cho nhớ, nhắc nhở kẻo quên.
    BÁ TÁNH: Trăm họ. Nghĩa rộng: Những người dân cùng sống chung trong một nước hay thế giới.
    THI ƠN: Cho ai một ân huệ gì (Người trên gia ơn cho kẻ dưới). Như chữ ban ơn.
    XÓM LÀNG: Nghĩa của chữ Thôn hương, cũng như từ Ấp, Xã ngày nay.
    BƯỚNG CÀN: Hành động không cần phải suy nghĩ, bất kể đúng hay sai.
    AN GIANG TỈNH: Tức là tỉnh An Giang, một tỉnh thuộc miền Tây Nam bộ, nước Việt Nam.
    RÕ RÀNG: Hiển hiện ra trước mắt, dễ hiểu dễ thấy.
    NAM BẮC: Tức Nam Phần (Nam Kỳ) và Bắc Phần (Bắc Kỳ).
    CHUYỂN QUAY: Tới lui.
    KHI ĐÂY KHI ĐÓ: Lúc ở chỗ nầy, khi ở chỗ nọ. Nghĩa rộng: Không ở nơi nào cố định.
    TÀI: Hay giỏi.
    KHUYÊN DÂN: Khuyên: Dạy dỗ. Dân: Người dân. Nghĩa rộng: Dạy dỗ mọi người.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ra mới bốn bài thơ, khiến cho các bậc Nho Gia khi đọc xong rất đỗi ngạc nhiên và thán phục. Đây là giai đoạn Ngài vào Nam ra Bắc để khuyến khích tu hành.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Tuần huờn Tạo hóa cầm cân,
    Ở đây cũng dạy hương lân đủ điều.
    Xác nghèo nhà tợ cái lều,
    Cơ hàn rách rưới nhiều điều nan nguy,
    Tuy là gia trạch hàn vi,
    Nhưng mà hiền đức khác gì người xưa.
    Nhiều người lối xóm đẩy đưa,
    Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài.
    Nước tràn ruộng lúa lạc loài,
    Bắt đầu lo chuyện miệt mài bắp khoai.
    Giáo truyền lời lẽ thẳng ngay,
    Hương lân trùm trưởng đắng cay nhiều bề.
    Thầy trò ra sức làm hề,
    Ca tuồng ly loạn dựa kề biên cương.
    Có nhiều chệc khách Minh hương,
    Đau lòng nhiều khúc thê lương bên Tàu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TUẦN HUỜN: Tuần: Thuận theo. Huờn (hoàn): Xoay tròn. Nghĩa rộng: Những gì chuyển vận theo vòng tròn (Ý nói sự vận hành của Tạo hóa).
    TẠO HÓA: Tạo: Làm ra. Hóa: Thay đổi. Nghĩa rộng: Ông Trời làm ra và biến hóa vạn vật.
    CẦM CÂN: Giữ lẽ công bằng.
    HƯƠNG LÂN: Hương: Làng. Lân: Kề cận, xóm. Nghĩa rộng: Những người lân cận.
    XÁC NGHÈO: Thân phận hẩm hiu.
    NHÀ TỢ CÁI LỀU: Nhà nhỏ như túp lều nhỏ, cất tạm để che nắng, che mưa.
    CƠ HÀN: Cơ: Đói khát. Hàn: Lạnh lẽo. Nghĩa rộng: Nỗi khổ cực trong đời.
    RÁCH RƯỚI: Đứt ra nhiều mảnh, dính tòng teng. Nghĩa rộng: Hoàn cảnh cực khổ, vất vả.
    NAN NGUY: Nan: Cũng như Nạn: Tai vạ. Nguy: Hiểm nghèo. Nghĩa rộng: Gặp tai nạn nguy hiểm.
    GIA TRẠCH: Gia: Nhà. Trạch: Nhà ở. Nghĩa rộng: Nhà cửa, gia đình.
    HÀN VI: Hàn: Lạnh lẽo. Vi: Nhỏ. Nghĩa rộng: Hèn mọn, không có thế lực gì.
    HIỀN ĐỨC: Hiền: Tài giỏi, độ lượng. Đức: Tâm lành. Nghĩa rộng: Người có tài năng đức hạnh cao cả.
    NGƯỜI XƯA: Nghĩa của chữ Cổ nhân. Nghĩa rộng: Những người đã sanh ra trước ta. Còn gọi người Thượng cổ.
    ĐẨY ĐƯA: Nói hoặc làm theo một cách miễn cưỡng. Nghĩa bóng: Làm màu làm mè, nói theo cho qua câu chuyện.
    TẤM LÒNG KHÔNG MẾN: Trong bụng không bằng lòng.
    MÀ ƯA BỀ NGOÀI: Ra vẻ bằng lòng, chớ thực chất lòng không muốn như thế. Nghĩa bóng: Việc làm bất đắc dĩ.
    NƯỚC TRÀN: Nước dâng cao, tràn lan ra khắp nơi. Nghĩa rộng: Nước lũ mà hàng năm dâng cao, ngập nhiều nhà cửa, khắp mọi nơi.
    RUỘNG LÚA: Lúa nước, thường gieo sạ trước khi nước dâng, khoảng tháng Tư hàng năm, để tránh nước ngập sâu vào khoảng tháng Bảy, tháng Tám âm lịch.
    LẠC LOÀI: Bơ vơ không nơi nương tựa.
    MIỆT MÀI: Chăm chú theo dõi. Mải miết theo. Say mê theo.
    BẮP KHOAI: Hai loại thổ sản, bất cứ miền quê nào ở Việt Nam cũng có. Bắp: Cho trái. Khoai: Cho củ. Nghĩa rộng: Vật dùng cho đỡ đói, hay tạm đỡ qua ngày.
    GIÁO TRUYỀN: Giáo: Dạy dỗ. Truyền: Trao cho người khác. Nghĩa rộng: Dạy dỗ khắp mọi nơi.
    THẲNG NGAY: Đúng đắn, chân thật.
    TRÙM TRƯỞNG: Người giúp việc làng ở cấp dưới. Nghĩa rộng: Người đứng đầu một nhóm.
    ĐẮNG CAY: Đắng: Vị gắt khó chịu, như khổ qua đắng, sầu đâu đắng…Cay: Hăng nồng, như ớt, tiêu…làm tê đầu lưỡi. Nghĩa bóng: Chịu nhiều điều tai tiếng.
    LY LOẠN: Ly: Xa cách. Loạn: Cuộc binh biến, mất trật tự. Vì cuộc binh biến nên phải xa cách.
    DỰA KỀ: Gần một bên.
    BIÊN CƯƠNG: Biên: Nơi giáp giới giữa hai nước. Cương: Giới hạn đất đai giữa hai chủ nhân. Vùng giáp giới giữa hai nước.
    CHỆC KHÁCH MINH HƯƠNG: Ám chỉ những người Trung Hoa phản Thanh phục Minh, lúc sa cơ chạy sang Việt Nam, lập nên những làng, gọi là Minh Hương (Làng người Minh). Vì thế sau nầy hễ ai từ bên Tàu sang Việt Nam, đều gọi là người Minh Hương.
    NHIỀU KHÚC: Nhiều đoạn, nhiều sự kiện.
    THÊ LƯƠNG: Thê: Lạnh. Lương: Mát. Lạnh lẽo, vắng vẻ. Nghĩa rộng: Chuyện đau buồn.
    BÊN TÀU: Tức bên đất nước Trung Hoa.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Ngày xưa Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng đã có mặt ở đất Bắc. Tuy sống trong hoàn cảnh nghèo túng, nhưng vẫn giữ lòng trong sạch. Ngài từng chứng kiến cảnh xa quê hương của những người Trung Hoa, nghĩ lại phận mình, mà chạnh niềm vong quốc.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Chú lùn Nhựt Bổn hùng hào,
    Chẳng thương sanh mạng dân Tàu dại ngu.
    Bởi chưng hung bạo chẳng tu,
    Cho nên gây sự lu bù chiến tranh.
    Bắc Kỳ Trung Quốc giáp ranh.
    Sao không xem đó tu hành hiền lương.
    Cá không ăn muối cá ươn,
    Chẳng nghe lời dạy lầm đường chông gai.
    Hát tuồng Trung Quốc quá dai,
    Ta bèn bỏ bản hát bài tà tinh.
    Cả kêu lớn nhỏ đệ huynh,
    Từ đây nhẫn nại chống kình làm chi.
    Bút nghiên lôi lại làm thi,
    Đặng cho bá tánh bớt nghi tinh tà.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    CHÚ LÙN NHỰT BỔN: Nguyên ngữ (Nipponjin – Nihonjin), người Tàu dịch là Nhật Nhĩ Man, đa số nguyên chủng đều thấp bé, đó là nét đặc thù của người Nhật. Cũng như người Trung Hoa, đa phần mắt của họ một mí.
    HÙNG HÀO: Hùng: Mạnh mẽ hơn người. Hào: Tài sức hơn người. Nghĩa rộng: Thái độ nóng nảy, khó kềm chế nhẫn nại.
    SANH MẠNG: Sinh: Sống. Mạng: Còn gọi Mệnh: Số trời đã định cho một người nào. Nghĩa rộng: Đời sống con người.
    DÂN TÀU: Mọi người Trung Hoa.
    DẠI NGU: Còn trong vòng bán khai, chưa tiến hóa, văn minh.
    BỞI CHƯNG: Như chữ bởi vì, tại vì…
    HUNG BẠO: Hung: Dữ tợn. Bạo: Làm điều trái phạm. Nghĩa rộng: Dữ tợn làm nhiều điều trái phạm. Nghĩa rộng: Dữ tợn làm nhiều điều phạm pháp hay luân thường đạo lý.
    GÂY SỰ: Gợi ra thành chuyện, làm xích mích với người khác.
    LU BÙ: Rất nhiều, mặc sức. Làm đến thỏa thích mới thôi.
    CHIẾN TRANH: Hai bên, hai nước đánh nhau.
    BẮC KỲ: Miền Bắc nước Việt Nam.
    TRUNG QUỐC: Nước Trung Hoa, còn gọi nước Tàu. Việt Nam và Trung Quốc có chung địa giới và hải giới ở miền Bắc Việt Nam.
    GIÁP RANH: Hai nước có chung địa giới và lãnh giới.
    SAO KHÔNG XEM ĐÓ: Ngày xưa người Tàu phải bị Nhựt Bổn thôn tính, chịu nhiều điều khốn khó, vì thế Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhắc nhở mọi người hãy nhìn vào đó mà cảnh giác đề phòng.
    TU HÀNH HIỀN LƯƠNG: Rán lo sửa đổi để trở thành người hữu dụng hoặc rán vươn lên để nước nhà trở nên phú cường.
    CÁ KHÔNG ĂN MUỐI CÁ ƯƠN: Cá là loài sống dưới nước, nếu đem lên bờ tất bị chết. Nếu muốn giữ cá được lâu sình, phải ướp muối. Nếu không sẽ bị thúi rữa. Nghĩa bóng: Không nghe theo lời chỉ dạy, tất phải làm nhiều điều sai phạm, gây ảnh hưởng tốt cho bản thân và xã hội.
    CHẲNG NGHE LỜI DẠY: Không chịu làm theo lời chỉ bảo của người khác.
    LẦM ĐƯỜNG: Đi sai địa chỉ, đi không đúng theo chánh nghĩa.
    CHÔNG GAI: Chông: Loại cây vót mũi nhọn, để lắp vào cây cung hoặc chôn dưới đất. Gai: Nghạnh nhọn mọc ở cây. Hai vật nầy có thể gây thương vong cho con người và thú vật. Nghĩa rộng: Nguy hiểm.
    HÁT TUỒNG: Lối hát điển tích cổ, bây giờ gọi là Cải lương hay hát bội. Nghĩa bóng: Nói về một sự kiện nào đó.
    TRUNG QUỐC: Tức nước Trung Hoa, tên trong bản đồ (China).
    QUÁ DAI: Nói ròng một vấn đề.
    BỎ BẢN: Ngưng bài hát, bản văn lại để chuyển sang lãnh vực khác.
    HÁT BÀI TÀ TINH: Nói về các loài yêu ma, quỉ quái. Nghĩa rộng: Nói về những thói điêu ngoa, quỉ quyệt.
    ĐỆ HUYNH: Từ gọi chung những người thân hoặc tiếng xưng hô với bạn thân. Nghĩa rộng: Gọi chung anh em lớn nhỏ. “Cả kêu lớn nhỏ đệ huynh” (ĐHGC).
    NHẪN NẠI: Chịu khó nhọc.
    CHỐNG KÌNH: Tranh đấu để quyết định hơn thua, thắng bại.
    BÚT NGHIÊN: Cây viết và đồ để mài mực. Nghĩa rộng: Văn chương, lời lẽ.
    LÔI LẠI: Từ nơi nầy đem đến nơi khác, từ lĩnh vực nầy sang lĩnh vực khác. Nghĩa bóng: Lấy văn chương để nói rõ mục đích của mình.
    LÀM THI: Sáng tác thơ văn.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc nhở nên lấy tấm gương của người Tàu, bị Nhật Bổn thôn tính mà làm bài học bổ ích.

    Bài thứ sáu mươi bốn

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Cổ qui tài tận hận do Tần,
    Thiện chí tu trì lập vĩ thân.
    Tồn tại hư vô tầm Bát Nhã,
    Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CỔ QUI: Cổ: Xưa. Qui: Về.
    TÀI TẬN: Tài: Hay giỏi, tính chất. Tận: Hết, trống không. Nghĩa rộng: Không còn cái gì hay không có cái gì.
    HẬN: Giận.
    DO TẦN: Do: Từ đâu mà ra. Tần: Tên một ông vua Trung Hoa là Tần thủy Hoàng, nổi tiếng tàn bạo chuyên chế và khe khắt đối với dân, đốt sách chôn sống học trò. Nói đến Tần là nói đến chánh sách bạo tàn ngang ngược.
    *Tóm lược ý câu “Cổ qui tài tận hận do Tần”: Do chánh sách ngang tàn bạo ngược, nên phải mất nước. Đây cũng là tấm gương mà Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc nhở, để cho mọi người lấy đó mà sửa mình.
    2/-THIỆN CHÍ: Thiện: Lành, tốt đẹp. Chí: Ý mình hướng về con đường nào. Nghĩa rộng: Chí hướng tốt đẹp, muốn làm điều lành.
    TU TRÌ: Tu: Sửa đổi. Trì: Giữ vững. Sửa đổi tâm tánh và giữ vững không đổi lập trường.
    LẬP: Làm nên.
    VĨ THÂN: : To lớn. Thân: Địa vị con người trong xã hội. Nghĩa rộng: Địa vị cao cả.
    *Tóm lược ý câu “Thiện chí tu trì lập vĩ thân”: Cố gắng theo đuổi mục đích mà mình đã theo đuổi, để lập nên danh phận.
    3/-TỒN TẠI: Tồn: Còn. Tại: Ở. Vẫn còn.
    HƯ VÔ: : Trống rỗng. : Không. Giữa khoảng trống không có gì cả.
    TẦM: Tìm.
    BÁT NHÃ: Tiếng Phạn: Prajna, nghĩa là trí huệ. Nghĩa rộng: Thoát ly những tư tưởng thấp hèn. Nghĩa bóng: Trí huệ đáo bĩ ngạn (Nhờ có trí huệ ví như chiếc thuyền đưa con người từ bờ mê, sang qua bến giác). Ý nói nhờ có trí huệ, phá tan màn vô minh mà được giải thoát.
    *Tóm lược ý câu “Tồn tại hư vô tầm Bát nhã”: Tất cả mọi vật đều biến dạng, chỉ có trí huệ là trường cửu, đưa con người đến chỗ giải thoát.
    4/-TIÊN KIẾM: Công việc trước hết.
    THẦN THÔNG: Thần: Lạ lùng, không thể lường được. Thông: Suốt khắp. Nghĩa rộng: Có tài biến hóa, có thể hiểu được mọi vật, mọi việc…
    CHỈ HUY: Chỉ: Lấy tay mà trỏ. Huy: Lấy tay mà vẫy. Nghĩa rộng: Điều khiển, sai khiến.
    CẦN: Lòng mong muốn điều gì.
    *Tóm lược ý câu “Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần”: Trước hết phải tu tập cho có trí huệ để điều khiển vọng tâm, phá màn vô minh thì chơn tánh sẽ chứng đắc.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Người tu cốt yếu là trau giồi trí huệ, để phá tan màn vô minh, hầu tiến đến con đường giải thoát.

    Bài thứ sáu mươi lăm
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
    Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
    Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
    Bần phú cơ đồ bất tự sang.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    1/-ĐIỀN TAN: Điền: Ruộng. Tan: Mất. Nghĩa rộng: Ruộng mất, không còn ruộng để canh tác.
    GIA PHẾ: Gia: Nhà. Phế: Bỏ. Nghĩa rộng: Bỏ nhà ra đi.
    TẾ: Nhỏ, mảnh mai.
    NHIÊN HÀN: Phải chịu nghèo khổ, lạnh lẽo.
    *Tóm lược ý câu “Điền tan gia phế tế nhiên hàn”: Phải chịu cảnh đói lạnh vì nhà tan cửa nát.
    2/-KHỔ ĐÁO: Khổ: Lo lắng. Đáo: Đến. Nghĩa rộng: Đến lúc phải chịu vất vả, cực khổ.
    LY KỲ: Ly: Xa cách. Kỳ: Lạ thường. Nghĩa rộng: Việc xảy ra khác thường hơn cái khác.
    ẢO: Không thực.
    VIỄN: Xa.
    CANG: Những gì quan yếu.
    *Tóm lược ý câu “Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang”: Cảnh khổ xảy ra chưa từng thấy trong đời.
    3/-NGHỊ XUẤT: Nghị: Can đảm, quả quyết. Xuất: Ra, đem ra. Nghĩa rộng: Tính khí can đảm được bộc lộ bằng hành động.
    THẦN TIÊN: Thần: Bậc hết lòng trung với vua, thương dân thương nước. Khi chết được sắc phong và dân chúng tôn thờ. Tiên: Bậc tu trên núi, có phép thuật. Cốt tu cho được trường sanh bất lão.
    YÊN: An ổn.
    TRUYỀN ĐẠO: Dẫn dắt vào con đường hợp với lẽ phải, xuất xử đúng với đạo lý của Thánh Hiền.
    *Tóm lược ý câu “Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo”: Các bậc Thần Tiên luôn luôn dẫn dắt mọi người vào con đường đạo đức.
    4/-BẦN PHÚ: Bần: Nghèo nàn. Phú: Giàu sang.
    CƠ ĐỒ: : Máy móc. Đồ: Mưu tính. Chỉ những việc mà mình mưu tính xây dựng từ nền móng. Nghĩa rộng: Để chỉ một sự nghiệp vững chắc.
    BẤT: Chẳng phải, không thể.
    TỰ SANG: Tự: Chính mình. Sang: Giành. Nghĩa rộng: Chính mình muốn chiếm hữu cái gì đó.
    *Tóm lược ý câu “Bần phú cơ đồ bất tự sang”: Nghèo giàu không do bản thân mình quyết định, mà do sự an bày của Tạo hóa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Các bậc Thần Tiên luôn luôn dẫn dắt mọi người vào con đường đạo đức. Vả lại, xưa nay giàu nghèo đều có số phận, không một ai có thể quyết định theo ý của mình được.

    Bài thứ sáu mươi sáu

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nôn nãi kìa ai nhọc mưu cầu,
    Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
    Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
    Cấp hồi ái truất trót canh thâu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-NÔN NÃI: Nôn: Nôn nao. Nãi: Hóa ra, té ra. Nghĩa bóng: Sự nôn nao, thiếu bình tĩnh.
    KÌA AI: Tiếng nói trống, để ám chỉ người nào đó.
    NHỌC: Mệt mỏi.
    MƯU CẦU: Mưu: Tính toán. Cầu: Tìm tòi. Nghĩa rộng: Tính toán để tìm cho ra điều mà mình muốn khám phá.
    *Tóm lược ý câu “Nôn nãi kìa ai nhọc mưu cầu”: Chớ nóng nảy khi hành sự, sẽ bị thất bại.
    2/-THÊ THẢM: Thê: Đau thương. Thảm: Đau đớn. Buồn khổ đau đớn.
    CHO ĐỜI: Cho: Dùng như một giới từ: Phải nên. Đời: Khoảng thời gian từ lúc sống đến khi nhắm mắt.
    NẺO: Lối đi.
    HUYỀN SÂU: Huyền: Mầu nhiệm, kín đáo. Sâu: Tận ngọn ngành. Nghĩa rộng: Suốt khắp mọi nơi.
    *Tóm lược ý câu “Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu”: Cuộc sống của mọi người trên thế gian, còn nhiều gian lao cực nhọc. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã báo trước.
    3/-KIÊN CỐ: Kiên: Bền vững. Cố: Chắc chắn. Nghĩa rộng: Rất vững bền, chắc chắn.
    CỦA TIỀN: Tài sản và tiền bạc.
    THIÊN: Một bên, lệch.
    ĐẠO LÝ: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải, bổn phận mà con người phải báo đáp.Lý: Lẽ phải. Nghĩa rộng: Nghĩa lý phù hạp với đạo đức.
    *Tóm lược ý câu “Kiên cố của tiền thiên đạo lý”: Nếu lo củng cố tài sản và tiền bạc, đạo lý sẽ bị lãng quên.
    4/-CẤP HỒI: Cấp: Gấp. Hồi: Quay trở lại. Nghĩa rộng: Mau sớm hồi đầu hướng thiện.
    ÁI TRUẤT: Ái: Yêu, thương mến. Truất: Giảm bớt.
    TRÓT: Trọn vẹn.
    CANH THÂU: Canh: Thời gian một phần năm của đêm (1/5 đêm). Thâu: Suốt.
    *Tóm lược ý câu “Cấp hồi ái truất trót canh thâu”: Mau dẹp bỏ tình riêng để lo việc chung, suốt canh thâu không chợp mắt cũng bởi vì lẽ ấy.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Trong cả đời lo củng cố tiền tài danh vọng, nhưng có được đâu. Thức suốt canh thâu cũng bởi vì chuyện danh lợi tình làm cho phai mờ đạo đức.

    Bài thứ sáu mươi bảy
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài
    Biên hình liên huệ tất ư giai.
    Kiệm kỷ tha lam mi hài chí,
    Long trì phi ẩn tạo kiền khai.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-THIÊN Ý: Ý trời. Nghĩa rộng: Trời đã định phần.
    BẤT TƯ: Bất: Không. : Riêng. Nghĩa rộng: Không riêng ai.
    HOẠNH: Cậy thế lực mà không hợp lý, cái có được không do sức mình làm ra.
    TRỮ TÀI: Trữ: Chứa đựng. Tài: Tiền bạc, của cải. Nghĩa rộng: Tích trữ tiền bạc, của cải.
    *Tóm lược ý câu “Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài”: Trời đất không dành phần cho riêng ai.
    2/-BIÊN HÌNH: Biên: Theo thứ tự, chép. Hình: Dung mạo. Nghĩa rộng: Ghi lại một hình ảnh hay sự việc cho nhớ.
    LIÊN HUỆ: Hoa sen và hoa huệ. Tượng trưng cho sự trong sạch. Nghĩa bóng: Nếu tu đắc được Liên hoa hóa thân thì là Sen. Còn tu trung quân ái quốc thì là Huệ.
    TẤT: Hẳn như vậy.
    Ư GIAI: Ư: Ở, đặt vào. Giai: Tốt đẹp. Nghĩa rộng: Ở vào chỗ tốt đẹp.
    *Tóm lược ý câu “Biên hình liên huệ tất ư giai”: Hãy đặt mình như hoa sen và hoa huệ, để từ đó trau sửa cho lòng được sạch trong.
    3/-KIỆM KỶ: Kiệm: Dè sẻn, tiết kiệm. Kỷ: Mình. Nghĩa rộng: Phải tự mình biết tiết kiệm mọi hình thức.
    THA LAM: Tha: Khác, đại từ nhân vật ngôi thứ ba: Nó, người ấy. Lam: Do chữ “tham lam”: Tham của người khác một cách bất chánh.
    MI: Lời nói kín để người ta đoán ra.
    HÀI CHÍ: Hài: Hòa hợp. Chí: Điều hướng đến của tâm.
    *Tóm lược ý câu “Kiệm kỷ tha lam mi hài chí”: Việc (của) mình thì tiết kiệm, còn việc của người thì tham lam. Như vậy mi chịu lắm đó hay sao ?
    4/-LONG TRÌ: Long: Con rồng. Trì: Gìn giữ.
    PHI ẨN: Phi: Bay. Ẩn: Giấu kín. Nghĩa rộng: Bay mất dạng.
    TẠO: Làm nên, gây dựng.
    KIỀN KHAI: Kiền: Còn gọi Càn: Tượng Trời. Khai: Mở. Nằm trong quẻ Bát quái.
    *Tóm lược ý câu “Long trì phi ẩn tạo tiền khai”: Rồng (Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ) còn phải ở ẩn để chờ cơ Thiên định.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Trời đất không riêng của một ai, hiện tại chưa tới thời của Thánh chúa ra đời.

    Bài thứ sáu mươi tám
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Ngạo cảnh du vân triện Bắc hà,
    Quá khứ trú đình vịnh ngân ca.
    Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
    Nghiên tòng bí khuyết bích lư xa.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-NGẠO CẢNH: Ngạo: Như chữ Ngao: Tự ý đi chơi. Cảnh: Hình sắc có thể ngắm và thưởng thức.
    DU VÂN: Đám mây bay nay đây mai đó. Nghĩa bóng: Đi những nơi không nhứt định.
    TRIỆN: Xưng danh tự mà nói một cách lịch sự.
    BẮC HÀ: Bắc: Bắc Kỳ (Bắc Bộ). : Sông. Sông miền Bắc.
    *Tóm lược ý câu “Ngạo cảnh du vân triện Bắc hà”: Đức Huỳnh Giáo Chủ ra miền Bắc.
    2/-QUÁ KHỨ: Quá: Qua. Khứ: Đi. Nghĩa rộng: Những gì đã qua.
    TRÚ ĐÌNH: Trú: Ở. Đình: Chỉ triều đình. Nghĩa rộng: Phục vụ một triều đại nào đó.
    VỊNH: Ca, làm thơ để ngụ ý gì.
    NGÂN CA: Ngân: Ngây dại, không còn thiết đến sự đời. Ca: Hát. Nghĩa bóng: Nói những câu sâu xa, huyền bí.
    *Tóm lược ý câu “Quá khứ trú đình vịnh ngân ca”: Trước kia Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng từng nói đến những triều đại, chuyên lo ích nước lợi dân
    3/-THANH TÍCH: Thanh: Tiếng. Tích: Trước, xưa. Nghĩa rộng: Có tên tuổi trước kia.
    CỔ NHÂN: Cổ: Xưa. Nhân: Người. Người xưa (Ý nói đến người Thượng cổ).
    TÂN: Mới.
    CỪ KHÍ: Cừ: Lớn, to lớn. Khí: Tính chất, tinh thần phát lộ ra ngoài. Nghĩa rộng: Sức mạnh của tinh thần.
    *Tóm lược ý câu “Thanh tích cổ nhân tân cừ khí”: Người xưa nay trở lại, vốn tinh thần rất mạnh mẽ, khí phách hơn người.
    4/-NGHIÊN TÒNG: Nghiên: Tìm hiểu cho đến cùng. Tòng: Thuận theo, từ đó.
    BÍ KHUYẾT (QUYẾT): Bí: Kín đáo. Khuyết (Có thể là chữ Quyết): Có phương pháp. Nghĩa rộng: Phương pháp bí mật.
    BÍCH LƯ: Bích: Viên đá có màu xanh biếc. : Còn đọc là Lô: Phô bày. Nghĩa bóng: Duyên kỳ ngộ hay cuộc gặp gỡ lạ lùng.
    XA: Xe.
    *Tóm lược ý câu “Nghiên tòng bí khuyết bích lư xa”: Có duyên kỳ ngộ sau nầy.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ra miền Bắc để khuyến tu, đây cũng là duyên kỳ ngộ mà sau nầy sẽ có được.

    Bài thứ sáu mươi chín
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Thâm canh bất mến công hầu,
    Trông cho Lê thứ gặp chầu vinh huê.
    Ở đâu dân cũng còn mê,
    Tham câu danh lợi khó kề Thần Tiên.
    Tư lương một mối sầu riêng,
    Long Thiền đãi ảnh vị thiên cô phần.
    Ngảnh ngao tái chí thi ân,
    Biện minh chí hứng đền lân dựa kề.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THÂM CANH: Thâm: Sâu. Canh: Một phần năm của đêm (1/5 đêm). Nghĩa rộng: Canh khuya.
    BẤT MẾN: Không ưa thích.
    CÔNG HẦU: Hai trong năm tước của chế độ quân chủ ngày xưa: Công, Hầu, Bá, Tử,Nam. Nghĩa rộng: Những người có quan tước trong một triều đại.
    LÊ THỨ: Như chữ thứ dân: Dân đen, những người cùng sống trong quả địa cầu.
    GẶP CHẦU VINH HUÊ: Nhằm lúc hiển đạt. Công thành danh toại.
    DANH LỢI: Công danh và lợi lộc.
    THẦN TIÊN: Thần: Đấng linh thiêng, hay bậc có công trạng khi chết được vua phong thần. Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật, cốt tu cho được trường sanh bất lão.
    TƯ LƯƠNG: : Riêng. Lương: Trăn trở, lo nghĩ. “Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi” (Trần Tế Xương).
    LONG THIỀN: Còn gọi Long Thoàn, một địa danh trên núi Tà Lơn. Ngày xưa ông Nguyễn Đa, còn gọi Cử Đa (Đạo hiệu Ngọc Thanh) đã tu đắc đạo tại đây. Trong tác phẩm Lan Thiên ông đã xác nhận:
    Kể từ Phú Quốc mới về,
    Long Thoàn lên ở dựa kề hai năm.
    Dạo chơi mấy điện tri ấm,
    Tỏ lời sau trước mấy năm phản hồi.
    Thân mình trong sạch đã rồi,
    Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
    Dương trần còn gọi Cử Đa,
    Cõi Tiên chữ đặt hiệu là Ngọc Thanh.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xác nhận:
    Kể từ Tiên cảnh ta về,
    Non Bồng ta ở dựa kề mấy năm.
    Dạo chơi tầm bực tri âm,
    Nay vì thương chúng trần gian phản hồi.
    Nghĩ mình trong sạch đã rồi,
    Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
    Phong trần tâm đã rời ra,
    Ngọc Thanh là hiệu ai mà dám tranh.

    LONG THIÊN ĐÃI ẢNH: Ông Cử Đa (có khi Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng tự nhận mình là Ngọc Thanh) đã tu đắc đạo tại Long Thoàn, hiện tại còn chờ cơ Thiên định.
    VỊ THIÊN CÔ PHẦN: Vị: Thức bậc, chỗ đứng. Thiên: Trời. : Lẻ loi, lời vua các chư hầu tự xưng một cách khiêm ngượng. Phần: Cái được phân ra. Nghĩa rộng: Số mệnh trời đã an bày hay Mệnh trời đã định sẵn.
    NGẢNH NGAO: Ngảnh: Xoay, xây (động từ). Ví dụ: “Cha mẹ ngảnh đi thì con dại, Cha mẹ ngảnh lại thì con khôn” (Ca dao). Nghĩa rộng: Dong ruỗi bốn phương trời.
    TÁI CHÍ: Tái: Lại một lần nữa. Chí: Điều hướng đến của tâm.
    THI ÂN: Thi: Làm, sắp đặt. Ân: Ơn. Nghĩa rộng: Ban cho ai một ơn huệ gì (Người trên đối với kẻ dưới).
    BIỆN MINH: Biện: Tranh luận để cho rõ phải trái. Minh: Rõ ràng. Nghĩa rộng: Tranh luận để làm rõ lý lẽ phải trái.
    CHÍ HỨNG: Chí: Quyết định theo đuổi một công việc gì. Hứng: Còn gọi Hướng: Một nơi nào, phương nào. Nghĩa rộng: Theo đuổi mục đích cho đến ngày đạt được kết quả mỹ mãn.
    ĐỀN LÂN: Chỗ vua ở, chỗ thờ phượng những bậc công thần, thường có tứ linh: Long, Lân, Qui, Phụng.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và Ông Nguyễn Đa (Cử Đa) có chung một đạo hiệu Ngọc Thanh, cùng tu chứng đắc tại Long Thoàn, điều nầy xác nhận giữa hai Ngài chỉ là một.

    Bài thứ bảy mươi

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC


    Huy hoàng hương nến tự thiên chi,
    Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.
    Lôi chất khai âm vô sắc thí,
    Ngại hồi bi hiện án tiền phi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HUY HOÀNG: Huy: Ánh sáng. Hoàng: Sáng sủa. Nghĩa rộng: Rực rỡ.
    HƯƠNG NẾN: Hương: Mùi thơm của nhang. Nến: Đèn sáp. Hai thứ dùng trong nghi thức lễ bái.
    TỰ: Cúng tế.
    THIÊN CHI: Thiên: Trời. Chi: Nhánh sông, phân chia. Nghĩa rộng: Trời sắp đặt, phân chia.
    *Tóm lược ý câu “ Huy hoàng hương nến tự Thiên chi”: Các bậc công thần khi chết được phụng thờ, cúng tế.
    2/-HỘI KIẾN: Hội: Nhóm họp. Kiến: Thấy, gặp gỡ. Nghĩa rộng: Cùng nhau họp mặt để bàn bạc việc gì. Hay gặp mặt một người nào đó.
    TRUYỀN LINH: Truyền: Trao cho. Linh: Thiêng liêng. Nghĩa rộng: Đã được chứng đắc ở một lĩnh vực nào đó.
    THUYẾT: Nói cho biết.
    VĨNH KỲ:Vĩnh: Lâu dài. Kỳ: Lạ lùng.
    *Tóm lược ý câu “Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ”: Mỗi con người đều có tính chất linh thiêng mà trời đã ban tặng.
    3/-LÔI CHẤT: Lôi: Tiếng sấm. Chất: Bản thể của sự vật trong trời đất. Nghĩa bóng: Điềm trời.
    KHAI ÂM: Khai: Mở. Âm: Tiếng. Nghĩa rộng: Tiếng vang dội.
    VÔ SẮC: Không sắc màu hình tướng.
    THÍ: Dùng.
    Tóm lược ý câu “Lôi chất khai âm vô sắc thí”: Sự vận hành của tạo hóa không ai có thể biết được.
    4/-NGẠI HỒI: Ngại: Ngăn trở. Hồi: Quay trở lại. Nghĩa rộng: Khó xuất hiện.
    BI HIỆN: Bi: Cái bia. Hiện: Lộ rõ. Nghĩa rộng: Cảnh trí hay đối tượng đã phơi bày ra trước mắt.
    ÁN: Văn, thư về việc quan.
    TIỀN PHI: Tiền: Trước. Phi: Bất ngờ.
    *Tóm lược ý câu “Ngại hồi bi hiện án tiền phi”: Những sự kiện được nói đến, đều có chứng tích hẳn hòi.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Những bậc công thần được tôn thờ cúng bái. Sự vận hành của tạo hóa không ai có thể biết, chừng nào đến mới hay.

    Bài thứ bảy mươi mốt-> Bài thứ tám mươi

    Bài thứ bảy mươi mốt

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Rừng thông bên cạnh gần kề,
    Bôn phi lê thứ nhiều bề gian nan.
    Bắc kỳ còn hỡi hò khoan,
    Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.
    Thấy đời cũng luống động lòng,
    Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    RỪNG THÔNG: Rừng trồng cây thông. Loại cây thân lớn và cao, thường mọc ở rừng đồi, lá nhỏ cứng.
    GẦN KỀ: Bên cạnh.
    BÔN PHI: Bôn: Chạy. Phi: Bay. Nghĩa bóng: Đây đó.
    LÊ THỨ: Như chữ Thứ dân. Những người cùng chung sống trong quả đất.
    GIAN NAN: Vất vả, khổ cực.
    BẮC KỲ: Miền Bắc nước Việt Nam.
    HÒ KHOAN: Tiếng hò sau câu hát để cùng làm một công việc nặng nhọc.
    CHÚNG DÂN: Chúng: Nhiều. Dân: Người dân. Nhiều người dân.
    ĐI CẤY: Cấy lúa. Miền Bắc đất hẹp người đông, nên công việc ruộng nương phải trải qua hai giai đoạn: Gieo mạ, sau đó khoảng 15 ngày mới nhổ lúa non (gọi là mạ), để chia thành tép nhỏ cặm xuống đất thành hàng. Gọi là cấy.
    LUỐNG ĐỘNG LÒNG: Thường bận tâm đến, nghe xao xuyến trong lòng.
    XỨ QUÊ NGHÈO CỰC: Nơi thôn dã, trình độ dân trí còn thấp kém. Người dân đa phần sống bằng nghề nông lạc hậu và làm mướn. Cho nên rất nghèo túng, cực khổ vất vả khôn cùng.
    MUỖI MÒNG: Hai loài chuyên hút máu con người và thú vật.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Miền Bắc chuyên sống bằng nông nghiệp, vì đất hẹp người đông, cho nên người dân nơi thôn dã rất nghèo nàn cực khổ.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Dạo miền thành thị một khi,
    Chán chê thế sự sầu bi trong lòng.
    Ca xang thảm cảnh não nồng,
    Cả kêu dân chúng Lạc Hồng hỡi ơi !
    Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời,
    Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc nhơ.
    Người hiền nghe thấu ngẩn ngơ,
    Đớn đau sắp đến bơ vơ một mình.
    Muốn xem được hội Long Đình,
    Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn.
    Ở ăn cho vẹn mười ơn,
    Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn.
    Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
    Sum vầy một cuộc Hớn Đàng toại thay.
    Người nào vẹn được thảo ngay,
    Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    THÀNH THỊ: Chợ Tỉnh hay Thành phố. Nghĩa rộng: Nơi đô hội.
    THẾ SỰ: Thế: Đời. Sự: Việc. Nghĩa rộng: Những việc thường xảy ra ở đời.
    SẦU BI: Sầu: Buồn rầu. Bi: Thương xót. Buồn rầu đau xót.
    CA XANG: Như ca xướng. Nói chung về nghề ca hát.
    THẢM CẢNH: Cảnh đau xót, ảm đạm.
    NÃO NỒNG: Thê thảm, đau đớn.
    DÂN CHÚNG: Nhiều người cùng sống với nhau trong quả địa cầu.
    LẠC HỒNG: Còn gọi Hồng Lạc. Tức họ Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên của nước Việt Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là “Hồng Lạc”, Tổ Tiên của người Việt Nam.
    TIÊN CẢNH: Nơi Tiên ở.
    TUYỆT VỜI: Cực kỳ cao xa, tốt đẹp.
    LẠC: Rơi rụng.
    ĐẠO ĐỜI: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải, bổn phận của mỗi người phải đền trả. Đời: Cõi thế gian mà mọi người đang sinh sống.
    NHUỐC NHƠ: Rơi vào chỗ thấp hèn, tội lỗi.
    NGƯỜI HIỀN: Nghĩa của chữ hiền nhân: Người có đạo đức, phẩm hạnh cao cả.
    NGẨN NGƠ: Rất đổi ngạc nhiên đến thừ người ra.
    BƠ VƠ: Một mình, không nơi nương tực.
    HỘI LONG ĐÌNH: Hội họp mặt Chúa tôi, ngày Long Hoa đại hội. Đánh dấu thời Thượng Nguơn Thánh Đức, chúa Thánh ra đời mở đầu một kỷ nguyên trong lý tam nguơn.
    SỬA MÌNH CHO TRƠN: Rán lo tu hành để trở thành người hiền lương đức hạnh.
    MƯỜI ƠN: Trong Phụ Mẫu Báo Hiếu Ân kinh, Đức Phật giảng như sau:
    1/-Lâm sản thọ khổ: Sanh đẻ chịu khổ.
    2/-Hoài đảm thủ hộ: Bồng bế giữ gìn.
    3/-Yến khổ thổ cam: Uống đắng nhả ngọt.
    4/-Di can tựu thấp: Dời chỗ khô đến chỗ ướt.
    5/-Sanh tử vong ưu: Sanh được con, mừng mà quên lo.
    6/-Tẩy trạc bất tịnh: Giặt rửa mọi thứ dơ bẩn.
    7/-Nhũ bộ dưỡng dục: Nuôi dưỡng bú mớm.
    8/-Vị tạo ác nghiệp: Vì con làm điều ác.
    9/-Viễn hành ức niệm: Con đi xa thì thương nhớ.
    10/-Cứu cánh lân mẫn: Thương yêu cùng tột.
    CẢNH TÌNH: Cảnh: Hình sắc có thể ngắm và thưởng thức. Tình: Mối cảm xúc trong lòng phát lộ ra ngoài. Nghĩa rộng: Tình cảm được bộc lộ qua hành động hay tình cảnh của một người nào.
    HIỀN ĐỨC: Hiền: Tài giỏi, đức độ. Đức: Hạnh tốt. Có tài năng đức hạnh.
    KHẢI HOÀN: Khải: Thắng trận. Hoàn: Trở về. Thắng trận trở về. Nghĩa rộng: Hát hò mừng rỡ.
    SUM VẦY: Hiệp mặt, đoàn tụ.
    HỚN ĐÀNG: Hay Hớn Bang, một Quốc hiệu của nước Việt Nam, khi thời Thượng Nguơn khai mở (Theo quan điểm của Phật Giáo Hòa Hảo).
    THẢO NGAY: Hiếu thảo với cha mẹ, trung quân ái quốc. Nghĩa rộng: Trung hiếu lưỡng toàn.
    DỰA KỀ: Gần bên.
    CỬA THÁNH: Nơi dạy đạo Nho của Đức Khổng Tử. Nghĩa rộng: Trường dạy đạo Nho của các bậc Thánh hiền.
    ĐÀI MÂY: Đài: Kiến trúc cất trên cao, có thể nhìn khắp bốn phương. Mây: Nghĩa của vân. Nghĩa rộng: Đài trên mây, nơi các chư Tiên hội họp.
    AN NHÀN: Yên ổn, rảnh rang không vướng bận.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thường đến miền Bắc để khuyến khích tu hành. Ngày Thượng nguơn khai mở chúa tôi trùng phùng, cũng là lúc mọi người hưởng hạnh phúc.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Khuyên răn cuối xóm cùng làng,
    Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.
    Việc đời nhiều nỗi sầu bi,
    Hạ nguơn đã hết loạn ly cơ đồ.
    Bây giờ còn hỡi mơ hồ,
    Chẳng nghe dạy chỉ cơ đồ về sau.
    Thử xem cho biết vàng thau,
    Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng.
    Tu hiền như thể phụng rồng,
    Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.
    Bây giờ rán chịu đắng cay,
    Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên.
    Đạo đời nào có tư riêng,
    Minh Vương sửa trị mới yên ngôi trời.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    KHUYÊN RĂN: Dạy bảo.
    CUỐI XÓM CÙNG LÀNG: Cuối xóm: Cuối Ấp, nơi gần. Cùng làng: Khắp trong Xã, chốn xa. Nghĩa rộng: Cùng khắp thôn làng. Khắp nơi trong địa phương nào đó.
    GIÀU SANG: Nghĩa của chữ Phú quí: Có của ăn của để. Nghĩa rộng: Có tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    CỦA NGÀN: Của cải tiền bạc rất nhiều.
    SẦU BI: Sầu: Buồn lo. Bi: Thương xót. Lo lắng và thương xót.
    HẠ NGUƠN: Nguơn cuối cùng của Lý Tam Nguơn (Thượng thượng nguơn, Thượng trung nguơn, thượng hạ nguơn, Trung thượng nguơn, Trung trung nguơn, Trung hạ nguơn, Hạ thượng nguơn, Hạ trung nguơn và Hạ hạ nguơn).
    LOẠN LY: Loạn: Lộn xộn, chỉ khi có chiến tranh hay tai ách. Ly: Lìa. Nghĩa rộng: Tai ách và chiến tranh làm cho người thân phải chia cách nhau.
    CƠ ĐỒ: : Nền tảng. Đồ: Bức vẻ, bức họa đồ. Nghĩa rộng: Đất nước. Ngoài ra cũng có nghĩa: Sự nghiệp vững chắc.
    VÀNG THAU: Vàng và thau là hai thứ kim loại.Vàng: Rất quí, thường được dùg để giao dịch ngang hàng với tiền tệ. Thau: Không có giá trị bằng vàng, thường dùng vào việc luyện kim, đúc ra các đồ gia dụng. Nghĩa rộng: Quí báu (giá) và thông thường.
    SANH CHÚNG: Còn gọi chúng sanh. Mọi người cùng sinh sống trong quả đất.
    PHỤNG RỒNG: Hai trong tứ linh thuộc họ bay (Long, Lân, Qui, Phụng). Nghĩa bóng: Có Rồng và Phụng tức sẽ có Thánh nhân hay Thánh Chúa ra đời.
    TIÊN CẢNH: Cõi Tiên, nơi Tiên ở.
    MÂY HỒNG: Mây màu đỏ. Tượng trưng cho niềm hy vọng tốt lành. Nghĩa rộng: Điềm lành.
    ĐẮNG CAY: Hai vật làm thấm tê đầu lưỡi, như mật đắng, ớt cay. Nghĩa rộng: Nhiều nỗi tai tiếng.
    KHÙNG ĐIÊN: Danh xưng khiêm nhượng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    ĐẠO ĐỜI: (Xem phần trước).
    MINH VƯƠNG: Ông vua sáng suốt.
    SỬA TRỊ: Chỉnh đốn, làm cho trở nên yên ổn, tốt đẹp hơn.
    YÊN: An ổn.
    NGÔI TRỜI: Ý nói nhà vua thay trời hành đạo.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cảnh báo đời Hạ Nguơn sắp kết thúc để lập lại Thượng Nguơn. Hãy cố gắng tu hành để được có mặt Long Hoa đại hội, trở thành người hiền phò chơn chúa.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Xa xăm các chỗ các nơi,
    Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri.
    Kẻ hung ngạo nghễ khinh khi,
    Nữa sau đến việc sầu bi nhiều bề.
    Tớ Thầy non núi dựa kề,
    Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên.
    Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
    Ra oai ra lực hùng yêng mới là.
    Bây giờ còn liệu tây tà,
    Cho nên đạo đức khó mà cạn phân.
    Nam thiền báu ngọc châu trân,
    Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    XA XĂM: Xa lắm, rất xa.
    TIÊN TRI: Tiên: Trước. Tri: Biết. Biết trước. Có thể hiểu theo hai nghĩa: 1- Hiểu mau, giải thích mau hơn những người khác. 2- Có năng khiếu để biết tương lai.
    NGẠO NGHỄ: Ngạo mạn, xem thường người khác.
    KHINH KHI: Coi nhẹ. Nghĩa rộng: Khi dễ ra mặt.
    SẦU BI: (Xem phần trước).
    AM CỐC: Am: Cái nhà lợp bằng tranh nhỏ để thờ phượng. Cốc: Cái hang, lỗ sâu. Nơi các nhà tu hành thường mượn cảnh để ở tu.
    LIỆU BỀ: Tính cách nào cho toàn vẹn. Nghĩa rộng: Lo toan.
    DẠY KHUYÊN: Dỗ dành, khuyến khích.
    TIỀN KHIÊN: Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm. Nghĩa rộng: Những lỗi lầm mà trước kia đã gây ra.
    HÙNG YÊNG: Còn gọi hùng anh. Hùng: Mạnh mẽ, tài sức hơn người. Yêng: Cái gì tốt đẹp nhứt trong các loài hoa. Nghĩa rộng: Tài đức hơn người, mạnh mẽ trí lược hơn người.
    TÂY TÀ: Tây: Phương tây. Ngoài ra chữ Tây cũng có nghĩa riêng tư. “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”(Chinh phụ ngâm). : Không ngay thẳng, gọi chung các loài yêu ma quỉ quái.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem phần trước).
    CẠN PHÂN: Nói hết lời, phân bày rõ ràng minh bạch.
    NAM THIỀN: (Xem phần trước).
    BÁU NGỌC CHÂU TRÂN: Ngọc quí và ngọc trai quí. Nghĩa rộng: Hết sức tốt đẹp. Hết sức sâu xa mầu nhiệm.
    PHẬT TIÊN: Phật: Nói cho đủ là Phật Đà. Do câu“Phật giả Phật Đà chi tỉnh xưng, thị giác ngộ tự tâm, đạt đáo viên mãn. Giả chi đức hiệu” (Chữ Phật nói cho đủ là Phật Đà, bậc đã hoàn toàn giác ngộ tự tâm. Đó chính là danh hiệu của Ngài). Tiên: Người tu trên núi, có phép thuật. Cốt tu cho được trường sanh bất lão. Hai ngôi vị trong quả Phật Tiên.
    TẤM THÂN MỚI NHÀN: Tâm hồn và thể chất được thanh thản, không còn bị ngoại cảnh chi phối. Quan niệm về chữ Nhàn, cụ Nguyễn Công Trứ trong bài “Kẻ sĩ”, ông đã viết:“Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn” (Chợ trước cửa nhà thì ồn ào, Trăng rọi trước nhà thì nhàn).
    Chúng tôi xin chiết tự hai câu trên, để thấy tài dùng chữ của cụ Nguyễn Công Trứ:
    -Câu “Thị tại môn tiền Náo”: Chữ Môn tượng trưng cho cái nhà. Chữ Thị là chợ. Trước cửa nhà có cái chợ thì phải ồn ào náo nhiệt (chữ Náo).
    -Câu “Nguyệt lai môn hạ Nhàn”: Chữ Môn tượng trưng cho cái cửa nhà. Chữ Nguyệttượng trưng mặt trăng. Trước cửa nhà có ánh trăng rọi đến, khiến phong cảnh trở nên nhàn nhã (chữ Nhàn).

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Bước chân của Đức Huỳnh Giáo Chủ dạo khắp miền đất nước, để khuyến khích mọi người tu hành, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.

    Bài thứ bảy mươi hai
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Duyên sự đê mê cảnh Hớn Đàng,
    Lần dò cho thấu nẻo Tiên bang.
    Xuê xang mấy kiểng nhìn sương gió,
    Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-DUYÊN SỰ: Duyên: Mối liên lạc từ kiếp nầy lưu lại kiếp sau. Sự: Việc. Nghĩa rộng: Những mối liên hệ ràng buộc giữa người nầy với người khác.
    ĐÊ MÊ: Mê mẩn.
    CẢNH: Hình sắc có thể ngắm và thưởng thức.
    HỚN ĐÀNG: Theo quan điểm Phật Giáo Hòa Hảo, ngày Thượng Nguơn khai lập, Đức Minh Chúa ra đời trị chúng, lúc bấy giờ quốc hiệu của nước là Hớn Đàng, Hớn Bang.
    *Tóm lược ý câu “Duyên sự đê mê cảnh Hớn Đàng”: Chờ đợi cho chóng đến ngày Thượng Nguơn khai lập.
    2/-LẦN DÒ CHO THẤU: Tìm hiểu một cách đích xác.
    NẺO: Lối đi, đường đi.
    TIÊN BANG: Nước Tiên, nơi Tiên ở.
    *Tóm lược ý câu “Lần dò cho thấu nẻo Tiên bang”: Rán tu hành để được xem cảnh Tiên sau ngày lập hội Long Hoa.
    3/-XUÊ XANG: Xinh tốt, sang trọng.
    MẤY KIỂNG: Còn gọi mấy cảnh. Những hình sắc có thể ngắm và thưởng thức
    NHÌN SƯƠNG GIÓ: Cảnh ngoài trời có sương rơi và gió thổi. Nghĩa rộng: Ung dung, thong thả.
    *Tóm lược ý câu “Xuê xang mấy kiểng nhìn sương gió”: Ngày đó sẽ được thung dung tự tại.
    4/-LÒN CÚI CHỜ TRÔNG: Lòn cúi: Lách mình qua, cúi thấp xuống. Nghĩa rộng: Nép mình chịu đựng. Chờ trông: Đợi một việc gì. Nghĩa bóng: Ẩn nhẫn để chờ ngày tháo cũi xổ lồng.
    LÚC: Khi nào đó. Dịp nào đó.
    KHẢI HOÀN: Khải: Vui mừng. Hát mừng thắng trận. Hoàn: Trở lại. Nghĩa rộng: Hát khúc khải hoàn khi chiến thắng trở lại triều ca.
    *Tóm lược ý câu “Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn”: Hãy ẩn nhẫn chờ cho đến ngày thành công kết quả mỹ mãn.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Khi đời Thượng Nguơn lập lại, người tu sẽ được ung dung tự tại và thấy được Phật Tiên Thánh cùng chung cảnh giới.

    Bài thứ bảy mươi ba

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Mê man danh lợi cõi hồng trần,
    Có một hội nầy lập lấy thân.
    Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
    Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-MÊ MAN: : Rối trí. Man: Mờ mịt. Trí não rối loạn nên không còn hay biết điều gì.
    DANH LỢI: Danh: Tiếng tăm địa vị trong xã hội. Lợi: Cái có ích mang lại. Công danh và lợi lộc.
    CÕI: Nơi, vùng, khu.
    HỒNG TRẦN: Hồng: Màu đỏ. Trần: Bụi bặm. Bụi đỏ. Cõi đời đầy bụi bặm nhớp nhơ. Nghĩa rộng: Cõi chúng ta đang sinh sống.
    *Tóm lược ý câu “Mê man danh lợi cõi hồng trần”: Chúng sanh sống trong thế gian thường đua đòi theo danh lợi, làm cho tâm trí bị mê tối.
    2/-CÓ MỘT HỘI NẦY: Tức hội Long Hoa hay hội Long Đình (Hội tôi chúa trùng phùng) để định công phạt tội: Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Muốn xem được hội Long Đình,
    Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn”.
    LẬP LẤY THÂN: Cố gắng tu hành để có đầy đủ công đức, hầu có mặt tại Long Hoa đại hội.
    *Tóm lược ý câu “Có một hội nầy lập lấy thân”: Cố gắng tu hành để có đầy đủ công đức hầu dự Long Hoa đại hội, vì dịp nầy là cơ hội duy nhứt cho chúng sanh giải thoát cảnh thế gian, đầy nhớp nhơ đau khổ.
    3/-NẾU ĐỂ TRỄ CHẦY: Nếu chậm trễ thì cơ hội may mắn duy nhứt sẽ đi qua.
    E CHẲNG KỊP: Sợ rằng chẳng còn có thời gian nữa.
    *Tóm lược ý câu “Nếu để trễ chầy e chẳng kịp”: Nếu không nhứt quyết tu hành, thì không còn kịp đến ngày Thượng nguơn tái lập.
    4/-KHUYÊN AI KHUYA SỚM: Khuyến khích người nào đó ngày đêm làm việc (tu hành).
    GẮNG CHUYÊN CẦN: Siêng năng cần mẫn để làm việc (tu hành).
    *Tóm lược ý câu “Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”: Khuyến khích mọi người ngày đêm siêng năng, cần mẫn lo tu tập, để có đầy đủ công đức dự hội Long Hoa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Chúng sanh sống cõi thế gian thường đeo đắm theo danh, lợi, tình, thế nên Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến tấn tu hành để giải thoát cảnh nhớp nhơ đau khổ. Hầu có mặt ngày Long Hoa đại hội sắp khai.

    Bài thứ bảy mươi bốn
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Huyền vi cơ đạo kiến linh kỳ,
    Tự thán dương trần tốc kham bi.
    Vô vị phi liên tâm phế kỷ,
    Điểm hồng nê địa tự thiên chi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HUYỀN VI: Huyền: Sâu xa, kín đáo. Vi: Nhỏ nhặt. Nghĩa rộng: Sự mầu nhiệm của Trời đất.
    CƠ ĐẠO: : Nền móng. Đạo: Đường lối thích hợp với lẽ phải, bổn phận phải tuân thủ. Nghĩa rộng: Căn bản của Đạo Phật.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    LINH KỲ: Linh: Thiêng liêng, ứng nghiệm. Kỳ: Lạ lùng. Nghĩa rộng: Thiêng liêng ứng nghiệm lạ lùng.
    *Tóm lược ý câu “Huyền vi cơ đạo kiến linh kỳ”: Căn bản của Phật Giáo rất là sâu xa huyền diệu.
    2/-TỰ THÁN: Tự: Chính mình. Thán: Than thở. Nghĩa rộng: Than thở lấy một mình.
    DƯƠNG TRẦN: Dương: Cõi dương. Trần: Bụi bặm. Nghĩa rộng: Cõi đời hay cõi thế gian đầy bụi bặm.
    TỐC: Mau, gắp.
    KHAM BI: Kham: Chịu đựng. Bi: Thương xót. Nghĩa rộng: Kiên nhẫn để chịu đựng những điều thương cảm.
    *Tóm lược ý câu “Tự thán dương trần tốc kham bi”: Tự dặn lòng mình rán chịu đựng những nghịch cảnh trái ngang.
    3/-VÔ VỊ: : Không. Vị: Mùi vị. Không có mùi vị. Nghĩa rộng: Không có ý nghĩa gì cả.
    PHI LIÊN: Phi: Chẳng phải. Liên: Nối liền, hợp lại. Nghĩa rộng: Không được nối kết, liên tục.
    TÂM: Lòng.
    PHẾ KỶ: Phế: Bỏ. Kỷ: Mấy. Nghĩa rộng: Nhiều lần không nhìn nhận, chấp nhận.
    *Tóm lược ý câu “Vô vị phi liên tâm phế kỷ”: Những việc không quan trọng mà lòng cứ nghĩ ngợi đến.
    4/-ĐIỂM HỒNG: Điểm: Chấm, tô. Hồng: Sắc đỏ. Nghĩa rộng: Cảnh vật (sắc) màu đỏ.
    NÊ ĐỊA: : Bùn. Địa: Đất. Đất bùn. Nghĩa bóng: Chỗ thấp hèn nhơ nhớp.
    TỰ: Bởi vì, từ đó.
    THIÊN CHI: Thiên: Dời đi từ nơi nầy đến nơi khác. Chi: Phân chia, cầm giữ. Nghĩa rộng: Chủ động di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác.
    *Tóm lược ý câu “Điểm hồng nê địa tự thiên chi”: Những sắc thể ở cõi thế gian không thể tồn tại.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cuộc biến vi thương hải tại thế gian, mà Tạo hóa đã định phần không thể thay đổi.

    Bài thứ bảy mươi lăm
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Chừng nào thấy được phụng hoàng,
    Rồng chầu chớp nhoáng Hớn Đàng hiển vinh.
    Sớm chiều rèn đúc kỉnh tinh,
    Ngày sau mới thấy phép linh của trời.
    Ai ai cũng ở trong đời,
    Chốn nào không đạo là đời vô liêm.
    Xét suy cho cạn cổ kim,
    Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.
    Ta đây ưa ghét mặc tình,
    Dương gian cứ mãi chống kình làm chi.
    Chừng nào Thượng cổ hồi qui,
    Thế trần mới hết khinh khi Phật trời.
    Tu hành đạo đức rao mời,
    Như người ngu dại với đời loạn ly.
    Ở sao cho biết tôn ti,
    Dể ngươi Phật Thánh sầu bi mãn đời.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    CHỪNG NÀO THẤY ĐƯỢC PHỤNG HOÀNG: Phụng Hoàng: Cũng gọi Phượng hoàng: Một loài chim (linh điểu). Con trống là Phụng, con mái gọi là Hoàng. Phụng Hoàng là giống chim đem lại điềm lành cho mọi người. Khi nào phụng hoàng xuất hiện, thì có Thánh nhân ra đời. Ngoài ra, phụng hoàng cũng liệt vào bốn con vật linh (Long, Lân, Qui, Phụng).Nghĩa bóng: Điềm lành ắt có Thánh nhân, Thánh chúa xuất hiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Chừng trần gian kiến thấy phụng hoàng,
    Xòe cánh múa chào mừng Phật Thánh”.
    (Câu nầy nguyên văn là “Xòe cánh múa chào mừng chúa Thánh” nhưng khi xin xuất bản, nhà cầm quyền người Pháp buộc phải sửa chữ Chúa Thánh thành chữ Phật Thánh).
    CHỚP NHOÁNG: Sáng lòa như ánh điện lóe lên.
    HỚN ĐÀNG: (Xem phần trước).
    HIỂN VINH: Vẻ vang.
    RÈN ĐÚC: Luyện với lửa để làm nên vật dụng gì. Nghĩa bóng: Luyện tập đến thuần thục.
    KỈNH TINH: Kỉnh: Tôn trọng. Tinh: Chân thành. Nghĩa rộng: Hết lòng kỉnh trọng, tôn sùng.
    PHÉP LINH: Phép: Thuật riêng của Thần Tiên. Linh: Ứng nghiệm, thiêng liêng.
    CHỐN NÀO KHÔNG ĐẠO: Nơi nào không có luân thường đạo lý.
    LÀ ĐỜI VÔ LIÊM: Tức là xã hội sẽ biến thành một chiến trường tranh đấu. Không có kỷ cương, luật pháp, tôn ti trật tự bị đảo lộn. Con người biến chất, vô liêm sỉ.
    CỔ KIM: Xưa và nay.
    HẾT TÂM BỀN CHÍ: Quyết tâm cố gắng để đạt được mục đích.
    RẠCH TIM: Rạch: Chia, phân. “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”(Nguyễn Du).Tim: Tâm. Nghĩa bóng: Nhận định một cách rõ ràng, chính xác.
    DƯƠNG GIAN: Dương: Cõi dương. Gian: Khoảng giữa. Nghĩa rộng: Nơi chúng sanh đang sinh sống.
    CHỐNG KÌNH: Chống báng, đối lập. Nghĩa rộng: Không nhượng bộ.
    THƯỢNG CỔ: Còn gọi Thượng Nguơn. Nguơn đầu trong Lý Tam Nguơn: (Thượng thượng nguơn, Thượng trung nguơn. Thượng hạ nguơn. Trung thượng nguơn, Trung trung nguơn, Trung hạ nguơn, Hạ thượng nguơn, Hạ trung ngươn, Hạ hạ nguơn).
    HỒI QUI: Hồi: Trở lại. Qui: Về.
    THẾ TRẦN: Thế: Đời. Trần: Bụi bặm. Cõi đời đầy bụi bặm nhớp nhơ.
    KHINH KHI: Xem thường ra mặt.
    TU HÀNH: Tu: Sửa đổi. Hành: Làm. Nghĩa rộng: Sửa sang, chỉnh đốn lại cho tốt đẹp hơn.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem phần trước).
    RAO MỜI: Quảng bá và khuyến khích.
    NHƯ NGƯỜI NGU DẠI VỚI ĐỜI LOẠN LY: Gặp cảnh chiến tranh gây ra cảnh chia lìa, thường những người dốt nát, dại khờ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Bởi vì họ kém mở mang dân trí, không lường trước sự việc sắp xảy ra. Cho nên nói đến họ là nói đến những gì cần phải khắc phục, khó an vui hạnh phúc.
    TÔN TI: Cao thấp, sang hèn.
    DỂ NGƯƠI: Xem thường, khinh mạn.
    PHẬT THÁNH: Phật: (Xem phần trước). Thánh: Bậc “sanh nhi tri” không học mà biết. Người tài đức và phẩm hạnh cao cả. Hai ngôi vị trong hàng Phật Thánh.
    SẦU BI: Sầu: Buồn rầu. Bi: Thương xót. Lo lắng và thương xót.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Chừng nào thấy được phụng hoàng, tức là ngày Chúa Thánh ra đời khai lập hội Long Hoa, đánh dấu một thời đại Thượng Ngươn Thánh đức.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Khùng điên ẩn nhẫn tùy thời,
    Có cơn giả dạng dắt đời Hạ nguơn.
    Mặc tình ai nói thiệt hơn,
    Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời.
    Luân phiên Thầy tớ tách vời.
    Chẳng nài lao lý miễn đời bình an.
    Tiếng đàn hò líu cống xang,
    Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng sanh.
    Buổi nầy nhằm lúc vắng thanh,
    Lời ta khuyên nhủ như cành ghẹo chim.
    Trau giồi đúng bực thanh liêm,
    Nửa sau mới biết thành kim đền đài.
    Việc đời nhiều lúc khôi hài,
    Quyết lòng cho thế một bài học hay.
    Chuyển miền Nam địa lung lay,
    Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời.
    Thiếu ai mà bị réo mời,
    Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh.
    Trớ trêu phải mượn kệ kinh,
    Mặc tình dân sự biện minh lẽ nào.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    KHÙNG ĐIÊN: (Xem phần trước).
    ẨN NHẪN: Ẩn: Che giấu. Nhẫn: Bền chí. Nghĩa rộng: Nhẫn nại giấu mình không để ai biết đến.
    CÓ CƠN GIẢ DẠNG: Hành tung như người không bình thường, hoặc giả dạng như người bị tâm thần.
    HẠ NGUƠN: (Xem phần trước).
    TAI TIẾNG: Biếm nhẻ, đặt điều nói không đúng sự thật.
    LUÂN PHIÊN: Thay đổi.
    THẦY TỚ: (Xem phần trước).
    TÁCH VỜI: Lìa khỏi chỗ nào đó. Nghĩa rộng: Ra đi.
    NÀI: Từ chối, nề hà. “Dẫu rằng uống nước ăn rau chớ nài” (Nhị Độ Mai).
    LAO LÝ: Mệt nhọc vì phải đi xa hay mắc trong vòng tù tội.
    BÌNH AN: Bình: Bằng phẳng. An: Yên ổn. Không có việc gì xảy ra.
    TIẾNG ĐỜN HÒ LÍU CỐNG XANG: Tiếng đờn: Âm thanh phát ra từ cây đàn. Hò:Một điệu hát bình dân, có âm tiết đơn giản. Líu cống xang: Tức ba trong năm cung bậc: (Xự, Xang, Xê, Cống, Líu). Nghĩa bóng: Lời giảng kệ thâm trầm.
    KHUYÊN NHỦ: Dạy bảo, khuyến dụ.
    CHÚNG SANH: (Xem phần trước).
    VẮNG THANH: Vắng vẻ, yên tĩnh. Nghĩa rộng: Trời trong mây tạnh.
    LỜI TA KHUYÊN ĐÓ: Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên bảo về một vấn đề nào đó.
    NHƯ CÀNH GHẸO CHIM: Cành cây nào cũng hấp dẫn để cho loài chim nghỉ cánh. Nghĩa bóng: Lời pháp giáo của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất thích hợp với mọi căn cơ trình độ của chúng sanh, nhứt là đúng chỗ đúng lúc.
    TRAU GIỒI: Làm cho tốt hơn.
    THANH LIÊM: Thanh: Trong sạch. Liêm: Tinh khiết, không tham lam. Nghĩa rộng: Trong sạch không ham của người.
    THÀNH KIM ĐỀN VÀNG: Cung điện, đền đài bằng vàng. Nghĩa bóng: Nơi vua ngự.
    KHÔI HÀI: Khôi: Đùa bỡn. Hài: Nói đùa. Nghĩa rộng: Lời nói đùa cợt, trò đùa.
    CHO THẾ: Cho đời. Nghĩa rộng: Cho mọi người cùng sinh sống trong trái đất.
    MỘT BÀI HỌC HAY: Lời vàng tiếng ngọc. Những tấm gương trung hiếu lưỡng toàn…Đó là những bài học hữu ích để chúng ta lấy đó làm gương.
    MIỀN NAM ĐỊA: Đất miền Nam Việt Nam.
    LUNG LAY: Rung chuyển.
    NAM TRUNG CÙNG BẮC: Chỉ chung ba miền của nước Việt Nam: Bắc Kỳ (Bắc Bộ, Bắc Phần), Trung Kỳ (Trung Phần) và Nam Kỳ (Nam Phần).
    MỘT TAY GIÁO ĐỜI: Một mình Đức Huỳnh Giáo Chủ, đi khắp nước Việt Nam để khuyến khích tu hành.
    THIẾU AI: Vắng mặt người nào đó, kêu mời một ai đó.
    RÉO MỜI: Kêu gọi, mời mọc.
    ĐẦU TRÊN XÓM DƯỚI: Khắp cùng cả làng xóm. Nghĩa bóng: Hết thảy mọi giới, mọi người.
    THỈNH MỜI: Cung nghinh, mời mọc.
    LIÊN THINH: Liền tiếng.
    TRỚ TRÊU: Đùa bỡn. Nghĩa rộng: Dối gạt người một cách lắc léo.
    KỆ KINH: Kệ: Một thể văn trong Kinh Phật. Thường cứ một thiên kinh, lại có một bài kệ để tán tụng, diễn dịch ý trong bài văn đó. Nghĩa rộng: Những lời của chư Phật được ghi lại, gọi chung là sách của Tôn giáo.
    DÂN SỰ: Việc thuộc về dân, có tính cách dân chúng.
    BIỆN MINH: Biện: Tranh luận, bàn cãi. Minh: Rõ ràng. Nghĩa rộng: Tranh luận để cho rõ lý lẽ.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng lắm lần giả dạng Khùng Điên, để dễ bề vân du giáo hóa, cứu độ chúng sanh.

    Bài thứ bảy mươi sáu

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Thâm trầm đạo đức quá thanh thao,
    Rừng rú kệ kinh cắt khoen vào.
    Rước đưa sanh chúng rời bể ái,
    Thử thét cho cùng cạn thấp cao.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THÂM TRẦM: Sâu xa, kín đáo. Trái với nông nổi.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem phần trước).
    THANH THAO: Thanh nhã, cao thượng.
    RỪNG RÚ KỆ KINH: Sách của chư Phật nhiều như cây rừng. “Rừng Nhu bể Thánh”.
    CẮT KHOEN RÀO: Làm cho đứt lìa đi. Nghĩa bóng: Mở cửa để vào đạo hay mở rộng nền đạo ra khắp mọi nơi.
    SANH CHÚNG: (Xem phần trước).
    BỂ ÁI: Lòng yêu thương, sự yêu đương của chúng sanh ví như biển cả. Nghĩa rộng: Sự ái dục lớn lao.
    THỬ THÉT CHO CÙNG: Hãy vạch một con đường duy nhứt.
    THẤP CAO: Thấp: Kém. Cao: Hơn. Nghĩa rộng: Thiếu kém tài đức hay hơn hẳn.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Lời dạy của chư Phật, kinh sách của chư Phật, để lại không thể nào đếm được.

    Bài thứ bảy mươi bảy
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Liên lụy trần mê bể ái hà,
    Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca.
    Thể thống Thần Tiên kiên bế chí,
    Tương đồng sanh chúng gội Ma ha.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    LIÊN LỤY: Liên: Nối liền. Lụy: Ràng buộc, vương vấn. Nghĩa rộng: Làm ảnh hưởng đến người khác.
    TRẦN MÊ: Trần: Bụi bặm. : Rối loạn. Nghĩa rộng: Mất khả năng nhận biết.
    BỂ ÁI HÀ: (Xem phần trước)
    BỖNG XUẤT: Tự nhiên hiện ra trước mặt.
    THOÀN TÌNH: Thoàn: Thuyền. Tình: Những mối cảm xúc trong lòng phát ra ngoài. Nghĩa rộng: Mối cảm xúc trong lòng ví như chiếc thuyền chở được tình cảm.
    THI CA: Thi: Thơ văn. Ca: Những lời có vần, có điệu. Có thể ngâm hay hát được.
    THỂ THỐNG: Thể: Cách thức. Thống: Nối tiếp nhau. Nghĩa rộng: Đúng cách thức, qui củ.
    THẦN TIÊN: (Xem phần trước).
    KIÊN: Cứng, vững bền.
    BẾ CHÍ: Bế: Đóng, giấu kín. Chí: Điều hướng đến của tâm.
    TƯƠNG ĐỒNG: Cùng giống nhau.
    SANH CHÚNG: (Xem phần trước).
    MA HA: Phiên âm Phạn ngữ (Mâha), dịch nghĩa: Rộng lớn. Nói đến Ma ha tức là nói đến đại đạo.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác thi văn để khuyến khích mọi người tìm nguồn đại đạo, nối chí theo các bậc hiền nhơn Thánh đức.

    Bài thứ bảy mươi tám
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Si lung á giá tọa phú hào
    Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao
    Thố tử hồ bi ghi chí hứng,
    Đại đồng đạo cả khắp trùm bao.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    SI LUNG: Si: Mê muội. Lung: Cái lồng, sự ràng buộc. Nghĩa rộng: Vô minh ví như chiếc lồng trói buộc.
    Á GIÁ: Á: Không nói thành tiếng. Giá: Đổ họa cho người. Nghĩa rộng: Ghét hại người một cách âm thầm.
    TỌA: Ngồi.
    PHÚ HÀO: Phú: Giàu sang. Hào: Thế lực. Nghĩa rộng: Có tiếng tăm địa vị trong xã hội.
    TIÊN KIẾN: Tiên: Trước. Kiến: Thấy. Nghĩa rộng: Đã dự kiến trước việc sắp xảy ra.
    HẬU HIỀN: Hậu: Sau. Hiền: Người có tài năng đức hạnh.
    Người chết được làng lập đền thờ gọi là “Tiên Hiền”. Người đang còn sống gọi là “Hậu Hiền”.
    QUÍ KỶ CAO: Quí: Địa vị cao sang. Kỷ: Năm, tuổi. Cao: Trên, lớn. Nghĩa rộng: Tên tuổi, địa vị cao sang trong xã hội.
    THỐ TỬ HỒ BI: Thố: Con thỏ. Tử: Chết. Hồ: Con chồn. Bi: Thương xót. Con thỏ chết, chồn thương tiếc. Nghĩa rộng: Con vật còn biết thương đồng loại.
    GHI: Biên chép.
    CHÍ HỨNG: Chí: Điều hướng đến của tâm. Hứng: Còn gọi hướng: Nghĩ về việc gì đó, nơi nào đó. Nghĩa rộng: Quyết định theo đuổi một công việc gì. Hướng về một ngã nào.
    ĐẠI ĐỒNG: Đại: Lớn, khắp nơi. Đồng: Như nhau. Nghĩa rộng: Nói đến một thế giới mà mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cho dù có giàu sang phú quí hay thế lực mạnh mẽ đến đâu, cũng phải chịu dưới sự chi phối của tạo hóa. Chỉ có con đường tu hành giải thoát, mới có cuộc sống tự tại, mọi người đều bình đẳng trong cộng đồng xã hội.

    Bài thứ bảy mươi chín
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Toan ly bể khổ, khổ tới à !
    Dân sự an nhàn sướng dữ a.
    Ta mảng lòng lo gìn sanh chúng,
    Gội nhuần ân đức vịnh phong ca.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TOAN LY BỂ KHỔ: Chuẩn bị để thoát ra khỏi cảnh khổ, rộng lớn ví như bể cả. Nghĩa bóng: Cố gắng tu hành giải thoát, để thoát ra cảnh khổ.
    DÂN SỰ: (Xem phần trước).
    AN NHÀN: Yên ổn, rảnh rang. Nghĩa rộng: không vướng bận, ràng buộc.
    SANH CHÚNG: (Xem phần trước).
    GỘI NHUẦN: Lan tỏa khắp nơi.
    ÂN ĐỨC: Ân: Ơn. Đức: Tâm lành. Ăn ở hợp với đạo lý. Nghĩa rộng: Hay làm ơn cho kẻ khác với tấm lòng nhơn hậu.
    VỊNH: Ca hát. Nghĩa rộng: Sáng tác thơ văn.
    PHONG CA: Các câu hát về tập tục cũng gọi là phong. Ví dụ: Phong dao (những câu vận văn nói về phong tục tập quán). Ca: Hát. Nghĩa rộng: Nói về những tập quán, phong tục của con người.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dùng văn thơ để nhắc nhở mọi người phải giữ phong hóa nước nhà.

    Bài thứ tám mươi
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Ma ha thoàn nhỏ dọn rồi đa,
    Chèo lái trương buồm chớ thả trôi.
    Bến giác bờ mê, mê phải tránh,
    Ly biệt hồng trần hỡi ai ôi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    MA HA: Phiên âm Phạn ngữ: Mâha, dịch nghĩa: Rộng lớn. Sự lớn rộng ví như hư không. Nói đến Ma ha tức là nói đến đại đạo.
    THOÀN NHỎ: Chiếc ghe nhỏ, làm phương tiện giao thông đường thủy. Nghĩa bóng: Nguồn Giáo pháp ví như chiếc ghe, có thể đưa người qua sông.
    MA HA THOÀN NHỎ: Nguồn đại đạo ví như chiếc thuyền, có công năng đưa người từ bờ mê, sang qua bến giác.
    CHÈO LÁI TRƯƠNG BUỒM: Người điều khiển tay lái của chiếc ghe, thả cánh buồm bọc gió, để cho thuyền đi nhanh hơn. Nghĩa bóng: Gặp nguồn đại đạo thì phải cố gắng tu tập tin tấn (?), để trở thành người đức hạnh.
    CHỚ THẢ TRÔI: Không chèo, không trương buồm, tất nhiên chiếc ghe chẳng tiến tới được. Nghĩa bóng: Không tin tấn (?) tu hành, thường bị giải đãi.
    BẾN GIÁC BỜ MÊ: Bến giác: Do chữ Giác ngạn: Tức bờ giải thoát của chư Phật.Bờ mê: Tức bến mê tân của chúng sanh. Nghĩa bóng: Giải thoát và còn sanh tử luân hồi.
    MÊ PHẢI TRÁNH: Cố gắng tu hành để được giải thoát, tránh ra được sự trói buộc của kiếp nhân gian.
    LY BIỆT: Ly: Chia lìa. Biệt: Chia cắt. Nghĩa rộng: Xa cách.
    HỒNG TRẦN: Hồng: Màu đỏ, sắc đỏ. Trần: Bụi bặm. Bụi đỏ. Nghĩa rộng: Ý nói cõi thế gian đầy bụi bặm nhớp nhơ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Muốn xa lánh hồng trần đầy nhớp nhơ khổ sở, thì phải cố gắng tin tấn (?) tu hành.

    Bài thứ tám mươi mốt-> Bài thứ chín mươi

    Bài thứ tám mươi mốt

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Liên Hoa chín phẩm ở Ngọc Tòa
    Được lịnh Thiên Hoàng nấy sai ta.
    Hạ giới dạy khuyên truyền đạo lý,
    Giả dạy Điên Khùng mượn thi ca.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LIÊN HOA: Liên: Sen. Hoa: Bông. Bông sen.
    CHÍN PHẨM: Nghĩa của Cửu phẩm. Nghĩa rộng: Chín tầng hay bậc.
    LIÊN HOA CỬU PHẨM: Chín tầng sen, tượng trưng cho phẩm trật nhà Phật. Cao nhứt là Phật Tổ Thích Ca, sau hết là Bích Chi Phật (Quả Phật ví như xe dê trong Tam thặng, chỉ độ được mình). Trong Kinh Phật phân chia như sau:
    1.-Ba phẩm thượng:
    a/-Được trăm ngàn pháp Đà La Ni.
    b/-Qua một tiểu kiếp mới đắc vô sanh.
    c/-Qua ba tiểu kiếp mới đắc bách pháp môn.
    2.-Ba phẩm trung:
    a/- ...
    b/-Nửa kiếp mới đắc A La Hán.
    c/-Một kiếp mới đắc A La Hán.
    3.-Ba phẩm hạ:
    a/-Qua mười kiếp mới đặng vào.
    b/-Qua sáu kiếp hoa sen mới nở.
    c/-Qua mười hai kiếp mới phát Bồ Đề tâm.
    (Theo Quán Kinh Vô Lượng Thọ).
    NGỌC TÒA: Chỗ ngồi bằng ngọc. Nghĩa bóng: Nơi Phật Tổ Thích Ca ngự. “Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai ta”( ĐHGC)
    THIÊN HOÀNG: Còn gọi Đức Ngọc Đế, Đức Ngọc Hoàng: Vua cõi Trời.
    NẤY SAI TA: Nấy: Nơi ấy. Sai Ta: Sắc lịnh cho Đức Huỳnh Giáo Chủ. Cũng như cụm từ: Nơi ấy sai ta.
    HẠ GIỚI: Hạ: Xuống. Giới: Vùng, cõi. Nghĩa rộng: Nơi chúng sanh ở.
    TRUYỀN ĐẠO LÝ: Truyền: Trao cho, từ người nầy sang người khác. Thế hệ nầy qua thế hệ khác. Đạo lý: Nghĩa lý phù hạp với đạo đức.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cửu phẩm Liên Hoa là kết quả của công phu tu tập.

    Bài thứ tám mươi hai
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Ham vui đào mận chẳng xong rồi,
    Trung hiếu giữ gìn phận con tôi.
    Thế sự bao la ta chẳng quản,
    Tiên cảnh non bồng sẵn vị ngôi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    HAM VUI ĐÀO MẬN: Ham vui: Thích chỗ đông người. Đào: Loại cây có hoa đẹp, thường ví với người con gái. Mận: Thứ cây thuộc về loại mơ (miền Bắc gọi là roi, miền Nam gọi là mận). Nghĩa rộng: Ám chỉ đến đàn bà con gái. Thích thú, đam mê con đường tình ái, sắc dục. “Khi ấp mận, ôm đào gác nguyệt” (Nguyễn Du).
    TRUNG HIẾU: (Xem phần trước).
    PHẬN CON TÔI: Bổn phận hiếu với ông bà cha mẹ. Trung với vua, với nước. Đó là bổn phận của con người phải đền đáp. Nho Giáo gọi là Đạo nhân luân.
    THẾ SỰ: Thế: Đời. Sự: Việc. Nghĩa rộng: Chuyện đời.
    BAO LA: Trùm khắp
    TA CHẲNG QUẢN: Đức Huỳnh Giáo Chủ không nản chí, không ngại gian lao vất vả.
    TIÊN CẢNH: (Xem phần trước).
    NON BỒNG: Còn gọi Bồng Lai: Tên hòn đảoTiên ở trong biển, cùng với Phương Trượng và Doanh Châu. Nghĩa rộng: Nơi Tiên ở.
    SẴN VỊ NGÔI: Quả vị đã có sẵn nơi Tiên cảnh, Phật cảnh.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên hãy tránh xa sắc dục, đạo nhân luân phải đền đáp cho tròn vẹn, chừng ni quả vị sẽ dành sẵn cho mọi người.

    Bài thứ tám mươi ba
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nước non náo nức giống nòi Hồng
    Gắng chí kiếm tìm chủ nhơn ông.
    Noi sức bình sanh quanh nước lửa,
    Có một ngày chờ hội ứng thi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    THAY CẢNH ĐỔI LÒNG: Thay cảnh: Thay thế cảnh vật hay hoàn cảnh. Đổi lòng: Quan điểm, hay ý nghĩ khác hơn. Nghĩa bóng: Ảnh hưởng bởi luật: Thành, Trụ, Hoại, Không của Tạo hóa.
    BIỆT LY: Biệt: Xa cách. Ly: Chia lìa. Nghĩa rộng: Tách rời ra, mỗi người ở một nơi.
    BẢNG SON: Tấm bảng bằng đá đỏ, hay tấm bảng màu đỏ. Ghi tên ngững người thi đỗ.
    LINH KỲ: Linh: Thiêng liêng, ứng nghiệm. Kỳ: Cờ. Nghĩa rộng: Cây cờ biểu tượng cao xa, linh diệu.
    BÌNH SANH: Bình: Thường. Sinh: Sống. Trong cuộc đời của mình. Luận ngữ: “Cửu yếu bất vong bình sanh chi ngôn”( Điều cốt yếu là không quên lời nói trong lúc mình còn sống).
    QUANH NƯỚC LỬA: Kề cận sự hiểm nguy.
    HỘI ỨNG THI: Hội: Họp đông người để làm việc gì. Ứng thi: Đi thi. Nghĩa bóng: Hội Long Hoa khai, để thi công đức, chọn bậc hiền tài phò chơn chúa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đến chừng Thượng Nguơn lập lại, cảnh vật và con người đều thay đổi. Hội Long Hoa khai mở để chọn hiền tài phò chơn chúa.

    Bài thứ tám mươi lăm

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Hồn thơ Tiên Thánh sánh đạo mầu,
    Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu.
    Tóm tắt ít lời âu diệt chủng
    Thế sự mê hồn lụy song mâu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HỒN THƠ: Cảm hứng về thơ.
    TIÊN THÁNH: (Xem phần trước).
    ĐẠO MẦU: Chơn lý sâu xa, mầu nhiệm hay con đường của tâm linh.
    TÓM TẮT: Đúc kết lại cho gọn.
    ÂU DIỆT CHỦNG: Lo lắng bị mất giống, làm cho mất sạch giống nòi.
    THẾ SỰ: (Xem phần trước).
    MÊ HỒN: : Rối loạn trí óc. Hồn: Chỉ phần linh hồn. Cái làm cho tinh thần con người bị rối loạn, cuốn hút như mất hồn.
    LỤY SONG MÂU: Lụy: Còn gọi là Lệ: Nước mắt.Song: Đôi. Mâu: Tròng con mắt. Nghĩa rộng: Hai hàng nước mắt. Khổ sở ảnh hưởng bởi chiến tranh, tai trời ách nước.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cảnh báo nạn chiến tranh, sẽ làm cho con người khổ sở, rơi nhiều nước mắt.

    Bài thứ tám mươi sáu
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
    .
    Tan nát xóm diềng khổ dữ a.
    Nhà không kẻ ở ! Ôi, nói trước,
    Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    XÓM DIỀNG: (Xem phần trước).
    THIẾT THA: Thiết: Cắt. Tha: Mài. Nghĩa rộng: Đậm đà, sốt sắng. Hết sức cần đến.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cảnh chiến tranh khiến cho gia đình ly tán, đó là nỗi khổ sắp xảy đến, nếu không lo tu hành sau nầy sẽ hối hận.

    Bài thứ tám mươi bảy

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Lời xưa di tích rõ việc nầy
    Ai muốn mắt phàm gặp rồng mây
    Hãy rán nghe lời ta mách trước.
    Không gìn đạo đức phải phơi thây.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LỜI XƯA: Lời của các bậc tiền bối, hay văn tự của cổ nhơn. “Lời của người di tịch núi Sam”( ĐHGC) hoặc “Lời xưa thanh sử còn ghi, Khen anh Hàn Tín vậy thì mưu cao” (ĐHGC).
    DI TÍCH: Những sự kiện hay chuyện xưa, trước kia đã có.
    RỒNG MÂY: Rồng trên mây. Nghĩa bóng: Hội Rồng Mây, còn gọi Hội Long Vân: Hội họp mặt của các bậc Phật Tiên Thánh.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem phần trước).

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Những lời của người xưa đã để lại, cho biết đến ngày Long Vân hội khai mở, sẽ có Phật Tiên Thánh giáng lâm.

    Bài thứ tám mươi tám

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Thương dân xuống bút tay đề,
    Dặn dò bá tánh chớ hề lợt phai.
    Cuộc thế giới chuyển lay như chóng,
    Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe.
    Lam Kiều hữu lộ vắng hoe,
    Ngục môn không cửa mà hè nhau đi.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    XUỐNG BÚT TAY ĐỀ: Dùng giấy bút ra kinh giảng để khuyến tu.
    DẶN DÒ: Bảo cho nhớ.
    BÁ TÁNH: (Xem phần trước).
    THẾ GIỚI: (Xem phần trước).
    CHUYỂN LAY NHƯ CHÓNG: Thay đổi mau lẹ, diễn ra liên tục.
    DÂN TÌNH: (Xem phần trước).
    HÃY LÓNG MÀ NGHE: Nên lặng lẽ, bình tĩnh mà nghe lời nói, lời khuyên. Nghĩa rộng: Tìm hiểu cho chính xác rõ ràng.
    LAM KIỀU: Do chữ Cầu Lam. Cây cầu bắc qua sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Hoa). Nơi đây, Bùi Hàng gặp Vân Anh, nhờ bài thơ của Vân Kiều (em của Vân Anh) dẫn lối:
    Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh
    Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh.
    Lam Kiều tiện thị Thần Tiên quật,
    Hà tất khi khu thướng ngọc kinh.
    (Uống rượu quỳnh tương trăm cảm sinh
    Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh.
    Lam Kiều vốn thiệt nơi Tiên ở,
    Hà tất băng đường đến ngọc kinh).
    Nhờ bài thơ trên nên Bùi Hàng tìm đến Lam Kiều, được mẹ Vân Anh gá nghĩa lương duyên. Sau cùng tu Tiên được đắc quả lên trời. Các văn nhân hay mượn “Lam Kiều” hay “Cầu Lam” để nói đến cảnh Tiên.
    Tình riêng tưởng ít nhớ nhiều,
    Xâm xâm đè nẻo Lam Kiều lần sang”.
    (Nguyễn Du)
    HỮU LỘ VẮNG HOE: Có đường đi nhưng không thấy khách vãng lai. Nghĩa bóng: Chốn Tiên cảnh đường rộng thênh thang, nhưng không có người tìm đến. (Ở đây ý muốn nói không thấy ai lo tu hành tin tấn (?) để được chứng đắc quả Tiên, còn đam mê theo con đường trụy lạc, bị trầm luân nơi cõi thế gian, thì đầy dẫy không biết bao nhiêu người.
    NGỤC MÔN: Cửa ngục. Nơi giam giữ tội nhân.
    MÀ HÈ NHAU ĐI: Thế mà nhiều người tự nguyện đi đến.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Cõi Thiên đàng rộng mở, thế mà ít ai lo tin tấn (?) tu hành để được chứng đắc về đó. Còn nơi địa ngục cầm giữ tội đồ, thì đầy dẫy người ta hè nhau xuống đó.

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Thảm cho trẻ hài nhi lịu địu,
    Vợ xa chồng bận bịu thê lương.
    Phong trần dày dạn gió sương,
    Chư bang ham báu hùng cường đua tranh.
    Còn một cuộc chiếu manh giành xé,
    Khắp hoàn cầu ó ré một nơi
    Dòm xem châu ngọc chiều mơi
    Sao đời không sớm tách rời cõi mê.
    Để đến việc thảm thê thê thảm,
    Mắt phàm trần tường lãm bi ai.
    Cũng đồng cốt nhục hoài thai,
    Nên ta rán sức miệt mài dạy khuyên.
    Thơ với phú Thần Tiên giáng bút,
    Bởi cơ Trời đà thúc bên lưng.
    Không tu chừng khổ cũng ưng,
    Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HÀI NHI: Hài: Trẻ thơ. Nhi: Con nít. Nghĩa rộng: Lúc còn nhỏ tuổi.
    LỊU ĐỊU: Công việc không dứt khoát, không rảnh rang.
    BẬN BỊU: Vương vít, khó rời ra.
    THÊ LƯƠNG: Lạnh lẽo, vắng vẻ.
    PHONG TRẦN: Phong: Gió. Trần: Bụi bặm. Nghĩa rộng: Cuộc đời bất ổn hoặc từng trải gian nan.
    DÀY DẠN: Từng trải.
    CHƯ BANG: Chư: Nhiều. Bang: Nước. Nhiều nước.
    HÙNG CƯỜNG: Mạnh mẽ. Đủ sức đương đầu, chịu đựng.
    CHIẾU MANH GIÀNH XÉ: Tranh đua xâu xé nhau, dù cho chuyện không đáng phải hành động như vậy. Chuyện lớn nhỏ cũng không từ.
    HOÀN CẦU: Hoàn: Vây quanh. Cầu: Vật hình tròn. Nghĩa rộng: Khắp cả thế giới, khắp cả trái đất.
    Ó RÉ: La lối lớn tiếng. Nghĩa bóng: Tranh giành, xung đột khắp mọi nơi.
    CHÂU NGỌC: Châu: Hạt trai. Ngọc: Viên ngọc. Nghĩa rộng: Những thứ quí giá.
    TÁCH RỜI: Lìa xa, tránh xa.
    THẢM THÊ, THÊ THẢM: Thảm: Đau xót, đau đớn. Thê: Đau thương. Nghĩa rộng: Buồn khổ đau đớn.
    MẮT PHÀM TRẦN: Cái nhìn, hiểu biết của phàm nhân còn hạn chế. Nghĩa rộng: Kiến thức còn hạn chế.
    TƯỜNG LÃM: Tường: Rõ ràng. Lãm: Thu góp. Nghĩa rộng: Lãnh hội một cách rốt ráo.
    BI AI: Đau thương sâu sắc.
    CỐT NHỤC HOÀI THAI: Cùng chung một mẹ sanh ra. Nghĩa rộng: Cùng chung một bọc. Cùng là con Rồng cháu Tiên.
    MIỆT MÀI: Mải mê theo, say đắm theo.
    THƠ VỚI PHÚ: Thơ: Những bài vận văn. Phú: Mô tả. Dùng để tiêu biểu cho các loại văn vần.
    THẦN TIÊN: (Xem phần trước).
    GIÁNG BÚT: Giáng: Xuống. Bút: Cây viết. Nghĩa rộng: Dùng văn chương để khuyến khích tu hành.
    CƠ TRỜI: Trời vận hành như một guồng máy, không ai có thể hiểu biết.
    ĐÀ THÚC BÊN LƯNG: Đã đến lúc phải hành động, không thể chậm trễ được nữa. Nghĩa bóng: Hãy gấp rút tu hành, kẻo không còn kịp nữa.
    TU HÀNH: (Xem phần trước).

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Chiến tranh sẽ xảy ra khắp nơi trên thế giới. Chỉ có con đường tu hành sau nầy mới thoát khỏi thảm cảnh đó.

    Bài thứ tám mươi chín
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài
    Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai.
    Tỏ thuyết huyền vi sanh chúng rõ,
    Năng kỳ liên huệ tất biền lai.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-HOÀNG HÔN: Hoàng: Vàng (Cảnh vật nhuộm màu vàng). Hôn: Tối. Lúc trời gần tối (sắp tối).
    TÁI SẮC: (?!)…Hình thể tái hiện lại.
    CHUYỂN: Bánh xe quay, đưa đi, xoay vần.
    LUÂN TÀI: Luân: Đạo lý. Tài: Tính chất hay giỏi. Nghĩa rộng: Tính chất cao cả.
    *Tóm lược ý câu “Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài”: Đến ngày nào đó sẽ đến lúc trở lại như cũ. Ý nói sắp kết thúc đời Hạ nguơn, để chuyển sang đời Thượng Nguơn.
    2/-NHỰT DẠ: Ngày và đêm.
    YÊU ĐỜI CHỈ QUÁ DAI: Vì thương chúng sanh, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ không nài cực khổ, không ngừng nghỉ đi khắp nơi khuyến khích tu hành.
    *Tóm lược ý câu “Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai”: Ngày đêm không hề nghỉ ngơi.
    3/-TỎ THUYẾT: Nói cho rõ ràng, làm cho phân minh để cho người khác hiểu mục đích của mình.
    HUYỀN VI: Huyền: Sâu kín. Vi: Nhỏ nhặt. Nghĩa rộng: Sự mầu nhiệm của trời đất.
    SANH CHÚNG: (Xem phần trước).
    *Tóm lược ý câu “Tỏ thuyết huyền vi sanh chúng rõ”: Nói rõ sự vận hành của tạo hóa, rất sâu xa mầu nhiệm.
    4/-NĂNG KỲ: Năng: Gánh vác, đủ sức. Kỳ: Lạ lùng. Nghĩa rộng: Sức mạnh phi thường hay điều lạ lùng có thể xảy ra.
    LIÊN HUỆ: Liên: Hoa sen. Huệ: Hoa huệ.
    TẤT: Ắt hẳn.
    BIỀN LAI: Cùng đi song song với nhau.
    *Tóm lược ý câu “Năng kỳ liên huệ tất biền lai”: Lúc đó người tu nhơn đạo sẽ đắc một trong hai quả như hoa sen và hoa huệ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Thời kỳ hoàng hôn đã biến chuyển, Đức Huỳnh Giáo Chủ vì quá thương đời, mà nói rõ lẽ huyền vi. Đến lúc đó công đức như hoa sen hoa huệ, nở cùng một lúc.

    Bài thứ chín mươi
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)

    Tư lương đeo đuổi giấc mộng sầu
    Bớ hỡi dương trần khá liệu âu.
    Nước lửa đến chưn, ôi ! Khó nhảy
    Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TƯ LƯƠNG: Trăn trở, nhớ nghĩ lo âu. “Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi” (Trần Tế Xương).
    GIẤC MỘNG SẦU: Giấc chiêm bao thấy cảnh buồn lo. Nghĩa bóng: Ý nói cõi thế gian đầy dẫy cảnh khổ, danh lợi tình có đó rồi mất đi, ví như giấc chiêm bao.
    DƯƠNG TRẦN: (Xem phần trước).
    LIỆU ÂU: Toan tính.
    NƯỚC LỬA ĐẾN CHƯN: Nước ngập, lửa cháy sát bên mình. Nghĩa rộng: Tai trời ách nước, chiến tranh sắp xảy đến.
    ÔI ! KHÓ NHẢY: Tiếng than thở. Khó tránh khỏi.
    CO GIÒ PHÓNG RIẾT: Nghĩa rộng: Sợ hãi không duyên cớ, hành động thiếu lý trí.
    LỌT NGOÀI SÂU: Khiến cho chính mình phải lâm vào hoàn cảnh khốn đốn, khó khăn hay phải đối đầu với cảnh giặc giã, chiến tranh tàn khốc.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Cõi thế gian danh lợi tình như giấc chiêm bao, thế mà con người không hay biết. Đợi cho đến ngày trả quả mới lo liệu thì việc đã muộn màng.

    Bài thứ chín mươi mốt-> Bài thứ một trăm

    Bài thứ chín mươi mốt

    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Huyền cơ đạo hạnh hãy rán tầm
    Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm
    Ngàn năm Thích đạo đành chôn lấp.
    Thương tưởng bá gia nỗi lạc lầm.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HUYỀN CƠ: Huyền: Sâu xa, kín đáo. : Máy móc. Nghĩa rộng: Trời vận hành như một guồng máy, không ai có thể hiểu được.
    ĐẠO HẠNH: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải.Hạnh: Tính nết. Nghĩa rộng: Tính chất của đạo lý vốn tốt đẹp.
    TẦM: Tìm tòi, học hỏi.
    TIÊN PHẬT: (Xem phần trước).
    DỤNG: Dùng.
    NHƠN TÂM: Nhơn: Lòng thương người, mến vật.Tâm: Lòng. Nghĩa rộng: Lòng thương người mến vật.
    THÍCH ĐẠO: Đạo Phật hay Phật Giáo. Giáo Chủ là Phật Tổ Thích Ca, Giáo Chủ cõi Ta Bà.
    CHÔN LẤP: Vùi sâu. Nghĩa rộng: Không còn được nhắc nhở, truyền tụng.
    THƯƠNG TƯỞNG: Nghĩ đến.
    BÁ GIA: Bá: Một trăm. Gia: Nhà. Trăm nhà. Nghĩa rộng: Mọi nhà.
    LẠC LẦM: Sai lệch, nhầm lẫn.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đời Hạ nguơn sắp kết thúc, để lập lại Thượng nguơn. Sau nầy xã hội chỉ sử dụng những người nhân từ đức hạnh, còn hạng hung hăng sẽ bị đào thải.

    Bài thứ chín mươi hai
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,
    Sao dân còn tríu mến trần mê.
    Mắt nhìn ngoại quốc thảm thê,
    Nam bang cảnh khổ cũng kề bên tai.
    Cuộc biến động nay mai nguy ngập,
    Một hội nầy rán lập thân danh.
    Kìa kìa các bậc công khanh,
    Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.
    Đất với nước hậu lai vinh diệu,
    Đạo lo tròn yểu điệu tấm thân.
    Một câu quân lý tứ ân,
    Ta đừng phai lợt Phong thần bảng ghi.


    Hòa Hảo, tháng giêng năm Canh Thìn (1940).
    (Chép theo bản chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ).

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

    THẢM KHỔ: Thảm: Đau xót. Khổ: Lo lắng.
    CHIỀU MAI: Chiều nay, sáng mai. Nghĩa rộng: Gần bên, kề bên.
    TRÍU MẾN: Nuối tiếc, luôn nghĩ đến.
    TRẦN MÊ: Trần: Bụi bặm. Mê: Rối loạn, mất khả năng nhận biết.
    NGOẠI QUỐC: Nước ngoài.
    THẢM THÊ: Buồn khổ đau đớn.
    NAM BANG: Nước Nam, tức nước Việt Nam.
    CẢNH KHỔ CŨNG KỀ BÊN TAI: Những nạn đói, nạn chiến tranh, tai trời ách nước sát một bên rồi.
    BIẾN ĐỘNG: Xáo trộn, ồn ào.
    NGUY NGẬP: Đầy dẫy hiểm nghèo. Nghĩa rộng: Ý nói tình hình bất ổn.
    MỘT HỘI NẦY: Cơ hội duy nhứt. Nghĩa bóng: Ngày được dự Long Hoa đại hội, chọn những bậc hiền nhơn phò chơn chúa.
    RÁN LẬP THÂN DANH: Cố gắng tạo cho mình có tên tuổi địa vị trong xã hội. Nghĩa bóng: Rán lo tu hành để trở thành hiền nhơn, có mặt ngày Long Hoa đại hội.
    KÌA KÌA: Ở sát đằng kia. Nghĩa rộng: Sờ sờ ra đó.
    CÁC BẬC CÔNG KHANH: Các bậc: Nhiều vị, nhiều phẩm trật. Công khanh: Do chữ “Tam công cửu khanh”. Ngày xưa ở Trung Hoa vào đời nhà Chu, Tam Công là: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Cửu Khanh là: Thiếu sự, Thiếu phó, Thiếu bảo, Trung tể, Tư đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư khấu, Tư không. Nghĩa rộng: Những người có chức vị cao.
    MIỄU SON TẠC ĐỂ: Những bậc công thần được nhân dân xây ngôi thờ, dựng bia đá khắc tên và thành tích. Nghĩa rộng: Sự tôn kính, ghi ơn đối với những người có công với dân với nước.
    ĐÀNH RÀNH: Hiển hiện ra trước mắt. Rõ ràng minh bạch.
    ĐẤT VỚI NƯỚC: Bao gồm sông núi, cỏ cây. Gọi chung là đất nước.
    HẬU LAI: Sau nầy.
    VINH DIỆU: Vinh: Vẻ vang. Diệu: Sáng, rực rỡ. Vẻ vang, rực rỡ.
    ĐẠO: Con đường hợp với lẽ phải. Nghĩa rộng: Từ nói về Tôn giáo: Là con đường, là bổn phận, là chơn lý. Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Chân lý ấy là cái đạo của mình đối với Trời Phật, của mình đối với Đồng bào nhân loại và của mình đối với mình”.
    YỂU ĐIỆU: Nhịp nhàng, hài hòa. Nghĩa bóng: Tròn trách nhiệm.
    QUÂN LÝ: Quân: Đồng đều. Lý: Lý lẽ. Nghĩa rộng: Lẽ phải.
    TỨ ÂN: Bốn ân. Theo Phật Giáo Hòa Hảo gồm có:
    1.- Ân Tổ Tiên Cha mẹ.
    2.- Ân Đất nước.
    3.- Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).
    4.- Ân Đồng bào và Nhân loại (Đối với các bậc xuất gia thì có ân Đàn na thí chủ).
    PHONG THẦN BẢNG GHI: Ngày chung cuộc được ghi tên vào Bảng Phong thần, có mặt trong ngày Long Hoa đại hội. Tùy theo công đức mà Chúa Thánh định ngôi phân thứ. (Cũng như trường hợp của Khương Tử Nha, sau khi giúp Châu Võ Vương dẹp xong Trụ Vương, lãnh nhiệm vụ lập bảng Phong Thần, để định công phạt tội).
    Xin ghi vào đây bài thơ cổ nói về trường hợp nầy:
    Mười năm nghèo túng áo còn bâu
    Hãy gượng mua vui chớ chác sầu
    Ngồi chốn bàn khê câu đợi vận
    Chờ xe vương giả rước về chầu.
    Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
    Chín chục dư ba buộc ấn hầu,
    Mậu Ngũ hội hàm trăm trấn phục,
    Phong Thần chin tám bốn xuân thu.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN

    Ngày tiêu diệt hầu kề. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến khích mọi người hãy cố gắng làm tròn nhân đạo, để kịp dự Long Hoa đại hội.

    Bài thứ chín mươi ba
    TRÔNG MÂY


    Phiêu phiêu mây bạc trắng lòa,
    Ấy là tại lịnh Ngọc Tòa sai ta.
    Xuống trần thấy chúng thiết tha,
    Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi.
    Chừng nào mới được thảnh thơi,
    Qua năm Tuất Hợi, Phật trời định phân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    PHIÊU PHIÊU: Tiếng kép, tả cảnh mây bay một cách nhẹ nhàng. Văn tuyển có câu: “Nhạn phiêu phiêu nhi Nam phi”(Phiêu phiêu chiếc nhạn bay về phươngNam).
    PHIÊU PHIÊU MÂY BẠC: Mây trắng bay nhẹ nhàng.
    ẤY LÀ TẠI LỊNH NGỌC TÒA SAI TA: Ngắm mây trắng bay qua mà nhớ lại “Sứ mạng” của Đức Huỳnh Giáo Chủ, là do Đức Ngọc Đế và Phật Tổ, sắc lịnh cho Ngài lâm phàm khai đạo. Tức cảnh sanh tình cũng giống như trường hợp của Địch Nhân Kiệt, một hôm nhìn lên núi Thái hàn, thấy một chòm mây trắng ở chốn xa xôi, mà nói với người hai bên: “Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây ấy”.
    XUỐNG TRẦN: Do chữ Lâm phàm: Sanh ra hay ra đời tại cõi thế gian.
    THẤY CHÚNG: Gặp nhiều người.
    THIẾT THA: (Xem phần trước).
    HẰNG HÀ: Do từ “Hằng hà sa số”. Hằng: Tên con sông. : Sông. Sa: Cát. Số: Con số, số đếm. Nhiều như cát của sông Hằng (bên Ấn Độ). Nghĩa rộng: Con số rất nhiều, không thể đếm được.
    LỤY RƠI: Lụy: Còn đọc là Lệ: Nước mắt. Rơi: Nhỏ giọt. Đỗ lệ. Nghĩa rộng: Nước mắt chảy thành dòng.
    THẢNH THƠI: Không bận rộn lo nghĩ.
    QUA NĂM TUẤT HỢI: Lấy cái mốc Đức Huỳnh Giáo Chủ viết bài “Trông Mây” tại Hòa Hảo năm Canh Thìn (1940).
    -Đến năm Tuất: Tức năm Bính Tuất (1946), tính thêm 60 năm (một giáp lớn), là năm 2006-2007.
    -Đến năm Hợi: Tức năm Đinh Hợi (1947), tính thêm 60 năm (một giáp lớn), là năm 2007-2008. Trong bài “Thiên lý ca”, Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Trong một giáp ân cần suy tính”.
    Ngài cũng xác nhận năm Tuất và năm Hợi, Phật trời sẽ định phân:
    “Chừng nào mới được thảnh thơi,
    Qua năm Tuất Hợi, Phật trời định phân”.

    ĐẠI Ý ĐOẠN TRÊN
    Đứng trông mây trắng bay qua, Đức Huỳnh Giáo Chủ chạnh lòng nhớ lại “Sứ mạng” của Ngài, chẳng còn bao lâu nữa sẽ hết hạn mà lòng bồi hồi thương cảm.
     
    Sửa lần cuối: 25/1/15
  5. Buile

    Buile Member


    Bài thứ chín mươi bốn

    TRÔNG MÂY (tt)


    Tây vức liên Nam hiệp định phân
    Tam giáo qui nguyên viện lý cân.
    Hùng anh phiên quốc lai hàng phục,
    Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-TÂY VỨC: Còn gọi Tây Vực. Tây: Hướng tây.Vực: Cõi. Như các chữ: Tây Thiên, Tây Trúc. Nghĩa rộng: Nơi Phật ở.
    LIÊN: Nối liền.
    NAM: Phương Nam. Nghĩa rộng: Nước Việt Nam.
    HIỆP: Cùng nhau, hòa đồng.
    ĐỊNH PHÂN: Định: Quyết chắc như vậy. Phân:Chia ra. Nghĩa rộng: Phân chia cho rõ ràng, không thể để như vậy.
    *Tóm lược ý câu “Tây Vức liên Nam hiệp định phân”: Phương Nam sau nầy sẽ có Phật Tiên Thánh đáo lai.
    2/-TAM GIÁO: Tức ba Tôn giáo ngày xưa: Phật Giáo (Giáo Chủ: Phật Tổ Thích Ca), Khổng Giáo (Giáo Chủ: Đức Khổng Tử) và Lão Giáo (Giáo Chủ: Lão Tử).
    QUI NGUYÊN: Gom về một mối.
    VIỆN LÝ: Viện: Đưa ra, dẫn ra. : Lẽ. Nghĩa rộng: Đưa ra những lý lẽ để thuyết phục người khác.
    CÂN: Đo lường. Nghĩa rộng: Lượng, xem xét điều gì.
    *Tóm lược ý câu “Tam giáo qui nguyên viện lý cân”: Phật Giáo sau nầy sẽ tồn tại, trong đó có cả Khổng Giáo và Lão Giáo.
    3/-HÙNG ANH: Như chữ Anh hùng. Hùng: Con vật xuất sắc nhứt trong các loài thú. Anh: Cái gì tốt đẹp nhứt trong các loài hoa cỏ. Nghĩa rộng: Những kẻ xuất sắc hơn người.
    PHIÊN QUỐC: Các nước chư hầu. Nghĩa rộng: Những nước lân cận.
    LAI: Lại đến.
    HÀNG PHỤC: Qui thuận theo. Nghĩa rộng: Chịu phục tùng người nào đó hơn mình, trong phạm vi nào đó.
    *Tóm lược ý câu “Hùng anh phiên quốc lai hàng phục”: Những nước hùng mạnh lân cận sau nầy sẽ chịu tùng phục, khi mà Thượng nguơn khai, Thánh Chúa trị vì Thiên hạ.
    4/-ĐINH HỢI: Năm (1947), cộng thêm 60 năm (con giáp lớn), tức là năm 2007-2008.
    ĐÁO NIÊN: Đáo: Trở lại. Niên: Năm. Năm trở lại. Ví dụ: Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt ngày 16-04-1947 (Nhằm ngày 25-02 nhuận năm Đinh Hợi), công thêm một con giáp lớn (60) năm, tức là năm Đinh Hợi (2007-2008). Gọi là đáo niên: (1947-2007).
    TẠO: Lập, dựng nên.
    THIỆN NHÂN: Thiện: Lành. Nhân: Người. Người hiền lương đức hạnh.
    *Tóm lược ý câu “Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân”: Đến năm Đinh Hợi trở lại sẽ chọn người hiền lương đức hạnh.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Sau nầy nước Việt Nam có Phật giáng lâm. Chừng ấy Phật Giáo tồn tại, trong đó có Khổng Giáo và Lão Giáo.

    Bài thứ chín mươi lăm
    LÝ LỊCH


    THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu
    ĐẲNG đắng hãy làm chớ để lâu
    ĐẠI pháp vô vi là chơn lý
    THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    LÝ LỊCH: Những công việc đã làm, những nơi đã công tác trong cuộc đời của mình.
    THƯỢNG ĐẲNG: Thượng: Trên. Đẳng: Thứ bậc. Nghĩa rộng: Thứ bậc trên cao.
    ĐẠI THẦN: Đại: Lớn. Thần: Quan chức. Nghĩa rộng: Quan lớn.
    THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN: Một tước hiệu của vua Tự Đức truy phong cho anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, sau khi bị Pháp hành quyết năm (1868), ba năm sau (1871) mới được truy phong. Theo quan điểm Phật Giáo Hòa Hảo: Trong những thời cúng thường nhật, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều nguyện vái danh hiệu Ngài: “Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan Cựu Thần, chư vị Sơn Thần, chư vị năm non bảy núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật đạo”.
    THƯỢNG THẨM: Thượng: Trên. Thẩm: Xét. Nghĩa rộng: Phẩm trật vua ban, bậc dưới là Sơ thẩm, bậc trên là Thượng thẩm.
    ĐẠO MẦU: Đạo: Con đường hợp với lẽ phải, bổn phận của mỗi người phải đền đáp.Mầu: Huyền diệu, cao sâu. Nghĩa rộng: Chơn lý rất sâu xa, mầu nhiệm.
    NẺO: Lối đi, đường đi.
    CAO SÂU: Sâu xa, kín đáo.
    ĐẲNG ĐẲNG: Số nhiều. Nghĩa bóng: Bề tôi.
    HÃY LÀM CHỚ ĐỂ LÂU: Thật hành ngay công việc, sứ mạng không nên trễ nải.
    ĐẠI PHÁP: Pháp lớn. Nghĩa rộng: Pháp giáo của Phật Tổ Thích Ca, sau nầy các đệ tử cu tập lại thành Tam Tạng Kinh Điển (Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng).
    VÔ VI: Phạn ngữ: Asamskrta, dịch là Vô vi. Nghĩa là: Không có nhân duyên tác động, không có hình tướng sắc màu, không có bốn tướng (sanh, trụ, dị, diệt). Vô vi còn gọi là chơn lý tuyệt đối.
    CHƠN LÝ: Lý lẽ chơn chánh, hợp với đạo đức. Theo Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Chân lý ấy là cái đạo của mình đối với Trời Phật, của mình đối với Đồng bào Nhân loại và của mình đối với mình”.
    THÂN LÀM TRỌN VẸN: Làm tôi trung với vua với nước, vẹn thảo ngay với Tổ Tiên cha mẹ.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc đến tấm gương trung hiếu lưỡng toàn của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.

    Bài thứ chín mươi sáu

    LÝ LỊCH (tt)


    Huỳnh Long tự thế gần sanh chúng
    Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu
    Tiên cảnh thoát ly truyền bá kỷ
    Năng tầm Phật lý rạch từ câu.

    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HUỲNH LONG: Huỳnh: Vàng (màu vàng). Long: Con rồng. Rồng vàng. Nghĩa bóng: Họ Huỳnh.
    TỰ THẾ: Tự: Mình. Thế: Đời. Nghĩa rộng: Vào đời.
    GẦN: Kế cận.
    SANH CHÚNG: (Xem phần trước).
    BỔN TÁNH: Bổn: Gốc. Tánh: Tên. Nghĩa rộng: Tính chất căn bản.
    HÒA THÔN: Nghĩa rộng: Ám chỉ làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc ngày xưa.
    HẢO DĨ ĐẦU: Hảo: Tốt đẹp. : Lấy, dùng. Đầu: Bậc cao nhứt.
    HÒA THÔN HẢO DĨ ĐẦU: Hòa Hảo tên làng đứng đầu, thuộc hạng cao nhứt. Nghĩa bóng: Ám chỉ nơi đản sanh Đức Huỳnh Giáo Chủ, cũng là Thánh địa của nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
    TIÊN CẢNH: Nơi Tiên ở.
    THOÁT LY: Thoát: Vượt khỏi. Ly: Chia lìa, tách rời. Nghĩa rộng: Vượt khỏi vòng cương tỏa. Ra khỏi sự ràng buộc.
    TRUYỀN: Trao cho. Người nầy trao cho người khác, thế hệ nầy lưu lại thế hệ khác.
    BÁ KỶ: : Một trăm. Kỷ: Mấy. Nghĩa rộng: Trên một trăm hay mấy trăm năm.
    NĂNG TẦM: Tích cực tìm tòi, học hỏi.
    PHẬT LÝ: Lý lẽ Đạo Phật. Nghĩa rộng: Giáo lý của Phật Giáo do Phật Tổ Thích Ca để lại.
    RẠCH TỪ CÂU: Chia, phân từng chi tiết.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai đạo tại làng Hòa Hảo, để xiển dương giáo pháp của Phật Tổ Thích Ca.

    Bài thứ chín mươi bảy
    LÝ LỊCH (tt)


    Oai hùm chấn động một gốc trời
    Độ chúng ra kinh rải khắp nơi.
    Cứu thế chẳng mong ơn ai trả,
    Nương xác phàm phu ngõ đợi thời.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    OAI HÙM: Oai: Còn gọi là uy: Sức mạnh. Hùm: Như từ Hổ, cọp. Tiếng tăm chấn động khắp nơi.
    CHẤN ĐỘNG: Rung chuyển mạnh mẽ.
    MỘT GÓC TRỜI: Một nơi nào đó, như một nước, một chỗ lớn lao có đông đúc người ở.
    ĐỘ CHÚNG: Cứu giúp mọi người.
    RA KINH: Viết giảng kệ.
    RẢI KHẮP NƠI: Truyền bá, phổ thông rộng rãi khắp mọi nơi.
    CỨU THẾ: Giúp đời.
    CHẲNG MONG ƠN AI TRẢ: Không đòi hỏi người nào phải đáp lại.
    NƯƠNG XÁC PHÀM PHU: Tạm mang xác thịt như bao người khác, để làm phương tiện cứu dân độ thế. Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Tạm xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
    Chờ thời Thiên định thiết hùng ca”.
    NGÕ ĐỢI THỜI: Ngõ: Để mà. Đợi thời: Chờ đến lúc nào đó. Nghĩa bóng: Cho biết đang chờ cơ Thiên định.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai đạo, tạm xác thân phàm tục để hòa nhập cộng đồng dân chúng, cho dễ bề giáo hóa.

    Bài thứ chín mươi tám

    LÝ LỊCH (tt)


    Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn
    Tự giác âm thầm kiến Tiên bang.
    Bửu ngọc Sơn trung Kỳ Hương chí
    Tứ hải bất hòa khởi liên giang.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    HUỲNH SANH: Huỳnh: Họ. Sanh: Ra đời. Nghĩa rộng: Họ Huỳnh ra đời. Ám chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    CƠ THẨM: Cơ: Máy móc, sự vận hành của trời đất như một guồng máy, không ai có thể hiểu được. Thẩm: Hiểu rõ. Nghĩa rộng: Thấu đáo cơ trời.
    ĐÁO: Đến.
    TRUNG ĐÀN: Trung: Chính giữa. Đàn: Như chữ Việt đàn, còn gọi Đàn việt, chỉ chung giới tu hành.
    TỰ GIÁC: Tự: Mình. Giác: Biết. Nghĩa rộng: Tự mình giác ngộ, hiểu biết.
    ÂM THẦM: Lặng lẽ, kín đáo.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    TIÊN BANG: Nước Tiên.
    BỬU NGỌC: Viên ngọc quí. Nghĩa rộng: Vật quí giá.
    BỬU SƠN: Núi báu.
    KỲ HƯƠNG: Kỳ: Lạ lùng. Hương: Mùi thơm. Nghĩa rộng: Mùi thơm kỳ lạ.
    BỬU SƠN KỲ HƯƠNG: Nghĩa rộng: Ám chỉ tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Giáo Chủ là Đức Phật Thầy Tây An.
    CHÍ: Đến.
    BỬU NGỌC SƠN TRUNG KỲ HƯƠNG CHÍ: Núi báu và mùi thơm lạ. Nghĩa bóng: Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An khai lập. Nay Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa.
    TỨ HẢI: Tứ: Bốn. Hải: Biển. Bốn biển. Nghĩa rộng: Khắp nơi.
    BẤT HÒA: Bất: Chẳng. Hòa: Thuận thảo. Nghĩa rộng: Không phù hạp, không đồng chung chí hướng.
    KHỞI: Nổi lên, bắt đầu.
    LIÊN GIANG: Liên: Liền nhau, kết hợp. Giang: Hai người cùng khiêng một vật gọi là giang. Nghĩa rộng: Kết bè, kết đảng. Nghĩa rộng: Cùng nhau chia bè kết đảng.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ kế thừa Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương.

    Bài thứ chín mươi chín

    VIẾNG ĐÊM

    Trắng thời chịu vẽ ngọt là nêm
    Vui dạ chi bằng đọc sách đêm.
    Học đủ ba dư trời chẳng phụ,
    Đến ngày bẻ đặng quế cung Thềm.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TRẮNG THỜI CHỊU VẼ: Trắng: Màu trắng, nghĩa của chữ Bạch. Thời chịu vẽ: Phải chịu khó vẽ vời cho khéo.
    NGỌT LÀ NÊM: Ngọt: Ngon ngọt. Là nêm: Cho thêm gia vị.
    VUI DẠ CHI BẰNG: Trong lòng khoan khoái không thể tả.
    ĐỌC SÁCH ĐÊM: Cái thú hằng đêm đọc sách rất thanh cao, hữu ích không có gì sánh bằng.
    HỌC ĐỦ BA DƯ: Học đủ: Học hết chương trình của nhà trường, hết các cấp học. Ba dư: Con số tượng trưng cho thời gian, vượt mức ấn định. Nghĩa bóng: Người có kiến thức rộng rãi, có tiếng tăm địa vị trong lĩnh vực văn hóa. Trong tác phẩm Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu có chú thích Ba dư: 1.-Đêm là dư của ngày, 2.-Mưa là dư của nắng, 3.-Mạnh là dư của ốm đau.(Tác phẩm Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của tác giả Nguyễn văn Hầu đã chiếm giải thưởng văn chương toàn quốc, với bộ môn Biên khảo).
    TRỜI CHẲNG PHỤ: Trời không phụ lòng tốt, không bạc đãi người hiếu học.“Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn”. Nghĩa bóng: Người có tâm hồn cao cả, biết đem văn hóa phụng sự nhân loại, tất nhiên trời không phụ lòng tốt.
    ĐẾN NGÀY BẺ ĐẶNG: Ngày nào đó sẽ thành công.
    QUẾ CUNG THỀM: Trần Hậu Chúa có nàng Vương phi nhan sắc tuyệt trần, tên là Trương Lệ Hoa. Trần Chúa rất sủng ái, cho xây một cung điện đặc biệt phía sau điện Quảng Chiêu. Cửa lớn bằng kính pha lê hình mặt trăng, giữa sân rộng chỉ trồng một cây Quế, cung nầy có tên là “Quế cung”. Cung quế cũng dùng chỉ cung Quảng Hàn của Hằng Nga tiên nữ.
    ĐẾN NGÀY BẺ ĐẶNG QUẾ CUNG THỀM: Có ngày sẽ được lên cảnh Tiên, ý nói thành công mỹ mãn trong lĩnh vực văn hóa.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Muốn thành công phải chuyên luyện hết sức, học phải giồi mài kinh sử, tu phải hành thâm trí huệ. Đây là kiến giải của Nội tổ ông Hương Bộ Thạnh.

    Bài thứ một trăm
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Tình thương thăm viếng chật như nêm,
    Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm.
    Nhà nước khác chi người thiếu phụ,
    Ôi thôi ! chờ vận bước lên thềm.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    TÌNH THƯƠNG THĂM VIẾNG: Tới lui thăm nhau là do tình cảm phát sinh.
    CHẬT NHƯ NÊM: Quá đông người. Như câu: “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”(Nguyễn Du).
    TƯỞNG NHỚ LÒNG TA CHỚ Ở ĐÊM: Lúc bấy giờ khoảng tháng 5 năm Canh Thìn (1940). Có nhiều tín đồ ở xã Long Điền (Long Xuyên), đến tại nhà ông Hương Bộ Thạnh (tại rạch So Đủa, Kinh xáng Xà No, Cần Thơ), để thăm Đức Huỳnh Giáo Chủ và muốn ở lại vài ngày. Nhưng mật thám luôn theo dõi để làm khó khăn. Ngài viết bài nầy để khuyên anh em nên về sớm.
    NHÀ NƯỚC KHÁC CHI NGƯỜI THIẾU PHỤ: Chính sách của thực dân Pháp rất khắt khe, nhỏ mọn luôn đề phòng cẩn mật, như thể người đàn bà trẻ tuổi, có lắm người dòm ngó.
    ÔI THÔI ! CHỜ VẬN BƯỚC LÊN THỀM: Đức Huỳnh Giáo Chủ chờ đến thời thế hanh thông, sẽ thực thi sứ mạng của mình.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Tình cảm của tín đồ dành cho Đức Huỳnh Giáo Chủ thật không có bờ bến. Nhưng vì chính sách khắt khe của thực dân Pháp, nên Ngài phải ẩn nhẫn chờ cơ Thiên định, cho đến thời vận hanh thông sẽ thi hành sứ mạng của mình.

    Bài thứ một trăm lẻ một -> Bài thứ một trăm lẻ ba


    Bài thứ một trăm lẻ một
    ĐỨC THẦY đáp họa (tt)


    Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ
    Phổ hóa nhơn sanh trực thế chờ
    Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp
    Cấp hồi Nam Việt tác cuồng thơ.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-CANH TRƯỜNG: Canh: Thời gian một phần năm đêm (1/5), mỗi canh là 2 giờ. Trường: Dài. Nghĩa rộng: Đêm dài.
    DẠ ĐOẢN: Dạ: Bam đêm. Đoản: Ngắn. Nghĩa rộng: Đêm ngắn.
    KIẾN: Thấy, gặp gỡ.
    CANH SƠ: Đầu canh.
    *Tóm lược ý câu “Canh trường dạ đoản kiến canh sơ”: Thức suốt đêm thâu.
    2/-PHỔ HÓA: Phổ: Rộng rãi khắp nơi. Hóa: Dạy dỗ.
    NHƠN SANH: Nhơn: Người. Sanh: Sống. Nghĩa rộng: Người cùng sinh sống trên đời.
    TRỰC THẾ: Trực: Ngay, thẳng vào. Thế: Đời. Nghĩa rộng: Vào đời.
    CHỜ: Đợi, trông mong.
    *Tóm lược ý câu “Phổ hóa nhơn sanh trực thế chờ”: Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai đạo dạy dỗ nhân sanh.
    3/-SƯ GIẢ: : Ông thầy, hay nhà tu hành xuất gia. Giả: Kẻ, tiếng để chỉ người khác. Nghĩa rộng: Ông ấy là bậc thầy.
    HẠ TRẦN: Hạ: Xuống. Trần: Bụi bặm, ý chỉ cõi thế gian đầy bụi bặm nhớp nhơ. Nghĩa rộng: Lâm phàm.
    NHƠN: Căn do, nguyên nhân.
    MẠT KIẾP: Mạt: Ngọn, cuối cùng. Kiếp: Thời gian dài, thông thường với nghĩa một đời người. Nghĩa rộng: Kiếp chót.
    *Tóm lược ý câu “Sư giả hạ trần nhơ mạt kiếp”:Đức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm vì đời Hạ nguơn sắp kết thúc.
    4/-CẤP HỒI: Cấp: Gấp. Hồi: Trở lại. Nghĩa bóng: Mau quay gót.
    NAM VIỆT: Miền Nam nước Việt Nam.
    TÁC: Làm, viết.
    CUỒNG THƠ: Cuồng: Không thật tánh, ngây ngây dại dại. Thơ: Bài vận văn. Nghĩa rộng: Thơ điên.
    *Tóm lược ý câu “Cấp hồi Nam Việt tác cuồng thơ”: Lập tức xuống miền Nam nước Việt Nam, dùng thơ văn để khuyến khích tu hành.

    ĐẠI Ý 4 CÂU

    Vì sứ mạng lâm phàm khai đạo, dẫn dắt chúng sanh tu hành cho đến ngày dự Long Hoa đại hội. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ vì nhiệm vụ chưa hoàn thành, mà phải thao thức suốt canh trường không an giấc.

    Bài thứ một trăm lẻ hai
    ĐỨC THẦY (đáp họa)


    Thôn hành thế lữ ái nhi ca
    Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà
    Đái bích Lư Bồng thâm tải hận
    Đãi thì Thiên định thiết phong xa.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-THÔN HÀNH THẾ LỮ: Thôn: Làng (xã).Hành: Trải qua. Thế lữ: Quán trọ. Nghĩa bóng: Ý nói những người sống trên thế gian tạm bợ như khách ở nơi quán trọ.
    ÁI: Yêu mến.
    NHI CA: Nhi: Mà, dùng để chuyển qua ý khác.Ca: Hát, ý nói bài văn. Nghĩa rộng: Lời văn thơ nói lên được điều gì đó.
    *Tóm lược ý câu “Thôn hành thế lữ ái nhi ca”: Cõi đời Hạ nguơn như quán trọ, mà chúng sanh là khách tạm trú.
    2/-CỔ THỤ: Cổ: Xưa. Thụ: Cây lâu năm. Nghĩa rộng: Cây có tuổi hay vật xưa, người xưa đáng kính trọng.
    HUYỀN THI: Lời văn sâu xa, kín đáo.
    THIẾT: Gần gũi, thúc bách.
    NHĨ HÀ: Nhĩ: Nghe. Hà: Từ dùng để hỏi. Thiết nhĩ hà: Gần gũi, nghe tường tận lắm là bởi vì sao ?
    *Tóm lược ý câu “Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà”: Những lời thơ văn tuy cao thâm, nhưng khi nghe qua khiến gần gũi, được hoan nghinh là bởi vì sao ?
    3/-ĐÁI BÍCH: Đái: Đem, mang. Bích: Màu xanh. Nghĩa rộng: Viên ngọc màu xanh.
    LƯ BỒNG: Lư: Thảo lư. Bồng: Tên một hòn đảo Tiên: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Nghĩa rộng: Nơi Tiên ở.
    THÂM: Sâu xa.
    TẢI HẬN: Tải: Chở. Hận: Giận. Nghĩa rộng: Ôm hận.
    *Tóm lược ý câu “Đái bích Lư Bồng thâm tải hận”: Nếu không nhân cơ hội gặp được Phật pháp ra đời, để lo tu hành, sẽ mang mối ân hận về sau.
    4/-ĐÃI THÌ: Đãi: Đợi chờ. Thì: Lúc, khi. Nghĩa rộng: Chờ cho đến lúc, khi nào đó.
    THIÊN ĐỊNH: Thiên: Trời. Định: Quyết như thế. Nghĩa rộng: Trời dành sẵn, trời ban cho.
    THIẾT: Gần gũi, thúc bách.
    PHONG XA: Phong: Gió. Xa: Xe. Nghĩa rộng: Đến thời kỳ, được dịp tốt.
    *Tóm lược ý câu “Đãi thì Thiên định thiết phong xa”: Dịp tốt để thi hành phận sự.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Con người sống ở cõi thế gian, tạm bợ như khách nơi quán trọ. Ngày nay may mắn gặp Phật ra đời, nếu không kíp lo tu hành, sau nầy hối hận thì đã muộn màng.

    Bài thứ một trăm lẻ ba
    KHÔNG KHÔNG


    Đại đạo giáo dân, dân bất tri
    Khai năng bạch phát đãi hà thi
    Công danh phú quí chung huờn mộng
    Kỳ cá miên qui thố nhứt kỳ.


    CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
    1/-ĐẠI ĐẠO: Đạo lý quan yếu. Nghĩa rộng: Đạo Phật hay Phật giáo do Đức Phật Thích Ca là Giáo Chủ.
    GIÁO DÂN: Dạy dỗ, dìu dắt dân chúng.
    DÂN BẤT TRI: Dân: Người dân, bao gốm những người cùng sống trên cõi thế gian. Bất: Không, chẳng.Tri: Hiểu biết. Mọi người không hiểu thấu.
    *Tóm lược ý câu “Đại đạo giáo dân, dân bất tri”: Đem đạo dạy mọi người, nhưng họ không hiểu được mỹ ý đó.
    2/-KHAI NĂNG: Khai: Mở mang. Năng: Đủ sức. Nghĩa rộng: Có đầy đủ khả năng để mở mang cho rộng khắp.
    BẠCH PHÁT: Bạch: Màu trắng. Phát: Tóc con người. Nghĩa rộng: Tóc của người nào đó bị bạc trắng (còn gọi bạc đầu).
    ĐÃI: Chờ đợi.
    HÀ THI: Nói cho chính xác là Hà thì: Hà: Từ dùng để hỏi. Thì: Lúc, khi. Nghĩa rộng: Cho đến lúc nào đó, khi nào đó ?
    ĐÃI HÀ THI: Chờ đợi đến bao giờ ?
    *Tóm lược ý câu “Khai năng bạch phát đãi hà thi”: Chờ đợi cho đến khi bạc đầu mà vẫn chưa tròn ý nguyện.
    3/-CÔNG DANH: Công: Việc làm. Danh: Tên. Nghĩa rộng: Tiếng tăm, địa vị trong xã hội do mình tạo ra mà có được.
    PHÚ QUÍ: Phú: Giàu có. Quí: Sang trọng. Nghĩa rộng: Giàu sang vinh hiển, có tiếng tăm địa vị.
    CHUNG: Trọn vẹn, cuối cùng.
    HUỜN MỘNG: Huờn: Trở lại. Mộng: Giấc chiêm bao. Nghĩa rộng: Như giấc chiêm bao, không có thực.
    *Tóm lược ý câu “Công danh phú quí chung huờn mộng”: Địa vị, tiếng tăm trong xã hội như giấc chiêm bao, không thể tồn tại.
    4/-KỲ CÁ: Kỳ: Từ sở hữu, như: của nó, của chúng. Cá: Một cái, một việc hay. Nghĩa rộng: Việc hay ho ấy có ngày sẽ đến.
    MIÊN QUI: Trở về, theo về.
    THỐ: Tính làm một việc gì, đặt để.
    NHỨT KỲ: Thời gian được ấn định.
    *Tóm lược ý câu “Kỳ cá miên qui thố nhứt kỳ”: Có ngày nào đó sẽ đạt được thành công.

    ĐẠI Ý 4 CÂU
    Đức Huỳnh Giáo Chủ đem giáo lý Phật Đà để dẫn dắt chúng sanh, nhưng họ nào có hay biết. Công danh phú quý như giấc chiêm bao, chỉ có con đường đạo đức mới thực tiễn, đem con người đến chỗ hạnh phúc. Công việc truyền bá kéo dài, nhưng có ngày nào đó cũng sẽ đạt được kết quả./.

    PHỤ TRANG I Cùng chư quý Tín hữu và độc giả kính mến !
    Từ lâu việc tìm hiểu những bài thi Hán, do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác, hoặc đáp họa với các bậc túc Nho, vẫn còn trong nghi vấn, đối với chư đồng đạo và quí độc giả. Chúng tôi đã biên tập hai quyển:
    I.-TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG Quyển Thượng - Phần I.
    Trong đó Chú thích những Từ Ngữ - Danh Từ - Thành Ngữ - Điển Tích trong Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    II.-TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG Quyển Trung - Phần II.
    Trong đó Chú thích những bài Thi Hán, nhữngĐiển Cố thông dụngĐiển Tích liên quan Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    Hai quyển Từ Điển nói trên chứa dung lượng rất nhiều, khi tra cứu phải mất nhiều thời gian đối với quí vị nhiều công việc. Chúng tôi biên tập thêm PHỤ TRANGI, sẽ lược dịch những bài thi Hán ra Việt văn. Dịch theo phương pháp: Tóm lược Đại ý hay tóm tắt Nội dung. Nhưng vẫn giữ tính nhất trí của Văn thể.
    Tự xét bản thân làm công tác nầy là quá khả năng của mình, nhưng chúng tôi cũng mạo muội biên tập với hảo ý: Giúp ích cho chư quí đồng đạo; nhứt là các bạn trẻ, có nhu cầu tìm hiểu Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo.
    Cho dù phải chấp nhận “Búa rìu dư luận”, cũng hoan hỉ lãnh giáo. Ước mong các bậc tôn túc vì tiền đồ Phật Giáo nói chung, Phật Giáo Hòa Hảo nói riêng, mà chỉ ra cho những khuyết điểm, để cùng sửa đổi chính xác hơn.
    Đó cũng là niềm vinh hạnh và điều mong ước sâu sắc nhứt đối với chúng tôi.
    Chân thành kính đề !

    Bài thứ nhất -> Bài thứ ba mươi


    Bài thứ nhất
    Ông THANH TÂN vấn Gia đình


    Gia đình kỷ cá hội long đàn,
    Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.
    Phi vụ tiết phong tầm chánh lý,
    Nho Tông vị bác hiệp tôn nhan.

    Lược dịch:
    Xin hỏi gia đình được mấy người
    Lâm phàm truyền bá đạo vào đời
    Thành viên gồm những ai đâu nhỉ !
    Phúc đức Tổ tiên tạo thế thời.


    Bài thứ nhì
    ĐỨC THẦY (Đáp họa)


    Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
    Hai chữ từ bi thẩm nghiệp an.
    Bài trí năng soi chơn giáo lý,
    Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.

    Lược dịch:
    Chỉ có mình Ta chẳng mấy người
    Lâm phàm khai đạo bởi thương đời
    Hữu cầu tắc ứng nghi thì giải
    Phật hiện độ dân đúng thế thời.


    Bài thứ ba
    HIẾU NGHĨA VI TIÊN


    Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
    Hành thiên tri kinh thị sĩ hiền.
    Kiếm huệ phi tiêu đoàn nghiệp chướng,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.

    Lược dịch:
    Người sống trên đời hiếu đứng đầu
    Điều lành kinh dạy bậc hiền Nhu
    Huệ khai như kiếm trừ tan nghiệp
    Phật tánh huờn nguyên rất nhiệm mầu.


    Bài thứ tư
    BÀI CẦU CƠ (1)


    Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân,
    Đa công hoài luyện thập niên phần.
    Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
    Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.

    Lược dịch:
    Ba lần họ Nguyễn đã phân bày
    Nói rõ tộc danh kẻ trí tài
    Thương chúng ra đời truyền đạo cả
    Phước thừa dõi thấu đến vân đài.


    Bài thứ năm
    ĐỨC THẦY (Đáp họa)


    Nãi chí thi âm tất hữu phân,
    Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần.
    Vạn ninh hà hải vi vương bá,
    Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.

    Lược dịch:
    Thi văn chắc hẳn đã phân bày
    Cặn kẽ là đây bậc trí tài
    Vua chúa thì lo dân với nước
    Đừng nên viễn vọng chuyện vân đài.


    Bài thứ sáu
    LỤY TAM CHÂU


    Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
    Thập bát chư bang động can qua.
    Dương gian mãnh thú trừ tàn ác,
    Lê thứ hậu lai khổ thiết tha.
    Tần bang hậu hận tiêu diêu động,
    Nam quốc lương dân kiến linh xa.
    Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
    Dư đảng dọc ngang cấp Ma Ha.


    Hòa Hảo, tháng 8 năm Kỷ Mão (1939)
    Lược dịch:
    Lệ đổ ở ba Châu (1)
    Bờ phải ba Châu lệ nhỏ tràn
    Lân bang mười tám nước đua sang
    Binh hùng chư quốc gây chinh chiến
    Dân sự lắm người phải khổ lan
    Tần Quốc sau nầy khôn giữ nước
    Việt Nam chung cuộc có Minh Hoàng
    Máu tuôn khắp chốn nơi thành thị
    Nhiều đảng dọc ngang kiếm Phật đàng.

    ---
    (1) Ba địa danh, năm Kỷ Mão (1939): Châu Đốc, Châu Phú, trong Quận Châu Phú có xã Châu Phú.

    Bài thứ bảy
    VÉN MÀN BÍ MẬT


    Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
    Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền.
    Sa vi đông hải tri thiều nhạc,
    Nam đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên.
    Đởm lực hà quê trung trực thử,
    Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
    Sơn ly Phật cảnh hồi Nam Việt,
    Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên.

    Lược dịch:
    Kêu gọi đồng môn kiếm đạo mầu
    Danh hiền bình ổn khắp năm Châu
    Biển Đông trổi nhạc mừng Nghiêu Thuấn
    Bảy núi đền vàng lộ báu châu
    Mộc mạc quê mùa tâm chánh trực
    Kiên cường báo quốc dạ in sâu
    Lìa non xuống hẳn miền Nam Việt
    Sứ mạng danh Thầy rạng Á Âu.


    Bài thứ Tám
    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)


    Bửu ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
    Sơn đài lộ vẻ liễu huyền vi.
    Kỳ thâm tá giả thi thành thủy,
    Hương vị âm thầm mộc túy vi.
    Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử,
    Non lịch đài mây rạng tu mi.
    Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ,
    Núi ngự Hoàng san tự đỉnh chi.

    Lược dịch:
    Ẩn tích mai danh để đợi thời
    Đền vàng bảy núi lộ nay mơi
    Lời lành kỳ diệu lan như nước
    Nguồn đạo ngát hương tỏa khắp nơi
    Năm tháng hãy còn nhiều đói lạnh
    Đến thời sẽ được rạng danh Thầy
    Bảy năm bình ổn tìm hiền sĩ
    Long Hội chừng ni Chúa Thánh khai.


    Bài thứ chín
    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)


    Hòa bình thế giới kiến tiên bang,
    Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
    Hồ Thiên tiểu ẩn quân tu ký,
    Lương thứ dương trần đạo dĩ an.

    Lược dịch:
    Hòa bình thế giới gặp Thần Tiên
    Đủ sức dẹp yên cảnh chiến tranh
    Ta phải Thiên uy chờ lấy lịnh
    Đạo mầu rải khắp độ quần sinh.


    Bài thứ Mười
    VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)


    Đào nguyên di khả tứ hồ văn,
    Khảo đáo tâm trung mãi vạn năng.
    Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
    Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.


    Hòa Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)
    Lược dịch:
    Lời thơ diễn tả cảnh Thần Tiên
    Nuôi chí vượt qua chốn não phiền
    Chờ đợi Minh Hoàng ra trợ thế
    Chừng ni sẽ rõ việc Khùng Điên.


    Bài thứ mười một
    BÁT NHẪN


    Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
    Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
    Nhẫn dã hương lân hòa ý hỉ,
    Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
    Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo tuyền.
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.

    Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)
    Lược dịch:
    Đem hết khả năng để đối nhân
    Giới răn trước hết giữ gìn thân
    Xóm chòm hòa thuận cùng trên dưới
    Chồng vợ thủy chung chẳng rẽ phân
    Tâm giữ ngày ngày an lạc đạo
    Tánh luôn năm lẫn phúc chuyên cần
    Đức lành vạn sự đều an ổn
    Thành đạt giàu sang hưởng trọn phần.


    Bài thứ mười hai

    ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHU DI VIỄN CẬN

    Đạt đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
    Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
    Ngao du thế giới hoàn sanh chúng,
    Quới tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
    Chu di phục thỉ an bá tánh,
    Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
    Viễn cận chư châu qui nhứt thống,
    An cư lạc nghiệp phước vô biên.

    Phật Thầy Tây An (1849-1856)
    LƯỢC DỊCH:
    Đắc Đạo Đi Chu Du Khắp Nơi Để Khuyến Tu.
    Đắc đạo thừa khai để phổ truyền
    Điều lành các nước hiếu đầu tiên
    Chúng sanh thế giới đồng siêu độ
    Bần phú trí ngu cũng kẻ hiền
    Chung cuộc lo bề an bá tánh
    Qui hồi Thượng cổ bởi do Thiên
    Xa gần chốn chốn gồm chung mối
    Lạc đạo âu ca mãi vững bền.


    Bài thứ mười ba
    Cho Ông Hương Chủ Bó ở Hòa Hảo


    Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
    Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền.
    Huỳnh Long lộ vĩ năng kỳ diệu,
    Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên.
    Danh sơn khai bút dìu sanh chúng,
    Trung Trực phò nguy đãi lịnh Thiên.
    Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
    Qui hồi tự lập diệt tiền khiên.

    Lược dịch:
    Rán lo làm lành được bình yên
    Dạy dỗ hiền nhơn thấy Phật tiền
    Xuống thế cho đời câu diệu lý
    Ra đời Ta vốn chửa danh Tiên.


    Bài thứ mười bốn
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)


    Kỷ Mão hạ san mượn xác trần,
    Cảm tình đồng đạo Lão khuyên dân.
    Thậm thâm đây đó niềm liên ái,
    Hợp tác cùng nhau nối bút thần.

    Lược dịch:
    Kỷ Mão lâm phàm mượn sắc thân
    Duyên lành sẵn có Ta khuyên dân
    Tỏ niềm thân ái câu huyền bí
    Chung góp thơ văn giáo độ trần.


    Bài thứ mười lăm
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)

    Vi lộ Thiên oai bảo giác dân,
    Ngọc Nam ẩn sĩ dị thường nhân.
    Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
    Tứ hải hòa giai tất hữu phân.

    Lược dịch:
    Còn đợi Thiên uy để giáo trần
    Lạ thường kẻ sĩ khác phàm nhân
    Non sông chờ đón chơn Minh chủ
    Bốn biển biết người đã cạn phân.



    Bài thứ mười sáu
    Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)


    Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
    Nam nhân hữu chí kiến Bồng Lai.
    Nhìn xem hiệu Lão trong thơ ấy,
    Tứ cú Nho gia đã cạn bày.

    Hòa Hảo, lối tháng 9, năm Kỷ Mão (1939)
    Lược dịch:
    Đạo nhân trọn vẹn thấy người xưa
    Hữu chí Bồng Lai hưởng phúc thừa
    Danh hiệu nhìn trong thơ phú có
    Ba vần bốn cú hẳn vừa thưa.


    Bài thứ mười bảy
    HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH


    Bửu Châu công luyện chốn non Thần,
    Sơn thủy môn giang bảo giác dân.
    Kỳ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
    Hương nồng dành thưởng kẻ tròn ân.

    Lược dịch:
    Dày công tu luyện chốn non Thần
    Đất nước chờ người ổn định dân
    Hết sức lạ lùng trời định sẵn
    Thưởng công xứng đáng kẻ tròn ân.


    Bài thứ mười tám
    HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH (tt)


    Từ bi hai chữ sắc nâu sồng,
    Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công.
    Vận bĩ xa chờ câu thạnh thới,
    Buồn ai châm chích chữ cay nồng.

    Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)
    Lược dịch:
    Nối chí từ bi của Phật Đà
    Dày công độ chúng khắp gần xa
    Vận thời chưa đến ngày thông đạt
    Cay đắng chi người nỗi thiết tha.


    Bài thứ mười chín
    Ông HUỲNH HIỆP HOÀ

    (làng Bình Thủy, tỉnh Long Xuyên) xướng:

    Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
    Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm.
    Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
    Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
    Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
    Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
    Thị nhị giáo sư đoàn thuyết pháp,
    Tảo tương thích điển chúng sanh tầm.

    Lược dịch:
    Cầu xin Giáo Chủ dẫn lời vàng
    Phạn ngữ xưa truyền hiểu khó khăn
    Mở rộng lòng nhơn xin dạy đạo
    Khai thông tâm tánh được tường kham.
    Thuấn Nghiêu phước thọ cao vinh hiển
    Phật Lão vốn không tối thậm thâm
    Sau Phật là Thầy (1) truyền chánh pháp
    Tỏ tường chứng tích chúng sanh tầm
    ----
    (1) Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ

    Bài thứ hai mươi
    ĐỨC THẦY Đáp họa :


    Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
    Pháp giáo Phạn văn bác diệu thâm.
    Lam thất thanh chơn hà khuyết đạo,
    Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
    Môn gia khảo sát lai duy hiển,
    Vị khí nan thông ký cảm thầm.
    Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
    Hòa giai Nam đỉnh tác thi tầm.

    Hòa Hảo, mồng 1 Tết năm Canh Thìn (1939)
    Lược dịch:
    Lâm phàm Ta vốn chọn lời vàng
    Pháp giáo Phạn văn thật diệu thâm
    Cửa Phật vì sao không đạo đức ?
    Lòng người khó hiểu bởi tà tâm
    Giáo tôn thông đạt danh ư thế
    Tánh hiển tâm linh ý cảm thầm
    Ta vốn là người truyền Phật Giáo
    Làm thơ khai đạo ở phương Nam.


    Bài thứ hai mươi mốt
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:


    Chúng sanh tầm đắc đạo nan minh,
    Bửu bối trùng tâm thể dụng tinh.
    Cầm kiếm đảnh lư an trí thủ,
    Càn khôn nhựt nguyệt dị đồng linh.
    Siêu phàm ôn dưỡng âm dương số,
    Nhập Thánh đề khai thế tục tình.
    Thái Thượng Thích Ca luân kiếp giáo,
    Đơn song đồ đệ cổ kim minh.

    Lược dịch:
    Chúng sanh tầm đạo khó tường thông
    Ngự trị vọng tâm chúng phục tòng
    Như kẻ cầm gươm chờ dưới đất
    Càn khôn nhựt nguyệt ở trên không
    Nay ông thông đạt âm dương số
    Nhập Thánh huờn nguyên tính Phật đồng
    Thái Thượng, Thích Ca xin nói rõ
    Môn đồ nhứt vị, cổ kim thông ?


    Bài thứ hai mươi hai
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Chúng sanh khổ diệt diện nan minh,
    Ly cấu từ bi cái thế tinh.
    Nhan Thước duyên do tam diễn thủ,
    Can trừ danh vị nã kỳ linh.
    Ngộ thâm nan liễu âm dương số,
    Xác tục trần gian cố dục tình.
    Thổ phỉ nam lương toàn khuyến giáo,
    Tâm hồn ngôn xuất biện kim minh.

    Lược dịch:
    Khổ công tầm đạo chẳng tương thông
    Thấy được bóng Ta thật khó lòng
    Thầy thuốc phải trong hàng Biển Thước
    Nho gia như thể bậc Nhan Tông
    Âm dương thấu đạt điều khăn khó
    Ham muốn dục tâm cố phục tòng
    Khôn dại Ta nay không thiết đến
    Tâm tồn ngôn xuất lẽ tường thông.


    Bài thứ hai mươi ba
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:


    Hội trung bửu cái cổ kim truyền,
    Trí giác hư linh kế lập thiên.
    Xiển, Triệt phân minh Châu Võ kỷ,
    Âm dương chuyển luyện Hớn thê tiên.
    Lôi Âm kinh ký khai đàn việt,
    Sơn Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
    Gia bác na thời di phổ hóa,
    Huyền cơ như thử kiếp trần yên.

    Lược dịch:
    Xưa nay trí thức được lưu truyền
    Linh hiển khôn cùng luật hóa Thiên
    Xiển, Triệt trong thời Châu Võ kỷ
    Lôi Âm khế đạo cũng tùng Thiên
    Cho dù Xiển, Triệt hay Linh Thứu
    Hoặc mấy Sư tăng ở cửa thiền
    Truyền đạo trong thời gian ngắn ngủi
    Huyền cơ như vậy để sao yên.


    Bài thứ hai mươi bốn
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Bửu gia nan hối thế gian truyền,
    Tam thế hư không tế kiệm thiên.
    Nhơn ngã hạ nguơn phân bất ký,
    Qui hồi thượng cổ bút thê tiên.
    Chất âm thinh sắc phi tiêu diệt,
    Bài phỏng liêm gia bế hộ nguyên.
    Lập chí hiền nhu đương kế hóa,
    Thi thần ký chú định hòa yên.

    Lược dịch:
    Trong nhà của quí khó đem truyền
    Tam thế hoàn không lẽ tự nhiên
    Nguơn Hạ khó tường thời cổ đại
    Thượng Nguơn sẽ thấy cảnh Thần Tiên
    Âm thinh sắc tướng đâu cần diệt
    Giới định huệ luôn giữ tính thiền
    Nối gót hiền Nho đang lập chí
    Nếu hòa có được sẽ bình yên.


    Bài thứ hai mươi lăm
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:


    Ngọc quang cảnh nội chủ càn khôn,
    Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
    Âu Á chiến tranh thùy thắng lợi ?
    Kim lê uổng tử sắc hà môn.

    Lược dịch:
    Ông như viên ngọc chủ càn khôn
    Gọi chủ vì tôi quí trọng ông
    Âu Á đánh nhau ai thắng bại ?
    Chết oan dân chúng khổ hay không ?


    Bài thứ hai mươi sáu
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng (tt):


    Hà môn Giáp tý giáng lâm trần,
    Đào tạo lương tâm khổ não dân.
    Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến.
    Cấu ai trị địa hội quân thần.

    Lược dịch:
    Vì đâu Giáp tý lại lâm trần
    Để khổ lan tràn khắp thứ dân
    Xuất hiện chơn nhơn không đánh giặc
    Làm sao ổn định được cùng dân ?


    Bài thứ hai mươi bảy
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Thành tha ngũ nội nã càn khôn,
    Cái thế vô linh mạng Thích Tôn.
    U lịch bá trừ nô bính lợi,
    Tiền đồ Lê dị đắc giang môn.

    Lược dịch:
    Chí thành đuổi kịp lẽ càn khôn
    Linh hiển vô cùng đạo Thích Tôn
    Thời thế bây giờ chưa nói được
    Lê Triều hiện thực với con sông.


    Bài thứ hai mươi tám
    ĐỨC THẦY đáp họa: (tt)


    Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
    Khóc tử lang tâm biến họa dân.
    Tà quái hạ ngươn khai ác chiến,
    Ất niên bình thự kiến quân thần.

    Lược dịch:
    Ba ngàn sáu trăm kẻ lâm phàm
    Gây cảnh tang thương để họa dân
    Lòng dạ trở thành loài thú dữ
    Đến năm Ất Dậu tạm thời yên.


    Bài thứ hai mươi chín
    Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:


    Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
    Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.
    Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
    Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
    Mã lai thủ thị danh thương pháp,
    Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
    Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
    Tứ minh tam vị hiển văn chương.

    Lược dịch:
    Một lời chấn động cả miền Nam
    Chưa nói nhưng tôi hiểu rõ rang
    Việc thiện của Ngài như có một
    Điều lành dân thứ khó gìn kham
    Trận tiền thương ngựa đều dành sẵn
    Cứu chúng ra tay diệt khổ nàn
    Thi hỏi hiệu danh xin đáp lại
    Một trong ba vị ở thi văn.

    Dịch theo lối chiết tự:
    Phiến chấm đại bên TRẠNG hữu tình
    Dưới Vương trên khẩu hợp nên TRÌNH
    Sau tung trước dữ thành nên CỬ
    Hai tịchĐA chữ lập thành
    Thủ thị tay ĐỀ tên bảng hổ
    Thủ thâm mất thủy THÁM là danh
    Làm thơ xin hỏi tôn danh hiệu
    Ba vị văn chương hiển hiện rành.

    Bài thứ ba mươi
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
    Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
    Tề tướng cam phong an diện nhị,
    Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
    Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp,
    Phật lý di khai đại hội trường.
    Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
    Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.


    Hòa Hảo, mồng một tết, năm Canh thìn (1940)
    Lược dịch:
    Hãy quay tìm đạo ở phương Nam
    Tranh luận đạo xa khá rõ ràng
    Tề Tướng hai bề an ổn được
    Hàn Nhơn một mặt khó gìn kham
    Nhơn gian Phật giáo Thiên tôn vị
    Thích đạo hoằng khai đại hội trường
    Ta đã ba trăm năm có lẽ
    Làm quan sáng tác ngàn bài văn.


    Bài thứ ba mươi mốt -> Bài thứ sáu mươi

    Bài thứ ba mươi mốt

    THỜI LAI DIỆN MỤC


    Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
    Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
    Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
    Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.

    Lược dịch:
    Vạn vật trong đời chẳng thật sao
    Tinh thần khí chất ở nơi nào
    Trời quang mây tạnh nơi trần thế
    Hao tổn tinh thần chuyện lảng xao.


    Bài thứ ba mươi hai
    THỜI LAI DIỆN MỤC (tt)


    Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
    Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
    Khai cảnh nguyệt đài thông hạ giới,
    Thời lai diện mục tác hài công.

    Lược dịch:
    Đất trời trùm khắp cả trần hồng
    Dấu tích của người cảm núi sông
    Khai đạo cho người thông nguyệt cảnh
    Thời cơ đã đến sẽ thành công.


    Bài thứ ba mươi ba
    Ông NGUYỄN THANH TÂN xướng:


    Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
    Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
    Cực vọng Nam minh dân tiếp thủy,
    Tường khan Bắc chỉ thạch tranh vinh.
    Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt,
    Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình.
    Kim nhựt phùng chơn tu tận túy,
    Hựu tương ly biệt não bình sanh.

    Lược dịch:
    Gió mưa vò võ chiếc thân khinh
    Cũng bởi thư sanh thấm đạo tình
    Ước vọng nam minh dân tiếp thủy
    Trơ vơ Bắc phận đá trời in
    Ba canh khắc khoải sầu non nước
    Tỉnh giấc đường xa tủi phận mình
    Gặp được Thầy nay đà phỉ chí
    Rồi ra chia cách xiết bao tình.


    Bài thứ ba mươi bốn
    ĐỨC THẦY đáp họa


    Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh,
    Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
    Quí hóa ai thi hà quốc thủy,
    Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
    Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
    Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
    Phúc họa trù phong nhiên Bính tý,
    Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.

    Mỹ Hội Đông, ngày 22-1-Canh Thìn (1940)
    Lược dịch:
    Tâm hồn cao thượng bị người khinh
    Gặp gỡ đổi trao thấm nghĩa tình
    Thi cảm vì thương hồn quốc thủy
    Đài cao soi thấu đá trời in
    Mây tan trời tạnh thì trăng hiện
    Nước mất ai người dám bỏ mình
    Bính Tý là năm tường phúc họa
    Hẹn ngày tao ngộ...(bị lem không rõ)


    Bài thứ ba mươi lăm
    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN tức CHÍN DIỆM

    (ở làng Định Yên, tỉnh Long Xuyên) xướng :

    Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
    Vị tri đại đức giáng hà tiên ?
    Hi Di ngũ quí kim an tại,
    Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
    Độc nhãn Sa Đà tàng bắc địa,
    Liên mi chơn mạng ẩn nam thiên.
    Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
    Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.

    Lược dịch:
    Giặc Pháp xâm lăng mấy chục niên
    Chưa tường tông tích hiệu danh Tiên
    Trần Đoàn ngũ quí còn tồn tại
    Thái Thượng tam vương đã bặt truyền
    Độc Nhãn đợi chờ nơi Bắc địa
    Liên mi vương mạng ẩn nam Thiên
    Lá cờ Tam sắc đang tồn tại
    Xin lấy roi Thần đả tặc phiên.


    Bài thứ ba mươi sáu
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
    Sơn Trung hồi giả bí danh Tiên.
    Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
    Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
    Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa,
    Xích Mi hải hội luật trừng thiên.
    Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
    Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

    Lược dịch:
    Trời định Lạc Hồng chịu ngũ niên
    Sơn Trung trở lại chửa danh Tiên
    Họ Trần Nam Việt còn tồn tại
    Lão đạo Bắc phương khởi thỉ truyền
    Ta vốn Trạng Trình nơi Cổ địa
    Xưa kia Lão Tổ luật trừng Thiên (1)
    Hiện nay chưa phải thời minh đế
    Đắc thế nhiều roi đuổi giặc phiên.

    ---
    (1) Gọi cho đủ là Xích Mi Lão Tổ.

    Bài thứ ba mươi bảy
    Ông NGUYỄN KỲ TRÂN tức CHÍN DIỆM

    (làng Định Yên, tỉnh Long Xuyên) xướng:

    Tổ tiên cứu loạn hựu phò nguy,
    Hướng thiện khử tà chúng bất tri.
    Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu,
    Toàn trung toàn hiếu thế gian hy.
    Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
    Tiết giác thâm tang trạch thủy qui.
    Bất tậm tam tâm danh lợi khách,
    Đáo đầu thâm mãnh niệm từ bi.

    Lược dịch:
    Tổ tiên cứu loạn lúc lâm nguy
    Hướng thiện diệt tà dân khó tri
    Không cản không tranh thiên hạ ít
    Vẹn toàn trung hiếu thế gian hy
    Phượng Hoàng chỉ đậu ngô đồng thụ
    Rùa tổ trầm mình tận biển tây
    Chưa đạt ba tâm còn chủ khách
    Cuối cùng cũng phải niệm từ bi.


    Bài thứ ba mươi tám
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
    Lượng trí bồi thành thử tất tri.
    Võ kỷ hung phong nhơn mạt thiểu,
    Thần Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
    Thí sanh tán địa liên đài phụng,
    Nam sĩ bài kỳ phục kiết qui.
    Vạn vật an ninh thông điện khách,
    Nhứt trường Lê thứ kiến vô bi.

    Lược dịch:
    Roi Thần sử dụng lúc lâm nguy
    Lấy trí bồi thành kẻ hữu tri
    Gió lớn mưa to danh cái thế
    Thần Tiên còn ẩn thế gian hy
    Thí sinh muốn được hoàn danh phận
    Kẻ sĩ dọn mình phục cát qui
    Chế ngự vọng tâm thông vạn vật
    Có ngày dân chúng hết sầu bi.


    Bài thứ ba mươi chín
    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
    Thiện duyên tác phước ý như hà.
    Phô trương vạn lượng tam hài tuế,
    Hội Thính na thời kiến thạnh hoa.

    Lược dịch:
    Nay gặp chơn sư mở đạo lành
    Phải chăng hữu phước tạo duyên sanh
    Tài ba đâu phải luôn tồn tại
    Hội Thánh nay mai kiến thái bình.


    Bài thứ Bốn mươi
    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Viễn lự ô hô chí Lão Bành,
    Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
    Hải qui thế giới nam hòa vọng,
    Nguyện dữ như hà dụng thức canh.

    Lược dịch:
    Tuổi thọ sao hơn được Lão Bành
    Giữ gìn khí tiết để nên danh
    Nam nhi chí cả trong hoàn vũ
    Thao thức mong sao sở nguyện hành.


    Bài thứ Bốn mươi mốt
    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
    Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
    Duyên do phước thọ lai duy hiển,
    Thủ đảnh thư hùng thục sử kinh.

    Lược dịch:
    Tiếng tăm triều nội lạc âu ca
    Thời đại vàng son đã trải qua
    Có được duyên lành do phước đức
    Anh hùng lịch sử nước nhà ta.


    Bài thứ Bốn mươi hai
    VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)


    Quang minh diện mục khả hồ sơ,
    Nhứt diệu phù vân phú quới cơ.
    Quân tử Thánh nhân hà đại lượng,
    Liên hồng vạn thử cảnh thiên thư.

    Lược dịch:
    Gương sáng công thần ủng hộ dân
    Giàu sang như thế đám phù vân
    Thánh nhân quân tử sao tồn tại ?
    Lạc cảnh thai sen nhập thức thần.


    Bài thứ Bốn mươi ba
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
    Tông tích cổ kim lượng thử hà.
    Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp
    Ngã hồi dương thế thuyết huyền ca.

    Lược dịch:
    Đản sanh Thầy vốn đã tâm lành
    Thích đạo kế truyền sẵn hiệu danh
    Xuống thế Thầy lo đời mạt pháp
    Độ dân dắt chúng chuyện huyền linh.


    Bài thứ Bốn mươi bốn
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Đài phong liễu khước tạo Nam gia,
    Thiện chí Hồ thiên thức Ngọc Tòa.
    Trung Sơn tế giáng Lư Bồng kiểng,
    Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.

    Lược dịch:
    Nhà Nam lập quốc kể từ nay
    Ấy lịnh Thầy vưng sắc Ngọc đài
    Thừa kế Bửu Sơn khai lập hội
    Hiển linh ứng nghiệm ở tương lai.


    Bài thứ Bốn mươi lăm
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Bửu ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
    Sơn đài hồ hải luyện tứ phang.
    Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục,
    Hương giải thao tồi thị Bảo giang.

    Lược dịch:
    BỬU danh ẩn tích đợi thời cơ
    SƠN lãnh khí thiêng khắp cõi bờ
    KỲ lạ Phật Thầy truyền hậu thế
    HƯƠNG thơm sông bảo mấy ai ngờ.


    Bài thứ Bốn mươi sáu
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Ngũ hồ ly cấu tạn hài Tiên,
    Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên.
    Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc,
    Đa giả khứ hồi giải nghiệp duyên.

    Lược dịch:
    Ngũ hồ mong mỏi gặp Thần Tiên
    Nay được Thầy ra mở đạo Thiềng
    Số phận sư đồ sâu thẩm kín
    Cội lành hiệp mặt phúc nhơn duyên.


    Bài thứ Bốn mươi bảy
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
    Ngã thứ trung sanh trực thế chờ.
    Ngỡi khí yêng hùng ghi đởm lược,
    Hà giang lương thố vẻ Thiên cơ.

    Lược dịch:
    Canh dài, đêm ngắn, ngắn canh trường
    Dân thứ cùng Thầy lắm nỗi vương
    Nghĩa khí anh hùng trung lẫn hiếu
    Sông nào đượm vẻ ý Thiên lương.

    Bài thứ Bốn mươi tám
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
    Vạn năng sĩ tử hiệp hòa ngôi.
    Tam thanh truyện tích ghi biên tự,
    Khán giả tận tường liệt võng khôi

    Lược dịch:
    Phật vương mở hội chuyển khai đời
    Chọn lựa người hiền để định ngôi
    Tích trước Thánh nhân còn chép để
    Luật trời đâu dễ lọt riêng ai.


    Bài thứ Bốn mươi chín
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Canh niên viễn lự tối thi thần,
    Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
    Nam thức quân thần cuồng Lão sĩ,
    Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.

    Lược dịch:
    Năm dài lo nghĩ viết thi thần
    Lắm kẻ anh hùng cũng phục vâng
    Sẽ hiểu con người cuồng lão sĩ
    Hoàn lai Thượng cổ rõ đời tân.


    Bài thứ Năm mươi
    TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)


    Bửu kiến trừng tâm dụng thể Tiên,
    Sơn sanh giả kế chưởng quyền Thiên.
    Kỳ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
    Hương vị trầm thinh bí kỷ niên.

    Lược dịch:
    Kiếm báu trừng tâm việc trước tiên
    Sơn ra trợ thế dụng kinh quyền
    Kỳ thông Hạ giái lìa ngôi vị
    Hương tuyệt thâm trầm mấy chục niên.


    Bài thứ Năm mươi mốt
    DIỆT TIỀN KHIÊN


    Bồng Lai như khứ khổ nan truyền,
    Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.
    Quốc thủy đài chương trung liệt cổ,
    Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên.

    Lược dịch:
    Đến được Bồng Lai hết khổ nàn
    Duyên lành quyền biến độ trần gian
    Ân nhà nợ nước bao người vẹn
    Xuống thế cứu đời giải nghiệp oan.


    Bài thứ Năm mươi hai
    DIỆT TIỀN KHIÊN (tt)


    Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn,
    Danh Tiên liễu bá định hồi yên.
    Vị phi lai tục đa ưu lự,
    Sơn hải điền viên tất tảo nan.

    Lược dịch:
    Đến được Thượng Nguơn đường thật dài
    Danh Tiên ngôi vị có xưa nay
    Vì chưng xuống thế nhiều lo nghĩ
    Sông núi ruộng vườn cũng đổi thay.


    Bài thứ Năm mươi ba
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nam thiền vô ngại đại Hoành sơn,
    Nhiên khước hành vi kỷ khách hườn.
    Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
    Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.

    Lược dịch:
    Đạo không cản bước thể hoành sơn
    Chẳng phải hành vi của khách huờn
    Tân tạo Thượng Nguơn đời quí báu
    Có ngày Tiên Phật tỏ nguồn cơn.


    Bài thứ Năm mươi bốn
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Vân vân bạch bạch thức sinh thần,
    Cổ quán thôn hương nhứt dị nhân.
    Tiên sinh hiện kiếp phò Lê chúa,
    Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.

    Lược dịch:
    Mây trắng tinh thần vượng khí thiêng
    Cổ Am quê quán dị thường nhân
    Trước phò Lê chúa an bờ cõi
    Sau độ dân lành cảm đức ân.


    Bài thứ Năm mươi lăm
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Liên hồng cảm kích vĩ long tuyền,
    Đồng Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
    Kiển sám truyền danh lưu hậu thế,
    Nam Việt trung thần đệ nhứt Tiên.

    Lược dịch:
    Nồng nàn sen báu cảnh long tuyền
    Đồng Thạnh thương đời tạo thiện duyên
    Kinh giảng đề danh lưu hậu thế
    Nhà Nam trung liệt đứng đầu tiên.


    Bài thứ Năm mươi sáu
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc hà,
    Cổ súy lương thần vịnh phong ca.
    Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
    Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.


    Bài thứ Năm mươi bảy
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Cổ qui tài tận hận do Tần,
    Thiện chí tu trì lập vĩ thân.
    Tồn tại hư vô tầm Bát Nhã,
    Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.

    Lược dịch:
    Ôm hận tài tan bởi thói Tần
    Cố công tu để lập bồi thân
    Trau giồi trí huệ năng tồn tại
    Để đạt thần thông ấy việc cần.


    Bài thứ Năm mươi tám
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
    Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
    Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
    Bần phú cơ đồ bất tự sang.

    Lược dịch:
    Nhà hoang ruộng mất chịu cơ hàn
    Cảnh khổ chưa từng thấy diễn lan
    Xuất thế Thần Tiên truyền đạo lý
    Nghèo giàu trời định chốn nhân gian.


    Bài thứ Năm mươi chín
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Nôn nãi kìa ai nhọc mưu cầu,
    Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
    Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
    Cấp hồi ái truất trót canh thâu.

    Lược dịch:
    Nóng lòng nhưng việc có thành đâu
    Thê thảm cho ai lẽ nhiệm mầu
    Chất chứa của tiền phai đạo đức
    Yêu đời thức suốt cả canh thâu.


    Bài thứ Sáu mươi
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài
    Biên hình liên huệ tất ư giai.
    Kiệm kỷ tha lam mi hài chí,
    Long trì phi ẩn tạo kiền khai.

    Lược dịch:
    Trời đâu dành của để riêng ai
    Ái quốc trung quân liên huệ khai
    Của mình thì giữ, người muốn đạt
    Thầy còn ẩn dạng đợi thời lai.


    Bài thứ sáu mươi mốt -> Bài thứ bảy mươi hai

    Bài thứ Sáu mươi mốt
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Ngạo cảnh du vân triện Bắc hà,
    Quá khứ trú đình vịnh ngân ca.
    Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
    Nghiên tòng bí khuyết bích lư xa.

    Lược giải:
    Đến chốn quê xưa xứ Bắc hà
    Yêu đời nên dụng lối thi ca
    Tinh thần chí khí luôn tồn tại
    Tìm kiến sau nầy gặp gỡ ta.


    Bài thứ Sáu mươi hai
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC


    Huy hoàng hương nến tự thiên chi,
    Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.
    Lôi chất khai âm vô sắc thí,
    Ngại hồi bi hiện án tiền phi.

    Lược dịch:
    Các bậc công khanh được phụng thờ
    Trời dành để của tự bao giờ
    Vận hành tạo hóa khôn lường được
    Chứng tích hiển nhiên đến bất ngờ.


    Bài thứ Sáu mươi ba
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Huyền vi cơ đạo kiến linh kỳ,
    Tự thán dương trần tốc kham bi.
    Vô vị phi liên tâm phế kỷ,
    Điểm hồng nê địa tự thiên chi.

    Lược dịch:
    Thích đạo cơ thâm rất diệu kỳ
    Thương đời than thở việc sầu bi
    Bên lòng canh cánh câu thành bại
    Vật đổi sao dời lẽ tất tri.


    Bài thứ Sáu mươi bốn
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Si lung á giá tọa phú hào
    Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao
    Thố tử hồ bi ghi chí hứng,
    Đại đồng đạo cả khắp trùm bao.

    Lược dịch:
    Phú quí bủa vây trói buộc người
    Hiền nhơn tiếng để khắp muôn nơi
    Chồn buồn thỏ chết vì đồng loại
    Đại đạo truyền khai rộng khắp nơi.


    Bài thứ Sáu mươi lăm
    ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)


    Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài
    Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai.
    Tỏ thuyết huyền vi sanh chúng rõ,
    Năng kỳ liên huệ tất biền lai.

    Lược dịch:
    Đạo pháp truyền khai sắp hết đời,
    Bởi vì thương chúng nói không trôi
    Tỏ câu huyền bí cho người rõ
    Đến ngày sen huệ trổ nên đôi.


    Bài thứ Sáu mươi sáu
    TRÔNG MÂY (tt)


    Tây vức liên Nam hiệp định phân
    Tam giáo qui nguyên viện lý cân.
    Hùng anh phiên quốc lai hàng phục,
    Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân.

    Lược dịch:
    Tây vức nối liền với Việt nam
    Phật Nho Lão giáo tại trần gian
    Chư hầu lân quốc sang hàng phục
    Đinh Hợi tái kỳ tạo thiện nhân.


    Bài thứ Sáu mươi bảy
    LÝ LỊCH


    THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu
    ĐẲNG đắng hãy làm chớ để lâu
    ĐẠI pháp vô vi là chơn lý
    THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.

    Lược dịch:
    Đạo mầu diệu lý rất cao sâu
    Thần gấp thực hành chớ để lâu
    Chánh pháp vô vi là diệu lý
    Làm tôi trọn vẹn khỏi lo âu.

    Bài thứ Sáu mươi tám
    LÝ LỊCH (tt)


    Huỳnh Long tự thế gần sanh chúng
    Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu
    Tiên cảnh thoát ly truyền bá kỷ
    Năng tầm Phật lý rạch từ câu.

    Lược dịch:
    Đức Thầy xuống thế độ chư nhu
    Hòa Hảo làng xưa mở đạo mầu
    Trên một trăm năm truyền Phật pháp
    Rán tìm hiểu lý của từng câu.


    Bài thứ Sáu mươi chín
    LÝ LỊCH (tt)


    Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn
    Tự giác âm thầm kiến Tiên bang.
    Bửu ngọc Sơn trung Kỳ Hương chí
    Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

    Lược dịch:
    Ra đời Thầy thấu lẽ huyền Thiên
    Tự giác tu tâm thấy nước Tiên
    Báu ngọc Kỳ Hương thừa kế nghiệp
    Phái phe kết đảng để tranh phuông.


    Bài thứ Bảy mươi
    ĐỨC THẦY đáp họa:

    (Bài “Viếng đêm” của Nội Tổ ông Hương Bộ Thạnh)

    Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ
    Phổ hóa nhơn sanh trực thế chờ
    Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp
    Cấp hồi Nam Việt tác cuồng thơ.

    Lược dịch:
    Canh dài đêm ngắn, ngắn canh thâu
    Dạy dỗ nhơn sanh lẽ đạo mầu
    Thầy xuống Hạ nguơn vì mạt pháp
    Thơ cuồng Nam Việt gấp truyền rao.


    Bài thứ Bảy mươi mốt
    ĐỨC THẦY đáp họa:


    Thôn hành thế lữ ái nhi ca
    Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà
    Đái bích Lư Bồng thâm tải hận
    Đãi thì Thiên định thiết phong xa.

    Lược dịch:
    Đời như khách trọ chốn trần gian
    Lời lẽ cố nhân rán luận bàn
    Có ngọc khôn giồi ôm nỗi hận
    Hãy chờ Thiên định bái đăng đàn.


    Bài thứ Bảy mươi hai
    KHÔNG KHÔNG


    Đại đạo giáo dân, dân bất tri
    Khai năng bạch phát đãi hà thi
    Công danh phú quí chung huờn mộng
    Kỳ cá miên qui thố nhứt kỳ.

    Lược dịch:
    Đem đạo dạy dân chúng khó tường
    Bạc đầu chưa vẹn chữ phô trương
    Công danh phú quí như cơn mộng
    Phật pháp có ngày được xiển dương./.


    Lời cuối sách

    Kính thưa Chư Quý Đồng đạo,
    Gần 300 trang sách mà Quý Đồng đạo vừa xem qua chỉ là phần 1 của quyển TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG(Quyển TRUNG - Phần II), gồm “Những bài THI HÁNdo Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác và đáp họa với các bậc túc Nho” (từ năm 1939 đến năm 1947). Quyển TỪ ĐIỂN nầy còn phần 2 là “Những ĐIỂN CỐ thông dụng và ĐIỂN TÍCH trong Sấm Giảng Thi Văn của Đức Giáo Chủ PGHH”.
    Như Quý vị đã biết, Quyển TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG nầy là do Đồng đạo Nguyễn văn Chơn dày công biên soạn, rất có giá trị về mọi mặt như: tham khảo, nghiên cứu và tu học… không những cho toàn thể tín đồPGHH mà bất cứ ai muốn tìm hiểu tận tường về Giáo lý siêu mầu của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Vì vậy, chúng tôi mong muốn được truyền bá khắp nơi nơi để mọi người có cơ hội hiểu biết ý nghĩa về những bài THI HÁN củaĐức Huỳnh Giáo Chủ, mà từ hơn nửa Thế kỷ qua rất ít người rõ nghĩa.
    Tuy nhiên, vì khả năng hạn chế, chúng tôi không thể sao chép lên đây phần chữ HÁN như trong Ấn bản của quyển TỪ ĐIỂN ĐẶC DỤNG mà Soạn giả đã cố công truy tìm và ghi chú rõ ràng trong đó. Chúng tôi chỉ giới thiệu phần chữ Quốc ngữ mà thôi, kính mong Soạn giả và Quý Đồng đạo thông cảm và vui lòng tha thứ cho những điều khiếm khuyết nầy.
    Thêm vào đó, quyển TỪ ĐIỂN nầy rất dầy (vì có đến 1.127 trang) và cân nặng khoảng 3 Lbs (tức 1 ký rưỡi) nên việc Ấn tống chắc chắn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Do đó, chúng tôi mạo muội xin được phép trích ngang phần 1 (tức những bài THI HÁN của Đức Thầy) phổ cập thành một quyển sách có số trang tương đối để sau nầy có thể Ấn tống và lưu hành dễ dàng. Còn phần 2, tức Điển cố và Điển tích trong Thi Văn Giáo Lý PGHH, chúng tôi xin hẹn sẽ giới thiệu đến Quý Đồng đạo vào dịp khác.
    Nhằm thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo của chư Quý Đồng đạo nhứt là của các bạn trẻ, chúng tôi trân trọng phổ biến quyển sách vô cùng giá trị và hữu ích nầy, hy vọng Quý vị sẽ gặt hái được nhiều lợi lạc trên bước đường tu tập.
    Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo và oai linh Tổ Thầy luôn gia hộ cho Quý vị thân tâm thường an lạc, vạn sự kiết tường./.
    Nay Kính !
     
    Sửa lần cuối: 27/1/15
  6. Buile

    Buile Member

    Quyển Hạ - Tập 1


    “Từ sấm kinh cho đến thi thơ,
    Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu”.
    (Lời Đức Huỳnh Giáo Chủ)


    ***
    “Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý,
    Một ngày hiệp hội hết mờ lu”.

    (Lời Đức Huỳnh Giáo Chủ)

    LỜI NÓI ĐẦU

    Lẽ ra bộ Chú giải Thi Văn Quyển Hạ phần II đã tới tay quí vị khá lâu. Nhưng vì hoàn cảnh và thời gian trắc trở, nên cho đến hôm nay tập sách nầy mới ra mắt quí vị. Soạn giả xin cáo lỗi, mong chư đồng đạo thông cảm cho.
    Như quí vị đã biết qua các lời đã giới thiệu bộ Chú giải Thi Văn Quyển Hạ là gồm các bài Thi Văn Giáo lý do Đức Giáo Chủ đã sáng tác từ khoảng tháng năm niên Kỷ Mão (1939) tới tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (1947) Đức Giáo Chủ tùy cảnh tùy duyên mà sáng tác chớ chẳng phải nhất loạt. Sau nầy những người có trách nhiệm sưu tập lại cho có thứ tự theo đề mục.
    Nay chúng tôi biên soạn không theo thứ tự bộ Chú Giải Sấm Giảng phần nhứt, mà tùy sự nhu cầu học hỏi của các đồng đạo khóa sinh. Song đến phút cuối cùng cũng phải biên soạn hoàn tất.
    Chúng tôi không quên chân thành cảm tạ quí vị điểm xuyết và góp ý cho những chỗ còn thiếu sót.
    So
    ạn Gỉa

    BÀI 1.- LỘ CHÚT CƠ HUYỀN

    XUẤT XỨ - VĂN THỂ - NỘI DUNG
    Sau ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939) Đức Giáo Chủ bắt đầu sáng tác loạt bài Thi Văn Giáo Lý và họa đáp các thi thơ do bá tánh thập phương đến chất vấn.
    Bài thi văn thứ nhứt mang tựa đề “Lộ Chút Cơ Huyền”, trong đây gồm có 10 bài thi ngắn, điệu văn vần, thể thi tứ cú hoặc bát cú, loại thuyết giáo.
    Phần nội dung, Ngài nhận thấy cõi đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn hoại, nhân sanh phải trải qua cuộc tang thương biến đổi để lập lại Thượng Ngươn. Bởi đầy lòng từ bi nên Ngài và chư vị Phật Tiên không thể lặng nhìn trước cảnh nhân loại đang gánh quả đau thương tang tóc, do loài người tham ác tạo ra.
    Cho nên các Ngài, “Ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân”. Vì thế, khoảng trung tuần tháng 6 năm Kỷ Mão (1939) Ngài hạ bút viết 10 bài thi trên.
    Chủ yếu là Ngài nói rõ định luật “Thành, trụ, hoại, không” và lý vô thường của vạn vật. Để rồi Ngài kêu gọi bá tính tỉnh cơn mộng huyễn, giác ngộ tu hành hầu sau nầy được toại hưởng cõi đời an lạc:
    Đạo đức hiền lành kiến Tiên bang”.

    CHÁNH VĂN (Bài 1)

    1.-
    “Trần thế lợi danh giấc mộng tràng,
    Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
    Hỡi ai tâm trí mau tầm đạo,
    4.- Tầm đấng hiền từ cứu thế gian.
    Khắp trong bá tánh kề cảnh khổ,
    Đạo đức hiền lành kiến Tiên bang”.


    CHÚ THÍCH
    CƠ HUYỀN: Cũng đọc là huyền cơ. Cơ là máy, huyền là sâu kín mầu nhiệm. Hiểu chung là máy trời mầu diệu sâu kín, thông thường khó mà hiểu đặng. Đức Giáo Chủ từng nói: “Huyền cơ máy tạo xoay vần”.
    (Bóng Hồng)
    TRẦN THẾ: Cũng gọi là Thế trần. Trần là bụi; thế là cõi đời. Ý chỉ cõi đời chúng sanh đang sống đầy khổ đau khắc nghiệt mà ai cũng phải gánh chịu. Đức Giáo Chủ từng nói: “Cuộc trần ôi quá khổ !”
    (Thức tỉnh một nữ tín đồ)
    Hay là:
    “Cuộc thế trần nhiều đoạn khó khăn”.
    (Gởi Bác sĩ Cao triều Lợi)
    LỢI DANH: Cũng gọi là danh lợi, hai điều trong lục dục (một trong sáu điều ham muốn). Có nghĩa tiền của và danh vị tước quyền, ai ham mến nó tuy được lợi lộc và danh vọng trước mắt; nhưng có hại về sau. Vì nó như miếng mồi tất có lưỡi câu và thuốc độc trong đó (bả vinh hoa mồi phú quí).
    “Cái vòng danh lợi cong cong,
    Kẻ hòng ra khỏi người mong chun vào”.
    (Ca dao)
    Đức Giáo Chủ từng cảnh tỉnh:
    “Lợi danh hai chữ mắt lờ trông”.
    (Cho Bà Năm Cò)
    Nên Ngài khuyên nhắc môn đồ:
    “Xin đừng đeo đắm lợi danh,
    Bỏ trôi đạo đức hư danh dạy truyền”.

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    GIẤC MỘNG TRÀNG: Giấc mộng là điềm chiêm bao. Tràng là trường, tức là dài. Hiểu chung là giấc mộng dài. Ý chỉ cuộc đời quá ngắn ngủi, mau lẹ, người ngủ chiêm bao trong một đêm là giấc mộng ngắn. Còn người sống suốt kiếp như giấc mộng dài, dù ta có gây tạo lợi danh quyền tước nhiều cở nào đi nữa, rốt cuộc cũng nắm tay không.
    Đức Giáo Chủ hằng đánh thức ;
    “Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
    Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao”.

    (Hai mươi Chín Tháng Chạp)
    ĐỜI CÙNG: Cuộc đời sắp hết. Ý chỉ thời Hạ Ngươn sắp tàn cổi, đổi sang đời Thượng Ngươn an lạc tới đây:
    “Hạ Ngươn nay đã hết đời,
    Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang”.

    (Sấm Giảng, quyển 1)
    Hoặc là:
    “Khắp lê thứ biến di thương hải,
    Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn”.

    (Kệ Dân, quyển 2)
    Nên Ngài thức tỉnh:
    “Đời cùng tu gấp kịp thi,
    Đặng xem báu ngọc ly kỳ năm non”.

    (Sấm Giảng, quyển 3)
    TIÊN PHẬT: Tiên là bậc tu hành được trọn lành trọn sáng, không còn vi phạm mười điều ác và thoát tục về cõi Thiên đường. Phật là các bậc đã hoàn toàn giác ngộ, tự giác và giác hạnh viên mãn.
    HẠ PHÀM GIAN: Xuống cõi trần. Các vị Tiên Phật từ cõi siêu thoát chuyển kiếp hoặc hóa thân vào cõi trần gian độ rỗi chúng dân, nên gọi là lâm phàm.
    Ông Phật ở đây là chỉ cho Đức Phật Thầy Tây An chuyển kiếp lại Đức Huỳnh Giáo Chủ. Còn ông Tiên là ám chỉ cho ông Cử Đa, Đạo hiệu Ngọc Thanh, lúc còn tu Tiên tại núi Tà Lơn đã được chứng Đạo và được cả quần Tiên đều xưng tụng Ngài là Tiên Trưởng, thời gian được Đức Phật Thầy truyền pháp…
    Cả thầy trò đầy lòng từ bi và có bản nguyện cứu khổ chúng sanh, nên gọi chung lại Tiên Phật hạ phàm gian.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu:
    “Thầy Khùng trò lại hóa Điên,
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    TÂM TRÍ: Tâm có hai thứ vật chất và tinh thần.
    Về vật chất thì hiểu tâm là trái tim (Nhục đoàn tâm).
    Về tinh thần thì có duyên lự tâm và chơn như tâm.
    - Duyên lự tâm là lòng đã suy biết lo lắng duyên theo thất tình lục dục.
    - Chân như tâm là cái tâm thường còn không biến đổi, không hoại diệt, cũng gọi là chân tâm hay Phật tánh.
    Trí cũng có hai thứ:
    a)-Thể trí: Tức là phần khôn biết trong tinh thần của con người ở thế gian. Trí nầy có giới hạn, nếu ai học hỏi nhiều thì sáng biết nhiều, học hỏi ít thì sáng biết ít.
    b)-Trí huệ: Tức là cái trí sáng biết thông suốt vô cùng tận, không vật gì ngăn ngại được; do công đức tu hành khi diệt hết vô minh mà đặng.
    Tâm và trí đồng một thể, tâm là thể của trí, trí là dụng của tâm, ví như ngọn đèn và ánh sáng. Khi tâm muốn rõ việc chi thì dùng trí mà phán xét tìm hiểu rồi đưa cho tâm quyết định. Đức Giáo Chủ dạy:
    “Lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì…”
    (Trong việc Tu thân Xử kỷ)
    Nói chung tâm trí là chủ tể của xác thịt, là nguồn gốc của vũ trụ vạn hữu: “Nhất thiết duy tâm tạo”.
    Lăng Nghiêm Kinh, Phật có nói:
    “Nhất pháp sở sanh, tùy tâm sở hiện,
    Nhất thiết nhân quả, thế giới vi trần nhân tâm thành thể”.(Các pháp có sanh ra là do nơi tâm biến hiện, mà tất cả các pháp, như: Nhân quả, phàm thánh, quyền thiệt…cho đến lớn như thế giới, nhỏ như bụi trần đã do nơi tâm mà hiện ra thì cũng do nơi tâm mà thành thể).
    TẦM ĐẠO: Người muốn tu phải dùng tâm trí tìm hiểu nền đạo nào chơn chánh đúng chân lý, có mục đích tôn chỉ hẳn hòi. Ông thầy hướng dẫn phải là bậc minh sư, tài đức gồm đủ, mình mới nương theo, tất sự tu hành không bị lệch lạc:
    Tu hành tầm đạo một mai cứu đời”.
    (Sám Giảng, Q.3)
    ĐẤNG HIỀN TỪ: Bậc Đại hiền, hạnh đức viên dung, từ, bi, hỉ, xả, bình đẳng khoan dung và có bản nguyện cứu khổ chúng sanh.
    BÁ TÁNH: Trăm họ. Ý chỉ chung tất cả mọi người (do thành ngữ vạn dân bá tánh).
    “Tỏ ít câu cầu chúc cho đời,
    Mong bá tánh vạn dân giải thoát”.

    (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
    ĐẠO ĐỨC: Đạo có nhiều nghĩa: Đạo là con đường, là bổn phận, là chơn lý (bản thể) tuyệt đối và cũng gọi là chánh pháp hay chơn tánh. Đức là tâm lành, là thể hiện của nhân lành. Việc đạo đức là công việc hiền lành đạo nghĩa đúng theo con đường chánh pháp và chơn lý:
    “Ơn nhà đạo đức quyết đền ân”.
    (Tỉnh bạn Trần gian)
    KIẾN TIÊN BANG: Thấy được nước Tiên, tức sống được cảnh đời Thượng ngươn thánh đức tới đây. Trong sấm giảng BSKH và PGHH đều có cho biết và xác định như vậy:
    Lập Thượng Ngươn tuổi cả dư muôn”.
    (Kim Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới)
    “Theo ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hàng năm non”.

    (Thiên lý ca)

    LƯỢC GIẢI
    (Bài 1, từ câu 1 đến câu 6)
    Nhận thấy cuộc đời sắp đến ngày cuối cùng, chư Phật Tiên lâm phàm cứu khổ nhân sanh. Hiện nay dù ta có đeo níu lợi danh quyền tước cho nhiều, khi rốt cuộc cũng nắm tay không, mà cảnh khổ lại kề một bên. Vậy ai là người hữu tâm hữu trí, sớm thức tỉnh tầm bậc chơn sư có đủ hạnh đức hiền từ mà nương theo tu hành để sau nầy đuợc hưởng cảnh thái bình an lạc của đời Thượng Ngươn thánh đức. (Cảnh Tiên Dục giới (Đao Lợi Thiên) mỗi Tiên nhơn đều sống 10.000 (muôn) năm.)

    CHÁNH VĂN: (Bài 2)

    7.-
    “Thiên địa u minh dĩ đạo tràng,
    Thập bát chư hầu lụy há khan.
    Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn,
    10.- Đời cùng ly loạn khắp chư bang”.


    CHÚ THÍCH
    THIÊN ĐỊA: Trời đất
    U MINH: Tối tăm, mờ mịt, mênh mông sâu thẳm không có ranh giới.
    DĨ ĐẠO TRÀNG: Dĩ là lấy hay dùng. Đạo tràng cũng gọi là đạo trường. Trường dạy đạo hoặc chỉ nơi Phật thành đạo (Bồ Đề Đạo Tràng). Đạo tràng còn có nghĩa là chơn tâm, chỉ cho nhà tu khi trực nhận được chơn tâm, tức đắc Đạo. Ví dụ: Chúc ông mau đắc đạo tràng. Hiểu chung câu: “Thiên địa u minh dĩ đạo tràng” có nghĩa tuy trời đất mênh mông mù mịt, thường nhơn khó mà thấu đáo, nhưng không lọt ngoài cái ý của Đạo (do Đạo mà thành).
    Thiên ý không riêng mối đạo mầu”.
    (Thiên lý ca)
    Bởi nhà tu khi đắc đạo thì chơn tâm bao trùm cả vũ trụ vạn hữu, không sự vật nào mà chẳng thấu đạt. Cũng như cả vũ trụ vạn hữu đều do tâm mà thành.
    THẬP BÁT CHƯ HẦU: Mười tám nước nhỏ chung quanh phục tùng một nước lớn. Nghĩa bóng là chỉ khắp thế giới. Cũng như vạn quốc hay chư bang, chỉ hết thảy các nước đã có trên thế giới (hoàn cầu). Giảng xưa BSKH có câu:
    “Mười tám nước lai giáng hàng đầu”.
    (Kim Cổ Kỳ Quan)
    Đức Giáo Chủ PGHH thường nhắc đến:
    “Các nơi liệt quốc chư bang,
    Chúc cầu bình trị trướng loan sum vầy”.

    LỤY: Cũng đọc là lệ, nghĩa là nước mắt.
    HÁ KHAN: Chẳng khô ráo. Nghĩa bóng là chỉ trận thế chiến thứ II (1939-1945) xảy ra khiến cho nhơn loại khắp thế giới đều gánh chịu tai nạn: Chiến tranh, thiên tai, địa ách, đói đau chết khổ xảy ra liên tiếp từ đợt nầy đến đợt khác hiện giờ cũng chưa dứt, khiến dòng lệ của dân chúng chưa dừng được, Đức Giáo Chủ PGHH diễn tả cảnh ấy:
    Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
    Tan nát xóm diềng khổ dữ a,
    Nhà không kẻ ở, ôi ! Nói trước.
    Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha”.

    (Để chơn đất Bắc)
    ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo. Cái lý đương nhiên hợp với lẽ phải mà ai cũng công nhận.
    Riêng chữ đạo có 3 ý nghĩa: Đạo là con đường của tâm hồn. Đạo là bổn phận. Đạo là bản thể tuyệt đối.
    Chữ Đạo ở đây là chỉ cho nghĩa thứ ba (bản thể tuyệt đối). Bởi nó sâu mầu khó tả, không thể dùng văn từ ngôn ngữ hay hình tướng mà hiểu đặng “Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.
    LÝ: Là giáo lý, lời lẽ luận giải các kinh luật và pháp môn tu hành của Thầy Tổ và chư Phật Thánh đã dạy. Hành giả cứ nương theo đó mà học hỏi tu tiến đến chỗ thâm nhập chơn lý tuyệt đối và thành đạo quả.
    Đức Thầy có câu:
    “Hạ giái dạy khuyên truyền Đạo lý,
    Giả dạng Điên Khùng mượn thi ca”.

    ĐỜI CÙNG: Đời Hạ Ngươn sắp mãn để lập lại Thượng Ngươn. Cũng như quả địa cầu nầy sắp rụng để thay quả địa cầu khác. Vì nghiệp duyên của mỗi chúng sanh ở đây đã kết, rồi tùy theo nghiệp quả của mỗi chúng sanh mà chuyển sang cảnh giới khác để hưởng thụ cảnh vui khổ sang hèn nữa.
    LY LOẠN KHẮP CHƯ BANG: Cảnh chiến tranh giặc loạn, đói đau khổ não khắp thế giới, không nước nào mà chẳng có.

    LƯỢC GIẢI

    (Bài 2 từ câu 7 đến câu 10)
    Xưa nay sự đổi thay của nhơn sanh và vũ trụ không ngoài cuộc vận xoay của ý Đạo. Đức Giáo Chủ còn cho biết trận Đệ nhị thế chiến xảy ra, khiến nhân loại cả thế giới chung chịu bao nỗi đau thương khổ lụy. Chỉ có những người biết nương theo con đường Đạo lý mới mong cứu vãn, song mỗi hành giả phải gắng công đào sâu vào tâm não mới thấu đạt.

    CHÁNH VĂN (Bài 3)

    (Từ câu 11 đến câu 16)

    11.-
    Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
    Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng.
    Cơ thâm họa diệt từ đây có,
    Bộ máy thiên cơ ắt đảo huyền,
    Tuất Hợi nhị niên giai tiền định,
    16.- Huờn lai Thượng Cổ mới bình yên”.


    CHÚ THÍCH
    THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN: Do câu sách: “Thương hải biến di tang điền hay tang điền biến di thương hải” (Biển xanh hóa ra ruộng dâu, ruộng dâu trở thành biển xanh). Theo Phật học đây là luật vô thường, không một sự vật nào nằm y nguyên một chỗ.
    Xưa có Ma Cô Tiên nữ, chính mắt bà chứng kiến ba lần ruộng dâu hóa ra biển xanh. Ý chỉ cuộc đời và vạn vật luôn thay đổi, không chi là bền chắc lâu dài. Các thi nhân ViệtNam thường viết:
    “Trăm năm một cuộc bể dâu,
    Người cùng cây cỏ khác nhau chút nào”.

    (Nguyễn Trãi)
    Và: “Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
    Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”.

    (Chu Mạnh Trinh)
    Đức Giáo Chủ PGHH luôn nhắc nhở:
    “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.
    (Khuyến Thiện, Q.5)
    THIÊN ĐỊA DIỆT GIAN DĨ THIỆN RIÊNG:
    Thiên địa: Trời đất.
    Diệt gian: Tiêu diệt phần gian ác.
    : Lấy dùng.
    Thiện riêng: Dành lại người hiền.
    Nghĩa rộng cả câu: Theo định luật của Trời đất (nhân quả) thì ngày chung cuộc những kẻ gian tà hung ác sẽ bị luật đào thải diệt vong, chỉ còn dành lại số hiền lương đức hạnh sống đời Thượng Ngươn thánh đức:
    “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
    Người tu niệm sống đời Thượng cổ”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    CƠ THÂM HỌA DIỆC: Cũng viết là “Cơ thâm thì họa diệc thâm” có nghĩa nếu người mưu tính mẹo sâu kế độc để hại kẻ khác thì sau đó sẽ bị kẻ khác dùng mưu kế sâu độc hại lại mình (nhân quả nghiêm minh).
    Đức Giáo Chủ từng nhắc lại:
    “Cơ thâm thì họa diệc thâm,
    Nào trong sách sử có lầm ở đâu”.

    (Sấm Giảng, Q.1)
    THIÊN CƠ: Máy trời, cuộc vận chuyển của trời đất như một guồng máy không ngừng nghỉ, nhưng âm thầm kín đáo, thường nhơn khó mà biết được. Đức Giáo Chủ có câu:
    Máy thiên cơ mỗi phát mỗi thay.
    (Kệ Dân, Q.2)
    ĐẢO HUYỀN: Treo ngược xuống. Nghĩa bóng sự khổ sở đến cực điểm.
    “Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ nay”.
    TUẮT HỢI NHỊ NIÊN: Hai năm Tuất và Hợi. Đây là lời Đức Giáo Chủ tiên tri nhưng Đức Thầy chỉ nói Chi mà không nói Can nên chưa đoán được năm Tuất Hợi nào ? (Thiên cơ bất khả lậu).
    HUỜN LAI THƯỢNG CỔ: Huờn lai là trở lại. Thượng cổ là thời xưa. Ý chỉ đời Thượng Ngươn thánh đức. Theo sự vận chuyển của lý tam ngươn, hễ hết thượng thì tới trung rồi hạ. Thượng Ngươn thì con người hiền lương thánh đức nên thế giới thái bình an lạc. Qua Trung Ngươn đức tánh con người kém dần đến Hạ Ngươn thì lòng ngưòi hung ác gian xảo, giành giựt sát hại lẫn nhau nên phải chịu quả khổ sầu, tiêu diệt như đã thấy. Tới đây sắp đến chu kỳ lập lại Thượng ngươn (Thượng cổ) từ vô thỉ tới giờ chẳng biết bao nhiêu lần như vậy.
    Đức Giáo Chủ PGHH cho biết:
    “Việc đời nhiều nỗi sâu bi,
    Hạ Ngươn đã đến loạn ly cơ đồ”.

    Và:
    “Chừng nào Thượng cổ hồi qui,
    Thế trần mới hết khinh khi Phật Trời”.


    LƯỢC GIẢI
    (Bài 3, từ câu 11 đến câu 16)
    Cảnh thương hải tang điền xưa nay là qui luật của nhân sanh, vũ trụ lúc nào cũng chuyển biến luôn. Đó là sự trả vay của nhân và quả. Cơ thâm họa diệc, hiền còn dữ mất.
    Đức Thầy cũng đã tiên tri đến hai năm Tuất Hợi nào đó, chúng dân sẽ được hưởng cảnh thái bình an lạc. Bởi định nghiệp của trời đất sẵn bày hễ hết Hạ Ngươn thì trở lại Thượng Ngươn thánh đức.

    CHÁNH VĂN (Bài 4)
    (Từ câu 17 đến câu 20)

    17.-
    “Điên nầy vốn thiệt ở núi vàng,
    Thương đời nói rõ việc lầm than.
    Khuyên trong lê thứ mau mau tỉnh,
    20.- Yên trí nghĩ suy biết đá vàng”.


    CHÚ THÍCH
    ĐIÊN: Trong Sầm thi của Đức Giáo Chủ PGHH có đề hai bút hiệu: Ông Điên và ông Khùng. Ông Khùng là Thầy, ông Điên là vị đệ tử thứ nhứt:
    “Thầy khùng trò lại hóa Điên,
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    NÚI VÀNG: Nghĩa của chữ Kim Sơn Phật. Đây chỉ nơi cư ngụ và cũng là Phật danh của Ngài. Năm 1939 có một dị nhân đến xưng tụng Ngài: “Kim Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành”. Bán lộ giang hồ kính tặng Kim Sơn Phật (Thơ Ông Bán chiếu).
    Thời gian sau Ngài có xác định trong một bài thi khoán thủ “Kim Sơn Thượng Đẳng”.
    LẦM THAN: vất vả, cơ cực, khổ sở lắm.
    “Khiến dân phải chịu lầm than muôn phần”.
    (Lục Vân Tiên)
    Đức Giáo Chủ từng nói:
    “Lầm than khói lửa với binh đao,
    Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.

    (Ai người Tri kỷ)
    YÊN TRÍ: Giữ tâm trí cho được yên lặng bình tĩnh mà suy nghĩ.
    ĐÁ VÀNG: Cũng gọi là vàng đá. Đá là một thứ khoáng vật cứng chắc, thường dùng xây nhà hay lót đường. Nghĩa bóng chỉ cho lòng cứng rắn, chung thủy không ai lay chuyển đặng.
    Vàng là một thứ kim loại quí, giá trị cao, màu vàng, thường làm đồ trang sức. Nghĩa bóng chỉ cái gì quí giá đáng trân trọng, ghi nhớ hơn hết. Hai chữ đá và vàng ghép chung lại thành một từ ngữ để chỉ cho những sự chắc thật, trung thành giữa bạn bè, thầy trò, hay vợ chồng; tình nghĩa đối với nhau lúc nào cũng mặn nồng, chung thủy, không hề thay đổi phai lợt. Cổ văn thường nói: “Kim thạch chi ngôn khắc vu ngũ nội”(lời vàng đá khắc ghi vào ngũ phủ).
    Vậy vàng đá còn tượng trưng cho lời nói và lòng chân thật, đối với chì thau là sự giả dối. Đức Giáo Chủ đã bảo:
    “Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
    Chì thau lắm chuyện lúc non hài”.


    LƯỢC GIẢI (Bài 4)
    Bốn câu thi trên Đức Giáo Chủ cho biết danh hiệu và nơi cư trú của Ngài, vì lòng từ bi thương xót sanh linh nên nói rõ những tai nàn thống khổ sắp tới để khuyến hóa mọi người sớm thức tỉnh tu hành hay lòng tốt xấu mà lọc lừa:
    “Lọc lừa rõ đặng vàng thau,
    Đem thân mua lấy mận đào thiên nhiên”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)

    CHÁNH VĂN (Bài 5)
    (Từ câu 21 tới câu 24)

    21.-
    Ý gì Tiên Trưởng muốn khuyên đời,
    Mà đời lầm lạc lắm đời ơi !
    Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng,
    24.- Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời”.


    CHÚ THÍCH
    TIÊN TRƯỞNG: Bậc Tiên gia, đứng đầu các thứ Tiên. Lúc ông Điên (biệt danh của Đức Giáo Chủ) còn tại núi Tà Lơn có dự cuộc thi và đã được trong hội quần Tiên tuyển chọn Ngài là bậc Tiên Trưởng.(Xin xem Giảng Tà Lơn sẽ hiểu thêm đầy đủ).
    ĐẠO ĐỨC: Chữ Đạo có nhiều nghĩa: Đạo là con đường, là bổn phận, là chân lý (bản thể tuyệt đối). Và cũng gọi là Chánh pháp hay chơn tánh. Đức là tâm lành là thể hiện của nhân lành, việc đạo đức là công việc hiền lành đạo nghĩa, đúng theo con đường của chánh pháp và chơn lý. Đức Giáo Chủ từng nhắc nhở:
    “Ơn nhà đạo đức quyết đền ân”.
    (Tỉnh bạn Trần gian)
    NHUỐC NHƠ: Xấu xa, nhục nhã, bị người chê bai.
    TỈNH GIẤC: Thức giấc. Ý chỉ chúng sanh trong cõi hồng trần; cứ đắm say các vật chất: Danh, lợi, tình như kẻ đang ngủ mê trong giấc mộng. Nên Đức Giáo Chủ đánh thức mọi người sớm thức tỉnh cơn giấc mộng ấy để lo tìm đạo tu hành.

    LƯỢC GIẢI (Bài 5)
    Đại lược bài thứ 5 Đức Thầy cho biết lý do Ngài lâm phàm độ thế là vì thấy chúng sanh đang lặn ngụp trong vô minh dục vọng, đã theo đạo mà chẳng lo tu thân hành đạo. Ngược lại còn hành động các điều xấu ác thì mong gì kết quả. Tuy người tu hiện giờ hay bị người đời chê bai cười nhạo, nhưng sau nầy sẽ được cao quí. Thế nên Đức Thầy kêu gọi mọi người hãy sớm thức tỉnh tu hành cho kịp với thời gian:
    “Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
    Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
    Cứu lương hiền chẳng cứu người hung,
    Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt’.

    (Kệ Dân, Q.2)

    CHÁNH VĂN (Bài 6)
    (Từ câu 25 đến câu 28)

    25.-
    “Bi động từ tâm gọi mấy lời,
    Chúng sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.
    Kim Sơn xem thấy lòng tha thiết,
    28.- Mà còn nhiều lắm chúng sanh ôi !”


    CHÚ THÍCH
    BI ĐỘNG: Kích động tâm từ bi.
    TỪ TÂM: Lòng hiền lành hay thương người mến vật và lo tìm phương cứu độ.
    CHÚNG SANH: Chúng hữu tình, tức chỉ cho những loài có tri giác, có mạng sống. Gồm cả bốn loài. Loài sanh bằng trứng, loài sanh bằng bào thai, loài sanh nơi ẩm thấp và các loại hóa sanh.
    NAM BẮC: Hướng Nam và hướng Bắc. Nghĩa bóng là chỉ chung khắp thế giới (Đông, Tây, Nam, Bắc; Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, Thượng phương và Hạ phương). Bởi cuộc thế chiến xảy ra thì không một nước nào mà dân chúng chẳng khổ sầu rơi lệ.
    KIM SƠN: Núi vàng, nhưng chữ Kim Sơn ở đây là chỉ Phật danh của Đức Thầy (Kim Sơn Phật), và còn có nghĩa là nơi chư Bồ Tát Đẳng giác an trụ. Trong Thi Văn Ngài có viết:
    “Trì địa Kim Sơn đến cõi Bồng”.
    THA THIẾT: Cũng gọi là thiết tha. Thiết là cắt, tha là mài giũa. Nghĩa bóng là nói quá ân cần hoặc đậm đà tha thiết. Chữ tha thiết còn chỉ cho cảnh thảm khổ rất mực. Trong Quan Âm Tế Độ có câu:
    “Liếc xem bên mái tả cung,
    Tù nhân than khóc vô cùng thiết tha”.
    Chữ thiết tha Đức Giáo Chủ đặt ở đây, vì Ngài thấy cả chúng sanh đang gánh chịu cảnh thảm khổ mà động mối từ tâm thương xót.

    LƯỢC GIẢI (Bài 6)
    Đại ý bốn câu trên Đức Thầy cho biết: Vì thấy chúng sanh khắp thế giới đang gánh chịu những nỗi đói đau thảm khốc. Chẳng những trong hiện tình mà tới đây sẽ còn nhiều hơn nữa nên Ngài động lòng từ bi, lâm phàm mở cơ phổ hóa.

    CHÁNH VĂN (Bài 7)
    (Từ câu 29 đến câu 32)

    29.-
    “Nam Việt cúi lòn dài dặm dặc,
    Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.
    Đạo hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm,
    32.- Chẳng vậy sau nầy khó thảnh thơi”.

    CHÚ THÍCH
    NAM VIỆT CÚI LÒN: Người dân Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, họ áp bức và bóc lột dân ta đủ cách.
    LẼ TRỜI: Lẽ tạo hóa, tức định luật nhân quả.
    ĐẠO HẠNH: Đạo lý và hạnh đức tốt đẹp. Ví dụ: Người biết ăn ở đối xử từ trong gia đình đến ngoài xã hội đều đúng theo lẽ phải toàn hảo toàn hòa. Chữ đạo hạnh ở đây chỉ cho nền Đạo:
    “Ngôn từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
    Hạnh Đức ân cần rán tập chuyên”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    HUYỀN CƠ: (Xem chữ nầy đã giải ở phía trước).

    LƯỢC GIẢI (Bài 7)
    Dân tộc Việt Nam bị người Pháp đô hộ thời gian dài gần 80 năm. (Ý nói VN ta trước kia thôn tính nước Chiêm thành và Chân lạp, bây giờ người Pháp đô hộ lại) Đây cũng là định luật của tạo công (nhân quả) bởi dân chúng quốc gia nầy lấn chiếm quốc gia khác, sau đó sẽ bị quốc gia khác chiếm lại, cứ vay trả trả vay với nhau không dứt. Đức Giáo Chủ hằng bảo:
    “Nợ nần Tiên tổ đã gây nên,
    Con cháu ngày nay phải báo đền”.

    (Rứt cái ngu đần)

    CHÁNH VĂN (Bài 8)

    (Từ câu 33 đến câu 36)

    33.-
    “Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
    Tận diệt nhơn gian trực tiên khoa.
    Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
    36.- Ly kỳ thiên định dĩ thiên la”.


    CHÚ THÍCH
    CỔ NGỮ: Lời xưa. Những lời hay ý đẹp của người xưa nói ra để răn đời đã trở thành danh ngôn hoặc sấm ký. Như lời của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Đức Phật Thầy Tây An... Đức Giáo Chủ PGHH thường nhắc nhở:
    “Lời xưa người cổ còn ghi…”
    (Sấm Giảng, Q.1)
    Hoặc là: Lấy lời xưa kết lại ít tờ”.
    (Kh/thiện, Q.5)
    HẰNG GHI: Thường ghi chép lưu lại trên Kinh sách.
    THẬM KHỔ ĐA: Thậm là rất, khổ là khổ sở đau đớn. Đa là nhiều, rất nhiều. Ý nói sắp tới đây cuộc khổ não sẽ xảy ra cho dân chúng rất nhiều, không kể xiết.
    TẬN DIỆT NHƠN GIAN: Tận là dứt hết, diệt là chẳng còn. Nhơn là người. Gian là không gian và thời gian, tức cõi trần gian chúng sanh đang ở. Ý nói theo chu kỳ của luật tuần hoàn và lý tam ngươn thì con người và cõi trần gian nầy, chỉ sống một thời gian nào đó rồi phải tân diệt để lập lại cuộc đời khác:
    “Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắc chiu,
    Nay tận diệt lập đời trở lại.
    Khắp lê thứ biến di thương hải,
    Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    TRỰC TIÊN KHOA: Trực là ngay thẳng. Tiên là trước, khoa là thứ bực hoặc màn lớp. Ý nói khởi đầu cuộc đổi đời từ Hạ ngươn sang Thượng ngươn thì màn chọn lọc hiền còn dữ mất, tốt còn xấu mất, là trước hết.
    LÃO GIẢ HẬU QUI NHƠN ẤU GIẢ: Sau cuộc lập đời những người già sẽ trở lại. Đức Giáo Chủ PGHH từng cho biết:
    “Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ,
    Thì người già hóa trẻ dân ôi !”

    (Đáp họa Ô. Lương Văn Tốt)
    Hoặc: “Chừng lập hội thì già hóa trẻ,
    Khắp hoàn cầu đổi xác thay hồn”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    LY KỲ: Việc lạ lùng, khác thường khó suy đoán được, nhưng lại có xảy ra đúng như vậy:
    “Sau đây nhiều chuyện ly kỳ,
    Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi !”.

    (Sám Giảng. Q.3)
    THIÊN ĐỊNH: Trời đất đã định sẵn, không sai chạy được. Cũng hiểu như chữ luật trời, tức luật nhân quả. Trong bài “Thiên lý ca” Đức Giáo Chủ PGHH đã cho biết:
    “Muôn thu Thiên định nhứt kỳ,
    Ha ngươn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa”.

    DĨ THIÊN LA: Dĩ là dùng lấy. Thiên la là lưới trời, do chữ “thiên la địa võng”. Đức Lão Tử nói: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt). Ý nói người tội ác dấu người được chớ không dấu được luật trời đất. Đức Giáo Chủ PGHH cũng xác định:
    “Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi !”.
    (Khuyến Thiện, Q.5)
    Và: “Cả trời nam lưới bủa thiên la”.
    (Nang thơ cẩm tú)

    LƯỢC GIẢI
    Đức Giáo Chủ cho biết chư Phật Thánh trước kia đã tiên tri đến ngày tận diệt buổi ha ngươn, dân chúng chịu cảnh vô cùng khổ não. Vì phải trải qua cuộc chọn lọc hiền còn dữ mất, bởi luật trời căn cứ vào nhân quả mà quyết định, không một nước nào hay người nào thoát lọt được và đến lúc đó sẽ xảy ra nhiều cuộc lạ lùng chưa từng thấy: Nào cảnh thương hải tang điền, nào người già hóa trẻ.

    CHÁNH VĂN
    (Bài 9)
    (Từ câu 37 đến câu 40)

    37.-
    “Tây phương trở gót quá xa đàng,
    Thương xót Nam kỳ lại An Giang.
    Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,
    40.- Yêu đời mê muội luống bầm gan”.


    CHÚ THÍCH
    TÂY PHƯƠNG: Hướng Tây. Đây chỉ cho cõi Cực lạc. Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có giới thiệu: Cách đây mười muôn ức cõi Phật về hướng Tây có một quốc độ tên là Cực lạc, do Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ, cõi nầy hoàn toàn thanh tịnh an vui, không còn khổ não như cõi Ta bà chúng sanh đang ở. Nên gọi là Cực lạc và cũng có tên là Tịnh độ (tịnh thổ). Đức Giáo Chủ có viết:
    “Tây phương Cực lạc Khùng ngồi tòa sen”.
    (Dặn dò Bổn đạo)
    Hoặc là:
    “Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã,
    Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn”.

    (Khuyến thiện, Q.5)
    NAM KỲ: Miền Nam nước Việt Nam. Khi người Pháp thống trị nước Việt Nam thì phân chia nước ta làm ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Thời tự chủ (nhà Nguyễn)Nam kỳ gồm có sáu tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên. Thời Pháp thuộc chia ra 20 tỉnh.
    AN GIANG: Nguyên khởi thời nhà Nguyễn là tỉnh An Giang, qua thời Pháp thuộc chia làm hai: Long Xuyên và Châu Đốc. Đến 1956 xác nhập lại thành một (An Giang), tới năm 1964 tách ra làm tỉnh Châu Đốc còn lại phân nửa giữ tên An Giang như trước, cho đến bây giờ cũng xác nhập, lấy tên y như cũ (An Giang) giờ đây trở thành địa danh “Thánh địa PGHH” nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng nền Đạo.
    Sấm thi Bửu Sơn Kỳ Hương có hai câu tiên tri:
    “Sài Gòn mất, Gia Định còn,
    Châu Đốc mất trước tiếng còn An Giang”.

    (Kim Cổ Kỳ Quan của Ô. Ba Thới)
    MÊ MUỘI: Không sáng suốt, chỉ cho số người còn sống theo vô minh dục vọng. Đức Giáo Chủ PGHH có nhận xét:
    “Thấy đời mê muội lầm than,
    Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉn ghê”.

    (Sấm Giảng, Q.1)

    LƯỢC GIẢI
    Đại ý bốn câu trên Đức Giáo Chủ nói rõ tiền kiếp của Ngài đã tu hành chứng đạo và đã có ngôi vị bên Tây phương Cực lạc. Nhưng vì lòng thương xót chúng sanh nên Ngài trở lại khai hóa đạo mầu tại Thánh địa Hòa Hảo, thuộc tỉnh An Giang. Ngài cũng nhận xét nhân sanh còn mãi mê say cảnh đời ảo mộng, chưa chịu thức tỉnh tu hành, khiến Ngài đau xót cả tim gan.

    CHÁNH VĂN (Bài 10)

    (Từ câu 41 đến câu 48)

    41.-
    “Thiên trước tòa sen có chỗ ngồi,
    Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.
    Khắp trong sáu tỉnh toàn giả dối,
    44.- Xá phướn tăng sư tạo việc tồi.
    Thiên cơ thế giới đà biến chuyển,
    Từ rày trần hạ lợi danh trôi,
    Tu hành giả dối khuyên khá đổi,
    48.- Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi”.
    (Hòa Hảo tháng 6 năm Kỷ Mão)

    CHÚ THÍCH
    THIÊN TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên trúc hay gọi là Tây Thiên trước. Bởi nơi ấy có Phật giáng sanh và phát xuất đạo Phật, từ đó người tu Phật cũng gọi như vậy. Nhưng chữ Thiên trước còn có nghĩa rộng là chỉ cõi Tây phương Cực lạc (An Dưỡng Quốc) của Đức Phật A Di Đà. Trong Kệ Dân, Q.2 Đức Thầy có cho biết”
    “Cảnh thiên truớc thơm tho nồng nặc,
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần”.

    Và:
    “Cảnh tây thiên báu ngọc đầy lầu,
    Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng”.

    TÒA SEN: Nghĩa của chữ Liên Hoa, dành cho người tu khi chứng quả được an tọa trên đó, vì hoa sen tượng trưng cho sự trong sạch (cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê) ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt; lúc nào cũng tự tại vô ngại. Các Ngài tâm đức đã viên mãn giờ trở lại trần gian cứu độ chúng sanh mà tâm không hề ô nhiễm trong lưới mê trần trược.
    Ở đây chỉ cho Đức Giáo Chủ PGHH đã thành Đạo trong nhiều tiền kiếp, nay vì lòng từ bi và có bản nguyện độ tận chúng sanh nên Ngài mới nhập thế cứu đời như Ngài từng thốt:
    “Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
    Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    SÁU TỈNH: Do chữ “Nam kỳ lục tỉnh”. Nước Việt Nam vào thời cựu trào nhà Nguyễn miền Nam có sáu tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên qua thời Pháp thuộc mới chia 20 tỉnh.
    XÁ PHƯỚN: Viết cho đủ là xá phướn lầu kho, giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo. Những vật nầy do các thầy nhưn bông làm ra để khi có các cuộc tang ma, làm tuần, cầu siêu, đem đốt cho người chết xuống cõi âm phủ xài được và xá hạt xá ngựa đó sẽ mang phướn sớ ấy đến Trời Phật được. Đúng là việc lạ lùng mê tín dị đoan, nên Đức Giáo Chủ giác tỉnh họ:
    “Xá với phướn là trò kỳ quái,
    Làm trai đàn che miệng thế gian.
    Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
    Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
    Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
    Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn.
    Thấy lạc lầm đây động lòng son,
    Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    TĂNG SƯ: Các thầy tu theo đạo Phật mang hình thức xuất gia cư trú các nơi: Chùa am, thiền viện đạo tràng…song tăng sư có hai hạng:
    1.-Hạng do tu học giáo lý, nghiên cứu kinh điển, tu hành đúng theo chơn lý và giáo hóa chúng sanh, đó là hạng tăng sư chơn chánh.
    2.-Số Tăng sư chuyên đi làm đám, bày các vật lễ cúng tế, như xá phướn lầu kho giấy tiền vàng bạc cầu cúng khiến cho chư thiện tín lạc vào mê tín và u tối thêm. Đó là hạng tăng sư hành động sai chơn lý của đạo Phật.
    TẠO VIỆC TỒI: Làm những việc mê tín dị đoan, không đúng chơn lý và qui điều của Phật Tổ đã dạy khiến kẻ ngoại đạo chê bai làm mất phẩm giá của tăng đồ.
    TRAI ĐÀN: Do thành ngữ Đàna (Scr), phiên âm Đàn na. Có nghĩa cúng dường Tam Bảo và bố thí. Xưa các phật tử hay môn đồ nhà Phật thường tổ chức trai đàn, là vua quan, trưởng giả những nhà hảo tâm hùn lại nào của tiền lúa gạo thuốc men y thực để cúng dường Đức Phật và chúng tăng như bố thí cho dân nghèo cơm áo vật dụng thuốc men, nhà ở.v.v…Đồng thời thỉnh các tăng sư, trí thức thuyết pháp cho đại chúng nghe họ sớm thoát cảnh khổ đau sanh tử, đó là đúng ý nghĩa của cuộc trai đàn, nên làm.
    Còn mấy lúc gần đây, cuộc trai đàn bị lệch lạc rất nhiều, họ bày ra lễ vật cầu cúng đượm mùi mê tín như đã giải trên…Trai tăng thì có, nhưng phần bố thí chỉ tượng trưng chiếu lệ. Ban tổ chức làm ít cổ bánh và một số tiền kẽm xỏ vào cây hương, tới giờ cúng các cô hồn (Xô giàng) phóng ra cho các trẻ em giành giựt còn bao nhiêu thì dành lại làm của riêng.
    Theo Đức Giáo Chủ PGHH thời này, chẳng phải muốn phá lệ mà chỉ khuyên các tăng sư nên sửa đổi cải bỏ cách cầu cúng làm chay không đúng ý nghĩa hai chữ trai đàn trong giáo lý nhà Phật.

    LƯỢC GIẢI
    Đoạn kết của bài “Lộ Chút Cơ Huyền”, Đức Thầy cho biết lúc chưa lâm phàm độ thế Ngài đã có sẵn ngôi vị bên cõi Cực Lạc chẳng màng đến quyền tước vị danh nơi trần tục. Song vì lòng từ bi thấy số người tu chẳng đúng theo chánh pháp vô vi của đạo Phật, mãi chạy theo hình tướng dị đoan gây tạo danh lợi ảo huyền.
    Cơ trời đã biến chuyển những gì hình thức hư dối điều tan biến theo định luật thành, trụ, hoại, không. Ngài khuyên khắp các giới tu hành hãy sớm bãi bỏ những hình tướng hư dối ấy. Bởi:
    “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo,
    Chân truyền cụ thất Đạo nan thành
    .
    (Tỉnh Thế Ngộ Chơn)
    (Nếu hành giả còn dùng sắc tướng thinh âm là người còn ngoại đạo, vì đã thất chân truyền nên đạo quả ắt khó thành).

    Bài 2.- CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE
    CHÁNH VĂN


    1.-
    “Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
    Bửu sanh du lịch lục châu giang.
    Kim Sơn thương mãi toàn lê thứ,
    4.- Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng”.

    (Hòa Hảo tháng 7 năm Kỷ Mão)

    XUẤT XỨ
    Bấy giờ khoảng đầu tháng 7 năm Kỷ Mão (1939), trong gia đình Đức Ông bị mất một chiếc ghe nhỏ mình lườn, hai chèo. (Thời đó người ta dùng cây súc lớn bằng sao hoặc sến, cắt vừa tầm thước rồi dục khoét trong ruột để chèo đi. Nhỏ thì kêu ghe lườn, đóng cặp thêm đôi be gọi là Cà Vom). Đức Ông cho người nhà theo dò kiếm mấy ngày vẫn chưa được. Thấy Đức Ông lo lắng, Đức Thầy liền viết bài thi tứ cú nói trên, đọc cho Đức Ông nghe và bảo:
    “Ông Cả tìm mấy ông lão thông chữ Nho bàn thử”.

    LƯỢC GIẢI

    Đại ý bốn câu thi trên Đức Giáo Chủ cho Đức Ông thân sinh của Ngài biết lý do chiếc ghe nhỏ của Đức Ông bị mất, khó mà tìm ra được. Vì Ngài cùng một đệ tử đã mượn đi ngao du khắp sáu tỉnh miền Nam. Khi thì giả ra người mua bán, lúc lại giả kẻ chèo đò, ăn xin v.v…khắp đó đây để thức tỉnh bá gia sớm giác ngộ tu hành:
    “Lục châu ta dạo bằng nay,
    Khuyên trong lê thứ ngày rày tỉnh tâm”.

    (SG, Q.1)

    CHÚ THÍCH
    ĐỨC ÔNG: Thân phụ của Đức Thầy, tên thật là Huỳnh Công Bộ, hiện đang làm chức Hương Cả trong Ban Hội Tề làng Hòa Hảo.
    LY GIA: Lìa khỏi nhà. Ý chỉ chiếc ghe Đức Ông đang cặm bến bỗng nhiên bị mất.
    VỊ TẤT NAN: Khó mà biết hoặc chưa giải bày cho biết và cũng chưa tìm bây giờ được.
    BỬU SANH: Bửu là báu. Sanh là sống trở lại. Riêng chữ Bửu là danh hiệu của vị Giáo tổ Bửu Sơn Kỳ Hương, tức là Đức Phật Thầy Tây An và cũng là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Gọi tắt là Đức Thầy Bửu Sơn.
    Trong Sấm Giảng quyển Nhứt, Đức Giáo Chủ có tường thuật lúc Ngài hành đạo nơi vùng núi báu, được gặp Đức Thầy Bửu Sơn truyền cho pháp diệu;
    “Nhờ trời may mắn một khi,
    Thẩn thơ lại gặp Đức Thầy Bửu Sơn.
    Cúi đầu Điên tỏ nguồn cơn,
    Động lòng bác ái ra ơn dạy truyền.
    Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,
    Nội trong sáu khắc biết liền thiên cơ”.

    DU LỊCH: Đi ngao du đó đây để xem phong cảnh và nhơn tình dân chúng.
    LỤC CHÂU: Cũng như từ lục tỉnh, tức sáu tỉnhNam phần Việt Nam. Vào thời nhà Nguyễn vua Gia Long chia làm 6 trấn: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang, Hà Tiên. Đến năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng đổi sáu trấn ra sáu tỉnh, tức là sáu châu. Đến thời Pháp thuộc sáu châu chia làm 20 tỉnh, rồi 21 tỉnh, tức thêm tỉnh Vũng Tàu, trước đó thuộc Bà Rịa. Danh từ dạo lục châu Đức Giáo Chủ có đề cập nhiều lần trong Sấm Giảng Thi Văn của Ngài:
    Khắp sáu châu nức tiếng người đồn.(Sa Đéc)
    Hay là:
    Lục châu chưa giáp mà lòng ủ ê.(SG, Q.1)
    KIM SƠN: (Xem phần CT bài trước).
    THƯƠNG MÃI: Mua bán. Lúc Đức Thầy đi dạo lục châu. Ngài thường giả ra kẻ mua bán, ăn xin chèo đò..
    LÊ THỨ: Lê là đen; thứ là đông, nhiều. Cũng có nghĩa như chữ lê dân (dân đen). Chỉ cho tất cả nhân dân. Ví dụ: Khắp lê thứ hay trong lê thứ.
    THỨC TỈNH: Tỉnh thức kẻ còn mê để họ sớm biết tu hành theo lẽ phải:
    “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”.
    (Khuyến Thiện, Q.5)
    GIẤC MỘNG TRÀNG: (Xem CT bài đầu)

    Bài 3.- MẶC TÌNH AI
    CHÁNH VĂN


    1.-
    “Bá gia mặn lạt mặc tình ai,
    Đạo lý tầm đâu chẳng thấy rày.
    Chỉ thấy mình trơ thân xác trọi,
    Ai người tâm đạo thấy càng hay.
    5.- Ai người thích đạo thấy chàng ray”.


    XUẤT XỨ
    Khoảng hạ tuần tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) Đức Giáo Chủ mới khai Đạo độ đời; bây giờ có nhiều người ở chung quanh thấy Ngài còn nhỏ tuổi mà đứng ra làm công việc lớn lao, vừa thuyết giảng viết kinh, vừa trị bịnh độ đời, nên họ đâm ra ghét ghen đố kỵ, tìm đủ lời chê bai châm chích.
    Bao tiếng thị phi ấy lúc nào Đức Giáo Chủ cũng gát để ngoài tai, ung dung tự tại chỉ một lòng lo độ tận nhơn sanh.
    Hôm ấy Ngài vừa sáng tác vừa ngâm lên ba bài thi với nhan đề “Mặc Tình Ai”.

    CHỦ ĐÍCH

    Ngài khuyên bá tánh vạn dân hãy kiên nhẫn tu hành và lo rèn chí lập thân. Vì chỉ có thời gian độc nhất nầy rất thuận lợi cho chúng ta tu thân hành đạo để sau nầy được toại hưởng điều quý báu.

    LƯỢC GIẢI

    Lúc Đức Thầy mở cơ phổ hóa có nhiều người bàn ra tán vào, nhạo chê đủ cách, nhưng lòng Ngài không màng kể. Bởi họ chỉ đứng xa bên ngoài nhìn vào sự tướng, nên thấy Ngài chỉ là một thanh niên ít học như bao nhiêu thường dân khác. Chỉ có những người tâm đạo mới nhận ra Ngài đã đầy lòng từ bi độ chúng và càng nghĩ càng thấy cái đạo rất cao thâm mầu diệu. Còn những kẻ không thích Đạo (bỏ đạo) họ xem cái đạo như là một chướng ngại vật (chàng ray) cản trở bước tiến của họ, thảo nào họ chẳng bình bình phẩm phiến diện.

    CHÚ THÍCH

    BÁ GIA: Trăm nhà, ý chỉ chung tất cả dân chúng.
    Nhứt gia hữu sự, bá gia ưu”. (Tục ngữ)
    MẶN LẠT: Vị mặn và vị lạt. Nghĩa bóng là chê khen, thương ghét; kẻ nói vầy người nói khác. Đức Thầy có câu:
    “Mặc tình ai nói thiệt hơn,
    Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời”.

    (Để chơn đất Bắc)
    MẶC TÌNH: Mặc kệ, tùy ý ai nói sao thì nói, chê khen gì cũng mặc:
    “Kể chi miệng mối lưỡi lằn,
    Mặc tình thế sự kêu thằng hay ông”.
    (Cây Đuốc Huệ)
    TÂM ĐẠO: Trong lòng hàm chứa những điều đạo đức tốt lành, hợp với đạo lý. Ví dụ: Người có tâm đạo:
    “Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy”.
    (Từ giã Bổn đạo khắp nơi)
    THÍCH ĐẠO: Bỏ đạo, không ưa đạo. Do câu:“Chánh kỷ dĩ giáo nhơn giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhơn giả nghịch”.(Có nghĩa: Biết tu sửa cho mình được chánh đúng với đạo rồi đem dạy đời, ấy là thuận vậy. Bằng bỏ mình không lo tu hành, đi dạy đời là lẽ nghịch vậy).
    CHÀNG RAY: Chàng ràng cản trở như vật chướng ngại. Ý nói người thích đạo (bỏ đạo) thì họ coi cái đạo là một chướng ngại vật đối với họ.

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 6 đến câu 9)

    6.-
    “Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
    Mặc sức dương trần chữ đắng cay.
    Có báu thì ta gìn của báu,
    9.- Ai tầm cho giỏi mới được hay”.


    LƯỢC GIẢI
    Sống dưới thời Pháp thuộc họ đối với các Đạo giáo quá gắt gao nên Đức Giáo Chủ dạy các môn đồ phương cách tu hành phải âm thầm kín đáo không nên phô trương hình thức và dù cho người đời có chê bai gièm siễm cũng mặc:
    “Mặc tình ai nói thiệt hơn,
    Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời”.

    (Để chơn đất Bắc)
    Mỗi hành giả phải xét biết cái đạo quí giá vô cùng, vàng ngọc cũng không sánh được. Cũng như chỉ có chơn tâm mới là trường tồn vĩnh cửu. Vậy mỗi người phải nên theo dõi mà gìn giữ tu sửa, tất tương lai sẽ đạt thành đạo quả.

    CHÚ THÍCH

    THẦM THẦM TỐI TỐI: Thầm là ngầm; tối là kín đáo, không phô trương cổ võ bằng hình thức bên ngoài. Giảng xưa có câu:
    “Niệm Phật thì niệm âm thầm,
    Niệm lớn nhiều kẻ giận bầm lá gan”.

    (Kim Cổ Kỳ Quan)
    Đức Thầy thường cho biết:
    “Dân tình xài xể dập bầm,
    Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
    Xác trần ta mở oai linh,
    Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay”.

    DƯƠNG TRẦN: Dương là cõi đời, ý chỉ mọi người trong thế gian.
    CHỮ ĐẮNG CAY: Lời lẽ chê bai châm chít. Thời gian Đức Giáo Chủ mới khai Đạo, có nhiều người dùng đủ lời đắng cay nặng nhẹ, gièm siễm chê bai, nhưng Ngài vẫn nhẫn nhịn, miễn sao được số người giác tỉnh tu hành là an lòng:
    “Cay đắng siễm gièm thân lão chịu,
    Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông”.

    Hoặc là:
    “Thấy ta lại nói cay nói đắng,
    Đắng với cay ta cũng chẳng màng”.

    (Giác mê Tâm kệ, Q.4)
    CỦA BÁU: Trong đời có hai vật quí báu: Một ở thế gian là vàng bạc ngọc ngà châu báu tiền của, hai xuất thế gian thì có đạo tâm và Phật tánh…
    Của báu ở đây Đức Thầy ám chỉ cho đạo tâm và Phật tánh của mỗi người. Hành giả phải dùng trí đạo mà gìn giữ không để mất. Bởi lẽ vàng bạc của cải bị mất ta có thể tạo ra được, còn tâm tánh bị mất đi rồi muôn kiếp khó tìm, vì phải luân hồi sanh tử.
    “Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
    (Cho Ô. Cò tàu Hảo)

    CHÁNH VĂN


    10.-
    “Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
    Có một hội nầy rán lập thân.
    Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,
    13.- Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần”.


    LƯỢC GIẢI
    Lòng Đức Giáo Chủ lúc nào cũng lo tìm cách giác tỉnh người đời sớm tỉnh ngộ quày đầu hướng thiện, dù ai có chê bai gièm siễm cũng mặc. Ngài kêu gọi khắp vạn dân hãy lo lập thân hành đạo, vì chỉ có cơ hội nầy là duy nhứt. Nếu ta không tinh tấn tu hành ắt phải huốt đi cơ hội may mắn , Đức Thầy thường thúc giục:
    “Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
    Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng”.

    (Kệ Dân, Q.2)

    CHÚ THÍCH

    LẬP THÂN: Tự lập thân mình. Đã mang thân con người thì phải lo tu tập cho nên danh phận với đời. Sách Thánh có câu: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế dĩ hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi chung giả”. Đức Thầy luôn nhắc nhở môn đồ:
    “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
    Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

    TRỄ CHẦY: Chậm muộn chần chờ giải đãi, không kịp với thời gian cơ hội, Đức Thầy luôn kêu gọi:
    “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
    Đến tội rồi mới hối muộn màng”.

    KHUYA SỚM: Cũng gọi là sớm khuya. Khuya là từ 3 giờ tới 6 giờ sáng, sớm là từ 6 giờ tới 8 hay 9 giờ tối hoặc 20 hay 21 giờ. Cũng có nghĩa là sáng và chiều, hoặc ngày và đêm. Chữ sớm khuya ở đây là chỉ cho hai thời lễ bái và niệm Phật của mỗi tín đồ PGHH. Đức Giáo Chủ từng dạy:Gắng công trì niệm sớm khuya”.(Kh/thiện, Q.5)
    Hay là:
    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

    (Giác Mê, Q.4)
    CẦN CHUYÊN: Cần là siêng năng không biếng trễ hay trù trừ lần lựa. Chuyên là chuyên nhứt làm một việc. Ví dụ: Chuyên nghiên cứu kinh sách, chuyên làm việc xã hội, chuyên tâm hành Đạo. Vậy cần chuyên là siêng năng và nhứt tâm thi hành một việc mà lòng mình đã quyết định. Đức Thầy từng dạy”
    “Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
    Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”.

    (Để chơn đất Bắc)

    Bài 4.- BÁNH MÌ

    Xuất xứ

    Khoảng thượng tuần tháng 6 năm Kỷ Mão (1939) sáng sớm, Đức Thầy đến thăm gia đình ông Nguyễn Duy Hinh, cách phía dưới Tổ Đình độ 300m. Gia đình ông Hinh có bà con với Ngài. Bấy giờ phía ngoài đường lộ có tiếng người rao bán bánh mì đi ngang. Tiếng rao nghe thảnh thót lọt vào tai mọi người. Đức Thầy liền tức cảnh viết hai bài thi: Một bài bát cú và một bài tứ cú.
    Chủ đích là Ngài nói lên tinh thần thương yêu nước non nòi giống.
    NỘI DUNG: Đại ý Đức Thầy mượn đề tài bánh mì để phê bình nền văn minh vật chất của Âu Tây. Họ chỉ tô vẽ cái nét đẹp hào nhoáng bên ngoài, chớ thực chất là thống trị dân tộc ta, khiến phải mất quyền tự chủ ngót 70 năm qua.

    CHÁNH VĂN

    1.- “Mì kia gốc phải nước mình không ?
    Nghe thiếng rao mì thốt động lòng.
    Chiếc bánh não nùng mùi khách lạ,
    Bát cơm đau đớn máu cho ông.
    Văn minh những vỏ trưng ba mặt,
    Thấm thía tim gan ứa mấy dòng.
    Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
    8.- Say mì lắm kẻ bán non sông”.


    LƯỢC GIẢI

    Đại ý tám câu thi trên, khi Đức Thầy nghe tiếng người rao bánh mì mà kích động từ tâm: Đau xót cho dân tộc ta vì ham thích những gì mới lạ của ngoại bang mà vội quên đi tinh thần đạo đức cổ truyền.
    Bấy lâu vì quá mê nhiễm nền văn minh vật chất mà nhiều người cam tâm làm tay sai cho giặc Pháp, khiến dân tộc ta bị họ thống trị gần thế kỷ nay.

    CHÚ THÍCH
    MÌ: Tức là bánh mì, một thứ bánh làm bằng bột mì, do lúa mì xay ra, gốc từ Tây Âu sản xuất. Nghĩa bóng: Chỉ cho các vật liệu văn minh của người Pháp.
    NÃO NÙNG: Cũng gọi là não nồng, hay não nề buồn bã áo não lắm: Áo não tâm cang cảnh mộng sầu”. (Viếng làng Mỹ Hội Đông) (?) Và : “Thấy bá gia gặp lúc não nùng.(Giác mê TK, Q.4)
    VĂN MINH: Văn là văn vẻ; minh là sáng sủa. Tức là cái văn vẻ sắc thái sáng sủa. Lối sinh hoạt của loài người khi đã tiến xa khỏi thời kỳ dã man và khi đã khai hóa đến chỗ sáng sủa. Nhưng chữ Văn minh ở đây là chỉ cho số người học đòi theo nếp sống mới của Âu Tây:
    “Văn minh sửa mặt sửa mày,
    Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi”.

    (Sám Giảng, Q.3)
    Hoặc là:
    “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
    Nghiệp tổ tiên con cháu cứ vày bừa,
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

    (Trao lời cùng Ô. Táo)
    TRƯNG BA MẶT: Nền văn minh của Tây Âu quá chú trọng về vật chất, họ chỉ trưng bày ba mặt bên ngoài là : Khoa học, kinh tế và cơ khí; nhưng còn mặt bên trong là tinh thần đạo đức. Bởi thiếu mặt đạo đức làm nồng cốt nên họ đưa nhơn loại đi đến họa diệt vong.
    BẢY MƯƠI NĂM TRỞ NGƯỢC: Tính từ năm 1939 trở ngược về trước (1861-1862) quân đội Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông nước ta, rồi lấy luôn Nam kỳ lục tỉnh, tới nay là ngót 70 năm.
    SAY MÌ: Mê thích bánh mì. Ý chỉ sự mê đắm, say nghiện nền văn minh vật chất của Pháp.
    NON SÔNG: Cũng gọi là núi sông. Nghĩa của chữ Giang sơn. Bán non sông là bán nước.

    BÁNH MÌ (Bài 2)

    9.- “Khải hoàn dân chúng mới nhàn an,
    Dân mảng còn mê giấc mộng tràng.
    Thảm thê thế sự mùi cay đắng,
    12.- Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang”.


    LƯỢC GIẢI
    Một quốc gia khi bị mất quyền tự chủ, dân chúng phải chịu cảnh điêu linh, đói đau giặc loạn, thật là thảm khổ vô ngần. Cho đến khi nào đất nước được phục hồi, dân chúng mới toại hưởng cảnh thái bình an lạc.
    Muốn được vậy, Đức Thầy kêu gọi mọi người sớm tỉnh cơn mộng huyễn hướng thiện tu hành được thoát ly cảnh khổ. Hiện giờ Ngài rất đau lòng khi thấy chúng dân nước ta còn bị người Pháp đô hộ.
    Bài 5.- Ông Lương Văn Tốt hỏi Ông Lương Văn Tốt là một cụ đồ ở kinh Đồng Tân xã Mỹ Hội Đông (Long Xuyên). Tuy là một nho gia nhưng ông rất ham mộ Phật pháp, nên có làm bài thi tứ cú đến chất vấn Đức Huỳnh Giáo Chủ. Hôm ấy khoảng cuối tháng 6 năm Kỷ Mão (1939).
    Đây là bài thi Ông Tốt hỏi:

    CHÁNH VĂN

    1.- “Mộ đạo ơn trên chưa hiệu danh,
    Xin ông phân cạn chúng nghe rành.
    Ba ngàn thế giới ai là chủ,
    4.- Mở lượng từ bi dạy chúng sanh”.


    LƯỢC Ý
    Đại lược bài thi trên ông Tốt định hỏi Đức Thầy: Từ trước tới giờ lòng ông rất ham mộ đạo đức, nhưng chưa biết danh hiệu của Ngài. Và khắp ba ngàn thế giới ai là chủ. Vậy nhờ Ngài mở lòng từ bi giải bày cho tôi và bá tánh được rõ.
    Đức Giáo Chủ liền rút viết họa đáp bài thi trên và hỏi lại một bài tứ cú. Còn tặng thêm ông Tốt một đoạn giảng song thất lục bát biến thể, dài 26 câu.
    Đây là bài thi Đức Thầy đáp họa:

    CHÁNH VĂN (Đức Thầy đáp)

    1.-
    “Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,
    Ngặt vì pháp luật khó phân rành.
    Càn khôn muốn biết ai là chủ,
    4.- Tu hành theo dõi đến mây xanh”.


    LƯỢC GIẢI
    Nội dung bốn câu thi trên, Đức Giáo Chủ cho ông Tốt biết: Ngài vưng lịnh Đức Thế Tôn, tức Đức Thích Ca khai hóa đạo mầu, song chưa nói rõ danh hiệu, vì sống thời Pháp thuộc, họ dùng chánh sách bạo tàn đàn áp các tôn giáo, nên Ngài chưa nói rõ được. Vậy ông muốn biết ai là chủ trong trời đất, hãy rán tu hành cho thấu đạt lý chơn không, tức là cái chơn tâm diệu minh (không mà chẳng không của mình). Bởi nếu người còn đứng ngoài ngưỡng cửa của đạo thì dù có giải bày thế nào, cũng không thấu hiểu được.
    Bài thi Đức Thầy hỏi lại ông Tốt:

    CHÁNH VĂN

    1.- “Vì sao thế giới lại ba ngàn ?
    Học đã rành chưa đến hỏi han.
    Đã lãm nho văn thì phải đối,
    4.- Đáp lời cho vẹn kiến Tiên bang”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài thi trước Đức Thầy chỉ giải đáp ẩn ý. Bài thi nầy Ngài hỏi vặn lại: Tại sao gọi thế giới ba ngàn ? Nếu ông là người thông suốt nho văn, hãy đáp thử xem. Và nếu ông Tốt giải bày đúng, tất được thấy cảnh Phật Tiên trước mắt.
    CHÚ THÍCH
    BA NGÀN THẾ GIỚI: Theo Phật học là nghĩa của chữ “Tam thiên đại thiên thế giới” tức là một thế giới lớn, như thế giới Ta bà nầy.
    1 ngàn Tiểu thiên thế giới (1.000) hiệp lại là một Trung thiên thế giới: (1.000.000).
    1 ngàn Trung thiên thế giới hiệp lại là một Đại thiên thế giới: (1.000.000.000).
    Thế thì một Tam thiên Đại thiên thế giới, hay là một Đại thiên thế giới gồm có 1 triệu thế giới nhỏ: (1.000.000.000).
    Để tỏ rõ hơn, xin ghi chép hình thức như sau: Một Tiểu thiên thế giới gồm có:
    1 Tu Di sơn; 1 mặt trời; 1 mặt trăng; 1 tứ châu thiên hạ, ở chung quanh núi Tu Di: Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiện Bộ Châu, Bắc Cu Lư Châu.
    Chúng ta ở vào Nam Thiện Bộ Châu. Trong đây gồm có 5 Châu nhỏ là: Á Châu, Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, Phi Châu. Người Việt Nam ta ở về Á Châu.
    Bên trên chúng ta còn có tam giới: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
    Tạm ghi biểu đồ như sau:
    A.- DỤC GIỚI:
    Gồm có 6 từng: 1.Tứ thiên vương (ở lưng chừng núi Tu Di).
    2. Đạo Lợi (Lỵ).
    3. Dạ Ma.
    4. Đâu Xuất.
    5. Hóa Lạc.
    6. Tha Hóa Tự Tại.
    B.-SẮC GIỚI:
    Gồm có 18 từng:
    -Nhứt thiền: 1. Phạm Chúng
    2. Phạm Phụ.
    3. Đại Phạm.
    -Nhị thiền: 4. Thiều Quang.
    5. Vô Lượng Quang.
    6. Quang Âm.
    -Tam thiền: 7. Thiểu Tịnh.
    8. Vô Lượng Tịnh.
    9. Biến Tịnh
    -Tứ thiền 10. Vô Vân.
    11. Phước Sanh.
    12. Quản Quả.
    13. Vô Tưởng.
    14. Vô Phiền.
    15. Vô Nhiệt.
    16. Thiện Kiến.
    17. Thiện Hiện.
    18. Sắc Cứu Cánh.
    C.-VÔ SẮC GIỚI:
    Gồm 4 từng: 1. Không vô biên.
    2. Thức vô biên.
    3. Vô sở hữu.
    4. Phi tưởng phi phi tưởng.
    PHẬT THẾ TÔN: Tức là Đức Thế Tôn. Ý chỉ bậc tu hành đã hoàn toàn giác ngộ, được mọi người trong thế gian và cả tam giới đều kính trọng tôn quí nên tôn xưng Ngài là Đức Thế Tôn hay Phật Thế Tôn. Đây là chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni, do công năng hạnh đức tu hành và cứu độ vạn loại chúng sanh mà cả thế gian tôn xưng Ngài có đủ 10 hiệu Phật như sau :
    1.- Như Lai.
    2.- Ưng Cúng.
    3.- Chánh Biến Tri.
    4.- Minh Hạnh Túc.
    5.- Thiện Thệ.
    6.- Thế Gian Giải.
    7. – Vô Thượng Sĩ.
    8.- Điều Ngự Trượng Phu.
    9.- Thiên Nhơn Sư.
    10. - Phật Thế Tôn.
    Ở đây Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo trả lời cho ông Tốt biết, Ngài đã vưng lịnh Đức Thế Tôn lâm phàm khai hóa chúng sanh, chưa nói rõ danh hiệu:
    “Lão đây vưng lịnh Phật Tôn,
    Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành”.

    (Thiên lý ca)
    TỪ BI: (Xem CT chữ Từ bi: STTD, 406, cột 1 và 2).
    CÀN KHÔN: Càn là trời, khôn là đất; hai quẻ trong Bát quái (Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đài) Càn khôn ở đây chỉ cho cả thế giới, hay cả vũ trụ vạn hữu. Đức Thầy (Giáo chủ PGHH) từng nói:
    “Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
    Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu”.

    (Đáp họa lời ông Tùng)
    ĐẾN MÂY XANH: Tận chân trời hay da trời, khi gặp trời quang mây tạnh, ta nhìn xa thẩm tận chân trời, chỉ thấy da trời một màu xanh biếc; nhưng dù ai đi mãi cũng không bao giờ tới hay rờ nắm được, vì nó vô hình. Nghĩa bóng là chỉ cái chơn tâm của mình, nó không có hình tướng sắc màu (chơn không) nhưng nó vẫn có (diệu hữu) và thông suốt vô cùng tận. Nếu ai tu hành thấu đạt chơn tâm hoặc lý sắc không mới biết được ai là chủ thể của càn khôn vũ trụ (vạn vật duy tâm tạo), nên Đức Thầy mới khuyên ông Tốt:
    “Càn khôn muốn biết ai là chủ,
    Tu hành theo dõi đến mậy xanh”.

    NHO VĂN: Cũng gọi là văn nho, tức là văn chương chữ nghĩa của Nho Giáo:
    “Văn nho bàn luận nhiều ông lắc đầu”.
    (Để chơn đất Bắc).
    TƯỜNG LÃM: Xem biết rõ mọi việc, từng trải qua, từng hiểu qua, không thiếu sót.
    “Chí tâm tường lãm thấp cao,
    Dạy cho rõ biết Thiên Tào nơi đâu”.

    (Thiên lý ca)
    TIÊN BANG: Nước Tiên, cõi Tiên. Ý chỉ cõi đời Thượng Ngươn thánh đức tới đây, Đức Thầy nói:
    “Cửa Tiên Bang hỡi còn khóa cổng”.
    (Nang thơ Cẩm tú)
    Và: “Theo ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hàng năm non”.

    (Thiên lý ca)
    Tiếp đây là đoạn giảng Đức Thầy tặng thêm cho ông Tốt; gồm 26 câu chia làm 5 đoạn, thể song thất lục bát biến thể.

    CHÁNH VĂN

    1.- “Đời văn vật say mê khổ thảm,
    Người nào đà tường lãm nho văn.
    Xưa nay mèo mã lung lăng,
    4.- Làm cho quên mất đạo hằng Thánh Nhơn”.


    CHÚ THÍCH
    Văn minh về vật chất, trái với văn minh tinh thần, từ ngày luồng văn minh vật chất của Âu Tây tràn vào xứ ta, họ bày những thói ăn chơi, xa hoa, trụy lạc làm cho dân ta mê say, rồi bỏ hết nề nếp tốt đẹp của ông cha ta từ trước:
    “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.
    Nghiệp tổ tiên con cháu giày bừa,
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

    (Trao lời cùng ông Táo)
    MÈO MÃ: (Xem STTĐ, trang 229, cột 1và 2).
    ĐẠO HẰNG: (Xem chữ ĐHSTTĐ, trang 214, cột 1).
    THÁNH NHƠN: Cũng gọi là Thánh nhân. Đây chỉ cho Đức Khổng Tử và Mạnh Tử. Những người sáng lập nền Thánh Giáo (Nho).

    LƯỢC GIẢI (Câu 1 tới câu 4)
    Đoạn nầy Đức Thầy nói rõ tâm lý người đời, vì mê say theo nền văn minh vật chất của Tây Âu mà phải đắm nhiễm trụy lạc, vội quên mất nền luân thường đạo lý của thánh hiền, đã dạy từ xưa, rồi phải chuốc lấy sự thảm khổ về sau.

    CHÁNH VĂN


    5.-
    “Nay gặp kẻ có cơn thức tỉnh,
    Phận làm người thủng thỉnh sửa sang.
    Tay xuống bút nói lan chuyện thế,
    Bày đạo mầu cứu tế nhơn sanh.
    Kìa kìa các bực công khanh,
    10.-Miễu son tạc để đành rành chẳng sai”.

    CHÚ THÍCH
    KẺ CÓ CƠN: Người không bình thường, khi vầy khi khác. Ở đây Đức Thầy tự xưng hay giả dạng để đánh lạc hướng người Pháp:
    “Ta khùng mà chẳng có cơn,
    Cũng không có tánh giận hời bá gia”.
    Mà là: “Có cơn giả dạng dắt đời Hạ Ngươn”.

    CÔNG KHANH: Các quan chức cao cấp phò trong một trào vua thời trước (phong kiến) chia ra có nhiều bực: Công, Hầu, Bá, Tước, Tử, Nam. Văn chương thường dùng Công hầu khanh tướng, hay Tam công cửu khanh. Nhưng đời nhà Chu (Trung Quốc) dùng chữ Tam công là Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Cửu khanh là chín bực: Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo, Trung Tể, Tư Đồ, Tôn Bá, Tư Mã, Tư Khấu và Tư Không. Cung Oán ngâm khúc có câu: “Bả công danh lừa gả Công Khanh”. Trong tác phẩm “Để chơn đất Bắc”, Đức Thầy cũng viết:
    “Kìa kìa các bực công khanh,
    Miễu son tạc để đành rành chẳng sai”.

    LƯỢC GIẢI
    Thời nay chúng ta rất may mắn được gặp Đức Giáo Chủ khai Đạo phổ độ nhân sanh. Vậy mỗi người cũng nên sớm thức tỉnh lo tu tròn đạo làm người là điều trước nhất.
    Xưa nay các bực Công Hầu Khanh Tướng đều nhờ hành tròn bổn phận, trung hiếu xong đền mà được miễu son tạc để, sách sử nêu ghi.

    CHÁNH VĂN

    11.- “Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
    Rứt bụi trần bận bịu làm chi.
    Làm cho rồi phận tu mi,
    14.-Sau nầy sẽ thấy ly kỳ Năm Non”.


    CHÚ THÍCH
    BẬN BỊU: Vướng víu, lòng muốn rứt bỏ nhưng khó xa rời được.
    TU MI: Râu mày hay Mày râu. Đây chỉ cho hàngNam nhi quân tử:
    “Ai là người quân tử tu mi,
    Phải sớm sửa thân mình cho vẹn”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    NĂM NON: (Xem từ NNSTTĐ, Q.1, trang 247, cột 2).

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 11 đến câu 14)
    Đức Thầy kêu gọi hàng Nho gia trí thức hãy sớm liệu xét, buông bỏ những gì trần tục, nhuốc nhơ để gìn tròn bổn phận nam nhi quân tử, tức sau nầy sẽ được kiến diện cảnh kỳ diệu tại vùng Năm Non Bảy Núi.

    CHÁNH VĂN

    15.- “Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ,
    Thì người già hóa trẻ dân ôi !
    Tu hành ắt được thảnh thơi,
    Lại xem được Phật được Trời báu thai.
    Thân hành đạo đắng cay phải chịu,
    20.- Phận làm người phải liệu cho xong.
    Cần chi gạn hỏi viễn vong,
    Làm người chưa vẹn mới hòng thảnh thơi”.


    CHÚ THÍCH
    BẢY NÚI: (Xem từ BN trong STTĐ, trang 36, cột 2).
    GIÀ HÓA TRẺ: Theo cơ Sấm của BSKH, Đức Phật Thầy Tây An Và PGHH Đức Huỳnh Giáo Chủ thì đến ngày cùng cuối của thời Hạ Ngươn, chuyển sang thời Thượng Nguơn thánh đức. Bây giờ có cuộc hội của Trời Phật mở cơ chọn lọc hiền còn dữ mất, người già hóa trẻ. Như Ngài từng cho biết:
    “Sau lập hội thì già hóa trẻ,
    Khắp hoàn câu đổi xác thay hồn”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    Và: “Lão giả hậu qui nhơn ấu giả”.
    (Lộ chút cơ huyền)
    THÂN HÀNH ĐẠO: Nói cho đủ là “Lập thân hành đạo”(Xem từ LTHĐ, trong STTĐ, trang 195, cột 2).
    ĐẮNG CAY: Cũng gọi là cay đắng. Hai mùi trong ngũ vị tân (đắng, cay, chua, mặn, ngọt).Nghĩa bóng là chỉ cho lời nói gắt gỏng, nặng nề chê bai gièm siểm, làm cho người khó chịu chua xót. Ví dụ: Lời nói cay đắng lắm.
    Đức Thầy từng khuyên:
    “Chịu cay đắng tu hành mới giỏi,
    Ta thương đời len lỏi xuống trần”.

    (Giác mê Tâm kệ, Q.4)
    Và: “Cay đắng siểm gièm thân lão chịu,
    Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông”.

    (Phòng vắng đêm khuya)
    VIỄN VONG: Xa vời, lòng dòng. Ví dụ: Nói xa xôi lòng dòng khó nghe.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 15 đến câu 22)
    Đoạn nầy Đức Thầy cho biết trước, chừng nào miền Bảy Núi có đài lầu điện ngọc hiện ra thì người già trở lại trẻ. Hiện giờ nếu ai giác ngộ tu hành, sau nầy sẽ được thong thả an vui và còn kiến diện được Phật Trời trong ngày lập hội
    Trên đường tu tiến dầu có gặp cảnh gian nan khổ khó hay bị người đời gièm pha cay đắng mình cũng cố gắng chịu đựng vượt qua, miễn làm sao cho xong cái đạo làm người là tốt, Ngài cũng nói với ông Tốt khỏi cần phải thắc mắc xa vời, nếu đạo người chưa vẹn thì sau nầy ắt khó gặp ngày an vui thư thả.

    CHÁNH VĂN

    23.- “Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,
    Chữ hiền lành trau trỉa cho xong.
    Thấy đời trần hạ long đong,
    26.- Chẳng lo khó thấy mây rồng hội kia”.

    (Hoà Hảo tháng 6 năm Kỷ Mão)

    CHÚ THÍCH
    TÌNH NGHĨA: Cũng gọi là nghĩa tình. Có nghĩa tình cảm và ân nghĩa. Ý chỉ việc cư xử với nhau có ân nghĩa tốt đẹp và đúng đắng.
    “Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
    Vui lòng cha mẹ mà gìn gia cang”.

    (Sám Giảng, Q.3)
    LONG ĐONG: Vất vả, nay đây mai đó, nhiều rủi ro và số phận long đong.
    TRAU TRỈA: Cũng gọi là trau tria. Trau là giồi mài chải chuốc, đánh bóng. Trỉa là tỉa xén bớt. Chữ trau trỉa ở đây có nghĩa như chữ tu sửa.
    MÂY RỒNG: Nghĩa của chữ Long vân. Ý chỉ sự thi cử đỗ đạt, hay chúa tôi, Thầy Tớ đồng sum hợp, Sấm Giảng Q.1, Đức Thầy có câu:
    “Chừng sau đến hội rồng mây,
    Người đời mới biết Điên nầy là ai”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 23 đến câu 26)
    Đoạn kết bài nầy Đức Thầy tặng ông Lương Văn Tốt. Ngài khuyên ông ít lời vắn tắt để tình nghĩa thầy trò càng thêm thắt chặt. Điều quan trọng là rán lo trau sửa cho thân tâm được hiền lành là cao qưí. Sống trong đời chẳng lúc nào yên. Nếu không lo tu hành tinh tấn ngày hội Long Vân tới đây ắt không dễ gì có mặt.

    Bài 6.- THIÊN LÝ CA

    XUẤT XỨ
    Vào thượng tuần tháng bảy năm Kỷ Mão (1939), có ông Cả Châu, tức Phan Ngọc Châu ở Cù lao Tây, xã Tân Long, Châu Đốc, đến Thánh Địa Hòa Hảo gặp Đức Thầy. Ông trình ra một bài thơ và bạch với Ngài; Trước đây ông có gặp một cụ lão, xưng là ông đò chuyên đưa người về Bồng Lai Tiên Cảnh. (Ông đò vừa chèo ghe vừa rao: “Đò tôi đưa người về Bồng lai Tiên cảnh ai có rảnh thì đi, còn mắc nợ thì ở lại dương gian”.) Cụ có cho ông một bài thơ và một chén muối cục dặn rằng ông hãy rán tu hành, về sau nếu khi gặp ai có bịnh thì lấy nửa muỗng muối nầy lóng nước trong cho uống là hết. Nói rồi ông bèn bỏ đi mất tới giờ ông chưa lần nào gặp lại cụ lão đưa đò ấy nữa.
    Đức Thầy liền nhận bài thơ cầm lên xem lượt qua, rồi cầm bút viết xen vào một ít đoạn. Viết xong Ngài đưa lại bảo ông Châu, ông xem thử coi có hạp không ? Đọc xong ông Châu rất thán phục rồi xin qui y với Đức Thầy.

    VĂN THỂ

    Thiên Lý Ca là một bài văn vận biến thể, có nhiều giọng điệu khác nhau: Nào tứ cú, bát cú Đường luật, khoán thủ, thuận nghịch đọc, nào thất ngôn trường thiên, thượng lục hạ bát…Dài 312 câu.
    Khởi đầu bằng bài thơ có ba chữ khoán thủ Phan Ngọc Châu:
    “Phan lòng chữ dạ chớ hoài lo,
    Ngọc ẩn non côn tợ lửa lò”.

    Và chấm dứt bởi câu:
    “Không làm thì phải mang eo,
    Làm xong vượt khỏi qua đèo chông gai”.


    NỘI DUNG

    Trước nhứt Đức Giáo Chủ khuyên nhắc ông Châu hãy ghi nhớ lời giáo huấn của Ngài vào thâm tâm và mạnh tin ngọc báu quí còn tàng ẩn trong non Tiên miền Nam nước Việt. Ý nói tâm của mỗi người đều có Phật tánh. Từ trước ông Châu cũng như mọi người bị mê mờ lạc ngõ, nay may mắn được Đức Thầy trở lại khai đường dẫn lối. Vậy mỗi người hãy sớm thức tỉnh quay đầu.
    Bài pháp giáo nầy hàm chứa biết bao giáo nghĩa cao thâm và cơ huyền diệu lý: Mỗi hành giả khi xem đến hãy rán suy tầm cho thấu đáo:
    “Ít câu mà ý nhiệm sâu,
    Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn ngoan”.

    Ngoài ra Đức Thầy còn tiết lộ cơ huyền và định luật thăng trầm của tạo hóa cho người đời được rõ hầu sớm biết ăn năn cải dữ về lành.

    CHÁNH VĂN

    1.- “PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
    NGỌC ẩn non côn tợ hỏa lò.
    CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa
    4.- NÚI truông qua đặng rán lần dò”.


    CHÚ THÍCH
    CHỮ DẠ: Chữ là ghi để, chạm khắc; Dạ là tấm lòng. Nghĩa chung là ghi nhớ mãi trong lòng, không nên xa rời.
    NGỌC ẨN NON CÔN: Do câu Tục ngữ xuất phát từ văn chương Trung Hoa: “Ngọc ẩn non Côn, vàng rơi sông Lệ”.(có nghĩa ai muốn ngọc quí phải lên núi Côn Lôn đập từ khối đá, lâu ngày mới tìm ra được. Còn muốn có vàng tất phải xuống sông Lệ mà đãi từ rỗ bùn mới được). Nghĩa bóng là chỉ cho sự tu phải dày công cực nhọc mới kết quả.
    Còn ở Việt Nam ta, tại xã Thị Nại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc phần), cũng có hòn núi “Côn Sơn”, là nơi có hai vị khai quốc công thần: Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Đán trí sĩ. Đặc biệt trên đỉnh Côn Sơn có ngôi chùa của Huyền Quang Tôn Sư (Tổ thứ ba của phái Trúc Lâm, một Thiền phái lớn xuất phát từ lòng dân tộc Việt Nam). Nghĩa bóng : Về sự là nơi chỉ cho các danh nhân: Phật, Tiên, Thánh cư trú. Về lý: Thì nói nơi tâm của mỗi người đều có Phật tánh (ngọc quí).
    Giảng “Giác Mê” của Phật Thầy có đoạn:
    “Đi đâu cho khó nhiều đàng,
    Kìa non Bửu tự, nọ ngàn Ma ha.
    Kiểng nào kiểng chẳng có hoa,
    Non nào non chẳng có toà thiên thai*”.

    *(Thiên thai là cảnh Tiên ở)
    TỢ LỬA LÒ: Như lửa có sẵn trong lò, khói lên là cháy. Điển nầy xuất phát từ câu chuyện thầy trò Tổ Bách Trượng.
    Qui Sơn vốn là học trò của Tổ Bách Trượng (Hoài Hải). Một hôm Qui Sơn đang đứng hầu Thầy.
    Thầy kêu hỏi:
    - Qui Sơn ứng tiếng.
    - Dạ ! Con là Linh Hựu đây (Qui Sơn).
    Tổ Bách Trượng bảo:
    - Ngươi hãy vào trong, khươi bếp lấy cho ta cục lửa.
    Qui Sơn vậng lời Thầy, vào nhà bếp khươi tìm mãi không thấy lửa trở ra thưa:
    - Dạ ! Trong lò không có lửa.
    Tổ Bách Trượng liền rời chỗ ngồi đi vào bếp, cầm đôi đũa khươi sâu, gấp lên được cục than còn đỏ rực đưa lên cho Qui Sơn thấy và hỏi:
    - Đây không phải là cụa lửa sao ?
    Tổ Qui Sơn nghe giếng hỏi và thấy cục lửa, hoát nhiên tỏ ngộ…
    Câu chuyện trên ngụ ý: Tâm của mỗi hành giả đều có tánh Phật, cũng như lửa có sẵn trong lò. Ở đây Đức Giáo Chủ muốn cho ông Châu và mọi người biết: Tâm của mỗi hành giả đều sẵn có tánh Phật. Sở dĩ chúng ta còn phải nhọc tâm tìm kiếm bên ngoài là vì chưa chịu quay về nội tâm để trực nhận cái “Bản lai thanh tịnh của chính mình”:
    “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”.
    (Sấm Giảng, Q.1)
    ĐƯỜNG DÊ: Con đường của dê đi. Trong một cánh rừng rộng lớn, có đủ các loài thú hung dữ như: Cọp, beo, sư tử, lang, sói…hiền từ như: Dê, thỏ, hươu, nai…mỗi loài đều đi theo đường riêng của nó. Người bị lạc trong rừng nên tìm con đường của dê thỏ mà đi thì không bị nguy hiểm. Nghĩa bóng là người sống trong đời phải nương con đường hiền lành đạo đức mới đưọc bình yên. Đức Thầy nhắc nhở:
    “Nay rừng bụi có người mở ngõ,
    Thì noi theo dấu thỏ đàng dê”.

    (Sa Đéc)
    BƯỚC NGỰA: Dấu chân của ngựa đi. Xưa người ta săn bắn hay đánh giặc bị lạc trong rừng. Nếu muốn ra khỏi rừng đến vị trí của mình thì tìm theo dấu chân của ngựa. Bởi ngựa vốn từ ngoài đi vào rừng, cho nên người bị lạc cứ đi theo dấu chân ngựa mà trở ra, tất sớm muộn gì cũng ra khỏi rừng.
    Hai từ ngữ: Đường dê và bước ngựa có ngụ ý chúng sanh từ trước tới giờ bị vô minh vọng nghiệp dẫn lạc vào rừng mê khổ, chưa thoát ly ra được. Nay may mắn gặp Đức Thầy vạch ra con đường đạo đức. Nếu chúng sanh nào biết nương theo đó tu hành tất được ra khỏi vòng sanh tử.
    NÚI TRUÔNG: Núi là nhiều đá vun lại cao lên thành núi hay đồi. Truông là khu đất bỏ hoang cây cỏ um tùm khó đi qua như truông mây, nghĩa bóng là chỉ đường đi rất khó khăn trở ngại. Ví dụ : Qua truông, qua núi, qua suối, qua đèo. Đây cũng chỉ sự tu hành bị điều khó khăn cản trở.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Đại ý bốn câu thi trên Đức Thầy khuyên ông Châu nên ghi tạc lời nhắc nhở của Ngài vào chơn tâm, đừng để dạ lo lắng, bời ông đã có căn tu từ trước. Nhưng vì nấy lúc nay bị lệch lạc hay thối thất sao đó mà chưa ra khỏi vòng trần khổ. Mặc dù Ngài đã có nhắc nhở ông nhiều lần.
    Nay may mắn gặp Đức Thầy ra đời khai vạch con đường đạo đức. Vậy ông hãy nương theo đó mà hành trì và cố gắng lướt qua các chặng đường khó khăn, ắt có ngày sẽ vượt khỏi bánh xe luân hồi sanh tử.

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 5 tới câu 12)

    5.-
    “Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu chít,
    Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó o,
    Tường tận đã nghe xê cống liếu,
    8.- Hương thôn bỏ xế sự xang hò”.

    Đọc ngược lại bốn câu chót (Tứ tuyệt thuận nghịch đọc).
    9.- “Hò xang sự xế bỏ thôn lương,
    Liếu cống xê nghe đã tận tường,
    O ó tiếng gà coi nguyệt cảnh,
    12.- Chít chiu giọng khỉ ngó qua vườn”.

    (Hai bài thi Tứ cú thuận nghịch đọc trên đây xin miễn luận giải, vì có ẩn ý thiên cơ, việc chưa tới).
    13.- “Quỉ ma hay phá rối người tu,
    Đạo đức chư nhu rán chí hành.
    Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
    16.- Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh”.


    CHÚ THÍCH

    QUỈ MA: Cũng gọi là Ma Quỉ, có hai loại:
    1/- Những kẻ lúc còn sống tạo ác nghiệp, khi chết bị đọa vào A Tu La Ngạ Quỉ, sống chung lộn với cảnh giới loài người. Có số ủng hộ người hiền, cũng có số quậy phá dân chúng đòi ăn đồ cúng kiếng (mê tín dị đoan).
    2/- Ám chỉ những kẻ còn sống tại thế gian, hay trêu chọc khuấy phá kẻ khác, gây rối trật tự, xóm làng xã hội: “Nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba là học trò”.(Tục ngữ)
    Còn thứ ma quỉ khác nào là những kẻ hung hăng bạo ác hay phá hại người tu và các Đạo giáo. Họ là tay sai của ma Ba Tuần (ở từng trời thứ 6) xuống trần quậy phá, làm chướng ngại Đạo Phật.
    Các thứ ma quỉ kể trên gọi là ngoại ma. Song người tu còn đương đầu với loại nội ma nữa, là ma thất tình lục dục, ma phiền não (tham, sân, si) hay ma Ngũ uẩn. Đức Thầy từng cho biết:
    “Làm gian ác là quỉ là ma,
    Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.

    (Kệ Dân, Q,2)
    Nên Ngài hằng khuyên:
    “Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt,
    Thường nhớ câu đại lực đại hùng.
    Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung,
    Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm.
    Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,
    Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.

    CHƯ NHU: Chư là các, là nhiều người. Nhu là nho. Chư nhu là các Nho sĩ, cũng gọi là học trò. Đây chỉ hầu hết cho tín đồ PGHH.
    LỜI THỀ NƠI PHẬT CẢNH: Lời thề là lời thệ nguyện. Nơi Phật cảnh là nơi tư gia của mỗi tín đồ PGHH đều có thờ ngôi Tam Bảo, biểu tượng cho Phật cảnh, có đủ Phật, Pháp, Tăng nên gọi là Phật cảnh.
    TIẾNG NGUYỆN CHỐN NON XANH: Lời hứa nguyện trước chư vị Sơn thần, Năm non Bảy núi, chứng minh cho mình quyết chí tu hành.
    Nghĩa chung là ý nói hầu hết tín đồ PGHH mỗi ngày hai thời cúng: Sáng và chiều đều có quì nguyện trước Ngôi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và chư Quan Cựu, cùng chư vị Sơn Thần Năm non Bảy Núi chứng minh cho lời nguyện hứa của mình là “Cải hối ăn năn làm lành lánh dữ qui y theo mấy Ngài tu hiền theo Phật đạo”. Không một ai dám quên lãng lời nguyện ấy.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 13 tới câu 16)
    Bốn câu thi vừa qua, đại lược Đức Thầy cho biết thời nay các ma tà quỉ quái hay khuấy rối người tu; vậy trong môn đồ hãy tu chí thành chí thật mới thu phục được nó. Nhứt là phải nhớ rằng mỗi ngày hai thời lễ bái sáng và chiều, chúng ta đã sám hối và hứa nguyện trước 10 phương chư Phật, Pháp, Tăng cũng như các Quan Cựu Thần và chư vị Sơn Thần Năm non Bảy núi chứng minh cho sự phát thệ qui y của mình.

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 17 đến câu 22)

    17.-
    “Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan nhặt,
    Nghe cho tường giọng Bắc hòa Nam.
    Thích Ca còn phế tước hàm,
    Đài cao cửa rộng mà ham tu hành.
    Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
    22.- Lão tỏ bày hình vóc nhiệm sâu”.


    CHÚ THÍCH
    KHOAN NHẶT: Khoan là chậm, nhặt là nhanh (mau). Một bản đờn khảy lên nghe tiếng khi mau, khi chậm, có lúc trầm, lúc bổng…ở đây Đức Thầy muốn nói lời Kệ Giảng của Ngài ví như một bản đờn, phải có những lúc trầm, bổng, nhặt, khoan. Người nghe tâm hồn mới rung cảm được:
    “Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn,
    Cho người lành dạ ái bắt nôn,
    Cúi đầu trước qui y Phật pháp”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    GIỌNG BẮC HÒA NAM: Đây là một thể văn vần viết lối song thất lục bát, 4 câu một đoạn, hai câu đầu 7 chữ, câu thứ 3 sáu chữ, câu thứ tư 8 chữ. Viết bao nhiêu đoạn cũng được. Hai câu 7 chữ đọc nhanh và nhặt (bổng), đến câu thứ 3 và 4 đọc giọng khoan (trầm) chậm và lơi ra.
    Lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình (HH) mỗi tối Ngài hay nói: “Để tôi ca Tiên cho các ông nghe nhen !”. Rồi Ngài liền đọc đoạn giảng theo điệu “Giọng Bắc hòaNam” như đoạn nói trên.
    THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ (Sers Sakya) Tàu dịch là Năng nhơn, tức người có năng lực từ bi rộng lớn. Thích Ca cũng là họ của Phật. Tên tộc là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa. Đức Thầy có câu:
    “Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ,
    Sẽ có người nối nghiệp hoàng gia”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    TƯỚC HÀM: Tước là chức vị; Hàm là cấp bực phẩm trật của nhà vua ban cho các quan chức. Tước hàm của Sĩ Đạt Ta được vua Tịnh Phạn ban cho: Đông Cung Thái Tử. Đức Giáo Chủ từng nhắc đến:
    “Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông cung tước phế liền”.

    (Luận việc tu hành)
    LỜI NGỌC: Nói cho đủ là lời vàng tiếng ngọc, giáo pháp của chư Phật Thánh giáo hóa nhân sanh quí báu hơn vàng ngọc. Bởi toàn là lời hay ý đẹp, giúp người học hành theo đó trở thành Phật Thánh như các Ngài, có thể nói ngàn vàng cũng khó sánh. Người xưa từng nói: Nghe được một lời nói tốt lành, quí báu hơn được ngàn vàng. (Nhứt nhơn thắng ngữ đắc thiên kim).
    NHIỆM SÂU: Huyền diệu sâu kín và nhiệm nhặt.
    “Ít câu mà ý nhiệm sâu,
    Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn ngoan”.

    (Thiên lý ca)

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 17 tới câu 22)
    Sáu câu giảng vừa qua, ý nói: Lời pháp giáo của Đức Thầy ví như một bản đờn, có đủ giọng điệu trầm, bổng nhặt khoan, khiến cho người nghe dễ cảm thông và thức tỉnh. Ngài kêu gọi ông Châu cũng như mọi người hãy nhìn gương hạnh của Đức Phật khi xưa, đang sống trong cung vàng điện ngọc, tước vị Thái Tử Đông Cung mà Ngài vẫn gát bỏ, lên đường tầm ra chánh đạo cứu khổ nhân sanh.
    Bài giảng Ngài viết ra đây sẽ luận giải tường tận những giáo lý cao siêu mầu diệu. Vậy ông Châu và mọi người nên lắng nghe cho thấu đạt.

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 23 tới câu 26)

    23.- “Thiên ý không riêng mối đạo mầu,

    Rằng truyền yếu lý nhiệm cao sâu.
    Chuyển miền Nam địa càng thâm diệu,
    26.- Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu”.


    CHÚ THÍCH
    THIÊN LÝ: Ý trời, nhưng ý Trời không ngoài ý đạo: Thiên địa u minh dĩ đạo tràng”.
    (Lộ chút Cơ huyền)
    YẾU LÝ: Lý lẽ cốt yếu.
    NHIỆM CAO SÂU: Mầu diệu, sâu kín, cao xa lắm: “Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.
    NAM ĐỊA: Đất nước Việt Nam:
    “Cõi Trung ương nhằm đất nước Việt Nam”.
    (Trao lời cùng ông Táo)
    THÂM DIỆU: Sâu kín, mầu nhiệm, khéo léo. Do câu: Vô lượng thậm thâm vi diệu pháp.
    Đức Giáo Chủ PGHH từng bảo:
    “Huyền pháp thâm trầm thơm bất tuyệt”.
    (Cho ông Tham tá Ngà)
    “Xả thân tầm đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri lão bày”.

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    TÀ TÂM: Lòng tà vạy gian ác, ngược lại với tâm chơn chánh thiện lương. Đức Thầy hằng dạy: “Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đuổi tư tưởng xấu xa, thay vào những tư tưởng ôn hòa đạo đức”.
    Và: “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
    Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.

    (Giác Mê, Q.4)

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 23 đến câu 26)
    Đại ý bốn câu trên Đức Thầy cho biết ý Trời không ngoài ý đạo. Ngài đã thuận theo ý Trời mà khai truyền Thánh Đạo. Đem nguồn giáo lý thâm sâu mầu diệu giác tỉnh nhơn sanh sớm tu thân hành đạo hầu xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia an lạc. Ngài cũng kêu gọi mọi hành giả, trước nhứt là phải lọc sạch vọng tâm tà vạy trở thành chơn chánh thiện lương là kết quả.

     
    Sửa lần cuối: 28/1/15
  7. Buile

    Buile Member

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 27 đến câu 42)


    27.- “Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,
    Lẽ nhiệm sâu chưa hản trò ôi !
    Đêm ngày buồn bã vô hồi,
    30.- Kìa trên Tiên cảnh vị ngôi sẵn dành.
    Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,
    Dạy tận tường chẳng chút nào sai.
    Cổ nhơn tích để phân bày,
    34.- Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.
    Thuyền Bát Nhã chí tâm trực thẳng,
    Thả ra khơi cứu dẫn khách trần.
    Phù sanh lắm cuộc lao thân,
    38.- Ngày đêm ta thán muôn phần đớn đau.
    Trông đợi người tài cao đức trọng,
    Hầu rõ thông thiên võng lẽ nao.
    Chí tâm tường lãm thấp cao,
    42.- Dạy cho rõ biết Thiên Tào nơi đâu”.

    CHÚ THÍCH
    NGUỒN BẠCH THỦY: Nguồn: Cội gốc. Bạch thủy: Nước trắng trong. Nước từ nguồn chảy ra rất trong sạch không lộn chút cặn nhơ. Ý nói lời pháp giáo của Đức Giáo Chủ từ trí Bát nhã ban ra, có diệu năng làm tan hết lòng trần tục và tưới mát muôn loài được thấm nhuần phát triển: “Nước Ma Ha tưới tắt lòng phàm”.
    (Diệu pháp Quang minh)
    CHƯA HẢN: Chưa hiểu tường tận, chắc chắn.
    TIÊN CẢNH: Cũng gọi là cảnh Tiên, tức là con đường thoát tục, chỉ cõi sắc giới và vô sắc giới do người tu 10 điều lành mà được. Cảnh Tiên đây còn chỉ cõi đời Thượng nguơn thánh đức, trong bài giảng nầy Đức Thầy có nói:
    “Theo ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hàng năm non”.

    NĂM CANH: (Xem từ NC, TSTĐ, trang 247, cột 2).
    TỎA BÚT: Tỏa tức là túa ra, bủa ra. Bút là cây viết. Nghĩa chung Đức Thầy dùng viết mực sáng tác Sấm kinh ban rải khắp nơi.
    CỔ NHÂN: Người xưa. Những bậc có công ích cho đời, đã mãn phần; sách sử thường ca ngợi và ghi chép lại.
    “Lời xưa người cổ còn ghi”.(Sấm Giảng, Q.1)
    ĐƯỜNG CHƠN NẺO CHÁNH: Con đường chơn chánh. Nghĩa của Bát Chánh Đạo tức 8 nẻo đưa con người ra khỏi sanh tử; có diệu năng đối trị Bát tà. Đức Giáo Chủ cho biết: Bát Chánh Đạo là: “Quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ tấn triển trên đường giải thoát”.
    BÁT NHÃ: phiên âm của Phạn ngữ (Prajra). Có nghĩa là trí huệ sáng suốt. (Xem thêm từ Bát nhã thoàn trong STTĐ, trang 35, cột 1, quyển nhất).
    KHÁCH TRẦN: Tất cả chúng sanh sống trong cõi đời đều gọi chung là khách trần.
    PHÙ SINH: (Xem từ PS trong STTĐ, trang 321, cột 2).
    LAO THÂN: Thân cực nhọc khổ sở.
    TA THÁN: Kêu gọi than thở. Thán là oán. Tiếng than thở.
    THIÊN VÕNG: Nói cho đủ là Thiên la địa võng. Ý chỉ luật Trời đất hay luật Nhân quả. (Xem chữ Thiên la trong STTĐ trang 433, cột 2, quyển 1).
    TƯỜNG LÃM: Tường là hiểu rõ ràng. Lãm là xem biết hết. Nghĩa chung là ngườiđã hiểu thông mọi vật, mọi lẽ trong trời đất một cách rõ ràng. Hiểu như chữ Bác lãm. Bài “Không buồn ngủ” Đức Thầy có viết:

    “Nào ai biết tâm ta đời bác lãm,
    Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây”.

    THIÊN TÀO: Cũng nh
    ư chữ Thiên Đình. Chỗ Trời ở, triều đình trên Trời.
    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 27 đến câu 42)
    -Đức Thầy dùng trí sáng suốt thuyết ra giáo lý thâm sâu mầu diệu khuyến hóa nhân sanh, nhưng ít có người thấu đạt. Ngài cũng cho ông Châu và tín đồ hiểu rằng: Ai cũng có căn tu thì ngôi vị Phật Tiên đã dành sẵn.
    -Hằng đêm Ngài luôn dùng bút mực giải bày giáo lý ban bủa khắp bàng nhân bá tánh. Bao nhiêu gương hạnh, tốt lành của người xưa đã ghi để trong sách sử vậy mọi người hãy noi theo mà tìm ra con đường chánh đạo để thi hành.
    -Cảnh trần khổ mênh mông như bể cả, thế mà chúng sanh mãi lặng ngụp. Nay may gặp Đức Thầy xông thuyền Bát Nhã cứu vớt, kêu gọi chúng ta hãy bước lên để sớm giải thoát cảnh sầu đau giả tạm.
    Đức Giáo Chủ cũng rất mong đợi người có tài trí đức hạnh, thành tâm thật ý tìm hiểu rõ luật trừng phạt của Trời đất, để sớm thi hành đạo nghĩa, hầu trở về con đường siêu thoát của Phật Tiên.

    CHÁNH VĂN
    (Từ câu 43 đến câu 58)


    43.- “Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
    Bởi ít ai cải chế đường tà.
    Sợ e nhiễm trược đọa sa,
    46.- Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuông.
    Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
    Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
    Mảng lo tìm kiếm tước huờn,
    50.-Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.
    Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
    Rán tầm vào đến chỗ an cư.
    Học câu hỉ xả đại từ,
    54.- Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.
    Câu Bát chánh rán mài chạm dạ,
    Tứ mục điều người khá hành y.
    Muôn thu Thiên định nhứt kỳ,
    58.- Hạ nguơn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa”.


    CHÚ THÍCH
    CẢI CHẾ ĐƯỜNG TÀ: Cải chế là sửa đổi để sắp đặt lại. Đường Tà là con đường tà vạy xấu ác. Nghĩa chung là cổi bỏ con đường tà vạy tội lỗi để trở lại con đường chơn chánh thiện lương. Như bỏ 8 điều tà làm theo 8 điều chánh (bát chánh) xa bỏ tà đạo trở về với chánh đạo.
    NHIỄM TRƯỢC: Cũng gọi là trược nhiễm, có nghĩa là ô nhiễm những điều trần trược, xấu ác ở thế gian. Đức Giáo Chủ từng dạy: “Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai”.
    ĐỌA SA: Cũng viết là sa đọa. Có nghĩa rơi rụng vào chổ thấp hèn. Đây có ý chỉ người còn sống bị sa đọa vào con đường trụy lạc (tứ đổ tường), hoặc lúc sanh tiền tạo nhiều nghiệp ác, khi chết bị đọa vào ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh:
    “Phước nhiều Tiên cảnh lên rày,
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê”.

    CHÁNH KỶ HÓA NHƠN: Câu sách: “Chánh kỷ dĩ giáo nhân giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhân giả nghịch”.(Người lo tu thân xử kỷ cho đúng rồi mới dạy đời là lẽ thuận. Còn kẻ bỏ mình không lo tu sửa lại đi dạy đời là lẽ nghịch vậy).
    TƯỚC QUỜN: Cũng gọi là quyền tước, có nghĩa quyền oai và chức phận, nghĩa của chữ danh vị (một trong ngũ dục).
    “Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
    Sang oai quyền hối lộ gần xa”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)
    THẤT KỲ VỌNG TƯỞNG: Những vọng tưởng mong cầu mà không thành đạt, trong đời có hai hạng người:
    1/- Hạng ngoài đời thì lúc nào cũng nuôi hy vọng được giàu sang vinh hiển hơn người, những việc chẳng thành thì đâm ra chán nản làm điều xằng bậy.
    2/- Hạng tu hành, song chưa nắm được chân lý nên có nhiều cao vọng ước mơ mau đạt đạo quả hay sớm có nhiều pháp linh kỳ diệu, nhưng chưa đạt thành như ý thì đâm ra thối chuyển bỏ đạo thôi tu.
    TRONG BUỔI KHỔ: Chúng sanh đang sống trong hiện cảnh đang gánh chịu vô vàn đau khổ. Thân tâm đã gánh chịu 8 nỗi khổ, còn thêm các nỗi khổ bên ngoài dồn tấp đến, nào thiên tai địa ách, nào chiến tranh giặc loạn, đói đau, bệnh tật. Đức Giáo Chủ cảnh tỉnh:
    “Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,
    Sao dân còn triếu mến trần mê.
    Mắt nhìn ngoại quốc thảm thê,
    Nam bang cảnh khổ cũng kề bên tai”.

    (Để chơn đất Bắc)
    CHỖ AN CƯ: Nơi sống an ổn bình yên. Đây là nghĩa thông thường. Chữ an cư Đức Thầy đặt trong câu giảng nầy là cái tâm an tịnh của mỗi hành giả, tức là cảnh Niết Bàn (bất sanh bất diệt).
    Năm 1939, có lần Đức Thầy đứng trước sân Tổ Đình giải thích về cảnh khổ sau nầy, một ông lão hỏi Ngài:
    - Cảnh khổ như vậy có chỗ nào trốn khỏi không Thầy ? Ngài đáp:
    - Chung dưới bàn Thông Thiên thì khỏi.
    Ý Ngài muốn nói có tu thân hành đạo mới chứng Niết Bàn Cực lạc hoặc sống đời Thượng nguơn thánh đức mới là dứt kổ.
    HỈ XẢ ĐẠI TỪ: Cũng gọi là Từ, bi, hỉ, xả, tức bốn Đại đức của Chư Phật (Xem chữ Từ, Bi, Hỉ, Xả trong STTĐ, trang 406, cột 1, quyển 1).
    CÂU BÁT CHÁNH: (Xem từ Bát chánh trong STTĐ, trang 35, cột 2, quyển 1)
    TỨ MỤC ĐIỀU: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề hay Tứ Diệu Đế. Sở dĩ gọi Tứ Mục Điều là Tứ Diệu Đề, vì Bát Chánh Đạo và Tứ diệu Đề luôn đi cặp với nhau. Bát chánh Đạo là một trong Tứ diệu Đề (Đạo Đề). (Xem TDĐ trong STTĐ, quyển 1, trang 403, cột 1).
    MUÔN THU: Thu là một trong bốn mùa của một năm (Xuân, Hạ, Thu, Đông) nên chỉ cho một mùa Thu là một năm; mà một muôn mùa Thu là 10 ngàn năm: “Ngàn năm mới có một thời”.
    THIÊN ĐỊNH: Trời đã định sẵn.
    NHỨT KỲ: Có một kỳ (một lần)
    HẠ NGUƠN: Nguơn cùng cuối, Nguơn sau rốt. Căn cứ vào luật tuần hoàn của lý tam nguơn được phân định và diễn tiến như sau:
    -Thượng nguơn thượng.
    THƯỢNG NGUƠN: -Thượng nguơn trung.
    -Thượng nguơn hạ.
    -Trung nguơn thượng.
    TRUNG NGUƠN: -Trung nguơn trung.
    -Trung nguơn hạ.
    -Hạ nguơn thượng.
    HẠ NGUƠN: -Hạ nguơn trung.
    -Hạ nguơn hạ.
    (Theo tài liệu của Vương Kim tác giả quyển “Đời Thượng Nguơn”).
    Cứ thế mà luân chuyển mãi, hễ hết Hạ nguơn hạ thì chuyển sang Thượng nguơn thượng, Thượng nguơn trung dần xuống… Hiện nay nhằm Hạ nguơn hạ thì sắp chuyển sang Thượng nguơn thượng. Trong Giảng ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:
    “Hạ nguơn nay đã hết đời,
    Minh Hoàng cầu Phật lập đời Thượng Nguơn”.

    Đức Thầy cũng bảo:
    Việc đời nhiều nỗi sầu bi,
    Hạ Nguơn đã hết loạn ly cơ đồ”.

    (Để chơn đất Bắc)
    LONG HOA: Tức hội “Long Hoa”. Hội là tụ hợp lại đông đảo. Long là rồng chỉ cho vua Thánh Vương. Hoa là các loại bông tốt đẹp. Người ta thường nói đẹp như hoa, đây chỉ cho người hiền lương đức hạnh.
    Hội Long Hoa do Tiên Phật lập ra, để chọn bậc hiền tài và đức hạnh tốt đẹp họp lại chào mừng chúa Thánh đời Thượng nguơn thánh đức tới đây. Đức Thầy từng bảo:
    “Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi,
    Người hiền đức đặng phò chơn chúa”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    Theo tài liệu của Vương Kim tác giả của quyển “Đời Thượng Nguơn” đây là một cuộc thi cử chọn lọc hiền còn dữ mất:
    “Long hoa Tiên Phật đáo Ta bà,
    Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.

    (Thức tỉnh một nữ tín đồ)
    Và:
    “Lập rồi cái hội Long hoa,
    Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu
    Gian tà hồn xác cũng tiêu
    Thảm thương bá tánh chín chiều ruột đau”.

    (Sám Giảng, Q.3)
    Cho nên Ngài thường giục thúc:
    “Trở chơn cho kịp Long Hoa,
    Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn”.

    (Thiên lý ca)
    Đức Huệ Lựu (Sư Vải Bán Khoai) bảo:
    Bởi trần lỗi quá muôn phần,
    Cho nên lập hội Long Hoa chọn người.
    Hiền từ thì đặng thảnh thơi
    Nghinh ngang khó trốn lưới trời bớ dân”.

    Nghiên cứu qua Sấm Giảng của Đức Thầy thì độ khoảng mười ngàn năm, hoặc trên hay dưới con số đó là có một lần lập hội như vậy để chọn lọc hiền còn dữ mất lập lại đời Thượng nguơn Thánh đức:
    “Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
    Hạ nguơn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa”.

    (Thiên lý ca)
    Hoặc là:
    “Chớ mong yến thử ẩm hà,
    Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con.
    Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
    Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia
    Cả kêu lớn nhỏ quay vìa,
    Trên hoà dưới thuận chớ lìa chớ phân.
    Long Hoa hội ân cần lo lập
    Lập cho rồi tam thập lục nhơn”.

    (Thiên lý ca)
    Vì thế Đức Thầy thường kêu gọi:
    “Mau chơn bước đến Long Hoa hội,
    Chầu Phật hòa vui cõi đại đồng”.

    (Cho Bà Năm Cò)

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 43 tới câu 58)
    Xét việc thế gian, Đức Giáo Chủ u buồn khi thấy nhiều người tu hành mà không cải sửa những điều tà ác xấu xa, mãi để trược nhiễm dục trần rồi phải chuốc lấy sự sầu khổ sau nầy.
    Rủi gặp nghịch cảnh đưa đến thì buồn lòng thối chuyển đường tu. Lại có số người chẳng lo trau thân gìn đạo, mãi đua đòi danh vọng bạc tiền rồi khi gặp việc khó khăn thử thách cũng bỏ đạo thôi tu.
    Chúng sanh sống trong cõi Ta bà đều chung chịu cảnh khổ đau sầu hận, nên Đức Giáo Chủ khuyến giáo mỗi người hãy sớm tìm cách thoát ly. Song cả thế gian chẳng nơi nào không có khổ, chỉ có quay về nội tâm chuyển hóa lòng vị tư, nhân ngã để trở thành “Hỉ xả từ bi” dứt nghiệp sanh tử luân hồi mới hết khổ.
    -Đồng thời hành giả hãy nương theo pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo mà hành trì. Chính đó là con đường đưa nhà tu đến chỗ an cư thật sự bởi chỉ có: Niết bàn tịch tịnh là đường vô sanh” hay là:
    “Về Cực lạc mới là hết khổ”.
    Đức Giáo Chủ còn cho biết: Theo chu kỳ của lý tam nguơn: Hễ hết thượng, trung rồi hạ thì lập lại Thượng nguơn. Thời gian ấy trên hoặc dưới mười ngàn năm là có một lần thay đổi bằng cách lập hội Long Hoa, chọn lọc hiền còn dữ mất để chuyển qua một chu kỳ khác.

    CHÁNH VĂN

    (Từ câu 59 đến câu 70)

    59.-
    “Rán vẹt phá sương mù trước mắt,
    Chớ để cho quỷ dắt linh hồn.
    Lão đây vưng lịnh Phật tôn,
    62.-Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.
    Khá chí tâm học hành kinh sám,
    Thoát nơi miền hắc ám phong ba.
    Trở chơn cho kịp Long Hoa,
    66.- Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.
    Đền nợ thế nghĩa ơn trọn vẹn,
    Lấy tinh thần hiệp vén ngút mây.
    Chớ nên bắt bẻ Phật Thầy,
    70.-Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than”.


    CHÚ THÍCH
    SƯƠNG MÙ: Cũng gọi là mù sương, tức hơi nước trong lớp khói mỏng án trước mặt. Đây chỉ cho vô minh (mê si che mờ tâm trí mình khiến không nhận được đâu là sự thật - chân lý).
    LINH HỒN: (Xem từ LH trong STTĐ, quyển 1, trang 199)
    HỌC HÀNH KINH SÁM: Học hành là học hiểu và trì hành. Kinh sám là lời Kinh Kệ Sấm Giảng của Đức Thầy đã sáng tác, để cho môn đồ nương theo đó mà học hiểu và giữ gìn, tu sửa y theo đó. Như Ngài từng cho biết:
    “Ta yêu chúng viết ra giảng kệ,
    Khuyên tăng đồ cùng các tín đồ.
    Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,
    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo
    .(Q.4)
    HẮC ÁM: Cảnh tối tăm mờ ám. Ý chỉ cõi đời ác thế ngũ trược, hoặc Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, do nghiệp tham, sân, si chôn nhốt trong đó.
    PHONG BA: (Xem từ PB trong STTĐ, Q.1, trang 317, cột 2).
    LONG HOA: (Xem từ LH đã giải ở đoạn trước).
    HIỀN NHƠN: Người hiền lành, trọn lành, trọn sáng, không vi phạm tam nghiệp, thập ác, tám điều răn cấm. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    “Hiền nhơn bổn phận tu mi,
    Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền cơ”.

    (Sám Giảng, Q.3)
    NỢ THẾ: (Xem từ NT trong STTĐ, Q.1, trang 254, cột 2).
    TINH THẦN: (Xem từ TT trong STTĐ, Q.1, trang 389, cột 2).
    NGÚT MÂY: Sự mê mờ tăm tối tức là vô minh hay mê si che mờ trí huệ của mình. Đức Thầy có viết:
    “Tinh thần hiệp vén ngút mây”.
    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    PHẬT THẦY: Tức là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài quê ở làng Tòng Sơn, thuộc Cái Tàu Thượng, nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Sa Đéc (Nam phần Việt Nam). Ngài sanh vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) niên hiệu Gia Long thứ VIII. Ngài khai đạo vào đầu xuân Kỷ Mão (1849). Ngài chính danh là Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh, người trong đạo cũng như người đời đều xưng tụng Ngài là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài khai sáng tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. (Xem thêm phần Chú thích chữ Đức Thầy Bửu Sơn bên Q.1, tập 1, Quyển Thượng)

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 59 tới câu 70)
    Đại lược Đức Thầy khuyên nhà tu, hãy phá tan màn vô minh cho trí huệ sáng tỏ hầu soi tan hay thuyết phục đám tà ma quỉ quái, để chúng không còn ám ảnh xúi dục, tâm trí ta làm điều xằng bậy.
    Đức Giáo Chủ lâm phàm khai Đạo là có sắc lịnh của Phật Thế Tôn, để đến ngày kết cuộc:
    “Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân”.
    Và: “Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
    Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”.

    (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
    Ngài cũng khuyên mọi người phải lo học hiểu và hành trì lời Sấm Kinh, để sau nầy được thoát cảnh chiến tranh biến đổi, hoặc sa đọa vào chỗ thấp hèn đen tối.
    Và hội Long Hoa sắp mở để chọn lọc hiền còn dữ mất, nên Ngài kêu gọi khắp nhân sanh sớm quay đầu hướng thiện cho kịp thời kỳ Long Hoa đại hội.
    Đã đặt chân vào cửa Đạo, mỗi người phải đền xong nợ thế, tức vừa đền đáp Tứ ân, vừa ngăn chừa 10 điều ác, vẹn tròn ân nghĩa, Đức Phật và Đức Thầy đầy lòng từ bi độ chúng, thế mà có nhiều nguời nhạo chê bác bẻ, e ngày kết cuộc phải chuốc lấy sự sầu đau hận tủi.

    CHÁNH VĂN

    71.-
    “Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,
    Xứ “Hà tiên” linh hiển cơ quan.
    Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng,
    74.- Hết Thìn rồi lập Nhơn Hoàng hội ra.
    Khuyên sanh chúng gần xa phân cạn,
    Dựng Nhơn Hoàng cho rạng Á Đông.
    Chúng sanh phải tưởng giống dòng,
    78.- Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.
    Phật chỉ dạy qui tam lập hội,
    Dựng cho rồi một cội thành ba.
    Chớ mong yến thử ẩm hà,
    82.- Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con.
    Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
    Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.
    Cả kêu lớn nhỏ quay vìa,
    86.- Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.
    Long Hoa hội ân cần lo lập,
    Lập cho rồi tam thập lục nhơn”.


    CHÚ THÍCH
    HÀ TIÊN: Riêng chữ Hà có nhiều nghĩa, ở đây chỉ giải một ít nghĩa. Hà là sông, là chữ dùng để hỏi: Làm sao, cái gì ? Ở đâu ?
    TIÊN là trước, là đầu mối, là địa danh. Hiểu chung hai chữ Hà Tiên có ba nghĩa:
    - Hà Tiên là tiếng dùng để hỏi ông là vị Tiên nào ở đâu ? Như ông Chín Diệm (Nguyễn Kỳ Trân) hỏi Đức Thầy: “Vị tri đại đức giáng hà tiên”.
    - Hà Tiên là địa danh, tức tỉnh Hà Tiên. (Xem chữ Hà Tiên trong STTĐ, quyển 1, trang 151, cột 1)
    - Hà Tiên là sông trước, tức sông Tiền Giang.
    Năm 1939, nước lớn lúa ngoài đồng bị ngập lụt. Con đường trước của Tổ Đình nước ngập tràn qua lộ. Ông Mười (một Đông y sĩ) từ nhà chợ Mỹ Lương đi xuống. Khi gần tới cửa Tổ Đình, Đức Thầy đứng sẵn tại đó đợi ông Mười đi gần tới, Ngài chấp tay vái chào rồi hỏi:
    - Nghe ông Mười thông suốt chữ Hán, hôm nay xin phép ông cho tôi hỏi một vài chữ được chăng ?
    Ông Mười cười đáp:
    - Muốn hỏi gì thì cứ hỏi, chớ xin phép xin tắc gì cậu ! (Lúc đó ông Mười chưa qui y, nên mới xưng hô với Ngài như vậy.)
    Đức Thầy hỏi tiếp:
    - Hà Tiên là gì ông Mười ?
    - Việc đó dễ ợt, có gì khó đâu mà cũng hỏi. Hà Tiên là một trong 20 tỉnh Nam Kỳ của mình; nằm phía trên Rạch Gía, giáp biên giới Miên Việt, nơi ấy có lăng Mạc Cửu và nhiều cảnh đẹp như Thạch Động, Đá Dựng, Mũi Nai.
    Đức Thầy vừa cười vừa nói:
    - Ông giải nghĩa không đúng rồi ông Mười ơi !
    - Cậu nói sao ? Theo cậu Hà Tiên có nghĩa như thế nào ?
    - Ông chịu thua đi tôi sẽ giải nghĩa cho nghe !
    - Thì chịu thua đó, cậu giải đi, nếu giải không đúng lý thì không được với tôi nghe !
    Bấy giờ nước ngập sát mé đường, Đức Thầy liền ngồi xuống vừa lấy tay khoát nước vừa nói:
    - Hà là sông, Tiên là trước. Nói chung hai chữ Hà Tiên là sông trước, tức là sông Tiền Giang trước mặt mình đây. Còn sông bên kia (sau lưng) là sông Hậu Giang. Có thế mà ông không hiểu lại trả lời là tỉnh Hà Tiên làm sao đúng với câu hỏi của tôi.
    Đức Thầy giải xong, ông Mười và mọi người nghe từ đầu tới giờ đều thì thầm bàn tán:
    - Ý phàm sao bằng ý Phật !
    Tóm lại chữ Hà Tiên mà Đức Thầy dùng trong câu giảng Xứ Hà Tiên linh hiển cơ quan”, có nghĩa là sông trước (Tiền Giang).
    NHƠN HOÀNG: Vị vua cõi người. Đây chỉ cho vị Chuyển Luân Thánh Vương của cõi đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây:
    “Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
    Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.
    Ấy là đến lúc xuê xang,
    Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Nguơn”.

    Á ĐÔNG: Chỉ cho châu Á chúng ta đang ở. Thế giới có năm châu: Á, Âu, Mỹ, Phi, Úc. Nước Việt Nam ở hướng Đông Nam châu Á Tế Á, nên gọi tắt là Á Đông.
    GIỐNG DÒNG: Cũng như chữ nòi giống. Nguyên thỉ con người sanh ra cùng một nòi giống hay một sắc tộc.
    Ví dụ: Dòng giống Rồng Tiên hay dòng giống Lạc Long. Đức Thầy từng nói:
    “Thiệt chẳng hổ giống dòng Nam Việt,
    Từng nêu cao khí tiết Lạc Hồng”.

    (Tế chiến sĩ trận vong vườn Thơm)
    CỘT ĐỒNG NHÀ NAM: Thành ngữ nầy do câu: “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”, xuất phát từ thời Bắc thuộc lần thứ hai.
    Sau khi Mã Viện, tướng nhà Đông Hán đánh được Trưng Nữ Vương, liền sát nhập đất Giao Chỉ thuộc về nhà Hán. Mã Viện cho chỉnh đốn binh lương, đem quân đánh dẹp các nơi, đi đến đâu cho xây thành đắp lũy đến đó và biến cải mọi cách chính trị trong các quận. Mã Viện đem phủ trị về Mê Linh và dựng cây cột đồng ở chỗ phân chia địa giới, có khắc sáu chữ: “ĐỒNG TRỤ CHIẾT, GIAO CHỈ DIỆT”. Có nghĩa: Chừng nào cây đồng trụ nầy đổ thì người Giao Chỉ phải mất nòi. Bấy giờ người Giao Chỉ chúng ta vì sợ mất nòi giống nên mỗi ai khi đi ngang qua chỗ đó đều liệng vào gốc đồng trụ một hòn đá, ý làm cho cột đồng đứng vững, dân Giao Chỉ trường tồn. Lâu ngày như vậy đá chồng chất lên cao như ngọn núi, cột đồng trụ không thể ngã được.
    Dùng thành ngữ “Cột đồng nhà Nam”, Đức Thầy có ý biểu dương tinh thần đoàn kết của quốc dân ta thời ấy và muốn khuyến khích người sau noi dấu.
    YẾN THỬ ẨM HÀ: Yến thử uống nước sông Hà. Do câu trong sách “Ấu học Huỳnh Lâm”: “Tiêu Liêu xào lâm bất quá nhứt chi, Yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc”.(Chim Tiêu Liêu thân hình nhỏ xíu, làm ổ trên rừng, bất quá nó chỉ làm một cây thôi, chớ đâu làm hết rừng cây cho được. Còn con Yến Thử thân lớn như con trâu, bụng to, uống nước thật nhiều; nhưng nó chỉ uống đầy bụng thôi, chớ không thể nào uống hết nước sông Hà được). Điển nầy có hai dụng ý: Thứ Nhứt nói người có tâm trí nhỏ hẹp mà muốn làm việc lớn bao hàm thế gian thì không thể được.
    Ý thứ hai: Là nói người có lòng tham lam bao gồm tiền của thật nhiều đi nữa, cũng chỉ hưởng được một đời thôi, chớ chẳng thể sống hưởng hoài được. Ở đây Đức Thầy muốn nói ý thứ hai.
    MƯỜI NGÀN NĂM LẺ CỬA NHÀ ĐÂU CON: Câu nầy có ý nói: Tất cả chúng sanh đã có từ vô thỉ, quê quán ở cõi Niết Bàn hay Cực Lạc. Nguồn gốc cùng một bản thể với chư Phật Thánh Tiên. Nói gần hơn, mỗi chúng ta có mặt trong đời trước đây trên mười ngàn năm (thời Thượng nguơn Thánh đức). Nhưng vì lòng còn tham nhiễm của tiền vật chất trong cõi hồng trần mà nay lại nỡ quên đi quê hương nhà cửa, chạy theo cảnh giả tạm, rồi phải luân hồi sanh tử, tử sanh cho đến giờ nầy cũng chưa chịu quay về quê xưa cảnh cũ của mình.
    LONG HOA HỘI: (Xem từ LH đã giải thích đoạn trước).
    TAM THẬP LỤC NHƠN: tức 36 vị Thánh Tiên. Vào năm 1939, lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hòa Hảo bấy giờ ông Nguyễn Chi Diệp có hỏi Ngài:
    -Nhờ Đức Thầy cho biết ý nghĩa bài thi, Ngài đáp họa cho ông Huỳnh Hiệp Hòa:
    “Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
    Khóc tử lan tâm biến họa dân.
    Tà quái hạ nguơn khai ác chiến,
    Ất niên bình thự kiến quân thần”.

    Đức Thầy nói:
    - Các ông rán tu rồi sau thì biết !
    Ông Diệp và mọi người cứ nài nỉ mãi Ngài mới nói:
    - Tôi chỉ cho các ông biết một phần thôi còn bao nhiêu thì tự suy luận ! Vào khoảng cuối thời kỳ Hạ nguơn có 3.600 manh mối tà đạo ra đời dùng đủ phương tiện, có khi tà pháp tàn hại sanh linh “Tam thiên lục bá khắp tràn hại dân”. Bấy giờ cũng có 36 vị Phật Thánh “Tam thập lục nhơn” ra đời trừ dẹp số ấy, lập hội Long Hoa, kiến tạo đời Thượng nguơn Thánh đức, đem lại sự thái bình an lạc cho dân chúng.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 71 tới câu 88)
    Đoạn giảng trên ý nói năm Thìn nào đó, tại sông Tiền Giang sẽ hiển rõ cơ quan của trời đất cho dân chúng biết. Đến đó khắp bá tánh đều hiệp nhau trên con đường hiền lành đạo đức để lập hội Nhơn Hoàng.
    Vì lòng từ bi Đức Giáo Chủ giải bày cho nhơn sanh rõ, khi nào có Thánh vương xuất hiện thì cả vùng Đông Nam Á sẽ rạng rỡ khắp năm châu. Có điều là mỗi người phải tưởng nhớ đến nòi giống Lạc Hồng đã trải năm ngàn năm và đã từng thương yêu đoàn kết xây dựng cột trụ vững chắc cho nước nhà đến ngày hôm nay.
    -Ngài còn cho biết theo lời truyền dạy của Tổ Thầy thì cả tam giáo Phật Thánh Tiên cần hiệp nhứt để lo độ dân cứu nước. Chẳng nên say đắm những vật chất tạm giả hiện tiền, vì những thứ đó đã làm cho chúng ta phải lìa quê hương bản xứ và chuyển luân trong sáu nẻo luân hồi trên mười ngàn năm rồi.
    -Mỗi khi nhắc đến chuyện đó Đức Giáo Chủ quá thương xót chúng sanh, nên Ngài kêu gọi toàn dân hãy thương yêu đoàn kết lẫn nhau. Nhứt là phải quay về con đường đạo đức để được có mặt dự hội Long Hoa, gặp Phật gặp Thầy. Bởi ngày ấy Phật Trời sẽ phân định hiền còn dữ mất, và “Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.

    CHÁNH VĂN


    “Lôi âm giục khởi tiếng đờn

    90.-Thất sơn dấy loạn là cơn hiểm nghèo.
    Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,
    Đứng sau lưng hình vóc dảy chưn.
    Nước kia lửa nọ tưng bừng,
    94.- Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai.
    Thời cũng tại không ai tu niệm,
    Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang.
    Đến nay là buổi tai nàn,
    98.- Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.
    Đến Thân Dậu Thánh Thần náo động,
    Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.
    Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
    102.-Nạn tai dồn dập xóm làng còn chi.
    Khuyên sanh chúng rán ghi mối đạo ,
    Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.
    Tương dưa giữ phận cho tròn,
    106.- Cuối niên Thân Dậu mất còn sẽ phân”.


    CHÚ THÍCH
    LÔI ÂM GIỤC KHỞI TIẾNG ĐỜN: Lôi âm nói cho đủ là Lôi Âm Tự ở Tây thiên trước, tức chùa Lôi Âm (Ấn Độ) nơi Đức Thích Ca thường cư ngụ thuyết pháp. Tiếng đờn là chỉ cho lời thuyết giáo của Phật. Ý nghĩa nguyên câu là nói Đức Thầy đem lời giáo pháp của Đức Phật Thích Ca giáo hoá chúng sanh:
    “Đờn lôi âm khởi điệu êm tai”.
    (Diệu pháp Quang minh)
    THẤT SƠN: Bảy núi (Xem chữ TS, trong STTĐ, trang 36).
    DẤY LOẠN: Cuộc loạn lạc nổi lên.
    LẲNG LƠ: Tánh cợt nhả, lả lơi, chỉ người đàn bà không có hạnh nết “Gái lẳng lơ tiếng quyển lời đờn”.
    (Khuyến Thiện, Q.5)
    BAO BIẾM: Kiêu căng tự đắc và hay chê bai , biếm nhẻ người.
    “Mặc ai biếm nhẽ gần xa,
    Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm”.

    (Sấm Giảng, Q.1)
    TAM THIÊN LỤC BÁ: Ba ngàn sáu trăm (3.600) manh mối tà đạo. Đức Thầy từng viết:
    “Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
    Khóc tử lan tâm biến họa dân”.

    (Tặng ông Huỳnh Hiệp Hòa)
    THÂN DẬU: Hai năm Giáp Thân và Ất Dậu. Chỉ cho hai năm (1944 – 1945 cuối thế chiến thứ hai)
    NÁO ĐỘNG: Không an ổn
    NHÀ TRỐNG RUỘNG HOANG: Cảnh chạy giặc nhà dỡ vách bỏ trống vì sợ giặc đốt, đồng ruộng bỏ hoang không ai làm, vì lo trốn giặc và giá lúa lúc ấy quá rẻ, chỉ 20 xu hoặc 25 xu 1 gịa; nên dân chúng đổi sang nghề khác làm ăn (chỉ cho các năm 1944 – 1945).

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 89 tới câu 106)
    Đại lược các câu giảng trên Đức Thầy nói Sấm kinh của Ngài truyền dạy, gốc từ Đức Phật Thích Ca thuyết giáo; cũng ví như tiếng đờn dễ rung cảm các căn lành sớm thức tỉnh tu hành. Ngài còn cho biết chừng nào tại vùng Bảy Núi miền Nam nước Việt có cuộc giặc loạn xảy ra, đó là cảnh hiểm nguy đến với dân chúng: Nào nước dâng, lửa cháy, thây nằm chật đất, nào tiếng kêu than thảm thiết.
    -Cảnh trạng đó là do từ trước tới giờ rất ít người tạo nhân từ thiện, mãi lo chê bai nhạo báng người tu, khinh khi Trời Phật, tạo điều hung ác, nay đã đến thời kỳ trả quả. Ngài còn nói rõ đến ngày kết cuộc sẽ có ba ngàn sáu trăm manh mối tà đạo xuất hiện; họ bày đủ mưu mô xảo quyệt, khí giới tối tân để tàn hại sanh linh.
    -Đoạn tiếp, Đức Giáo Chủ tiên tri đến 2 năm Thân và Dậu, dân chúng phải chịu nạn tai dồn dập cho đến Thần Thánh cũng không yên; nào cảnh nhà trống ruộng hoang xóm làng tan tác, tiếng than khóc khắp nơi, lệ tràn khó ráo.
    -Do đó, Đức Thầy khuyên dạy khắp chúng dân sớm quay đầu hướng thiện, ghi nhớ lời giáo huấn của Phật của Thầy để thiệt thi cho tròn vẹn hai điều trung và hiếu, đó là then chốt của đạo làm người. Đồng thời phải chừa nghiệp sát sanh bằng cách vẹn gìn trai giới, kiên nhẫn tu hành chờ đến 2 năm Thân Dậu, Phật Trời sẽ phân định việc hư nên còn mất cho cả nhân loại.

    CHÁNH VĂN

    Trong một giáp ân cần suy tính,
    Muốn làm hiền rán nhịn đừng than.
    Đến nay gần buổi khoa tràng,
    110.-Minh quân xuất thế khắp tràng thảnh thơi.
    Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,
    Hết đao binh qui cổ diệt kim.
    Gia vô bế hộ im lìm,
    114.-Lập thành mối đạo rõ điềm xưa kia.
    Thì dân chúng danh bia hậu thế,
    Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành.
    Diệt tà lập chánh đành rành,
    118.-Ba màu nắm chặt Nam thành xử phân.
    Trong tam giáo ân cần mở Đạo,
    Trường ngoại bang phục đáo như xưa.
    Phật Tiên vận chuyển lọc lừa,
    122.-Chúng sanh rán nhớ muối dưa hội nầy”.


    CHÚ THÍCH
    MỘT GIÁP: Giáp là chữ thứ nhứt trong thập can: (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí) một giáp nhỏ là 10 năm, một giáp lớn là 61 năm.
    KHOA TRÀNG: Cũng gọi là khoa trường thi cử. Học văn chương tới kỳ hạn phải vào tràng thi để biết đậu rớt cao thấp. Còn kẻ học đạo hay hành đạo cũng có cuộc thi. Giảng xưa Bửu Sơn Kỳ Hương có câu:
    “Phật thi đức, trào quốc thi văn,
    Nhơn tùng thi chánh nhơn tăng thi lòng”.
    Theo Sấm thi PGHH thì việc thi cử có nhiều cách nhiều nơi: Thi cả đức lẫn trí, trong lúc đang tu đã có thi rồi. Thi với thời gian dài dặt, coi ai có bền lòng hay không ? “Ít ai giữ đặng chí bền, Tu theo nước lớn ròng bèn thả trôi. Thi với vật chất danh lợi tình câu nhữ. Thi với tà đạo thính linh lôi kéo, cuối cùng thi tại trường thi đại hội Long Hoa, hiền còn dữ mất, Đức Giáo Chủ từng khuyến tấn: “Nếu chần chờ e trễ kỳ thi”.
    Và: “Đến kỳ thi danh thầy chạm bảng,
    Trên đài cao gọi các linh hồn”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    MINH QUÂN: Ông vua sáng suốt minh chánh. Đây chỉ cho vị thánh vương đời Thượng nguơn Thánh đức.
    CƠ TRỜI THẤY LỘ: Sắp tới đây bộ luật tuần hoàn của tạo hóa sẽ xoay chuyển cho dân chúng thấy rõ trước mắt.
    QUI CỔ DIỆT KIM: Tiêu diệt thời nay để xây chuyển lại thời xưa. Bởi người xưa thật thà chơn chất, con người nay thì xảo quyệt gian tà:
    “Tận kim bởi quả kim điêu xảo,
    Thế cổ vì nhân cổ thật thà
    .(Thanh Sĩ)
    Đức Thầy thường nói:
    “Người xưa tuy ít chữ nôm na,
    Chớ chơn chất người ta ngay thẳng”.

    GIA VÔ BẾ HỘ: Nhà không đóng cửa, chỉ cho đời thái bình an lạc, như thời Nghiêu Thuấn thuở trước. Nhà dân chúng khỏi lo đóng cửa, ngoài đường của rơi không người lượm. Đây chỉ cho đời Thượng nguơn Thánh đức.
    NAM THÀNH: Thành trì nước Việt Nam.
    TRONG TAM GIÁO: Ba nền đạo lớn mà dân tộc Việt Nam ta đã tôn thờ từ trước là Phật Giáo, Lão Giáo và Thánh Giáo.
    PHỤC ĐÁO NHƯ XƯA: Được hưng phục trở lại như thời xưa. Vào thời nước nhà có quyền tự chủ (Đinh, Lê, Lý Trần, Lê), [ Đinh là Đinh Tiên Hoàng, Lê tức là nhà Tiền Lê (Lê Hoàn), Lý là Lý Công Uẩn, Trần là các vua nhà Trần, Lê là nhà Hậu Lê, tức Lê Thái Tổ Bình Định Vương Lê Lợi.] người Việt ta rất tôn sùng Tam Giáo. Các nhà vua thuở đó thường mở khoa thi những người dung thông tam giáo ra giúp nước, nên cả nước đều xem Tam Giáo là Quốc Đạo. Sự đoàn kết của toàn dân rất chặt chẽ và đủ tinh thần nghị lực đuổi giặc xâm lăng phương Bắc.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 107 đến câu 122)
    -Bốn câu giảng trên Đức Thầy cho biết PGHH ra đời một năm sau là lâm vào vòng pháp nạn: nhưng Ngài khuyên môn đồ đã dốc chí tu hiền thì phải rán nhẫn nhịn và kiên tâm bền chí cho qua một con giáp lớn mới hết khó khăn. Và phải đợi khi nào có vị Thánh vương xuất hiện người tu sẽ hoàn toàn tự do thong thả.
    Đức Giáo Chủ còn nói: Đến hai năm Thân Dậu nào đó, cơ huyền tạo hóa sẽ lộ rõ, chiến tranh chấm dứt; đời Hạ nguơn sẽ chuyển lại thời Thượng nguơn Thánh đức như xưa. Khi ấy toàn dân chung hưởng cảnh thái bình an lạc (Gia vô bế hộ), ai ai cũng đều biết lo tu hành đạo đức.
    Bấy giờ cả dân chúng đều thống nhứt qui ngưỡng theo tinh thần Tam Giáo, khi ấy chư Phật Thánh Tiên (Tam Giáo) căn cứ nghiệp quả của mỗi chúng sanh mà mở cơ chọn lọc “Diệt tà lập chánh”.
    Hiện giờ chư Phật Thánh Tiên đều lâm phàm khai Đạo, khuyên nhủ nhân sanh sớm thức tỉnh qui về nẻo đạo, trai giới vẹn gìn, đó là nguyên nhân hưởng sự thái bình sắp tới. Bằng ai không hồi tỉnh, mãi gây nghiệp sát hại, hành động gian tà hung ác tất đành chịu cuộc chọn lọc hiền còn dữ mất.

    CHÁNH VĂN

    “Trên cùng dưới sum vầy một buổi,
    Dựng mười hai may rủi mới hay.
    Làm cho rõ mặt râu mày,
    126.-Thượng nguơn hồi phục là ngày an cư.
    Cuối Thân Dậu y như Thượng cổ,
    Thời nhơn sanh hết khổ đến may.
    Đế Vương xuất thế là ngày,
    130.- Dậu, Thân bình trị trong ngoài âu ca.
    Phân chỉ rành gần xa để dạ,
    Chớ đảo điên phải đọa phải sa.
    Nghĩ suy cho thấu mới là,
    134.-Một bầy Hồng Lạc nay đà thảnh thơi.
    Khuyên sanh chúng nhớ lời ta tỏ,
    Trước sau cùng chỉ rõ mối đàng.
    Nhơn sanh giữ phận chớ than,
    138.-Minh Vương xuất thế mới an dân lành”.


    CHÚ THÍCH
    DỰNG MƯỜI HAI: Tức mười hai bến nước. Sở dĩ hiểu các chữ nầy do thành ngữ “Mười hai bến nước” là vì Đức Thầy viết câu nầy có kèm hai chữ rủi may. Có nghĩa sống trong xã hội loài người có nhiều hạng khác nhau do hai từ may và rủi. Như may thì đặng giàu sang vinh hiển, sung sướng an vui. Rủi thì gặp nghèo hèn, gian lao cực khổ.
    Mười hai bến nước gồm có: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, Công, Hầu, Bá, Tước. (Sĩ là hạng học trò, Nông là làm ruộng, Công là người thợ, Thương là buôn bán, Ngư là làm nghề bắt cá, Tiều là người làm ra củi, Canh là người trồng tỉa, Mục là mục đồng, người chăn trâu, Công Hầu Bá Tước là chức tước phẩm vị các người làm quan cho một trào vua thời phong kiến. Công là quan có tước công, Hầu là quan có tước hầu, Bá là quan có tước bá, Tước là quan có chức tước).
    Trong văn chương thường dùng thành ngữ 12 bến nước để chỉ cho duyên phận của người phụ nữ, khi đi lấy chồng; được may thì nhờ, gặp rủi thì đành phải chịu:
    “Linh đinh một chiếc thuyền tình,
    Mười hai bến nước gởi mình vào đâu? (Ca dao)
    Ở đây, Đức Thầy dùng thành ngữ “dựng mười hai” tức 12 bến nước trong câu giảng nầy là ý chỉ khuyên người tu hành trước khi tu phải chọn nền Đạo mà qui theo. Nếu được chánh đạo là may, còn lâm vào tà đạo là rủi. Như Ngài đã xác định và dặn dò môn đồ:
    “Chọn bến nước rủi may trong đục,
    Nếu chần chờ lục đục trễ chơn”.
    (Vọng Bắc hòa Nam)
    ĐẾ VƯƠNG: Đế có nghĩa là vua mà Vương cũng là vua, nhưng ở đây hai chữ đi cặp là muốn nói tới Đức Minh Vương tức ông vua minh chánh sáng suốt:
    “Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu,
    Lòng hiền đức nào ai có biết”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    HỒNG LẠC: Cũng gọi là Lạc Hồng ý chỉ cho vua Lạc Hồng họ Hồng Bàng. Nhà vua có công lập quốc và sản sanh giống dân Việt Nam ta. Do đó, người Việt Nam từ trước đến nay đều cho mình là con Rồng cháu Tiên, hay con cháu Lạc Hồng:
    “Hồng Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
    Và: “Bay mùi thơm cả tây đông,
    Bắc Nam nhơn vật Lạc Hồng thảnh thơi”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 123 đến câu 138)
    Đoạn Giảng trên ý cho biết hiện giờ đất nước Việt Nam đang bị mất quyền tự chủ, như trong một gia đình thiếu người cha cai quản. Nền đạo gặp hồi pháp nạn nhưng tín đồ hãy tin tưởng sẽ có một ngày chúa tôi thầy trò sum hiệp. Người tu hành đang sống trong cảnh rủi, đầy gian lao khổ nạn, song nếu biết nhẫn nại lo tu thân sửa tánh cho đến ngày lập lại Thượng nguơn tất được thong thả an vui.
    Đức Giáo Chủ cũng cho bá tánh hiểu thêm đến hai năm Thân, Dậu nước ta chẳng còn khổ như đã thấy. Vì đến đó Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”, lập lại đời Thượng nguơn an lạc như lúc khởi đầu Thượng nguơn.
    -Do đó hiện giờ Ngài kêu gọi vạn dân và môn đồ hãy ghi nhớ lời phân chỉ hầu lo trau thân hành đạo không nên làm ngược lại mà sau nầy phải chịu đọa sa khổ não. Đồng thời hãy dùng trí tuệ xét suy cho thấu đạt chơn lý của đạo để làm định hướng trên đường tu tiến hầu sau nầy cả nòi giống đều được thảnh thơi an hưởng.

    CHÁNH VĂN

    “Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,
    Xin giúp chí bền chí dục tâm.
    Hộ mạng thần Quan Âm trợ lực,
    142.- Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.


    ***
    Từ bi Trời Phật độ quần sanh,
    Cứu khỏi tai ương vạn sự lành.
    Đệ tử gội nhuần ân đức cả,
    146.- Chung thân quyết chí dốc tu hành”.


    CHÚ THÍCH

    GỘI ƠN: Nhờ các bậc bề trên ban ân huệ xuống. Ví dụ: Nhờ Trời Phật, vua, quan hay nhờ cha mẹ giúp đỡ.
    CHÍ BỀN: Cũng gọi là bền chí. Ý nói đã quyết chí tu hành, dù gặp sự gian lao trở ngại cũng bền dẻo, kiên tâm trì chí cho đến khi thành công. Đức Thầy từng dạy: “Đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ bền bỉ dẻo dai, dung hòa nhẫn nại.
    QUAN ÂM: (Xem chữ Quan Thế Âm Bồ Tát trong STTĐ, trang 332, Q.1, cột 1).
    Ý NHIỆM: Sự mầu nhiệm trong tâm ý con người.
    TỪ BI: (Xem trong STTĐ, trang 406, T.1, Q.1).
    QUẦN SANH: Cũng gọi là quần sinh. Quần là bầy, đông nhiều, chỉ cho số người đông; Sanh là các giới chúng sanh trong xã hội loài người. Đức Thầy từng nói: “Với quần sanh họ mang cái ơn rất nặng, cho nên họ phải dìu dắt sanh linh đi tìm chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của thiện tín”.
    GỘI NHUẦN ÂN ĐỨC CẢ: Nhờ ơn Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng giác tỉnh và ban phúc huệ cho chúng sanh thấm nhuần lý diệu mầu Phật pháp giác ngộ tu hành:
    “Nhuần gội ơn trên rải đạo mầu”.
    (Tối Mùng Một)

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 139 đến câu 146)
    Đoạn nầy Đức Giáo Chủ viết hai bài thi Tứ cú. Ý nói chúng sanh đang sống trong thời Hạ nguơn mạt pháp mà được giác tỉnh tu hành theo chánh đạo là nhờ ơn Trời Phật ban bố. Vậy mỗi người hãy nuôi chí bền lòng tu tiến cho đạt đạo. Đồng thời hãy cầu nguyện Đức Quan Âm Bồ Tát dùng thần lực hộ trì thêm cho chúng ta sớm thấu đạt lý mầu nhiệm nơi tâm ý mình.
    -Chư Phật luôn có lòng từ bi bác ái, lúc nào cũng muốn cứu vớt nhơn sanh, nên các Ngài truyền dạy mỗi người hãy rán làm lành lánh dữ, để thoát khỏi tai nạn trong thời biến hoại tới đây. Chúng ta đã gội nhuần ân đức của các Ngài thì hãy quyết tâm dốc chí tu hành hầu đền đáp những đặc ân mà mình đã thọ nhận.

    CHÁNH VĂN

    “Buồn vơi mượn bút tay đề,
    Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang.
    Tay chèo miệng nói lang-mang,
    150.-Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai.
    Lục châu ta dạo bằng nay,
    Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan.
    Động tình tá quốc an bang,
    154.-Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.
    Bây giờ ta mượn kệ kinh,
    Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an.
    Bữa xưa giảng kệ một nang,
    158.-Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.
    Ngày nay ta cũng nôm-na,
    Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi.
    Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,
    162.-Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân”.

    CHÚ THÍCH
    BUỒN VƠI: Hơi buồn (từ hay dùng mở đầu câu văn có tánh cách buồn than).
    LANG MANG: Cũng viết là lan man. Có nghĩa nói chuyện nầy kế tiếp sang chuyện khác, không dứt. Ở đây Đức Thầy nhắc lại lúc đi dạo lục châu, tay Ngài vừa chèo miệng vừa kể chuyện khuyên tu không dứt.
    LÊ THỨ: Lê là đen; Thứ là đông, nhiều. Cũng có nghĩa như chữ Lê Dân (dân đen) chỉ cho tất cả dân chúng.
    TÁ QUỐC AN BANG: Bảo vệ giang san tổ quốc và giúp cuộc trị an cho quốc gia dân tộc.
    BỮA XƯA GIẢNG KỆ MỘT NANG: Bữa xưa là thời gian trên 100 năm về trước. Giảng kệ là lời Sấm Giảng khuyên tu của Đức Phật Thầy. Một nang có hai nghĩa:
    1/- Một nang thơ hay cái cẩm nang do người trước, bậc thầy hay cha mẹ lưu chiếu lại để dặn dò người sau hoặc kẻ dưới tay y theo đó mà thi hành công việc.
    2/- Một nang là cái mo nang gói những kỷ vật lưu để đời sau, bảo vệ được lâu ngày không bị chuột, gián gậm rách. Ở đây chỉ cho cái mo nang do Đức Phật Thầy gói các kỷ vật và quyển Sấm Truyền lưu để trên 100 năm, người sau tìm ra được ở Tòng Sơn. (Loại cau ăn trầu, mỗi buồng có vỏ bao bọc bên ngoài gọi là mo nang. Khi rụng xuống, người ta dùng cắt quạt, hoặc dùng gói cơm hoặc trầu cau vôi thuốc đem theo đường, không bị hư ướt).
    Từ khi Đức Phật Thầy Tây An rời Tòng Sơn đi vân du các nơi rồi dừng chân tại Trà Bư, gần mộ Phật Mẫu Rạch Cái Nai, xã Hội An. Bấy giờ bịnh ôn dịch lan tràn khắp nơi, bịnh nhơn đến nhờ Ngài điều trị rất đông. Ở làng Tòng Sơn cũng thế, dân làng nhờ ông Đoàn Văn Viên và Đoàn Văn Điểu (Bà con chú bác với Ngài) đến Trà Bư nài nỉ yêu cầu Ngài trở về đây độ bịnh cho dân chúng. Ngài không nhận, ý nói vì nơi đây bịnh nhơn còn đông lắm, các ông hãy trở về Đình vào chỗ Thầy nghỉ lúc trước, tìm lấy cái nang bằng mo cau, dùng làm đảy đựng vật dụng mà Ngài đã để lại đó. Trong đây có cây thẻ năm ông, ai có bịnh hãy vạt một miếng, khẩn vái Trời Phật rồi về nấu nước uống thì bịnh chi cũng tiêu trừ.
    -Thật vậy, trong cái mo nang còn lại, người ta thấy có một quyển Sấm Giảng, một tấm trần đỏ và một cây cờ ngũ sắc (thẻ năm ông). Tấm trần đỏ tức thời được thượng lên thờ tại Đình, quyển Sấm Giảng được truyền tay nhau đọc, còn cây cờ ngũ sắc thì chỉ trong ít ngày người ta thỉnh về uống sạch chẳng những lá cờ mà còn cả cán cờ, chưn nhang và tro nhang trên bàn cũng không còn. Bằng phương pháp đơn sơ như vậy, Đức Phật Thầy đã chận đứng được luồng bịnh ôn dịch tại làng Tòng Sơn.
    DỜI THOÀN: Cũng đọc là dời thuyền. Ý chỉ lúc Đức Phật Thầy rời đình Tòng Sơn ra đi bằng chiếc xuồng bần.
    NÔM NA: Tiếng Nôm là một thứ tiếng đặc biệt của người Việt Nam, dùng từ thời chúa Nguyễn trở về trước. Chữ viết hình thể giống chữ Hán, nhưng không phải chữ Hán, song đọc dễ hiểu nghĩa hơn chữ Hán.
    Sau đó, vì tùy theo trào lưu tiến hóa của nước nhà mà Đức Thầy sáng tác Sấm Giảng bằng chữ Việt ngữ (Quốc ngữ).
    TUẤT HỢI: Hai năm Tuất và Hợi. Đức Giáo Chủ tiên tri đến hai năm đó, Phật Trời sẽ phân định đâu ra đấy. Chúng tôi không dám quyết định là can chi nào (vì Thiên cơ) chỉ chứng minh những chỗ khác Ngài đã nói trùng hợp:
    “Tuất Hợi nhị niên giai tiền định,
    Huờn lai thượng cổ mới bình yên”.

    :
    “Sáng ngày con chó sủa tru,
    Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên”.

    Hay là:
    “Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 147 đến câu 162)
    -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết tiền thân của Ngài đã an tâm tu dưỡng nơi cảnh Tiên, nay vì quá thương xót chúng dân nên lâm phàm dùng bút mực viết ra Kệ Giảng, khuyên bá tánh thức tỉnh tu hành. Ngài chèo ghe khắp đó đây, miệng không ngới khuyên nhủ bá tánh tỉnh tâm tu niệm.
    -Lúc mới ra đời, Ngài có mượn chiếc ghe của Đức Ông đi dạo qua sáu tỉnh miềnNam. Nhân thấy khắp chúng sanh đang trong cảnh nước mất nhà tan, đói đau nghèo khổ, khiến Ngài kích động mối tình yêu dân mến nước, nên quyết tâm bảo vệ quốc dân Việt Nam cho đến ngày quang vinh tươi sáng.
    -Trước nhất, Ngài mượn lời Kinh Giảng kêu gọi người hãy sớm trau sửa thân mình cho tròn vẹn. Đức Giáo Chủ cũng nhắc lại tiền thân của Ngài, lúc còn là Đức Phật Thầy Tây An, cách đây trên 100 năm, trước khi Ngài rời khỏi làng Tòng Sơn, Ngài có lưu lại cho đời một quyển Sấm Truyền để trong cái mo nang mà sau nầy tín đồ sẽ tìm gặp.
    -Ngày nay Ngài trở lại cũng dùng Kệ kinh khuyên lơn trần thế hãy sớm thức tỉnh tu hành hầu khỏi nạn khổ sầu sắp tới. Điều cần nhất là mỗi người hãy rán kiên nhẫn tu hành chờ tới hai năm Tuất Hợi, Phật Trời sẽ định ngôi phân thứ, toàn dân đến đó sẽ hưởng cảnh vui tươi thong thả.

    CHÁNH VĂN

    “Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
    164.-Người xưa trở gót cho gần người nay.
    Người nay rồi vẹn thảo ngay,
    Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.
    Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,
    168.-Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành.
    Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành,
    Mau mau trau trỉa chữ lành cho xong.
    Đến chừng lập hội mới mong,
    172.-Trở về chúa cũ mới hòng xuê-xang.
    Người hiền chư thể cỏ lan,
    Người hung chết rất chật đàng thảm thay.
    Cả kêu kìa hỡi là ai,
    176.-Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau.
    Lui chơn ra khỏi cho mau,
    Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.
    Theo ta đến chốn Tiên-bang,
    180.-Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non”.

    CHÚ THÍCH
    CHIM Ô ĐÀ DỰA CẦU NGÂN: Chim ô nói cho đủ là chim Ô Thước, tức là chim Quạ và chim Khách. Hai loại chim nầy đều có sắc lông đen nhánh nên gọi là Ô; chim Khách có đặc tính là báo tin có khách đến. Còn chim quạ thì đội đá bắc cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau tại sông Ngân Hà. Ý nói những người có duyên lành với nhau thì sớm muộn gì cũng hội hiệp.
    Hai người vốn là hai ngôi sao trên nền trời (sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ), chữ Ngâu là do chữ Ngưu đọc trại. Chàng Ngưu Lang thì lo việc chăn nuôi, cày cấy; còn Chức Nữ thì lo thêu dệt vá may, việc làm rất siêng năng, Thượng Đế thấy thương cho hai người kết duyên tơ tóc, nhưng khi có đôi bạn lại sanh lười biếng. Thượng Đế bắt tội đày mỗi người một nơi cách sông Ngân Hà, hằng năm cứ tới ngày mùng bảy tháng bảy mới cho hai người gặp nhau một lần tại bến sông nầy.
    Tương truyền lúc Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, có chim Ô Thước đến đội đá bắc cầu cho đôi đàng hiệp mặt.
    Tóm lại Đức Thầy dùng điển tích nầy trong đoạn Giảng nói trên là ý nói chúng ta (môn đồ) cùng Ngài đã có duyên thầy trò với nhau từ lũy kiếp. Nay Ngài mới trở lại dìu dắt chúng ta tiến lên con đường đạo:
    “Bấy lâu chạnh cám ô ngân,
    Ngày nay hiệp mặt phân trần sạ duơn”.

    Giờ đây tuy thầy tớ còn xa cách, song môn đồ nào biết xử sự thảo ngay cho tròn vẹn ắt một ngày kia chúa tôi, thầy tớ sẽ trùng phùng.
    NGƯỜI XƯA: Là nghĩa của người cổ, tức người đã có mặt độ đời trên 100 năm về trước. Ở đây chỉ cho Đức Phật Thầy Tây An, vì Ngài đã nhiều lần chuyển kiếp giáo độ chúng sanh.
    THẢO NGAY: Cũng gọi là ngay thảo. Có nghĩa tôn kính và vâng lời dạy bảo của ông bà cha mẹ gọi là thảo. Trung thành ngay chánh với tổ quốc gọi là Ngay. Thảo Ngay là hai vấn đề then chốt của đạo làm người:
    “Thế gian ngay thảo đáp đền,
    Ngày sau sẽ được chăn mền thơm tho”.

    TRAU TRỈA: Cũng viết là trau tria. Có nghĩa là trau chuốt giồi mài cho trơn láng tốt đẹp, nghĩa của sự tu.
    CHÚA CŨ: Ông vua rất minh chánh đã có nhiều lần cai quản đất nước Việt Nam, giờ đây sắp trở lại trị vì.
    XUÊ XANG: Sung sướng tốt đẹp.
    CỎ LAN: Cũng gọi là hoa lan, loại cỏ phụ sinh, sống gá rễ trên các loại cây khác, rễ bám vào da cây hoặc lan tủa ngoài không khí, có giống bám trên đá, trồng trên chậu, dưới đất. Hoa lan có mùi thơm và đẹp, có rất nhiều loài như: Chi lan, phong lan, thạch lan, và xuân lan. Lại còn biểu trưng cho tư chất trang nhã, phong lưu và đẹp đẽ:
    “Hiệp chung một cuộc chi lan,
    Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    QUAN TRƯỜNG: Trường quan lại. Chỉ cho các quan chức thời Pháp thuộc:
    “Quan trường miệng nói vang rân,
    Mà tâm dính chặt hồng trần bụi nhơ”.

    (Sấm Giảng, Q.1)
    TIÊN BANG: Nước Tiên. Chỉ cho cảnh siêu thoát hay đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây.
    NĂM NON: (Xem từ Năm Non STTĐ, trang 247, cột 2, quyển 1).

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 163 tới câu 180)
    Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết Ngài và hầu hết tín đồ đều có duyên lành với nhau từ lũy kiếp và Ngài cũng đã có nhiều lần mở cơ phổ hóa; thế mà chúng sanh ít ai thấu hiểu. Nay là thời cùng cuối của buổi Hạ nguơn Ngài cũng có trách nhiệm độ chúng sanh sớm trau giồi cho mình trọn trung trọn hiếu để ngày lập hội gặp lại Ngài.
    Trên đường tu hành Ngài cũng khuyên mọi người hãy chuyên cần hai thời công phu lễ bái và siêng xem Kệ Giảng, vì Ngài đã kể hết mọi việc trong đó. Vậy mọi người hãy nên trau sửa cho thân tâm mình sớm được trọn lành trọn sáng.
    Có được như vậy, đến ngày hội Long Hoa tới đây thầy tớ chúa tôi đồng sum hiệp, đến đó người hiền rất quí báu như cỏ lan ai trông nhìn cũng yêu kính. Còn kẻ hung ác sẽ bị luật nhân quả đào thảy diệt vong.
    -Đức Giáo Chủ cũng kêu gọi những giới quan chức thời Pháp thuộc hãy tháo ra cho khỏi kiếp cúi lòn ấy để trở về với con đường thanh bai cao khiết hơn. Nhứt là hiệp mặt chúa tôi thầy tớ trong ngày đại hội tại vùng Năm Non Bảy Núi.

    CHÁNH VĂN

    181.-“Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,
    Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông.
    Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,
    184.-Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.
    Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
    Rán nghĩ suy bền chí mới mầu.
    Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu,
    188.-Đặng trở lợi với cha cùng chúa.
    Nếu chẳng lo cũng như lá úa,
    Lá úa vàng nó rụng người ôi !
    Ngàn năm mới có một đời,
    192.-Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân.
    Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
    Thì phải rán lập thân nuôi chí.
    Ta cho đó ít câu hữu lý,
    Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn.
    Đục trong đà tỏ nguồn cơn,
    198.-Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha”.

    CHÚ THÍCH
    ĐẠO PHẬT: (Xem từ ĐP, STTĐ, cột 1, quyển 1)
    LAO LÝ: (Xem từ LL, STTĐ, trang 193, cột 1)
    HUYỀN BÍ: Sâu kín mầu diệu vô cùng.
    LỢI DANH: (Xem từ LD, STTĐ, trang 205, cột 1, Q.1).
    MỘNG SẦU: Giấc chiêm bao sầu khổ. Ý chỉ cõi đời là giả tạm, lại còn là việc khổ đau sầu hận. Giống như người mơ tưởng việc không đâu rồi chuốc lấy sự buồn khổ.
    “Lâm sầu mộng ở trong trần thế.(Thiên lý ca)
    NGÀN NĂM: Mười lần một trăm là một ngàn nhưng chữ ngàn năm ở đây là chỉ cho số nhiều. Ví dụ: Việc đó cả ngàn đếm không xuể đâu
    “Cả ngàn năm nhơn tâm xao xuyến,
    Sao tu hoài chẳng thấy ai thành
    .(GMTK, Q.4)
    PHẬT TRỜI XỬ PHÂN: Đến ngày lập hội Trời Phật căn cứ vào luật nhân quả mà phân định, thưởng phạt rất công minh, chẳng sai chạy ly nào:
    “Có ngày mở rộng qui khôi,
    Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân”.

    (Bóng Hồng)
    BỆ NGỌC CÁC LÂN: Bệ ngọc là bực thềm trước cung vua, người ta làm bằng ngọc ngà châu báu. Các lân: Các là lầu gác; Lân là chất phi kim loại, tự nó phát ra ánh sáng. Nếu để nó vào bóng tối thì tự nó sẽ phát ra ánh sáng.
    Hiểu chung 4 chữ Bệ ngọc Các lân là chỉ cho nội điện của bậc vua chúa ngự, người ta xây đắp toàn bằng ngọc ngà châu báu, tự nó chiếu ra ánh sáng. Nghĩa bóng: Lời nói những người tu chính chắn sau nầy sẽ được sống gần bậc vua chúa sang cả. Đức Thầy từng cho biết:
    “Mấy người còn được xác thân,
    Thì là đài ngọc các lân dựa kề
    .(Sám Giảng, Q.3)
    LẬP THÂN: (Xem từ LT, STTĐ, trang 195, cột 2, Q.1).
    NUÔI CHÍ: (Xem từ NC, STTĐ trang 255, cột 2, Q.1).
    DIỆT TÂM TRẦN: Trừ diệt lòng nhơ xấu tà ác, giữ tâm đừng khởi một vọng niệm chúng sanh nào cả, Đức Thầy hằng khuyên:
    “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
    Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.

    NGUỒN CƠN: (Xem từ NC, STTĐ, trang 274, cột 1, Q.1).
    ĐỜN BÁ NHA: (Xen từ ĐBN, STTĐ trang 130, cột 2, Q.1).

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 181 tới câu 198)
    Đoạn giảng thất ngôn trên đây, Đức Giáo Chủ muốn nhắc lại thời Đinh, Lê, Lý, Trần…tinh thần Đạo Phật luôn sáng tỏ. Vì cách tu hành của các Tăng Ni, Phật tử gần với nếp sống vô vi của Đạo. Song từ khi lối hữu vi của Thần Tú từ Trung Hoa truyền đến xứ ta thì Đạo Phật cơ hồ như bị mờ lu xuống dốc. Bởi trong giới hành Đạo và truyền Đạo chỉ biết chú trọng về âm thinh sắc tướng.
    -Vì lòng từ bi và có bản nguyện chấn hưng Phật giáo, Đức Giáo Chủ lâm phàm mở cơ phổ hóa, giải rõ sự sâu kín mầu diệu trong đạo pháp để khuyên mọi người hãy suy xét cho thấu đạt chơn lý.
    -Đồng thời phủi bỏ lợi danh, tài sắc, vì những thứ đó là ảo ảnh gạt lường dắt chúng ta vào giấc mộng triền miên sầu khổ ! Ngài khuyên mỗi người quay về chánh pháp vô vi, thực tế của ông cha ta từ trước. Bằng không được vậy khác nào như những chiếc lá vàng trên thân cây, sớm muộn gì cũng rơi rụng.
    -Theo luật tuần huờn cả bao ngàn năm mới có cơ hội may mắn, Phật Trời ân xá bớt tội căn và lập hội để phân xử, chọn lọc hiền còn dữ mất. Vậy ai muốn gần được đài mây Chúa Thánh thì hiện giờ phải lập thân hành đạo bền chí tu hành, diệt lòng tham nhiễm tài sắc vị danh mới toại nguyện.
    Và vì lòng quá thương xót sanh linh Đức Thầy mới kể hết sự tình: Hư, nên, tốt, xấu cho mọi người cùng nghe thấy. Lời lẽ của Ngài ví như tiếng đàn của Bá Nha, những người xem nghe hiện giờ phải có tâm hồn Tử Kỳ mới mong hội ý.

    CHÁNH VĂN

    “Mặc ai biếm nhẻ gần xa,
    200.-Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.
    Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,
    Mặc người trên bận-bịu chẳng phê.
    Muốn cho thân vượt khỏi lề,
    204.-Cắm sào trì chí một bề lo tu.
    Kim ngọc nan tri tường đông hải,
    Phật tà phàm tục tất nan tri.
    Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo,
    208.-Mặc tình thế sự chúng khinh-khi.
    Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,
    Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi.
    Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
    212.-Kim thời bá-tánh gọi ngu-si.
    Nợ thế đền xong mong giai lão,
    Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi”.

    CHÚ THÍCH
    BIẾM NHẺ: Chê bai nhạo báng, nói xa nói gần:
    “Dương trần biếm nhẻ gần xa,
    Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm”.

    BẬN BỊU: (Xem chữ BB ở đoạn trước).
    CHẲNG PHÊ: Không đồng ý, chẳng chấp thuận.
    VƯỢT KHỎI LỀ: Lề hai bờ lề của một con lộ, ở đây chỉ con đường luân hồi sanh tử, chúng sanh cứ đi quanh trong đó khó mà vượt ra được. Nên Đức Giáo Chủ khuyên chúng ta phải tu hành cho thoát khỏi cái lề sanh tử để được giải thoát an vui.
    TRÌ CHÍ: Giữ chí bền lo tu niệm, không lý do gì chùn chơn thối bước.
    KIM NGỌC NAN TRI TƯỜNG ĐÔNG HẢI: Kim ngọc là vàng ngọc châu báu. Nantri là khó biết. Tường Đông hải ai muốn có ngọc phải từng xuống biển mà bòn. Nghĩa bóng là nói cái Đạo không ngoài bản tâm, ai muốn thấu đạt phải quay về nơi tâm và cố gắng tu hành mới kết quả. Bởi cái đạo không có hình tướng sắc màu hay ngữ ngôn đối đãi. Người đứng ngoài cửa nhìn qua loa khó mà thấu đạt. Cho nên hành giả nào muốn thấu đạt, tất phải quay về nội tâm và cố gắng tu học giáo lý mới mong kết quả. Kinh Phật đã bảo:
    “Đạo giả vô chung thủy, minh minh hà xứ tầm.
    Thanh tịnh vô vi pháp, chánh đạo hiện chơn tâm”.

    Tạm dịch:
    -Đạo vốn chẳng đầu đuôi sau trước,
    Khắp muôn phương khó thể tìm ra.
    Nếu tâm buông hết vọng tà,
    Tự nhiên tánh đạo lộ ra nơi lòng.

    PHẬT TÀ PHÀM TỤC TẤT NAN TRI: Trong tâm của mỗi người đều có Phật ma hay Tiên phàm lẫn lộn. Nếu chúng ta chỉ nhìn hình tướng bên ngoài khó mà phân biệt được cần phải xét toàn diện từ hành động ngôn ngữ cả tư tưởng của họ mới hiểu được và đánh giá được.
    THÍCH ĐẠO: Đạo Phật cũng gọi là đạo giác ngộ do Đức Thích Ca khai mở và Ngài là Giáo Chủ:
    “Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
    Hãy tìm kiếm cái không mới có”.

    KIẾN HUYỀN VI: Thấy được lẽ sâu kín mầu nhiệm của Đạo. Đây chỉ cho người tu thấu đạt chơn lý.
    HIỀN THẦN: Người tôi hiền.
    HIẾU NGHĨA: Thích làm việc nghĩa, việc phải, giúp đời, nhưng chữ hiếu nghĩa ở đây còn có nghĩa là tu tròn nhân đạo. Đức Thầy hằng khuyên: “Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên” : “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 199 đến câu 214)
    Người đã quyết tâm hành thiện thì dù cho đời có nhạo chê phỉ báng, mình cũng không màng kể, nên tự xét lòng mình có thật sự nhân từ ngay chánh là tốt, khỏi cần thanh minh biện lẽ với ai.
    Đức Giáo Chủ khuyên khắp môn đồ trên đường tu dù gặp kẻ cường quyền chưa chấp nhận hay người đời có đối xử cay đắng cở nào ta cũng vẫn nhịn chịu. Nhứt là mình đã dốc chí tu cho ra khỏi lề sanh tử thì hãy trì chí cho đến ngày thành quả, đừng bận tâm đến việc trở ngại hay nghịch cảnh chung quanh.
    -Vàng ngọc là thứ quí giá trong đời nên khó tìm được, ai muốn được phải lặn xuống biển mới bòn ra, cũng như chúng sanh sống trong đời, tâm trí của mỗi người Phật ma tà chánh lộn xộn, nếu chỉ nhìn qua loa bên ngoài tất khó hiểu, phải dùng cặp mắt trí huệ mới xét rõ đặng. Đức Thầy cũng nói rõ, chư Phật Thánh lâm phàm độ thế còn tiềm ẩn trong sắc thân con người, nên khách trần khó thấu hiểu.
    Người đời hay nhìn ngược chơn lý, những bực biết hiếu trung ngay thảo họ lại cho là ngu si. Song nhà tu không vì thế mà nản lòng thối chí cứ lo cho mình vẹn tròn câu trung hiếu và trả xong nợ thế là điều quí báu, sách sử nên ghi.

    CHÁNH VĂN

    215.- “Lâm sầu mộng ở trong trần thế,
    Việc tu hành như ế chợ đông.
    Mãng lo danh lợi não-nồng,
    218.-Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai.
    Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,
    Sửa tâm lành như miếng hoa thơm.
    Đến chừng hoa nở nhụy đơm,
    222.-Thì là trần thế mới hờm bẻ hoa.
    Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận,
    Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.
    Kìa kìa súng nổ trời Tây,
    226.-Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang.
    Hung-đồ với lũ dọc ngang,
    Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.
    Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,
    230.-Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi ?
    Buồn đời xuống bút làm thi,
    Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân.
    Nào nào dân có biết ân,
    234.-Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi”.


    CHÚ THÍCH

    LÂM SẦU MỘNG: Lâm là lâm vào, mắc vào. Sầu mộng là giấc chiêm bao sầu khổ. Ý nói kiếp sống của con người trong cõi trần gian quá ngắn ngủi, lại gặp nhiều khổ đau sầu hận, thế mà chúng sanh cứ mãi lầm lũi vào:
    “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,
    Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm”.
    (Kh/thiện, Q.5)
    TRẦN THẾ: (Xem từ TT đã giải trong bài “Lộ chút cơ huyền”).
    DANH LỢI: (Xem từ LD đã giải trong bài “Lộ chút cơ huyền”).
    NÃO NỒNG: Cũng gọi não nùng. Có nghĩa não nề buồn bã lắm. Ví dụ: Tiếng than khóc nghe não nùng lắm:
    Xuống dương thế dạo trong lê thứ,
    Thấy bá gia gặp lúc não nùng
    .(GiácMê, Q.4)
    ĐẠO LÝ: (Xem chữ Đạo lý đã giải trong bài đầu).
    SÚNG NỔ TRỜI TÂY: Tiếng súng nổ bên Âu Tây. Chỉ trận thế chiến thứ nhì, Tây Âu bị Đức-Ý đánh trước.
    THÂN DẬU TAI ĐẦY SẤM VANG: Hai năm Thân và Dậu (1944-1945) Nhựt Bổn bị Đồng Minh dội bom tại Sài Gòn Việt Nam.
    HUNG ĐỒ: Cũng gọi là hung đảng, tức lũ hung đồ, đảng dữ dọc ngang chuyên đánh lộn quậy phá. Đức Thầy có câu:
    “Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
    Dư đảng dọc ngang cấp Ma Ha”.

    GANH HIỀN GHÉT NGỎ: Cũng viết là ghét ngỏ ganh hiền. Có nghĩa hay ghét ghen đố kỵ những người có tài đức phẩm hạnh hơn mình, hay giàu sang hạnh phúc. Đây là một tánh xấu, không một ai chấp nhận. Đức Thầy cảnh giác:
    “Thấy chúng sanh ghét ngỏ ganh hiền,
    Lo chế nhạo những người tu tỉnh”.
    (Giác Mê, Q.4).
    CỐ LỲ: Dạy hoài, dạy mãi người ta không nghe mà vẫn nói. Đây là vì từ bi Đức Thầy phải cố gắng dạy hoài chớ không phải cố lỳ như người thường.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 215 đến câu 234)
    -Chúng sanh sống trong cõi trần như trong giấc mộng, vừa ngắn ngủi, vừa gánh chịu sầu khổ. Lời giác tỉnh tu hành của Đức Thầy chẳng khác nào hàng hóa ở chợ bị ế. Vì nghiệp chướng ngăn che khiến người đua chen theo danh lợi rồi phải khổ vì nó, nên Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ hãy ghi nhớ đường tu đừng để phai lợt.
    -Trên bước tu hành dầu gặp lắm tiếng đời gièm siểm cũng mặc cứ lo trau sửa thân tâm mình cho tốt đẹp thơm quí là được. Tâm lý người đời hễ thấy việc trồng hoa thì sợ khó, nhưng khi hoa trổ bông thì khởi lòng tham muốn.
    -Đức Giáo Chủ đem giáo lý giải bày cặn kẽ và khuyên mỗi người rán dẹp lòng mê si, hờn giận, để lo hành đạo cho kịp thời kỳ. Hiện giờ đây cũng thấy cuộc chiến tranh đã khởi dậy bên trời Âu, rồi đến các năm Thân Dậu sẽ tới đất Việt Nam mình. Và đến chừng thấy cảnh máu đổ thịt rơi người ngang tàng hung dữ mới chịu quày đầu hướng thiện.
    -Bởi nên đạo Đức Thầy mới khai mở, như ngọn đèn mới đốt chưa sáng tỏ, nên có lắm người ghét ghen đố kỵ, đón ngõ ngăn đường. Ngài cũng buồn khi thấy chúng sanh còn mê tối nên động lòng từ bi sáng tác Sấm Thi thức tỉnh dù ai không tin nghe Ngài cũng khuyên đời mãi mãi. Thế mà bá tánh đâu xem đó là ân nghĩa, khi có bịnh thì tới nhờ điều trị, lúc bịnh lành thì lơi đi sự kính tin Trời Phật.

    CHÁNH VĂN

    235.-“Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
    Nay gặp người quái lạ tỏ phân.
    Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
    238.-Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia.
    Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,
    Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.
    Phật-nhi tâm tánh thật-thà,
    242.-Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi ?
    Dương-trần thường bạc như vôi,
    Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung.
    Lúc áo-não cội thung lo liệu,
    246.-Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.
    Thất-Sơn lộ vẻ đài lầu,
    248.-Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta”.


    CHÚ THÍCH
    LỜI CHÂU NGỌC: Lời của chư Phật Thánh, hay các danh nhân nói ra để dạy đời có lợi ích nên ai cũng tôn trọng như vàng ngọc. Ví dụ: Đó là kim ngôn, hay lời vàng tiếng ngọc.
    NGƯỜI QUÁI LẠ: Người khác thường. Lúc Đức Giáo Chủ mới khai sáng nền đạo mỗi cử chỉ hành động đến cách trị bịnh đều có khác hơn người thường, người thường thì họ tỏ ra mình là Phật Thánh còn với Ngài thì Ngài cũng xưng là Điên Khùng thậm chí còn tỏ ra mình là ngu dại. Lúc tiếp chuyện với mọi người có khi Ngài tỏ ra nửa hư nửa thật, nếu ai chịu khó xét kỹ lại sẽ thấy tài đức, tâm hạnh và trí thông minh của Ngài vượt hơn kẻ tầm thường. Ngài cũng từng thố lộ:
    “Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
    Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.

    NON TẦN: Chỉ cho vùng Bảy Núi theo Sấm Giảng của Đức Phật Thầy Tây An BSKH và Giáo lý PGHH thì vùng Bảy Núi (Thất Sơn) được gọi là Non Tần. Đức Giáo Chủ đã xác định:
    “Ở đây một buổi ghe lui,
    Về trên bảy núi ngùi ngùi thương dân.
    Thầy trò chẳng nại tấm thân,
    Rảo khắp non Tần bận nữa thử coi
    .(SG, Q.1)
    PHẬT NHI: Cũng gọi là Phật tử (Phật nhỏ, Phật chưa thành) hay gọi cách khác là đệ tử con em của Phật.
    CỘI THUNG: Cây thung là một loại cây thân lớn, cao có thể trên 20 mét. Vỏ nức nẻ, màu xám nhạt, lá hình bầu dục, trái có răng ngắn, hoa hợp thành hình tháp, có thể làm thuốc trị bịnh nhuận trường và thanh huyết. Nghĩa bóng: Là cây thung thân lớn cây cao, sống lâu nên ví như người cha cai quản trong gia đình do thành ngữ “Thung cỗi huyên già”. Thung chỉ cho người cha, huyên biểu trưng cho người mẹ. Đức Thầy thường dùng:
    “Gẫm xác trần còn cách cội thung,
    Đâu có được giũ mùng quạt gió”.

    Và:
    “Lo bề cúc dục cội thung,
    Nghe lời thầy dạy việc chung của đời”.

    THẤT SƠN LỘ VẺ ĐÀI LẦU: Theo Cơ Sấm của BSKH và Giáo lý của PGHH, các Ngài cho biết kết cuộc tại vùng Bảy Núi (Thất Sơn) sẽ có đền đài điện ngọc lộ ra do thiên tạo. Đến đó người đời mới thấy rõ sự mầu nhiệm của Tiên Phật:
    “Lầu đài núi Cấm lộ nay mai.
    Thức tỉnh chúng sanh mới tỏ bày”.
    Và: “Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,
    Thì người già hóa trẻ dân ôi !”.

    NHIỆM MẦU: Sự sâu kín mầu diệu trong Đạo Phật.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 235 tới câu 248)
    -Lời Sấm kinh của Đức Thầy là lời của chư Phật Thánh truyền dạy, nó quí báu như vàng ngọc, nên Ngài khuyên môn đồ hãy ghi nhớ vào lòng để thực hành theo vì đời sống dưới thời Pháp thuộc, nên sự độ đời của Ngài có khác hơn các ông Đạo thường tình. Do thế, có lắm người cho là kỳ quái, khó mà tin được. Ngài hằng khuyên mọi người và môn đồ, đã qui y theo Đạo thì đối với hai thời lễ bái phải chuyên cần để sau nầy được xem các lân quốc tranh giành châu báu tại vùng Bảy Núi.
    -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết nhân một đêm trời trong thanh lặng, Ngài tỏ lời khiêm nhượng với ông Châu và môn đồ rõ, Ngài chỉ là một Phật tử như bao nhiêu người khác, nhưng đã quyết nối chí chư Phật dùng lời chân thật khuyến dạy nhân sanh. Vậy ông và mọi người còn phân vân tà chánh nữa chi.
    -Ở đời ít ai theo đạo được chung thủy đến cùng, nhưng khi gặp tai nạn mới chịu hồi tỉnh lòng hung ác của mình. Cho nên Đức Thầy khuyên mỗi người khi tỉnh thức hãy sớm lo tròn nhân đạo. Nhứt là ân Tổ Tiên Cha Mẹ phải làm con cháu phải sớm hôm lo nuôi dưỡng báo đền và hãy bền lòng tu tỉnh, chẳng nên bám víu theo cảnh giả tạm sầu đau nầy nữa.

    CHÁNH VĂN

    (Từ câu 249 tới câu 266)

    249.-“Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,

    Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây.
    Bây giờ nương bóng cờ tây,
    252.-Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.
    Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
    Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn.
    Ta khùng mà chẳng có cơn,
    256.-Cũng không có tánh giận hờn bá gia.
    Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu,
    Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
    Chẳng cần trà, quả, nồng hương,
    260.-Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.
    Nghe kệ sám như ru giấc mộng,
    Lo chê cười hầu họng reo vang.
    Ỷ mình nhiều của giàu sang,
    264.-Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa”.

    CHÚ THÍCH

    BÓNG CỜ TÂY: Bóng cờ tam sắc của người Pháp ở Tây Âu nên gọi cờ Tây. Lúc Đúc Thầy mới khai Đạo (1939) chúng ta sống dưới thời Pháp thuộc.
    ĐÒI CƠN: Lắm khi, lắm lúc, nhiều lần, từ hồi, từ lúc. Truyện Kiều có câu:
    “Nghĩ nhiều cơn lại sục sùi đòi cơn”.
    DẠ NGỌC: Lòng trong trắng quí báu như ngọc ngà. Nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn thanh tịnh của chư vị Phật Tiên. Đức Giáo Chủ từng nói:
    “Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,
    Không nhắc đến biết dâu dân sửa”.(Giác mê, Q.4)
    CHỦNG TỘC: Nòi giống dòng họ mình.
    GIANG SƠN: Sông và núi. Ý chỉ đất nước, dân tộc. Ví dụ: Giang sơn tổ quốc Việt Nam. Đức Thầy có câu:
    “Mao Việt giang sơn bờ cõi vững,
    Đuổi loài Phiên tặc lội về không”.

    (Phỏng đá trả lời)
    ĐƯỜNG CHƠN TU: Nghĩa của chữ Bát Chánh Đạo. Là con đường chơn chánh đúng với chơn lý, có diệu năng đưa được người ra khỏi sanh tử.
    TÔNG TỔ: Ông cha tổ tiên dòng họ của mình.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 249 tới câu 264)
    -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ phải nuôi chí bền lòng để chịu đựng qua thời gian khó khăn dài dặc. Bao nhiêu cơ mầu và giáo lý huyền diệu thâm sâu Ngài đã bày tỏ trong bài giảng nầy. Hiện giờ Ngài phải nương thời Pháp thuộc và tạm mượn thân phàm tục nói hết mọi việc hư nên tốt xấu.
    -Vì lòng quá yêu sanh chúng lâm cơn đồ thán, nên lòng Ngài xót xa nhiều đoạn và lúc nào cũng quyết tâm dốc chí bảo trì giống nòi và giang sơn tổ quốc.
    -Ngài thấy cảnh đau thương tang tóc của chúng sanh; nào là chiến tranh giặc loạn, nào vợ xa chồng, con phải lìa cha như đàn gà chiu chít, thật là cảnh nửa khóc nửa cười. Ngài giác đời chẳng cần nhu cầu hương đăng trà quả, miễn sao mọi người đều biết trở về với con đường đạo đức là quí.
    Vì mãi say mê trong giấc mộng trần gian, bá tánh không màng nghe đến lời Kệ kinh Sấm giảng, mảng lo chế nhạo người tu. Và ỷ mình nhiều tiền lắm của, rồi phụ bạc lời giáo huấn của ông cha mình từ trước.

    CHÁNH VĂN

    265.-“Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,
    Lấy tâm thần xem xét thể nao ?
    Sấm vang thì lộ bảng vàng,
    268.-Chư nhu thế giới khắp tràng tới thi.
    Chữ thi gần chữ sầu-bi,
    Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi.
    271.-Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
    Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.
    Ham vui quyền quí dại ngu,
    274.-Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.
    Ta nào có nói thêm cho chúng,
    Quá yêu đời viết túng ít câu.
    Ít câu mà ý nhiệm sâu,
    278.-Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan.
    Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
    Việc tu hành đâu tốn tiền chi.
    Nầy nầy lời lẽ rán ghi,
    282.-Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây”.

    CHÚ THÍCH
    TÂM THẦN: Phần khôn biết của con người, gồm có tâm và trí. Tâm chủ trì, tâm là chủ thể quyết định. Thần là trí quán xét sáng suốt, biết rõ không lầm. Đức Thầy bảo:
    Lấy tâm thần làm chủ mới mầu.(Giác Mê, Q.4)
    Và:
    Lấy tâm lấy trí xét soi.(Dặn dò bổn đạo)
    THẾ NAO: Thế nào, việc ấy ra sao ?
    BẢNG VÀNG: Tấm bảng ghi tên những người đến thi và biết đậu rớt:
    “Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
    Trên đài cao gọi các linh hồn
    .(Nang thơ C/tú)
    CHƯ NHU: Chư là nhiều, nhu là Nho. Chư nhu là chỉ cho một số thí sinh hay học trò đến trường thi cử.
    SẦU BI: Buồn rầu áo não. Bởi có đi thi tất có đậu rớt, may được đậu tất vui mừng, người bị rớt thì đau khổ.
    LY KỲ MÁU RƠI: Cảnh chiến tranh giặc loạn làm cho người chết máu chảy thịt rơi rất lạ lùng. Cảnh ấy Đức Giáo Chủ đã diễn tả:
    “Tình riêng tham báu,
    Đổ máu tuôn rơi.
    Khùng mới nói chơi,
    Chư bang hàng phục”.

    (Hố Hò Khoan)
    CỦA BÁU: Vàng bạc và ngọc ngà châu báu.
    QUYỀN QUÍ: Chức tước và quyền quí cao sang.
    MÙ ĐI ĐÊM: Đã mù mà lại bị mù thêm. Nghĩa bóng là chỉ những người từ trước tới giờ chưa gặp nền đạo chánh mà theo, giờ đây được may mắn gặp Đức Thầy khai Đạo mà họ vẫn chưa tỉnh ngộ, lại khinh chê là khác nên gọi là mù đi đêm. Đức Thầy có câu:
    Buồn cho lê thứ hết mù tới đui.(Sấm Giảng, Q.1)
    VIẾT TÚNG: Đây là lời khiêm nhượng của Đức Thầy. Tuy Ngài đã bác lãm văn chương giáo lý, nhưng lúc nào Ngài cũng tỏ mình còn nghèo văn chương chữ nghĩa lắm. Hôm nay vì lòng từ bi mà Ngài viết ít lời vậy thôi.
    Ý NHIỆM SÂU: Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác Sấm Giảng, tuy Ngài dùng văn chương bình dân, giản dị nhưng lý nghĩa rất thâm sâu mầu diệu, như Ngài đã nhiều lần lưu ý tín đồ:
    “Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
    Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy”.

    (Giác Mê Tâm kệ, Q.4)
    LẦM THAN: Cơ cực, khổ sở. Ví dụ: Dân ở đây đời sống rất cơ cực lầm than.
    VIỆC GÌ TRÊN MÂY: (Xem từ VGTM trong STTĐ, trang 274, cột 1, Q.2).

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 265 tới câu 282)
    -Đức Giáo Chủ PGHH mới khai Đạo có nhiều người kính tin, nhưng cũng có lắm kẻ không ưa, chỉ trích, nhưng Ngài không màng kể, còn khuyên mọi người hãy dùng tâm trí mình mà nhận xét coi thế nào. Và Ngài nói rõ chừng nào điện ngọc lầu đài tại Núi Cấm hiện ra thì chư nhu khắp bốn phương đều đến tranh giành thi cử.
    -Hễ có thi tất có kẻ đậu người rớt. Đậu thì vui mừng, bằng rớt thì sầu bi đau khổ, bởi đây là cuộc chọn lọc hiền còn dữ mất. Đến đó những kẻ không lo tu hành hiền đức dù có than trời trách đất cũng vô hiệu, vì họ từ trước không gieo nhân lành thì giờ đây đâu có quả thiện để hưởng.
    -Còn những kẻ mãi chạy theo danh vọng, cao sang quyền tước, rồi làm điều xấu xa tội ác, chẳng chịu hối cải thì ngày kết cuộc như người mù mà lại đi đêm (đã tối lại càng tối thêm). Đức Thầy vì quá yêu sanh chúng nên đem giáo pháp chơn chánh hiền từ giáo hóa khắp nơi, tuy Ngài thường thốt lời khiêm nhượng, nhưng trong đây hàm súc rất nhiều ý nghĩa cao sâu, mầu diệu. Vậy ai là người trí hãy để tâm suy xét.
    -Ngài còn cho biết từ đây bá tánh khắp hoàn cầu phải chịu lầm than đói khổ, để khuyên mọi người, mọi nơi đều sớm tỉnh ngộ tu thân hành thiện. Việc tu hành chẳng những không tốn tiền bạc mà sau nầy còn được xem các điều kỳ diệu diễn ra trên nền trời:
    “Ôi ! Khổ thảm bốn bề sóng dậy,
    Dòm lưng trời lửa cháy liên miên.
    Tiêu điều sản vật điền viên,
    Thần thông biến hóa dưới miền trung ương”
    (Đến làng Nhơn Nghĩa)

    CHÁNH VĂN

    283.-“Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
    Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.
    Ai là đáng bực tu-mi,
    286.-Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.
    Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,
    Nên phải làm kẻ mến người khinh.
    Người hiền tâm trí thông-minh,
    290.-Người hung cứ mãi chống kình với ta.
    Theo học cổ nôm-na ít tiếng,
    Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.
    Chữ nhu ta học âm thầm,
    294.-Ai là người trí rán tầm cho ra.
    Để đến luc phong-ba biến-chuyển,
    Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.
    Mới là sợ chết ước-mong,
    298.-Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian”.

    CHÚ THÍCH
    LẼ NI: Lẽ nầy, việc đó, lẽ vừa qua.
    TU MI: Râu mày, chỉ cho hàng nam tử. Ví dụ: Bực tu mi nam tử hay làm được việc lớn.
    HỌC CỔ: Cũng gọi là học xưa, nền học cũ của Thánh Hiền dạy, chú trọng về luân thường đạo lý xử sự cho tròn đạo làm người. Nam có Tam cang, ngũ thường. Nữ có Tam tùng Tứ đức. Đức Thầy từng dạy:
    “Theo tài học cũ nôm na,
    Hỡi ai trí thức tầm mà cạn sâu”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    Hay là:
    “Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam cang trung trực người rằng ngu si”.

    (Để chơn đất Bắc)
    XAO XUYẾN NHƠN TÂM: Náo động lòng người.
    CHỮ NHU: Cũng gọi là chữ Nho. Gồm cả chữ Tàu của Trung Quốc và chữ Nôm của Việt Nam.
    PHONG BA: (Xem chữ PB trong STTĐ, trang 319, cột 2, Q.2)

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 283 đến câu 298)
    Bởi người Pháp dùng chánh sách gắt gao đối với các tôn giáo Việt Nam, nên Đức Thầy xưng hiệu là Điên Khùng và giả vờ nửa hư nửa thực để đánh lạc hướng họ. Vậy ai là người tu mi nam tử sớm lo đọc học Kinh Giảng của Ngài, vì Ngài quá thương xót chúng sanh mới viết ra.
    -Lại thêm cơ trời vận chuyển lúc nầy chưa thuận tiện nên Ngài phải ẩn nhẫn để đợi cơ may phúc tốt đưa đến. Do đó mà công cuộc dạy đời của Ngài phải có kẻ khinh người mến. Song chỉ có những kẻ hung dữ mới chống kình với Ngài. Còn người có tâm trí sáng suốt thì lúc nào cũng lo tìm học, tu sửa theo Kệ kinh.
    -Ngài đem học thuyết đạo đức của ông cha từ xưa khuyến dạy nhân sanh, làm cho mọi người phải ngạc nhiên vì họ thấy lúc bình thường không thấy Đức Thầy có học Nho Giáo hay nghiên cứu kinh văn Phạn ngữ, mà nay Ngài họa đáp các thể thơ đủ loại đều thông suốt. Theo Ngài cho biết đó là Ngài đã âm thầm tu học từ nhiều kiếp trước.
    -Ngài cũng tiên tri cho dân chúng hiểu, nếu ai không sớm hồi tỉnh, chừng cuối đời Hạ Nguơn sẽ có cuộc biến chuyển lập lại Thượng Nguơn, đến đó sẽ có những cuộc chiến tranh lụt lội “Thương hải Tang điền”, những kẻ hung dữ dù có hối cải lo tu cũng không kịp.

    CHÁNH VĂN

    299.-“Tiếng đờn hò liếu cống-xang,
    Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.
    Chốn Phật-cảnh vắng tanh khách tới,
    Ta ra đời nên mới đổi thay.
    Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,
    304.-Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.
    Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
    Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.
    Khắp cùng làng xóm hương thôn,
    308.-Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.
    Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
    Mong cho người hữu chí làm theo.
    Không làm thì ắt mang eo,
    312.-Làm xong vượt khỏi qua đèo chông gai”.

    (H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão 1939).

    CHÚ THÍCH
    TIẾNG ĐỜN: Cũng gọi tiếng đàn. Hò liếu cống xang là những phiếm bực trong phiếm đờn. Nghĩa bóng chỉ cho lời Sấm Giảng của Đức Thầy. Ngài viết có đủ nhạc điệu nhặt khoan trầm bổng, người nghe dễ rung cảm . Đức Thầy từng thốt:
    “Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn.
    Cho người lành dạ ái bắt nôn,
    Cúi đầu trước qui y Phật pháp”.

    (Nang thơ Cẩm tú)
    PHẬT CẢNH: Cũng gọi là cảnh Phật. Có hai nghĩa: Hiểu rộng là cảnh Tây phương Cực lạc, của Đức Phật A Di Đà. Hiểu hẹp là mỗi nhà của tín đồ đều có cảnh Phật, tức là ngôi Tam Bảo:
    “Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh”.(Thiên lý Ca)
    NƯỚC ĐỔ LÁ MÔN: Lá môn không bao giờ dính nước, nên đổ bao nhiêu nước nó cũng chảy trớt hết. Nghĩa bóng là chỉ cho lời khuyên dạy của Đức Thầy đã nhiếu lần mà người ta chưa chịu nghe.
    RẠNG LÝ: Sáng tỏ chơn lý của đạo hay đạt được đạo quả.
    ĐÈO CHÔNG GAI: Đèo là con đường leo qua núi, rất khó đi, lại gặp nhiều chông gai cản trở.
    Nghĩa bóng là chỉ cho đường tu rất khó khăn trở ngại; tuy nhiên, nếu hành giả vẹn giữ cái Đạo, tất sẽ vượt qua một cách dễ dàng.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 299 đến câu 312)
    -Lời khuyên nhủ của Đức Thầy êm ả như bản đờn, thế mà ít người thức tỉnh qui đầu Phật pháp. Bởi từ trước có số người tu Phật sai lạc chơn lý, khiến lòng người giảm lòng tin đối với Đạo Phật trước sau như một. Song vì muốn hạp cơ duyên của mỗi chúng sanh và hoàn cảnh xã hội hiện đại mà Đức Giáo Chủ PGHH có thay đổi đôi phần về nghi thức và phương tiện hành đạo.
    -Cổ ngữ hằng bảo: “Lời thật mất lòng”“thẳng nét mực tàu tất phải đau lòng gỗ”. Thật vậy Đức Giáo Chủ đã làm cuộc cách mạng trong Đạo Phật, từ lối tu hữu vi, lìa đời yếm thế, đổi ra vô vi nhập thế, thi hành Bồ Tát hạnh; tất nhiên phải có số người ghét ghen đố kỵ.
    -Ngài cũng buồn lòng khi thấy số đông dân chúng chẳng quan tâm suy xét lời cảnh giác của Ngài để lo cải sửa, họ xem tiếng khuyên ấy như nước đổ lá môn; dù vậy, nhưng lòng từ bi của Ngài vẫn khuyên hoài khuyên mãi.
    Đoạn kết của bài Thiên Lý ca, Đức Thầy cũng nói rõ cho ông Châu và hầu hết môn đồ được biết lời trần tình của Ngài là quyết làm sao cho ngọn đèn chơn lý của Đạo Phật được tỏ rạng khắp nơi, để mỗi hành giả đều thấu đạt. nếu ai không tin và chẳng làm theo ắt khó tránh khỏi tai nạn hiểm nghèo sắp đến; bằng ai thi hành theo ắt đặng vượt qua các chặng đường chông gai hiểm trở và sớm được trở về với quê xưa cảnh cũ của mình:
    “Cảnh Niết bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần
    ”.(Giác Mê, Q.4)

    BÀI 7.- LUẬN VIỆC TU HÀNH

    XUẤT XỨ
    Khoảng đầu mùa Thu năm Kỷ Mão (1939) Đức Giáo Chủ sáng tác bốn bài thi bát cú Đường luật. Ngài không ghi ngày giờ và tựa bài chỉ biết Ngài viết sau bài “Thiên lý ca” và trước bài “Tam hùng trổ mặt”. Sau nầy, ban sưu tập căn cứ vào ý nghĩa của bài mà tạm đặt cho tựa đề là “Luận Việc Tu Hành”.

    VĂN THỂ

    Đây là một bài vận văn, thể bát cú Đường luật, loại văn Nghị luận và thuyết giáo. Khởi đầu bằng câu:
    “Tu hành dương thế cậy đồng tiền,”
    Và chấm dứt bởi câu:
    “Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên”.

    NỘI DUNG

    Hiện tình trong thế gian, người thiệt tu thì ít kẻ giả đạo lại nhiều. Xưa nay có số tu hành vì ham tiền bạc danh vị mà làm cho nền đạo phải đảo điên xáo trộn.
    Đức Giáo Chủ cho biết: Thuyền từ bi và bát nhã chỉ đưa rước người chơn tu chớ chẳng bao giờ chở kẻ giả tu được, vì kẻ giả tu đã nhận sai chơn lý và luôn gây tạo nghiệp ác.
    Thấy thế, khiến cho các bậc chơn tu thêm buồn chán, nhưng vì lòng từ bi, quá thương xót nhân sanh, nên các Ngài cũng cảm kính mà tìm phương cứu độ.

    CHỦ ĐÍCH

    Đức Giáo Chủ cảnh tỉnh những người tu giả dối ấy và khuyên tất cả nên thật tâm noi gương Đức Thích Ca và chư Phật Thánh lo tu hành chân chánh, đúng chân lý của Đạo Phật để sau nầy được trở về với ngôi vị Phật Tiên.

    CHÁNH VĂN
    (Bài I)

    1.-
    “Tu hành dương-thế cậy đồng tiền,
    Phật-giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng.
    Bát-nhã chẳng đưa người tội ác,
    4.- Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên.
    Trần-gian đầy-dẫy người làm dối,
    Đạo cả nào trông đến cảnh thiền.
    Đoái thấy người đời lòng bắt chán,
    8.- Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền”.

    LƯỢC GIẢI

    Bài “Luận việc Tu hành I” được phân làm bốn đoạn. Qua hai câu mở đề (1 và 2) Đức Giáo Chủ cho biết trong hiện tình có số người tu chỉ nặng vì tiền bạc hơn là lo tu thân hành đạo; khiến cho nền đạo Phật bị lu mờ, xuống dốc, tín đồ giảm lòng tin, người đời biếm nhẻ.
    “Tu hành dương thế cậy đồng tiền,
    Phật giáo vì tiền phải ngửa nghiêng”.

    -Đến hai câu trạng (3 và 4), chư Phật lúc nào cũng đầy lòng từ bi, bác ái, quyết dùng thuyền từ bi và trí huệ cứu vớt chúng sanh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Song vì luật công bằng bình đẳng của đạo Phật mà thuyền từ và bát nhã ấy chỉ đưa rước những người thật tâm tu niệm chớ không thể nào rước những người giả tu hay còn gây tội ác cho được:
    “Bát nhã chẳng đưa người tội ác,
    Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”.

    -Đến cặp luận (5 và 6) Ngài bảo hiện tình trong cảnh trần biết bao người hành đạo giả dối, tu đã sai lạc chơn lý thì làm sao đạt được cái lý sắc không của đạo.
    “Trần gian đầy dẫy người gian dối,
    Đạo cả nào trông đến cảnh thiền”.

    -Hai câu kết (7 và 8) bởi nhận biết số người tu sai lạc như vậy nên lòng các bậc cứu đời bắt chán ngán, nhưng vì tâm từ bi các Ngài lúc nào cũng thương cảm họ, bởi lòng còn quá mê nên phải lầm lũi mãi trong sáu đường luân hồi sanh tử.
    “Đoái thấy người đời lòng bắt chán,
    Dương trần lầm lạc đáng ưu phiền”.


    CHÚ THÍCH
    TU HÀNH: (Xem CT STTĐ, trang 399, Q.2)
    DƯƠNG THẾ: (Xem STTĐ, trang 106, Q.1, cột 1)
    PHẬT GIÁO: (Xem CT STTĐ, trang 311, cột 2)
    BÁT NHÃ: (Xem CT bài Thiên lý ca vừa giải).
    THUYỀN TỪ: Thuyền từ bi của chư Phật. Bởi lòng từ bi của Phật có diệu năng đưa chúng sanh sang bờ giác, cũng như thuyền Bát nhã. Đức Thầy từng nói:
    “Thuyền từ bi thẳng cánh lướt sang,
    Qua đông độ vớt người hữu đức”.

    (Diệu pháp Quang minh)
    TÂY THIÊN: (Xem chữ TT trong STTĐ, trang 434, Q.1, cột 2).
    ĐẠO CẢ: Đạo rộng lớn, cũng gọi là đạo Phật, hay chánh đạo.
    CỬA THIỀN: Cửa đạo, ý nói những người tu đã đạt được đạo, hoặc đắc đạo:
    “Ấy mới vừa đắc đạo hoàn toàn,
    Và lần bước phô trương độ chúng”.

    (Khuyến Thiện, Q.5)


     
    Sửa lần cuối: 28/1/15
  8. Buile

    Buile Member

    CHÁNH VĂN (Bài II)

    9.-
    “Muốn đặng về Thần với Thánh-Tiên,
    Kỹ xem cõi thế thấy kia liền.
    Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
    12.- Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền.
    Phú quí tạo đời thêm mệt xác
    Tham danh phế đạo chí đâu yên.
    Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh,
    16.- Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 9 tới câu 16)
    Bài “Luận việc tu hành II” cũng chia làm 4 đoạn. Quan hai câu mở đề (1 và 2) nhận thấy Đức Giáo Chủ cho biết người đời muốn hiểu rõ ai là bực Phật Tiên hay Thần Thánh. Hãy xem kỹ người sống trong cõi đời là hiểu ngay.
    “Muốn đặng về Thần với Thánh Tiên,
    Kỹ xem cõi thế thấy kia liền”.

    Đến cặp trạng (3 và 4) thấy rằng nếu người sống giữa cõi trần mà không bị cõi trần trói buộc, sai khiến làm ô nhiễm, đó là bậc Thánh, cũng như người sống giữa cõi tục mà không bị các điều tục lụy làm mê nhiễm, chính người đó là bậc đại Hiền.
    “Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
    Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền”.

    -Đến cặp luận (5 và 6) Ngài bảo rằng những cuộc giàu sang vinh hiển hay danh vị bạc tiền dầu ta cố tình gây tạo, cũng chẳng ích chi lại làm lao thân mệt trí thêm. Bởi nó là vật hữu hình tạm giả không hưởng thụ lâu dài được:
    “Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
    Tham danh phế đạo chí đâu yên”.

    -Tới hai câu kết (7 và 8) đại ý Ngài dạy: chi bằng ta nương theo cửa Phật (cửa không) tu hành giải thoát nghiệp trần mê, luân hồi sanh tử, hầu tiến tới Niết Bàn, Cực lạc. Chính đó mới là nơi an vui tịch tịnh, vĩnh cửu trường tồn:
    “Sao bằng cửa Phật vui thanh tịnh,
    Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên”.


    CHÚ THÍCH

    THẦN: Bậc khác hơn người thế tục, lượng xét không cùng tột, linh diệu oai mãnh, thông suốt không bị chướng ngại. Là bậc bá tánh thường tôn trọng kính thờ. Hiền thần có 4 bực: Phật thần, tiên thần, thánh thần, quỉ thần. Song chữ Thần ở đây là chỉ cho bực Phật thần, tức là bậc tu hành đã siêu thoát sanh tử, chứng được lục thông trở lên. Đức Thầy có câu:
    “Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,
    Tánh hiển tai thần lóng bốn phang”.

    (Tỉnh bạn trần gian)
    PHẬT TIÊN: Bậc tu hành đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát sanh tử, tiêu diêu tự tại. Vì chữ Tiên ở đây đứng chung với chữ Phật, nên không thể hiểu như chữ Tiên Thần còn luân hồi trong tam giới. Đức Giáo Chủ từng viết: “Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian”. Và:
    “Phật Tiên vận chuyển lọc lừa,
    Kiếm con hữu phước mà đưa trở về”.

    (Đến làng Nhơn Nghĩa)
    CÕI THẾ: Cõi đời chúng ta đang sống.
    CƯ TRẦN: Ở trong cõi trần gian.
    BẤT NHIỄM: Chẳng còn ô nhiễm mọi vật chất trong cõi trần, như: tửu, sắc, tài, khí và danh, lợi, tình v.v.. Đức Thầy từng bảo:
    “Rứt trần bất nhiễm mới là yên”.
    (Tỉnh bạn trần gian)
    NGƯỜI THÁNH: Bực đã siêu phàm thoát tục, hoàn toàn giác ngộ như Phật Thánh. Thơ ông Bán Chiếu tặng Đức Thầy có câu:
    “Đại Thánh là Phật Thích Ca,
    Người còn khinh báng huống ta phàm trần”.

    LẪN TỤC ĐỪNG MÊ: Ở chung với người thế tục mà không mê đắm mùi tục lụy trong trần.
    BẬC HIỀN: Bậc đại hiền, ngang hàng với chư Phật, vì đã trong sạch như hoa sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. (Ca dao) Xưa người ta xưng tụng Đức Thích Ca là bậc Đại hiền.
    PHÚ QUÍ: (Xem CT trong STTĐ, trang 1 (?)…).
    THAM DANH: Ham muốn danh vị tước quyền.
    PHẾ ĐẠO: Bỏ đạo, không nương theo nữa.
    CỬA PHẬT: Cửa đạo, nơi đưa người tu đến chỗ giải thoát sanh tử.
    THANH TỊNH: (Xem CT trong STTĐ, Q.1, cột 1).
    NGHIỆP DUYÊN: (Xem CT trong STTĐ, Q.1, cột 1).

    CHÁNH VĂN
    (Bài III)

    17.-
    Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền,
    Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên.
    Bác-ái xả thân tầm đạo chánh,
    20.- Độ người lao khổ dạ không phiền.
    Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền.
    Xem đó hỡi người mau lập chí,
    24.- Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài Luận việc tu hành thứ ba gồm có bốn đoạn. Qua hai câu mở đề (1 và 2) Đức Giáo Chủ khuyên các hành giả hãy lo mình không có đủ đức hạnh, chớ đừng lo thiếu tiền tài. Bởi tiền của là thứ tạm giả tiêu xài thời gian rồi cũng hết, chỉ có đức hạnh mới đưa mình đến chỗ thành công trên bước đạo. Vấn đề nầy xưa nay kinh sách đều có chép biên chỉ dạy:
    “Tiếc gì không đức tiếc chi tiền,
    Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên”.

    -Đến cặp trạng (câu 3 và 4) Ngài cho biết Đức Phật xưa vì đầy lòng bác ái nên xả thân tìm ra chánh đạo cứu rỗi chúng sanh khỏi vòng mê khổ, dù gian lao vất vả Ngài cũng chẳng phiền lòng:
    “Bác ái xả thân tầm đạo chánh,
    Độ người lao khổ dạ không phiền”.

    -Tới cặp luận (5 và 6) Ngài còn dạy thêm: Thái tử Sĩ Đạt Ta khi xưa lên đường xuất gia tầm đạo Ngài sẵn sàng lìa bỏ cung vui, ngôi báu vợ đẹp, con ngoan, để đổi lấy trí huệ siêu mầu ban bố khắp trần thế:
    “Mình vàng Thái tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.

    -Phần 2 câu kết (7 và 8) Ngài khuyên mọi người hãy noi gương Đức Phật sớm lập chí tu hành, và trên đường hành đạo nên rán gìn giữ cho tròn giới hạnh, mới mau kết quả:
    “Xem đó hỡi người mau lập chí,
    Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên”.


    CHÚ THÍCH
    ĐỨC: (Xem chữ Đức Ân hoặc Đức mầu trong STTĐ, trang 132-133).
    PHẬT THÁNH: Đức Phật và Thánh nhân, nhưng chư Phật Thánh ở đây chỉ cho Đức Thích Ca. Vì thời đó người ta xưng tụng Ngài là bậc Đại Thánh:
    “Đại Thánh là Phật Thích Ca”.
    BÁC ÁI: Lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn không ngằn mé. Đức Thầy có câu:
    “Lòng bác ái động tình rơi nước mắt”.
    Hay: “Lòng quảng ái xót thương nhân chủng”.
    XẢ THÂN: Liều bỏ xác thân để đánh đổi cái quí hơn, hoặc dồn hết tâm tư trí não để cứu độ chúng sanh:
    “Xả thân tìm kiếm ma ha,
    Chẳng nài viễn vọng dẹp tà nơi tâm”.

    (Cho ông Tham tá Ngà)
    MÌNH VÀNG THÁI TỬ: Xác thân của con cháu các nhà quí phái được xem quí như vàng ngọc. Đây là chỉ cho Sĩ Đạt Ta.
    VÓC NGỌC ĐÔNG CUNG
    : Con của vua được phong là Đông Cung Thái Tử, để sau nầy nối ngôi. Nhưng Sĩ Đạt Ta vẫn giũ bỏ để ra đi tìm đạo.

    CHÁNH VĂN (Bài IV)

    25.-
    “Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên,
    Rán tu ân đức chớ tu tiền.
    Lợi danh chớp nhoáng như luồng gió,
    28.- Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền.
    Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh,
    Sau nầy về Phật với ngôi Tiên.
    Lập thân giúp thế nên công-quả,
    32.- Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên”.

    H.H. năm Kỷ-Mão.

    LƯỢC GIẢI
    Bài Luận việc Tu hành IV cũng phân làm bốn đoạn. Đoạn thứ nhứt qua hai câu mở đề (1và 2) ý Đức Giáo Chủ dạy các giới tu hành ai muốn sau nầy chứng được Thần Thánh hay Tiên Phật thì hãy thi ân đức cho vạn loại chúng sanh, chớ chẳng nên lợi dụng tiền bạc để sống:
    “Muốn đặng về Thần với Phật Tiên,
    Rán tu ân đức chớ tu tiền”.

    -Đến đoạn hai cặp trạng (câu 3 và 4). Ý dạy rằng dù ta có tạo ra tài lợi và danh vị tước quyền cũng không hưởng đặng lâu dài, bởi kiếp sống của con người quá ngắn ngủi, mới thấy đó rồi mất đó:
    “Lợi danh chớp nhoáng như luồng gió,
    Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền”.

    -Tới hai câu luận (5 và 6) đối với hai câu trên, Đức Giáo Chủ khuyên mọi người sớm giác tỉnh nương theo chánh đạo (Đạo Phật) tu hành để sau nầy chứng đạt ngôi vị Phật Tiên, giải thoát sanh tử luân hồi:
    “Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh,
    Sau nầy về Phật với ngôi Tiên”.

    -Phần hai câu kết (7 và 8) Ngài dạy hành giả đã quyết chí lập thân hành đạo phải có lòng vị tha, giúp thế độ đời. Công quả ấy dù trải qua muôn kiếp sách sử vẫn còn ghi chép.

    CHÚ THÍCH

    ÂN ĐỨC: Cũng gọi là đức ân (Xem Sấm Thi Từ Điển, trang 134, cột 2, tập 1)
    LỢI DANH: (Xem STTĐ, trang 205, Q.1, cột 1).
    ĐẠO CHÁNH: Cũng như chữ chánh đạo hay Đạo Phật. (Xem STTĐ, trang 192, cột 2).
    GIÚP THẾ: Giúp đời, ban bố các phương tiện cho mọi người được hạnh phúc an vui mà lòng bất vụ lợi. Đức Thầy từng khuyên:
    “Lánh thế chẳng bày danh Lão Sĩ,
    Ngày nay các chỗ ngộ cuồng ca”.

    (Cho ông Tham tá Ngà)

    Bài 8.- VIẾNG LÀNG MỸ HỘI ĐÔNG


    XUẤT XỨ

    Vào mùa Xuân năm Canh Thìn (1940) thỉnh thoảng Đức Giáo Chủ có đi viếng thăm và thuyết giảng các xã lân cận. Như vào đêm 22 tháng giêng năm Canh Thìn, Ngài đến viếng làng Mỹ Hội Đông. Hôm ấy, Ngài vừa ứng khẩu thuyết giảng, vừa sáng tác bài giảng nầy tại nhà ông Cả Mười trước mặt các nho gia và đa số thính chúng dự nghe.
    (Theo bản lưu bút của ông Hương thân Ướng, tức là Nguyễn Thanh Tân để lại. Ông Năm Âu người cháu còn lưu giữ, trước hết Đức Thầy có ngâm 4 câu thi:
    Buông mành thả lá cạn dòng châu,
    Áo não tâm can cảnh mộng sầu.
    Môi hở sợ e răng phải lạnh,
    Đáy lòng cạn tỏ máy huyền sâu.


    VĂN THỂ

    Ngài thuyết giảng bằng điệu vận văn, thể lục bát, dài 108 câu, lối thuyết giáo, khởi đầu bằng những câu:
    “Canh niên trổi bước thừa nhàn,
    Để chơn đến viếng xóm làng Hội Đông”.

    Và chấm dứt bởi các câu:
    “Bút nghiên tạm gát đợi thời,
    Chúc cho bá tánh xét đời biết ta”.


    CHỦ ĐÍCH

    Bài giảng nầy có hai câu đặc biệt chứng tỏ rằng những người được kiến diện và qui y thọ giáo với Đức Thầy là đã có gieo sâu duyên lành với Ngài trong nhiều tiền kiếp:
    “Duyên lành rõ được Khùng Điên,
    Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.


    NỘI DUNG

    -Đại ý Ngài cho biết những vật chất tiền tài hay danh vọng tước quyền ở thế gian, chẳng khác nào cành hoa sớm nở chiều tàn, dù có giữ được thời gian rồi cuối mùa cũng tàn rụi, chỉ có con đường Phật Đạo mới đưa ta đến quả vị trường cửu. Vậy mỗi hành giả hãy quay về nội tâm để hành trì cho thấu đạt tâm linh trí tuệ của mình mới quí báu:
    “Thích Ca đạo vị huyền sâu,
    Rạch tim xem được một bầu linh quang”.

    Và chỉ có phương Tịnh độ dạy ta trì niệm Lục tự Di Đà, nếu ai trì niệm đến chỗ nhứt tâm bất loạn, chẳng những được bình an hạnh phúc trong hiện tại mà tương lai còn được Phật hóa tánh tình hay vãng sanh Cực lạc:
    “Biết khôn tìm kiếm ma ha,
    Một câu Lục tự nhà nhà bình an”.


    CHÁNH VĂN

    1.- “Canh niên trổi bước thừa nhàn,
    Để chơn đến viếng xóm làng Hội Đông.
    Về non dạ luống ước mong,
    4.- Cám tình lê thứ tuôn ròng lụy châu”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Vào chiều ngày 22 tháng giên năm Canh Thìn (1940) Đúc Thầy và số người tùy tùng đến viếng làng Mỹ Hội Đông. Hôm ấy Ngài vừa thuyết giảng vừa sáng tác bài giảng nầy và nghỉ đêm tại nhà ông Cả Mười. Một gánh họ được xem là có trí thức và văn nho, đã qui y với Đức Phật Thầy Tây An từ 90 năm về trước.
    (Tu Phật là học theo hạnh Phật, Tu Tiên là nghe theo lời dạy bảo của Lão Trang. Tu Hiền là làm theo hạnh của Khổng Mạnh).
    Trong mấy câu khai đề, Đức Giáo Chủ cho biết: Sau khi chứng Đạo, Ngài trở về miền Tà Lơn và Thất Sơn an nghỉ. Nay vì nhìn thấy dân chúng sắp vươn hồi tai khổ do thế chiến thứ hai gây ra, khiến Ngài động lòng từ bi rơi lệ.

    CHÚ THÍCH

    CANH NIÊN: Tức năm Canh Thìn (1940).
    TRỔI BƯỚC: Đứng dậy và bước đi.
    THỪA NHÀN: Nhân lúc rảnh rang.
    MỸ HỘI ĐÔNG: Làng Mỹ Hội Đông là một xã nằm trọn trên Cù Lao Ông Chưởng giáp mặt với sông Hậu và Nam Ngạn sông Vàm Nao.
    CẢM TÌNH: Cảm xúc và động tình, sự đối đãi với nhau do ngoại cảnh kích thích mà sanh ra tình cảm bên trong.
    LÊ THỨ: Lê là đen, thứ là dân. Cũng có nghĩa như chữ Lê dân (dân đen), chỉ cho tất cả nhân dân.
    LỤY CHÂU: Cũng gọi là lệ châu. Có nghĩa giọt nước mắt rơi xuống, trông nhìn giống như hột châu.

    CHÁNH VĂN

    5.- “Lời thăm cùng khắp đâu đâu,
    Hương thôn bổn đặo lo âu mối giềng.
    Tu là tu Phật, tu Tiên,
    8.- Tu cho rõ biết chữ Hiền ra sao”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 5 đến câu 8)
    Đoạn nầy Đức Giáo Chủ cho biết, Ngài mượn tiếng Kệ Giảng để thăm hỏi chư môn đồng đạo khắp nơi và khuyên mọi người hãy lo tu rèn giềng mối của đạo làm người cho tròn vẹn và thực hành đúng theo lời của Tam Giáo (Phật Thánh Tiên) mà Ngài đã rút tỉa những tinh hoa dạy lại chúng ta.

    CHÚ THÍCH
    HƯƠNG THÔN: Làng xóm, đây chỉ cho các xã ấp chung quanh mình.
    BỔN ĐẠO: Bổn cũng đọc là gốc (bản). Đạo là một nền đạo hay một giáo phái riêng của các bậc Thầy hay Giáo Chủ thường khuyến hóa hay kêu gọi các đệ tử:
    “Khuyên bổn đạo lập thân nuôi chí”.
    Hoặc là: Bổn đạo ơi hãy rán sửa mình”.
    PHẬT TIÊN HIỀN: Ba nền đạo lớn và cũng là 3 bậc Phật Thánh Tiên thành lập 3 nền Đạo lớn ở Á châu chúng ta. Phật là Đức Thích Ca, Tiên là Lão Tử và Trang Tử, Thánh là hiền nhân thánh triết của Khổng Mạnh. Đức Giáo Chủ PGHH rút những tinh ba của ba nền đạo giáo lý Phật Thánh Tiên để giáo huấn môn đồ:
    “Phật Tiên Thánh lòng nhơn hà hải,
    Những ước ao thế giới hoà bình.
    Nên khuyên đời truyền bá sử kinh,
    Cho sanh chúng sửa mình trong sạch”.

    (Giác Mê TK, Q.4)

    CHÁNH VĂN


    9.- “Mùa Xuăn chưa có mưa dào,

    Cũng như đạo hạnh sắc màu chưa thanh.
    Sớm chiều phủi sạch lợi danh,
    12.- Tầm nơi chánh giác cõi thanh đặng về”.


    LƯỢC GIẢI
    -Hai câu 9 và 10 có ý nói thông thường hễ 3 tháng muà Xuân và suốt mùa Xuân thì ít hay có mưa, cây cỏ thiếu nước, nên người ta rất trông có một đám mưa lớn. Đức Giáo Chủ mượn cảnh nầy để so sánh với nền đạo hạnh. Vì Ngài mới khai mở nửa năm, chưa được hanh thông sáng tỏ khắp nơi.
    -Ngài khuyên mọi người đã tu hành thì phải rứt bỏ lợi danh quyền tước để qui về tâm Phật của chính mình, tất sau nầy sẽ đạt đến tâm thanh tịnh như chư Phật.

    CHÚ THÍCH
    MÙA XUÂN: Mỗi năm có 4 mùa; Xuân, Hạ, Thu, Đông; mà mùa Xuân là mùa đứng đầu năm, gồm có 3 tháng: 1, 2, 3 ít khi có mưa đầu mùa. Mưa dào cũng gọi là mưa rào. Có nghĩa mưa lớn mà mau tạnh, nước chưa thắm bao nhiêu, nên người ta rất trông đợi: “Nắng hạn gặp mưa dào”.
    CHƯA THANH: Chưa sáng tỏ lan rộng.
    LỢI DANH: Tài lợi và danh vị tước quyền. Hai điều trong ngũ dục. (Tài, sắc, danh, thực, thùy).
    CHÁNH GIÁC: Nói cho đủ là Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là bậc hoàn toàn giác ngộ. Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Cũng gọi là quả Bồ Đề (Niết bàn).
    CÕI THANH: Cõi thanh tịnh, tinh khiết, nơi Phật Tiên ngự.

    CHÁNH VĂN

    13.- “Hỡi ôi ! Thấy chúng bớt mê,
    Đạo mầu siêu việt tập đề là đây.
    Tinh thần hiệp vén ngút mây,
    16.- Vẹt cho rõ mặt tớ thầy Hạ ngươn.
    Lòng thương bá tánh đòi cơn,
    18.- Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 13 tới câu 18)
    Đức Giáo Chủ ngỏ lời kêu gọi bá tánh bớt mê đắm cõi hồng trần để quay về nẻo Đạo lo tu thân lập hạnh cho mình trở thành Phật Thánh dùng thần trí sáng suốt vẹt phá màn vô minh vọng hoặc hầu thầy tớ được rạng rỡ mặt mày trong thời Hạ nguơn mạt pháp. Vì Ngài quá thương xót chúng sanh nên dùng đủ phương thức tỉnh, dù ai có oán hận căm thù Ngài cũng cam tâm.

    CHÚ THÍCH
    HỠI ÔI: Tiếng than vãn kêu gọi, xem như chữ than ôi !
    “Dân quê nghe nói hỡi ôi !
    Hung đồ cường nghịch một hồi cười reo”.
    (SG, Q.1)
    ĐẠO MẦU: (Xem CT STTĐ trang 117, tập 1, cột 1).
    TẬP ĐỀ: Tập sửa thân tâm mình cho đúng theo qui luật, pháp giới của Đạo, Đức Thầy từng dạy:
    Chữ Tập đề nay đà mở cửa,
    Để đem vào khuôn khổ người hiền
    Rán cực lòng một bước đầu tiên,
    Sau mới được làm nên Phật Thánh”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    TINH THẦN: Thần trí khôn biết của con người có sức mạnh vạn năng, điều khiển cả châu thân dẹp hết cả nội ma ngoại cảnh:
    “Lấy tinh thần chống chỏi quỷ tà”.(Thu đã cuối)
    NGÚT MÂY: Khối mây nằm xa trên nến trời, nhìn dàng dạng như khói hay sương mù có năng lực che khuất mặt trời lúc ban ngày. Nghĩa bóng là chỉ cho màn vô minh hay lòng mê si che khuất tâm trí của mỗi người khiến cho người mê muội không thấu rõ chơn lý. Đức Thầy từng nói:
    “Màng vô minh che mờ căn trí,
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn
    .(KT, Q.5)
    Vì thế Ngài dạy mỗi hành giả phải vẹt phá nó để tâm trí mình được phát khai sáng tỏ.
    HẠ NGUƠN: Nguơn cùng cuối của lý Tam Nguơn trong trời đất. Khởi đầu từ Thượng nguơn thượng, Thượng nguơn trung, Thượng nguơn hạ. Trung nguơn thượng, Trung nguơn trung, Trung nguơn hạ. Hạ nguơn thượng, Hạ nguơn trung, Hạ nguơn hạ. Cứ thế mà xoay vòng mãi.
    ĐÒI CƠN: Từng cơn, từng hồi, nhiều lần, lắm lúc:
    Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn”.(Cổ thi)
    MUA OÁN CHÁT HỜN: Cũng gọi là mua hờn chuốc oán, gây nhiều tội ác, tạo nên oán hận thù hằn với người khác. Ví dụ: Việc mình thì mình làm, góp ý mà làm gì, người ta chẳng hiểu cho, lại mua thù chuốc oán vào thân.

    CHÁNH VĂN

    19.- “Chuông linh giục thúc bên tai,
    Chúc cầu thạnh trị thới lai xóm làng.
    Hiệp nhau một cuộc chi lan,
    22.- Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau.
    Lọc lừa rõ đặng vàng thau,
    24.- Đem thân mua lấy mận đào thiên nhiên”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 19 tới câu 24)
    Đức Giáo Chủ đem giáo pháp của Đức Phật, như tiếng chuông từ Linh Khứu Sơn ngân lên, thúc giục mọi người sớm tỉnh tâm tu niệm. Ngài cũng cầu chúc cho bá tánh nơi nơi được thái bình an lạc và biết thương yêu đoàn kết trên con đường thiện mỹ.
    Luật tạo hóa sẽ chọn lọc rất công minh đâu vàng, đâu thau, chân giả để khuyên mỗi người nên xả thân hành đạo hầu đổi lấy quả vị quí báu của Tiên Phật sau nầy.

    CHÚ THÍCH
    CHUÔNG LINH: Nói cho đủ là Chuông Linh Khứu. Bởi Đức Thầy đem chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca phát xuất từ đền Linh Khứu để giáo hóa chúng sanh:
    “Chuông Linh Khứu ba hồi giục thúc,
    Đờn Lôi Âm khởi điệu êm tai”.

    CHI LAN: Cỏ Chi và cỏ Lan, hai loại cỏ nầy có mùi thơm ngát. Nghĩa bóng là chỉ cho người hiền lương đức hạnh. Người xưa từng nói: Được gần người hiền như được tựa vào cửa chi lan (Thân hiền như tựa chi lan). Lại có câu cỏ chi và cỏ lan là hai loại cỏ đã thơm mà nếu đem hiệp lại càng thơm hơn, nên có ngụ ý chỉ cho anh em bạn tốt, người tốt mà gặp người tốt lại càng tốt thêm.
    LỌC LỪA: Chọn lựa ra coi thứ nào tốt và thứ nào xấu, đâu đó phân minh.
    VÀNG THAU: Vàng là tốt, thau là xấu và giả. Vàng và thau để chung lại thì chưa biết tốt xấu ra sao ? Nhưng nếu ông thợ vàng đem hai thứ lọc ra thì vàng ra vàng, thau ra thau rất dễ hiểu.
    MẬN ĐÀO: Hai loại trái cây có mùi vị chua chua, ngọt ngọt người ta thường thích dùng.
    THIÊN NHIÊN: Định luật tự nhiên trong trời đất, mỗi thứ có bản chất riêng biệt của nó. Nhưng hai từ ngữ mận đào thiên nhiên ghép chung lại là chỉ cho sự tu hành được kết quả tốt đẹp, khác nghĩa với câu: “Ham vui đào mận chẳng xong rồi”.

    CHÁNH VĂN

    25.- “Duyên lành rõ được Khùng Điên,
    Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần.
    Làm sao khỏi chốn mê tân,
    28.- Đào nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng”.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 25 tới câu 28)
    -Đức Giáo Chủ tuy trên con đường giáo hóa nhân sanh, Ngài thường xưng hiệu là Điên và Khùng, nhưng người nào biết được Ngài là bậc minh sư để qui y là đã có duyên lành với Ngài trong nhiều tiền kiếp. Vậy hiện giờ hãy rán tu thêm cho vượt khỏi bờ mê để sang bến giác hầu thụ hưởng cảnh muôn ngàn quí báu của Phật Tiên.

    CHÚ THÍCH

    KHÙNG ĐIÊN: Đức Giáo Chủ PGHH ra đời tuy có tục danh là Huỳnh Phú Sổ nhưng trên đường giáo hóa, Ngài còn có nhiều biệt hiệu như Hoàng Anh, Hồng Vân Cư Sĩ và Sĩ Cuồng; cũng có khi Ngài ký tên là Hòa Hảo. Ngoài ra, Ngài còn xưng hiệu là Khùng và Điên, như trong bài “Diệu Pháp Quang Minh” chính Ngài đề danh bút hiệu “Khùng Điên tự cảm tác”. Các chỗ khác thì Ngài tự xưng:
    “Ta Khùng Điên nói đại nói càng”.
    Và: “Thầy Khùng trò lại quá Điên,
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.

    Ngài còn thố lộ nơi cư trú hành đạo của Ngài trong tiền kiếp:
    “Khùng thời quê ngụ núi Sam,
    Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy,
    Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
    Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên”.

    Hoặc là:
    “Bồng lai Điên dại có ngôi,
    Tây phương Cực lạc Khùng ngồi tòa sen”.

    Sở dĩ Ngài đề bút hiệu Điên KHùng là có hai lý do đặc biệt:
    1/- Vì muốn đánh lạc hướng người Pháp, để họ thấy Ngài là một ông Đạo: Điên điên, Khùng khùng, có tánh cách nửa hư nửa thật, chữa bịnh hơi giống các phù thủy, nên lúc đầu Pháp coi thường Ngài, để Ngài yên tâm sáng tác Sấm Giảng hoàn thành công tác khai Đạo.
    2/- Vì muốn đối nghịch lại với những người ra đời hay xưng mình là khôn lanh, nhưng cái khôn lanh ấy chỉ để lừa dân thủ lợi. Còn Ngài Điên mà biết thương dân mến nước, biết đem đạo mầu cứu vớt sanh linh. Và:
    “Khùng huyền cơ Khùng Đạo Thích Ca”.
    ĐÀO NGUYÊN: Có nghĩa nguồn đào. Đây là một thành ngữ xuất phát từ điển tích “Ngư phủ nhập đào nguyên”.
    Ngày xưa ở Bắc phần Việt Nam có ông Từ Thức làm quan huyện Tiên Du. Hôm nọ, ông đến vườn Thượng uyển của vua để xem hoa mẫu đơn, bỗng gặp một cô gái rất đẹp đang bị trói dắt đi. Ông hỏi ra mới biết cô gái ấy tên Giáng Hương, cũng đến xem hoa nhưng khi sờ đến cành Mẫu Đơn lại rụng đi nên phải tội. Nghe qua, Từ Thức động lòng từ ái liền đem áo quí của mình xin chuộc tôi cho Giáng Hương, nàng tạ ơn Từ Thức rồi đi mất.
    Thời gian sau, ông từ quan về ẩn sĩ hưởng thú tiêu dao, thường ngao du các danh lam thắng cảnh. Một hôm ông xuống thuyền nhỏ giả làm ngư ông chèo lần theo mé sông, cứ thong dong chèo mãi không muốn quay lại. Bữa nọ con thuyền đang tiến hành theo mé núi, ông thấy phong cảnh lịch xinh, có cái hang vừa rộng vừa ăn sâu vào núi, ông theo hang ấy chèo mãi tới một nơi gọi là Động Bích Đào, Điện Huỳnh Hư, tình cờ ông gặp lại nàng Giáng Hương, vì nhớ nghĩa xưa nên nàng kết duyên với Từ Thức, hai người sống cuộc đời an nhàn vui đẹp rất lâu nơi cõi Tiên ấy.
    Nguyên Giáng Hương là một Tiên nữ, nên tới ngày lệ hằng năm phải về chầu Diêu Trì Kim Mẫu. Kỳ nầy nàng căn dặn Từ Thức: Chàng hãy yên lòng ở lại đây, thiếp về chầu Thánh Mẫu xong sẽ trở lại ngay, có điều quan trọng là chàng không nên mở cửa sau mà ngó ra biển, nguy hại lắm !
    Vắng Giáng Hương, Từ Thức buồn bực quá, đi dạo khắp nơi cũng chưa khuây khỏa, chàng cãi lời dặn dò của vợ, mở đại cửa sau nhìn ra biển. Từ Thức thấy biển rộng mênh mông, sóng bủa muôn trùng, bên kia bờ dàng dạng quê hương mình, liền đâm ra nhớ nhà da diết.
    Khi Giáng Hương đi chầu về, Từ Thức xin từ giã nàng để về thăm quê hương. Nàng khuyên giải và cho biết, nếu chàng cãi ra về, khi muốn trở lại ắt khó tìm gặp lại thiếp nữa; song Từ Thức nằng nặc quyết định, Giáng hương đành gạt lệ tiễn chàng ra đi !
    Từ Thức theo đường cũ trở về xứ nhà, nhìn cảnh vật có phần đổi lạ, tìm gặp một cụ lão trên 70 tuổi hỏi thăm về nhà cửa và bà con của mình ?
    Cụ lão đứng hồi tưởng một lúc rồi đáp:
    -Thuở nhỏ, tôi còn nghe ông bà kể lại, trước kia tôi có ông tổ cách đây bảy đời tên là Từ Thức. Sau khi từ quan ông xuống thuyền đi mất không về, thời gian nghe đâu ông đã thành Tiên.
    Nghe ông lão kể Từ Thức đứng suy nghĩ: Mình đi mới có mấy năm mà đã trải qua bảy đời con cháu, thật kiếp sống cõi hồng trần quá ngắn ngủi. Ông bèn xuống thuyền chèo trở lại Động Bích Đào, nhưng tìm mãi cũng không gặp, đành vào núi tu hành.
    Sau đó tại trái núi tỉnh Thanh Hóa có một cái động, người ta thường gọi là Động Từ Thức. Người sau khi nhắc đến chuyện trên có viết lên hai câu hát để tiếc uổng dùm cho ông:
    “Trách chàng Từ Thức vụng suy,
    Đã lên cõi thọ về chi cõi trần”.

    Câu chuyện vừa qua có ngụ ý chỉ cho người tu mà lòng còn vọng nhiễm trần mê, quyến luyến cảnh tục tò mò muốn tìm cảnh lạ. Từ mở cửa sau nhìn về biển hồng trần nhớ đến quê hương tức chỉ cho sáu căn còn ô nhiễm sáu trần rồi phải huờn tục, bít đường lên tiên cảnh.
    Qua điển tích “Đào Nguyên Vạn Lượng” và hai câu giảng của Đức Thầy. Ngài có ý cảnh tỉnh mọi người bến mê là cõi trần tục, đầy sự khổ đau ràng buộc. Còn cảnh thanh nhàn siêu thoát của Tiên Phật vô cùng quí báu, thật ngàn vàng khó sánh (đào nguyên vạn lượng). Song ai muốn thụ hưởng cảnh đó hãy sớm thức tỉnh tu hành dứt lòng trần tục.

    CHÁNH VĂN

    29.- “Thánh nhơn ghi sách trung dung,
    Hiền nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay.
    Hội thanh hiệp mặt vui vầy,
    32.- Gắng công cố chí lòng nầy chẳng phai.
    Vinh hoa dường thể cúc mai,
    Cuối mùa tàn rụi lâu dài đặng đâu.
    Thích Ca đạo vị huyền sâu,
    35.- Rạch tim xem được một bầu linh quang”.

    LƯỢC GIẢI
    Lời dạy của Đức Thánh đã ghi rõ trong sách Đại Học Trung Dung, nếu ai biết thức tỉnh tu thân hành đạo, không thái quá hay bất cập, cứ bước thường theo đạo Trung Dung và giữ tròn hiếu trung ngay thảo, bền chí không phai lợt. Tất đến ngày Phật Tiên lập hội sẽ được sum vầy.
    -Còn những vật chất vinh hoa phú quí chẳng khác nào các loại hoa cúc, hoa mai, phải tàn cỗi theo thời gian định luật vô thường. Chỉ có giáo pháp của Đức Phật cao sâu mầu diệu, nhà tu cần quy về tâm trí để xét xem tu sửa mới thành đạt mục đích minh tâm kiến tánh.

    CHÚ THÍCH
    THÁNH NHƠN: Người thánh. Bậc được người đời xưng là Thánh triết hay Thánh hiền. Đây chỉ cho Đức Khổng Tử và Mạnh Tử. Hai ông đã khai mở nền Đạo Thánh (Nho giáo) từ thời Chiến quốc đến nay.
    SÁCH TRUNG DUNG: Đọc cho đủ là “Đại học Trung Dung””. Một trong Tứ Thơ của Đạo Thánh, chủ đích ở câu: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Có nghĩa là Bậc đại học của Nho giáo là tu sửa làm sao cho cái đức mình được sáng và dân được mới (tiến bộ) để đạt đến chỗ trọn lành của bậc Quân tử.
    HỘI THANH: Hội của Tiên Phật lập ra rất trong sạch cao khiết, người được dự hội nầy phải trong sạch, lòng không còn trược nhơ tội ác.
    CỐ CHÍ: Bền chí và gắng sức tu hành.
    CHẲNG PHAI: Chẳng xao lãng lơ là hay thay lòng đổi dạ.
    VINH HOA: Sự giàu sang vinh hiển
    CÚC MAI: Hai loại hoa thường hay trổ vào mùa Xuân và mùa Thu, hoa đẹp và thơm nhưng khi hết mùa rồi cũng tàn rụi.
    THÍCH CA: (Xem CT trong STTĐ trang 439 cột 1, tập 1).
    ĐẠO VỊ: Mùi vị của Đạo rất sâu kín thâm trầm thơm diệu, khó tả. Đức Thầy có câu:“Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh”. Hoặc: “Đạo mầu thâm diệu nan tri Lão bày”.
    HUYỀN SÂU: Sâu kín mầu diệu.
    RẠCH TIM: Rạch cũng viết là vạch; tim là tâm. Đức Thầy từng dạy người tu Phật phải tìm kiếm xét nghiệm nơi tâm mình. Bởi ngoài tâm không có Phật:
    “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”.
    Hoặc:
    “Phật tại tâm chớ có đâu xa,
    Mà tìm kiếm ở trên non núi”.
    (Kệ Dân, Q.2)
    LINH QUANG: Sự sáng suốt tròn đầy nơi tâm linh tự tánh của chính mình:
    “Tới đây cũng dứt giảng kinh,
    Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu”.
    (SG, Q.3)

    CHÁNH VĂN

    37.- “Mảng còn tư lự tình tang,
    Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dân.
    Hóa công chí thiện cầm cân,
    40.- Công bình thưởng phạt thứ dân nào tường.
    Sum vầy chiếc nhạn sâm thương,
    Nho văn cảm kính hiền lương của người.
    Se sua nói nói cười cười,
    44.- Cao sâu lý diệu vàng mười khó mua”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 37 tới câu 44)
    Thuyền từ bi của Đức Thầy đưa người khỏi sông mê bể khổ đến cảnh thanh nhàn an lạc. Thuyền ấy nay đã cặp bến. Thế mà chúng dân chẳng rõ cứ say mê cõi đời khổ đau tạm giả, mãi chạy theo quyền lợi riêng tư, chần chờ do dự.
    Luật thưởng phạt của tạo công rất công bình chí thiện. Từ trước tớ thầy xa cách như hai ngôi sao Sâm và Thương nay đã sum hiệp là điều quí báu vô vàn. Điều khó gặp mà nay được gặp.

    CHÚ THÍCH
    MẢNG: Nghĩa như chữ Mãi, mê mang, say đắm:
    “Mảng mê danh lợi đạo lu bù,
    Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu”.

    TƯ LỰ: Lo lắng riêng tư.
    TÌNH TANG: Tiếng của bản đờn (tình tang), đây chỉ cho sự chần chờ chậm lục, không sốt sắng tinh tấn.
    HÓA CÔNG: Đấng (luật) tạo hóa thưởng phạt rất công minh sáng suốt, không thiên vị một ai và một mảy long cũng không lọt.
    THỨ DÂN: Nghĩa như chữ lê dân, chỉ cho tất cả dân chúng.
    NÀO TƯỜNG: Không rõ biết, không thấu đáo tường tận.
    SUM VẦY: Nghĩa của chữ sum hiệp. Ý nói từ trước bị cách xa, bây giờ được gặp gỡ lại.
    SÂM THƯƠNG: Sao Sâm và sao Thương. Sao hôm tối mọc về hướng Tây, sao Thương trước là sao mai Sáng mọc về hướng Đông. Hai ngôi sao nầy không bao giờ gặp hay mọc chung với nhau một lượt. Cổ thi có câu: “Nhân sanh bất tương kiến động như sâm dữ thương”.(Người ta xa cách không gặp mặt được nhau như sao Sâm và sao Thương vậy).
    -Đây là một thành ngữ xuất phát từ điển tích Yên Bá và Thực Trầm. Hai người vốn là anh em ruột thịt với nhau, con của Cao Tân, thường tranh tụng cãi vã với nhau mãi. Một hôm thấu tai Ngọc Hoàng, Ngài bèn đày Yên Bá ở phía Đông làm sao Mai, tức là sao Thương. Còn Thực Trầm sau làm sao Hôm ở phía Tây. Từ đó mỗi người ở một phương không còn được gặp nhau nữa.
    Do điển tích nầy các văn nhân thi sĩ thường dùng thành ngữ nói trên để diễn tả sự xa cách, không gặp mặt được nhau nữa.
    “Bây giờ nở để cách với Sâm Thương”.
    (Cung Oán Ngâm khúc)
    Hoặc là:
    “Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng,
    Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
    .(Tr. Kiều)
    Ở đây, Đức Thầy dùng điển Sâm Thương để chỉ Đức Phật Thầy Tây An với tín đồ đã xa cách từ khi Ngài tịch diệt. Giờ có dịp chuyển kiếp trở lại, thầy trò được sum hiệp, nên Đức Thầy mới viết câu:
    “Sum vầy chiếc nhạn Sâm Thương”.
    NHO VĂN: Những người có học vấn thâm hiểu và ăn ở theo đạo Nho (Thánh hiền).
    CẢM KÍNH: Lòng cảm mến và kính trọng.
    CAO SÂU LÝ DIỆU: Lý lẽ luận giải rất cao sâu mầu diệu, khó nghĩ bàn được, chỉ cảm nhận trong tâm ý của mình thôi:
    Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền.(Kh/th, Q.5)
    VÀNG MƯỜI: Vàng đủ chữ, tốt hơn hết. “Vàng mười, bạc bảy, thau ba”.(Tục ngữ)Ý nói lời giáo pháp của Đức Thầy nói ra, người nghe cảm nhận mà làm theo được còn quí giá hơn vàng bạc. Đức Thầy có câu:
    Hành y thì đáng vàng mười.(Dặn dò Bổn đạo)

    CHÁNH VĂN

    45.- “Trần gian thiếu trái chi chua,
    Bây giờ trái ngọt không mua bởi mình.
    Tới đây cạn lẽ phân minh,
    48.- Quyết đem chơn lý đặng gìn Phật gia.
    Tài sơ trí siển nôm na,
    50.- Mặc tình chê ghét phận ta, ta tường”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 45 đến câu 50)
    Đoạn trên ý nói từ trước đã có nhiều tà đạo ra đời dắt dẫn sai chơn lý (chua). Nay may mắn được Đức Thầy khai truyền chánh đạo đúng theo giáo pháp vô vi của Đức Phật (ngọt). Nếu chúng sanh nào chẳng giác tỉnh nương theo đó là tại mình chớ không đỗ thừa cho ai được.
    Đức Giáo Chủ đặt chơn đến xã Mỹ Hội Đông giải bày giáo pháp thật là phân minh cặn kẽ. Đó là Ngài muốn nêu cao ngọn đèn chơn lý để vun quén nền đạo Phật. Tuy nhiên, Ngài cũng rất khiêm nhượng đối với quần chúng là không thông thạo cho lắm mà chỉ nôm na ít lời thôi, tùy bá tánh có chê khen cũng mặc.

    CHÚ THÍCH
    THIẾU CHI: Cũng như chữ thiếu gì ! Có nghĩa là nhiều lắm, không kể xiết. Ý nói các mối tà đạo ra đời nhiều lắm, không kể xiết.
    TRÁI NGỌT: Chỉ cho chánh đạo, đúng chơn lý của đạo Phật.
    PHÂN MINH: Phân bày một cách sáng suốt rành rẽ cao sâu.
    CHƠN LÝ: (Xem CT trong STTĐ trang 88, cột 1, tập 1).
    PHẬT GIA: Nhà Phật, đạo Phật. Trong Khuyến Thiện, Q.5 Đức Thầy có câu:
    “Nền đại đạo lưu thông khắp cả,
    Bậc Tiên hiền đều trọng Phật gia”.

    TÀI SƠ TRÍ SIỂN: Cũng gọi là trí siển tài sơ. Có nghĩa tài đức còn sơ kém, trí năng còn cạn cợt. Đây là tiếng khiêm nhượng. Đức Thầy từng nói:
    Phận tài sơ xin hãy thứ tha.(Diệu pháp Q/Minh)

    CHÁNH VĂN

    51.- “Thoảng qua mùi diệu phô trương,
    Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân.
    Keo sơn đâu cật liền lưng,
    54.- Thấy trong bá tánh nửa mừng nửa lo.
    Mừng là mừng việc hay ho,
    56.- Lo là lo việc ốc sò trải qua”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 51 tới câu 56)
    -Lời pháp diệu của Đức Thầy vừa thốt ra rất sâu mầu khó tả để khuyên mỗi người đang mê say trong ảo mộng hãy sớm hồi tâm thức tỉnh, lo thương yêu đoàn kết lẫn nhau.
    Ngài cũng xét trong dân chúng hiện giờ đang gặp cảnh vui mừng, mà lắm lo âu là phải đương đầu với cảnh đau buồn sắp tới đây. Mừng là bấy lấu tớ thầy xa cách mà nay sắp gặp lại. Còn buồn lo là trong Đạo cũng sắp gặp hồi pháp nạn và bao nhiêu sự khó khăn dồn dập tới. Tức là trên đường tiến tu từ đây tới ngày Tớ Thầy sum hiệp, chúng ta còn phải gặp bao lần thử thách gai chông nữa.

    CHÚ THÍCH

    THOẢNG QUA: Bay phớt qua, cũng như mùi hương vừa phất qua.
    MÙI DIỆU: Nói cho đủ là mùi đạo diệu. Ý nói mùi đạo tuy không có hình tướng, nhưng ai nếm vào nghe nó thâm trầm khó tả:
    “Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh,
    Chốn trà đình xa lánh vãng lai”.

    MAU TỈNH: Sớm tỉnh.
    MỘNG XUÂN: Giấc mộng ban đầu mới chớm phát, người ta xem nó đẹp lắm, nghĩ nó lâu dài không dè thời gian rồi cũng hết.
    KEO SƠN: Chất keo và nước sơn, hai loại nầy có độ dính như nhau khó sứt. Nghĩa bóng là chỉ tinh thần đoàn kết rất mực giữa bạn bè anh em hay đoàn thể dân tộc. v.v..
    “Chữ bạn tác dù cho đến chết,
    Cũng keo sơn gắn chặt mới là”.

    ĐÂU CẬT LIỀN LƯNG: Cũng gọi là xây lưng đâu cật. Ý nói tinh thần đoàn kết chặt chẽ. Ví dụ: Mọi người đều biết một lòng một dạ xây lưng đâu cật lại thì không ai chen vào chia rẽ được: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Đúc Thầy từng kêu gọi:
    “Anh em lớn nhỏ quay về,
    Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly”.

    (Tiếng chuông cảnh tỉnh)
    Hoặc là:
    “Chớ chia rẽ hãy đồng tâm lực,
    Khua giọng vàng đánh thức bốn phương.
    Chấn hưng Phật giáo học đường,
    Dưới trên hòa thuận chọn đường qui nguyên”.

    MỪNG VIỆC HAY HO: Việc mừng nầy chẳng phải Đức Giáo Chủ nói riêng cho số tín đồ xã Mỹ Hội Đông mà nói chung tất cả. Từ khi chúng ta đã qui y với Ngài trong nhiều kiếp mà nay chưa thành quả nên Ngài phải chuyển hóa lại độ chúng ta, đó là điều vui mừng.
    LO VIỆC ỐC SÒ TRẢI QUA: Là chỉ trên đường tiến tu tập hạnh từ đây tới ngày tớ thầy sum hiệp chúng ta phải đương đấu lắm cuộc chông gai, bao lần pháp nạn mới đạt tới đích:
    “Trải qua một lúc sỏi sành,
    Trung ương hòa hiệp mới đành lòng đây”.


    CHÁNH VĂN

    57.- “Tỉnh tâm mượn lấy thi ca,
    Giác dân hướng thiện chánh tà phân minh.
    Rèn lòng giữ dạ sắt đinh,
    60.- Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh thơi.
    Biển trần lao lý diệu vơi,
    62.- Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 57 tới câu 62)
    Đoạn trên ý nói trước đây Đức Giáo Chủ đã tỉnh thức tu hành tầm ra chánh đạo, giờ đây chuyển kiếp lại giác tỉnh quần sanh sớm xa lánh điều tà gian hung ác để hướng theo con đường chánh chơn thiện mỹ. Và trên bước tu thân lập hạnh, chúng ta phải nhứt tâm bền chí giữ vững lập trường thủy chung duy nhứt, dầu vật chất câu nhử cũng không siêu, tà sư quyến rũ cũng không ngã. Được vậy sau nầy mới thong dong trên cõi Tiên Phật.
    -Đúc Thầy cũng giác tỉnh mọi người hiểu rõ cõi hồng trần chúng ta đang sống, phải chịu bao cảnh khổ sầu mênh mông như bể cả, những vật chất phù hoa đều đi theo định luật vô thường mà tan biến: “Tang điền thương hải”. Đến đó ta có hối tiếc chỉ làm khổ thêm chớ cũng không giữ lại được.

    CHÚ THÍCH

    TỈNH TÂM: Lòng thức tỉnh sáng suốt.
    THI CA: Những bài văn thơ hát ca bằng vận văn, có nhạc điệu trầm bổng như các loại thi ca trong văn chương từ trước tới giờ:
    “Tay chèo miệng lại hát ca,
    Ca cho bá tánh biết đời loạn ly
    .(SG, Q.1)
    GIÁC DÂN HƯỚNG THIỆN: Khuyến hóa dân chúng biết hướng về con đường lành, tránh xa điều hung ác. Đức Thầy từng dạy : “Vi lộ thiên oai bảo giác dân”.
    CHÁNH TÀ PHÂN MINH: Phân phải lẽ chánh nẻo tà một cách rành rẽ sáng suốt cho mọi người nghe mà chọn lọc.
    DẠ SẮT ĐINH: Lòng cứng như sắt thép. (Xem thêm STTĐ, trang 96, tập 1).
    BIỂN TRẦN: (Xem STTĐ, trang 193, tập 2, cột 1)
    LAO LÝ: (Xem STTĐ, trang 193, tập 2, cột 1)
    DIỆU VƠI: Cũng viết là diệu vợi. Có nghĩa xa thẩm, mênh mông không thể đo lường được.
    CHẮT LƯỠI: Cũng viết là tắc lưỡi, bật lưỡi thành tiếng kêu. Ở đây có nghĩa là tiếng kêu than vì hối tiếc một việc gì đã qua.

    CHÁNH VĂN

    63.- “Nhìn xem tâm não bồi hồi,
    Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh vang.
    Chừng nào kim phụng hòa loan,
    66.- Đông Tây vô lự mới an sự đời”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 63 tới câu 66)
    Đến đây Đức Giáo Chủ xét thấy cảnh điêu linh thống khổ khắp thế giới chúng sanh mà lòng Ngài rất bồi hồi cảm động. Vì cơ trời đã tiết lộ, vạn vật trong thế gian sắp đến kỳ biến đổi, những cái gì có hình tướng giả tạm hay xấu ác đều bị biến cải được an lành tốt đẹp hơn.
    Ngài đã tiên tri, cũng là ước vọng chung đến một ngày nào đó, những người hiền lương đức hạnh sẽ được hòa hiệp vui tươi, không còn lo sợ. Chính ngày ấy dân chúng khắp hoàn cầu đều chung hưởng cảnh thái bình an lạc.

    CHÚ THÍCH
    SƠ NHI ĐÃ LẬU: Từ trước tới giờ việc thiên cơ biến động trong trời đất, khó ai biết được. “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Mà nay Đức Giáo Chủ lại tiết lộ cho mọi người được rõ:
    Việc thiên cơ Khùng tỏ hết trơn,
    Cho trần hạ tường nơi lao lý”.
    (Kệ Dân, Q.2)
    VINH VANG: Thịnh vượng, vẻ vang, vinh dự.
    “Quân thần phụ tử vinh vang”.
    (Từ giã bổn đạo khắp nơi)
    KIM PHỤNG HÒA LOAN: Phụng và Loan đồng một loại trong bốn con thú linh (Long, Lân, Qui, Phụng). Sở dĩ xưa nay văn chương thường dùng chung với nhau là vì con trống là Phụng con mái là Hoàng hay là Loan. Hai chim nầy hòa hiệp với nhau là thành hạnh phúc vui tươi. Văn chương dùng từ nầy để chúc mừng cho đôi vợ chồng mới cưới nhau: “Loan phụng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”.
    Ở đây, Đức Thầy dùng Thành ngữ nầy để chỉ cho sự trùng phùng sum hiệp giữa thầy trò, tôi chúa, trong ngày Thương nguơn Thánh đức tới đây:
    “Hiền lành chừng đó sum vầy,
    Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi”

    (Sám Giảng, Q.3)
    Và: “Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
    Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt”.

    (Nang thơ cẩm tú)
    ĐÔNG TÂY: Hai hướng trong bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc; nhưng chữ Đông Tây ở đây Đức Thầy chỉ cho bốn hướng Đông Tây Nam Bắc (tức khắp thế giới).
    VÔ LỰ: Không còn lo lắng khổ sở: “Vô sự vô lự là tiểu Thần tiên” (Sách Thánh),cho nên chữ Vô Lự ở đây Đức Thầy chỉ cho cảnh Tiên của đời Thượng nguơn Thánh đức:Thượng nguơn hồi phục là ngày an cư”.

    CHÁNH VĂN

    67.-“ Thừa vưng sắc lịnh của Trời,
    Cùng ông Phật Tổ giáo đời khuyên dân.
    Bấy lâu chạnh cám ô ngân,
    70.-Bây giờ hiệp mặt phân trần sạ duơn.
    Dập dồi gió kép mưa đơn,
    Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn.
    Bày ra thiên lý héo von,
    74.- Giấu trong tim óc lòng son chẳng đành.
    Trải qua một lúc sỏi sành,
    76.-Trung ương hòa hiệp mới đành lòng đây”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 67 tới câu 76)
    -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết Ngài lâm phàm khai đạo giáo dân là vâng sắc lịnh của Đức Ngọc Đế và Đức Phật Tổ Thích Ca. Từ lâu tớ thầy xa cách như Ngưu Lang Chức Nữ cách nhau hai bên bờ sông Ngân, nay có dịp gặp lại để thầy trò phân trần lẽ đạo, hầu nối bước đường tu tiến.
    -Trên con đường hóa Đạo, Ngài phải đương đầu với bao lần pháp nạn, miệng thế đố kỵ khinh chê, những nỗi khó khăn dồn dập. Bởi giữa Ngài và tín đồ cùng khắp nhân sanh trong đời mạt pháp có niềm ân nghĩa rất sâu đậm từ nhiều tiền kiếp.
    -Căn cứ vào lý Thiên Đình, Ngài nhận xét trong khắp chúng sanh đến hồi tai họa để đền trả những tiền nghiệp. Ngài cũng rất đau lòng muốn bày tỏ cho mọi người được thấy, lại e họ không tin rồi kết thêm tội lỗi, nhưng dấu kín trong lòng thì không nỡ; buộc Ngài phải hé mở đôi chút cho mọi người được biết. Tới đây khắp chúng sanh phải trải qua bao lần thiên tai địa ách, giặc loạn chiến tranh, cho đến khi nào chư Phật Thánh Tiên hòa hiệp tại trung ương, Ngài mới đành dạ như Ngài đã cho biết:
    “Biết chừng nào được qui nhứt thống,
    Khắp hoàn cầu dân biết thương nhau.
    Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,
    Không nhắc đến biết đâu dân sửa”.


    CHÚ THÍCH
    SẮC LỊNH CỦA TRỜI: Theo Phật học, Trời Đế Thích là vị vua ở trời Đạo lợi. Cõi Trời nầy có 33 cảnh thuộc dục giới. Theo Nho học và Lão học thì gọi là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Thiên Đường. Đức Thầy từng nói:
    “Cúi đầu tâu trước cửu trùng,
    Ngọc Hoàng ban chiếu Lão Khùng giáo dân”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    Và:“Được lịnh Thiên Hoàng nấy sai ta”.
    Hoặc là :
    “Lời văn tao nhã hữu tình,
    Bởi vâng sắc lịnh Thiên đình sai ta”.

    PHẬT TỔ: Là chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài là Giáo Chủ đạo Phật toàn cõi Ta bà. Nay sắc lịnh cho Đức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm độ thế:
    “Ngọc tòa Phật Tổ ấy sai ta,
    Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà
    .(Tối mùng một)
    Và:
    “Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp”.

    (Diệu pháp Quang minh)
    Ô NGÂN: Cùng với các chữ cầu Ngân, sông Ngân hay mưa Ngâu. Tất cả đều xuất phát từ điển tích Ngưu Lang Chức Nữ. Hai người vốn 2 ngôi sao trên trời (sao Ngưu và sao Chức).
    Ngâu là do chữ Ngưu đọc trại. Chàng trai thì lo việc chăn nuôi cày cấy, nàng Chức Nữ thì lo thêu dệt vá may, việc làm rất siêng năng. Thượng Đế thấy thương, cho hai người kết duyên tơ tóc, nhưng khi có đôi bạn, hai người lại sanh ra lười biếng. Thượng Đế bắt tội, đày mỗi người mỗi nơi, cách sông Ngân Hà, hằng năm cứ đến ngày mùng bảy tháng bảy mới cho hai người gặp mặt nhau một lần tại bến sông Ngân.
    Vì cách nhau suốt năm trường, khi hai người gặp lại nửa mừng nửa tủi, nước mắt rơi xuống thành những đám mưa phùn. Cho nên từ trước tới nay người ta thường gọi mưa phùn vào lúc tháng Bảy là mưa Ngâu (mừng ra nước mắt).
    Tương truyền lúc Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau có chim Ô Thước (chim quạ hoặc chim khách) đội đá bắc cầu cho đôi đàng hiệp mặt. Vì thế chung quanh điển tích nầy, các nhà văn còn dùng thêm các từ ngữ như: Ô thước hay Cầu đá sông Ngân.
    Tóm lại tất cả từ ngữ có liên quan đến điển tích nói trên đều có ngụ ý chỉ cho sự trùng phùng. Từ vua tôi, thầy trò hoặc chồng vợ có duyên lành liên hệ với nhau dù bị xa cách thế nào hay thời gian bao lâu đi nữa cũng có ngày trùng phùng hội hiệp. Truyện Quan Âm Thị Kính có câu: “Thiệt công Ô Thước bắc cầu”.
    Và Đức Giáo Chủ PGHH cũng từng nói:
    “Mảng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,
    Lo chi Ô Thước chẳng xong cầu”.

    (Nhẫn đợi thời cơ)
    PHÂN TRẦN: Phân là chia ra; Trần là bày tỏ. Nghĩa chung phân trần là bày tỏ hay lý giải một việc gì đó có thứ lớp rõ ràng mạch lạc. Đức Thầy từng viết: “Phân trần cụ lão chuyện người tu”.
    SẠ DUƠN: Cũng viết là sự duyên. Có nghĩa là duyên do sự việc. (Phải chăng là cả vùng nầy, con cụ đồ đều cử tên Bá Hộ Sự, nên chép là chữ Sạ).
    GIÓ KÉP MƯA ĐƠN: Đơn là một, kép là hai. Ý nói mưa bão hết đám nầy tới đám khác kế tiếp không ngưng. Nghĩa bóng là chỉ cho tai nạn khổ sở dập dồn, hết nạn nầy tới nạn nọ. Đức Thầy xác định:
    “Dầu mắc phải mưa đơn gió kép,
    Cũng chuyên trì mà dẹp gai chông”.

    (Cho ông Cò tàu Hảo)
    THIÊN LÝ: Lý lẽ của trời đất mầu diệu khó tả nhưng không ngoài cái đạo. Đức Thầy cho biết:
    ]“Thiên ý không riêng mối đạo mầu,
    Rằng truyền yếu lý nhiệm cao sâu”.

    (Thiên lý ca)
    HÉO VON: Cũng viết là héo don hay héo hon. Có nghĩa mất sự tươi tắn, mất hết sinh khí, mãi lo lắng nghĩ ngợi, héo von cả người. Ở đây, ý muốn nói Đức Thầy vì quá thương xót chúng sanh mà héo von ruột tầm. Đau đớn, xót xa héo hắt thầm lặng trong lòng.
    LÒNG SON: Do chữ đan tâm. Có nghĩa lòng trung thành tốt đẹp, cứng bền và trong sạch, không bợn nhơ tội lỗi, có thể ví như son đỏ. Đức Thầy bảo:
    “Cõi Trung Ương luân chuyển phương Nam,
    Mở hội Thánh chọn người trung hiếu”.

    Hoặc là:
    “Trung Ương tam cõi đều hòa mặt,
    Ta mới thảnh thơi trở gót hài”.

    Ngài cũng không ngần ngại chỉ ngay vị trí:
    “Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam,
    Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm,
    Mượn tay gả tờ hoa thần hạ bút”.

    (Trao lời cùng Ông Táo)

    CHÁNH VĂN

    77.- “Hoàn cầu trái đất chuyển xoay,
    Gớm ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn.
    Ngày nay đạo đức chẳng màng,
    80.- Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua.
    Biển sông lặn lội hơn thua,
    82.- Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 77 tới câu 82)
    Căn cứ theo luật tuần hoàn của trời đất thì quả địa cầu của chúng sanh đang sống lúc nào cũng vận chuyển và biến đổi luôn. Nay đã sắp tới hồi tai khổ. Bởi bao nạn đao binh nước lửa của thế chiến thứ hai đang lan diễn khắp hoàn cầu làm cho nhân loại phải điêu linh thống khổ: “Thiếu đạo đức sắt gan cũng chảy” (TS). Hiện giờ nếu chúng ta chẳng lo trau dồi tâm đức, tu thân lập hạnh thì sau nầy dầu có tiền ngàn bạc vạn cũng không mua chuộc được.
    Đức Thầy cảnh giác những người mãi lặn ngụp trong sông mê bể khổ, tham lam giành giựt tước quyền. Chính đó là cái nhân do mình tạo nghiệp, rồi cũng tự mình gặp quả đau sầu, không sao tránh khỏi.

    CHÚ THÍCH
    TUẦN HUỜN: Định luật xoay vần của trời đất do câu: “Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ” (Luật trời đất hễ xoay giáp vòng thì trở lại chỗ khởi đầu).
    ĐẠO ĐỨC: (Xem STTĐ, trang 113, Q.1, cột 1)
    CHẲNG MÀNG: Chẳng bận tâm lo nghĩ đến.

    CHÁNH VĂN

    83.- “Phật nhơn tạo hóa một bầu,
    Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau.
    Thân này sá quản cần lao,
    86.- Miễn cho bá tánh được mau an nhàn.
    Ngũ niên viễn lự cơ hàn,
    88.- Đến chừng quy phục Hớn đàng mới yên”.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 83 tới câu 88)
    -Đoạn giảng qua Đức Thầy cho biết chư Phật với chúng sanh đều sống chung trong một bầu trời, cũng ăn cũng mặc và sự sinh hoạt giống nhau, bởi người thì trong sạch hiền lương, còn kẻ ác hung nhơ trược.
    -Trên đường truyền Đạo dù gặp cảnh gian lao khổ khó Ngài cũng chẳng nại hà, miễn làm sao cho khắp bá tánh đều được an nhàn hạnh phúc là Ngài vui lòng. Ngài còn cho biết sắp tới đây dân chúng đồng chung chịu cảnh cơ hàn đói khổ suốt năm năm dài, cho đến khi nào nhà Hán dập tắt được mưa Tần nắng Sở thống nhất về một mối thì bá tánh mới toại hưởng cảnh thái bình an lạc.

    CHÚ THÍCH
    PHẬT: Phật là giác giả, giác giả là tỉnh giả (Phật giả Phật đà chi tỉnh xưng) vậy Phật tức là đấng giác ngộ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
    NHƠN: Là người đã tu tròn nhơn và làm được 5 điều lành nhưng chưa thoát khỏi tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới).
    TẠO HÓA: Cũng viết là tạo công hay lẽ trời, ý chỉ hầu hết chúng sanh đều sống chung dưới một vòm trời và tin tưởng dưới sự cai quản của đấng tạo hóa.
    THANH: Trong sạch chơn chánh.
    TRƯỢC: Nhơ xấu hung ác.
    SÁ QUẢN: Không nệ thân cực nhọc, đem thân tâm làm lợi ích cho đời mà chẳng ngại sự gian lao khổ khó. “Anh hùng đâu sá cảnh gian lao”.(Quyết rứt Cà sa)
    NGŨ NIÊN: Năm năm.
    VIỄN LỰ CƠ HÀN: Viễn lự là lo xa (thời gian dài). Cơ hàn là đói lạnh (nghèo khổ). Nghĩa chung là năm năm dài dân ta chịu cảnh đói rách nghèo khổ. Có thể ám chỉ từ năm 1939 đến năm 1945 (từ khởi đầu thế chiến thứ nhì đến khi chấm dứt).
    HỚN ĐÀNG: Cũng gọi là nhà Hán hay Hớn bang, một triều đại ở Trung Quốc (202-220 TCC) chỉ cho thời Tần Thủy Hoàng và Hạng Võ: Khi nhà Tần gồm thâu lục quốc, dùng chính sách nghiệt ngã đối với dân chúng. Tần ra lịnh gom hết sách vở của Khổng Giáo lại mà đốt và chôn sống các anh tài nho sĩ (phàn thơ khanh nho); dân trong nước ai ai cũng oán hận.
    Bấy giờ có Hán Lưu Bang và Sở Hạng Võ hiệp với vua Hiến Đế đứng lên diệt bạo Tần. Nhưng Sở Hạng Võ ác độc dùng chính sách bá đạo không thua bạo Tần ỷ mạnh phản lời bội ước (Ai diệt được bạo Tần trước thì được cầm đầu thiên hạ) chỉ phong cho Lưu Bang làm Hán Trung Vương và buộc vào trấn đất Ba Thục.
    Ở đây 5 năm trường, Hán Vương tu chỉnh binh mã, chọn Tiêu Hà trông coi việc chính, Trương Lương làm Quân sư và Hàn Tín làm Đại Tướng, rồi kéo binh trở ra diệt Hạng Võ thống nhất sơn hà. Hán Vương liền lên ngôi Hoàng Đế, tức vua Cao Tổ nhà Hán, chấm dứt được cuộc nắng Sở mưa Tần từ đó. Bá tánh nơi nơi đều ca khúc khải hoàn, an cư lạc nghiệp.
    Dùng điển tích trên, Đúc Thầy có dụng ý chỉ cho chánh sách ác độc của người Pháp đối với dân chúng Việt Nam thời đó cho đến khi an định, như Ngài từng nói:
    “Còn một cuộc mưa Tần nắng Sở,
    Trải qua rồi việc dở hóa hay”.
    (Thu đã cuối)
    Và:
    “Chừng nào ta gặp Hớn Hoàng,
    Chúng sanh mới hết phàn nàn số căn”.


    CHÁNH VĂN

    89.- “Bao la cảnh Phật cõi Tiên,
    Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu.
    Ngũ vân năm sắc năm màu*,
    92.- Lìa qui nọ phụng lao xao vui mừng.
    Vang vầy sấm nổ chuyển luân,
    Kiểng tiên lộ vẻ vui mừng cha con.
    Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn,
    96.-Ngày nay hiệp mặt hết còn thở than”.

    *(Có bản chéo là: “Tường vân năm sắc năm màu”. Theo ông Lâm Thế Xương (một tín đồ kỳ cựu ở Mỹ Hội Đông) đã xác định, lúc đó ông chép: “Tường vân năm sắc năm màu” mới đúng văn. Bởi vân mây lành năm sắc có lý hơn từ năm sắc năm màu điệp văn).

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 89 tới câu 96)
    -Đến đây, Đức Giáo Chủ diễn tả cảnh Tiên Phật đủ loại kiểng vật: Tùng mai liễu trúc, đua nở vui tươi, nào là những vừng mây lành ngũ sắc, nào Long Lân Qui Phụng chào mừng ca múa. Bấy giờ có những tiếng sấm xoay chuyển cõi trần gian trở thành cảnh Tiên Thánh, tạo nên phong trào vui mừng tươi đẹp. Từ trước tới giờ những người có duyên lành với Đức Thầy cũng như Phật Thánh xa cách, cuộc đền đáp nghĩa ân còn rời rạt. Giờ đây nhân duyên hội đủ sum hiệp vui mừng, các môn đệ không còn thở than trông đợi.

    CHÚ THÍCH

    TÒNG MAI LIỄU TRÚC: Bốn loại kiểng nầy thường mọc ở cảnh Tiên, hoặc người ta hay trồng nơi các sân kiểng để xem vui tươi đẹp mắt.
    TƯỜNG VÂN: Bức mây hay khóm mây lành, chư Phật Tiên hay nương các vừng mây nầy để đi đây đi đó hoặc cứu độ chúng sanh. Các khóm tường vân (mây lành năm sắc bay đến đâu thì có chư Phật Tiên lâm phàm đến đó).
    “Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang…”

    (Xuân hạ tác cuồng thơ)
    NĂM SẮC NĂM MÀU: Nghĩa của chữ ngũ sắc tức xanh, đỏ, trắng, vàng, hồng. Chư Phật hay dùng hào quang năm sắc để tiếp độ những người được chứng đạo hoặc gặp tai nạn:
    “A Di Đà nhìn xem khắp cõi,
    Đặng trông chờ mong mỏi chúng sanh.
    Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành,
    Đặng tìm kiếm ngững người hiền đức”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    KIỂNG TIÊN: Cảnh Tiên. Theo Cơ Sấm của BSKH và PGHH cho biết thì cảnh đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây giống như cảnh Tiên:
    “Lập Thượng nguơn tuổi cả dư muôn”.
    (Kim cổ Kỳ quan)
    Bởi con người sống cõi ấy vẹn tròn nhân đạo và không ai vi phạm 8 điều răn cấm. Đức Thầy thường khuyến cáo:
    “Cả kêu kìa hỡi là ai,
    Quan trường rời rứt mặt mày chùi lau.
    Lui chơn ra khỏi cho mau,
    Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.
    Theo ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hang Năm Non”.(Thiên lý ca)
    Và: “Tiên cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
    Chờ người hữu phước đến liên đài”.

    Hoặc là:
    “Thi tả cảnh bồng lai tại thế,
    Nếu chần chờ e trễ kỳ thi”.

    (Xuân hạ tác cuồng thơ)

    CHÁNH VĂN

    97.- “Các nơi liệt quốc chư bang,
    Chúc cầu bình trị trướng loan sum vầy.
    Bây giờ làm việc tà tây,
    100.- Ngày sau bị khốn tội rày điêu ngoa.
    Biết khôn tìm kiếm Ma ha,
    102.- Một câu Lục tự nhà nhà bình an”.


    LƯỢC GIẢI
    (từ câu 97 tới câu 102)
    Đoạn nầy ý nói đến ngày kết cuộc, các quốc gia trên thế giới đều sum hợp hát khúc khải hoàn và chúc mừng khắp nơi thái bình thạnh trị. Nếu bây giờ bá tánh chẳng lo tu thân lập hạnh mãi chạy theo làm việc tây tà, điêu ngoa xảo trá, ắt sau nầy phải bị nạn tai khốn khổ.
    Đức Thầy cũng khuyến khích, mọi người nên dùng trí sáng của mình mà nhận xét để sớm nương theo chánh đạo, niệm Phật làm lành. Bởi trong giáo lý có dạy pháp niệm Phật, là một pháp tu tắt nhứt và tiện lợi nhứt cho người hành đạo. Chỉ có sáu chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nếu ai cố gắng trì hành sẽ kết quả Huệ lẫn Phước. Và được nước thạnh, nhà an, gia đình thuận thảo, đời sống an vui hạnh phúc. Bởi người biết lo niệm Phật làm lành thì luôn đền trả được tứ ân, đổi mười điều ác ra mười điều lành tinh thần sáng suốt, dứt sạch niệm trần. Chẳng những kết quả hiện tại mà tương lai còn đặng siêu sanh lạc cảnh.
    Như cách đây khoảng 50 năm (1952) tại xã An Hòa, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang, Nam phần Việt Nam, có Bà Tư là thân mẫu ông Châu Văn Phổ. Bà đã qui y theo PGHH từ năm 1940 tu theo hình thức Cư sĩ. Sự tu bà rất tinh tấn và chí tâm làm lành niệm Phật.
    Một hôm, Bà Tư và các cháu của Bà đang lên nhang đèn lễ bái thời công phu tối.
    Lễ bái xong, Bà đang quì niệm Phật trước ngôi Tam Bảo, các cháu của Bà thì quì ở phía sau, bỗng có ánh tường quang ngũ sắc rọi sáng vào nhà. Thấy ánh sáng lạ thường, các cháu của Bà liền chạy ra khỏi nhà la lên: Nhà cháy ! Nhà cháy !!!
    Những gia đình xung quanh nghe đều nhìn về hướng nhà thấy trên nóc nhà của Bà Tư có vầng hào quang đủ 5 sắc. Độ hai phút sau thì ánh hào quang tan đi, ai nấy đều chạy đến nhà thì thấy Bà Tư từ trần trong lúc đang ngồi niệm Phật. Khi đưa đám tang Bà, ai nấy đều thì thầm tán thán về sự niệm Phật kết quả được Vãng sanh của Bà. (Ghi theo quyển “Đường về Phật” của Cư sĩ Trần Đức).

    CHÚ THÍCH

    LIỆT QUỐC: Các nước trên thế giới.
    CHƯ BANG: Nhiều nước hay chỉ tất cả các nước trên toàn cầu.
    BÌNH TRỊ: Thái bình thạnh trị, tiếng cầu chúc cho nhau.
    TRƯỚNG LOAN: Bức màng có thêu hình chim loan. Nghĩa bóng là chỉ cho sự sum hiệp.
    TÀ TÂY: Làm những việc riêng tư, tà vạy lén lút dối trá, có lợi cho mình mà hại cho người khác. Nghĩa bóng là chỉ những người chạy theo làm việc cho Pháp, có hại cho dân cho nước. Đức Thầy từng khuyên:
    “Cứ lo làm việc tà tây,
    Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn.
    Chừng đau niệm Phật lăng xăng,
    Phật đâu cứu kịp lòng người ác gian”.


    CHÁNH VĂN

    103.- “Xa xuôi đường sá dặm tràng,
    Khó bề lui tới rỗi nhàn lao lung.
    Lo bề cúc dục cội thung,
    106.-Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời.
    Bút nghiên tạm gát đợi thời,
    108.- Chúc cho bá tánh xét đời biết ta”.

    Mỹ Hội Đông ngày 22 tháng giêng năm Canh Thìn.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 103 tới câu 108)
    Đoạn kết bài Viếng làng Mỹ Hội Đông, Đức Giáo Chủ muốn nói với môn đồ: Những ai ở xa xôi không tiện lui tới thăm viếng để Ngài khuyên dạy thêm lời đạo lý; thì lúc còn ở chung gia đình phải chăm lo báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ,đồng thời phải lo làm hết các việc lành đối với cộng đồng xã hội để đáp ơn đồng bào chủng tộc.
    Chót hết, Ngài không quên nhắc nhở bá tánh hãy dùng trí tuệ mình mà xét biết mọi việc trong thế gian để hiểu Ngài như thế nào ?

    CHÚ THÍCH
    DẶM TRÀNG: Khoảng đường dài, ý chỉ đường đi xa xôi.
    RỖI NHÀN: Cũng viết là nhàn rỗi, có nghĩa là rảnh rang không có gì để bận.
    LAO LUNG: Cái chuồng và cái lồng để nhốt các súc vật. Ý chỉ cho sự cực khổ lao nhọc, không rảnh rổi như bị nhốt trong tù.
    CÚC DỤC: Sanh đẻ và nuôi nấng. Hai trong 9 chữ cù lao: 1.Sanh (cha sanh), 2.cúc là (mẹ đẻ), 3.phủ là (vổ về), 4.dục là nuôi cho khôn, 5.cố là trông nom, 6.phục là quấn quít, 7.phủ là nâng nhắc, 8.súc là nuôi cho lớn, 9.phúc là bồng bế. Đây là chỉ công ơn khó nhọc của cha mẹ đối với người con. Sách Hán học có câu:
    “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẩu sanh ngã cù lao; dục báo thâm ân hạo nhiên võng cực”.(Cha sanh ta, mẹ nuôi ta, thương thay ! Cha mẹ nuôi ta khổ nhọc. Muốn đáp ơn sâu ấy, nhưng trời cao khôn cùng).
    Kinh Phụ Mẫu Báo Hiếu có giải 10 điều ơn của những người con thọ nơi cha mẹ như sau:
    -Thập ngoạt hoài thai (mười tháng cưu mang).
    -Lâm sản thọ khổ (sanh đẻ chịu khổ).
    -Sanh tử vong ưu (sanh được con mừng mà quên lo rầu).
    -Yến khổ thổ cam (uống đắng nhổ ngọt)
    -Hồi can tựu thấp (nhường chỗ khô, nằm chỗ ướt).
    -Nhũ bộ dưỡng dục (bú mớm và nuôi nấng).
    -Tẩy trạc bất tịnh (rửa ráy mọi điều dơ bẩn).
    -Viễn hành ức niệm (con đi xa thì cha mẹ nhớ tưởng).
    -Vị tạo ác nghiệp (vì con mà nhiều khi cha mẹ làm điều chẳng lành).
    -Cứu cánh lân mẫn (cha mẹ thương con không có cái thương nào bằng)
    CỘI THUNG: Cũng gọi là cây Thung, giống cây ở rừng sống rất lâu, giỏi chịu lạnh, nghĩa bóng là chỉ cho người cha: Cụm Thung, rừng Thung, nhà Thung. Truyện Kiều có câu: “Xót thay huyên cỗi thung già”.
    Hoặc là: “ Ngùi ngùi nhớ lại thung ba,
    Ngay vưa dốc báo thảo cha chưa đền”.
    -Chữ Thung người ta thường dùng đi cặp với chữ Huyên. Có nghĩa chỉ cho cha và mẹ: “Thung Huyên tuổi hạc đã cao”.(Truyện Kiều)
    Vậy câu: “Lo bề cúc dục cội thung”, là ý dạy người con phải lo đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ cho tròn câu hiếu đạo.
    VIỆC CHUNG CỦA ĐỜI: Công việc của quốc gia dân tộc hay việc của đồng bào nhân loại. Đó là việc chung của đời để đáp nghĩa Tứ Ân.
    BÚT NGHIÊN: Bút là cây viết. Nghiên là đồ dùng mài mực để viết đời xưa. Ý chỉ sự học hành hoặc sự nghiệp văn chương. Cổ thi có câu: “Xếp bút nghiên lo việc kiếm cung”,
    TẠM GÁT: Dừng lại.
    ĐỢI THỜI: Chờ đúng thời kỳ, Đức Thầy có câu:
    “Đợi cơ thiên địa xoay vần đến,
    Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành”.

    (Muốn lánh phồn hoa)

    BÀI 9.- CHO ÔNG THAM TÁ NGÀ
    Đức Giáo Chủ sáng tác vào khoảng tháng 2 năm Canh Thìn (1940), lúc Ngài còn cư trú tại Tổ Đình, Thánh địa Hòa Hảo.
    Đây là một bài vận văn biến thể, đoạn đầu bằng thể lục bát. Đoạn giữa bằng thể thất ngôn trường thiên, đoạn cuối là 5 bài thi Tứ cú, loại thuyết giáo, dài 80 câu, khởi đầu bằng các câu:
    “Lòng buồn gặp kẻ xa xôi,
    Lân la đến chốn buôn mồi vinh hoa”.

    Và chấm dứt bởi các câu:
    “Lánh thế chẳng bày danh Lão Sĩ,
    Ngày nay các chỗ ngộ cuồng ca”.


    NỘI DUNG
    Ông Tham Tá Ngà là con của Đốc Phủ Sứ Lê Quang Liêm, người đã có tham chánh thời Pháp thuộc với chức vụ Tham Tá, nhưng vốn có lòng hiền từ và ham mộ đạo đức, nên đến tham kiến Đức Thầy. Ngài tiếp chuyện với ông Ngà lúc ban đêm, đến gần sáng Ngài mới viết tặng ông bài giảng nầy:
    “Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn,
    Để chuyến khác cạn sâu hoài vọng”.

    Đoạn mở đề Ngài nói rõ tâm lý và cảnh tỉnh người đối diện: “Lân la đến chốn buôn mồi vinh hoa”. Nay ông muốn tầm đạo thì đừng ngại đường xa khó nhọc, điều trước tiên là phải dẹp hết tà tâm. Đức Giáo Chủ cũng nhận được ông Ngà là hàng tri kỷ:
    “Xả thân tìm kiếm ma ha,
    Chẳng nài viễn vọng dẹp tà nơi tâm.
    Nay gặp bạn tri âm tri kỷ,
    Cho những điều thiện mỹ cổ lai”.


    CHỦ ĐÍCH

    Đức Giáo Chủ khuyên ông Ngà hãy tu tròn bổn phận của chính mình thì sau nầy sẽ hòa hiệp đệ huynh tại miền Năm non Bảy núi.

    CHÁNH VĂN

    1.- “Lòng buồn gặp kẻ xa xôi,
    Lân la đến chốn buôn mồi vinh hoa.
    Xả thân tìm kiếm ma ha,
    4.- Chẳng nài viễn vọng dẹp tà nơi tâm”.


    LƯỢC GIẢI

    Hôm ấy lòng Đức Thầy linh cảm biết sắp có một người quen mà Ngài cho là bạn tri âm tri kỷ đến thăm. Mấy lúc nay vì mến cảnh vinh hoa phú quí mà làm việc cho Pháp. Nay phát tâm ham mộ đạo, chẳng nài sự xa xôi đến gặp Đức Thầy.

    CHÚ THÍCH

    LÒNG BUỒN: Hơi buồn, ngùi ngùi man mác. Ở đây, Đức Thầy thoảng buồn vì đang trông một người có duyên lành với Ngài sắp đến gặp.
    XA XÔI: Rất xa, xa lắm, như chưa gặp lần nào.
    LÂN LA: Thường tới lui gần gũi.
    BUÔN MỒI VINH HOA: Nghĩa như chữ Mua quan bán tước, hay Mua danh chác lợi. Chỉ cho cảnh giàu sang phú quí. Vì trong cảnh vinh hoa phú quí nó có miếng mồi và lưỡi câu (bả vinh hoa mồi phú quí). Ai chạm nó như cá bị mắc câu hay gặp thuốc độc thấm vào, ắt phải chết:
    “Vinh hoa một bả làm mồi,
    Để câu kẻ dại việc tồi chất lên”.

    (Viếng làng Phú An)
    MA HA: (Xem STTĐ, trang 221, tập 1, cột 2).
    VIỄN VONG: Trông ngóng việc xa xôi. Đây chỉ cho đường xa.

    CHÁNH VĂN

    5.- “Nay gặp bạn tri âm tri kỷ,
    Cho những điều thiện mỹ cổ lai.
    Đừng nên sớm vội lợt phai,
    8.- Xe dây cho chặt mà nài tánh linh”.


    LƯỢC GIẢI
    Bốn câu giảng trên, Đức Thầy nhận ông Tham tá Ngà là bạn tri âm tri kỷ từ trước, nên Ngài dạy ông những lời lẽ tốt lành từ xưa đến nay. Vậy ông nay đã phát tâm vào đạo tu hành tất phải bền lòng vững chí tu thân hành đạo cho đến ngày thấu đạt chân tánh của mình.

    CHÚ THÍCH
    TRI ÂM: Tri âm là nghe tiếng người mà biết được ý chí lời lẽ. Ý chỉ cho tình bạn thâm giao, hiểu biết lòng nhau. Do điển tích Bá Nha và Tử Kỳ.
    Bá Nha tục danh là Du Thụy, làm quan Thượng Đại Phu nước Tống, thời Chiến quốc (Trung Hoa), một hôm ông đi sứ nước Sở về gặp đêm trăng thanh gió mát, cảnh vật nên thơ. Ông cho dừng thuyền ở mé sông Hàm Dương, rồi lấy đàn ra khảy. Tiếng đàn du dương thảnh thót, bỗng nhiên đàn bị đứt dây, ông kinh ngạc bèn sai tiểu đồng lên bờ tìm xem có ai nghe trộm không ?
    Có tiếng người đáp lại:
    -Xin đại nhân chớ ngại, tôi là một tiều phu đi đốn củi về ngang, nghe tiếng đàn của đại nhân hay quá nên dừng lại nghe, chớ không phải là kẻ bất lương.
    Bá Nha nửa tin nửa ngờ liền mời Tử Kỳ xuống thuyền. Ông sửa dây đàn khảy lên một bản rồi hỏi Tử Kỳ. Ông bạn nói biết nghe âm nhạc, vậy tôi đàn bản vừa rồi là gì ?
    Tử Kỳ đáp:
    - Đó là khúc nhạc Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi, tài cao mà đoản mệnh.
    Bá Nha khen thầm, liền sửa dây tưởng mình trên núi cao, khảy lên.
    Tử Kỳ tán thán: “Nga nga hồ chí tại cao sơn” (thật chí đại nhân tuyệt vời trên núi cao).
    Bá Nha thả hồn theo dòng nước đàn một bản nữa.
    Tử Kỳ cũng ca ngợi: “Dương dương hồ chí tại lưu thủy” (Chí của đại nhân cuồn cuộn như dòng nước chảy).
    Bá Nha hết sức vui mừng nhận Tử Kỳ làm bạn tri âm biết thưởng thức điệu giao cầm qua ý chí của mình, rồi mời cùng nhau yấn ẩm và kết bạn thâm giao. Sáng lại, trước khi từ giã hai người hẹn nhau sang năm cũng vào ngày nầy, tháng nầy năm sau sẽ tái ngộ nơi đây.
    Một năm trôi qua đến ngày hẹn, Bá Nha trở lại bến cũ, trông mãi chẳng thấy Tử Kỳ bèn lấy đờn ra khảy, tiếng đờn phát ra nghe ai oán não nùng !!! Lòng nghi ngại, Bá Nha mới hay Tử Kỳ đã chết, ông liền đến bên mộ Tử Kỳ bày nghi án cúng tế, rồi lấy đàn ra khảy bản “Thiên thu Trường hận”. Bản dịch của người sau:
    “Năm qua nhớ một chiều thu,
    Trên sông trong chiếc cô chu gặp người.
    Năm nay trở lại thôi rồi,
    Tri âm đâu vắng trăng trôi lạnh lùng.
    Núi hoang một nắm mồ phong,
    Trăm năm theo vết thương lòng nơi đây.
    Lòng đau đày đoạn tháng ngày,
    Giọt sương hồ cạn lệ đầy tâm tư.
    Sầu dâng lớp lớp trầm phù,
    Đến vui đi những mịt mù khổ đau.
    Tử Kỳ em hỡi nơi nao ?
    Mấy vàng so được cao sâu nghĩa nầy.
    Cung đàn ta khảy hôm nay,
    Tơ đàn đã dứt từ đây phím lòng.
    Đàn ơi năm sợi tơ đồng,
    Thiên thu xin gởi theo cùng cố nhân”.

    Đàn xong Bá Nha đập chiếc giao cầm bể nát, buồn bã trở về ngâm lên bốn câu thơ:
    “Dao cầm đạp nát đau lòng phượng,
    Đờn vắng Tử Kỳ đờn với ai.
    Gió xuân khắp mặt bao bè bạn,
    Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !”.

    Đức Thầy dùng Thành ngữ Tri âm qua 2 câu giảng nói trên, ý để kêu gọi ai là người thấu hiểu được lời giáo pháp của Ngài hầu thực hành theo:
    “Điệu đờn trổi khúc huyền thâm,
    Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào”.

    TRI KỶ: Là người bạn thân tốt, biết rõ lòng nhau, những tâm tình trắc ẩn không thể nói với ai mà chỉ người bạn đó biết cho mình, tình bạn tri kỷ thật hiếm có. Do điển tích Bảo Thúc Nha và Quản Trọng.
    Hai người đều sống thời Chiến quốc kết bạn thân với nhau. Lúc chưa làm quan hai người hùn vốn đi buôn, Quản Trọng luôn tìm cách chia phần lời nhiều hơn, nhưng Thúc Nha không buồn lại nói rằng: Quản Trọng cần có tiền nhiều để nuôi mẹ. Khi mới ra làm quan, Quản Trọng làm nhiều việc không thành ai ai cũng chê, chỉ có Thúc Nha biết tài cho là Quản Trọng chua gặp thời. Khi ra trận, Quản Trọng hay lùi lại phía sau, mọi người đều cười cho là nhát, chỉ có Thúc Nha bảo Quản Trọng vì còn mẹ già cần phải giữ thân để nuôi mẹ. Khi nước Tề có loạn, mỗi người phò một Công tử trốn sang nước khác và hẹn sau ai có chúa được làm vua phải tiến cử bạn cùng phò một người.
    Sau Công tử Bạch về nước làm vua, tức là Tề Hoàn Công, Thúc Nha tiến cử Quản Trọng làm Tể Tướng, Quản Trọng giúp Tề Hoàn Công làm nên sự nghiệp, bá chủ khắp chư hầu. Khi sắp chết, Trọng lại không tiến cử Thúc Nha thay mình, vua lấy làm lạ hỏi ? Quản Trọng nói:
    - Bảo Thúc Nha là bậc Quân Tử, chớ không phải là nhà chính trị, ông ưa điều thiện ghét điều ác, lại ghét thái quá đến đỗi không ai chịu được. Người như thế mà nắm quyền chính ắt hư việc nước.
    Có người mách việc ấy cho Bảo Thúc Nha nghe, ông cười và nói:
    - Chính vì thế mà trước kia ta hết sức tiến cử Quản Thượng Phu cho chúa công. Thượng Phu trung với nước mà không vì bạn, đó là ông không phụ công ta tiến cử. Giả sử chúa công phong ta chức Tư Khấu trừ gian diệt nịnh thì ta nhận ngay. Nếu phong ta làm Tể Tướng thì nhà ngươi và nội bọn còn đâu có chỗ dung thân.
    Bởi thế, lúc sanh thời Quản Trọng thường nói: “Sanh ra là cha mẹ ta, còn hiểu ta chỉ có Bảo Thúc Nha”. Do đấy người đời sau gọi hai người là bạn tri kỷ.
    Đức Thầy dùng điển ngữ Tri kỷ để nói với ông Tá Ngà, nếu ông hiểu được thâm ý qua lời Sấm Kinh của Ngài thì cố gắng tu hành, ắt sau nầy sẽ kết quả quí báu.
    THIỆN MỸ: Tốt lành.
    CỔ LAI: Từ xưa đến nay. Nghĩa chung thiện mỹ cổ lai là những điều tốt lành từ xưa đến nay.
    SỚM VỘI LỢT PHAI: Tình bạn khi mới gặp nhau thì thân thiện, nhưng lâu rồi phai lạt, chỉ cho tình bạn thân nhau không bền. Ở đây Đức Thầy muốn nói với ông Ngà khi đã phát tâm cầu đạo thì phải thủy chung duy nhứt, chặt dạ bền lòng cho đến ngày kết quả.
    NÀI TÁNH LINH: Nài là gìn giữ chặt chịa, như người nài tượng (người quản tượng phải gìn giữ con tượng cho đến khi nào nó già chết).
    TÁNH LINH: Là chân tánh linh diệu sáng suốt của mình (tánh Phật). Người tu phải gìn giữ chín chắn đừng để mòn mẻ mất mát, bị vô minh che bít. Đức Thầy từng khuyên: “Giữ đừng mòn linh tánh mới hay”.

    CHÁNH VĂN

    9.- “Nền đạo đức sắc thinh chớ mến,
    Có thuyền từ đưa đến non Tiên.
    Cứu người hữu phước thiện duyên,
    12.- Về nơi cõi Phật khỏi miền trần ai.
    Kẻ ác đức hậu lai khổ thảm,
    Mắt phàm trần tường lãm hồ binh.
    Mấy lời dặn bảo đinh ninh,
    16.- Gắn ghi chạm dạ Long đình được xem”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 9 tới câu 16)
    -Đã đặt chân lên nền đạo thì các điều sắc đẹp và âm thinh sắc tướng hành giả nên dứt khoát mới mong bước lên thuyền từ mà sang qua cõi Tiên Phật. Có thế mới vừa cứu mình, vừa độ chúng thoát cảnh trần ai sầu khổ.
    -Đức Giáo Chủ còn cho biết kẻ gian ác sau nầy sẽ vương nhiều cảnh khổ, nào chiến tranh giặc loạn từ trong đến ngoài nước tràn vào, không phút nào yên tịnh. Nếu nhà tu ghi nhớ các điều dặn bảo đó để lo tu trì ắt ngày kết cuộc sẽ có mặt tại hội Long Đình.

    CHÚ THÍCH
    SẮC THINH: Sắc đẹp và tiếng hay, là 2 điều trong lục dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) nó hay làm cho con người đam mê trong luân hồi sanh từ, Đức Thầy thường khuyên người tu:
    “Chữ sắc thinh chớ có hầu gần,
    Hương với vị xác trần nên lánh”.

    Và:
    “Sáu đường ấy ở trong tâm ý,
    Ta mau mau dứt nó cho rồi.
    Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi,
    Mượn trí đạo đuổi ra khỏi xác.
    Dứt được nó ấy là giải thoát,
    Thì xác trần mới khỏi đọa đày”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    THUYỀN TỪ: Nói cho đủ là thuyền từ bi, cũng gọi là là thuyền trí huệ Bát Nhã, có diệu năng đưa người khỏi trần gian về cảnh Tiên Phật.
    HỮU PHƯỚC THIỆN DUYÊN: Có đủ nhân duyên phước báu thành quả Tiên Phật.
    CÕI PHẬT: Cõi giác ngộ của chư Phật cũng gọi là bến giác, đối với cảnh mê đồ hay là bờ mê của chúng sanh đang sống cõi nầy không còn luân hồi sanh tử.
    TRẦN AI: Trần là bụi; Ai là buồn khổ. Ý nói chỗ gian lao cực khổ, nơi chẳng có giờ nào sung sướng an vui.
    KẺ ÁC ĐỨC: Người làm những việc hung ác thiếu phước đức.
    HẬU LAI: Sau nầy.
    THẢM KHỔ: Nơi sầu đau, khổ não.
    MẮT PHÀM TRẦN: Trước mắt mọi người, ai cũng thấy.
    TƯỜNG LÃM: Thấy biết rõ ràng.
    HỒ BINH: Binh tướng của giặc Hồ. Theo văn hóa Trung Hoa thời xưa, ở phía Bắc nước Tàu có số rợ Hồ gọi là Hồ binh, họ rất tàn ác hung hăng, đi tới đâu sát giết tới đó (sớm đầu, tối đánh thường đem binh phá rối nước Trung Hoa). Ở đây, nghĩa bóng là chỉ cho giặc loạn ở nước ngoài tràn vào phá hoại dân nước ta. Người xưa thường gọi họ là hung đồ hay Hung nô (nước Phiên). Đức Thầy khuyên:
    “Gắng công tu xem nhiều phép lạ,
    Của Thần Tiên trừ lũ hung đồ
    .(Giác Mê, Q.4)
    CHẠM DẠ: Ghi khắc vào trong lòng.
    LONG ĐÌNH: Sân rồng. Long là rồng; Đình là sân, hiểu chung là sân rồng. Nghĩa bóng là thấy mặt rồng hay thấy mặt vua.

    CHÁNH VĂN

    17.- “Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh,
    Chốn trà đình xa lánh vãng lai.
    Tu hành nào luận mặn chay,
    20.-Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư.
    Nền đạo đức vị tư bất nhã,
    Ta đừng phân nhân ngã mới hay.
    Nhìn đời thế thái đổi thay,
    24.- Hết vinh tới nhục lẽ nầy thường xưa”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 17 đến câu 24)
    Đoạn giảng trên Đức Thầy nói rõ khi nhà tu thấu đạt mùi đạo diệu thì gỏi nem cũng không sánh bằng. Nên Ngài khuyên ông Ngà nên xa lánh những nơi trà đình tửu điếm. Còn sự chay lạt của người tu cũng chẳng nên phân biệt tranh luận cao thấp mà quan trọng ở chỗ tâm được thanh tịnh là thành đạo. Bởi còn ai câu chấp lạt chay bằng hình thức thì còn biệt phân tư vị, thế thì làm sao thoát khỏi luân hồi. Còn sự chê khen vinh nhục là sự câu chấp thường tình của thói đời chớ chưa ra khỏi vòng sanh tử.

    CHÚ THÍCH

    ĐẠO DIỆU: Sự tu cầu tiến đạo, nếu ai thấu đạt mùi vị của nó, thật sâu mầu khó tả. Đức Thầy từng nói: “Đạo mầu thâm diệu nan tri Lão bày”. Cũng như gỏi nem là hai loại ngon nhứt trong các thức ăn của người đời, nhưng cũng không thể so sánh với mùi đạo được.
    TRÀ ĐÌNH: Đọc cho đủ là trà đình tửu điếm, tức là nơi ăn chơi trụy lạc có đủ rượu trà cờ bạc, đàng điếm. Đức Thầy từng cảnh giác:
    “Lo ăn xài trà rượu xình xoàng,
    Chừng khổ não phàn nàn căn số”.

    VÃNG LAI: Qua và lại. Ý chỉ người tới lui nơi ăn chơi đàng điếm.
    MẶN VÀ CHAY: Ăn mặn là dùng những sanh vật có tri giác, có mạng sống biết đau đớn biết tham sống sợ chết còn phải chịu luân hồi trả quả như biết bao nhiêu loài vật khác.
    Còn ăn chay cũng gọi là trai, tức ăn những vật không có tri giác, mạng sống, như: Rau củ, tương chao, đậu hủ. Vì rất tôn trọng mạng sống của các loài hữu tình và cũng để tránh sát sanh luân hồi trả quả.
    NÀO LUẬN: Không nên hay chẳng cần phân biệt tranh luận chê khen chay mặn nhiều ít cao thấp khác nhau, mà chỉ vì lòng từ bi thương xót các sanh vật khác như mình.
    AN CƯ: Lòng được vào chỗ thanh tịnh, bất động như như, tức Niết bàn tịch tịnh. Tâm hồn luôn có bốn đức Từ, Bi, Hỉ, Xả:
    “Học câu hỉ xả đại từ,
    Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần
    .(Thiên lý ca)
    VỊ TƯ: Cũng viết là tư vị. Có nghĩa tâm vị kỷ riêng tư không ngay chánh.
    BẤT NHÃ: Không thanh bai tao nhã mà thô tục quá.
    NHÂN NGÃ: (Xem STTĐ, trang 289, tập 1, cột 1)
    THẾ THÁI: Nói cho đủ là thế thái nhơn tình hay nhơn tình thế thái. Có nghĩa là thói đời và tình người. Thói đời và tình người ở đây hay thay đổi nay vầy mai khác, vinh nhục khó lường.

    CHÁNH VĂN

    25.- “Đời vật chất văn minh chiều chuộng,
    Vì thời lai vận bỉ trải qua.
    Lòng sắt son đây đó nỏn nà,
    28.- Tâm não bít bê tha chậm trễ.
    Tu với tỉnh bảo toàn thân thể,
    Giữ đừng mòn linh tánh mới hay.
    Nỗi bút nghiên phận Lão cạn bày,
    32.- Câu diệu lý cơ huyền khó kiếm”.


    LƯỢC GIẢI
    Đoạn giảng trên Đức Thầy cho ông Tham tá Ngà biết: Thời nay do nền văn minh vật chất của Âu Tây cám dỗ, chiều chuộng làm cho dân Việt Nam ta phải say mê chạy theo khiến cho tâm hồn mê tối. Do đó, Đức Giáo Chủ khuyên hành giả trên đưòng tu thân lập hạnh rán gìn giữ linh tánh của mình luôn sáng suốt, đừng để mẻ mòn, u tối. Nay Ngài mượn bút mực khuyến khích mỗi người rán rèn luyện cho thấu đạt cơ huyền diệu lý.
    Tuy lời lẽ trong đây có khiêm nhượng, song nếu ai tìm ra ắt là thấu đạt.

    CHÚ THÍCH

    VẬT CHẤT VĂN MINH: Cũng gọi là văn minh vật chất. Có nghĩa người ta lo tiến bộ về vật chất tiền tài, trái ngược với văn minh tinh thần đạo đức.
    THỜI LAI: Thời vận tốt sắp đến.
    VẬN BỈ: Thời vận xấu.
    LÒNG SẮC SON: Cũng gọi là dạ sắc son. Do chữ Đan tâm. Có nghĩa lòng tốt đẹp trung thành, cứng bền và trong sạch không chút bợn nhơ, có thể ví như son đỏ. Đức Phật Thầy Tây An có dạy:
    “Sắt kia vào lửa mẻ mòn,
    Gan vàng tiết tháo lòng son mấy người”.
    NỎN NÀ: Mơn mởn, còn non tốt đẹp. Ví dụ: Hoa trái mới nở nỏn nà làm sao !
    TÂM NÃO BÍT: Tâm trí và tim óc. Bít là vách, là che khuất. Ý chỉ tâm và trí bị phiền não che bít. Lòng sắc son là lòng tốt, đối với tâm não bít (xấu).
    TU VỚI TỈNH: Thức tỉnh tu hành. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
    Đến tội rồi mới hối muộn màng
    .(Kh/thiện, Q.5)
    BẢO TOÀN THÂN THỂ: Giữ gìn thân thể cho được chu toàn, đây là nghĩa của chữ tu thân. Sách Thánh có câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đức Thầy cũng khuyên: “Muốn cho giải thoát phải tu thân”.
    ĐỪNG MÒN: Không bị mòn phai mất mát.
    LINH TÁNH: Tánh sáng suốt của mình đã có sẵn trong tâm trí của mỗi người: “Xe dây cho chặt mà nài tánh linh”.
    PHẬN LÃO: Bổn phận của Đức Thầy. Vì Ngài ra đời có trách nhiệm và bổn phận sáng tác Sấm Kinh độ chúng.
    DIỆU LÝ: Lý lẽ của Đạo rất cao sâu mầu diệu.
    CƠ HUYỀN: Máy trời rất kín đáo, khó hiểu. Hai điều : Thiên lý của đạo và bộ máy thiên cơ của trời đất khó mà thấu đạt. Song Đức Thầy khuyên người tu phải hành trì cho thấu đạt mới mong kết quả:
    “Chừng nào bổn đạo hiểu thông,
    Thiên cơ đạo lý để lòng mới thôi
    ”.(SG, Q.3)

    CHÁNH VĂN

    33.- “Sá chi kẻ dùng lời bao biếm,
    Chê Điên Khùng khó kiếm cho ra.
    Não tâm tràng sớm dứt ái hà,
    36.- Nên phải vội lìa xa cõi tạm.
    Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám,
    Đạo và đời thăm thẳm sâu xa.
    Diệm Hồng Liên thơ thới quần ca,
    40.-Tạo duyên giả phàm gian thân giả.
    Chớ lấy đó mà tâm buồn bã,
    Hiệp hòa nhau chờ đợi năm non.
    Kìa hỡi ai giữ phận cho tròn,
    44.- Sau huynh đệ có ngày hòa hiệp”.


    LƯỢC GIẢI
    Đức Giáo Chủ khai sáng nền Đạo, tuy có nhiều người khinh chê nhạo báng cho rằng Khùng điên khờ khạo, nhưng sau nầy “Tới chừng đến việc kiếm Thầy khó ra”. Hiện giờ tâm Ngài nhứt quyết dứt lòng luyến ái cõi trần để tìm ra chánh đạo, hầu đưa người vượt khỏi vòng hắc ám. Tuy hai con đường giữa đạo và đời chung cảnh chung nơi, mhưng duyên nghiệp và tâm hồn mỗi người chẳng giống nhau. Nếu ai hướng về Tây phương Cực lạc thì tâm hồn thư thái nỏn nà hưởng cảnh quần ca vui đẹp. Bằng gây tạo nhân duyên tạm giả cõi trần gian thì sống trong cảnh bấp bênh sanh tử.
    Đức Thầy còn cho ông Ngà biết, tuy hiện giờ hai anh em ông sống trong hai cảnh giới trần gian và Cực lạc khác nhau. Song nếu ông giữ cho tròn bổn phận của người tu hành, sau nầy sẽ được hòa hiệp nơi miền Năm non Bảy núi.

    CHÚ THÍCH

    BAO BIẾM: Khen và chê.
    ĐIÊN KHÙNG: Danh hiệu của hai thầy trò Đức Thầy lúc đi dạo lục châu:
    “Thầy Khùng trò lại hóa điên,
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    NÃO TÂM TRÀNG: Trí óc và tấm lòng.
    ÁI HÀ: Lòng thương yêu luyến ái vật chất: danh, lợi, tình của con người tràn ngập như sông biển. Người xưa từng khuyên:
    “Bể ái hà là dây oan nghiệt,
    Danh lợi tình càng xiết càng đau.
    Muốn ra khỏi chốn đồ lao,
    Dùng gươm trí huệ cắt mau lòng phàm”.

    Hoặc là:
    “Ái hà thiên xích lảng,
    Khổ hải vạn trùng ba.
    Thụ thoát luân hồi khổ,
    Cấp cấp niệm Di Đà”.

    (Ái tình sóng vỗ muôn nghìn,
    Nhận chìm bao kẻ lợi tình còn vương.
    Hướng tâm về cảnh Tây phương,
    Di Đà luôn niệm là đường an vui).
    HẮC ÁM: Đen tối, tức chỉ nơi tội lỗi luân hồi sanh tử.
    ĐẠO VA ĐỜI THĂM THẲM SÂU XA: Hai con đường mê và giác nhà tu hãy nhận xét cho thấu đáo để lánh mê về giác.
    DIỆM HỒNG LIÊN: Hoa sen hồng ở cõi Cực lạc tốt đẹp sặc sỡ, biểu trưng như sự siêu thoát trong sạch, không còn bợn nhơ trần trược.
    THƠ THỚI: Mơn mởn, nỏn nà, nhẹ nhàng. Ý chỉ hoa sen mới chớm nở.
    QUẦN CA: Cũng gọi là hợp ca. Đây chỉ cho cánh sen trong ao thất bảo cõi Cực Lạc gặp gió thổi ngân lên lời giáo pháp cho các thần thức trong hoa sen nghe để tinh tấn tu hành:
    “Gió đưa tiếng pháp ngân vang,
    Người nghe thơ thới lòng càng tiến tin”.

    (Cõi Cực lạc với Pháp môn Tịnh độ)
    NĂM NON: (Xem STTĐ, trang 247, tập 2, cột 1)
    GIỮ PHẬN: Giữ đạo, bởi đạo là bổn phận, nên các chữ giữ phận cho tròn, tức là giữ cho tròn cái đạo.


     
  9. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    45.- “Chớ nản chí đường tu bỏ líp,
    Trổi bước sang gặp Lão thế ngôn.
    Trổi hùng phong cốt cách duy tồn,
    48.- Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất.
    Lão cũng tỏ đôi lời khờ khật,
    50.- Câu huyền sâu cho đó ngụ ngôn.
    Mã song phi viễn vọng tâm hồn,
    52.- Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ”.


    LƯỢC GIẢI
    (từ câu 45 tới câu 52)
    Đoạn giảng trên Đức Thầy khuyên ông Tham Tá Ngà đã quyết chí tu hành thì phải kiên tâm bền chí, giữ vững lập trường trước sau như một.
    Hôm nay ông Ngà đến đây được Đức Thầy thế lời cho người anh để nói với ông như luồng gió mạnh. Tuy xác thân ông đã mất, chớ hồn thiêng vẫn còn mãi mãi…
    Đây là lời chơn thật tự đáy lòng của Ngài thốt ra để cho ông Ngà ngụ ý mà hiểu được lòng Ngài. Bởi kiếp sống của mỗi người chúng ta chẳng khác nào ngựa bay qua song cửa, không thể dừng lại được. Lại cũng giống như đoàn lữ hành đi lỡ đường phải ở lại trong quán trọ một đêm, làm quen nhau rồi sáng ra đường ai nấy đi.

    CHÚ THÍCH

    MÃ SONG PHI: Ngựa bay phớt qua song cửa rất mau lẹ, cũng như thân bằng quyến thuộc sống chung trong một gia đình, chỉ một thời gian rồi mạnh ai nấy đi theo duyên nghiệp của mình, chớ không sống chung mãi được. Như người xưa đã bảo:
    “Phụ mẫu thâm ân chung hữu biệt,
    Phu thê nghĩa nặng hữu phân ly.
    Nhơn tình tợ điểu đồng lâm túc,
    Đại hạn lai thời cát tự phi”.

    (Cha mẹ ơn sâu còn có biệt,
    Vợ chồng nghĩa nặng cũng phân ly.
    Nào khác chim kia rừng chung ngủ,
    Sáng lại chia đường mỗi hướng bay).
    HÀNH THẾ LỮ: Khách lữ hành đi mãn ngày dừng lại, ngủ trong quán trọ một đêm, rồi làm quen chuyện trò với nhau. Sáng lại ai về nhà nấy.
    HUYỀN SÂU: Sâu kín mầu diệu khó tả. Đức Thầy có câu:
    “Tịch mịch huyền sâu ai hiểu đặng,
    Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca”.

    (Ai người tri kỷ)
    NGỤ NGÔN: Mượn một lời nói, một bài thơ hay kể một câu chuyện mà có ngụ ý chỉ việc khác sâu xa hơn. Như chuyện “Con beo đá” Đức Thầy đã viết: “Gần cọp sao mi lại giống mèo”. Chuyện mất đoàn kết của ba con bò :
    “Ba con bò ở chung một chuồng,
    Hiệp bầy hiệp bạn như tuồng anh em.
    Bởi nghe tiếng siểm tiếng gièm,
    Trâu đen trâu trắng anh em rả rời.
    Sói rày vào dễ như chơi,
    Bắt bò ăn hết rồi đời cả ba.
    Chữ rằng quí tại ư hòa,
    Ba bò giúp một ai mà dám đương
    .(Ca dao)
    Chuyện mã song phi nói trên, Đức Thầy có ngụ ý chỉ cho thời gian đi qua rất mau lẹ, kiếp sống của con người rất ngắn ngủi.


    CHÁNH VĂN

    53.- “Giết cho sạch những loài sâu bọ,
    Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng.
    Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông,
    56.- Sanh hồi thiện đôi câu thành thật.
    Đêm vắn tắt vài lời để cất,
    Gác ngòi nghiên tạm biệt phàm gian.
    Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn,
    60.- Để chuyến khác cạn câu hoài vọng”.


    LƯỢC GIẢI
    (từ câu 53 tới câu 60)
    Đức Giáo Chủ mượn loài sâu bọ hay phá hoại hoa màu của người làm ruộng rẫy, để chỉ các món phiền não thường quậy phá đám ruộng tâm của người tu. Khi nào ta diệt được đám phiền não đó thì tâm mình được an định và trí huệ phát khai, rồi chuyển hóa ra ngôn ngữ, suốt thông giáo pháp. Bấy giờ tâm tư của ta được phục hồi tánh chí thiện từ trước.
    Đức Thầy viết bài giảng đến đây tạm dừng bút để tạm biệt phàm gian, giờ nầy trời cũng sắp rạng đông và trăng cũng vừa lặn. Ngài xin hẹn lại với ông Ngà khi có dịp khác sẽ trút cạn tâm tư.

    CHÚ THÍCH
    LOÀI SÂU BỌ: Sâu là các loại sâu bọ rầy mò; bọ hình nó giống như chuột, song nhỏ hơn thường phá hại mùa màng của nhà nông. Nhưng chữ sâu bọ ở đây Đức Thầy có dụng ý chỉ cho các món phiền não: Tham, sân, si hay thất tình lục dục.
    HUỆ TÂM KHAI: Trí huệ được khai mở sáng suốt, khi người tu hành diệt trừ hết vô minh phiền não thì tuệ giác thường sáng:
    “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
    Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.

    NGỮ CHUYỂN HUYỀN THÔNG: Từ lời nói thường chuyển ra ngôn ngữ thông minh đĩnh ngộ.
    SANH HỒI THIỆN: Sống trở lại gốc lành vô thỉ từ trước (nhơn chi sơ tánh bổn thiện)
    GÁC NGÒI NGHIÊN: Ngưng bút lại không viết nữa.
    RẠNG VỪNG MÂY: Trời vừa rạng đông, thường có vừng mây giăng ngang báo tin trời sắp sáng.
    BÓNG THỎ: Do chữ ngọc thố hay bạch thố. Tức là con thỏ bằng ngọc trắng. Nghĩa bóng là chỉ cho mặt trăng. Tục truyền trên cung trăng có con thỏ bằng ngọc.
    Trong kinh Phật cũng có kể lại sự tích:
    Ngày xưa có con thỏ tánh rất hiền từ, biết thương xót đồng loại. Bấy giờ gặp thời hạn hán, không còn các loại cỏ nuôi sống các loài thú. Các nhà thỏ khác lần lượt chết đói rất nhiều. Con thỏ nầy động mối từ tâm, mới kêu đồng bọn nói:
    “Các anh hãy mau lại đây tôi sẽ biếu cho thức ăn đỡ lòng”. Nói rồi thỏ tự nhảy vào đống lửa thiêu mình để hiến xác nó cho đồng loại đỡ đói trong ngày, chỉ còn lại bộ xương.
    Phật thấy vậy rất thương cảm tấm lòng hy sinh của thỏ nên dùng pháp diệu cứu thỏ sống lại và đem cho ở trên cung trăng. Từ đó về sau các văn nhân thường dùng ngọc thố hay bóng thỏ để chỉ cho mặt trăng.
    Nguyễn Du có câu: “Trải bao thỏ lặn ác tà”.
    Bài thơ văn nguyện của tác giả vô danh có nói:
    “Hỡi con Ngọc thố đà bao tuổi,
    Chớ chị Hằng Nga đã mấy con”.

    Và bài phú Nguyễn Hằng có câu:
    “Nghiệm một chút diều bay cá nhảy, mới hay đạo lý huyền vi. Thấy đôi vừng thỏ lặn ác tà, biết thuở cơ thường biến đổi”.
    Câu: “Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn” ở đây có ý nói: Trăng sắp lặn trời sắp sáng ra (chỉ cho thời gian hết đêm tới ngày).
    LẠC NHÀN: Mặt trăng sắp lặn.
    CẠN CÂU HOÀI VỌNG: Tỏ hết tâm tình mong ước của mình.

    CHÁNH VĂN

    (Tiếp đây là 5 bài thi Tứ cú)

    61.- Dặm tràng đó mới chuyến sang chơi,
    Tỏ ý Thần Tiên khá nhận lời.
    Huyền pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
    64.- Vô vi chánh đạo hỡi người ôi !

    ***
    Người ôi ! Chơn lý khổ lâu đời,
    Thâm cảnh diệu huyền hẹn một nơi.
    Hoà mặt trung ương tam điệp khách,
    68.- Đợi chờ thiên luật mới về ngơi.

    ***
    Về ngơi chốn ấy rõ như lời,
    Nào Lão có bày chuyện khuấy chơi.
    Vẽ việc trời xanh cho đó biết,
    72.- Một lòng gắn chặt chẳng xa lơi.

    ***
    Xa lơi đạo đức khổ tâm à,
    Học cũ ít bài Lão thiết tha.
    Bóng xế tà tây ôi ! Lắm thể,
    76.- Dạ hiền cất bút mượn thi ca.

    ***
    Thi ca nhiều nẻo thậm rồi đa,
    Hồi tị xứ thần dạy chuyện xa,
    Lánh thế chẳng bày danh Lão Sĩ,
    80.- Ngày nay các chỗ ngộ cuồng ca”.

    Hòa Hảo tháng 2 năm Canh Thìn
    (trong lúc ban đêm)

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 61 tới câu 80)
    1.- Đức Thầy tỏ lời với ông Tham Tá Ngà; đường xa ông mới sang thăm, những lời lẽ Ngài nói với ông toàn là của Thần Tiên. Vậy ông hãy thu nhận, lý lẽ trong đây chẳng những cao thâm huyền diệu mà có đúng theo chánh pháp vô vi của Phật.
    2.-Bởi chánh pháp vô vi tức là cái chơn lý tuyệt đối. Nó thâm sâu mầu diệu khó nghĩ bàn được. Nó vốn vô cùng mà cũng hữu cùng, không mà chẳng không (chơn không diệu hữu) chỉ cho khi nào hành giả thực hiện được cái chơn lý tuyệt đối đó và tam giáo Phật, Thánh, Tiên qui về một mối thì bá tánh vạn dân đều hạnh phúc an vui. Xưa nay luật trời đã qui định như vậy.
    3.-Phật Tiên Thánh bao giờ cũng dùng lời chơn thật ngữ để giáo hóa chúng sanh, chớ không bao giờ nói ngoa. Đức Thầy đã xác định rõ cơ luân chuyển của trời đất là một định luật bất di bất dịch, không thể nào sai chạy được.
    4.-Trên đường tu tiến, nếu hành giả nào để xa lơi đạo đức ắt sau nầy phải chịu khốn khổ muôn đời. (Một kiếp không tu muôn kiếp nhọc, Một giờ lầm lỗi, muôn thuở luân hồi) Đức Giáo Chủ vì lòng từ bi đem thiên cơ và đạo lý thiết tha chỉ dạy và vì cơ trời đã biến đổi sát bên lưng, nên Ngài vâng lịnh Phật Trời chuyển hóa lại đây để cứu độ:
    “Lòng yêu sanh chúng luân chuyển kiếp,
    Dạ ái dương trần đổi xác thân”.

    5.-Phương cách cứu dân độ thế của Ngài không hề chưng bày hay khoe khoang cổ võ mà chỉ tường thuật các lý do cứu thế và lời giáo hóa thôi để tự nhiên cho mọi người sau khi nghiệm xét lời kệ cơ của Ngài mà tự hiểu lấy.

    CHÚ THÍCH
    TỎ Ý THẦN TIÊN: Lời lẽ trong 5 bài thi Đức Thầy cho ông Tham Tá Ngà là ý pháp của Phật Thánh Tiên truyền xuống. Lúc Ngài mới khai Đạo, hằng đêm Ngài thường nói với tín đồ: “Để tôi ca Tiên cho các ông các bà nghe nhen !” Rồi Ngài cất tiếng đọc…
    HUYỀN PHÁP THÂM TRẦM: Lới giáo pháp của Phật mỗi khi thốt ra thì tiếng nghe rất thâm sâu mầu diệu.
    THƠM BẤT TUYỆT: Mùi vị của Kinh pháp thơm diệu, không có mùi vị nào so sánh được. Đức Thầy từng nói: “Xả thân tầm đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày”.

    (Từ giã Bổn đạo)
    HÒA MẶT TRUNG ƯƠNG TAM ĐIỆP KHÁCH: Hòa mặt là hợp mặt. Trung Ương: Trung tâm điểm cả thế giới. Tam Điệp Khách là ba vị Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng cùng nhau có một nhiệm vụ sắp đặt cuộc thái bình an lạc cho dân chúng được hưởng cảnh Tam Hoàng Thánh đức như thời xưa. Đức Thầy từng cho biết:
    “Hiền lành chừng đó sum vầy,
    Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
    Đến đó ta mới mừng cười,
    Nhìn xem Ngọc Đế giữa trời định phân.
    Thiên Hoàng mở cửa các lân,
    Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.
    Mười cửa xem thấy ghê hồn,
    Cho trần coi thử có mà hay không.
    Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
    Cũng là trừng trị kẻ lòng tà gian.
    Ấy là đến lúc xuê xang,
    Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Nguơn”.

    (Sám Giảng, Q.3)
    THIÊN LUẬT: Luật trời đất, đã sắp định sẵn.
    VẼ VIỆC TRỜI XANH: Dùng giấy mực diễn tả cảnh trạng sanh diệt trong trời đất.
    ĐẠO ĐỨC: (Xem STTĐ, trang 113, tập 1, cột 2)
    HỌC CŨ: Những bài học đạo đức, tốt đẹp của Phật Thánh Tiên thời xưa. Đức Thầy từng nói:
    “Theo tài học cũ nôm na,
    Hỡi ai trí thức tầm mà cạn sâu”.

    (Dặn dò Bổn đạo)
    BÓNG XẾ TÀ TÂY: Bóng mặt trời nghiêng hơn nửa ngày, tức từ khoảng 1 giờ tới 3 giờ chiều. Tà tây mặt trời ngã nghiêng về phương Tây. Đây chỉ cho hơn nửa ngày, sắp chiều tối.
    THICA: (Xem chữ TC vừa giải ở phía trước).
    THẬM ĐA: Thậm là rất; Đa là nhiều. Ý chỉ cho thi ca của Đức Thầy có nhiều ý rất sâu xa mầu diệu:
    “Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền”.
    HỒI TỊ: Rời ngôi vị trở lại trần gian. Hồi tị xứ thần: Vì có mệnh lệnh của Trời Phật, Đức Thầy tách rời cõi Tiên Phật trở lại cõi trần để giáo độ chúng sanh. Đức Thầy thường cho biết:
    “Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian”.
    (Lộ chút cơ huyền)
    Và: “Từ ngày mượn xác hồng trần đáo lai.
    Tháng năm Kỷ Mão đến nay,
    Khắp trong bá tánh gặp bài Sấm Kinh.
    Lời văn tao nhã hữu tình,
    Bởi vưng sắc lịnh thiên đình sai ra”.

    (Từ giã Bổn đạo khắp nơi)
    LÃO SĨ: Lão là người già, tu hành nhiều năm, và cao tuổi đạo, có hạnh đức hơn người thường, được nhiều người kính trọng, không luận xuất gia hay cư sĩ.
    Hiểu theo Phật học thì đây là bậc Trưởng Lão, tức gọi chung những bậc Tỳ Kheo có đạo đức cao tuổi hạ dài như các vị Trưởng Lão Đại Đệ tử của Phật: Trưởng lão Duy Ma Cật, Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề…Đây là chỉ các bậc tôn đức, đạo hạnh đầy đủ.
    Trong A Hàm kinh, Tôn giả A Nan có bạch hỏi Phật:
    - Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ Kheo hạnh đức ra sao và xưng hiệu như thế nào ?
    Phật trả lời:
    - Nếu là tiểu Tỳ Kheo thì nên xưng đại Tỳ Kheo là Trưởng lão, còn các Đại Tỳ Kheo thì gọi tiểu Tỳ Kheo ngay tên cũng được.
    Xưa nay các chức vị trong Thiền gia thì gọi các thầy Tăng trụ trì là Trưởng lão. (Trong Sắc tu Thanh qui Trụ trì Chương). Khi bắt đầu tôn thầy trụ trì thì kính xưng là Trưởng Lão. Còn Tổ Đình Sứ Quyển nay thì gọi người trụ trì của Thiền tông bằng Trưởng Lão.
    Từ Lão Sĩ trong bài giảng nầy thì Đức Giáo Chủ PGHH được xem là bậc Trưởng Lão hay là Lão Sĩ, và chỉ xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục thôi. Điều cấn thiết là ý Ngài muốn để cho bá tánh tự thâm ngộ được lời khuyến dạy của Ngài để lo hành đạo là tốt rồi.
    Trong Giảng mười Một hồi có đoạn Ngài Huệ Lựu nói: “Công ông Trưởng Lão giáo truyền”.
    Đức Thầy cũng cho biết:
    “Lão đây vưng lịnh Phật Tôn,
    Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành”.

    (Thiên lý ca)
    NGỘ CUỒNG CA: Giác ngộ được ý nghĩa lời thi ca của Đức Thầy.
    Đức Giáo Chủ viết Sấm Giảng thường xưng biệt hiệu là Cuồng Sĩ: “Cuồng Sĩ bao giờ cũng ngóng trông”. Danh từ Cuồng Sĩ: Người đời hay hiểu lầm hai chữ Cuồng Sĩ là một nhà tu hay nhà văn không thật tánh, nhưng ở đây Đức Thầy chỉ giả vờ để đánh lạc hướng người đời, chớ nó có ngụ ý đặc biệt hơn.


    Bài 10.-
    TỈNH BẠN TRẦN GIAN
    (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)

    CHÁNH VĂN
    (Bài 1)

    1.-“Nghiệp chướng lăng-loàn hại xác thân,
    Chuông lành buông tiếng vọng bon ngân.
    Cương-thường gánh nặng trai gìn trọn,
    4.-Tơ-tóc vai quằn gái vẹn phân.
    Nợ nước văn-chương toan báo đáp,
    Ơn nhà đạo-đức quyết đền ân.
    Khuyên người trí-sĩ mau mau tỉnh,
    8.-Giấc mộng Nam-kha chốn thế-trần”.


    XUẤT XỨ

    Bài “Tỉnh Bạn Trần Gian” trích trong “Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ” Đức Thầy sáng tác khoảng tháng Chạp năm Canh Thìn (1940), lúc Ngài còn bị người Pháp an trí tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn).

    VĂN THỂ

    Ngài viết 10 bài thi nầy theo lối vận văn, thể thất ngôn bát cú Đường luật, thập thủ liên hoàn thi, loại khuyến tu. Khởi đầu bằng câu:
    “Nghiệp chướng lăng loan hại xác thân”.
    Và chấm dứt bởi câu:
    “Phàm trần vẹn kiếp kiến Bồng Lai”.

    CHỦ ĐÍCH
    Đức Thầy giác tỉnh khách trần sớm tỉnh tâm tu tròn Nhân Đạo, vẹn đáp ơn nhà, nợ nước hầu thoát ly cuộc đời ảo mộng, để bước lên thuyền giác vượt khỏi luân hồi sanh tử.

    LƯỢC GIẢI
    (Bài 1)
    -Bài gồm có 4 đoạn, qua 2 câu mở đề (1 và 2) Đức Thầy cho biết: Từ vô thỉ do phiền não chướng chi phối; khiến chúng sanh gây tạo các nghiệp duyên, rồi phải luân chuyển trong cõi trần chịu muôn điều thống khổ.
    Vì lòng từ bi Đức Thầy lâm phàm khai Đạo, ngân lên tiếng chuông Đạo pháp, giác tỉnh khách trần sớm hồi tâm hướng thiện:
    “Nghiệp chướng lăng loan hại xác thân,
    Chuông lành buông tiếng giọng bon ngân”.

    -Đến cặp trạng câu (3 và 4): Theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” Đức Thầy đã đề vạch trước nhất mỗi tín đồ phải tu tròn Nhân Đạo.
    Nam xử trọn Tam cang Ngũ thường, Nữ giữ vẹn Tam tùng Tứ đức:
    “Cương thường gánh nặng trai gìn trọn,
    Tơ tóc vai quằn gái vẹn phân”.

    -Tới cặp luận (5 và 6), Ngài dạy: Việc đáp ơn đất nước không chỉ dùng chiến lược, vũ khí suông, mà cần phải áp dụng cả văn chương và trí tuệ, như các Cụ Trạng: Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Hiền; và các nhà sư: Khuông Việt, Vạn Hạnh và Đỗ Pháp Thuận…các Ngài chỉ dùng một bài điếu, hoặc một văn thơ đối đáp cũng đủ làm cho lân bang kính nể giao hòa.
    Còn về công ơn của Tổ tiên Cha mẹ, biết ơn nhà, hành giả phải trau giồi đạo đức cho đến khi thành công viên mãn mới mong đáp đền trọn vẹn:
    “Nợ nước văn chương toan báo đáp,
    Ơn nhà Đạo đức quyết đền ân”.

    -Tới 2 câu kết (7 và 8) Đức Thầy kêu gọi các giới có oai quyền trí thức, sớm tỉnh xét cảnh vinh hoa phú quí trong đời, chẳng qua là tuồng mộng ảo. chỉ có con đường đạo đức mới đưa ta đến chỗ trường tồn bất diệt:
    “Khuyên người trí sĩ mau mau tỉnh,
    Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần”.


    ĐẠI Ý

    -Bởi nghiệp chướng xéo vày khiến chúng sanh phải luân chuyển trong vòng khổ đau sanh tử; vì lòng từ ái Đức Thầy chuyển kiếp độ đời:
    “Đại đồng chuông Đạo bon ngân,
    Cho người trong mộng tỉnh lần giấc mê”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    Để khuyên mọi người sớm tỉnh cơn mộng huyễn và đáp xong nợ thế, hầu bước lên thuyền giác (Phật Đạo) vượt khỏi lề sanh tử.

    CHÚ THÍCH

    TỈNH BẠN TRẦN GIAN: Đức Thầy thức tỉnh mọi người đang sống chung trong cõi đời. Sở sĩ Ngài dùng 4 chữ “Tỉnh Bạn Trần Gian” đề tựa cho 10 bài thi liên hoàn nầy là có dụng ý nói lên tinh thần bình đẳng (Phật đối với chúng sanh đồng nhất thể bình đẳng như nhau). Đó là Ngài đặt mình vào một trong vạn loại chúng sanh, cùng sống chung trong cõi trần như nhau. Nhưng Ngài đã sớm giác ngộ, thấu đạt đạo mầu; nay có trách nhiệm đánh thức mọi người tỉnh giấc mê lầm, lánh xa tuồng mộng ảo để cùng tu, cùng tiến qua bờ giải thoát.
    NGHIỆP CHƯỚNG: Cũng gọi là chướng nghiệp. Nghiệp là nhân, hột giống, là việc làm gây tạo. Chướng là các vật ngăn che trở ngại. Kinh Phật giải, mỗi chúng sanh đều có ba nghiệp chướng: Phiền não chướng, nhân chướng và báo chướng. Đức Thầy nay cho biết: “Mỗi người đều có ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm 10 điều ác”. Chính đó là nguyên nhân luân hồi sanh tử, không thông đường giải thoát.
    LĂNG LOÀN: Lấn áp, quậy phá, làm xáo trộn, gây tác hại. Ý nói do nghiệp chướng sai khiến làm thân tâm con người phải chịu muôn ngàn khổ não và luân hồi mãi trong 6 nẻo, khó mà thoát ly ra được.
    CƯƠNG THƯỜNG: Cũng viết là Cang Thường: Giềng mối lớn của Đạo làm người, gồm có Tam cang: Quân thần, Phụ tử và Phu phụ. Và Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
    TƠ TÓC: Bổn phận của nữ giới, gồm có Tam tùng: Tùng phụ, tùng phu, tùng tử. Và Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. (Xem thêm trong Sấm Thi Từ Điển).
    NỢ NƯỚC: Cũng gọi là Ân đất nước, tức một trong 4 ân lớn. Mỗi công dân quốc gia nào đều phải thọ và đền đáp.
    VĂN CHƯƠNG: Văn là vẻ đẹp, văn hoa. Các điều gì diễn thành bài, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Chương là vẻ sáng, bày tỏ. Vậy văn chương là những điều diễn thành câu thành bài, ghi lại sự việc đã xảy ra hoặc do trí tưởng tượng mà diễn tả lời hay ý đẹp.
    ƠN NHÀ: Công ơn Tổ tiên Cha mẹ, một trong 4 ân lớn, “Ơn nhà tạm gát sau nầy trả”.
    ĐẠO ĐỨC: Chữ Đạo có nhiều nghĩa: Đạo là con đường, Đạo là bổn phận, Đạo là chơn lý tuyệt đối. Đức là tâm lành, từ bi bình đẳng. Người có đức là có lòng từ bi bình đẳng hay thương người mến vật, làm việc chân chánh hợp với lẽ phải và chơn lý.
    TRÍ SĨ: Có 2 nghĩa: 1./ Kẻ làm quan, từ chức về ở ẩn. 2/- Người có tài ăn học giỏi về sự đời (thế trí biện thông). Đây chỉ cho nghĩa thứ 2. Đức Thầy từng kêu gọi:
    “Hỡi ai tâm trí mau tâm Đạo,
    Tầm đấng hiền từ cứu thế gian”.

    GIẤC MỘNG NAM KHA: Cũng gọi là giấc Hòe (hòe an mộng). Do Lý Công Tá đời Đường làm bài “Nam Kha Ký” thuật chuyện Thuần Du Phần nằm ngủ dưới gốc cây hòe, mộng thấy mình đến nước Hòe an thi đậu, được vua gã Công chúa và phong làm quan Thái thú, trấn tại quận Nam Kha. Đến sau đi đánh giặc bị thua, Công chúa lại chết, vua đem lòng nghi ngờ cách chức đuổi về, khi thức giấc thấy mình còn nằm dưới gốc cây hòe. Phần nghĩ ra cuộc đời vinh sang, phú quí chỉ như giấc mộng thôi ! Ý chỉ cõi đời giả tạm.
    Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu:
    “Giấc Nam Kha khéo bất bình,
    Bừng con mắt dậy thấy mình tay không”.

    Đức Thầy thường cảnh tỉnh mọi người:
    “Bồi hồi chợt tỉnh Nam Kha,
    Đường danh nẻo lợi xem ra ích gì”.

    (Cảm Tác TVGL)

    CHÁNH VĂN (Bài 2)

    “Thế-trần tạm giả gạt đời ta,
    Lướt khỏi sông mê khỏi ái hà.
    Nhân-ngã, ngã-nhân đừng cách biệt,
    12.- Sắc không, không sắc chớ lìa xa.
    Diệu-huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo-thuật tà-tâm kiếm nẻo ra.
    Lóng-lánh gương xưa lời Phật dạy,
    16.- Hồng-trần ái-dục giết tài-hoa”.

    LƯỢC GIẢI
    Bài thi thứ nhì chia làn bốn đoạn. Qua 2 câu mở đề (1 và 2), ý nói sự vật trong đời đều là tạm giả, không chắc thật lâu bền; dù có vui đẹp cũng chỉ là phù hoa ảo ảnh. Thế mà chúng sanh chẳng nhận rõ để phải bị lầm lạc đáng tiếc. Như xưa có bốn người bạn tạo ra một thiếu nữ bằng gỗ, rồi cho là thật mà cãi vã tranh giành lẫn nhau. (Xem chuyện “Bị Gạt” trong quyển Điển Triết chọn lọc) Đức Thầy kêu gọi nhân sinh sớm thức tỉnh quay về nẻo Đạo để vượt khỏi sông mê bể khổ:
    “Thế trần tạm giả gạt đời ta,
    Lướt khỏi sông mê bể ái hà”.

    -Đến cặp trạng (3 và 4) Ngài khuyên nhà tu không nên phân chia ngã chấp, dù người hay vạn pháp xem bình đẳng như nhau. Vì nếu còn phân biệt nhân ngã thì còn luân hồi sanh tử mà hết phân biệt ngã nhân, tức tâm được bình đẳng như như, an vui giải thoát.
    Cho đến lý Sắc Không cũng thế, hành giả chẳng nên chấp Sắc bỏ Không, hay chấp Không bỏ Sắc. Bởi Sắc và Không vốn đồng nhất thể. Nhà tu trong khi hành đạo, lìa cả hai bên đối đãi và phải nhận Sắc tức là Không và Không tức là Sắc, có dung thông cả Sắc lẫn Không mới chứng được cái Chơn không diệu hữu:
    “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
    Sắc không, không sắc chớ lìa xa”.

    -Đến 2 câu luận (5 và 6), ý cho biết: Chơn lý của Đạo rất cao sâu huyền diệu và sáng mầu vô cùng tận, hành giả nên nương theo đó mà hành đạo cho đến ngày viên mãn.
    Lòng tà vạy là huyễn giả gạt lường, từ trước tới giờ vì chúng sanh chưa tỉnh giác, nên vẫn bước quanh quẩn theo sự khiến sai của nó. Nay đã thức tỉnh thì hãy:“Tìm đèn trí huệ lánh thân ra.(Than đời) để sớm thoát ly sanh tử:
    “Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.

    -Phần 2 câu kết (7 và 8) Đức Thầy kêu gọi khách trần nên xét lại từ xưa biết bao tấm gương xán lạn, bao lời lẽ của chư Phật đã giáo huấn và lưu truyền đến nay. Người sống trên đời có lắm kẻ tài ba xuất chúng, quyền chức cao sang, nhưng thường bị lòng ham muốn xúi dục đắm nhiễm: Danh lợi tình mà phải bị nó chôn vùi trong bể ái:
    “Lóng lánh gương xưa lời Phật dạy,
    Hồng trần ái dục giết tài hoa”.


    ĐẠI Ý
    Tóm tắt bài 2)
    Trần gian là cõi tạm và cũng là cạm bẫy, câu nhử chúng sanh phải đắm chìm trong bể ái. Hành giả nào muốn thoát ra hãy sớm giác ngộ tu hành, diệt lòng phân biệt nhân ngã, thông đạt lý sắc không, nưong đèn chơn lý và noi gương Phật Thánh, soi tan lòng ái dục để thành đạt mục đích giải thoát an vui.

    CHÚ THÍCH
    THẾ TRẦN: Cũng gọi là trần thế, tức cõi đời đầy bụi bặm nhớp nhơ đau khổ mà tất cả chúng sanh đang sống.
    SÔNG MÊ: Lòng mê nhiễm trần tục, mênh mang như sông biển. Sông mê đối với giác ngạn (Bờ giải thoát của chư Phật). Chính vì sự si mê (Vô minh) trần tục ấy mà chúng sanh phải luân hồi mãi trong ba cõi sáu đường. Đức Thầy bảo: Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ.(Lời khuyên bổn đạo)
    ÁI HÀ: Ái là yêu, Hà là sông. Ý nói sự luyến ái tình dục của chúng sanh tràn ngập như nước sông biển(Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba). Chính vì nó mà chúng sanh chìm đắm trong biển mê sông khổ. Đức Thầy khuyên: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt”. (Diệu pháp QM).
    NHÂN NGÃ, NGÃ NHÂN: Nhân là người, ngã là ta. Đây chỉ lòng còn phân biệt người, ta và của người của ta là khác nhau trong chỗ hơn thua, tốt xấu…nên còn sanh tử luân hồi:
    “Tâm trần tục còn phân nhân ngã,
    Thì làm sao thoát khỏi luân hồi”.

    (Kệ Dân, Q.2)
    Kinh Kim Cang, Phật dạy: “Nếu người tu không còn phân biệt nhân ngã, thì không còn câu chấp: tướng nhơn, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; tức chứng được cái chơn tướng của Như lai”.
    Đức Thầy nay cũng dạy:
    “Nhân ngã sân si cũng dẹp đành”.
    (Cho Giáo Đàng)
    SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC: Sắc là những cái gì có hình tướng, màu sắc, thấy và cầm nắm được. Không là những cái gì vô hình, vô tướng, chẳng thấy hay rờ mó được, nhưng nó vẫn có chớ chẳng phải không (chơn không mà diệu hữu).
    Về lý sắc không, Kinh Kim Cang, Phật dạy:
    “Sắc tức thị không, không tức thị sắc,
    Sắc bất dị không, không bất dị sắc”.

    (Sắc tức là không, không tức là sắc.
    Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc).
    Nhà tu khi rõ được lý sắc không, chẳng còn thiên chấp bên nào; nếu còn thiên chấp là còn biên kiến, không nắm được chơn lý (chánh kiến), như số người mù rờ một con voi, rồi tả hình dáng không giống nhau…chỉ có người sáng mắt (có trí tuệ) mới thấy được toàn diện của con voi.
    CHƠN LÝ: Cũng đọc là chân lý, tức là lý lẽ chân chính, thật tế rõ ràng, là lẽ phải không chối cãi khác được (đối với ngụy lý)
    Xưa, Đức Phật dạy chư đệ tử:
    Tất cả những sự thật, theo suy nghiệm riêng của các người và sau khi xác nhận rõ ràng, phù hợp lẽ phải, tạo thành hạnh phúc cho các ngươi và tất cả mọi người thì đó chính là chơn lý. Các ngươi nên cố gắng sống theo chơn lý ấy”.
    Chơn lý lại có hai phần:
    1/- Chơn lý Tương đối: Là lý lẽ tương đối với nhau mà có, như nóng với lạnh, tốt với xấu, sống chết, có không…lại nữa có ba định luật giúp cho người nhận đúng chơn lý: - Luật nhân quả - Luật hằng chuyển - Luật bình đẳng.
    2/- Chơn lý Tuyệt đối: Lý lẽ tự nhiên sẵn có từ vô thỉ không thay đổi, đồng nghĩa với chữ Đạo. Nghĩa nầy rất thâm sâu không thể dùng văn từ, ngôn ngữ mà giải bày hết được, chỉ có tu hành khi đạt được bản tâm, gọi là trực nhận được chơn lý. Kinh Di Đà dạy:“Lý viên ngôn thông, ngôn sanh lý tán”. (Chơn lý viên dung thật tướng, nếu dùng lời nói mà cho chơn lý thì chắc là thiên lệch và làm mất chơn lý đi).
    Để dung hòa sự lý, Ngài Phụ Đà Mật Đa có thuyết Kệ: “Chơn lý vốn không tên,
    Nhơn tên rõ chơn lý.
    Tọ được pháp chơn thật,
    Chẳng chơn cũng chẳng ngụy”.

    Vậy người tu hành nhớ nương theo chơn lý mà đạt đạo.
    DIỆU HUYỀN: Sâu kín mầu nhiệm, ngoài sức hiểu biết của thế gian. Chỉ có người nhứt tâm hành Đạo mới thấu đạt.
    ẢO THUẬT: Giả dối, có ra không, không ra có; giả thành thật, thật thành giả…Ví dụ: Trò ảo thuật, không thật thể lâu bền:
    “Tuồng huyễn hóa ai bày ra đấy,
    Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
    Trăm năm còn có gì đâu ?
    Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”.

    TÀ TÂM: Cũng gọi là tâm tà, tức lòng gian ác tà vạy không ngay chánh thành thật. Đức Thầy khuyên:
    Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.(Thiên lý ca)
    LÓNG LÁNH: Cũng gọi là long lanh hay óng ánh. Có nghĩa phản chiếu sáng sủa. Ý chỉ lời nói và hạnh tướng của những người đã có tâm đức và hành động thiện lương chơn chánh đều được sử sách noi ghi, để cho người sau noi dấu.
    HỒNG TRẦN: Bụi đỏ, ý chỉ cõi đời đầy bụi bặm nhớp nhơ đau khổ. Đức Thầy viết:
    “Cả hồng trần đau thương thống thiết…”
    Và:
    Biển hồng trần lao lý diệu vơi”. (Kh/thiện, Q.5)
    ÁI DỤC: Thương yêu luyến ái tình dục, hoặc tham muốn các điều dục lạc.
    TÀI HOA: Tài giỏi và hào hoa phong nhã, đều được nhiều người chung quanh khen chuộng:
    Hồng nhan là bả của người tài hoa”.(Ca dao)

    CHÁNH VĂN
    (Bài 3)

    “Tài-hoa cho lắm, lắm nàn tai,
    Trụy-lạc phong-trần chốn gốc gai.
    Nếu đả tỉnh tâm tầm lẽ thẳng,
    20.- Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay.
    Sân-si phỏng có điều thêm bận,
    Nhẫn-nhịn ắt không chyện kéo dài.
    Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
    24.- Phải toan sắm-sửa rứt trần-ai”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài thi thứ ba có 4 đoạn: Đoạn một, qua hai câu mở đề (1 và 2), ý cho biết xưa nay trong đời, những người tài ba xuất chúng thường hay gặp nhiều tai nạn “Tài tai hai chữ cân phân”.( Đức Thầy) Song nếu người có đạo đức dù khó khổ gì rốt cuộc cũng vượt qua. Còn kẻ hữu tài mà thiếu hạnh đức, để tâm phóng dật theo con đường sa đọa tửu, sắc, tài, khí ắt gặp nhiều gian nan vất vả, và ngày chung cuộc phải đọa lạc trần mê, để tiếng đời sau chê trách:
    “Tài hoa cho lắm, lắm nàn tai,
    Trụy lạc phong trần chốn gốc gai”.

    -Đến cặp trạng (3 và 4) Đức Thầy kêu gọi những ai đã giác tỉnh tu hành, hãy tìm con đường ngay chánh (Đạo) mà nương theo. Sớm lo tu rèn tâm tánh cho được thuần lương cao khiết, ắt có ngày đạt được Đạo quả:
    “Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
    Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    Và: “Nếu đã tỉnh tâm tầm lẽ thẳng,
    Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay”.

    -Qua cặp luận (5 và 6), có ý dạy: Sân hận và mê si là hai điều ác của ý nghiệp và nó cũng là hai món phiền não căn bản: “Giận mất khôn”. Chính nó khiến con người hay gây thù kết oán, vay trả ràng buộc lưu truyền, khó thoát vòng sanh tử. Bằng ai biết nhẫn nhục, từ bi, buông xả hết oán ân phiền não, tức tâm trí luôn được an tịnh dứt nghiệp luân hồi, thong dong trên đường giải thoát:
    “Sân si phỏng có điều thêm bận,
    Nhẫn nhịn ắt không chuyện kéo dài”.

    Hai câu kết (7 và 8) Đức Thầy kêu gọi những ai còn mê đắm trong bể hồng trần hãy sớm giác tỉnh quay về nẻo Đạo. Đồng thời lo trang bị cho mình có đủ phương tiện hầu thoát ly cảnh trần ai sầu khổ:
    “Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
    Phải toan sắm sửa rứt trần ai”.

    ĐẠI Ý : (Tóm tắt bài 3)
    Chữ tài thường gặp chữ tai”, đó là định luật trong đời, ít ai tránh khỏi. Đức Thầy kêu gọi khách trần sớm thức tỉnh nương về nẻo Đạo, tu rèn tâm trí diệt sạch lòng mê si thù hận, nhẫn nhục từ bi để dứt nghiệp trái oan hầu bước lên bờ giác, vượt khỏi vòng trần ai sầu khổ.

    CHÚ THÍCH
    NÀN TAI: Gặp nhiều tai nạn, gian lao vất vả.
    TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ thấp hèn, trà đình tửu điếm, tiêm nhiễm tửu, sắc, tài, khí:
    “Gặp hồi trụy lạc đạo càng xa”.
    (Nghĩ việc huyền ca)
    PHONG TRẦN: Gió bụi. Ý chỉ cõi đời đầy nhớp nhơ, gian lao vất vả:“Đã đày vào kiếp phong trần”.(Tr.Kiều) Đức Thầy cũng từng bảo:
    “Kẻo kiếp phong trần vày gió dạn sương”.
    CHỐN GỐC GAI: Nơi có nhiều gian lao khổ sở, cạm bẫy chông gai, ai vướng vào khó gỡ ra:
    “Đường gai gốc thiên sơn vạn hải”.
    (Xuân hạ tác cuồng thơ)
    TỈNH TÂM: Lòng thức tỉnh sáng suốt, hết mê lầm.
    TẦM LẼ THẲNG: Tìm ra giáo pháp đúng chơn lý mà nương theo
    RÈN TÁNH: Sửa đổi tâm tánh cho được sáng suốt thuần chánh không còn nghĩ tưởng việc quấy ác tà vạy. Đức Thầy từng khuyên:
    “Tu rèn tâm trí cho mình,
    Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau”.

    GẶP ĐÀNG NGAY: Thấu đạt được con đường Đạo đức chơn chánh.
    SÂN SI: Sân hận và mê si, hai điều ác trong ý nghiệp, cũng là hai món phiền não trong ngũ độn sử. Sân si còn có nghĩa tánh hay giận hờn cãi vã, cưu thù kết oán.
    PHỎNG CÓ: Sẽ có, ắt có.
    NHẪN NHỊN: Nhịn nhục trước sự khó khăn thử thách, nín lặng khi đối cảnh hơn thua, cãi vã, chưởi mắng để đem lại sự hoà khí an vui. Đây là phương cách trừ tính nóng giận:
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận”.(Kh/thiện, Q.5)
    HỒN MÊ: Tinh thần mê muội, tối tăm lầm lạc. Chỉ cho các giới chúng sanh.
    GIÁC: Tỉnh ngộ sáng suốt, hết mê lầm. Giác đồng nghĩa với trí tuệ và Phật:Phật là giác giả, giác giả là tỉnh giả”.( Đức Thầy) Giác là từ đối vơi mê. Giác là Phật là giải thoát an vui, mê là chúng sanh, là luân hồi sanh tử.

    CHÁNH VĂN (Bài 4)

    “Trần-ai chỉ có thú phong-lưu,
    Tranh-đấu thành ra mãi oán cừu.
    Công cuộc chỉ mang câu thất vọng,
    28.- Xong đời ghi chặt mối sầu ưu.
    Cổ kim máy tạo nhiều huyền-bí,
    Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu.
    Cũng chẳng cướp xong quyền võ-trụ,
    32.- Mà còn đeo đắm thú phong-lưu”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài thi thứ tư của Tỉnh Bạn Trần Gian, gồm có 4 đoạn. Đoạn 1 qua hai câu mở đề (1 và 2), ý nói người sống trong cõi trần, phần đông ai cũng xem sự cao sang sung sướng là hơn hết, nên họ lo đấu tranh giành giựt lẫn nhau, nhưng suốt cưộc đời đâu chẳng ra đâu, lại còn vướng lấy hận thù, hết kiếp nầy sang kiếp khác:
    “Trần ai chỉ có thú phong lưu,
    Tranh đấu thành ra mãi oán cừu”.

    (Tỉnh bạn Trần gian)
    -Đoạn 2 (3 và 4) nhận rằng sự đấu tranh trả thù kết oán ấy mấy ai được toại nguyện mà chỉ thấy thất vọng là nhiều. Mãi đến ngày giã biệt cõi đời vẫn còn ôm theo một khối sầu lo hận tủi:
    “Chung cuộc chỉ mang câu thất vọng,
    Xong đời ghi chất mối sầu ưu”.

    -Đến cặp trạng (5 và 6). Xưa nay luật xay vần của tạo hóa rất sâu mầu khó tả. Còn sự tính toan, mưu xảo của con người cũng chẳng vừa. Họ dùng đủ kế sách gian ngoa để đạt được kỳ vọng, song ngày kết cuộc đâu chẳng ra đâu:
    “Cổ kim máy tạo nhiều huyền bí,
    Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu”.

    -Đoạn bốn 2 câu kết (7 và 8) ý cho biết dù loài người có trăm mưu ngàn kế cũng không thể chinh phục được thiên nhiên vũ trụ hay đảo ngược định nghiệp “Thành, Trụ, Hoại, Không”. Thế mà họ vẫn còn mê đắm những trò phong lưu ảo ảnh làm gì ?
    “Cũng chẳng cướp xong quyền võ trụ,
    Mà còn đeo đắm thú phong lưu”.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 4)
    -Nhân loại sống trên cõi đời vì muốn chiếm hữu sự cao sang quyền quí mà phải đấu tranh gây thù kết oán, để ngày chung cuộc cũng không một ai đạt được kỳ vọng, lại còn ôm mối hận sầu miên viễn. Luật tạo hoá tuy vô hình, nhưng rất công minh thực thể, không một chúng nhân nào làm ngược lại. Thế, người đời sao chẳng sớm thức thời lánh xa tuồng huyễn hóa ?

    CHÚ THÍCH
    PHONG LƯU: Hào hoa phong nhã. Nghĩa bóng chỉ người hay chơi bời phóng túng . Thú phong lưu là thú ăn chơi trụy lạc: “Bình Khang là xóm phong lưu”. (CT)
    TRANH ĐẤU: Cũng gọi là đấu tranh, có nghĩa là giành giựt tranh chiến với nhau, giữa hai người, hai phe nhóm hoặc hai nước để giành giựt quyền lợi về mình.
    OÁN CỪU: Cũng gọi là cừu oán. Có nghĩa giận ghét, thù hằn với nhau.
    THẤT VỌNG: Điều mong muốn mơ ước không thành.
    SẦU ƯU: Buồn rầu lo lắng.
    CỔ KIM: Xưa và nay.
    MÁY TẠO: Cơ trời, luật tạo hóa. Đức Thầy có câu: Huyền cơ máy tạo xây vần”.
    Hoặc là:
    “Quyết xây máy tạo gánh gồng chưa yên”.
    (Tự Thán)
    HUYỀN BÍ: Huyền diệu sâu kín:
    Ta ra sức viết câu huyền bí”.(Giác Mê TK, Q.4)
    LÃO ẤU: Già trẻ, nam nữ.
    VÕ TRỤ: Cũng viết là vũ trụ. Khắp cả không gian và suốt thời gian. Nói chung là chỉ trời đất, tinh tú và vạn vật. Đức Thầy có câu:Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật”.

    CHÁNH VĂN (Bài 5)

    “Phong-lưu nào phải gọi người ngoan,

    Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn.
    Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược,
    36.- Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang.
    Tuổi già thân yếu đa sầu cảm,
    Tóc bạc mình ve lắm rộn-ràng.
    Biết được trần-gian là mộng huyễn,
    40.- Tử thần sửa soạn kéo vào quan”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 5, qua hai câu mở đề (1 và 2) ý cho biết con người ở đời, sống với nếp sống cao sang quyền quí cũng chưa phải là người khôn ngoan tài trí, vì thường bị sa ngã vào vòng trụy lạc, gây tạo nhiều tội lỗi, rồi vương lấy tai nàn thống khổ:
    “Phong lưu nào phải gọi người ngoan,
    Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn”.

    -Đến cặp trạng (3 và 4), ngày giờ đến rồi đi và đi luôn mãi không bao giờ đảo ngược, thời gian xoay chuyển cũng thế, tuy thấy rất chậm, song vẫn vận hành theo định luật chớ không khi nào dừng lại:
    “Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược,
    Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang”.

    -Hai câu luận (5 và 6) ý nói mỗi người sanh ra thì lớn, lớn tất phải già. Cái thân già nua tất phải đau yếu và hay nóng nảy sanh sự hờn duyên tủi phận, ít khi nào được yên vui thư thái. Lại thêm xác thể của người già thì tóc bạc, răng long, lưng cong gối mỏi, thân hình gầy ốm, thường hay gặp nhiều việc bận rộn, khó khăn:
    “Tuổi gìa thân yếu đa sầu cảm,
    Tóc bạc mình ve lắm rộn ràng”.

    -Đến hai câu kết đề (7 và 8) mỗi chúng sanh có mặt trong cõi trần là do nghiệp mê ràng buộc, rồi tham chấp xác thân nầy là thật, và vạn vật còn mãi trong thế gian. Chẳng ngờ nó thay đổi từ sát na, hết tuổi xuân xanh tới già nua cằn cổi, kế bịnh rồi chết mất. Một khi ta nhận ra kiếp người là ảo mộng thì lưỡi hái tử thần kề bên, và chiếc quan tài cũng chờ trực đưa ta về cõi chết:
    “Biết được trần gian là mộng huyễn,
    Tử thần sửa soạn kéo vào quan”.

    ĐẠI Ý (Tóm tắt bài 5)
    Tỉnh Bạn Trần Gian 5, ý nói con người vì ham sống lối phong lưu đài các, ăn chơi trác táng, rồi chịu vô vàn khổ nạn. Thời gian qua, qua mãi chẳng dừng và cái thân tứ đại của ta cũng biến đổi theo định luật sanh, già, bịnh, chết. Khi chúng ta nhận ra được thì quá muộn, bởi tử thần đã trực sẵn một bên.

    CHÚ THÍCH
    SA NGÃ: Rơi rớt vào chỗ hư hỏng thấp hèn, ăn chơi trụy lạc.
    KHỐN NÀN: Cũng gọi là khốn nạn. Có nghĩa gặp tai nạn, khó khăn, khốn khổ…Ví dụ: Nên thương những kẻ khốn nàn.
    MÌNH VE: Thân gầy ốm, thon nhỏ lại.
    RỘN RÀNG: Bận rộn nhiều việc.
    TRẦN GIAN: (Xem CT lời tựa bài).
    MỘNG HUYỄN: Cũng gọi là mộng ảo. Mộng là giấc chiêm bao; Huyễn là giả dối không thật có. Ý nói kiếp sống con người, và mọi cảnh vật vinh sang phú quí đều là tạm giả, không bền chắc lâu dài. Ví như chiêm bao tối còn sáng mất. Kinh Quán Vô Lượng Thọ có câu: “Cả thảy sự vật trong đời dầu có rồi cũng mất, giống như giấc chiêm bao, không thật. Lại cũng như tiếng vội kêu lên rồi hết (Giác liễu nhất thiết pháp, du như mộng, như hưởng).
    Đức Thầy nay từng chỉ bảo (trong bài Cảm tác): Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo”.
    Nên Ngài từng kêu gọi:
    “Dương gian mau tỉnh trong tràng mộng,
    Tầm kiếm nơi nào Đạo siêu cao”.

    (Hai mươi tháng Chạp)
    TỬ THẦN: Thần chết. Vì cái chết làm cho con người mất mạng nên ai cũng ghê sợ, coi nó như vị thần đến bắt hồn, khiến cho xác thể phải chết. (tích “Trốn tử thần”)…
    Theo giáo lý nhà Phật chỉ có người tu hành khi chứng Đạo vào Niết Bàn, Cực lạc thì:
    “Tử thần kia đấu dám bắt hồn,
    Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử
    .(Kh/thiện, Q.5)
    KÉO VÀO QUAN: Liệm vào quan tài, tức là cái hòm đựng xác người đã chết đem đi chôn.
    Thời xưa tại huyện Ngô, tỉnh Giang Tô (Tr. Hoa), có một ngôi chùa hiệu là Tô Châu, sư trụ trì là Viên Thủ Trung, đã tu hành lâu năm và chứng đạo.
    Bình nhựt, Sư thường bày trên án thư một cái quan tài bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nấp đậy mở được. Hôm nọ, có ông khách đến viếng chùa, thấy vậy liền cười, hỏi:
    - Sư chế ra cái nầy dùng để làm gì ?
    Sư ôn tồn đáp:
    - Con người có sống tức có chết, khi chết rồi phải vào ngay cái nầy. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết lo sao cho mình chóng đạt phú quí, công danh, tài sắc…bao nhiêu thị hiếu lo buồn chi phối, thân tâm phải vất vả suốt đời, chẳng nghĩ đến cái chết là gì !
    Như tôi đây mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền cầm lấy cái nầy mà ngắm, tức khắc tâm được yên ổn và muôn nghìn tư lự, buồn phiền đều tan sạch như hư không.
    Cái quan tài nhỏ nầy đủ thay cho lời giáo huấn và giới răn của bậc nghiêm sư. Chính nó là một tấm gương sáng, một bài học quí giá được được để ngay trước mặt, hai bên để nhắc nhở chúng ta vậy !

    CHÁNH VĂN (Bài 6)

    “Kéo vào quan-quách biết bao người,

    Cảnh sống sum-vầy phỏng mấy mươi ?
    Lắm lúc đua chen vui lẫn giận,
    44.- Nhiều khi vùng-vẫy khóc pha cười.
    Tuồng đời chuốt-ngót cho xong chuyện,
    Cuộc thế trau-giồi mượn tấc hơi.
    Nín thở nằm ngay không cựa quậy,
    48.- Xót thương con trẻ khóc đôi lời”.


    LƯỢC GIẢI

    -Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 6, qua hai câu Khai đề (1 và 2), ý nói xưa nay nhân loại sống trong trần, sự an vui sum hiệp của mỗi gia đình chẳng được bao lâu rồi thì kẻ trước người sau, ai ai cũng phải đi vào cõi chết:
    “Kéo vào quan quách biết bao người,
    Cảnh sống sum vầy phỏng mấy mươi ?”.

    -Tới cặp trạng, qua hai câu (3 và 4), ý cho biết thời gian chung sống trong gia đình, giữa thân bằng quyến thuộc, cha con chồng vợ, bao cảnh vui buồn thương xót xảy ra, không một gia đình nào vượt khỏi:
    “Lắm lúc đua chen vui lẫn giận,
    Nhiều khi vùng vẫy khóc pha cười”.

    -Đến hai câu luận (5 và 6), kiếp sống của mỗi người chẳng khác nào một tuồng hát, luôn có sự tính toan lo nghĩ: Nào xoay trở làm sao cho mình có tiền của ruộng vườn, tước quyền danh vọng, nào trau giồi chưng diện, ăn sang mặt đẹp, con cháu đầy nhà. Sự hưởng thụ ấy chẳng qua là ta còn trong hơi thở, song một khi hơi thở dứt đi thì mọi việc đều thôi:
    “Tuồng đời chuốt ngót cho xong tiếng,
    Cuộc thế trau giồi mượn tấc hơi”.

    -Phần hai câu kết (7 và 8), ý nói lúc sống còn ai cũng lo tranh đấu mạnh được yếu thua, tham cầu bảo thủ những vật chất phù hoa. Một khi số vô thường gõ cửa thì mọi vật đều buông, chỉ còn nghe những tiếng nấc nghẹn của thân bằng quyến thuộc khóc than thương tiếc:
    “Nín thở nằm ngay không cựa quậy,
    Xót thương con trẻ khóc đôi lời”.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 6)
    -Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 6, Đức Thầy diễn tả kiếp sống của nhân sanh, có mấy ai được an vui mãi mãi, chỉ thấy bao sự đau buồn giận tức bao vây dồn dập. Cho dù ta có ngôn ngữ khéo khôn hay chen lấn cho cuộc sống còn, nhưng đến khi trút hơi thở cuối cùng thì những cái gì có hình tướng đều tan biến, chỉ còn nghe những tiếng nấc than rên khóc của người thân.

    CHÚ THÍCH
    QUAN QUÁCH: Quan là cái hòm lớn; Quách là cái hòm nhỏ. Nói chung quan hay quách cũng là cái hòm để liệm xác chết vào đó rồi khiêng đi chôn.
    CHUỐC NGÓT: Trau chuốc ngọt ngào. Đây chỉ lời nói khéo léo. Khiến người dễ cảm và tin tưởng.
    MƯỢN TẤC HƠI: Hơi thở rất ngắn ngủi yếu ớt. Người ta nhờ hơi thở mà sống.
    Xưa, có lần Đức Phật hỏi chư đệ tử:
    - Kiếp sống của con người là bao lâu ?
    Vị thứ nhứt đứng lên bạch:
    - Theo con nghĩ kiếp sống của con người rất ngắn ngủi, chừng một năm thôi.
    Phật đáp:
    - Hiểu vậy chưa đúng !
    Vị thứ nhì nói kiếp sống của mỗi người chỉ như một ngày thôi ! Bạch Phật.
    Tới vị đệ tử thứ ba đứng lên nói:
    - Bạch Đức Thế Tôn theo con nghĩ kiếp sống của mỗi người chỉ qua một hơi thở thôi. Vì còn thở là sống mà hết thở là chết.
    Phật gật đầu đồng ý với vị thứ ba và nói tiếp:
    - Đúng thế, vậy các ông rán hành đạo kịp trước khi chết.
    Cũng theo ý nầy, nay Đức Giáo Chủ PGHH khuyên các tín đồ:
    “Phải rán tu đặng mà chết,
    Chớ đừng để chết đếm mà chẳng có tu”.
    (Tư Tưởng)
    KHÔNG CỰA QUẬY: Nằm yên không động đậy, nhúc nhích. Đây chỉ cho người chết.

    CHÁNH VĂN (Bài 7)

    “Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,

    Ma lớn chay to phí lắm tiền.
    Tưởng vậy xác thân đa hạnh-phúc,
    52.- Nào hay hồn-phách lắm oan-khiên.
    Thiên-đường siêu-thoát thời thong-thả,
    Địa-ngục trầm-luân ắt đảo-điên.
    Nên chọn một nơi thanh-tịnh ấy,
    56.- Rứt trần bất nhiễm mới là yên”.


    LƯỢC GIẢI
    -Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 7, qua hai câu đề (1 và 2) thông thường trong gia đình nếu có một người chết thì thân quyến, con cháu khóc than kể lể thảm thiết. Việc tang ma họ tổ chức tiệc lễ linh đình, sát sanh hại vật cúng tế; làm thế, thêm tổn phí tiền của, chớ không đem lại lợi ích gì:
    “Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,
    Ma lớn chay to phí lắm tiền”.

    -Đến 2 câu trạng (3 và 4) người ta quan niệm việc tổ chức đám tang long trọng là được xóm làng khen ngợi, gia tộc vinh vang. Nào ngờ làm như thế, chẳng những tốn hao tiền của mê tín dị đoan, lại còn khiến cho người chết mang nghiệp sát hại mà phải luân chuyển báo đền kiếp nầy sang kiếp khác:
    “Tưởng vậy xác thân đa hạnh phúc,
    Nào hay hồn phách lắm oan khiên”.

    (Chuyện Mục đồng cho trâu ăn cỏ)
    -Phần cặp luận (5 và 6) Đức Thầy phân tách hai cảnh giới Thiên đường và Địa ngục, nếu ai biết giác ngộ tu hành thương người mến vật, bố thí phóng sanh, tránh nghiệp sát hại; khi chết được siêu thoát lên thiên đường hưởng sự tiêu diêu khoái lạc. Còn kẻ nào mãi mê tín, sát sanh hại vật cúng tế người quá vãng, tất bị nghiệp báo sa đọa vào cảnh giới địa ngục chịu hành phạt vô cùng khổ sở:
    “Thiên đường siêu thoát thời thong thả,
    Địa ngục trầm luân ắt đảo điên”.

    -Đến hai câu kết (7 và 8) Đức Giáo Chủ khuyến tấn hành giả nên chọn con đường hành thiện, tránh ác để được siêu thoát về thiên đường hưởng cảnh trong sạch an vui. Đồng thời tránh xa con đường địa ngục bằng cách ngăn chừa các nghiệp ác, dứt sạch lòng đắm nhiễm hồng trần:
    “Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
    Lẫn tục đừng mê chứng bậc hiền”.

    Và: “Nên chọn một nơi thanh tịnh ấy,
    Rứt trần bất nhiễm mới là yên”.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 7)
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 7 Đức Thầy khuyên: Khi gia đình có người từ trần, không nên than khóc kể lể hay bày tiệc linh đình. Vì làm thế chẳng có ích chi, lại còn khiến cho người chết phải mang thêm nghiệp quả. Hãy nhận rõ Địa ngục là nơi đầy khổ não, đen tối cần nên xa lánh. Còn Thiên Đường là nơi siêu thoát thong dong, nhà tu nên chọn nơi cao khiết đó mà tiến thân.

    CHÚ THÍCH

    HÀN HUYÊN: Ấm và lạnh, tức lời hỏi thăm sức khỏe và sự làm ăn sanh sống. Câu “…kể lại nỗi hàn huyên”, có nghĩa vừa khóc vừa kể việc người chết lúc còn sống đối với mình.
    MA LỚN CHAY TO: Tổ chức cuộc tang ma long trọng. Từ xưa các nhà giàu sang, khi trong nhà có người chết họ tổ chức đám tang rất rình rang, như: sát giết bò heo đãi đằng cúng tế, trống kèn lễ nhạc, mời thỉnh các thầy chưng bông (?) tụng kinh cầu siêu, hát Phật hoặc đốt giấy tiền vàng bạc, xá phướn lầu kho…Xét ra các tục lễ ấy không có ích chi và cũng chẳng đúng chơn lý của Đạo Phật.
    HẠNH PHÚC: Được vận may phúc tốt, mọi việc đưa đến như ý. Chính hạnh phúc là cái tốt lành trong luân lý và lý tưởng của Đạo đức. Cổ thi có câu: “Tìm chơn hạnh phúc thoát đường trái oan”. Đức Thầy nay cũng nói:
    “Biết làm sao gieo đạo khắp đại đồng,
    Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc”.

    (Không buồn ngủ)
    HỒN PHÁCH: Phần khôn biết của con người. Lão Giáo và Khổng Giáo gọi là hồn phách hay là hồn vía. Phật Giáo gọi là thần thức, hữu hay ấm. Người ta thường nói “bay hồn khiếp vía” hay hồn bay phách tán.
    OAN KHIÊN: Mối thù từ kiếp trước kéo tới kiếp nầy, có khi phải tới kiếp sau nữa. Ý nói nếu ta giết hại người hay sanh vật đều bị nghiệp quả báo đền. Đức Thầy bảo:
    “Ta bà thật cảnh ưu phiền,
    Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền”.
    (Hoài cổ)
    THIÊN ĐƯỜNG: Đường về cõi Trời hay cảnh Tiên, đối với Trần gian hay Địa ngục. Thiên đường ở đây chỉ cảnh siêu thoát. Đức Thầy có câu:
    “Lam kiều hữu lộ vắng hoe,
    Ngục môn không cửa mà hè nhau đi”.

    (Để chơn đất Bắc)
    ĐỊA NGỤC: Có rất nhiều nghĩa:
    1.-Bất lạc, bất khả lạc. Ấy là nơi chẳng vui, chẳng có thể vui được, vì có đủ mọi thứ khổ.
    2.-Bất khả cứu tế: Không thể cứu cho thoát khỏi, vì cảm ứng cái việc đã làm.
    3.- Âm minh: Nơi tối tăm, chúng sanh ở cảnh ấy không hề nghe biết đạo lý, chánh pháp.
    4.- Địa ngục: Cảnh ngục thất, cảnh hành hạ ở dưới đất.
    Địa ngục là một trong sáu nẻo luân hồi, là một trong lục thú. Vị trí của nó hoặc ở dưới đất, hoặc ở kẹt núi, hoặc theo sông rạch, có khi ở biển giã hay đồng nội.
    Người bị đọa vào địa ngục là lúc sống phạm các tội nặng như 10 điều ác hoặc ngũ nghịch.
    TRẦM LUÂN: Chìm đắm trong sáu nẻo luân hồi.
    RỨT TRẦN: Buông bỏ hết nghiệp duyên trần cấu trong cõi trần, như lục trần, lục dục.
    BẤT NHIỄM: Chẳng còn ô nhiễm tửu, sắc, tài, khí hay các vật chất: Danh, lợi, tình…

    CHÁNH VĂN (Bài 8)

    “Mới là yên-ổn lánh trần-gian,
    Chí nguyện tiêu-diêu cảnh Phật-đàng.
    Diệu-pháp chuyển thân vô sự thế,
    60.- Huyền-thông hóa-kiếp chẳng lo toan.
    Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,
    Tánh hiển tai thần lóng bốn phang.
    Phổ-tế chúng sanh qua bể khổ,
    64.- Di-Đà miệng niệm lánh trần-gian”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 8, qua hai câu mở đề (1 và 2) có liên quan với bài trước. Ý nói người tu được siêu thoát về cảnh Tiên Phật mới được yên vui tự tại. Song muốn thành đạt phải lập chí lập nguyện sâu dầy, bền chắc mới mong kết quả:
    “Mới là yên ổn lánh trần gian,
    Chí nguyện tiêu diêu cảnh Phật đàng”.

    -Qua hai cặp trạng, hai câu (3 và 4) Đức Thầy kêu gọi hành giả cần nương theo giáo pháp cao sâu huyền diệu của Tổ Thầy đã đạy, sửa đổi thân tâm chúng sanh trở thành Phật Thánh, tức tâm trí chẳng còn vướng bận việc thế trần. Và chuyển hóa kiếp sống phàm phu trần trược pháp thân thường trụ, lòng dứt sạch phiền não tính toan, tức biển tâm thanh tịnh mà an trụ nơi tịch tịnh Niết Bàn:
    “Diệu pháp chuyển thân vô sự thế,
    Huyền thông hóa kiếp chẳng lo toan”.

    -Đến 2 câu luận (5 và 6) ý dạy khi người tu chuyển hóa thân tâm phàm phu ra Phật Thánh đặng rồi sẽ đắc được 6 pháp thần thông, tức mắt thấy suốt ba cõi sáu đường không một vật nào ngăn che. Và tai nghe suốt các thứ tiếng của muôn loài khắp bốn phương thế giới, không sót một tiếng động nào:
    “Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,
    Tánh hiển tai thần lóng bốn phang”.
    Đến hai câu kết đề (7 và 8), theo Đức Thầy dạy người tu phải trải qua ba giai đoạn: Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Nên khi hành giả đạt thông huyền diệu thì có trách nhiệm phổ độ các giới chúng sanh giác ngộ tu hành. Vậy chúng sanh nào muốn vượt khỏi bể trần thống khổ, hãy sớm chuyên tâm niệm Phật làm lành tất được kết quả:
    “Phổ tế chúng sanh qua bể khổ,
    Di Đà miệng niệm lánh trần gian’.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 8)
    Nội dung bài Tỉnh Bạn Trần Gian 8, Đức Thầy kêu gọi hành giả nào muốn tiến đến cảnh an vui tịch tịnh của Tiên Phật, trước hết phải nương giáo pháp để chuyển hóa thân tâm từ phàm phu ra thân Phật Thánh, chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển mê ra giác tất được 6 pháp thần thông. Song đó là phương pháp tự lực cứu cánh (Thiền tông), Đức Thầy còn dạy thêm pháp tu tha lực cứu cánh, tức là pháp làm lành niệm Phật để nhờ tha lực của Phật A Di Đà tiếp độ mình thoát khỏi luân hồi sanh tử một cách trọn vẹn.

    CHÚ THÍCH

    CHÍ NGUYỆN: Ý muốn và chí quyết định làm một việc gì cho được kết quả. Đây là một trong ba đức tánh: Tín, Nguyện, Hành. Người tu phải có chí nguyện bền bỉ và cương quyết cho đến ngày thành công, chẳng để một trở ngại nào làm lay chuyển sự tu của mình, Đức Thầy hằng khuyên: Trên dưới một lòng chí nguyện tu”.
    TIÊU DIÊU: Cũng viết là tiêu dao, có nghĩa thong thả tự tại, không gì ràng buộc được. Đức Thầy cho biết:
    “Tiêu diêu đạo đức luận bàn,
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”.
    (Hoài cổ)
    CẢNH PHẬT ĐƯỜNG: Nhà Phật, cõi Phật hay xứ Phật. Đây chỉ cảnh Niết Bàn hay Cực Lạc.
    DIỆU PHÁP: Pháp môn mầu nhiệm, tối thắng, không thể suy xét bàn luận cùng tột được. Đây cũng là phù hợp với tên bộ kinh “Diệu pháp Liên Hoa”. Sự mầu nhiệm ấy tạm chia làm hai phần:
    a)-Diệu Pháp Thuyền: Diệu pháp ví như chiếc thuyền, có diệu năng đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử.
    b)-Diệu Pháp Đăng: Diệu pháp ví như ánh đèn soi sáng thế gian khỏi bị hắc ám. Đức Giáo Chủ đã bảo:
    “Diệu huyền chơn lý noi đường sáng”.
    (Tỉnh bạn Trần gian)
    CHUYỂN THÂN: Tu tập chuyển xác thân ảo ảnh trở thành chơn thật. Pháp Bảo Đàn kinh có dạy cách chuyển thân:
    Chuyển bát thức thành tứ trí và chuyển tứ trí thành tam thân, như: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, thức. Năm thức nầy chuyển thành “Trí thành sở tác”. Còn Ý thức chuyển thành “Trí diệu quan sát”. “Mạt na Thức” chuyển thành “Bình đẳng trí”. “A Lại Da Thức” (hàm tàng) chuyển thành “Đại viên cảnh trí”.
    Rồi dùng “Trí thành sở tác” và “Trí diệu quan sát” chuyển thành “Thiên bá ức hóa thân”. “Trí bình đẳng” chuyển thành “Viên mãn báo thân”. “Trí đại viên cảnh” chuyển thành “Thanh tịnh pháp thân”. Đức Thầy nay cũng dạy:
    Tính xong món nợ lần khân,
    Thoát vòng cương tỏa pháp thân nhẹ nhàng”.
    (Hoài cổ)
    VÔ SỰ THẾ: Chẳng còn ô nhiễm chứa chấp việc thế tục. Đức Thầy từng dạy: Người niệm Phật muốn chứng thành Phật quả thì: “Chẳng còn vướng víu chi cuộc lợi danh tài sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái”.
    HUYỀN THÔNG: Sự thần thông huyền diệu. Chỉ cho 6 phép thần thông, như lời Đức Thầy:
    “Ngày nào đắc được lục thông,
    Vớt hồn cha mẹ Tổ tông bảy đời”.

    HÓA KIẾP: Đổi kiếp sống phàm phu trở thành Phật Thánh, đúng theo lời Đức Thầy đã dạy: “Thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa siêu sanh vào cõi Niết bàn”.
    Hoặc là:
    “Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
    Lẫn tục đừng mê chứng bậc hiền”.

    (Luận việc tu hành)
    Cũng như Ngài Trần Huyền Trang khi sắp thấu đạt Tam tàng Kinh điển tức phải bỏ thân phàm tục chỉ còn Phật thân…
    HẾT LO TOAN: Không còn bị phiền não (tham, sân, si) làm bận rộn tâm trí.
    TÂM LINH: Tâm trí linh diệu sáng suốt, tức chỉ cái chơn tâm diệu minh sẵn có của mỗi người. Đức Thầy có câu: Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu”.(SG, Q.3)
    MẮT THÁNH: Cặp mắt của người tu khi chứng từ Thánh quả A La Hán trở lên, tức đắc lục thông, ở đây chỉ đề cập phần Nhãn thông. Mắt thấu suốt Mười phương, ba cõi, không vật nào ngăn che được. Đức Thầy cho biết:
    “Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải,
    Thương hồng trần muợn xác tái sanh”.

    (Diệu pháp QM)
    BA CÕI: Nghĩa của chữ Tam giới, tức Dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
    TÁNH HIỂN: Nghĩa của chữ kiến tánh; chỉ cho người tu khi kiến diện chơn tánh hay chứng quả Phật.
    TAI THẦN: Nghĩa của chữ Thiên nhĩ Thông, tức tai nghe hết các tiếng muôn loài và khắp mười phương rất rõ ràng, không hề thiếu sót.
    BỐN PHANG: Bốn phương hướng, ở đây chỉ cho khắp cả võ trụ vạn hữu.
    PHỔ TẾ: Phổ độ và cứu tế. Nghĩa của chữ Bồ Tát. Là bậc có lòng từ bi đem mọi vật sở hữu cứu giúp và phổ độ khắp chúng sanh, khiến họ được lợi ích an vui và giác ngộ tu hành. Do câu: “Bồ giả phổ giả, tát giả tế giả. Cứu nhơn chi cấp, tế nhơn chi nguy, nãi thị Bồ Tát”. Đức Thầy có câu (trong bài “Say”):
    “Say đạo huyền vi nước tịnh dương,
    Say câu bồ tát rưới cho thường”.

    BỂ KHỔ: Sự khổ của chúng sanh sống trong cõi Ta bà rất nhiều, mênh mông như bể cả. Câu qua bể khổ có nghĩa vượt khỏi cảnh trần khổ trong cõi Ta bà. Đức Thầy từng khuyên:
    Trong biển khổ mau mau tránh khổ,
    Rán tầm vào đến chỗ an cư”.
    (Thiên lý ca)
    DI ĐÀ MIỆNG NIỆM: Trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”(Tu theo pháp môn Tịnh độ).

    CHÁNH VĂN (Bài 9)

    “Trần-gian khói lửa với đao binh,

    Chư Phật sớm bày phép hiển-linh.
    Cứu khổ nam-mô vô lượng phước,
    68.- Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh.
    Sóng xao dương-thế nhiều cay đắng,
    Gió cuốn trần-gian nỗi bất bình.
    Tín-nữ thiện-nam gìn mối đạo,
    72.- Dầu cho lăn-lóc rán kiên-trinh”.


    LƯỢC GIẢI
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 9, qua hai câu mở đề (1 và 2) Đức Thầy cho biết hiện tình khắp cõi trần đang gặp khổ nạn đao binh nước lửa dồn tấp. Ngài cũng như chư Phật vì lòng từ bi mới lâm phàm khai Đạo, dùng mọi phương tiện khéo mầu để giải khổ cho cả chúng sanh:
    “Trần gian khói lửa với đao binh,
    Chư Phật sớm bày phép hiển linh”.

    -Đến hai câu trạng (3 và 4) Đức Giáo Chủ dạy: Với thời Hạ nguơn mạt pháp, pháp môn niệm Phật là mầu diệu hơn hết. Chỉ có sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, nếu ai cố gắng trì hành tất được thoát khổ, tiêu tan mọi tai nạn và được vô lượng phước đức. Từ xưa, trong ngàn kinh muôn sách, cũng đều dạy như thế:
    “Cứu khổ Nam mô vô lượng phước,
    Diệt nàn tu rị hữu thiên kinh”.

    Tới cặp luận (5 và 6) Ý cho biết từ nay diễn tiến đến ngày chung cuộc, chúng sanh phải đương đầu với bao điều đắng cay khổ nạn bao việc lấn áp bất bình, dù thiên tai hay nhân tạo đều do nghiệp quả của chúng sanh gieo rắc giờ đây phải thụ hưởng;
    “Sóng xao dương thế nhiều cay đắng,
    Gió cuốn trần gian nỗi bất bình”.

    Đến hai câu kết đề (7 và 8) Đức Thầy kêu gọi thiện nam tín nữ trên đường tu tiến phải nhất tâm gìn tròn mối Đạo. Dù gặp nhiều gian lao khổ khó, tai nạn dập dồn hay lắm chông gai thử thách; nhà tu cũng rán kiên tâm nhẫn nhục vượt qua để gìn tròn tiết tháo đối với đạo pháp và Thầy Tổ:
    “Tín nữ thiện nam gìn mối đạo,
    Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 9)
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 9, Đức Giáo Chủ PGHH cho biết: Bởi nghiệp tham sân, sát hại của chúng sanh gây tạo từ trước. Giờ đây phải gặt lấy quả thiên tai địa ách, nước lửa đao binh. Vì lòng từ bi thấy chúng sanh đang lâm vào cảnh khổ, Đức Thầy chuyển thân độ thế. Ngài truyền dạy pháp tu niệm Phật, là pháp tu huyền diệu, tối thắng, nếu ai trì hành tất trả được nghiệp cũ, vừa tạo được vô lượng phước đức vừa bước sang bờ giải thoát.
    Song từ đây đến ngày kết cuộc, nhà tu phải đương đầu với bao tai biến hãi hùng, chông gai thử thách. Hành giả cần kiên tâm nhẫn nại, vững chí vượt qua mới đạt thành ý nguyện:
    “Mang giày nhẫn nhục leo chong,
    Mặc y tinh tấn, đeo cung đại hùng
    .(TS)
    Có thế hành giả mới hái lấy quả tốt lành của Đạo.

    CHÚ THÍCH
    HIỂN LINH: Pháp hiển linh là pháp mầu diệu, linh hiển và dễ tu dễ chứng đắc.
    NAM MÔ: Do Phạn ngữ Namal. Phiên âm là Nam mô. Tàu dịch là qui mạng và cứu ngã, tức lòng mình rất tôn kính nương theo Đức Phật và cầu Ngài cứu độ. Nên chữ Nam mô cũng có nghĩa như chữ qui y, Đức Thầy thường dạy:
    “Nam mô Thích Ca Như lai,
    Ta Bà Giáo chủ xin Ngài chứng minh”.

    (Khuyến thiện, Q.5)
    VÔ LƯỢNG PHƯỚC: Phước đức không thể đếm lường được. Ý nói người chí tâm niệm Phật và hành thiện, tránh ác bố thí giúp đời vô trụ tướng thì đặng gặp kết quả vô lượng phước đức:
    “Giúp đời đừng đợi trả ơn,
    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng”.(
    SG, Q.3)
    DIỆT NÀN: Dứt hết tai nạn thống khổ.
    TU RỊ: Vốn rút một câu trong kinh Phật mà các nhà tu hằng niệm. Tụng cho đủ là “tu tu rị” hoặc “tu đa rị”. Nó có hiệu lực làm tiêu tan mọi tai nàn thống khổ. Đây là một câu chú thường tụng trong kinh Phật.
    TÍN NỮ: Phạn ngữ là Upâsika, phiên âm là Ưu Bà Di, dịch là Cận sự nữ. Có nghĩa những người nữ thọ pháp Tam qui Ngũ giới, tu hạnh tại gia, thường thân cận các tự viện lễ Phật nghe Kinh và ủng hộ Tam Bảo.
    THIỆN NAM: Phạn ngữ là Upâraka, phiên âm là Ưu Bà Tắt, Tàu dịch là Cận sự nam. Có nghĩa giới nam thọ Tam qui Ngũ giới, thường thân cận các chùa lễ Phật, nghe Pháp và ủng hộ Tam Bảo.
    KIÊN TRINH: Kiên là giữ vững; Trinh là trong sạch. Nghĩa chung là giữ vững lòng trong sạch trước sau như một.

    CHÁNH VĂN (Bài 10)

    “Kiên-trinh mà chịu lúc nàn tai,

    Dầu có gian-nan dạ chớ nài.
    Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
    76.- Chì thau lắm chuyện lúc non hài.
    Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp,
    Gắng chí trông mong bữa tiệc khai.
    Thiên địa tuần-huờn gom một mối,
    80.- Phàm-trần vẹn kiếp kiến Bồng-Lai”.

    Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn.

    LƯỢC GIẢI
    Bài Tỉnh Bạn Trần Gian 10, qua hai câu khai đề (1 và 2) Đức Thầy khuyến tấn: Trên đưòng tu tiến dù gặp lắm gian lao khổ nạn, hành giả chẳng nài hà nao núng, lúc nào cũng kiên chí vượt qua:
    .Kiên trinh mà chịu lúc nàn tai,
    Dẫu có gian nan dạ chớ nài”

    Đến hai câu trạng (3 và 4) ý nói vàng và đá là hai vật cứng, tốt có giá trị cao, dầu đem ngâm nước hay để vào lửa đốt bao nhiêu lần cũng không phai màu, đổi chất. Dụ cho người tu có lòng trung kiên tiết hạnh, dù gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng thay lòng đổi ý.
    Còn chì và thau là hai vật yếu mềm, dễ bị hỏng và hư móp, dụ cho hành giả đường tu còn non yếu nên dễ thay lòng đổi dạ hoặc thối chuyển:
    “Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
    Chì thau lắm chuyện lúc non hài”.

    Tới cặp luận (5 và 6) ý muốn dạy nhà tu hãy mạnh tin nơi định luật bi, hoan, ly, hiệp, để kiên gan bền chí trên đưòng tu học cho đến ngày tớ Thầy tôi chúa cùng sum hiệp:
    “Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp,
    Gắng chí trông mong bữa tiệc khai”.

    Đến hai câu (7 và 8) ý dạy rằng vạn pháp trong thế gian đều diễn biến theo định luật “Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ” và kiếp sống của nhân loại trong cõi hồng trần, nếu ai biết tu sửa cho tròn đạo nghĩa, tất đến ngày kết cuộc sẽ kiến diện cảnh Bồng lai tại thế:
    “Thiên địa tuần huờn gom một mối,
    Phàm trần vẹn kiếp kiến Bồng lai”.


    ĐẠI Ý
    (Tóm tắt bài 10)
    Nội dung bài thứ 10, Đức Thầy dạy môn đồ trên đường tu tiến, dù gặp nhiều gian lao thử thách chúng ta cũng vẫn kiên tâm nhẫn nại vượt qua, rèn luyện cho mình có một tấm lòng vàng son sắt đá, một chí khí kiên cường để:
    “Ngóng trông chờ vận thời đưa đến,
    Đặng chung cùng một tiệc quỳnh tương”.
    (Nang thơ cẩm tú)
    Chính đó là ngày:
    “Bốn biển một nhà Cha, Phật, Thánh”.
    (Nang thơ cẩm tú)
    Hoặc là:
    “Khắp hết thế gian thoát chốn tù”.

    Và cũng là ngày:
    “Bồng lai tại thế non dường sánh”.

    CHÚ THÍCH
    NÀN TAI: Cũng viết là tai nàn, tức gặp cảnh nguy hiểm khổ khó.
    GIAN NAN: Khó khăn khốn khổ.
    CHỚ NÀI: Cũng gọi là chẳng nài hay không nài, đừng ngại. Ví dụ: Dù gặp khổ cũng chẳng nài hà.
    VÀNG ĐÁ: Hai vật cứng chắc lâu bền, dù đem ngâm nước bỏ vào lửa đốt bao lâu, khi đem ra thì vàng là vàng, đá là đá. Ý chỉ người tu có lòng bền chắc trước sau như một, không thay lòng đổi dạ.
    BAO PHEN: Nhiều lần.
    CHÌ THAU: Hai chất mềm yếu dễ chảy, dễ tan và dễ phai lợt. Đây chỉ cho người tu chưa kinh nghiệm già dặn, còn non kém, nên khi gặp thử thách vội thối chí nản lòng.
    LẮM CHUYỆN: Nhiều việc xảy đến.
    NON HÀI: Yếu đuối nhỏ bé. Chỉ cho người còn non lòng nhẹ dạ, nên khi gặp cảnh khó khăn dễ sang thuyền đổi hướng.
    NGÀY SUM HIỆP: Buổi trùng phùng hội ngộ. Đây chỉ lúc người Pháp dời Đức Thầy đi khắp nơi, khiến tớ thầy xa cách; nhưng tin vào định luật hợp tan thì sớm muộn gì thầy trò cũng có ngày trùng phùng tái ngộ.
    BUỔI TIỆC KHAI: Ngày ca khúc khải hoàn, tức ngày mọi việc đều thành công kết quả, Đức Thầy có câu:
    “Dân được vui nhờ lúc khải hoàn”.
    (Giác Mê TK, Q.4)
    THIÊN ĐỊA TUẦN HUỜN: Do câu: “Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ”.(Luật trời đất, hễ xoay giáp vòng thì trở lại mối đầu).
    “Chờ thiên địa châu nhi phục thỉ,
    Như đời xưa có gả Tử Phòng.
    Xem thời cơ người đã rõ ong,
    Dùng tôi thiểu mà an bá tánh”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    BỒNG LAI: Tên một hòn đảo ở biển Bột Hải. Các từ điển chép: Trong biển Bột Hải có ba hòn đảo.
    1.- Bồng Lai 2.- Phương Trượng. 3.- Doanh Châu. Nước ở biển nầy rất yếu, nhẹ (nhược thủy), cho đến lông chim rớt cũng chìm. Trong văn chương thường dùng “Non Bồng nước Nhược” để chỉ cảnh Tiên (cảnh tiêu diêu thoát tục) đối với cõi trần đầy tục lụy:
    “Bầu trời man mác xa trông,
    Đâu là nước nhược non bồng là đâu”.
    (CT)
    Đức Thầy từng nói:
    “Bồng lai tại thế non dường sánh”.
    Hoặc là:
    “Cảnh dương trần khó sánh Bồng lai,
    Về tiên cảnh say mùi rượu thánh”.

    (Diệu pháp QM)
    Ba chữ kiến Bồng Lai ở đây có nghĩa thấy được cảnh Tiên. Ý chỉ cảnh Thượng ngươn thánh đức.
    VẸN KIẾP: Xử sự trọn vẹn trong kiếp sống. Cũng như chữ xong nợ thế.
    “Nợ thế âu toan tròn nợ thế,
    Đường tu sớm liệu vẹn đường tu”.

    (Tỉnh Giấc Mơ)

    1.- KHUYÊN NGƯỜI GIÀU LÒNG PHƯỚC THIỆN

    XUẤT XỨ
    Mùa nước nổi trong năm Kỷ Mão (1939) khắp vùng châu thổ sông Cửu Long (miền tây Nam phần ViệtNam) bị nước ngập lụt lúa phải chết, dân chúng bị đói khổ kéo dài mấy tháng. Sang qua năm Canh Thìn (1940), dân chúng phải chạy vay hỏi tiền nông, lúa giống để chuẩn bị xuống ruộng làm mùa khác. Lòng nao nao chẳng biết năm tới ruộng ra sao ?
    Hôm ấy vào ngày 25 tháng 2 năm Canh Thìn (1940) Đức Giáo Chủ hạ bút sáng tác bài Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện để kích thích lòng bác ái của những bà giàu có ở xa vừa mới đến viếng Ngài.

    VĂN THỂ

    Đức Giáo Chủ viết bài giảng nầy bằng thể văn Lục bát biến thể, khởi đầu là đoạn thơ Lục bát, sau đó là 2 bài thi Bát cú, dài 108 câu. Khởi đầu bằng câu:
    “Mắt nhìn Kỷ Mão vừa qua,
    Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm”.

    Và chấm dứt bởi các câu:
    “Áo não thương đời đa đói khổ,
    U buồn trăm họ vẽ vài câu”.


    NỘI DUNG
    Đức Thầy diễn tả cảnh nghèo của dân chúng trong năm qua, đoạn Ngài khuyên bá tánh mở lòng bác ái giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau. Nhứt là thi hành pháp Bố Thí để vượt qua bờ sanh tử và tiến lên đường giải thoát.

    CHỦ ĐÍCH
    Ngài chủ trương dạy môn đồ thi hành pháp Vô trụ tướng, xả thân tác phước. Vậy ai muốn thoát ly cảnh Diêm Phù Đề (Ta Bà thống khổ) tất phải xả thân tu hành. Cũng như loài Rắn tu lâu năm, giờ muốn được hóa Cù thì phải buông xả hạt ngọc quí bên trong của mình:
    “Muốn cho rắn đặng hóa cù,
    Xả thân làm phước Diêm phù vượt qua”.


    CHÁNH VĂN


    1.- “Mắt nhìn Kỷ Mão vừa qua,

    Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm.
    Ruộng đồng chẳng có rạ rơm,
    4.- Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Năm Kỷ Mão 1939, mùa nước nổi suốt ba tháng (7, 8 và 9), ruộng lúa bị ngập lụt, dân chúng ở miền Tây,Nam phần Việt Nam phải sống cảnh đói cơm thiếu mặc. Cho đến trâu bò cũng không đủ rơm cỏ để ăn.

    CHÚ THÍCH
    KỶ MÃO: Là năm 1939, dân ta bị thất mùa đói khổ. Chính năm ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng nền Đạo.
    TRÂU BÒ NGÓNG CỔ: Vì bị nước ngập lụt, lúa cỏ chết hết, khiến người không đủ cơm gạo ăn, trâu bò thiếu rơm cỏ để dùng, nên trông chừng ông chủ đem cỏ đến.

    CHÁNH VĂN

    5.- “Canh Thìn bước tới thiệt rồng,
    Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao ?
    Nhà nghèo dạ tợ như bào,
    8.- Vợ đau con yếu phương nào cho an”.


    LƯỢC GIẢI
    (từ câu 5 tới câu 8)
    Sắp tới đây là năm con rồng, ai cũng nơm nớp lo âu, chẳng biết sang năm tới, ruộng lúa còn ngập lụt nữa chăng ?
    Hồi tưởng năm qua lòng dạ xót xa như bào như cắt, nào cảnh đói cơm thiếu thuốc, nào lo vay tiền hỏi giống để canh tác mùa tới.

    CHÚ THÍCH

    CANH THÌN: Năm thứ tư trong 12 con giáp, tức năm 1940.
    NHƯ BÀO: Trong lòng rất đau xót, như cào, như xé rất khó chịu vì quá lo âu.
    PHƯƠNG NÀO: Phương pháp nào. Ý nói giữa cảnh nghèo túng nầy chẳng biết phải dùng phương cách nào xây trở cho qua.

    CHÁNH VĂN

    9.-Cả kêu cùng khắp xóm làng,
    Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua.
    Làng gần chí những tỉnh xa,
    12.-Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau.
    Ngày nay tốt phước sang giàu,
    Xin thương kẻ khó giúp hào một khi.
    Cậu cô chú bác cùng dì,
    16.-Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng.
    Việc nhà quí bạn đã xong,
    18.-Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 9 tới câu 18)
    Đức Thầy kêu gọi khắp mọi người trong làng xóm tỉnh tâm thương xót dân nghèo. Nhứt là các ông Điền chủ giàu có hãy nhớ lại đồng bào mình trước kia từng ruột thịt với mhau, từng cùng cam cộng khổ trong một bào thai mà ra.
    Giờ đây mình may mắn được giàu sang dư ăn dư để, nay cũng mở lòng thương xót giúp đỡ dân nghèo.
    Ngài cũng động viên hết các giới đồng bào nhiều tiền của hãy mở lòng thương cảm mà chia cơm xẻ áo với bà con nghèo ở chung quanh ta.

    CHÚ THÍCH
    ĐIỀN CHỦ: Những người giàu sang mua rất nhiều ruộng rồi cho tá điền mướn lại mà làm.
    CỨU NÀN: Giúp nhau qua tai nạn.
    RUỘT RÀ: Bà con anh em ruột từ một cha mẹ sinh ra. Anh chị và anh em ruột thịt với nhau. Đây ý chỉ dân tộc Việt Nam ta đã từ một nòi giống Vua Lạc Long và Bà Âu Cơ sanh ra: Hồng Lạc giống xưa cũng tuyệt vời”. Hoặc là:
    “Giống Hồng Lạc kim chi ngọc diệp,
    Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn”.
    (Diệu Pháp QM)
    TỐT PHƯỚC SANG GIÀU: Căn cứ luật nhân quả: Người đời trước có tu phước thì giờ đây được giàu sang phú quí.
    GIÚP HÀO: Giúp cho một cắc. Mười đồng xu kể là một cắc, tiền xài trong khoảng thế kỷ 20. Người Bắc kêu là một hào, người miền Nam kêu là một cắc.
    CẬU, CÔ, CHÚ, BÁC, DÌ: Các chữ xưng hô trong dòng họ, anh hoặc em trai của Cha (Ba) gọi là Bác hay Chú, em hay chị gái của Cha gọi là Cô. Chị em gái của mẹ gọi là Dì, anh hay em trai của mẹ gọi là Cậu.
    THẦY CHÚ: Tiếng người dân Việt gọi những người làm việc cho Pháp thời đó, như Thầy Cai, Thầy Thông, Thầy Ký, Thầy Giáo…Chú: là chú Đội, chú Cai, chú Lính…Giảng xưa của Đức Phật Thầy có câu:
    “Thảm thương mấy chú Đội Cai,
    Canh giờ Thầy muốn ra ngoài như chơi”.

    HẢO LÒNG: Người tốt bụng, hay thương yêu giúp đỡ mọi người.
    LÀM PHƯỚC: Làm những việc có phước lợi cho đời, như đem vật sở hữu của mình giúp cho xã hội, như bắc cầu, bồi lộ, tu sửa chùa miếu, mở những Trường học và các nhà thuốc Nam từ thiện, Bệnh viên miễn phí, nhà bảo sanh v.v..
    Theo Phật học thì gọi tu phước, là một phần nghĩa của pháp Bố Thí (tài thí).
    HIỀN NHƠN: Người hiền lành.

    CHÁNH VĂN

    19.-Lão đây thân khó chẳng sờn,

    Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha.
    Ông nào lòng dạ hải-hà,
    22.-Động tình bác-ái ra mà làm đi.
    Giúp người đói khó nhu-mì,
    Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.
    Bà nào goá bụa hữu tài,
    26.-Tiền nhiều đất rộng cò bay mút đồng.
    Cơn nầy bố thí cho xong,
    28.-Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 19 tới câu 28)
    Trên đưòng khai hóa nhân sanh gặp rất nhiều sự khó khăn, nhưng Đức Thầy chẳng sờn lòng nao núng. Lời khuyên nhủ của Ngài như tiếng đờn của Bá Nha. Vậy ai là bạn tri âm với Ngài và có lòng thương xót bá gia hãy nên xuất tiền gạo ra giúp đỡ đồng bào lúc nghèo đói. Vừa giúp đỡ người qua cơn túng ngặt, vừa khuyên nhắc họ biết giác ngộ tu hành, trau dồi tâm đức, niệm Phật làm lành đúng theo con đường ngay chánh.
    Nhứt là những Bà góa bụa, nhưng lại được giàu sang, tiền của dư ăn dư để cũng nhân cơ hội nầy mang ra giúp đỡ xóm làng ắt được nhiều người kính yêu và còn gặt được vô vàn công phước sau nầy. Nếu không, đợi số vô thường đến bất ngờ chẳng những không được công ích gì cho đời mà còn bị con cháu sau nầy giành giựt xâu xé, tiếng đời mỉa mai chê trách.

    CHÚ THÍCH
    ĐỜN BÁ NHA: (Xem CT ở Tập 1)
    HẢI HÀ: Cũng viết là hà hải: Rộng lớn. Nghĩa bóng chỉ có lòng rộng lớn như sông biển.
    BÁC ÁI: Lòng thương yêu cứu giúp chúng sanh bao la vô bờ bến. Đức Thầy có câu:
    “Thấy nhơn sanh tuôn giọt máu đào,
    Lòng bác ái động tình rơi nước mắt”.

    ` (Trao lời cùng Ông Táo)
    NHU MÌ: Mềm mỏng, chín chắn, đằm thắm. Chỉ người có đủ nết hạnh, đối xử trong gia đình và ngoài xã hội, ai cũng mến yêu kính vì:
    Tu là tâm trí nhu mì,
    Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong”.
    (SG, Q.3)
    TÂM TRÍ: Lòng gìn giữ thân tâm đúng theo Đạo nghĩa.
    NIỆM PHẬT LÀM NGAY: Vừa niệm tưởng Phật Trời, vừa thực hành điều ngay chánh thiện luơng.
    GÓA BỤA: Những người đàn bà giàu có, nhưng không có chồng con, hoặc chồng chết sớm hay đã ly hôn, ly dị.
    HỮU TÀI: Có tiền của nhiều (giàu có).
    CÒ BAY MÚT ĐỒNG: Những bà Đại điền chủ, giàu to, của tiền đất cát thật nhiều, đất ruộng cò bay thẳng kiếng.
    BỐ THÍ: (Xem Sấm Thi Tự Điển–STTĐ- trang 44, T.1).

    CHÁNH VĂN


    29.-Ông bang các chợ, xẩm hia,

    Tiệm hàng thạnh-mậu nhờ dân ruộng vườn.
    Ngày nay thất-bát khá thương,
    32.-Tiền-nong chẳng có cơm lường cho qua.
    Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà,
    Cả kêu bổn-đạo ai là thiệt tu.
    Muốn cho rắn đặng hóa cù,
    36.-Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 29 tới câu 36)
    Đức Thầy kêu gọi số người Tàu (Trung Quốc) đang cư trú và buôn bán ở xứ ta, hiện giờ họ đã được giàu sang phát đạt là cũng nhờ dân ở vườn ruộng đến mua bán.
    Ngày nay gặp cảnh thất mùa đói khó hãy nên thương cảm đến họ để tùy phương giúp đỡ. Riêng những người chơn tu thì Ngài kêu gọi họ, muốn con đường hành đạo mau kết quả thì phải xả thân đem tiền của ra bố thí. Cũng như loài Rắn tu lâu năm, giờ muốn được hóa Cù, tự do bay khắp trời đất. Nhứt là vượt qua cõi Diêm Phù Đề thống khổ nầy.

    CHÚ THÍCH

    ÔNG BANG: Một chức vụ do người Tàu đặt ra. Từ khi người Trung Quốc đến mua bán và cư trú nước ta, cứ một Thị Xã hay một khu vực bằng một Huyện thì họ đề cử một ông Bang để làm chủ và giao tiếp với nhà cầm quyền nước ta, thường thường là họ rất giàu có.
    XẨM HIA: Xẩm là người đàn bà Trung Quốc, dân ta kêu gọi họ là Xẩm, dùng như chữ Chị hay Cô dì. Hia là người đàn ông Tàu, người ta gọi như là Anh. Hia là anh, Tùa Hia là anh lớn.
    THẠNH MẬU: Hưng thịnh, đẹp đẽ sáng sủa.
    TIỀN NONG: Tiền bạc và lúa gạo. Đức Thầy có câu: “Kẻ thiếu tiền nong nợ mắc dồn”.
    RẮN ĐẶNG HÓA CÙ: Thành ngữ Rắn hóa Cù. Có nghĩa loại rắn như loại sấu, hễ con nào biết trầm sâu dưới sông biển lo tu hành lâu năm sẽ có hột ngọc quí trong mình. Khi đúng ngày giờ nó phải biết nhả ra mới được hóa rồng (cù) được.
    Đây ngụ ý dạy người tu biết đem tài lực trí tuệ mình bố thí, giúp đời mới thành đạo giải thoát.
    Trong kho tàng cổ tích Việt Nam có chép câu chuyện:
    Một anh nhà nghèo nọ, nghèo đến đỗi làm việc gì cũng bị hư thất lỗ lã, nhưng anh lại có đức tánh chơn chất hiền từ, không dời đổi. Vì quá buồn tủi cho số phận, anh quyết định tìm tới Tây phương hỏi Phật.
    Trên đường đi diệu vợi trải qua nhiều gian nan trắc trở, anh vẫn bền lòng đi mãi… Hôm nọ anh đang đi, bỗng gặp con sông lớn cản đường, anh không biết cách gì để qua, thình lình có một con sấu nổi lên, kêu anh nói:
    -Tôi xin tình nguyện đưa dùm anh sang sông !
    Nguyên con sấu nầy đã tu lâu năm nên biết nói tiếng người. Lúc đầu anh nhà nghèo còn ngờ vực, nhưng sau thấy sấu có vẻ chân tình, liền bước xuống ngồi trên lưng sấu. Sấu vừa lội vừa nói: Khi anh đến Tây phương gặp Phật anh hỏi dùm tôi một việc:
    -Sao tôi tu hành lâu quá, gần hai ngàn năm rồi vẫn chưa thành chánh quả. Vậy nhờ Phật cho biết tôi tu tới chừng nào mới được hóa Rồng !
    Anh nhà nghèo hứa lời, phút chốc sấu lội tới bờ, anh giã từ sấu và bước lên nhắm hướng Tây Phương đi riết.
    Phật cảm thông tấm chân tình của anh nhà nghèo, nên xuất hiện cho anh được gặp. Anh quì lạy Phật và bạch rõ các duyên do mà anh muốn gặp Phật !
    Nghe xong, Phật phán dạy:
    -“Nhà ngươi hãy trở về bảo con sấu ấy nên nhả hột ngọc quí trong bụng ra sẽ được hóa kiếp, bằng tiếc ngọc ngậm mãi ắt không thể hóa rồng được.
    Còn phần nhà ngươi thì từ đây đã qua cơn bỉ cực, sắp tới hồi thới lai…”
    Anh nhà nghèo vâng lời Phật, lạy tạ trở về theo đường cũ. Khi tới mé sông cũng được sấu đưa qua bờ. Anh thuật lại lời của Phật dạy, sấu liền nhả ngọc tặng cho anh tức thì nó đặng hóa rồng bay bổng lên hư không. Anh nhà nghèo vui mừng cất ngọc vào túi áo ra đi. Trên đường về anh được kết duyên với nàng Hà Như Ý, cùng hưởng sự vinh sang phú quí trọn đời.
    Dùng thành ngữ “rắn đặng hóa cù” Đức Thầy có ý chỉ dạy: Nếu ai quyết tâm tu thân hành thiện, trọn đời không thay lòng nản chí và mở tâm xả thí giúp đời từ tinh thần lẫn vật chất cho nhơn loại được an vui hạnh phúc, tất nhiên đến phút chung qui mọi việc đều được thành quả như ý. Bởi:
    “Hữu thành Phật độ ắt qua truông”.
    Và: “Hiệp mặt phân trần hết ám u”.

    Chính lúc bấy giờ hành giả sẽ chuyển hoá được từ chúng sanh trở thành Phật Thánh.
    DIÊM PHÙ VƯỢT QUA: Cõi Diêm Phù tức cõi Ta Bà chúng ta đang ở đầy lao khổ vất vả. Nếu ai tu vượt qua khỏi tất được hạnh phúc vui tươi.

    CHÁNH VĂN

    37.-Giữ bo đến lúc phong ba,
    Gặp cơn bát-loạn khó mà yên thân.
    Phong-trần ai cũng phong-trần,
    40.-Được sang nhờ của người bần góp thâu.
    Thấy đời lao lý mà rầu,
    Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn.
    Xin quên mấy lúc giận hờn,
    44.-Ra tay tế-độ nghe đờn Tây-qui.
    Xây vần trời đất tiết thì,
    Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai.
    Cổ kim hiếm lúc nạn-tai,
    48.-Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thường.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 37 tới câu 48)
    Đức Thầy kêu gọi những gia đình giàu sang nên thương giúp mọi người, chẳng nên bo bo giữ của, để rủi khi gặp giặc loạn chiến tranh xảy đến khó mà yên thân. Tuy nhân loại sống chung trong cõi trần, nhưng có kẻ thì giàu sang, người thì ngheò khổ chẳng đồng nhau. Phần đông số người giàu là nhờ số người nghèo làm thuê giặt mướn, đỡ đần mọi công việc. Nên Ngài kêu gọi những người giàu sang nên mở lòng thương xót đồng bào ta mà ra tay giúp đỡ và qui Phật tu hành.

    CHÚ THÍCH
    PHONG BA: Phong là gió, ba là sóng. Ý chỉ cho sự chiến tranh.
    BÁT LOẠN: Khắp bốn phương tám hướng giặc loạn cướp giựt nổi lên lung tung, không chỗ nào yên được.
    TẾ ĐỘ: Cứu giúp kẻ nguy nàn túng thiếu. Đức Thầy từng khuyên:
    “Tế độ dân nghèo trong lúc túng,
    Giúp dùm kẻ rối buổi vừa qua”.
    ĐỜN TÂY QUI: Bản đờn chỉ đường về hướng Tây, tức cõi Phật. Ý chỉ lời Sấm Giảng của Đức Thầy ví như bản đờn giúp cho người nghe biết giác tỉnh qui đầu Phật Pháp tu hành để sau nầy được về cõi Phật Tây phương an nhàn.
    TIẾT THÌ: Cũng gọi là thời tiết. Đây chỉ luật xây vần của trời đất luôn luôn vận chuyển không bao giờ dừng lại một chỗ.
    HẾT CƠN BỈ CỰC TỚI HỒI THỚI LAI: Theo định luật vận chuyển trong vũ trụ, hễ vận xấu đến mức cùng cực thì tới thời thái bình thạnh trị.
    HƯNG VONG SUY THẠNH: Hưng là hồi phục hay phục hưng. Vong là mất. Suy là yếu kém. Thạnh là dồi dào thạnh vượng.






     
  10. Buile

    Buile Member


    CHÁNH VĂN

    49.-Lớn ròng nạn ách phải vương,
    Muốn qua truông khổ tìm đường Bồng-Lai.
    Ngày kia được trở gót hài,
    52.-Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi.
    Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen.
    Lòng nhơn xin khá tập rèn,
    56.-Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa.
    Thánh hiền roi tích đời xưa,
    58.-Nhờ tâm từ-thiện người ưa kính thờ.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 49 tới câu 58)
    Nước ở dưới sông rạch còn có khi lớn khi ròng, con người sống trong cõi trần gian cũng có lúc an, lúc nguy. Vậy ai muốn vượt qua rừng mê khổ tất phải tìm ra con đường hướng về cõi Tiên Phật mà lo tu hành, tất có một ngày kia chúng ta sẽ được về nơi ấy để cùng chung hưởng cảnh vui tươi trường miên vĩnh cửu.
    Sống trong trần, chúng sanh có đủ hạng người: Giàu nghèo vui khổ, tật nguyền hay ngu si. Song lòng Đức Thầy vẫn thương yêu bình đẳng như nhau để tìm phương cứu độ, dầu ai có chê khen Ngài cũng không màng kể. Ngài hằng khuyên mọi người nên: rèn tập lòng bác ái, thương người mến vật như nhau để tùy phương giúp đỡ.
    Kìa gương của Thạch Sùng Vương Khải xưa kia tuy giàu sang vinh hiển, nhưng chẳng có tình thương xót mọi người, mọi giới nên về sau không những trong giới người có học thức mà đến những kẻ ngu dốt, khi nghe nhắc đến tên tuổi của họ ai ai cũng đều chê trách.
    Còn người nào biết noi theo gương hạnh của các bậc Hiền Thánh, lo giúp đỡ nhân loại chúng sanh, tất được mọi người mến yêu thờ kính.

    CHÚ THÍCH
    KHỔ: Rừng mê khổ. Ý nói mọi chúng sanh sống trong cõi Ta Bà gánh chịu muôn ngàn sự khổ não, rộng lớn như rừng như bể khó mà làm cho vơi được.
    BỒNG LAI: Tên một hòn đảo ở biển Bột Hải. Các từ điển chép: Trong biển Bột Hải có ba hòn đảo: 1.-Bồng Lai, 2.-Phương Trượng. 3.-Doanh Châu.
    Nước ở biển nầy rất yếu nhẹ (nhược thủy) cho đến lông chim rớt xuống cũng chìm. Trong văn chương thường dùng “Non Bồng nước Nhược” để chỉ cảnh Tiên (cảnh tiêu diêu thanh thoát) đối với cảnh trần gian đầy tục lụy: “Bầu trời man mát xa trông,
    Biết đâu nước nhược, non Bồng là đâu”. (CT)
    Đức Thầy từng nói:
    “Cảnh dương trần khó sánh Bồng Lai,
    Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh”.

    (Diệu Pháp QM)
    GIÀU SANG NGHÈO KHÓ CŨNG NGƯỜI: Câu nầy Đức Thầy nói lên cái lý bình đẳng trong vũ trụ vạn hữu. Từ một pháp cho đến muôn pháp, từ một chúng sanh cho đến vạn loại chúng sanh tuy có sang hèn, già trẻ trí ngu cũng đều có một Phật tánh như nhau(Phật với chúng sanh cũng đồng nhất thể). Cho nên lòng từ bi của Đức Thầy và chư Phật thương xót vạn loại chúng sanh đều bình đẳng như nhau.
    LÒNG NHƠN: Tâm biết thương người mến vật như thương mình, không phân biệt giới hạn, lúc nào cũng tận tâm cứu hộ. Chính lòng nhân là một trong ngũ thường, là nghĩa của chữ Từ bi. Người hành đạo muốn thành quả Bồ Đề, trước phải rèn tập lòng nhơn. Nhờ hột giống lòng nhơn đó, mới trổ lên quả Bồ Đề (Chánh đẳng Chánh giác).
    THẠCH SÙNG VƯƠNG KHẢI: Hai người đồng sanh đời nhà Tấn thời Đông Châu. Sùng trước làm quan Thứ sử, tánh tham lam xảo trá, thâu góp của dân, hối lộ với thượng cấp, sau thăng chức Thái Bộ, giàu to.
    Còn Vương Khải là em của Hoàng hậu, cũng tay cự phú. Cả hai đều lấy sự xa xí khoe của tranh hơn thua. Không làm được việc gì ích nước lợi dân, ai khuyên can cũng chẳng nghe. Cuối cùng hai người chết, chẳng mang theo được vật gì lại còn để tiếng đời sau biếm nhẻ, sách sử chê bai. Đức Thầy cảnh tỉnh: “Gương của Thạch Sùng Vương Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru ?”.
    SÁCH ĐÈN: Kinh sách chuyện thư và văn chương chữ nghĩa.
    TÂM TỪ THIỆN: Lòng hiền lành hay thương xót các giới chúng sanh và tùy phương tiện đem lại phúc lợi cho muôn loài.
    KÍNH THỜ: Tôn kính thờ phượng.

    CHÁNH VĂN

    59.-Chết rồi bỏ của bơ-vơ,
    Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời.
    Xác phàm có mấy lăm hơi,
    Hỏi vay có một mà lời đôi ba.
    Của dư cho mượn mới là,
    64.-Hảo tâm bố-thí ngọc-tòa được lên.
    Chê nghèo, giàu nọ đâu bền,
    66.-Chi bằng bố đức lập nền từ-bi.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 59 tới câu 66)
    Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết nếu kiếp sống của con người cứ bo bo giữ của, đến khi chết chẳng đem theo được vật gì, từ vợ đẹp con ngoan hay của tiền vật liệu cũng đều bỏ lại hết. Thế nên, hiện giờ ta nên mở lòng bố thí cho người nghèo khổ thì chẳng những được phúc lợi hiện tiền, mà tương lai còn đặng sách sử ghi biên muôn đời.
    Nên xét lại thân xác của mỗi chúng ta có đây là do tứ đại họp thành thì sớm muộn gì cũng trả về đất, nước, gió, lửa, huống chi là của cải gia tài. Vậy ta tham chấp làm chi mà cho vay vốn một lời tới ba, rồi sau nầy ta phải luân hồi để đền trả. Do đó Đức Thầy khuyên chúng ta nếu có tiền dư nên cho người nghèo mượn, hoặc giả cho không, tất sau nầy sẽ được an vui nơi chốn ngọc tòa của Phật Tiên cư ngụ.
    Đức Thầy còn dạy nếu chúng ta là kẻ giàu thì đừng ỷ tiền của nhiều mà chê bai kẻ nghèo, nên mở lòng nhơn ban bố đức lành cho vạn loại chúng sanh để xây nền từ bi hầu sau nầy trổ quả Bồ đề.

    CHÚ THÍCH
    XÁC PHÀM: Xác thể của mỗi người ở thế gian, rốt cuộc ai cũng chết mất không ai biết trước được. Xác phàm đối với hồn thiêng hay hồn linh phần tinh thần còn hoài.
    CHO VAY: Lối cho vay tiền của người xưa, hễ cho vay một, tới mùa trả lại bằng hai hoặc ba, nếu sang năm không có tiền trả thì kê lên năm.
    CỦA DƯ: Những người giàu sang dư ăn dư của còn để dành. Người dư cho kẻ nghèo mượn, tới mùa trả y vốn, đó là phải lẽ, là bổn phận đạo đức của con người.
    HẢO TÂM: Lòng tốt.
    BỐ THÍ: Phạn ngữ: Đâna, phiên âm Đàn na, dịch là Bố thí, một trong Lục độ (Sáu pháp Ba la mật) mà chư Bồ tát thường hành. Bố là bủa ra, rải ra. Thí là cấp cho. Bố thí là đem cái sở hữu của mình giúp cho kẻ khác. Đức Thầy từng kêu gọi:
    “Cấp Cô Độc là nhà bá hộ,
    Còn đành lòng bố thí xả thân.
    Chữ vinh hoa phú quí chẳng cần,
    Miễn hiểu Đạo hơn là châu báu”.

    1/-Tài Thí: Đem những gì thuộc của mình, như: Tiền, vải, lúa gạo, thuốc men ban cấp cho kẻ nghèo đói, bệnh tật, hoặc góp công của vào việc từ thiện khác…Đức Thầy hằng dạy:
    “Khá thương những kẻ bần cùng,
    Tâm lành dư của hãy dùng vào đây”.

    (Khuyên người giàu lòng phước thiện)
    2/-Pháp Thí: Dùng lời lẽ trí tuệ giảng dạy Đạo lý, hoặc ấn tống kinh giảng để người khác được xem nghe, tỉnh ngộ tu hành. Đức Thầy hằng dạy: “Đi các nơi giảng dạy đạo Phật”. Về Kinh Giảng, Ngài dạy rõ:
    Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành”.(Q.5)
    Và: “Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
    Mà truyền bá đặng nhiều phước đức”.
    (Q.2)
    3/-Vô Úy Thí: Những phương tiện giúp cho người khỏi cơn sợ hãi, bằng cách: Dùng lời lẽ an ủi hoặc đem tánh mạng đỡ gạt hay bảo vệ cho người được an ổn…
    Bố thí còn chia làm hai phần:
    a)-Sự tướng Bố thí: Cũng gọi là trụ tướng bố thí, tức là đem tài vật thí ra cho người mà lòng còn phân biệt người là kẻ thọ thí, ta là kẻ bố thí. Hoặc khởi tâm mong cầu tiếng khen và được phúc báo. Nhơn đó làm cho bản ngã càng tăng trưởng, sự tôn ti thêm nảy sanh, khiến cho sự bất bình đẳng một ngày một chất ngất, sẽ phải huởng cái quả sai biệt nhỏ nhen.
    b)-Lý tánh Bố thí: Cũng gọi là “Vô trụ tướng Bố thí”, tức lúc thi hành công việc Bố thí, xét vì lòng từ bi, vì bổn phận mà làm. Ngoài cảnh không chấp mắc, trong tâm chẳng nhiễm ô, không hề tham cầu phước báu, cũng không phân biệt nhơn ngã, tôn ti và chẳng trụ vào: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà bố thí. Kinh Kim Cang, Phật bảo: “Bố thí không trụ tướng thì được phước đức chẳng thể so sánh nghĩ lường được”.(Bất Trụ Tướng Bố thí, kỳ phước đức bất khả tư nghị). Đức Thầy nay cũng dạy:
    Giúp đời đừng đợi trả ơn,
    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng
    .(Q.3)
    NGỌC TÒA: Chỗ an trụ bằng ngọc, dùng cho các bậc Tiên Phật ngự trên đó:
    “Ngọc tòa Phật Tổ nấy ai Ta,
    Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà”.

    BỐ ĐỨC: Bủa đức. Người tu chẳng những bố thí tiền của mà thí cả tấm lòng đức hạnh. Đây là vô trụ tướng bố thí.
    NỀN TỪ BI: Lòng thương xót chúng sanh bền chắc cho đến kỳ cùng, cũng như cái nền móng được xây dựng bền chắc, không khi nào bị thối thất hay sạt lở để sau nầy trồng trên đó cây Bồ Đề (Chánh Giác):

    CHÁNH VĂN

    67.-Con hiền khá sớm hồi-qui,
    Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân.
    Dòm xem kẻ khó tảo-tần,
    70.-Rộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau.
    Nghèo thời cũng rán cháo rau,
    Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn.
    Bần cùng cũng sớm liệu-toan,
    74.-Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.
    Mộ khan thần tỉnh cần triêu,
    76.-Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 67 tới câu 76)
    Đức Giáo Chủ kêu gọi những người có căn hiền lương hãy sớm trở về với gốc lành cội cũ, nương theo lời giáo huấn của Ngài lo tu hành để kịp với thời kỳ hội Phật Tiên khai mở. Khi thấy kẻ chung quanh nghèo đói, làm ăn vất vả, nên rộng tâm chan sớt lúa gạo của tiền cho họ đỡ cơn túng thiếu.
    Còn những hạng nghèo hèn cũng nên chịu đựng lăn lóc cháo rau cho qua bữa chớ không nên học thói gian xảo, tất sau nầy sẽ được hưởng cảnh nhàn an, dù nghèo đến cở nào ta cũng lo liệu làm ăn chơn chất: trung nghĩa với Quốc dân, thảo hiếu với Ông bà Cha mẹ.
    Đặng vậy, làng xóm chung quanh người người sẽ yêu quí kính nể. Bổn phận làm con ở trong gia đình phải biết hiếu kính Ông Bà Cha Mẹ, tối thăm sớm viếng. Chẳng những đặng vượt qua các tai nạn mà còn ngày kết cuộc được lên Tiên Đài.

    CHÚ THÍCH
    HỒI QUI: Trở về nơi cũ.
    KỊP THÌ: Kịp với thời gian hoặc cơ hội đưa đến.
    TẢO TẦN: Rau tần và rau tảo (Thái tần Thái tảo). Tần là bèo, Tảo là rong, hai loại rau nầy thường mọc ở mé nước hay mé biển. Ý chỉ các gia đình nghèo khổ không đủ gạo tiền để dùng. Đức Thầy từng nói:
    "Ta thương xót lo tần lo tảo”. Hoặc là:
    “Tảo tần lo liệu năm ba,
    Biết sao hiệp mặt lòng già mới nguôi”.

    (Từ giã bổn đạo khắp nơi)
    GIỮ TÂM NGAY THẢO: Trung thành ngay chánh đối với Tổ quốc, hiếu thảo với Ông bà Cha mẹ, do chữ Trung Quân Vương, Hiếu Phụ Mẫu. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    “Hiếu trung lòng chớ vội quên,
    Sống lo trọn đạo thác lên Tiên đài
    .(Kt, Q.5)
    MỘ KHAN THẦN TỈNH: Thành ngữ nầy chỉ cho người con có hiếu thảo. Thường sớm viếng tối thăm, đắp lạnh quạt nồng cho cha mẹ, do điển tích Hoàng Hương, một trong Nhị thập Tứ hiếu:
    Hoàng Hương người thời Đông Hán (Tr. Hoa), mẹ mất khi ông lên 9 tuổi, ông gào thét và kêu khóc thảm thiết. Nuôi cha rất mực cung kính, sớm khuya thăm viếng hầu hạ không hề xao lãng. Mùa Đông ông nằm ủ vào chăn (chiếu) của cha để truyền hơi nóng cho cha khỏi rét. Đến mùa Hè thì quạt mùng gối để cha được mát mẻ luôn, nhờ đó mà cha ông được ăn ngon ngủ yên, quanh năm vui vẻ.
    Quan Thái Thú sở tại biết được Hoàng Hương là người con chí hiếu liền làm sớ tâu với Vua Hán Đế ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng biểu dương bậc biết Hiếu đễ. Người sau thường ca ngợi:
    “Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
    Nghìn thu biết Đạo làm con mấy người”.

    Dùng thành ngữ “Mộ khan thần tỉnh” qua hai câu giảng nêu trên, Đức Thầy muốn khuyến tấn mỗi người: Bổn phận làm con cháu phải lo tròn câu hiếu Đạo hầu đền đáp công ơn sanh dưỡng của Tổ tiên cha mẹ thì sau nầy sẽ tiến lên cảnh Tiên Phật:
    “Hiếu trung lòng chớ vội quên,
    Sống cho trọn Đạo thác lên Tiên đài”.

    CẦN TRIÊU: Cần là siêng năng. Triêu là mai, buổi sáng ngày. Các từ nầy đi cặp với “Mộ Khan Thần Tỉnh”, là mỗi ngày người con có hiếu sáng sớm phải lo chăm sóc cha mẹ.
    LAM KIỀU: Cũng gọi là cầu Lam, tức cây cầu bắc qua sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, Thiểm Tây (Tr.Hoa). Nơi đây, Bùi Hàng gặp được Vân Anh và sau thành Tiên, nên thành ngữ nầy ngụ ý cho đường về cảnh Tiên, phát xuất từ điển tích ấy.
    Đời Đường, nước Trung Hoa có anh Bùi Hàng, trên đường đáp thuyền đi Tương Hán, bất ngờ được cùng đi chung chuyến thuyền với nàng Vân Kiều, người đẹp vào hàng quốc sắc. Hàng nhờ người hầu gái của Vân Kiều đưa thư hộ, nên được tiếp chuyện với Vân Kiều và được nàng tặng bài thơ:
    “Nhất ẩm huỳnh tương bách cảm sanh,
    Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh.
    Lam kiều tiện thị Thần Tiên quật,
    Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh”.

    (Uống rượu huỳnh tương trăm cảm sinh,
    Huyền sương giã thuốc gặp Vân Anh.
    Lam kiều vốn thật nơi Tiên ở,
    Hà tất băng mình đến Ngọc Kinh).
    Sau, Bùi Hàng y lời dặn trong thơ đi đến Lam kiều, Hàng dừng chân nơi quán trọ bên đường của một bà lão để giải khát.
    Cô con gái của bà lão bưng nước ra. Hàng trông thấy xinh đẹp lạ thường liền hỏi tên họ. Rõ ràng là Vân Anh, em ruột của Vân Kiều. Hàng liền hỏi bà lão xin được cưới nàng làm vợ.
    Bà lão bảo Hàng hãy về tìm cho được cối chày bằng ngọc đem lại làm sính lễ, bà sẽ gả Vân Anh cho, khỏi cần vàng bạc chi hết. Nhờ lòng nhiệt thành, Hàng được Thần Tiên giúp cho cối chày và cưới được nàng Vân Anh.
    Lão bà chỉ cho Hàng về cách công phu tu tập và dạy Hàng dùng cối chày đó tán thuốc Tiên trong ba tháng. Khi làm thuốc xong, cả ba người cùng uống và được thành Tiên.
    Do điển tích trên đây mà các Kinh sách hay các nhà văn thường dủng từ ngữ Lam Kiều hay là Cầu Lam để chỉ con đường đưa đến cảnh Tiên.
    Cổ thi có câu:
    “Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
    Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người”.

    Đức Thầy nay cũng than:
    Lam Kiều hữu lộ vắng hoe,
    Ngục môn không cửa mà hè nhau đi”.
    (SG. Q.3)

    CHÁNH VĂN

    77.-Ít ai giữ đặng chí bền,
    Tu theo nước lớn, ròng bèn thả trôi.
    Tuy xa mà tới mấy hồi,
    80.-Đất còn lở thét phải bồi tự-nhiên.
    Thảm thương cho kẻ tá-điền,
    Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay.
    No chiều rồi lại đói mai,
    84.-Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề.
    Lo tròn cha mẹ nhi thê,
    Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung.
    Khá thương những kẻ bần cùng,
    88.-Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 77 tới câu 88)
    Đoạn nầy Đức Thầy tiếc thương cho số người tu hành không bền chí, nay chăm mai lãng. Con đường tu hành tuy xa, nhưng nếu ai bền chí thì cũng gần một bên: “Phàm Thánh cách nhau một ngoái đầu”.(TS) Hoặc là: “Cách nhau vì bởi ái hà bể mê”.( Đức Phật Thầy Tây An) Định luật xây vần trong trời đất hễ hết lở phải tới bồi, đó là đương nhiên.
    Đức Thầy luôn nhắc nhở người giàu hãy thương xót kẻ nghèo khổ, lại gặp cơn lúa ngập, của tiền chẳng còn một mảy may, sống trong cảnh mai no chiều đói, nhà nghèo trí quẩn, bao nhiều điều đắng cay dồn tấp đến, thêm gặp cảnh vợ con đau yếu. Cho nên Ngài khuyên những người dư ăn dư để nên mở lòng thương xót dân nghèo, nay đã đúng thời kỳ nên ra tay giúp đỡ vào công việc hiện tại nầy.

    CHÚ THÍCH

    GIA BẦN TRÍ ĐOẢN: Nhà nghèo thì trí cũng quẩn (ngắn).
    LƯNG TÚC: Thiếu tiền hụt gạo.
    NÃO NỀ TÂM TRUNG: Đau xót trong lòng.

    CHÁNH VĂN (Thi)

    89.-Sột-sột nhà sau mụ vét nồi,
    Ông chồng quần áo rách lôi-thôi.
    Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa,
    92.-Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi.
    Khua đũa mèo mun ngờ chủ thảo,
    Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi.
    Lầm-than đói khó vì tai-ách,
    96.-Hỡi kẻ sang giàu cứu nạn trôi.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 89 tới câu 96)
    Cuối bài Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện, Đức Thầy viết 3 bài thi, 2 bài Bát cú và 1 bài Tứ cú. Bài thứ nhất Ngài viết thể Bát cú Đường luật. Nội dung Ngài diễn tả cảnh gia đình nghèo khổ, vì năm qua gặp cảnh ngập lụt thất mùa. Ông chồng thì áo quần rách rưới, bà vợ sửa soạn nấu cơm, tiếng vét nồi nghe sột sột, chứng tỏ mỗi bữa ăn đều thiếu gạo.
    Đàn con thì nheo nhóc kêu cơm, đứa lại lấn dành chỗ ngồi tốt. Cho đến các loài gia súc, mèo chó cũng ngóng chờ chủ nhà liệng cho vài miếng xương thừa.
    Tai ách nghèo túng nầy diễn lên cảnh lầm than cơ cực, đâu đâu cũng có. Cho nên Đức Giáo Chủ kêu gọi kẻ giàu sang nên ra tay tế độ nạn ngập lụt nầy.

    CHÚ THÍCH
    SỘT SỘT: Tiếng người đàn bà trong gia đình đang cạo vét lớp cơm cháy còn dính dưới đáy nồi.
    XƠI BỮA: Dùng cơm (ăn cơm).
    LẦM THAN: Cơ cực vất vả. Nghĩa bóng là chỉ cho các thiên tai, địa ách hay chiến tranh đói khó, khiến dân chúng phải sống cảnh gian nan cực khổ. Cụ Đồ Chiểu có câu:
    “Thương dân phải chịu lầm than muôn phần”.
    Đức Thầy nay cũng đề cập:
    “Lầm than khói lửa với binh đao,
    Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.

    TAI ÁCH: Tai nạn khốn khổ. Ý chỉ cuộc tai nạn khốn khổ dồn dập tới, hết nạn nầy tới nạn khác, không ngớt. “tai Trời ách nước”:
    “Ách trời nạn nước thình lình,
    Người hung cứ mãi chống kình với ta”.


    CHÁNH VĂN

    97.-Nạn trôi lúa ngập đói còn xa,
    Điền-chủ mau mau nghĩ tận mà !
    Tế-độ dân nghèo trong lúc túng,
    100.-Giúp dùm kẻ rối buổi vừa qua.
    Có ăn dư huệ nhờ thân nó,
    Nghèo khổ bần-phu khổ dữ a !
    Nếu đã xả thân tầm đạo-đức,
    104.-Mở lòng bố thí ngộ thần ca.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 97 tới câu 104)
    Bài thi Bát cú thứ nhì phân làm bốn đoạn. Qua hai câu mở đề (1 và 2) Đức Giáo Chủ cho biết nạn lúa bị ngập lụt và dân tình đói khổ nầy còn kéo dài thời gian tới nhiều năm nữa.
    Đoạn 2 cặp trạng (câu 3 và 4) Ngài kêu gọi các ông Điền chủ phải xét kỹ để tận tâm giúp đỡ những người nghèo đói cho qua truông khổ.
    Đoạn 3 cặp luận (5 và 6) Ngài giải thích rõ chúng ta làm ra của cải đây là cũng nhờ kẻ nghèo làm thuê làm mướn giúp đỡ công cán mới được tiền của dư dã như vậy.
    Đến đoạn 4 hai câu kết (7 và 8) Đức Thầy khuyên mọi người: Nếu ta đã giác ngộ xả thân tầm đạo tu hành thì hãy mở lòng bố thí, tất sau nầy sẽ thâm ngộ được lẽ cơ huyền trong trời đất.

    CHÚ THÍCH

    ĐÓI CÒN XA: Nạn đói khổ còn kéo dài , từ năm 1939 tới năm 1945 mới chấm dứt thế chiến thứ II.
    TẾ ĐỘ: Cứu giúp và đưa qua. Chư Phật cùng hàng Bồ Tát dùng Pháp Giáo và phương tiện tế độ chúng sanh rời bờ mê, sang bến giác, khỏi biển khổ sanh tử, đến Cực lạc Niết bàn. Đức Thầy từng cho biết:
    “Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
    Ra tay tế độ dắt lần về ngôi”.
    (Hoài Cổ)
    LÚC TÚNG: Lúc nghèo túng nguy ngập.
    DƯ HUỆ: Dư là thừa; Huệ là ân huệ, ban ân. Ân của người trên ban xuống cho kẻ dưới. Ví dụ: Thừa ân của Phật đàng hoặc là: Cho con Hồng Lạc thọ ân thừa”.
    BẦN PHU: Người đàn ông lam lũ làm ăn cực khổ nghèo hèn chơn chất.
    XẢ THÂN: (Xem CT trong STTĐ, trang 489, cột 2, tập 2).
    BỐ THÍ: (Xem chữ Bố Thí đã giải ở trước).
    NGỘ THẦN CA: Thâm ngộ lẽ cơ huyền sâu kín trong trời đất.

    CHÁNH VĂN


    105.-Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu,

    Vạn-vật từ nay luống thảm-sầu.
    Áo-não thương đời đa đói khổ,
    108.-U-buồn trăm họ vẽ vài câu.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 105 tới câu 108)
    Bốn câu kết thúc bài Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện, Đức Giáo Chủ khuyên nhủ khắp bàng nhân bá tánh: Từ nay mọi vật trong thế gian đều chung chịu cảnh sầu thảm đưa đến, nên sáng tác ít lời nhắn nhủ khuyên lơn.
    Hoà Hảo ngày 25 tháng 2 năm Canh Thìn.

    2.- DẶN DÒ BỔN ĐẠO

    Bài Dặn Dò Bổn Đạo Đức Giáo Chủ sáng tác vào khoảng tháng 2 năm Canh Thìn 1940, lúc Ngài còn truyền Đạo ở Tổ Đình PGHH. Đây là một bài vận văn, thể Lục bát, lối khuyến tu, dài 158 câu.
    Khởi đầu bằng những câu:
    “Tháng năm mười tám rõ ràng,
    Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo”.

    Và chấm dứt bởi câu:
    “Thôi thôi dân chớ hung hào,
    Khùng từ Bổn Đạo tẩu đào Bắc đô”.

    Đại ý của bài có ba phần chính:
    1.-Thứ nhất, Đức Thầy cho biết: Ngài vâng lịnh Đức Phật Tổ từ cõi Tây Phương Cực Lạc trở lại trần gian, giáo truyền Đại Đạo cứu dân. Từ ngày khai Đạo tới nay đã trên sáu tháng. Ngài cũng không ngần ngại tiết lộ danh hiệu của hai Thầy trò là Khùng và Điên cũng như vị trí của Ngài cư ngụ:
    “Sáu trăng Thầy Tớ dãi dầu,
    Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi.
    Bồng Lai Điên dại có ngôi,
    Tây Phương Cực Lạc Khùng ngồi tòa sen”.

    Và Ngài cũng nói rõ ai Thầy ai Tớ:
    PHP:
    “Thầy Khùng trò lại hóa điên,
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ”.
    2.- Điểm thứ hai là sau thời gian giáo Đạo, Đức Giáo Chủ được: “Lôi âm sắc lịnh đòi rày hỏi han”.Ngài đi bằng chơn thân, còn sắc thân của Ngài vẫn còn ở tại Tổ Đình Hoà Hảo, tiếp tục độ chúng:
    “Xác trần để lại làng Hòa,
    Lời thăm bốn phía Ngọc tòa ta lui”.

    Về Giáo lý thì trong nội dung, Ngài có lược giải Bát Chánh Đạo, là một pháp tu căn bản của Đạo Phật, do Đức Phật lưu truyền đến ngày nay. Hành giả nhờ đó mà không lạc vào tà thuyết dị đoan.
    3.- Điềm thứ ba, Đức Giáo Chủ còn cho biết Ngài cũng có trách nhiệm khuyến hóa nhân sanh miền Bắc Việt Nam. Song Ngài chỉ đi bằng hóa thân và khi đến đó Ngài mang hình tướng bằng một cụ lão, cư ngụ tại làng Đồng Thạnh, bấy giờ là tỉnh Bắc Giang:
    “Lấy tâm lấy trí xét soi,
    Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào.
    Thôi thôi dân chớ hùng hào,
    Khùng từ Bổn đạo tẩu đào Bắc đô”.


    CHÁNH VĂN

    1.-“Tháng năm mười tám rõ ràng,

    Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo.
    Xuống trần nhằm buổi nạn eo,
    4.-Gẫm trong dân sự còn nghèo chữ tu”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Khởi nguyên từ ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng Đạo PGHH. Lúc bấy giờ người Pháp đang đặt ách thống trị trên đất ViệtNam, dân chúng phần đông hấp thụ theo nền văn minh vật chất của Âu Tây. Nên khi nghe Ngài đem nền Đạo cũ của nước nhà để giáo hóa, ai ai cũng reo cười chế nhạo.
    Hơn nữa Đức Thầy ra đời nhằm thời Hạ nguơn Mạt pháp, tâm trí con người quá mê mờ, nền Đạo đang đà xuống dốc nên sự tu của dân chúng còn rất yếu kém.

    CHÚ THÍCH
    DẶN DÒ BỔN ĐẠO: Tiếng của bậc Thầy hay Cha Mẹ dùng trước khi đi đâu dặn bảo lại đệ tử hay con cháu, ở nhà làm y theo.
    THÁNG NĂM MƯỜI TÁM: Hiểu xuôi câu văn là ngày 18 tháng 5, ngày Đức Thầy khai sáng Đạo PGHH.
    XUỐNG TRẦN: Nghĩa của chữ lâm phàm hay giáng trần. Ý chỉ người từ cõi siêu thoát vâng lịnh Phật Trời xuống khai Đạo độ đời.
    NẠN EO: Thời pháp nạn không được tự do truyền bá giáo lý hay hành đạo.
    CÒN NGHÈO CHỮ TU: Sự tu hành còn yếu ớt kém cõi. Ý chỉ Đạo mới khai mở, dân chúng hành theo Đạo chưa có bao nhiêu, thêm gặp thời pháp nạn người ta dễ bị rơi rớt, thối chuyển.

    CHÁNH VĂN

    5.-“ Hạ nguơn sanh chúng ám u,
    Tây Phương sắc lịnh vân du Nam kỳ.
    Mượn nhằm một xác nhu mì,
    8.- Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao ?”

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 5 tới câu 8)
    Dân chúng sống trong thời Hạ nguơn mạt pháp trí lực quá mê si tăm tối, gây tạo nhiều tội lỗi, nên sắp gây tai nạn chiến tranh tàn khốc. Do đó, Đức Thầy được Đức Phật A Di Đà và Đức Thích Ca sắc lịnh cho Ngài khai Đạo cứu dân tại miền Nam nước Việt.
    Ngài tùy theo cơ pháp chọn một thiếu niên rất trẻ, nhưng tâm tánh nhu mì chân chánh đi đứng trang nghiêm chững chạc, để đúng ngày giờ đứng ra khai hóa nhân sanh. Sau sáu tháng, Ngài hạ bút sáng tác bài giảng nầy.

    CHÚ THÍCH

    HẠ NGUƠN: (Xem CT đoạn 5 bài Sứ Mạng, quyển Thượng, tập 1)
    ÁM U: Mê tối mù mịt. Chỉ cho sự mê si.
    TÂY PHƯƠNG: Hướng Tây, tức cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Cũng có nơi gọi là Thiên Truớc, cõi Tây Thiên Trước, cõi Phật của Đức Thích Ca (Tây Phương).
    SẮC LỊNH: Sắc chỉ và mệnh lệnh của cấp trên ban xuống, như sắc lịnh của Vua hay Trời Phật. Chữ Tây Phương sắc lịnh ở đây, ý chỉ Đức Phật Thích Ca sắc lịnh cho Đức Thầy lâm phàm khai Đạo:
    Sắc của A Di là Phật Tổ,
    Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu”.

    Bằng chứng lúc Đức Thầy mới sanh ra Ngài đã có đức hạnh song toàn, nói năng chững chạc. Ngài có sẵn cử chỉ siêu nhân, và đủ biện tài trí tuệ khai hóa nhân sanh mới 20 tuổi.
    GIẢNG DÂN SÁU THÁNG: Tuy Ngài khai Đạo vào ngày 18 tháng 5, nhưng phải đợi tới rằm Trung Thu, tức trung tuần tháng tám, Ngài mới viết giảng dạy dân. Tính từ 15/8/1939 đến tháng 2/1940 (Canh Thìn) Ngài sáng tác bài Dặn Dò Bổn Đạo, tính ra đúng 6 tháng.

    CHÁNH VĂN

    9.-“ Rất buồn bá tánh biết bao,
    Nạn nguy sắp đến mà ngao du hoài.
    Viết ra giảng kệ bốn bài,
    12.- Giã từ trần thế lui hài bôn phi”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 9 tới câu 12)
    Đức Thầy xét thấy tai nạn nguy hiểm nghèo đói sắp tới một bên mà bá tánh vẫn lo ăn chơi, chẳng lo bề tu sửa.
    Ngài đã viết ra bốn bài Sấm Kệ lớn để dạy khắp vạn dân sớm lo tu niệm. Giờ đây Ngài sắp lên đường đi khuyến hóa nơi khác, nên sáng tác một bài để lại mang tực đề là “Dặn Dò Bổn Đạo”.

    CHÚ THÍCH
    NẠN NGUY: Tai nạn nguy hiểm.
    NGAO DU: Đi khắp đó đây để xem phong cảnh lạ và nhân tình thế thái ở các địa phương khác. Nhưng chữ ngao du ở đây là chỉ cho sự đi chơi (du lịch).
    GIẢNG KỆ BỐN BÀI: Chỉ cho bốn quyển giảng lớn và dài mà Đức Giáo Chủ đã sáng tác vào cuối năm Kỷ Mão (1939) gồm có:
    -Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm (Q.1).
    -Kệ Dân Của Người Khùng (Q.2).
    -Sám Giảng (Q.3).
    -Giác Mê Tâm Kệ (Q.4).
    LUI HÀI: Trở gót, đã đi giờ sắp trở lại.
    BÔN PHI: Bôn là chạy; Phi là bay. Bôn phi là đi nhanh cho mau tới đích. Đây có ẩn ý đi bằng chơn linh (vô hình).

    CHÁNH VĂN


    13.- An-Nam phong-hóa lễ-nghi,
    Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.
    Mảng lo chế nhạo chống kình,
    16.-Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.
    Ta đây dường thể như lươn,
    Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.
    Sáu trăng Thầy tớ dãi-dầu,
    20.-Quyết lòng truyền-bá Đạo mầu mà thôi .

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 13 tới câu 20)
    Nước Việt Nam ta từ trước ảnh hưởng hai tôn giáo lớn là Phật Giáo dân tộc và Khổng Giáo, nên sự ăn ở lễ nghi phong hóa rất tốt đẹp. Nhưng từ khi có ngọn gió văn vật của Âu Tây tràn vào, khiến dân ta chạy theo và nền phong hóa bị xuống dốc. Họ cứ lo tham gian kình chống lẫn nhau, chẳng còn quí trọng tinh thần đạo đức nữa.
    Vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ muốn cứu độ chúng sanh mà Ngài ví mình như con lươn. Dù ai có chê bai biếm nhả hay đổ bùn xịn lên, Ngài cũng không màng kể.
    Từ khi sáng tác Sấm Giảng để khai hóa nhân sanh Ngài phải chịu biết bao sương gió dồn dập đến với Ngài, Ngài cũng không nài hà, chỉ quyết một lòng lo tế độ chúng sanh mà thôi.

    CHÚ THÍCH

    AN NAM: Tên hiệu nước Việt Nam ta thời nhà Đường (Trung Hoa). Khi chiếm nước ta, họ đặt cho cái tên là An Nam Đô Hộ Phủ. Qua đời nhà Tống họ cũng kêu là An Nam Quốc.
    PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa của một quốc gia. Đức Thầy có câu:
    “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,
    Chấp bút thần tả ít bổn kinh”.

    (Diệu pháp QM)
    LỄ NGHI: Cũng viết là nghi lễ. Có nghĩa là nghi thức và lễ nghĩa của nước nhà. Đức Thầy đã cảnh tỉnh:
    “Thấy sanh chúng nhiều người khờ dại,
    Chẳng biết dùng phong hóa lễ nghi.
    Nên ta đem Đạo đức duy trì,
    Gìn tục cổ để người chẳng rõ”.
    (SG, Q.4)
    VĂN VẬT: Sản phẩm của văn hóa gồm có lễ vật và chế độ. Đây chỉ cho văn minh về vật chất, đối với văn minh tinh thần. Đức Thầy từng viết:
    Bởi vì đời văn vật cạnh tranh,
    Nên cấu xé cùng nhau thảm não”.
    (Diệu pháp QM)
    CHẾ NHẠO: Chê bai nhạo báng với nhau.
    CHỐNG KÌNH: Cũng viết là kình chống. Có nghĩa tranh hơn thua, chống chế giành giựt với nhau.
    CHẲNG TOAN ĐẠO ĐỨC: Không lo lắng việc tu hành đạo đức.
    THÔN HƯƠNG: Làng xóm. Chỉ những người xung quanh ta.
    LƯƠN: (Điển Tích)
    Một loài cá nước ngọt, sống ở dưới bùn trịn, ao hồ, ruộng đồng, mình tròn và dài trơn, màu nâu sẩm, tánh rất hiền lành. Nghĩa bóng là hay chịu mọi sự cực khổ dơ bẩn. Đức Thầy ví mình như loại lương là vì Ngài cam chịu mọi gian lao, cực khổ và tiếng đời chê bai gièm siểm, miễn sao cứu độ được bá tánh bớt khổ đau thì Ngài an lòng. Như Ngài từng thốt:
    “Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
    Muốn cứu thế sá chi bùn trịn”.

    SÁU TRĂNG: Mặt trăng ban đêm mọc trên nền trời, xoay quanh vòng trái đất. Tính theo thời gian: Một con trăng là một tháng (30 ngày). Sáu trăng là chỉ cho sáu tháng.
    Kể từ khoảng 15 tháng 8, Đức Thầy bắt đầu sáng tác những quyển sấm kinh, đến khi Ngài viết bài Dặn Dò Bổn Đạo nầy là đủ sáu tháng.

    CHÁNH VĂN

    21.-Bồng-Lai Điên dại có ngôi,
    Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.
    Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,
    24.-Giả như mở cửa mà then còn cầm.
    Dân tình xài-xể dập bầm,
    Nào hay ta đã thương ngầm sanh-linh.
    Xác trần Ta mở oai thinh,
    28.-Đạo mầu truyền pháp thình-lình không hay.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 21 tới câu 28)
    Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết: Hai Thầy trò Ngài xuống trần khai Đạo, tuy ông Đệ tử tự xưng là Điên hay Dại, nhưng ông đã có sẵn ngôi vị ở cảnh Tiên, tức chỉ ông Cử Đa đã chứng Đạo là Tiên Trưởng ở núi Tà Lơn. Còn ông Khùng là Đoàn Phật Sư, tức là Đức Phật Thầy Tây An. Tuy Ngài xưng là Khùng, song ngôi vị của Ngài đã có sẵn ở Tây Phương Cực Lạc.
    Nền Đạo của các Ngài mới khai mở, như ngọn đuốc mới nhen nhúm chưa sáng tỏ lắm. Cũng như Ngài mới mở cửa mà tay còn cầm then gài, cánh cửa mới hé chưa mở hoát ra được. Cũng vì thế mà người ta còn chê bai biếm nhẻ, nhưng các Ngài không màng kể, bởi họ đâu có hiểu lòng các Ngài thương khắp sanh linh.
    Ngài cũng tiết lộ cho chúng sanh biết Ngài đã dùng uy lực tinh thần của lời nói mà âm thầm trao truyền chánh pháp, đệ tử ít ai hiểu được.

    CHÚ THÍCH
    BỒNG LAI: Cảnh Tiên (Xem thêm CT chữ nầy trong STTĐ trang 47, Q.1, cột 2).
    ĐIÊN DẠI: Hiệu của ông Cử Đa (Ngọc Thanh) tức là đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An.
    TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC: Cảnh Cực Lạc ở cõi Tây Phương của Đức Phật A Di Đà và Đức Phật Thích Ca.
    KHÙNG: Hiệu của ông Thầy, tức Đức Phật Thầy Tây An.
    TỪ BI: Là hai trong bốn đại đức của chư Phật. Có nghĩa hiền lành thương xót. Song chữ Từ bi ở đây là chỉ cho Đạo Phật (đạo Từ Bi).
    OAI THINH: Uy lực của lời nói, tức lời pháp giáo của Đức Thầy…
    TRUYỀN PHÁP THÌNH LÌNH: Cách truyền pháp âm thầm của ông Thầy và người đệ tử. Đức Thầy luôn nhắc nhở về sự truyền pháp nầy:
    ... “Thẩn thơ lại gặp Đức Thầy Bửu Sơn.
    Cúi đầu Điên tỏ nguồn cơn,
    Động lòng trắc ẩn ra ơn dạy truyền.
    Thấy Điên tâm tánh quá thiềng’,
    Nội trong sáu khắc biết liền thiên cơ”.


    CHÁNH VĂN

    29.-Trớ-trêu con tạo thày-lay,

    Lôi-Âm sắc lịnh đòi rày hỏi-han.
    Cúi đầu tâu trước Phật đàng:
    32.-“Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.
    Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
    Một trăm mới đặng ối thôi mười người !
    Mảng lo cao thấp ngạo cười,
    36.-Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo”.
    Di-Đà nghe tấu buồn xo,
    38.-Vạn dân bá-tánh đắn-đo nhiều bề.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 29 tới câu 38)
    Đoạn giảng qua, ý cho biết Đức Thầy đã có sắc lịnh của Đức A Di Đà và Đức Phật Tổ lâm phàm độ thế, song nay lại được các Ngài đòi về dạy việc.
    Trước mặt chư Phật, Ngài quì trình bày: Hiện giờ dân chúng quá nghinh ngang hung ác, trong số 100 chỉ dạy được 10 người thức tỉnh mà thôi.
    Hễ thấy ai tu hành đạo đức họ chỉ lo biếm nhẻ chê cười, cho rằng lo tu thân hành đạo chỉ thấy cực khổ thêm. Đức Di Đà cùng chư Phật nghe rất buồn lòng cho bá tánh.

    CHÚ THÍCH

    TRỚ TRÊU: Né tránh tráo trở, chỉ cho luật trời hay tạo hóa. Người ta hay dùng những chữ lắc léo hay cắc cớ, trớ trêu để than trách luật trời. Đức Thầy đã viết: “Lắc léo hóa công bày tấn kịch”.
    THÀY LAY: Nhiều việc.
    LÔI ÂM: Nói cho đủ là Lôi Âm Tự, tức chùa Lôi Âm tại Linh Thứu Sơn, nơi Đức Thích Ca thuyết pháp.
    KHÚC NÔI: Hoàn cảnh sự tình kể rõ ra.
    MỘT TRĂM MỚI ĐẶNG ỐI THÔI MƯỜI NGƯỜI: Lúc Đức Thầy còn khai Đạo tại Tổ Đình Hòa Hảo. Một hôm, Ngài có kêu ông Xã Bộ ở Châu Đốc và ông Huỳnh Hữu Phỉ ở Phú Lâm hỏi: “Tổng số tín đồ trong tỉnh Châu Đốc được bao nhiêu ?” Ông Xã Bộ đứng lên trả lời: “Bên phần Châu Phú và Châu Đốc khoảng 2.500 người. Còn bên Tân Châu, Hồng Ngự và các xã cù lao thì phần ông Huỳnh Hữu Phỉ kiểm soát, chẳng biết được bao nhiêu, Thầy”.
    Đức Thầy liền nhìn ông Hai Phỉ ý muốn hỏi, thì ông Phỉ đứng lên thưa:
    -Bạch Thầy ! Phần tín đồ ở các quận bên nầy khoảng độ non ba ngàn. Đức Thầy liền nói:
    -Kể chung như được năm ngàn đi. Nhưng nữa sau còn chừng năm trăm thôi !
    Ông Xã Bộ hỏi tiếp:
    -Sao vậy Thầy ?
    -Vì tu không bền chí nên bị rơi rớt lần lần chớ sao!
    Nghe nói, ai cũng trầm ngâm suy nghĩ chớ chẳng hỏi gì thêm nữa!..
    TRẦN HẠ: Cũng như chữ Thiên hạ, chỉ chung cho mọi người đang sống cảnh Hạ giới nầy.
    DI ĐÀ: Tức là Đức Di Đà, là Giáo Chủ đạo Phật ở cõi Cực Lạc. Cũng như Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ đạo Phật ở cõi Ta Bà. Đức Huỳnh Giáo Chủ có sắc lịnh của hai vị Phật nầy xuống trần khai Đạo, nên nay Ngài mới được về hỏi việc.

    CHÁNH VĂN


    39.-Làm sao cửa Phật dựa kề,
    Hung-sùng tàn-ác khó bề dạy khuyên.
    Thầy Khùng Trò lại hoá điên,
    42.-Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ !
    Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
    Khùng lo tìm kiếm bến bờ mà nương.
    Nói cho bổn-đạo đặng tường,
    46.-Dạy dân nào có gạt lường chi dân.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 39 tới câu 46)
    Thầy trò Đức Thầy tấu trình đến đây có lời than: Dân tình hung ác khó dạy như vậy thì làm sao về đặng cửa Phật ?
    Thời gian khai Đạo ông Thầy giả dạng là Khùng, còn ông trò (tức là đệ tử) thì giả như người Điên. Nhưng bá tánh đâu có ngờ đây là các bậc Phật Tiên giả dạng độ đời.
    Hai Ngài đã giải rõ: Không chỉ lần nầy mà từ trước tới giờ, hai Ngài đã có nhiều lần khai hóa và còn lưu để bao nhiêu dấu tích về tiền thân của Đức Phật Thầy và Đức Cử Đa. Các Ngài mới thống trách trong bổn đạo chảng chịu tìm cội xưa gốc cũ để hướng về cảnh Tiên Phật. Vì quá xót thương dân chúng các Ngài mới dạy tận tường như vậy, chớ nào ai có gạt lường bá tánh đâu mà nghi ngờ.

    CHÚ THÍCH

    “TƯỢNG XƯA DẤU CŨ CÒN MỜ, CHẲNG LO TÌM KIẾM BẾN BỜ MÀ NƯƠNG
    .: Những dấu tích xưa của Đức Phật Thầy Tây An và ông cử Đa còn lưu lại như: Các bài vị Đoàn Phật Sư và những hình thức ở chùa Tây An Cổ Tự…
    Tây An Cổ Tự (gốc mục lên chồi) và các bài vị của Đức Phật Thầy Tây An còn lưu lại ở Tây An Tự núi Sam. Ngoài ra còn quyển Sấm truyền về Đức Phật Thầy cũng như những dấu vết ông Cử Đa tu Tiên được chứng quả ở núi Tà Lơn.
    Đức Thầy đặt câu hỏi cho các môn nhơn đệ tử. Tại sao không lo tìm kiếm mà nương theo cho đến bờ bến ?..
    ĐẶNG TƯỜNG: Thấu đáo tường tận, không thiếu sót.

    CHÁNH VĂN

    47.-Chim ô đà dựa cầu Ngân,
    Người Xưa trở gót mấy lần ai hay.
    Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,
    50.-Thì là khó thấy mặt mày người Xưa.
    Dạy đời nào quản nắng mưa,
    52.-Ước mong bá-tánh sớm ưa tu-hành.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 47 tới câu 52)
    Theo văn chương Việt Nam, hễ mỗi khi có chim Ô thước đứng dựa bên cầu sông Ngân, là báo tin những người có duyên lành với nhau thì luôn gặp gỡ nhau để dìu dắt cho đến ngày trùng phùng hội ngộ. Song người đời nay phải thảo ngay trọn vẹn mới mong gặp lại người xưa. Bằng không, khó được kết quả.
    Đức Thầy ra đời hóa Đạo dù gặp nhiều nắng mưa cay đắng Ngài cũng chẳng ngại, miễn cho bá tánh vạn dân đều biết thức tỉnh tu hành là tốt.

    CHÁNH VĂN

    53.-Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,
    Khuyên đời trau-trỉa chữ lành cho xong.
    Con người có Tổ có Tông,
    56.-Học hay chữ-nghĩa sao không phượng-thờ?
    Hiếu trung truyện tích sờ-sờ,
    58.-Người đời phải biết phượng-thờ mẹ cha.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 53 tới câu 58)
    Vừa qua, Đức Thầy đã sáng tác bốn quyển giảng. Ngài phân tách trong, đục, hư, nên, tốt, xấu rất rành rẽ để khuyên bá tánh nên trau sửa cho mình được trọn lành.
    Sống trong đời ai cũng có Ông bà dòng họ mới có mình. Vậy làm người phải biết kính nể mến yêu.
    Bao nhiêu mảnh gương trung hiếu đã lưu lại trong sách sử từ xưa đến nay, bổn phận làm con phải lo phụng dưỡng thờ kính Cha Mẹ cho tròn câu hiếu Đạo.

    CHÚ THÍCH
    BỐN CUỐN: Bốn quyển giảng lớn: 1, 2, 3 và 4. Đức Thầy đã viết trong sáu tháng qua.
    TRONG ĐỤC: Những điều xấu tốt nhơ sạch trong đó.
    TRAU TRIA: Cũng gọi là trau trỉa. Nghĩa của chữ tu, tức là tu sửa trau dồi cho thân tâm trở nên tốt lành. Đức Thầy đã viết:
    “Trau tria nhục thể tìm cội cũ,
    Chùi rửa tim gan một tấc lòng”.

    Và:
    “Thấy chúng sanh trau trỉa mặt mày,
    Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    TỔ TÔNG: Tổ là ông bà, Tông là dòng họ. Chỉ cho Ông bà dòng họ từ trước.
    HIẾU TRUNG: Tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ gọi là Hiếu. Trung thành với quốc dân gọi là Trung. Do câu “Trung quân vương, Hiếu phụ mẫu”. Đức Thầy luôn nhắc nhở:
    “Hiếu trung lòng chớ vội quên,
    Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên đài”.


    CHÁNH VĂN

    59.-Từ đây ta mắc bôn-ba,
    Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.
    Vạn dân nên trọng Phật Tiên,
    62.-Dể ngươi lời dạy đọa riêng một mình.
    Bắc, Nam chờ đợi cuối Thìn,
    64.-Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 59 tới câu 64)
    Đoạn giảng trên Đức Thầy cho biết, từ đây Ngài chẳng những có trách nhiệm khuyến hóa dân chúng miền Nam mà còn có phận sự giáo Đạo miền Bắc nữa. Vậy mỗi người nên kỉnh trọng Phật Tiên, tất sẽ được nhiều hạnh phúc, nếu khinh thường lời giáo huấn ấy bị khổ thân sau nầy.
    Đức Thầy cũng cho biết vào khoảng cuối năm Canh Thìn (1940). Ngài sẽ được Trời Phật vận chuyển thân xác ra khỏi vòng kềm kẹp của người Pháp tại nhà Thương Chợ Quán.

    CHÚ THÍCH
    BÔN BA: Xuôi ngược các nơi, rày đây mai đó, khi nơi nầy khi nơi khác, ra Bắc vào Nam không yên một chỗ: Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối”.
    VẠN DÂN: Do chữ muôn dân, tượng trưng cho số nhiều (nhiều lắm).
    BẮC NAM: Miền Bắc miền Nam nói chung, hầu hết đất nước Việt Nam.
    CUỐI THÌN: Chấm dứt năm Canh Thìn (1940).

    CHÁNH VĂN

    65.-Viết thêm một khúc ngâm-nga,
    Dặn dò bổn-đạo vậy mà mấy trương.
    Ta dầu có cách thôn-hương,
    68.-Vạn dân cứ chữ hiền-lương mà làm.
    Thích-Ca còn phế tước hàm,
    70.-Lầu cao cửa rộng mà ham tu-hành.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 65 tới câu 70)
    Viết đến đây, Đức Thầy muốn dừng lại, song còn sáng tác thêm một đoạn ít lời nữa. Từ đây dù Ngài có xa cách quê hương (Thánh địa Hòa Hảo) nhưng khuyên trong vạn dân bá tánh cứ y theo hai chữ hiền lương mà thi hành.
    Ngài nhắc lại cho mọi người cùng nhớ Đức Thích Ca khi xưa tuy giàu sang vinh hiển, chức tước quyền uy, song Ngài vẫn dứt bỏ để lo tu hành, tìm ra chánh Đạo cứu khổ vạn loại chúng sanh.

    CHÚ THÍCH
    BỔN ĐẠO: Những người cùng sống chung trong một gốc Đạo mà ra, hay các môn đồ của một Đạo giáo hoặc một Tông phái. Tiếng của các ông thầy gọi chung các đệ tử, như: Bổn đạo ơi ! hay các bổn đạo của ai đó. Như Ngài từng dạy:
    “Trong bổn đạo từ đây kim chỉ”.
    Hoặc là:
    “Bổn đạo ơi hãy rán sửa mình.(Giác Mê, Q.4)
    MẤY TRƯƠNG: Mấy trang. Ví dụ: Viết thêm mấy trang nữa.
    THÔN HƯƠNG: Làng xóm, quê hương mình.
    THÍCH CA: Họ của Phật. “Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ”. Đọc cho đủ là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài tên thật là Sĩ Đạt Ta, con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da ở xứ Ấn Độ. Lớn lên, Ngài lìa bỏ cung vàng ngôi báu, vợ đẹp con ngoan để đi tu. Sau chứng quả là Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng là Giáo Chủ đạo Phật, toàn cõi Ta Bà.

    CHÁNH VĂN

    71.-Phật, Tiên dụng kẻ lòng thành,
    Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.
    Trí phàm như chốn sơn-lâm,
    74.-Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.
    Nào đâu dân có biết ân,
    Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
    Đây nầy lời lẽ rán ghi,
    78.-Thương đời nên mới làm thi khuyên đời.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 71 tới câu 78)
    Xưa nay, người tu hành phải thật tâm thành ý mới được sự tiếp độ của Phật Tiên. Nhưng ngược lại nhà tu thì đông mà kẻ thật tâm tu niệm lại ít. Tâm trí của mỗi chúng sanh đa số là tạp nhạp, nay nghĩ thế nầy, mai nghĩ thế khác, như đám rừng đủ các loại cây: Chạ, đốc, tốt, xấu lẫn lộn.
    Do đó, Đức Thầy khuyên dạy các môn đồ như phá đám rừng để lọc hết số cây đốc chạ ấy ra và dung dưỡng những cây tốt quí tuyển chọn người hiền để lại, lập nên cõi đời Thượng nguơn Thánh đức.
    Thế mà ít người nghĩ đến ân nghĩa ấy. Đức Thầy cũng kêu gọi mọi hành giả hãy rán ghi nhớ lời Sấm Thi để thực hành theo.

    CHÚ THÍCH

    LÒNG LÀNH: Tâm thành thật ngay chánh.
    ĐẠO CHƠN: Con đường ngay chánh.
    SƠN LÂM: Rừng núi. Phá rừng cầm là phá rừng núi cây cỏ gai gốc, dọn cho sạch để mở đất làm ruộng rẫy. Ý chỉ dẹp hết lòng tà quấy nơi thân tâm của mình.
    RÁN GHI: Rán mà ghi nhớ, đừng quên. Đây có ý dặn dò những lời Sấm Thi của Đức Thầy đã dạy, phận tín đồ hãy rán ghi nhớ mà thực hành theo đừng để xao lãng.

    CHÁNH VĂN

    79.-Ra đi dặn lại ít lời,
    Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe.
    Dầu ai tài phép bày khoe,
    82.-Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
    Lựa cho phải cột phải kèo,
    84.-Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
    Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
    86.-Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 79 tới câu 86)
    Trước khi ra đi, Đức Thầy dặn dò bổn đạo kỹ lưỡng, hãy rán mà nghe và ghi nhớ, vì từ đây các tà đạo ra đời họ bày ra bùa chú thính linh khoe khoang cổ cõ bên ngoài gạt gẫm mọi người mà lợi dụng. Ngài dạy rằng dầu họ có linh nghiệm thế nào cũng đừng nghe theo, lúc nào cũng giữ lòng chánh tín mạnh tin nơi tâm của mỗi chúng ta đều có sẵn Phật tánh và trí vô sư, nếu giữ lòng chơn chánh thanh tịnh thì Phật trí hiện bày. Còn cái gì khoe khoang bày vẻ bên ngoài, đều giả tạo gạt lường, nếu chúng ta tin theo sẽ bị khổ thân sau nầy. Bởi:
    “Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẫy khó mong sống sót”.

    Bởi vì tánh Phật ai cũng có, giờ đây còn tiềm ẩn nơi tâm tư của mọi người.
    Nếu dùng tâm mà tìm tâm mới gặp, còn tìm tâm bằng hình tướng bên ngoài thì không bao giờ đạt được. Cũng như người cất nhà, ông thợ đã sắp đặt cột kèo xiên trính đâu đấy đều ăn khớp, vừa đúng thước tấc với nhau mà người đứng ra ráp lại sai trật thì cái nhà ấy bị gãy đổ. Vậy Đạo Phật là chánh Đạo mà ta ham linh, tu theo đạo tà, tất phải có hại thôi.
    Đức Thầy đã tận tình dạy bảo:
    “Ta chẳng phải dùng lời chuốt ngót,
    Mà làm cho dân chúng say mê.
    Nẻo chánh tà biện luận nhiều bề,
    Cho bá tánh tìm nơi cội gốc.
    Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
    Đừng để lầm thợ khéo sơn da.
    Thì sau nầy gặp lúc phong ba,
    Dông gió lớn cột kèo khỏi gãy”.


    CHÚ THÍCH
    TÀI PHÉP: Pháp thuật tài năng của các ông, các bà phù thủy tu luyện theo ngoại đạo mà được. như: Bùa chú, lên đồng lên xác, sái đậu thành binh, soi căn nói tướng ứng, đoán số mạng, luyện thiên linh và bày binh bố trận. Phần đông là các người tu núi, bị sai lạc đạo Tiên mà ra. Đức Thầy từng cho biết:
    Địa Tiên tài phép đa đoan,
    Phi đao bửu kiếm mê mang mắt trần”.

    Đức Thầy thường khuyên khắp bá tánh:
    “Ai mà ta dạy chẳng gìn,
    Thì sau đừng trách mất tình yêu đương.
    Bàn môn tài phép nào tường,
    Kêu trời dậm đát vậy thì dạ rân.
    Nói cho bổn đạo liệu toan,
    Chớ theo tả đạo mà tan xác hồn.
    Nó làm nhiều phép nhiều môn,
    Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng sanh.
    Thành binh sái đậu cũng rành,
    Nếu tin thời mắc tan tành về sau.
    Bây giờ bất luận người nào
    Không dùng của thế sắc màu cũng không.
    Nói cho bổn đạo rõ lòng,
    Ấy là chơn chánh mới hòng vinh vang”.

    Vào khoảng mùa Hè năm Canh Thìn có ông Nguyễn Chi Diệp ở xã Hòa Hảo và ông Út Trác ở xã Mỹ Hội Đông đến xã Nhơn Nghĩa (Cần Thơ) viếng Đức Thầy và hỏi thêm một việc:
    - Bạch Thầy ! Hôm Ngài bị người Pháp dời đi đến nay ở xã Bình Thủy phía trên Long Xuyên có một ông Đạo mới ra đời trị bịnh cũng giống như Thầy. Người ta tới lui rất đông, nhưng chẳng biết ông Đạo ấy tà hay chánh ? Nhờ Thầy phân giải giùm để anh em tín đồ khỏi bị lầm lạc.
    Đức Thầy không trả lời ngay ông Đạo ấy chánh hay tà mà Ngài vừa nói vừa cầm viết, viết lên mấy dòng chữ như sau:
    “Từ đây sắp tới, không riêng về ông Đạo đó mà bất luận là ai ra đời độ thế, nếu:
    - Còn ăn tiền bạc là tà !
    - Còn dùng màu sắc là tà !
    - Còn lên xuống và xưng hô Thần Thánh là tà !
    - Còn bỏ tóc xả để đầu đanh là tà !”

    (Thuật theo lời ông Út Trác)
    Nhận Xét
    Xưa nay, hễ có Phật ra đời khai hóa nhân sanh thì luôn luôn có ma theo dõi để phá rối người tu Phật. “Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng”.
    Hay nói cách khác, thời nào mà tà ma ngoại đạo lộng hành gạt người mê tín và nhiễu hại lê dân thì Phật Tiên cũng lâm phàm khai thông chánh đạo, dẹp tan tà thuyết để giác tỉnh chúng sanh trở về con đường chánh tín. “Bởi đời nầy pháp môn bế mạt, Thánh đạo trăn vu. Người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân”. Hoặc là: “Thời kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,
    Trời mở cửa Quỉ Vương xuống thế.
    Nên Ta mới ra tay cứu tế,
    Kẻo chúng sanh bịnh khổ quá chừng”.

    Trong số quỉ ma hay tà đạo theo phá PGHH hiện nay, cũng như thời Đức Thích Ca có lục sư ngoại đạo và ma Ba Tuần theo chống báng phá hoại Đạo Phật. Nên khi PGHH gặp pháp nạn liền có kẻ ra đời cũng thuyết đạo, cũng trị bịnh na ná như Ngài, làm cho người tu phân vân không biết đâu tà đâu chánh.
    Do đó, ông Diệp và ông Trác mới đến Nhơn Nghĩa hỏi Đức Thầy:
    “Có ông Đạo trên Long Xuyên vừa mới ra đời, trị bịnh gần giống như Ngài, nhưng không biết ông ấy tà hay chánh ?” Sở dĩ Ngài không phân biệt ông Đạo đó mà nói chung tất cả. Vì Ngài biết chẳng phải chỉ có một người đó mà còn có nhiều người, nhiều nơi khác nữa, nên Ngài chỉ cho toàn thể một ý thức căn bản để nhận ra: đâu tà đâu chánh, và ai có tin nghe theo Ngài, cũng phải là chánh tín chớ đừng tu mê tín.
    Điểm thứ nhất, Ngài nói: “Còn ăn tiền bạc là tà !” Nếu nhìn về hình thức bên ngoài của hai ông Đạo tà và chánh giống nhau khó phân biệt; nhưng bên trong của phái tà thì lợi dụng tiền bạc còn phía chánh thì thật tâm độ đời bất vụ lợi. Cũng như hai ông Quan hình thức và chức vụ làm việc giống nhau, nhưng ông ăn hối lộ còn một ông lại không, rất dễ hiểu ở chỗ đó. Để sáng tỏ hơn, thử đọc lại đoạn giảng của Đức Thầy:
    “Bây giờ bất luận người nào,
    Không dùng của thế sắc màu cũng không.
    Nói cho bổn đạo rõ lòng,
    Ấy là chơn chánh mới hòng vinh vang”.

    Điểm thứ hai: “Còn dùng màu sắc là tà !” Màu sắc ở đây phân ra ba loại:
    a)-Loại có màu: Xanh, đỏ, trắng, vàng…chỉ cho hạng đồng bóng, lên xác cô Năm, cô Mười…Họ thích mặc hàng lãnh nhiều màu sắc sặc sỡ, khi lên xác làm bệnh thì đội khăn nhiều màu, dài năm thước, buộc người ta tin theo phải cung ứng các thứ đó cho họ.
    b)-Loại có hình tướng, đối với vô tướng (vô vi). Đây chỉ cho các ông tu hành theo sắc tướng thinh âm, như các Thầy nhưn bông chuyên đi làm đám, tụng kinh mướn…không đúng chơn lý của Đạo Phật. Kinh xưa bảo:
    “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo,
    Chơn truyền cụ thất Đạo nan thành”.

    c)-Loại sắc đẹp của người Nam hay Nữ. Đây chỉ các ông Đạo còn lợi dụng hoặc đam mê nữ sắc. Tóm lại, nếu thấy nhà tu nào còn ô nhiễm các loại màu sắc như trên đều là không chơn chánh.
    Điểm thứ ba: “Còn lên xuống hay xưng hô Thần Thánh là tà ! Đây chỉ hạng thượng xác cỡi đồng, tức là những người xác tướng, các cô đồng, bà bóng, thầy phù thủy làm bịnh bằng cách có vô xác ra xác, coi bói soi căn, cầu hồn, đoán số mạng hoặc dùng bùa chú trù ếm và sát sanh cúng tế quỉ thần.
    Điểm thứ tư: Còn bỏ tóc xõa để đầu đanh là tà ! Tức chỉ những thầy Tu hay làm ra vẻ đạo mạo bên ngoài, như: Bỏ tóc xõa dài không bới, hoặc không chải gỡ lâu ngày tóc đanh lại giống hình cái mão.
    Hoặc đi không mang dép, bước nối gót, đi chữ đinh, không ngó qua lại…Họ thường tự xưng đã tu luyện lâu năm: Từ non này động nọ vừa xuống núi để cứu thế độ dân khiến bá tánh hiểu lầm các ông Đạo ấy khổ hạnh cao, công phu luyện đạo không ai bằng liền chạy theo rần rộ. Chẳng ngờ trong thân tâm của các ông ấy vẫn còn ô nhiễm danh lợi tình như hàng thế tục. Hạng người nầy phần nhiều là tu sai lệch Đạo Tiên. Vọng tưởng hóa độ mà ra, cũng là một trong lục sư ngoại đạo từ trước còn lại.
    Để cho mọi người khỏi bị lầm lạc theo tà sư ngoại Đạo, Đức Thầy dặn dò cặn kẽ:“Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào hay theo ông Thầy nào, ta hãy suy gẫm phán đoán kỹ càng chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy dầu mình có theo Đạo rất chánh đáng ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả”.
    Tóm lại, qua bốn điểm Đức Thầy dạy ông Diệp và ông Trác trên đây là một qui định tất yếu cho tín đồ sau nầy để lọc lừa tà chánh.

    CHÁNH VĂN

    87.-Ách trời nạn nước thình-lình,
    Người hung cứ mãi chống kình với Ta.
    Theo tài học cũ nôm-na,
    90.-Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.
    Lúc nầy chưa thể ngồi lâu,
    Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.
    Tín-đồ cùng các chư-tăng,
    94.-Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.
    Bớt phiền bớt não cuộc đời,
    96.-Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.


    CHÚ GIẢI
    (Từ câu 87 tới câu 96)
    Thời nay, tai trời ách nước xảy ra rất thình lình ít ai biết trước được. Thế mà kẻ hung ác còn kình chống với người tu. Đức Giáo Chủ ra đời đem nền Đạo đức của Ông cha từ trước dạy dỗ chúng dân.
    Vậy ai là người trí thức hãy rán suy tầm cho rõ thấp cao sâu cạn mà lựa chọn. Từ đây, Đức Giáo Chủ không thể ngồi yên một chỗ mà thường đi đây đi đó khuyên dạy nhân sinh. Ngài kêu gọi các chư tăng và môn đồ hãy rán cẩn ngôn trong việc nói làm cho được hiền lành, dứt đi sự buồn khổ để lo thực hành y theo lời giáo huấn của Ngài.

    CHÚ THÍCH

    ÁCH TRỜI NẠN NƯỚC: Nói cho đủ là nạn dân ách nước hay thiên tai địa ách. Đó là do nhân quả chính mình đã tạo ra từ trước, giờ đây bị trả lại:
    “Thiên số định cùng chưa mãn hạn,
    Nên phải còn bận mãi ách nàn tai.”

    THÌNH LÌNH: Việc xảy ra bất ngờ.
    HỌC CŨ: Lối học lễ nghi đạo đức thời xưa.
    NÔM NA: Là loại chữ riêng biệt của người Việt Nam ta, gốc từ chữ Hán (Tàu) biến dạng ra. Nôm cũng gọi là Nam là một thứ tiếng thông dụng của người Việt. Người ta dùng nguyên chữ Hoa, hoặc lấy hai ba chữ ghép lại, để đọc và viết theo tiếng nói riêng của người Việt. Ý chỉ dùng thứ tiếng nước nhà. Chữ Nôm thêm vào chữ Na, là ý nói lời văn mộc mạc chơn thật cho dễ hiểu.
    TRÍ THỨC: Người có học thức và hiểu biết.
    TÍN ĐỒ: (Xem STTĐ, Q.1, cột 1).
    CHƯ TĂNG: Các Tăng ni tu hạnh xuất gia, thuộc hạng Đại đệ tử của Phật hay các Hòa Thượng, Đại Đức. Có nhiều vị tu hành được trang nghiêm sáng suốt xứng đáng liệt vào hàng Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Đức Thầy từng kêu gọi:
    Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
    Với tín nữ thiện nam Phật Giáo.
    Nên cố gắng trau thân gìn đạo,…
    …Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành.
    Làm cho đời hiểu rõ thinh danh,
    Công đức Phật từ bi vô lượng”.

    CHÁNH VĂN

    97.-Đạo mầu bát-chánh rán ghi,
    Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.
    Luận bàn chơn-lý cho minh,
    100.-Chuyện chi xét đoán xảo tinh mới là.
    Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,
    Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.
    Thứ ba tư-duy bằng nay,
    104.-Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.
    Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,
    Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.
    Tà gian tánh ấy tù đày,
    108.-Của người tham-nhũng nghề nầy chớ ham.
    Thứ năm tinh-tấn hội-đàm,
    Sạch trong kỹ-lưỡng mà làm mới ngoan.
    Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,
    112.-Nói năng điều chánh thì an chớ gì !
    Thứ bảy chánh-niệm vậy thì,
    Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.
    115.-Thứ tám chánh-định chớ lầm,
    Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
    Ngồi đâu cũng định mới nên,
    118.-Đừng cho công việc hớ-hênh với người.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 97 tới câu 118)
    Bát Chánh Đạo là Pháp rất huyền diệu sâu kín, hành giả hãy rán ghi nhớ:
    Thứ nhứt là phần Chánh Kiến, khi muốn giải quyết vấn đề gì phải dùng trí thông minh của mình mà xét đoán cho thấu đáo đúng với sự thật (chơn lý) mới khỏi bị lầm lạc.
    Thứ nhì là Chánh Mạng, mỗi người dùng trí huệ tâm thần điều khiển sắp đặt cuộc sống cho được trong sạch đúng đắng.
    Thứ ba là Chánh Tư Duy, lúc nào hành giả cũng giữ tư tưởng mình cho ngay thật chân chánh.
    Thứ tư là Chánh Nghiệp, tức là mọi sự sinh hoạt đời sống đều giữ cho được lương thiện, bỏ dứt tánh tà vạy tham gian điêu xảo.
    Thứ năm là Chánh Tinh Tấn, dạy ta lúc nào cũng giữ đức tin vững chắc, sáng suốt trong sạch, để tiến tới con đường Chánh tín, dù ai có cuốn lôi cám dỗ cũng không lay chuyển được.
    Thứ sáu là Chánh Ngữ, là lời nói chơn chánh, không vi phạm các điều: Lưỡng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ… mà lúc nào cũng nói năng chơn chánh hiền lương, đức hạnh và thanh bai tao nhã.
    Thứ bảy là Chánh Niệm, là tưởng những điều chân chánh tốt lành, mỗi khi cầu nguyện lễ bái đều phải giữ cho được nhứt tâm thành ý, bỏ hết những tư tưởng xằng xiên tà khúc.
    Thứ tám là Chánh Định là định tưởng hay suy gẫm chân chánh, tức là phải dùng trí huệ xét suy cho thấu đáo. Cái nào là Từ Bi giác ngộ thì nuôi dưỡng, cái nào là phiền não sân si thì diệt trừ. Mỗi lúc đi, đứng, ngồi, nằm hay mọi sự sinh hoạt, uống ăn ngủ nghỉ, lục căn đối với lục trần tâm vẫn như như bất động, tất đạt được Đạo quả.

    CHÚ THÍCH
    BÁT CHÁNH: (Xem bài Luận về Bát chánh trong Q.6 hay trong STTĐ, Q.1, Tập 1)
    BÁT CHÁNH ĐẠO: (Thi văn Q.6).

    CHÁNH VĂN

    119.-Hành y thì đáng vàng mười,
    Tùy lòng tùy sức của người đời nay.
    Tu-nhơn hiền-hậu cũng hay,
    122.-Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.
    Rút trong các luật các kinh,
    Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
    125.-Thấp cao các bực chớ chầy,
    Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.
    Sớm khuya bá-tánh cần chuyên,
    128.-Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 119 tới câu 128)
    Đoạn giảng trên Đức Thầy cho biết nếu ai thực hành y theo Bát Chánh Đạo thì vàng mười cũng khó đổi được, nhưng cũng tùy theo tâm đức mà tu nhiều ít gì cũng tốt. Nếu người tu chỉ có lòng nhơn thương xót mọi người mà tùy phương giúp đỡ cũng được kết quả sống đời Nguơn Thượng.
    Vì lòng quá thương xót sanh linh Đức Thầy mới viết Giảng nhủ khuyên bá tánh một cách tinh tường. Lời lẽ của Ngài tuy vắn tắt, nhưng Ngài đã rút trong các Kinh, Luật, Luận của Phật Thánh chỉ dạy. Ngài cũng không ép nài một ai, tùy theo sự cao thấp trí ngu của mỗi người mà giáo hóa, miễn mọi người biết siêng năng hành y theo lời dạy của Ngài thì sau nầy được về cảnh Tiên Phật

    CHÚ THÍCH

    VÀNG MƯỜI: Vàng 10 tuồi, vàng y và tốt hơn các thứ vàng bạc khác: “Vàng 10, bạc bảy, thau ba”. Đây chỉ cho người tu đắc Đạo là cao quí hơn hết.
    CHO TỊNH: Cho rõ ràng trong sạch.
    CÁC LUẬT CÁC KINH: Nói cho đủ là: Kinh, Luật, Luận. Xưa, Đức Phật thuyết ra vô số lời lẽ để giáo độ chúng sanh, gom lại làm ba phần là: Kinh, Luật, Luận khuyên dạy môn đồ.

    CHÁNH VĂN

    129.-Ít lâu ta cũng trở về,
    Khuyên cùng bổn-đạo chớ hề lãng-xao.
    Trì lòng chớ có núng-nao,
    132.-Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.
    Mấy lời nhắn lại ân-cần,
    Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.
    Tu-trì nguyện-ước cầu may,
    136.-Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an-cư.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 129 tới câu 136)
    Đoạn giảng qua, Đức Thầy dặn dò bổn đạo. Ngài chỉ ra đi ít lâu sau sẽ trở lại dìu dắt môn đồ. Vậy khuyên mỗi người chớ nên xao lãng đường tu. Và nên gìn giữ chặt dạ, cho dù gặp hoàn cảnh khó khăn thử thách cũng chẳng khờn lòng nao núng. Từ đây rất nhiều tai biến xảy ra khiến cho khắp xa gần, người và vật phải hao hớt lần lần.
    Vậy những lời dặn bảo của Đức Thầy trong bổn đạo hãy suy xét cho cùng tận mới thấu hiểu lời nói sâu xa của Ngài.
    Ngài cũng không ngớt khuyên chúng ta rán gìn giữ tu sửa để đến ngày lập lại cuộc đời Thượng nguơn sẽ được may mắn thụ hưởng cảnh an cư lạc nghiệp.

    CHÚ THÍCH
    ÍT LÂU: Thời gian rất ngắn, không lâu xa lắm.
    LÃNG XAO: Cũng viết là xao lãng, tức là lơ đễnh, không thận trọng, siêng năng chu đáo.
    NÚNG NAO: Cũng viết là nao núng. Có nghĩa là sợ sệt, xúc động, bán tín, bán nghi, bối rối lo lắng muốn thôi bước. Đức Thầy có câu:
    “Lời tà sư ngoại Đạo gieo vào.
    Cho nhơn sanh trong dạ núng nao,
    Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ”.

    ÂN CẦN: Siêng năng lo lắng, nhắc nhở đến luôn.
    NGHĨ CẠN: Xét nghĩ cho cùng tận hết ý.
    CẦU MAY: Cầu cho được may mắn được việc. Theo nghĩa chữ cầu may ở đây là chắc chắn được việc, thành công.
    THƯỢNG NGUƠN: (Xem CT trong STTĐ trang 443, tập 1)
    AN CƯ: Ở yên.

    CHÁNH VĂN

    137.-Học câu hỉ-xả đại-từ,
    Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.
    Bôn Nam tẩu Bắc tảo-tần,
    140.-Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng Ta.
    Xác trần Ta đã rời xa,
    142.-Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 137 tới câu 142)
    Sáu câu Giảng trên Đức Giáo Chủ dạy môn đồ học và thực hành bốn đại đức của chư Phật, tức Từ, Bi, Hỉ, Xả và thi hành công hạnh Bồ Tát (Đại Sĩ) dẹp bỏ lòng vị tư nhân ngã.
    Ngài có trách nhiệm hóa độ khắp bốn phương, không phân biệt Đông Tây hay Nam Bắc. Nếu tín đồ nào ghi nhớ lời dặn bảo tất sẽ được gần Ngài. Và đến đây Ngài cho biết phần chơn linh (Pháp thân) có lời từ giã bá tánh để Ngài trở về yết kiến Chư Phật.

    CHÚ THÍCH
    HỈ XẢ ĐẠI TỪ: Cũng gọi là Từ, Bi, Hỉ, Xả, tức là Tứ Vô Lượng Tâm hay bốn Đại Đức của Chư Phật. (Xem trong STTĐ, trang 406).
    NGHĨA SĨ: Nghĩa là làm việc phải đúng với chơn lý, hay bố thí giúp đời. Sĩ là người tu Phật, có tinh thần tự giác, giác tha của hạnh Bồ Tát và Phật.
    DẠ TƯ: Lòng tư riêng vị kỷ.
    XÁC TRẦN: Xác thể con người. Trong mỗi con người có hai phần: Xác thể và tâm hồn.
    Xác thể cũng gọi là xác thân, do đất nước gió lửa tạo thành, đúng ngày giờ, bốn chất ấy phải trả lại cho tứ đại.
    Tâm hồn cũng gọi là tinh thần, là pháp thân của thần thức…Tức là cái thấy nghe hay biết của mình. Nó không có hình tướng xác thể, nhưng nó vẫn còn hoài. Chính nó điều khiển mọi sự vật. Tâm hồn ví như ông chủ nhà, xác thân như cái nhà. Cái nhà hư, ông chủ nhà đi ra ngoài cất cái khác, rồi cái khác nữa.

    CHÁNH VĂN

    143.-Kìa-kìa anh hố hò khoan,
    Tình lang về mất hổ-hang mặt-mày.
    Sớm lo sắp đặt luyện tài,
    146.-Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.
    Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,
    Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.
    Giống hiền như thể gieo bông,
    150.-Nhụy đơm thơm phức màu hồng xuê-xang.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 143 tới câu 150)
    Thời Pháp thuộc có nhiều người theo làm việc cho Pháp để hưởng bổng lộc quyền uy, họ thân Pháp như một tình nhân không rời ra được. Một khi người Pháp mất quyền thì họ phải tủi hổ, như người thất nghiệp.
    Đức Thầy khuyên người dân Việt hãy sớm tu luyện tài năng, đức hạnh kịp đến ngày Phật Trời phân định sẽ được hưởng sự vinh quang. Lòng từ bi của Phật rộng lớn vô biên lúc nào cũng lo cứu độ, mặc tình chúng sanh nghe không tự ý. Bằng biết lo gieo giống hiền lành như thể trồng hoa thì sau nầy sẽ trổ hoa kết trái thơm tho vinh diệu vô cùng.

    CHÚ THÍCH

    HỐ HÒ KHOAN: Một điệu hát ở miền Bắc, thường là hát tập thể vừa để cho ăn rặp, vừa lấy sức mạnh. Cổ thơ có câu: Ghe bầu dọn dẹp kéo neo,
    Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan”.

    Nghĩa bóng là chỉ cho sự khoe khoang tự đắc. Ý chỉ cho những người làm việc theo Pháp hay vênh vang tự đắc (ta đây). Nhưng khi bị tủi hổ hết khoe khoang lớn lối.
    TIÊN BANG: Nước Tiên. Dân tộc chúng ta trước kia con Vua Lạc Long và Bà Âu Cơ“Dòng giống Tiên Rồng”. Nên Đức Thầy từng nói:
    “Giống nòi thiệt cốt rồng tiên,
    Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu”.

    Và câu: “Cũng gốc người Thượng Đế xuống trần.
    Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
    Trở về nơi cũ cho gần Phật Tiên”.

    CHÁNH VĂN

    151.-Dân ta dòng giống Tiên-bang,
    Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung-sùng.
    Mặc tình bá-tánh có dùng,
    154.-Ai muốn nghe Khùng chép lấy mà coi.
    Lấy tâm lấy trí xét-soi,
    156.-Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào ?
    Thôi thôi dân chớ hùng-hào,
    158.-Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô.

    Hòa-Hảo, lối tháng 2/Canh-Thìn (1940).
    (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 151 đến câu 158)
    Đây là đoạn kết của bài “Dặn Dò Bổn Đạo”, Đức Thầy luôn nhắc khuyên cho mọi người nhớ lại, dân tộc Việt Nam ta trước kia là dòng giống Tiên Rồng. Con người rất hiền lương đức hạnh, chớ đâu có ngỗ ngang hung ác như bây giờ. Nay chúng ta nỡ nào đánh mất điều tốt đẹp hiền lành ấy mà hãy nhớ lại để trở về với quê xưa cội cũ của chính mình. Ngài cũng ân cần khuyên nhắc một lần nữa, nếu ai thấy lợi ích trong quyển giảng nầy thì hãy chép mà xem coi học hỏi để thi hành theo, bằng không tùy ý. Phần Ngài hiện giờ phải đến miền Bắc, tức vùng Thủ Đô Hà Nội để giáo hóa nhân sanh.

    3.- DIỆU PHÁP QUANG MINH
    (Khùng Điên Tự Cảm Tác)

    (Xuất Xứ - Tiêu Đề - Tác Phẩm và Tác Giả)

    XUẤT XỨ
    Bài giảng nầy trích lược trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ. Nguyên do vào ngày mùng 10 tháng Tư năm Canh Thìn (1940), cùng một lúc với bài “Tạm Ngưng Lý Lẽ”. Đức Giáo Chủ PGHH sáng tác bài Diệu Pháp Quang Minh.
    Bài giảng nầy chính tay Ngài cảm hứng mà viết và đề tựa. Đức Giáo Chủ dùng bút hiệu rất khiêm nhượng, thay vì phải xưng danh như thế nầy thế nọ; đằng nầy Ngài lại dùng bút hiệu là của ông Khùng và ông Điên cảm hứng, chớ sự thực là Ngài dùng trí huệ và giáo pháp cao siêu mầu diệu để giác tỉnh người đời. Do đó, bài giảng được mang ý nghĩa: Ánh Sáng của Trí Tuệ (Diệu Pháp Quang Minh).

    VĂN THỂ

    Đây là một bài vận văn (văn vần), thể thơ Thất ngôn trường thiên, loại khuyến tu và thuyết giáo, dài 244 câu.
    Khởi đầu bằng câu: “Gươm trí huệ từ bi chớp nhoáng” và chấm dứt bởi câu: “Thôi giã thế ước mong đời thạnh”.

    CHỦ ĐÍCH
    Đức Thầy cho biết Ngài có sứ mạng vâng lịnh Đức Thế Tôn (Phật Thích Ca) khai Đạo cứu đời bằng đường hướng “Học Phật Tu Nhân” cho thích hợp với căn cơ và tập quán của chúng sanh thời hiện đại, rất dễ tu, dễ chứng đắc.

    NỘI DUNG

    Ngài hướng dẫn theo phương cách tu không quá chú trọng ở hình tướng, chỉ mang sắc thái người cư sĩ tại gia: vừa Tu Nhân, vừa Học Phật và Tu Phật:
    -Về Tu Nhân là vẹn gìn trung hiếu tiết nghĩa, đền đáp Tứ đại Trọng ân để hoàn thành phận sự của một con người trong Đạo làm người.
    -Học Phật và Tu Phật là trì hành đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca khi xưa đã truyền dạy: “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật.
    Đường đạo đức bước đi từ nấc,
    Ngoại quang hình bất chấp kỳ hình”.

    Để ra khỏi sanh tử đến cõi vô sanh bất diệt:
    “Tầm vô vi kiếm cảnh Niết Bàn”.

    BỐ CỤC
    Đây là một bài giảng gồm đủ Văn chương và Đạo lý mà Đức Giáo cấu từ có lớp lang thứ tự hẳn hòi. Để cho môn đồ có đủ dữ kiện xây dựng tòa lầu đài đạo pháp, chắc chắn như một kiến trúc sư chuẩn bị dự kiến cất một ngôi nhà đồ sộ. Chúng ta có thể tạm phân ra làm 3 phần chánh và 24 tiểu đoạn:
    1.-Phần I: Cũng là phần Khai đề: từ câu 1 đến câu 4.
    2.-Phần II: là phần Chánh đề, cũng gọi là Đoạn 2: từ câu 5 tới câu 12.
    Đoạn 3 : từ câu 13 tới câu 20.
    Đoạn 4 : từ câu 21 tới câu 28.
    Đoạn 5 : từ câu 29 tới câu 36.
    Đoạn 6 : từ câu 37 tới câu 44.
    Đoạn 7 : từ câu 45 tới câu 56.
    Đoạn 8 : từ câu 57 tới câu 64.
    Đoạn 9 : từ câu 65 tới câu 68.
    Đoạn 10:từ câu 69 tới câu 76.
    Đoạn 11:từ câu 77 tới câu 84.
    Đoạn 12:từ câu 85 tới câu 96.
    Đoạn 13:từ câu 97 tới câu 108.
    Đoạn 14:từ câu 109 tới câu 116.
    Đoạn 15:từ câu 117 tới câu 128.
    Đoạn 16:từ câu 129 tới câu 144.
    Đoạn 17:từ câu 145 tới câu 156.
    Đoạn 18:từ câu 157 tới câu 168.
    Đoạn 19:từ câu 169 tới câu 180.
    Đoạn 20:từ câu 181 tới câu 192.
    Đoạn 21:từ câu 193 tới câu 208.
    Đoạn 22:từ câu 209 tới câu 220.
    Đoạn 23:từ câu 221 tới câu 232.
    Đoạn 24:từ câu 233 tới câu 244.
    Đoạn thứ 24, cũng là phần Kết luận.

    CHÁNH VĂN

    1.-Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng,
    Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn.
    Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn,
    4.-Khắp hạ-giái truyền khai Đạo pháp.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Đoạn nầy có ý nói trí tuệ của Phật của Thầy sáng suốt vô cùng tận. Còn ngày giờ trong trời đất cũng xoay chuyển mau lẹ không dừng. Hiện nay Đức Thầy vì vâng sắc lịnh của Đức Thế Tôn lâm phàm chuyển khai nền Đạo pháp, cứu độ chúng sanh.

    CHÚ THÍCH
    TRÍ HUỆ: Cũng gọi là trí tuệ. Phạn ngữ đọc là Pharjna, có nghĩa là sáng suốt thông đạt cả sự lẫn lý. Sở dĩ ví trí huệ như lưỡi gươm là vì nó có tánh cách sắc bén, chặt đứt cội phiền não (tham, sân, si):
    “Trí huệ dứt xong rồi quả báo,
    Lo gì cửa Phật chẳng chen vào”.

    TỪ BI: Hai trong bốn Đại đức của chư Phật. Có nghĩa hiền lành thương xót. Trí huệ từ bi là trí sáng suốt của Đức Phật:
    “Tiếng kệ từ bi quá diệu trầm,
    Diệt lòng tham vọng diệt thinh âm”.

    CHỚP NHOÁNG: Ánh sáng chớp lên ánh lửa sáng rực như luồng điện một cách mau lẹ. Vượt nhanh hơn ánh sáng của lửa thường:
    “Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp.
    Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa”.

    BÓNG QUANG ÂM: Bóng sáng và tối. Ý chỉ cho ngày và đêm.
    DẬP DỒN: Ngày và đêm rất mau lẹ. Ý chỉ ngày giờ, năm tháng qua rất mau lẹ. Cứ dồn dập tới tấp, hết ngày này sang qua ngày khác.
    THẾ TÔN: Một trong 10 danh hiệu của Phật. Có nghĩa cả thế gian đều tôn kính cúng dường Ngài là Phật:
    “Ngài là vua Pháp tột cao,
    Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
    Tiên, người đồng kính đạo Thầy,
    Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh”.

    HẠ GIÁI: Cũng gọi là hạ giới, tức là cảnh giới chúng sanh đang sống.

    CHÁNH VĂN

    5.-Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp,
    Chấp bút thần tả ít bổn kinh.
    Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh,
    8.-Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp.
    Giống Hồng-Lạc kim-chi ngọc-diệp,
    Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.
    Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then,
    12.-Nên ít kẻ tu-hành đắc Đạo.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 5 tới câu 12)
    Đức Thầy tùy theo phong tục và sự giáo hóa của nhân sanh hiện tại mà Ngài viết ra Kinh Giảng cho phù hợp với trình độ mỗi địa phương dễ thiệt hành và dễ chứng đắc.
    Dân tộc Việt Nam xưa kia rất hiền lương tốt đẹp như cành vàng lá ngọc. Nhưng vì thời nay đổi lại thấp hèn nhơ xấu.
    Kể từ sau ngày Đức Lục Tổ Huệ Năng bặt truyền y bát tới nay, ấy gọi là Pháp môn bế mạt, cửa Đạo càng gần như bị đóng cửa. Người tu phần đông chạy theo âm thanh sắc tướng, nên rất ít kẻ tu hành đúng chơn lý và chứng đắc.

    CHÚ THÍCH
    PHONG HÓA DÂN SANH: Phong tục và sự giáo hóa nhân sanh bị ảnh hưởng theo thời đại.
    BÚT THẦN: Tiếng của Đức Giáo Chủ nói ra như có thần hóa vì nó xoay chuyển được cuộc diện hay tâm hồn con người, từ xấu ra tốt, từ thấp hèn trở nên đúng đắn, như Ngài đã viết:
    “Huơi bút thần dẹp lũ cáo xà,
    Loài độc địa toan trừ dứt nọc”.

    Hoặc là:
    “Miệng nhích môi đầy văn tao nhã,
    Hạ bút thần thơ đã đề khai”.

    TẢ ÍT BỔN KINH: Sáng tác ra một số Kinh Giảng để giáo hóa chúng sanh.
    LUẬT TRỜI MỞ RỘNG: Luật trời đất cũng như luật nhân quả, tuy thấy mênh mông, nhưng chẳng lọt một mảy lông nào cả:
    “Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

    PHONG VÕ: Mưa và gió. Ý chỉ thời tiết vận chuyển trong trời đất xoay đảo không ngừng.
    GIỐNG HỒNG LẠC: Họ Hồng Bàng và vua Lạc Long Quân…Đây chỉ cho dân tộc ta lúc Thượng cổ thời đại.
    KIM CHI NGỌC DIỆP: Cành vàng lá ngọc. Ý chỉ dân tộc ta khi xưa sự ăn ở và nếp sống rất đạo đức tốt đẹp, quí báu như cành vàng lá ngọc.
    TỪ NGÀN XƯA: Thời gian từ một ngàn năm về trước, thời Đức Lục Tổ Huệ Năng bặt truyền y bát, tức là y bát không còn trao truyền tiếp nối nữa, như cái nhà bị đóng cửa. Do đó mà người tu hành ít khi được đắc đạo.

    CHÁNH VĂN

    13.-Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo,
    Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng.
    Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn,
    16.-Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu.
    Khùng đoán biết âm-dương kết-liễu,
    Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca.
    Huơi bút thần dẹp lũ cáo-xà,
    20.-Lòai độc-địa toan trừ dứt nọc.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 13 tới câu 20)
    Đức Thầy luôn nói những lời khiêm nhượng, lúc nào cũng tỏ ra mình là người khờ khạo ngu dốt để tìm phương tiện giác tỉnh quần sanh. Bởi tâm trí Ngài quá thương xót chúng sanh nên luôn lo lắng cứu độ.
    Tuy hình tướng bên ngoài giả dạng Điên Khùng, song lời ý Pháp của Ngài thốt ra toàn những lời cao sâu mầu diệu. Bởi Ngài đã thông đạt sự vận chuyển và sự liên kết của cơ tạo hóa tới đây sẽ ra sao và giáo pháp mầu diệu của Đức Phật mà nhà tu thành đạt như thế nào.
    Ngài cũng có bổn phận dẹp trừ tận gốc những loài ác hung phiền não bằng ngọn bút thần của Ngài để đưa chúng sanh sang bờ giác.

    CHÚ THÍCH

    TÂM NÃO BẮT CUỒNG: Trí óc muốn điên lên hay tâm trí bấn loạn. Nhưng chữ cuồng ở đây là do chữ cuồng sĩ tức là một người rất thông minh đang say sưa với lời lẽ văn chương đạo đức mà giả dạng Điên Khùng chớ chẳng phải là Khùng Điên thật.
    DƯ MUÔN: Hơn một vạn, đây chỉ con số rất nhiều thật nhiều, đếm chẳng xiết.
    CÂU TUYỆT DIỆU: Tuyệt là hay hơn hết, các món ăn ngon hơn hết. Giáo pháp cao tuyệt hơn hết:
    “Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,
    Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”

    KẾT LIỄU: Kết là nhiều thành phần liên hợp lại, như chữ đoàn kết. Chữ kết liễu ở đây có ý chỉ cho sự Đức Giáo Chủ đã biết rõ sự sắp đặt bộ máy âm dương của Trời đất.
    TOÁN BIẾT: Cũng gọi là đoán biết. Có nghĩa đoán biết công việc sắp xảy ra. Một từ ngữ trong Kinh Dịch. Như thời Tam Quốc có Khổng Minh, lúc còn ngồi trong thảo am ông đoán biết vận mạng của nước Tàu (Trung Quốc) trước và sau 100 năm. Còn tại Việt Nam ta có cụ Trạng Trình lúc ở tại am Bạch Vân cụ vẫn đoán biết sau 500 năm vận mạng nước phải như thế nào ? Và đến đó Cụ sẽ trở lại sắp đặt cuộc trị an cho đất nước:
    “Ngày nay xe lết xe lôi,
    Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
    Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê.
    Chúng sanh thế giới ê hề thây phơi.
    Trạng Trình truyền sấm mấy lời,
    Ngày nay dân chúng vậy thời rán tri”.

    HUYỀN CƠ: Diệu huyền chơn lý và thiên cơ, gọi tắt là Thiên cơ Đạo lý. Đức Thầy từng nói: “Câu Đạo lý cơ huyền khó kiếm, hoặc là : “Thiên cơ Đạo lý để lòng mới thôi”.

    CHÁNH VĂN

    21.-Noi tục cổ xác Khùng để tóc,
    Phải đua chen tập tánh ông cha,
    Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha,
    24.-Trừ vật-dục trì chơn bất hoại.
    Cặp mắt Thánh nhìn xem tứ hải,
    Thương hồng-trần mượn xác tái-sanh.
    Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh,
    28.-Nên cấu-xé cùng nhau thảm-não.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 21 tới câu 28)
    Đức Thầy cho biết, vì Ngài muốn noi theo phong tục của ông cha từ xưa, nên khi mới ra đời khai Đạo xác thể Ngài có để tóc. Dụng ý là Ngài muốn khuyên dân chúng nên nhớ lại phong tục cổ truyền của nước ViệtNam ta chớ chẳng nên bắt chước theo nền văn minh của Âu Tây, để biểu dương tinh thần yêu nước của mình. Ngài còn khuyên môn đồ chẳng nên đam mê theo vật chất phù hoa, vì những thứ đó đều là ảo ảnh gạt lường, như giấc mộng Nam Kha vậy thôi. Hãy nên gìn giữ cái tâm chơn thật của chính mình mới bảo vệ được trường tồn vĩnh cửu.
    Đức Giáo Chủ còn nói: Từ nhiều tiền kiếp Ngài đã tu hành chứng Đạo, nay dùng cặp mắt Thánh nhìn khắp bốn biển, thấy chúng sanh sắp vương tai khổ, nên nay tái sanh lại để tùy phương cứu độ.

    CHÚ THÍCH
    TỤC CỔ: Nếp sống và sự ăn ở đúng theo phong tục cổ truyền của nước ta. Từ xưa, dân Việt Nam thường hay búi tóc. Ý muốn nói theo phong tục cổ truyền, và không học đòi theo nền văn minh vật chất của ngoại lai.
    GIẤC NAM KHA: (Xem STTĐ trang 225, trong bài Tỉnh Bạn Trần Gian 2).
    TRỪ VẬT DỤC: Trừ lòng ham muốn vật chất: Danh, lợi, tình.
    TRÌ CHƠN: Gìn giữ cái tâm chơn thật. Vì cái tâm nầy còn hoài không hư hoại tan rã.
    CẶP MẮT THÁNH: Cặp mắt của chư Phật Thánh đã tu đuợc chứng đắc từ quả Tứ Thánh trở lên. Đây chỉ cho Thiên Nhãn Thông.
    TỨ HẢI: Bốn biển, chỉ cho khắp thế giới năm châu.
    TÁI SANH: Sống trở lại, hoặc chuyển kiếp lại. Nghĩa bóng là nói Đức Thầy vì có bản nguyện và sứ mạng nên chuyển kiếp trở lại độ chúng, như Ngài từng viết: “Lòng yêu sanh chúng luân chuyển kiếp,
    Dạ ái dương trần đổi xác thân”.

    VĂN VẬT: Văn minh và vật chất.
    THẢM NÃO: Đau đớn sầu khổ.

    CHÁNH VĂN

    29.-Sá chi kẻ ngu-si khinh-ngạo,
    Vì trên đời nhiều hạng khác nhau.
    Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao,
    32.-Người bội-phản ghét-vơ đạo-lý.
    Khùng cảm mến truyền câu hồi vị,
    Thà làm hiền mà biết non-sông,
    Điên như Ta Điên giống Tiên Rồng,
    36.-Điên gỡ ách xích-xiềng thế tục.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 29 tới câu 36)
    Ở đời, có lắm kẻ quá mê si, hễ thấy ai có đạo đức thì khinh chê nhạo báng. Đức Giáo Chủ không màng kể, ấy vì họ không thấu hiểu đạo đức là gì !...
    Hơn nữa, người đời tâm trí tánh tình chẳng đồng nhau. Có người thì luôn trung thành với ông cha Thầy Tổ, có kẻ lại phản bội Đạo nhà Tổ quốc, chẳng ưa gì Thầy Tổ.
    Đức Thầy rất cảm mến những bậc trung thành ngay chánh, biết trở về con đường đạo đức hiền lành. Thà là làm lành mà biết tưởng nhớ đến non sông Tổ quốc, Đức Giáo Chủ tuy giả dạng Điên Khùng, nhưng lúc nào Ngài cũng yêu thương nòi giống để tùy phương cứu gỡ đất nước thoát khỏi vòng xiềng xích của dòng đời và thiện tín thoát ly cảnh khổ.

    CHÚ THÍCH
    SÁ CHI: Chẳng kể chi, chẳng ngại gì chuyện đó.
    NGU SI: Ngu muội chẳng biết gì.
    KHINH NGẠO: Khinh chê nhạo báng.
    TRUNG THẦN: Người tôi dân có lòng trung cang nghĩa khí.
    DẠ NGỌC: Lòng dạ tốt đẹp đối với mọi người. Từ trong gia đình đến xã hội luôn có lòng đạo đức, đúng với lẽ phải, được người đời quí trọng như vàng ngọc.
    BỘI PHẢN: Người không trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Thầy Tổ, bạn bè, ấy gọi là người hay phản phúc. Ví dụ: Trò phản Thầy, tớ phản chủ, tôi dân hay mãi quốc cầu vinh. Đức Thầy từng diễn tả cảnh trạng ấy:
    “Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân,
    Nào kể chi là Đạo Quân Thần.
    Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
    Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
    Trò giết Thầy tội ấy đáng không ?
    Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
    Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.
    Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
    Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
    Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,
    Tình nhân loại phân chia yểm bách”.

    HỒI VỊ: Trở lại con đường tốt đẹp hay ngôi vị cũ tốt đẹp của chính mình.
    ĐIÊN NHƯ TA ĐIÊN GIỐNG TIÊN RỒNG: Đức Thầy nhắc đến vua Lạc Long và bà Âu Cơ. Hai người sản sanh giống dân Việt Nam ta, nên gọi là giống dòng. Đây là lời Vua Lạc Long nói với bà Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, còn Bà là giống Tiên không thể ăn đời ở kiếp với nhau mãi được !” Nên bà dắt 50 người lên non tu hành, sau thành Tiên. Còn ông thì dắt 50 người xuống biển làm vua cai trị nước Nam ta (Văn Lang) được 18 đời gọi là vua Hùng Vương.
    Xưa nay, văn chương thường nhắc đến hai chữ Tiên Rồng hay Rồng Tiên thì ai cũng biết muốn nói đến Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam.
    XÍCH XIỀNG THẾ TỤC: Người bị sợi dây trói trăn trong cõi phàm tục sanh tử luân hồi khó mà thoát ly ra được.
    Ở đây có ý nói tuy Đức Thầy xưng hiệu là Điên, nhưng lòng Ngài lúc nào cũng quyết đem người dân Việt ra khỏi vòng nô lệ của ngoại bang và toàn thể chúng sanh thoát khỏi vòng tử sanh (thế tục).

    CHÁNH VĂN

    37.-Chuông Linh-Khứu ba hồi giục-thúc,
    Đờn Lôi-Âm khởi điệu êm tai.
    Con lành duyên khá trở gót hài,
    40.-Điên quyết chí dắt người lánh tục.
    Đạo mở cửa bày câu minh-mục,
    Nưóc ma-ha tưới tắt lòng phàm.
    Cõi Trung-Uơng luân chuyển phương Nam,
    44.-Mở hội Thánh chọn người trung-hiếu.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 37 tới câu 44)
    Đức Thầy cho biết Ngài đem nền giáo lý của Đức Phật Thích Ca từ chùa Lôi Âm và núi Linh Thứu ra giáo hóa chúng sanh. Ngài kêu gọi những ai có duyên lành với Phật Pháp, sớm quay về nẻo Đạo để sớm thoát ly cảnh tục.
    Ngài vạch rõ đường lối tu hành trước mắt mọi người và dùng nước Pháp Ma Ha tưới tắt lòng tham, sân, si thù hận của mỗi chúng sanh thoát khỏi vòng khổ đau sanh tử.
    Đức Thầy cũng nói rõ từ trước tới giờ, vị trí Trung Ương của Phật giáo phát xuất từ xứ Thiên Trước (Ấn Độ). Thời gian sau, sang qua Trung Hoa. Giờ đây đã luân chuyển qua miền Nam nước Việt, để qui hội các bậc hiền Thánh, xây dựng cuộc đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Vậy chúng ta còn chờ việc chi nữa mà chẳng phát tâm tu thân hành Đạo.

    CHÚ THÍCH
    LINH THỨU: Phạn ngữ GuHakata, phiên âm là Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa có nhiều danh xưng: Linh Thứu Sơn, cũng gọi là Kê Túc Sơn. Ngọn núi ở gần thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, thuộc trung bộ xứ Ấn Độ.
    Đứng xa nhìn nó như con chim Khứu (kên kên) nên gọi là Khứu Lĩnh. Lúc Đức Phật Thích Ca còn trụ thế, Ngài thường cu hội đại chúng thuyết pháp. Có lần Ngài thuyết kinh Đại thừa “Diệu Pháp Liên Hoa” tại đây. Kinh sách xưa nay thường dùng Linh Thứu Sơn, để chỉ cho xứ Phật hay chỗ Phật ngự. Đức Thầy nay cũng từng bảo: “Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa,
    Đền Linh Khứu sơn trung chịu mạng”.

    (Giác Mê TK, Q.4)
    LÔI ÂM: Đọc cho đủ là Lôi Âm Tự tức chùa Lôi Âm, hay đờn Lôi Âm. Đây chỉ cho tiếng giáo pháp của Phật thuyết ra rất thanh bai tao nhã, mầu diệu thâm trầm, người nghe dễ cảm như tiếng đờn. Đức Thầy có câu:
    “Lôi Âm giục khởi tiếng đờn,
    Thất sơn dấy loạn là cơn hiểm nghèo”.
    (Thiên lý ca)
    Hoặc là:
    “Lôi Âm Tự đường đi chưa đến,
    Nên giữa chừng kẻ mến người khinh”.

    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    LÀNH DUYÊN: Cũng gọi là duyên lành. Ai có kết duyên lành với Phật pháp thì sớm muộn gì cũng phát tâm hành thiện và sau chứng thành Phật quả. Ví dụ: Người trước có phát tâm kính tin hay tôn trọng lời Phật dạy hoặc thi hành các điều Phật sự, như: Bố thí, giúp đời, thường thương xót vạn loại chúng sanh, tức đã có gieo sâu duyên lành với Phật thì sớm muộn gì hạt giống ấy cũng mọc lên và sẽ lần lượt sum sê nảy nở cho đến khi thành quả Bồ Đề.
    Xưa, có một nhà tu chỉ một thời gian ngắn mà được chúng quả. Các đệ tử bạch hỏi Phật về lý do.
    Phật trả lời: Hành giả nầy trước kia là một Cư sĩ, trước chỉ có lòng kính tin Trời Phật, thời sau nghe tiếng người niệm Phật niệm Kinh rồi niệm theo. Hôm nọ ông vào rừng đốn củi bị cọp rượt, ông liền vừa niệm Phật vừa leo lên cây. Cọp nghe rất kính nể rồi bỏ đi. Ông tiều được sống và lo tu hành tới nay và cũng nhờ nó mà nay ông được thành Phật.
    LÁNH TỤC: Lìa khỏi nơi phàm tục.
    MINH MỤC: Minh là sang sủa. Mục là trước mắt. Đức Thầy vạch con đường tu niệm cho mọi người thấy rõ trước mắt mà hành theo, khỏi bị lầm lạc.
    MA HA: Phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Dịch nghĩa là rộng lớn, sự rộng lớn ấy ví như hư không, không bờ bến. Nó vẫn rỗng không sáng tỏ, đồng với bản thể của đạo tâm. Cho nên nói đến Ma Ha, tức nói đến nguồn Đại Đạo. Tâm Kinh Bát Nhã của Phật có câu:
    “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh”.
    (Lòng Trí tuệ rộng lớn ấy đến bờ bên kia; đọc tắt là Ma Ha Bát Nhã). Phật học giải có nhiều nghĩa, như:
    Ma Ha là Đại Đạo (rộng lớn).
    Ma Ha là nước pháp Tam Muội (chánh định) có diệu năng rửa sạch lòng trần cấu:Nước Ma Ha tưới tắt lòng phàm”.
    Ma Ha là thoàn Bát Nhã đưa người qua khỏi bờ mê:
    “Ma Ha thoàn nhã đã dọn rồi,
    Lèo lái trương buồm chớ thả trôi”.

    Hoặc là:
    Biển trần sóng cuộn lao xao,
    Xông thuyền Bát Nhả lướt vào một phen
    .(Tự Thán)
    CÕI TRUNG ƯƠNG: Ngay chính giữa quả địa cầu. Xưa nay, hễ nơi nào có chư Phật Thánh ra đời thì nơi ấy trở thành Trung Ương Thánh Địa và an cư lạc nghiệp. như khi xưa, Phật Thích Ca xuất hiện thì tại xứ trung Ấn Độ trở thành Thánh Địa. Rồi đến thời Đức Đạt Ma Tổ Sư, Ngài thấy duyên Phật Pháp ở đây không còn thạnh hành nữa liền đến Trung Hoa. Bấy giờ tại xứ Trung Hoa trở thành là Trung Ương Thánh Địa. Trải qua sáu đời Tổ tương truyền đến đời nhà Trần, đạo Phật nước ta lại bắt đầu phát triển và chuyển biến sang tới thời kỳ Đức Phật Thầy Tây An và Bửu Sơn Kỳ Hương cho đến đời hiện tại là Đức Huỳnh Giáo Chủ và Phật Giáo Hòa Hảo. Bấy giờ trên quả địa cầu lại có thêm Châu Mỹ và các thức giả nhìn kỹ thì ai cũng thấy rõ nước Việt Nam nằm tại trung tâm điểm quả địa cầu. Như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xác định:
    “Nước Nam Việt nhằm cõi Trung Ương,
    Sau sẽ có Phật Tiên tại thế”.

    Hoặc là:
    Luôn từ ngày Tăng Sĩ xa nhà,
    Điều uất kết tâu qua cùng Thượng Đế.
    Ngài vâng chỉ đáo lai trần thế,
    Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam.
    Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm,
    Mượn tay gã tờ hoa thần hạ bút”.

    (Trao lời cùng Ông Táo)





     
  11. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    CHÁNH VĂN

    45.-Tử vì nước còn ghi linh miếu,
    Thác vì đời thanh-sử danh bia.
    Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia,
    48.-Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực.
    Nước văn-minh chê đồ ấy nực,
    Mảng trau-tria xác thịt thanh-bai.
    Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai,
    52.-Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh.
    Chén quỳnh-tương gác điều gai ngạnh,
    Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
    Khi thừa-nhàn trổi giọng ngâm thơ,
    56.-Bày thi phú than qua thời-thế.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 45 tới câu 56)
    -Đoạn giảng trên, Đức Thầy cho biết: Xưa nay những người chết vì nước non dân tộc, cứu nguy đồng bào Tổ quốc đều được sử sách ghi biên, miễu son thờ phượng. Và người xưa tuy cách ăn măc có hơi thô kịch, song lòng dạ rất ngay thẳng chánh chơn.
    -Ngược lại, các nước văn minh sống theo vật chất phù hoa, chê bai lối sống thời xưa ô dề chật nực, chỉ lo ăn diện cho trơn láng hở hang, bỏ hết lễ nghi phong tục của ông cha từ trước.
    -Đức Giáo Chủ còn cho biết nếp sống theo cảnh dương trần hiện tại, không sao bằng cảnh sống nơi Bồng Lai Tiên Cảnh, tức Ngài muốn chỉ đời Thượng nguơn Thánh đức sắp tới đây. Nơi ấy sẽ đầy đủ vật liệu của các Tiên gia:
    “Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
    Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.

    -Người sống trong cảnh nầy chẳng còn hơn thua, tranh chấp hay giành giựt gây gổ lẫn nhau, ngày đêm sống vui vẻ với văn chương thi phú.

    CHÚ THÍCH
    TỬ VÌ NƯỚC, THÁC VÌ ĐỜI: Những người chết để bảo vệ Tổ quốc quê hương, đồng bào chủng loại, không lo riêng tư cho cá nhân mình.
    LINH MIẾU: Cái miễu hoặc đền thờ người ta xây cất để thờ phượng những bậc có công cứu nước giúp đời, mỗi địa phương thường có. Hằng năm cúng tế để cầu nguyện cho Quốc thới Dân an bá tánh an cư lạc nghiệp. Trong các cuộc lễ cúng tế trên người ta luôn đọc lại Tiểu sử và sử nghiệp của các Ngài để nhắc nhở dân chúng tưởng nhớ noi theo gương hạnh tốt đẹp đó. Đức Thầy có câu:
    “Trăm năm ghi tạc miễu son,
    Trung quân ái quốc hỡi còn danh bia”.

    (Viếng làng Phú An)
    THANH SỬ: Cũng gọi là sử xanh. Thời xưa, người ta chưa làm ra được các thứ giấy. Chỉ dùng cật tre xanh mà chép sử nên gọi là sử xanh hay thanh sử:
    “Tiếng roi lại Bình Ngô sát Đát,
    Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm”.

    (Gọi Đoàn)
    “Dỡ sử xanh Nam Việt mà coi,
    Gương Trưng Triệu còn roi muôn thuở”.

    (Gọi đoàn Phụ nữ)
    MŨ CÁNH CHUỒN: Cái mão các quan hồi xưa đội để đi làm việc, có hai cánh hai bên như con chuồn chuồn.
    ĐAI GIÁP: Các quan lính thời xưa khi đi đánh giặc có mang đai giáp bao thêm quanh mình để che thân. Họ mang cả giáp đồng giáp sắt và giáp thiết nữa (thiết giáp). Có khi tên bắn cũng không lủng.
    HIA: Như đôi giày, đôi bàn chơn có hai mỏ nhọn lên, các quan lớn vào chầu vua có mang vào.
    THÔ KỊCH: Ô dề kịch cợm, nhìn thiếu trang nhã.
    CHÁNH TRỰC: Ngay thẳng, lòng ngay thẳng trước sau như một. Đức Thầy có bảo:
    “Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
    Kim thời bá tánh gọi ngu si”.

    BỒNG LAI: (Xem chữ Bồng lai trong STTĐ trang 47). Chữ Bồng Lai ở đây còn chỉ cho cảnh đời Thượng nguơn Thánh đức tới đây:
    “Bồng Lai tại thế non dường sánh…”
    RƯỢU THÁNH: Cũng gọi là rượu của Chư Tiên dùng, nấu bằng trái Bồ Đào, uống vào chẳng bị say như rượu thường ở cõi trần gian. Đức Huỳnh Giác Chủ từng bảo: “Bồ Đào rượu Thánh trà Tiên,
    Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.
    RƯỢU QUỲNH TƯƠNG: Nghĩa như chữ rượu Thánh. Rượu của chư Tiên dùng, uống vào sảng khoái, hết say, tan bịnh…sống trường sanh bất lão.
    THỪA NHÀN: Rảnh rang thong thả, chẳng có việc gì phải lo âu sầu khổ.
    TRỔI GIỌNG NGÂM THƠ: Cảnh của các chư Tiên ở, lúc nào cũng thảnh thơi nhàn hạ, ít có việc chi trói buộc bận rộn nên thường ngâm nga những lời thi phú. Thi phú của các Ngài thường là dùng lời lẽ thức thời, giác chúng, hoặc tiên tri những việc sắp xảy ra, như Trần Đoàn tiên ông ngâm thơ cho biết Triệu Khuông Dẫn sắp lên ngôi báu:
    “Vận khí xoay vần lối hiệp tan,
    Huỳnh bào đấp cật vững âu vàng.
    Trần gian từ đấy đà vô sự,
    Ta trở về ngôi mới ngủ an”.

    Và thơ của cụ Trạng Trình ở Việt Nam ta, lúc nhàn rỗi ở Am Bạch Vân (miền Bắc) ông có ngâm nga trên 500 bài thơ phú để giác đời và tiên tri trận thế chiến thứ hai bùng nổ mà bây giờ Đức Hùynh Giáo Chủ đã nhắc lại:
    “Ngày nay xe lếch xe lôi,
    Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
    Là năm rồng, rắn, ngựa, dê,
    Chúng sanh thế giới ê hề thây phơi.
    Trạng Trình truyền sấm mấy lời,
    Ngày nay dân chúng vậy thì rán tri”.

    Sau nầy, đến giữa năm Kỷ Mão 1939 trước trận đệ nhị thế chiến, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã diễn tả lại:
    “Mèo kêu bá tánh lao xao,
    Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
    Con ngựa lại đá con dê,
    Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
    Khỉ kia cũng bị xáo xào,
    Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng”.


    CHÁNH VĂN

    57.-Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,

    Chốn hồng-trần đuốc huệ liền khai.
    Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
    60.-Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
    Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt,
    Gái anh-hùng xưa có Trưng-Vương.
    Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương, (²)
    64.-Rửa xong hận thù chồng dốc trả.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 57 tới câu 64)
    Đoạn giảng vừa qua, Đức Giáo Chủ nói rõ: Ngài lâm phàm khai Đạo, dùng đuốc huệ cứu dân, dù thân Ngài có chịu gian lao cực khổ cũng chẳng nài hà, miễn làm sao cho hàng nam nhi nữ kiệt biết giác tỉnh tu hành.
    Nam thì rạng rỡ phận mày râu. Nữ thì vẹn tròn câu tứ đức, để rạng rỡ mặt mày cho non sông Tổ quốc, ấy là Ngài được an lòng.
    Ngài luôn luôn kêu gọi hàng thanh niên, nam nữ hãy bắt chước gương xưa, như hai bà Trưng nữ anh hùng vì muốn thể hiện tinh thần báo đáp nợ nước thù nhà. Nghĩa là vừa đền nợ nước vừa báo thù chồng mà phải hy sinh bảo vệ non sông Tổ quốc, đánh đuổi quân xâm lăng Tô Định ra khỏi bờ cõi, dành lại nền độc lập cho nước nhà. Hiện giờ sách sử còn ghi biên, miễu son tạc để.

    CHÚ THÍCH
    RÂU MÀY: Cũng gọi là mày râu, nghĩa của chữ Nam nhi. Chỉ cho chí khí của phận mày râu nam tử.
    TRINH LIỆT: Trung trinh và tiết liệt chỉ cho giới nữ, không làm những việc hư thân mất nết.
    TUẤN KIỆT: Người tài giỏi và có tiết liệt hơn kẻ khác.
    ANH HÙNG: Cũng viết là hùng anh. Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Nghĩa bóng là những người tài giỏi có chí khí lớn hơn người. Đức Thầy có câu: “Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị, Anh hùng đâu xá cảnh gian lao”.
    Hoặc là:
    “Nam Việt anh hùng đúc khí hào”.
    Và: “Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu,
    Un đúc giống anh hùng vang bốn bể”.

    TRƯNG VƯƠNG: Cũng gọi là Trưng Nữ Vương, tức là hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai bà là hai chị em ruột, con của quan Lạc Tướng, người ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, tỉnh Phúc Yên. Khi quân Tàu đô hộ nước ta thì họ dùng chánh sách khắc nghiệt đối với dân ta. Họ sai Tô Định giết ông Thi Sách là chồng bà Trưng Trắc.
    Vì muốn bảo vệ dân tộc trả thù chồng, đền nợ nước. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị liền đứng lên chiêu tập anh hùng khởi nghĩa đánh giết được Tô Định vào năm 40 trước Công Nguyên. Dân chúng tôn hai Bà lên ngôi, xưng là Trưng Nữ Vương. Hai bà làm vua được 3 năm. Sau vì binh ít thế cô nên bị thua Mã Viện ở Cẩm Khê, hai bà phải nhảy xuống Hát Giang mà tự sát vào ngày mùng 6 tháng 2 năm Quí Mão, hàng năm dân chúng đều có cúng tế hai Bà rất trọng thể, gương trung liệt của hai Bà còn xán lạn khắp năm châu.

    CHÁNH VĂN

    65.-Xưa Châu-Xáng thanh-long phải tá,

    Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
    Nói cho đời rõ biết Khùng-Điên,
    68.-Điên vận bĩ điên câu ái-quốc.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 65 tới câu 68)
    Bốn câu giảng trên, Đức Thầy nhắc lại thời Thập Bát phản Vương có Châu Xáng mượn Thanh long đao của Quan Công ngăn Thượng Sư Đồ để cứu Ngũ Viên Thiệu. Mặc dù Châu Xáng tài kém hơn Thượng Sư Đồ nhưng vì có lòng tốt muốn cứu người, thêm được sự gia hộ của các bậc Thần Thánh nên ngăn được giặc và cứu Ngũ Viên Thiệu thoát nạn.

    CHÚ THÍCH
    CHÂU XÁNG: Người ở Trung Quốc, thời Thập bát phản vương. Lúc thất thời đang đốn củi dựa mé rừng, bỗng nghe tiếng quan binh la hét bèn leo cây cao nhìn xuống thấy Thượng Sư Đồ đang cỡi ngựa rượt theo Ngũ Viên Thiệu. Ông Viên Thiệu vừa đeo con vừa chống giặc sắp chết tới nơi, y bèn tuột xuống chạy vào miếu Quan Công gần đó lấy cây Thanh Long đao mà Châu Xương đang ôm phò Quan Công. Ông chạy ra đón đường Thượng Sư Đồ miệng hét vang như sấm nổ. Thượng Sư Đồ thấy bộ mặt của Châu Xáng có vằn vện giống hình sắc của Châu Xương, nên giựt mình, tưởng mạng Châu Xáng chưa chết nên có Châu Xương hiện hình về hỗ trợ. Sư Đồ liền ra lịnh lui binh, khiến Viên Thiệu được thoát chết.
    PHẢI TÁ: Phải mượn.
    VẬN BĨ: Vận xấu. Thời vận còn xấu chưa hanh thông tốt đẹp.

    CHÁNH VĂN


    69.-Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,

    Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
    Mảng chờ trông bá-tánh thảnh-thơi,
    72.-Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
    Rừng bác-ái điên đời biến-ảo,
    Điên như ta vì Đạo vì dân.
    Điên tu cầu Quan thánh rải ân,
    76.-Cho bốn biển dân lành được hưởng.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 69 tới câu 76)
    Đức Giáo Chủ dùng ngọn viết và một số lời lẽ đem nền Đạo bủa khắp bàng dân bá tánh. Ngài cũng mong đợi sẽ có một thời mà khắp bá tánh trong bốn biển năm châu đều được hưởng cảnh thái bình an lạc và mỗi người đối xử với nhau đều được hiếu hòa thuận thảo.
    Ngài còn cho biết lòng bác ái của Ngài thường lo cho khắp chúng sanh bao la vô bờ bến. Cuộc đời sắp tới đây sẽ biến đổi lạ lùng. Ngài giả Điên ở đây là vì quyết phổ biến đạo mầu để cứu khổ toàn dân và Ngài cũng thiết tha cầu nguyện với bậc Thánh chúa sớm bủa nhuần ân đức cho nhân loại khắp mười phương cùng thừa hưởng.

    CHÚ THÍCH
    VIẾT MỘT NGỌN LƯỠI NẦY MỘT TẤC: Cây viết và một số lời ý. Nghĩa bóng là ám chỉ sự nghiệp văn chương và giáo lý.
    THẢNH THƠI: An nhàn thong thả.
    LIÊN DÂY HÒA HẢO: Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo được truyền bá khắp bàng dân bá tánh.
    VÌ ĐẠO VÌ DÂN: Vì Tổ quốc và Đạo pháp.
    QUÂN THÁNH: Bậc Thánh chúa hay Thánh Vương. Vị đã tu hành chứng quả Bồ Tát song vì bản nguyện mà chuyển kiếp trở lại độ đời. Đây chỉ cho Đức Minh Vương.

    CHÁNH VĂN

    77.-Điên dẹp gác âm-thinh sắc-tướng,

    Tầm vô-vi kiếm cảnh Niết-Bàn.
    Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
    80.-Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
    Bê ái-hà gươm linh sớm dứt,
    Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
    Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
    84.-Noi chí ấy sửa sang thời-thế.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 77 tới câu 84)
    Tuy Đức Giáo Chủ giả vờ là người Điên, nhưng Ngài có nhiệm vụ dẹp bớt những âm thinh sắc tướng đã bị người ta bày đặt thêm cho đạo Phật, để dìu dắt mọi hành giả trở về với chánh pháp vô vi của Đức Phật từ trước; hầu tiện bề tiến tới Niết Bàn Cực Lạc.
    Ngài còn nói rõ từ trưóc Ngài đã an vị nơi tòa sen báu: Tây Phương Cực lạc Khùng ngồi tòa sen”. Vì bản nguyện vị tha mà Ngài cỡi thuyền từ bi trở lại Đông Độ, tức cõi chúng ta đang sống để giác tỉnh những người hữu tâm chí đức. Cho nên Ngài khuyên khắp môn đồ hãy dùng gươm linh tức trí huệ siêu mầu chặt đứt lòng thương yêu luyến ái cõi trần và nuôi dưỡng hạt giống giác ngộ (Bồ Đề) để đạt đến chỗ bất sanh bất diệt.

    CHÚ THÍCH
    ÂM THINH SẮC TƯỚNG: Âm thinh là những thứ trống mõ chuông đẩu, các thứ đờn kèn tụng tán ca hát v.v…Sắc là màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng và sắc người, hay làm cho người ta mê nhiễm, tức những hình thức đẹp xấu mập ốm, trơn láng mịn màng…Các loại nói trên là thinh trần hay sắc trần. Nhà tu nếu còn ô nhiễm một thứ nào cũng khó thành đạo.
    Bởi: Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo,
    Chơn truyền cụ thất đạo nan thành
    ”.
    Hoặc: “Nhược dĩ sắc kiến ngã,
    Dĩ âm thinh cầu ngã.
    Thị nhân hành tà đạo,
    Bất năng kiến Như Lai”.

    (Bằng dùng sắc mà ra mắt ta,
    Lấy âm thinh mà cầu ta.
    Thiệt là người hành tà đạo,
    Không bao giờ thấy được Phật Tổ Như Lai).
    NIẾT BÀN: (Xem STTĐ trang 249, tập 1, cột 2).
    THUYỀN TỪ BI: Cũng gọi là thuyền Bát Nhã. Bởi từ bi và trí tuệ đồng nghĩa là Tâm và Trí của Phật. Sở dĩ ví món nầy như chiếc thuyền là vì nó có công năng đưa mình củng mọi người đồng sang bờ giác. Đức Thầy từng nói: Thuyền Bát nhã Ta cầm tay lái”. Hoặc là:
    “Khắp trong bá tánh đều lai tỉnh,
    Bước xuống thuyền từ đến cửa không”.

    ĐÔNG ĐỘ: Là cõi Ta Bà chúng sanh đang sống, ở về hướng Đông (Đông Độ) đối với hướng Tây Tịnh Độ, tức cõi Cực Lạc của A Di Đà. Cũng gọi là Tây Thiên Trước. Đoạn nầy có ý nói Đức Giáo Chủ PGHH đã chứng Đạo và có ngôi vị ở Tây Phương: “Tây Phương Cực Lạc Khùng ngồi tòa sen”. Nay vì lòng từ bi và có sứ mạng nên trở qua Đông Độ tức là cõi Ta Bà để cứu vớt chúng sanh. Như Ngài đã xác định:
    “Tây Phương trở gót quá xa đàng,
    Thương xót Nam Kỳ lại An Giang”.

    (Lộ chút Cơ huyền)
    BỂ ÁI HÀ: Lòng thương yêu luyến ái dục tình như sông biển. Kinh xưa đã bảo:
    “Bể ái hà là dây oan nghiệt,
    Danh lợi tình càng xiết càng đau.
    Muốn ra khỏi chốn đồ lao,
    Dùng gươm trí huệ cắt mau lòng phàm”.

    Do đó, Đức Thầy khuyên chúng ta noi theo lòng giác ngộ của chư Phật mà vung gươm trí huệ chặt đứt lòng thương yêu luyến ái cõi trần để được giải thoát sanh tử như các Ngài.

    CHÁNH VĂN

    85.-Trời quá buổi chinh-chình vừa xế,

    Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
    Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy,
    88.-Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
    Điên đàm-luận ít câu dốt nát,
    Mong chị anh bàn-bạc thể-nào ?
    Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
    92.-Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
    Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
    Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
    96.-Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 85 tới câu 96)
    Đoạn giảng vừa qua, Đức Thầy muốn cho biết cuộc xoay vòng của mặt trời, hễ qua chinh xế thì sớm muộn gì cũng lặn xuống thành đêm tối. Ở đây ý muốn nói ngày cùng cuối của thời Hạ nguơn mạt pháp thì có nhiều mối đạo ra đời, tà chánh, lộn lạo. Nhà tu hãy chọn lọc nơi nào sáng suốt chơn chánh mà nương theo kẻo bị lầm lạc. Nghĩa là Tôn Giáo nào vạch sẵn đường lối tiến thẳng về Cực lạc Niết bàn thì nên theo, bằng không thì nên xa lánh.
    -Đức Thầy cũng rất khiêm nhường: Lời lẽ của Ngài thốt ra rất quê dốt thật thà mong mọi người hãy xét kỹ lại coi sao ? Tuy lời văn rất thô kịch, không cao kiến lắm, song nếu ai chịu xét nét kỹ càng sẽ thấy rõ Ngài có dụng ý.
    Ngài đã chỉ thẳng vào chơn tâm của mỗi người lúc nào nó cũng rỗng thông sáng tỏ không dính mắc hay chứa đựng một vật nào, ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt. Có thể tạm gọi nó là bản thể của Đạo tâm, hoặc là bản lai vô nhứt vật. Đối với mọi cảnh vật bên ngoài nó vẩn không chứa đựng và dính mắc cho đến lục căn, lục trần, lục thức cũng không làm sao cho nó lay động được, song nó có diệu năng hiểu biết một cách sang suốt rõ ràng.
    Vậy mỗi hành giả nào muốn thấu suốt đến chỗ kỳ diệu đó, tất phải tuần tự bước đi từ nấc một, mới mong kết quả Niết Bàn giải thoát.

    CHÚ THÍCH
    TRỜI QUÁ BUỔI CHINH CHINH VỪA XẾ: Hồi xưa chưa có đồng hồ, người ta chỉ căn cứ vào bóng mặt trời mà biết giờ giấc làm việc. Ở đây như đã thấy mặt trời chinh xế thì thì biết trời sắp hết buổi chiều, một phần ba buổi nữa đây là mặt trời sắp lặn.
    HUỲNH HÔN: Trời sắp tối (chạng vạng).
    ĐÈN TRÍ: Đèn trí huệ. Chỉ cho chủ trương của mỗi giáo thuyết.
    NẺO THẲNG: Đường ngay chánh. Chỉ cho chánh đạo.
    CỰC LẠC: (Xem STTĐ).
    DỐT NÁT: Người ít học, ít hiểu biết văn chương chữ nghĩa. Đây là lời khiêm nhượng của Đức Thầy.
    Ý KIẾN CHẲNG CAO: Kiến thức còn cạn hẹp thấp thỏi, chẳng thông minh cho lắm, đây là lời khuyên khiêm hạ của Đức Thầy.
    NỘI QUANG CẢNH: Nội là trong tâm; Quang là sáng suốt; Cảnh là mọi cảnh vật vô hình (tức là tư tưởng suy nghĩ bên trong). Nghĩa bóng ba chữ là ý nói trong tâm của người chứng đạo lúc nào cũng sáng suốt, làu làu không hề dính mắc hay chứa chấp một cảnh vật nào, dù là vô vi hay hữu vi. Ở đây chỉ cho bản lai tâm “bản lai vô nhứt vật”.
    Đức Lục tổ Huệ Năng khi nghe Ngài Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tới câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. (Nên trụ tâm vào chỗ vô sanh) Ngài liền hoát nhiên đại ngộ nói Kệ:
    “Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
    Nào dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt.
    Nào dè tánh mình vốn chẳng động lai,
    Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ.
    Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp”.

    BƯỚC ĐI TỪ NẤC: Nhà tu, hành trì từ nấc một tiến lên, ít bị bồn chồn vấp phải. Ý chỉ người tu tiệm giáo. Cổ đức xưa từng dạy: “Nói tu chứng thì đốn”(tu tắt). “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”. Nhưng hành trì thì phần nhiều phải tu tiệm mới kết quả chắc chắn, không bị vấp phải:
    Mình chậm rãi mà tròn đạo ngỡi,
    Còn hơn người tu xới tu bừa.
    Giữ chánh tâm bước nấc hạ thừa,
    Từ chỗ ấy mới đưa trung thượng
    .(TS)
    NGOẠI QUAN HÌNH BẤT CHẤP KỲ HÌNH: Bên ngoài thì quán xét mọi hình tướng cảnh vật, nhưng tâm thì chẳng hề dính mắc một cảnh vật nào. Nghĩa là nhà tu hành làm các việc từ thiện, giúp đời, tuy quán biết mọi cảnh vật lành dữ, có, không, động tịnh: ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức đều thấy biết rõ ràng, nhưng tâm trí vẫn như như bất động…vẫn tu, vẫn học, vẫn chứng đắc; nhưng không hề thấy mình có tu, có học, có chứng đắc “Thật tế lý địa, bất nhiễm nhứt trần, Vạn hạnh môn trung, bất xả nhứt pháp”.(Nhà tu đúng theo lý pháp của Đạo thì tâm không ô nhiễm một mảy trần nào cả, nhưng đối với muôn hạnh lành trong thế gian thì chẳng bỏ một hạnh nào hết).
    SẮT ĐINH: Hai vật cứng rắn bền chắt không gì làm hư rã. Nhà tu cứ bền lòng như vậy chắc chắn sẽ thành công trên bước đạo. Đức Thầy khuyên:
    “Bền lòng giữ dạ sắt đinh,
    Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh thơi”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    BẤT SANH BẤT DIỆT: Nghĩa của chữ Niết Bàn. Niết là bất sanh; Bàn là bất diệt.

    CHÁNH VĂN

    97.-Chúng-sanh mê nên đem pháp-thuyết,

    Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
    Nương gia-đình kính trọng cội thung,
    100.-Lo nưng-đỡ trong ngày tuổi hạc.
    Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
    Chén rượu nồng chẳng uống mà say.
    Say lê-mê lết-mết tối ngày,
    Say đạo-pháp say mùi hương khói.
    105.-Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi,
    Bể ái-hà rứt bỏ vẹn lau.
    Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
    108.-Trần-Di ngủ say câu thành-tựu.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 97 tới câu 108)
    Vì sanh chúng đang ngụp lặn trong sông mê bể khổ, nên Đức Giáo Chủ quá thương xót phàm trần tạm dùng giáo pháp giác tỉnh quần sanh. Giáo pháp ấy ví như chiếc bè, hay đèn đuốc, thuốc hay để đưa người từ bờ mê sang bến giác, giúp cho người bịnh được lành, kẻ mê si sanh trí huệ.
    Ngài chỉ áp dụng giáo lý ấy trong thời gian giáo huấn và hành trì xong rồi cũng buông xả chớ không bám víu vào một phương tiện nào, kể cả Thầy trò đều được an vui giải thoát.
    Điểm trước tiên là Ngài dạy môn đồ phải làm tròn cái đạo làm người, tức là báo ân Tổ Tiên cha mẹ. Song song với sự niệm Phật làm lành, diệt trừ phiền não để giải thoát sanh tử.
    Lúc lâm phàm, Ngài rất say mê đạo pháp, cũng như người chưa hề nếm rượu mà vẫn say. Bởi Ngài say vì lẽ cơ huyền đạo lý, vì quyết lòng cứu độ quần sanh ra khỏi bờ sanh tử mà thôi. Ngài giáo hóa nhơn sanh với quyết tâm và ước vọng cho đến khi nào giũ sạch lòng luyến ái trần duyên sanh tử, như: Huỳnh Bào Triệu Khuông Dẫn và Trần Hi Di ngủ thuở trước.

    CHÚ THÍCH
    PHÁP BẤT KHẢ DÙNG: Pháp là một trong ba ngôi quí báu: Phật, Pháp, Tăng. Xưa, sau khi đắc đạo, Đức Phật thuyết ra vô số lời lẽ để giáo hóa chúng sanh. Đó gọi là giáo pháp hay kinh kệ. Sau các đại đệ tử của Ngài kết tập lài thành ba Tạng: Kinh, Luật, Luận để tiếp tục truyền bá khắp chúng sanh. Giáo pháp là phương tiện, ví như thuyền bè, đèn đuốc hoặc thuốc hay.
    Thuyền bè để đưa mình qua sông. Thuốc để trị hết bịnh, đèn đuốc giúp cho biết lối đi. Nhưng khi mọi việc hoàn thành thì khỏi cần dùng nữa. Pháp như thuyền bè đến bến khỏi cần ghe. Vì thế Đức Giáo Chủ dùng câu giảng kế đó: “Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.Nghĩa là khi hành giả còn thiếu phương tiện giáo pháp để qua sông phải nhờ đó để thành công, cho đến khi nào việc đã hoàn thành thì buông xả không còn chấp mắc hay bám víu nữa, chỉ khi nào thấy cần mới áp dụng mà thôi.
    CỘI THUNG: Thung cũng gọi là cây Tòng có đặc tánh sống lâu. Trong văn học cổ gọi là Thung đường (sống lâu) nên chỉ cho người cha, là ý chỉ công sanh thành. Đức Thầy từng nói:
    “Lo bề cúc dục cội thung,
    Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời”.

    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    TUỔI HẠC: Tuổi cao, tuổi đã già.
    SAY NHƯ XƯA NHẰM LÚC HUỲNH BÀO: Huỳnh Bào, áo của vua mặc, thường may đủ màu sắc có thêu rồng vàng. Do câu chuyện Trần Kiều binh biến và Triệu Khuông Dẫn lên ngôi ở Trung Hoa.
    Bấy giờ có ba người kết bạn với nhau là Sài Vinh, Triệu Khuông Dẫn và Trịnh Ân, sau làm nên sự nghiệp. Sài Vinh được làm vua, hai người kia cùng phò tá. Sau xảy ra cuộc Trần Kiều binh biến, Sài Vinh chết, quan quân bàn thảo: Con của Sài Vinh còn nhỏ tuổi, không đủ sức cầm quyền nên tôn Khuông Dẫn lên nối ngôi. Vì tình nghĩa bạn thâm giao, Khuông Dẫn chẳng nỡ nhận vậy, nhưng quan quân đồng lập kế, phục rượu cho Khuông Dẫn rồi lấy áo Huỳnh Bào mặc vào rồi khiêng để nằm trên lâm sàng, chừng tỉnh dậy thì việc đã lỡ, Khuông Dẫn đành chịu làm vua.
    Đoạn nầy ý nói khi vận thời đã đến dù việc chẳng tốn công bao nhiêu cũng vẫn thành quả.
    TRẦN DI NGỦ: Cũng gọi là Trần Hi Di Tiên sanh hay Trần Đoàn Lão tổ. Một vị Tiên ẩn cư trên núi Tây Nhạc Huê Sơn thuộc huyện Huê Lâm, tỉnh Thiểm Tây (Trung Hoa). Ông tu đắc được pháp Long Thiền (đi thiếp), cũng là một tay cao cờ. Một hôm, Ông gặp Triệu Khuông Dẫn, lúc còn lưu lạc đó đây hai người cùng rủ nhau đánh cờ ăn thua bằng núi Tây Nhạc. Trần Đoàn vốn biết Khuông Dẫn sau nầy làm nên sự nghiệp (làm vua) mới ra điều kiện. Nếu ông thua thì chung tiền, bằng Khuông Dẫn thua phải giao núi Tây Nhạc cho ông.
    Triệu Khuông Dẫn thầm nghĩ núi ấy của quốc gia, nào phải của riêng ta, ông liền bằng lòng ký giấy để được vào cuộc. Tuy Khuông Dẫn chơi cờ rất hay nhưng làm sao địch lại Trần Đoàn. Vì thế ông bị thua luôn mấy bàn. Sau khi được thiên hạ, Triệu Khuông Dẫn mới vỡ lẽ, đành phải giao núi cho Trần Đoàn. Trước đó gặp thời loạn lạc nhiễu nhương trong đời Ngũ quí, Trần Đoàn ngủ luôn mấy năm mới tỉnh dậy. Nhằm lúc Triệu Khuông Dẫn mới lên ngôi, hiệu là Tống Thái Tổ, ông liền cỡi lừa đi ngoài chợ, vừa uống rượu vừa vỗ tay cười lớn và ngâm lên bài thi:
    “Vận khí xoay vần nỗi hiệp tan,
    Huỳnh Bào đắp cật vững âu vàng.
    Trần gian từ đấy đà vô sự,
    Ta trở về ngôi ngủ mới an”.


    CHÁNH VĂN

    109.-Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,

    Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên.
    Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
    112.-Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.
    Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
    Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
    Nên phải đành mang lốt làm hề,
    116.-Mặc bá-tánh khen chê cũng phải.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 109 tới câu 116)
    Đức Thầy giáo độ nhơn sanh có quyết tâm làm sao dìu dắt mỗi người đều được đến cảnh Phật, tức về đến Linh Thứu Sơn. Bằng không được vậy cũng về đến lư bồng để chư Thần Tiên chầu mừng chúa Thánh.
    Khương Tử Nha xưa kia lúc chưa gặp thời nên phải còn ngồi nơi sông Vị mà câu cá. Song ông câu với một lưỡi câu không ngạnh. Khi Võ Kiết phát giác ra, vua Võ Vương mới hay được và đến rước ông về phong làm soái tướng. Rồi sau ông mới đứng ra điều khiển cuộc Phong Thần và cầm đầu 800 chư hầu khắp nước Trung Hoa.
    Về phần giác tỉnh quần sanh thoát vòng mê khổ thì Ngài quyết lái con thuyền Bát Nhã, tức là trí tuệ siêu mầu để đưa rước chúng sanh. Ngài phải mang lốt làm hề, đó là giả dạng nửa hư nửa thật để đánh lạc hướng người Pháp cho tiện bề giác chúng độ đời, dù cho người đời có khen hay chê cũng mặc.

    CHÚ THÍCH
    NON THỨU: Cũng gọi là Linh Thứu Sơn hoặc Linh Sơn. một hòn núi giống hình con chim thứu (Thứu Điểu) ở tại trung xứ Ấn Độ, nơi Đức Thích Ca thường ngự thuyết pháp độ sanh. Đức Thầy có câu:
    “Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa,
    Đền Linh Thứu Sơn trung chịu mạng”.

    LƯ BỒNG: Một cái đài, người ta cất nơi cao ráo, sạch sẽ để chư Tiên hội trên đó. Đức Giáo Chủ từng viết:
    “Các nơi Tiên trưởng đâu đâu,
    Lư Bồng hội hiệp đồng chầu Thánh vương”.
    (Xuân Hạ tác cuồng thơ)
    KHƯƠNG TỬ NHA SÔNG VỊ CÒN PHIỀN: Khương Tử Nha cũng gọi là Khương Thượng hay Thái Công Lữ Vọng. Ông sanh đời Mạt Thương đầu nhà Châu, một trong 12 người học trò của Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở núi Côn Lôn. Sau vâng lịnh Thầy xuống giúp nhà Châu hưng binh phạt Trụ lập nên cơ nghiệp nhà Châu 800 năm.
    Lúc mới xuống núi, vì chưa gặp thời, Thầy Nguơn Thỉ có dặn dò lời tiên tri, phải chịu thời gian nghèo túng suốt 10 năm:
    “Mười năm nghèo túng áo còn bâu,
    Phải gượng mua vui chớ chát sầu.
    Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
    Chờ xe vương giả rước về hầu.
    Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
    Chín chục dư ba buộc ấn hầu.
    Mậu ngũ hội đàm trăm trấn phục,
    Phong thần chín tám bốn xuân thu”.

    Thời gian đó, Khương Thượng phải ngồi câu cá tại sông Vị suốt 10 năm. Vì câu thời vận nên ông chỉ câu bằng lưỡi câu ngay ra không có ngạnh.
    CHỜ NON PHỤNG GÁY: Từ xưa, hễ thời loạn lạc thì chim Phụng Hoàng không xuất hiện. Còn thời thái bình có Thánh Chúa ra đời thì có chim Phụng gáy lên chào mừng Chúa Thánh. Như thời vua Nghiêu và vua Thuấn, người ta nghe tiếng chim Phụng gáy vang ngoài đồng nội. Nhưng tới đời vua Võ thì chim phụng ẩn mất. Đến đời mạt Thương sắp hết chuyển sang đời Châu Võ Vương thì chim phụng Hoàng lại gáy trên núi Kỳ Châu để báo tin Thánh Chúa sắp xuất hiện:
    “Xưa Mạt Thương, Phụng gáy non Kỳ,
    Bởi Võ Vương đáng bực tu mi.
    Nay trở lại khác nào đời trước”.


    CHÁNH VĂN

    117.-Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
    Dốc làm sao rõ mặt tang-bồng.
    Nghiên hai vai gánh nặng non-sông,
    120.-Vớt trăm họ lầm-than bể khổ.
    Ví như loại sanh-cầm hồ thố,
    Còn thương nhau lại huống chi người.
    Đứa hai lòng sao chẳng hổ-ngươi,
    124.-Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
    Dấu bút tích tuôn bay theo gió,
    Học sách chi phỉ báng ông cha.
    Thấy dân tình xem Giảng ngâm-nga,
    128.-Lão xót dạ đôi lời trần-tố


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 117 tới câu 128)
    Đoạn giảng trên, Đức Giáo Chủ cho biết người quân tử luôn có đức độ rộng lớn hay thương người mến vật giúp đỡ bốn phương. Lúc nào cũng bảo vệ non sông tổ quốc và cứu khổ muôn loài khỏi cảnh lầm than đói rách.
    Đến như hai loài thú là Chồn và Thỏ là vật nhỏ mà khi thỏ chết, chồn phải rầu rĩ khóc than, huống chi loài người đã có tánh linh hơn muôn vật, nỡ nào làm ngơ trước cảnh khổ đau của mọi người hay sao? Nếu ta chẳng có lòng thương yêu nòi giống chắc phải thùa thẹn với cây cùng cỏ.
    Và nếu đã làm người mà đối xử nhau không thật tâm thành ý lại còn thẹn hơn nữa. Kinh sách xưa còn ghi để biết bao tấm gương tốt đẹp, mà nay dân chúng lại nỡ bỏ lãng không nương theo thật là điều đáng thương hại, thống trách.
    Đức Thầy còn than, thấy có nhiều người khi xem kệ giảng cứ ngâm nga chớ chẳng tìm hiểu nghĩa lý để hành theo; Ngài rất xót dạ đau lòng nên trình bày hết sự thật ra cho mọi người được rõ.

    CHÚ THÍCH
    CHÍ QUÂN TỬ: Người có chí khí rộng lớn. Đức Thầy có câu:
    “Chữ đại hung đại lực từ bi,
    Vậy mới trang quân tử nam nhi”.
    Hay: “Quân tử tùy thời hơi xúc bước,
    Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông”.

    LÒNG NHƠN VẠN ĐẠI: Lòng từ bi rộng lớn hay thương xót cả vạn loại chúng sanh.
    TANG BỒNG: Nói cho đủ là Tang bồng hồ thỉ. Tang là cây dâu, bồng là cây cỏ bồng. Ám chỉ người nam nhi làm việc lớn bốn phương. Theo văn chương xưa, hễ trong nhà có sanh được con trai thì người ta dùng cung bằng cây dâu, mũi tên bằng cỏ bồng, đem ra sân bắn lên trời, xuống đất và bốn phương. Ý tỏ con mình có chí khí khi lớn lên làm việc khắp bốn biển năm châu. Đức Thầy từng tỏ ý chí đó:
    “Tuy thân Thầy lướt cuộc gió sương,
    Mà thỏa chí tang bồng hồ thỉ”.

    RÕ MẶT TANG BỒNG: Ý dạy người con trai (phận nam nhi) lớn lên phải làm sao cho rạng mặt nở mày của Tổ tiên nòi giống và thân tộc thôn xóm.
    LẦM THAN: (Xem chữ nầy trong STTĐ, trang 192, cột 2).
    SANH CẦM HỒ THỐ: Hai loại sanh vật chồn và thỏ cũng buồn rầu thương tiếc. Nghĩa bóng là nói chồn thỏ là hai loại khác giống mà còn biết thương nhau. Giảng xưa có câu:
    “Sách có câu thố tử hồ bi,
    Huống người là giống tinh vi ở đời”.

    TRẦN TỐ: Cũng gọi là tố trần. Có nghĩa trình bày một sự việc gì ra cho rõ sự thật. Trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức Thầy có viết:
    “Nên phải tạm mượn cây ngòi viết,
    Đem đạo mầu như hạn cho mưa.
    Đặng tố trần tâm ý người xưa,
    Chữ thậm thâm trong kinh Phật giáo”.


    CHÁNH VĂN

    129.-Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ,

    Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
    Sá chi lời đạo-chích tục thô,
    132.-Kẻ ngu xuẩn khi người nhân-đức.
    Danh hiền-sĩ non sông náo-nức,
    Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu.
    Thầy Mạnh ra dùng đạo châu-du,
    136.-Lúc thập bát chư-hầu rối loạn.
    Bực Thánh-nhơn công-lao chẳng chán,
    Huống chi ta nào dám than-van.
    Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
    140.-Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.
    Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết,
    Dùng Đạo mầu cứu vớt sanh-linh.
    Nếu để chờ sấm nổ vang thinh,
    144.-E bá-tánh ăn-năn đã muộn.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 129 tới câu 144)
    Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ nhắc câu chuyện của Đức Khổng Tử thời Xuân Thu ở Trung Hoa thuở xưa. Sau khi châu du nhiều nơi, Ngài sáng lập nền đạo Thánh (nho) dạy dân chúng ăn ở hiền lành, luân thường đạo lý, nhân nghĩa hiếu trung.
    Thế mà bọn Đạo Chích còn khinh chê nhạo báng. Nhưng Ngài không màng kể, miễn sao cho tròn cái Đạo làm người mà thôi.
    Học thuyết của Ngài truyền rộng khắp nơi nơi trong bá tánh. Các hiền sĩ bốn phương đều nô nức tìm cầu học hỏi. Tới đời của Tử Tư thì Ngài Mạnh Tử ra đời nối tiếp và được người đời tôn là Á Thánh.
    Hai Ngài và các nho sĩ truyền bá nền Đạo gặp nhiều gian khổ khó khăn, song các ông ấy vẫn bền lòng kiên nhẫn, chẳng hề nản lòng chán mỏi “Bởi đạo cứu khổ đời mới lập ra”.
    Người xưa còn như vậy, huống chi thời nay chúng sanh đang ngụp lặn trong khoảng đời Hạ nguơn mạt pháp, Đức Giáo Chủ và những người có nhiệm vụ cứu đời lẽ nào dám than van hay sao ?
    Vì lẽ chúng sanh quá mê nhiễm cõi hồng trần, Đức Thầy mới quyết khai sáng nền Đạo. Rọi ánh từ quang kêu gọi những ai là người có nhiệt tâm để cùng Ngài truyền bá giáo lý siêu mầu cứu vớt sanh linh. Nếu người đời chẳng chịu thức tỉnh tu hành, để đến ngày sấm nổ thay đổi địa cầu, lập lại cõi đời Thượng nguơn Thánh đức thì dù có hối cải ăn năn cũng chẳng kịp.

    CHÚ THÍCH
    CUỒNG QUYẾN GIẢ HỒ: “Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã”.(Nếu không được người trì hành cái đạo trung mà Ngài đã truyền dạy thì buộc Ngài truyền dạy cho kẻ cuồng kẻ quyến chăng ! Kẻ cuồng thì tiến thủ (thái quá) kẻ quyến thì chẳng làm đúng theo (bất cập). Họ còn trở lại khinh chê phỉ báng.
    ĐẠO CHÍCH: Tên của một kẻ trộm, sống thời Chiến Quốc Xuân Thu. Sách Mạnh Tử có câu: “Chích chi đồ giả”.(Kẻ trộm cắp là bọn người đạo chích). Cho đến bây giờ (thời hiện đại), người ta cũng còn gọi kẻ trộm cướp là đạo chích. Những kẻ nầy chẳng những lòng dạ gian tà đạo tặc, quấy phá xóm làng mà còn kích bác người hiền lành đạo đức. Cho nên người có đạo xem kẻ đạo chích là kẻ không ra gì và cũng không hề câu nệ hay chấp mắc họ.
    Đức Thầy đã diễn tả hành động của một số người nầy: “Ngày vẩn vơ đầu đường, xó chợ tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã hội, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhũi trốn chui phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản của lương dân. Không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo, sự khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người..”
    NGU XUẨN: Ngu dốt đần độn lắm.
    HIỀN SĨ: Cũng gọi là sĩ hiền. Có nghĩa là bậc hiền tài đức hạnh, có học vấn hơn người:
    “Hiền sĩ bao giờ cũng ngóng trông,
    Chừng nào hưng phục cõi trời đông.
    Lẽ đâu tạo hóa riêng cay nghiệt,
    Đày sắc mãi chi giống Lạc Hồng”.

    CHIẾN QUỐC XUÂN THU: Cuối đời Xuân Thu trước đời nhà Tần, nước Tàu chia ra làm 7 nước mạnh, gọi là thất hùng cũng gọi là Đông Châu Liệt Quốc. Họ đánh nhau từ năm 403 tới năm 221 trước kỷ nguyên, ấy gọi là thời Chiến quốc. Hiện nay các nước trên thế giới giao chiến với nhau cũng gọi là chiến quốc hay thế chiến (thứ nhứt hoặc thứ nhì).
    THẦY MẠNH: Nói cho đủ là Thầy Mạnh Tử, tức Á Thánh. Ông tên thật là Mạnh Kha, tự là Mạnh Tử, sanh vào ngày 12 tháng 4 năm thứ Tư đời Liệt Vương nhà Châu (372 trước TL). Thân phụ là Thích Công Nghi, hiền mẫu là Cừu Thị, thuộc dòng công tộc Mạnh Tôn. Mồ côi cha từ thuở bé.
    Đời tư của ông lúc còn nhỏ có nhiều thay đổi lạ thường. Một hôm nhà láng giềng có người chết, ông dự đưa đám tang trở về rồi bắt chước đóng hòm đem chôn cất, khóc than kể lể như có người chết thật vậy. Thấy thế mẹ ông lấy làm lo nên dời nhà đi nơi khác. Lúc ở gần lò heo, hằng ngày ông thấy người ta làm thịt heo, mới hỏi mẹ: Người ta làm thịt heo chi vậy mẹ? Bà vui cười nói đùa với con: Người ta làm heo cho con ăn đấy. Mạnh Tử tưởng thật mừng rỡ rong chơi khoe cùng bạn bè là mình sắp ăn được thịt heo.
    Lát sau bà suy nghĩ lấy làm hối hận, bèn mua thịt heo cho con ăn thật. Mạnh Tử thấy người đồ tể sáng sớm bắt heo làm thịt, hao kêu eng éc ông cũng bắt chước, lấy cây đẽo hình con heo, và cũng dùng dao đâm họng heo; miệng kêu eng éc như đâm heo thật vậy. Mạnh Mẫu thấy vậy sợ con ô nhiễm nghề làm ăn đó, nên dời nhà đến gần trường học.
    Ngày ngày thấy bạn trẻ cắp sách đến trường, ông thấy liền xin với mẹ cho đi học. Bà thấy vậy mừng thầm: Ở đây con ta có thể làm nên sự nghiệp.
    Nhưng một hôm Mạnh Tử lại bỏ học trốn về nhà chơi. Vì muốn cảnh tỉnh con, bà vội cắt khung cửi và thôi dệt bỏ đi. Ông kinh hãi quì xuống hỏi:
    -Thưa mẹ ! Vì cớ gì mẹ lại đoạn khung cửi.
    Bà đáp:
    -Nghề dệt là chấp nối từ sợi tơ mới làm nên tấm lụa. Sự học của con cũng thế, hôm nay con bỏ học trở về khác nào khung cửi mẹ đã cắt lìa thành ra vô dụng không thể nào chấp nối lại được.
    Ông hối hận quyết một bề lo học, không còn bê trễ nữa. Nhờ sự dạy con khéo léo ấy mà ông làm nên sự nghiệp vàng son, thế nhân sùng ngưỡng đời đời.
    Trong Tam tự kinh có câu “Tích Mạnh Mẫu, Trạch lân xử, Tử bất học, đoạn cơ trử”. Nghĩa: Xưa, bà Mạnh Mẫu, chọn nhà ba lần để ở, con chẳng học, bà cắt ngang khung cửi và thôi dệt. Sách Tam tự kinh phần yếu giải có chép:
    “Tích xưa mẹ Thánh huấn nhi,
    Dọn nhằm chỗ ở dắt đi ba lần.
    Có khi trẻ chẳng ân cần,
    Mình ngồi khung dệt cắt chăn mà thề.
    Từ sau cứ học một bề,
    Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 145 tới câu 156)
    Các bậc Thánh nhơn xưa kia phải phí biết bao nhiêu công lao độ chúng nhưng các Ngài không hề chán mỏi. Cho nên đối với Đức Thầy hôm nay có lý nào Ngài lại nản lòng thối chí hay sao !
    Bởi thấy người đời quá mê đắm trong cõi hồng trần, chẳng thông hiểu con đường về cảnh Phật là gì, nên Đức Giáo Chủ phải bày tỏ hết mọi lẽ để chúng sanh được biết.
    Ngài kêu gọi những ai có nhiệt tình với đạo pháp hãy học lấy đạo mầu hầu cứu vớt sanh linh sớm thoát ly cảnh trầm luân khổ hải. Nếu để trễ bê tới ngày sấm nổ dù có ăn năn cũng không kịp.

    CHÁNH VĂN

    145.-Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,

    Ít có người khám rõ cơ-huyền.
    Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
    148.-Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
    Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn,
    Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng.
    Để làm cho mích bụng chị Hằng,
    152.-Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.
    Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
    Hiếm bao người được cá quên nôm.
    Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
    156.-Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 145 tới câu 156)
    Từ sau ngày 18 tháng 5 Kỷ Mão, Đức Giáo Chủ khai sáng nền đạo đến trước ngày người Pháp bắt Ngài ra đi. Ngài đã sáng tác một bộ Sấm thi Kệ giảng lớn. Vừa rộng vừa dài đáng kể. Trong đây hàm chứa biết bao cơ thâm huyền diệu, thế mà ít ai khám xét được lẽ diệu mầu trong đó.
    Vì thế, Ngài phải dừng tay lại thời gian để chờ Đức Ngọc Đế xử phân coi lẽ nào. Ngài còn cho biết cõi đời Hạ nguơn Mạt pháp sắp đến ngày tàn cổi như một đêm dài gần sắp mãn và ngọn đèn đã hết dầu, tim đã cháy rụi gần tắt không thấy đường đi. Thế mà ai kia chưa chịu tìm kiếm ánh sáng của mặt trăng (cái đạo) để nương theo.
    Ý nói ít người chịu thức tỉnh để tìm kiếm ánh sáng của trí tuệ (Đạo) mà nương theo. Khiến cho những bậc có trách nhiệm khai Đạo cứu đời chẳng hài lòng, vì đã mỏi lòng trông đợi, bởi chưa được bao nhiêu người quày đầu hướng thiện.
    Ngài cũng thống trách những kẻ chẳng nhớ câu Tục ngữ: “Đặng chim bẻ ná, được cá quên nôm”. Mãi say mê theo sự ăn sang, mặc sướng vinh hiển quyền uy mà nỡ quên đi ân nghĩa của ông cha, Thầy Tổ đang trông đợi mình.

    CHÚ THÍCH
    GIẢNG VỚI KỆ RA ĐÀ BỐN CUỐN: Số Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ sáng tác từ sau ngày 18/5 đến nay rất nhiều bài, nhưng quan trọng nhứt là chỉ trong vòng 35 ngày (từ trung tuần tháng 8 tới 29 tháng 9) mà Ngài viết bốn quyển Sấm kệ lớn, vừa dài, vừa rộng sâu, hàm chứa rất nhiều ý nghĩa mầu diệu sâu kín như:
    1.-Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, Quyển I, dài 912 câu, văn Lục bát.
    2.-Kệ Dân Của Người Khùng, Quyển Nhì, dài 476 câu, văn Thất ngôn trường thiên.
    3.-Sám Giảng, Quyển Ba, dài 612 câu, văn Lục bát.
    4.-Giác Mê Tâm Kệ, Quyển Tư, dài 846 câu, văn Thất ngôn trường thiên.
    KHÁM RÕ: Khám xét hiểu biết được.
    CƠ HUYỀN: Cũng gọi là huyền cơ, có nghĩa thiên cơ mầu diệu sâu kín. Trong bài Sứ Mạng, Đức Thầy có viết: “Đến trung tuần tháng tám Ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy thiên cơ..” và: “Đạo hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm,
    Chẳng vậy sau nầy khó thảnh thơi”.

    LỊNH THIÊN: Sắc lịnh của trời đất, tức luật xoay chuyển của tạo hóa. Đức Thầy từng nói: “Thiên cơ thế giới đà biến chuyển”, hay là: Máy diệu huyền chuyển lập hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”.
    ĐỨC NGỌC ĐẾ: (Xem STTĐ, trang 113).
    CẠN DẦU TIM LỤN: Cây đèn hết dầu tim bị cháy lụn sắp tắt. Ý nói đời Hạ Nguơn sắp tiêu diệt để lập lại Thượng nguơn, nhân loại sẽ chìm trong bóng tối.
    BÓNG TRĂNG: Ánh sáng của mặt trăng chỉ cho ánh sáng của nền đạo, bởi nền đạo từ trí huệ phát ra.
    MÍCH BỤNG CHỊ HẰNG: Chị Hằng là ánh sáng của mặt trăng. Ý chỉ chư Phật trên cũng như Đức Thầy dùng ánh sáng của trí huệ (Đạo) phổ hóa mọi người, nhưng ít người nghe theo, nên các Ngài phải mỏi lòng mong đợi.
    ĐẶNG CHIM BẺ NÁ, ĐẶNG CÁ QUÊN NÔM: Có nhờ ná mới bắn được chim, nhờ nôm mới bắt được cá, món đồ cần thiết như vậy mà người ta lại quên. Đây ý chỉ người làm được việc rồi lại quên ơn hoặc loại bỏ người đã giúp việc cho mình. Nghĩa bóng: Chỉ cho những người bội ơn bạc nghĩa.
    ƯA ĐỒ NGON ĐÚC NHÉT ĐẦY MỒM: Những kẻ quá tham lam tiền của hay vật thực khi được rồi thì hay quên ơn nghĩa. Đây chỉ cho người phụ bạc công ơn tổ tiên cha mẹ hay nòi giống quê hương. Đức Giáo Chủ từng thống trach những người ấy:
    “Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường,
    Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu.
    Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
    Cũng lắm người muợn kế ấy dung thân”.


    CHÁNH VĂN

    157.-Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,

    Nỡ phụ phàng vua Tống-Khâm-Tôn.
    Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
    160.-Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
    Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
    Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi.
    Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
    164.-Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
    Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng,
    Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san.
    Nhờ Tư-Đồ thiếp lập Liên-hoàn,
    168.-Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 157 tới câu 168)
    Mười hai câu giảng trên, Đức Giáo Chủ nhắc đến sử nước Tàu (TH), có ba người tà gian nịnh tặc:
    1.-Thừa tướng Trương Ban Xương sanh đời vua Tống Khâm Tôn.
    2.-Vợ chồng Tần Cối cũng sanh đời Tống, họ dùng đủ mưu thần chước quỉ giết hại hai cha con Nhạc Phi và các anh hùng cứu nước.
    -Hai người kể trên là kẻ quên ân bội nghĩa phản nước phản dân, cầu vinh mãi quốc.
    3.-Người thứ ba là Đổng Trác sanh đời Hớn Mạt đời vua Hiến Đế là một kẻ gian hùng, háo sắc, hảm hại tôi trung. Sách sử dân tình luôn chê bai nhờm gớm. Những kẻ nói trên đã ăn lộc vua hưởng quyền lợi chúa mà đành quên ơn bội nghĩa. Xưa nay sách sử kêu ca than oán. Nhắc đến những tấm gương xấu ấy, người thời nay đáng lẽ phải xa lánh, thế mà có lắm kẻ đòi bắt chước:
    “Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
    Cũng lắm người mượn kế ấy dung thân”.

    (Không buồn ngủ)

    CHÚ THÍCH
    TRƯƠNG BAN XƯƠNG: Là một kẻ gian nịnh của hai đời vua Vi Tống và Khâm Tôn (TH). Lúc nước nhà suy yếu loạn lạc, vua Vi Tống mở khoa thi chọn kẻ hiền tài ra giúp nước. Ông gốc ở Hồ Quảng (Huỳnh Châu) làm quan đến chức Thừa Tướng. Trương Ban Xương đã ăn hối lộ của Sài Quế nên khi Nhạc Phi ứng thí, Xương lập mưu hại Nhạc Phi bỏ giáo trường về quê.
    Gặp nước nhà loạn lạc, quân Kim phiên thừa dịp sang đánh phá. Khi quân Ngột Truật Thái Tử nước Phiên đem qua khỏi Huỳnh Hà kéo gần đến Kinh thành, Xương xúi vua Khâm Tôn:
    -Bây giờ giặc đã kéo đến bên thành, không còn cách nào khác hơn là chúa thượng phải sắm lễ vật cho nhiều để cầu hòa. Có thế giang san nhà Tống nầy mới được tồn tại.
    Vua Khâm Tôn quát tháo:
    -Thuở nay có ông vua nào cầu hòa như vậy không?
    Ban Xương đáp:
    -Ngày xưa, Hán chúa gã Chiêu quân, Đường Vương dâng Công chúa. Nay chẳng qua Bệ hạ ngộ biến tùng quyền cứu cấp cho qua thời gian nầy thôi. Vậy Bệ hạ hãy nghe theo hạ thần dâng cho chúng vàng ròng, gấm lụa, mỹ nữ và heo, dê, trâu, rượu đầy đủ ắt Kim Phiên sẽ lui.
    Vua Khâm Tôn vì tánh khí nhu nhược và muốn cứu an nên đổi giận làm vui đành chấp nhận. Thế là cuộc cống hiến bắt đầu.
    Khi dâng lễ vật đến nơi, chúng tướng Phiên động lòng tham, chận lấy hết của cải không thông báo cho Ngột Truật hay, nên vua Khâm Tôn phải vơ vét của kho hai lần nữa để hiến dâng mới kết quả. Ngột Truật ngợi khen rối rích:
    -Ta khá khen nhà ngươi có lòng tốt với ta. (???)
    -Bẩm lang Chúa ! Nếu lang Chúa chẳng chê lão phu (???) ngu muội. Lão xin hiến dâng kế mọn, tất Tống Trào sẽ về tay lang Chúa. Nếu vậy tôi sẽ giết vua Tống đem Thái Tử dâng cho lang Chúa. Chừng ấy lang Chúa muốn gì mà chẳng được.
    Một cuộc đau thương lại diễn ra, em của Khâm Tôn là Điện hạ Hoàng được đưa đến dinh Phiên, nhưng mới tới cửa lại phải chết vì tên quân cận vệ của Ngột Truật.
    Trương Ban Xương lại thiết kế khác, bắt Khương Vương, Triệu Cấu hiến dâng và sau cùng xúi vua Khâm Tôn đem hết các bài vị của Tiên Vương hiện đang thờ nơi Thái Miếu dâng hiến, rồi thừa cơ áp bắt nhà vua nạp cho Phiên kim.
    Vua Khâm Tôn bị cầm tù nơi giếng lạn tại Ngũ Cốc Thành, nơi vùng sa mạc hoang vu và chết lần mòn ở đó.
    Trương Ban Xương được Ngột Truật phong cho chức Sở Vương nhưng sau cùng bị Ngột Truật bắt làm dê chém chết để tế cờ. Một đời của tên gian thần mãi quốc cầu vinh được kết liễu.
    NHẠC PHI, BÀN CỬ: Theo truyện Nhạc Phi diễn nghĩa có chép: Vào đời Tống Vi Tông có người tên là Nhạc Phi, tự là Bàn Cử ở huyện Thang Âm, phủ Tương Châu, tỉnh Hà Nam, vốn là Hộ pháp Thần kỳ Đại Bàn Kim Sí Minh Vương giáng sanh.
    Thuở nhỏ, Nhạc Phi được mẹ là bà An Nhơn và ông Châu Đồng (là Thầy dạy học). Hai người hết lòng dạy ông nghề văn nghiệp võ. Ông lớn lên kết bạn cùng Thang Hoài, Trương Hiển, Vương Quới, Ngưu Cao. Khi nghe Tống trào mở khoa thi chọn nhơn tài dẹp giặc, anh em Nhạc Phi liền vào ứng thí, nhưng bị các quan giám khảo là Trương Ban Xương và Trương Tuấn, Vương Đạt ăn hối lộ của Sài Quế, họ thấy Nhạc Phi giữa giáo trường tỉ thí và giết Sài Quế. Ban Xương nổi giận đuổi bọn Nhạc Phi về quê. Nội bọn đành trở về mang theo nhiều ân oán.
    Mãi đến vua Khâm Tôn bị vua Kim Phiên bắt. Khương Vương, Triệu Cấu tìm cách trốn thoát khỏi dinh Phiên trở về tức vị, hiệu là Tống Cao Tôn, Nhạc Phi mới được vua triệu về Kinh dẹp giặc.
    Lúc ra đi, mẹ ông sợ con vì sự nông nỗi không trung thành cùng vua nên thích vào lưng ông bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc” để ông ghi nhớ. Từ chức Thống Chế, Nhạc Phi làm đến phó Nguyên Soái rồi Ngũ Tinh Đại Nguyên Soái, Võ Xương Khai Quốc Công Binh Bộ Thượng Thư Đại Nguyên Soái, lập nhiều chiến công hiển hách, gây dựng cơ nghiệp Tống Trào đang hồi mạt vận.
    Quá tận trung với vua, ông bị gian thần Tần Cối mạo chiếu vua, triệu ông về Kinh giam vào ngục cùng với con ruột là Nhạc Vân và con nuôi là Trương Hiển, sau cả ba đều bị giết tại Phong Ba Đình, hưởng thọ 39 tuổi.
    Tần Cối vốn là Tân khoa Trạng Nguyên, theo bảo giá Triệu Vương (Điện Hoàng sang làm con tin bên Ngột Truật, Thái tử Kim). Lúc Triệu Vương chết, Ngột Truật bắt Tần Cối đem luôn về Phiên Quốc. Nhờ khéo lòn cúi do đầu lụy, Tần Cối được sống sót song bị làm tôi tớ cho một tên tiểu Phiên. Thời gian sau, Ngột Truật trước khi hưng binh lần thứ ba đánh Tống trào, cho người tìm Tần Cối rồi ưu đãi và thả Tần Cối về nước làm nội ứng. Tần Cối về nước được vua Cao Tông ban chức Lễ bộ Thượng Thư, vợ y cũng được ban chức Nhị phẩm phu nhơn, từ đây, Cối bắt đầu tự tung tự tác trong triều đình.
    Lúc Nhạc Phi đánh binh Kim Phiên thua chạy, tính đánh rốc qua Huỳnh Long Phủ (Kinh thành Phiên Quốc) để rước vua Khâm Tôn về nước thì Tần Cối ton hót với vua bảo Nhạc Phi giải giáp binh mã rồi sau đó dùng 12 tấm kim bài, triệu Nhạc Phi về trào giam vào ngục, lén cho người dẫn ra Phong Ba Đình giết chết.
    Giết Nhạc Phi xong, Tần Cối còn xúi vua bắt hết gia quyến Nhạc Phi đày ra VânNam để mượn tay kẻ khác giết chết cả bọn. Song nhờ hào kiệt bốn phương hết lòng ủng hộ nên gia quyến Nhạc Phi được an toàn.
    Tần Cối đã hại Nhạc Phi, nhưng số tôi trung vẫn còn nhiều. Tần Cối bèn soạn chiếu giả để triệu hết bọn tôi trung cùng giết một lần mà trừ hậu hoạn. Song vừa mới soạn thảo bản văn chưa xong, kế Cối thấy hồn cha con Nhạc Phi hiện đến, Tần Cối hồn phi phách tán, chết giấc. Bắt đầu từ đó, vợ chồng Tần Cối mang lấy bịnh ung thư phát bối, chẳng bao lâu thì chết.
    Về sau, người ta cho tạc tượng hai vợ chồng Tần Cối mang gông và xiềng cả hai chân trước mộ Nhạc Phi kề bên có một cái dùi, cho ai có đến viếng mộ thì dùng cái dùi ấy đánh vào đầu vợ chồng Tần Cối, ý để bêu xấu kẻ ác gian, đến chết cũng còn bị sự cực hình đau khổ.
    NHÀ HỌ ĐỔNG: Tức là Đổng Trác. Sanh thời Hậu Hán và là một tay gian hùng, chuyên quyền cả ba đời vua : Linh Đế, Thiếu Đế, Hiến Đế quyết chiếm cho được ngôi vua.
    Đổng Trác hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũng Tây, vùng Lâm Thao. Trước là quan Thái Thú quận Hà Đông, vốn là kẻ bất tài, song nhờ khéo dua nịnh đem bạc vàng đúc lót cho bọn Thập Thường Thị nên được thăng quan tiến chức rất mau. Từ Thứ sử Tây Lương thăng lên Hiến Quân, thống lãnh hơn hai chục vạn quân, trấn giữ xứ Tây Châu…Trác bày mưu hiến ngựa Xích thố, mua chuộc Lữ Bố giết Đinh Nguyên và đem Bố về làm con nuôi, để mưu đồ cướp ngôi vua Hiến Đế. Song nhờ có quan Tư Đồ Vương Doãn bày mưu với con gái là Điêu Thuyền thi hành liên hoàn kế. Lúc đầu gả Điêu Thuyền cho Bố, sau đưa sang Đổng Trác để cho cha con ghen tị giết hại lẫn nhau. Sau cùng Lữ Bố giết được Đổng Trác, giúp cơ nghiệp nhà Hán an được một thời.

    CHÁNH VĂN

    169.-Cảnh gian-nan như Lưu-Hoàng-Thúc,

    Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân.
    Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa-ân,
    172.-Vượt năm ãi về thăm huynh-trưởng.
    Kẻ nghĩa-khí thiên kim vạn lượng,
    Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
    Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
    176.-Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
    Coi sự sống như Tiên nưa-nửa,
    Mê mồi thơm như cá lục-châu.
    Sao chẳng lo thức-tỉnh quày đầu,
    180.-Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 169 tới câu 180)
    Vào thời Hớn mạt, có ba anh em kết nghĩa là Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi. Lưu Bị, Trương Phi sau khi thất thủ thành Hạ Bì phải chịu cảnh gian nan vất vả. Lưu Bị qua ở nhờ với Viên Thiệu còn Quan Công phò hai người chị dâu chạy thẳng lên núi Thổ Sơn tạm trú, Trương Phi túng thế phải chạy thẳng Mang Định để lánh nạn. Tào Tháo cho quân vây Quan Công chặt chẽ, Quan Công quyết phá vòng vây mấy phen cũng ra không được. Tào Tháo thấy Quan Công có tài liền cho Trương Liêu ra dụ hàng, nhưng Quan Công giữ đúng lòng ân nghĩa đối với Lưu Bị và Trương Phi.
    Khi nghe được tin Lưu Bị ở bên Viên Thiệu, Quan Công liều treo ấn, vượt qua năm cửa ải và chém sáu tướng của Tào Tháo để sum hiệp với Hớn trào.
    Xưa nay sách sử thường ca ngợi lòng nghĩa khí của Quan Công dù cho có ngàn vàng cũng không sánh được. Còn kẻ tham lam, gian tà nịnh tặc sách sử đều khinh khi cười nhạo.
    Người trí mỗi lần đọc tới kinh sách truyện thơ đều bắt hổ thẹn cho số người còn tham gian bội phản. Họ chỉ biết sống sung sướng là vinh hiển cuộc đời, lúc nào cũng thế, coi tiền bạc như miếng mồi thơm béo của cá Lục châu trên toàn quốc, nơi nào cũng có.
    Đức Giáo Chủ luôn luôn kêu gọi những người ấy hãy sớm thức tỉnh quày đầu kẻo hổ thẹn với người xưa.

    CHÚ THÍCH
    LƯU HOÀNG THÚC: Lưu Hoàng Thúc là chú của vua Hiến Đế đời Hớn Mạt. Thuở ấy, Trung Quốc phân ra “tam thân đỉnh túc”(ba nước): Bắc Ngụy (Tào Tháo), Đông Ngô (Tôn Quyền), Tây Thục (Lưu Bị); họ tranh chấp giành giựt lẫn nhau ở Tây Thục. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi kết nghĩa tại vườn đào rồi mộ binh dẹp giặc.
    Cầm đầu Thục Hán là Lưu Bị. Ông tên thật là Huyền Đức vốn dòng dõi Trung Sơn Tỉnh Vương Lưu Thắng, tức dòng vua Hiến Cảnh nhà Hán. Ông là con của Lưu Hoàng cháu của Lưu Hùng. Thân phụ của ông thi đỗ Hiếu Liêm và có ra làm quan nhưng chẳng may mất sớm.
    Lưu Bị mồ côi cha từ nhỏ, thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo nhưng không vì thế làm nản lòng ham học của ông, mặc dù hằng ngày phải may dép, dệt chiếu làm kế sinh nhai. Nhà ông ở thôn Lậu Tang, có một cây dâu rất lớn, cành nó đâm ra rất xa, trông như chiếc lộng vậy. Nhiều người trông thấy cây kỳ dị nói rằng: Nhà nầy ắt sanh quí tử. Lúc nhỏ, ông thường đến gốc cây dâu đùa giỡn và nói chơi rằng:
    -Tao làm Thiên tử ngồi trên cổ xe có tàng lộng như cây nầy.
    Chú ông là Lưu Nguyên Khởi nghe vậy thường rầy la, song thấy Lưu Bị co chí khí nên Lưu Nguyên Khởi cho đi du học.
    Lớn lên, Lưu Bị có hình tướng khác thường, mình cao tám thước, hai tai lớn chấm vai, hai cánh tay dài dưới gối, mắt sáng như bạch ngọc, môi đỏ tợ thoa son. Tánh tình khoan hòa ít nói, mừng giận không lộ ra nét mặt, gặp lúc Huỳnh Cân đang gây rối, ông gặp Quan Công và Trương Phi kết nghĩa dưới vườn đào rồi cùng nhau đánh dẹp. Ba anh em có công dẹp giặc Huỳnh Cân nhưng không được trọng dụng nên sang Từ Châu trú ngụ, sau nhân việc Đổng Trác lộng quyền nên 18 trấn Chư hầu đồng tôn Viên Thiệu lên làm minh chủ để dẹp Đổng Trác.
    Sau ông hợp với Tào Tháo giết được bè lũ Lữ Bố nên triều đình thăng thưởng. Nhân đó, vua Hiến Đế mở quyển Tôn tộc thế phổ ra, vai vế thấy Lưu Bị là chú vua nên gọi là Hoàng Thúc (danh từ Lưu Hoàng Thúc được gọi từ đấy và phong ông là Tả tướng quân Nghi thành Đình Hầu),
    VIÊN THIỆU: Lúc bấy giờ Tào Tháo cậy công lộng quyền, tự xưng làm Thừa Tướng, lấn áp quyền vua, nên Lưu Bị và các tướng họp nhau trừ Tháo, nhưng việc bất thành. Sau Lưu Bị nhờ Viên Thiệu hưng binh đánh Tào Tháo để trả thù. Tháo đánh không lại phải nhờ Quan Công ra trận giết hai tướng Nhan Lương, Văn Xủ phá tan quân Viên Thiệu, gở rối cho Tào Tháo một lúc.
    QUAN CÔNG HẦU: Tên thật là Quan Vũ (Võ) tự là Thọ Trường, sau đổi là Văn Trường, người ở đất Giả Lương, tỉnh Hà Đông. Ông vốn trung cang, nghĩa khí bậc nhất đời Tam Quốc.
    Văn Trường đã cùng Lưu Bị, tức Lưu Huyền Đức (dòng dõi nhà Hán) với Trương Phi (tức Lưu Đức) kết bạn và thề nguyền sanh tử với nhau. Nhân dẹp giặc Huỳnh Cân (Khăn vàng) có công mà không được thăng thưởng lại bị bọn Thập Thường Thị đòi tiền hối lộ, ba người tức giận trốn về.
    Sau Lưu Bị chiếm giữ Từ Châu tạm trú, Tào Tháo lúc ấy cậy công lộng quyền xưng là Thừa Tướng lấn áp cả vua Hiến Đế. Rồi kéo hai chục vạn quân tiến đánh Lưu Bị, Lưu Bị thế yếu cho người sang cầu viện với Viên Thiệu. Thiệu không chịu phát binh tiếp cứu. Đang đêm, Lưu Bị cùng Trương Phi đem binh cướp tại Tào, vì lầm mưu phục kích của Tháo, anh em thất bại phá vòng vây mà chạy.
    Lưu Bị chạy về Thanh Châu nương náo cùng Viên Thiệu, còn Trương Phi chạy thẳng lên Mạng Địch San lánh nạn. Quan Công hiện đóng binh ở Hạ Bì thành. Tào Tháo đem binh đến đánh rồi giả thua chạy xa, Quan Công vô tình xua quân đuổi theo. Tháo thừa cơ chiếm Hạ Bì thành rồi đem binh vây bọc tứ phía. Quan Công thấy vội phá vòng vây chạy lên núi Thổ Sơn tạm nghĩ. Tháo lại đem binh bao vây bọc dưới chân núi. Quan Công phá mấy lần nhưng không thoát được, quá kiệt lực ông định tuẩn tiết để gìn lòng trung nghĩa với Lưu Bị.
    Tào Tháo thấy ông vũ dũng và nghĩa khí hơn người nên sanh lòng cảm mến, sợ ông tự tử sẽ mất đi một anh hùng, bèn sai Trương Liêu lên dụ hàng. Quan Công nhứt định thà chết vì chánh nghĩa chớ không hàng Tào. Trương Liêu giải bày: Anh đã thề nguyền sanh tử với Lưu, Trương nay anh chết đi sẽ mất ba trọng tội, còn nếu ra hàng sẽ có ba điều lợi lớn.
    Quan Vân Trường quắc mắt hỏi: Ba điều tội ra sao?
    -Một là nếu Lưu Hoàng Thúc (tức là Lưu Bị) mộng lớn chưa thành, nay lại lưu lạc chẳng biết ở đâu. Nếu còn, ắt sau nầy cũng cần dùng kẻ nghĩa dũng, song lúc đó không có anh thì Hoàng Thúc sẽ thiếu kẻ kiện tướng, mộng lớn sẽ không thành.
    -Hai là Hoàng Thúc phó thác gia quyến cho anh, nay nếu anh chết thì không ai bảo vệ, ắt phụ lòng tin của huynh trưởng.
    -Ba là anh võ dũng siêu quần, lại không phò nhà Hán để lưu danh thanh sử mà đi liều chết với Tào Công phỏng có ích gì !
    Nghe vậy, Vân Trường dịu giọng hỏi:
    -Còn ba điều lợi thế nào ? Xin kể luôn ta nghe thử.
    -Nay tứ phía đều bị vây, nếu anh chống cự e sơ thất, chi bằng tạm đầu Tào Công để nghe tin tức Hoàng Thúc, nếu biết người ở đâu sẽ đến mà tìm. Như thế, một là bảo vệ được nhị Tẩu, hai là chẳng phụ lời thề ư ? Ba là dành được cái thân hữu dụng nầy để giúp nhà Hán. Ba điều ấy mong anh xét lại.
    Quan Công nói: Nay ta có ba điều giao ước, chẳng biết Thừa Tướng có bằng lòng hay không, nếu chịu thì ta sẽ qui phục, bằng thiếu một trong ba điều, ta quyết chọn lấy cái chết mà thôi.
    -Một, đầu nhà Hán chớ không đầu Tào Công, vì ta cùng Hoàng Thúc đồng nguyện giúp nhà Hán.
    -Hai là lấy bổng lộc của Hoàng Thúc mà cấp cho nhị Tẩu ta và không một ai được bén mảng đến chỗ trú ngụ của nhị Tẩu.
    -Ba là khi nghe anh ta ở đâu phải lập tức cho ta đến đó, dầu đường xá ngàn dặm.
    Trương Liêu về bẩm lại, Tào Tháo bằng lòng. Quan Công bèn phò nhị Tẩu theo Tào Tháo cùng về đến Hứa Sương. Tào Tháo dọn tư dinh cho ông ở, ông chia làm hai ngăn, bên trong để nhị Tẩu ở, cho mười tên quân canh giữ, còn ông ở ngăn ngoài. Tào Tháo muốn cho Quan Công cùng nhị Tẩu ở chung nhà cốt để Quan Công loạn nghĩa quân thần, anh em nghi kỵ chia rẽ lẫn nhau, chừng đó Tào công ngồi không hưởng lợi và Quan Công bị kẹt sẽ ở lại phò Táo Tháo mãi mãi. Nhưng Quan Công đốt đuốc ngồi xem sách Xuân Thu suốt đêm, canh chừng cho nhị Tẩu ngủ. Tào Tháo muốn mua chuộc ông, bèn dắt vào triều yết vua Hán, được Hiến Đế phong làm Thiên Tướng quân. Cách vài ngày lại thiết tiệc mà đãi ông, tiệc tan lại tặng đồ trang sức, nhưng ông đều giao lại cho nhị Tẩu cất giữ. Cứ ba ngày ông vào ngăn cửa hỏi thăm sức khỏe nhị Tẩu. Tháo biết được càng nể phục lắm. Nhân thấy ông có bộ râu dài rất đẹp, Tháo liền lấy gấm bông may vải cho ông bọc râu. Vua thấy thế gọi ông là Mỹ Diệm Công (ông râu đẹp).
    Tháo lại lấy ngựa Xích thố của Lữ Bố ngày trước mà ban cho ông và tặng hai chục mỹ nữ, nhưng ông chỉ nhận ngựa còn gái đẹp dâng cho nhị Tẩu.
    Thấy Tháo hết lòng kính trọng mình nên ông tìm cách trả ơn ông. Nhân Viên Thiệu, Nhan Lương và Văn Xủ đem binh đánh Tào Tháo. Binh Tào thua mãi, ông bèn xin ra trận đánh phá binh Viên Thiệu giết Nhan Lương, Văn Xủ được vua Hán Đế phong làm Hán Thọ Đình Hầu.
    Nhờ ra trận, ông dò được tin Lưu Bị hiện tạm trú ở Hà Bắc với Viên Thiệu. Ông liền vào từ tạ Tháo. Tháo không tiếp, ông viết thơ nhờ người trao hộ và đem hết vàng bạc mà Tháo đã cho từ trước mà niêm phong lại và treo ấn trên xà nhà rồi phò nhị Tẩu ra đi. Tháo thấy ông quá cương quyết nên kính phục vội vã đến tiễn ông.
    Thấy Tháo một lòng kính nể ông, nên các tướng dưới quyền của Tháo đâm ra bất mãn, ngăn chận các cửa ải không cho đi, ông buộc lòng phải đánh phá. Ngang ải Đông Linh giết Khổng Tú, đến Lạc Dương giết Hàn Phúc Mạnh Thân, tới Nghi Thủy quan trấn ải là Biện Hỷ cho quân phục xung quanh chùa định ám hại ông, nhưng bị ông sát hại hết cả. Đến Huỳnh Dương đang đêm Quan Thái Thú Vương Thực đến đốt trại, nhờ có mật báo ông thoát nạn và giết chúa tướng một cách dễ dàng. Khi đến Hoạt Châu bị Tần Kỳ ngăn trở cũng bị ông giết chết. Tính ra ông đã vượt qua năm ải và chém hết sáu tướng, nên người đương thời có câu khen tặng ông: “Ông quá ngũ quan, ông trảm lục tướng, ông về Hà Bắc, ông hợp đệ huynh”.
    Sau những lúc bôn ba lưu lạc, Quan Công gặp lại Trương Phi và Lưu Bị. Anh em cùng nhau đồng mưu đại sự. Ông giúp Lưu Bị nhiều chiến công oanh liệt. Nhưng dẫu tài trí có phi thường, nhưng cũng không vượt qua nghiệp số, nên sau ông bị Lữ Mông dùng câu liêm móc giật chân ngựa té xuống mà bắt. Quan Bình thấy cha bị bắt, nóng lòng chạy tới cứu cũng bị bắt luôn.
    Lữ Mông đem ông về cho Tôn Quyền. Quyền thương bậc trung cang nghĩa khí nên cho người dụ hàng. Quan Công khẳng khái đáp:
    -Ta cùng Lưu Hoàng Thúc kết nghĩa tại vườn Đào thề cùng sống chết, quyết lòng phục hưng cơ nghiệp nhà Hán. Nay ta bị bắt xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ cùng huynh trưởng ta mà thôi, chớ danh lợi khuyến dụ ta vô ích.
    Tôn Quyền nghe vậy, biết không thể phủ dụ được, lại sợ gương trước khi ông ở với Tào Tháo, nên truyền xử trảm cả hai cha con. Lúc đó Quan Công mới ba mươi tám tuổi.
    Bởi lòng trung cang nghĩa khí như vậy, nên sau khi chết, Quan Công được hiển Thánh và đến suối Ngọc Tuyền thọ giáo với Trí Giả Thiền Sư và sau chứng quả Già Lam Quan Đế.
    NGHĨA KHÍ: Khí tiết của bậc anh hùng. Thấy kẻ hoạn nạn thì ra tay giúp đỡ, gặp việc bất bình thì đem thân đỡ nâng can thiệp. Trường hợp Quan Công có thêm đặc điểm ân đền, nghĩa trả và không giết người dưới ngựa.
    KẺ NGHĨA KHÍ THIÊN KIM VẠN LƯỢNG: Là ý nói người có lòng nghĩa khí quí báu như ngàn vạn lượng vàng còn mãi trong sử sách. Trong Nang Thơ Cẩm Tú, Đức Thầy có viết: “Tiết trung lương hiếu nghĩa rạng ngần”.
    LŨ NỊNH THẦN: Bầy tôi gian tà nịnh tặc, vì tham lợi cá nhân mà nỡ hại dân nước (mãi quốc cầu vinh).
    NGƯỜI THIÊN CỔ: Người xưa, người đã từ trần một trăm năm về trước và đã có lòng ưu dân ái quốc, được ghi vào sử sách để dạy dân từ trước tới giờ.
    ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA: Theo Kinh sách xưa thì kẻ đầu trâu mặt ngựa là quỉ xứ ở cõi âm phủ. Mình và tay chân là người mà cái đầu lại giống con trâu hoặc ngựa.
    Nghĩa bóng là chỉ cho phường vô lại, chẳng biết thương người, chỉ lo sao được lợi ích riêng mình là được.
    CÁ LỤC CHÂU: Chỉ cho các loại cá tham ăn mê mồi bất kể là thơm thúi trong sạch, như cá Sát hoặc cá Út chẳng hạn, khắp nước nơi nào có động nước là chúng đến.
    Nghĩa bóng là nói kẻ tham mê quyền lợi, sâu dân mọt nước. Trong bài Bạc Liêu, Đức Thầy có nói:
    “Lưng chừng bèo dạt thân hành đạo,
    Bị lũ a dua cá út thiều”.


    CHÁNH VĂN

    181.-Cấp-Cô-Độc là nhà bá hộ,

    Còn đành lòng bố-thí xả thân.
    Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
    184.-Miễn hiểu đạo hơn là châu-báu.
    Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão,
    E sau nầy tâm-não đoạn-trường.
    Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
    188.-Trời đất xử những người bội phản.
    Phải chổi dậy nương dây hùng-tráng,
    Chữ đại-hùng đại-lực từ-bi.
    Vậy mới trang quân-tử nam-nhi,
    192.-Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 181 tới câu 192)
    Đoạn giảng trên, Đức Thầy nhắc lại truyện ông Cấp Cô Độc là một phú trưởng giả, sanh đồng thời với Đức Phật Thích Ca. Ông có lòng kính tin Tam Bảo và bố thí cao độ, ông thường đem vàng bạc nuôi kẻ neo đơn cô quạnh và xây cất Kỳ Viên Tịnh Xá để Phật có nơi thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Sau cả nhà đều tu hành chứng quả. Cho đến bây giờ Kinh sách vẫn còn chép ghi sử nghiệp của ông mãi mãi.
    Đức Thầy kêu gọi bá tánh sớm thức tỉnh tu hành, nếu mãi e dè nghi hoặc sợ Ngài, tất sau nầy phải gánh chịu nhiều nỗi đau thương gian khổ. Bởi tới đây Trời Phật sẽ phân xử, giáng tai nạn cho kẻ gian hùng, hai dân hại nước.
    Ngài kêu gọi khắp chư môn Phật tử hãy sớm trổi dậy nương theo ánh sáng đức Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi của Phật để xứng đáng là người trượng phu quân tử và cũng để gìn tròn bổn phận hiếu trung ngay thảo.

    CHÚ THÍCH
    CẤP CÔ ĐỘC TRƯỞNG GIẢ: Ông sanh đồng thời với Phật. Vốn là một triệu phú, giàu có hơn hết những người quanh vùng. Ông tên thật là Tu Đạt Đa (Sadatta).
    Sở dĩ người ta ca ngợi ông là Cấp Cô Độc là vì ông từng bỏ tiền ra nuôi kẻ cô quạnh neo đơn.
    Hôm nọ ông có dịp đi buôn qua Vương Xá, ông ghé lại Tịnh Xá Trúc Lâm để nghe Phật thuyết pháp. Sau khi được nghe pháp, ông chứng quả Tu Đà Hoàn.
    Lòng tin tưởng Phật pháp phát lên cao độ, ông liền trình với Đức Phật cho ông xây cất một Tịnh xá để Phật thuyết pháp và có nơi an cư nhập hạ cho chư Tăng. Được Phật chấp nhận, ông trở về nước hỏi mua miếng vườn của Thái tử Kỳ Đà. Hai bên với sự đồng ý là người mua đem vàng lót tới đâu thì người bán giao đất tới đó.
    Cấp Cô Độc đem vàng lót hết đất trong vườn cây của Thái Tử, nhưng còn cái gốc cây chưa lót được. Ông đang đứng suy nghĩ phải làm sao lót cho giáp đất. Thái Tử thấy vậy tưởng lầm ông còn tiếc của, nên nói: Ông bằng lòng thì mua, bằng sợ hao vàng thì thôi, của tôi còn của tôi.
    Cấp Cô Độc mỉm cười đáp:
    -Chẳng phải tôi tiếc của mà đang suy nghĩ phải chở kho vàng nào đem lót cho vừa. Nói rồi, ông cho người tiếp tục chở vàng đến lót. Thái Tử thấy vậy cũng phát tâm hoan hỉ, nói:
    -Thôi ! Tinh thần ngưỡng mộ Phật pháp của ông đã đáng kính rồi. Còn lại chỗ trống các gốc cây thì để phần tôi.
    Do việc đó về sau ai ai cũng ca ngợi là “Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên” (Vườn sân Tịnh Xá là của Cấp Cô Độc, còn các cây cao rợp mát là của Thái tử Kỳ Đà).
    Từ đó, các bài thuyết pháp của Đức Phật phần lớn là xuất phát tại đây và liên quan đến các phương cách tu tại gia Cư sĩ.
    Về sau, hai ông bà Cấp Cô Độc và ba người con đều tu chứng quả.
    BÁ HỘ: Nhà giàu lớn có cả trăm thiên.
    BỐ THÍ: Bố là rải ra, thí là cấp cho. Người đem vật sở hữu của mình trợ cấp cho kẻ khác gọi là bố thí. Bố thí có 3 cách: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. (Xem thêm CT chữ Bố thí trong STTĐ, Q.1, trang 44).
    CHẦN CHỜ SỢ LÃO: Trù trừ giải đãi vì nghi sợ Đức Thầy gạt gẫm.
    HÙNG TRÁNG: Sức mạnh mẽ đủ hùng lực.
    CHỮ ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC TỪ BI: Ba từ ngữ nầy là để tán tụng công đức của Phật, dám lìa bỏ quách thành, thê tử đi tu gọi là chí Đại Hùng.
    Hàng phục đặng Ma Vương dưới cội Bồ Đề là chí Đại Lực.
    Sau khi đắc Đạo, không nỡ nhập Niết Bàn vẫn trụ thế giáo độ chúng sanh ấy là Đại Từ Bi.
    QUÂN TỬ: (Xem STTĐ, trang 334, cột 2).
    NGAY THẢO: Do câu “Trung quân vương, hiếu phụ mẫu”. Tức là trung chánh ngay thật với đất nước là trung, tôn kính và bảo dưỡng Ông bà Cha mẹ là hiếu thảo.

    CHÁNH VĂN

    193.-Đời cũng lắm bao người giá áo,

    Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
    Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
    196.-Quyết kiếm thế đặng toan lừa-dối
    Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
    Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng.
    Kịp nương theo trực chỉ Tây-Phang,
    200.-Đến Cực-lạc tìm nơi an-dưỡng.
    Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
    Lánh ta-bà cõi thế đua chen.
    Được vinh-hoa khinh-bĩ kẻ hèn,
    204.-Bạn phản bạn như người Bùi-Kiệm.
    Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
    Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
    Nhìn Trịnh-Hâm Lão bắt mủi lòng,
    208.-Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 193 tới câu 208)
    Đức Giáo Chủ nhận xét trong đời có lắm kẻ giá áo túi cơm, ăn hại của dân chúng chẳng có công sức gì đối với mọi người. Hễ thấy ai ngu khờ hơn mình thì chờm hờm tìm cách dối trá để thủ lợi.
    Vì lòng thương xót sanh linh, Đức Giáo Chủ mượn bút sắt ngòi nghiên thế cho bút lông giấy bạch (giấy quyến) như trước để viết ra Kệ giảng, vạch con đường sáng suốt cho mọi người bước theo nẻo Đạo. Đó là phần sự tướng, còn phần lý tánh thì Ngài dùng lòng cứng rắn như sắt đá để dìu nhơn sanh qua bể khổ. Ngài cũng khuyên khắp môn đồ Phật tử nương vào lòng cang cường ấy tiến thẳng về Tây Phương Cực lạc.
    Về ngoại cảnh thì Ngài cũng dùng sức mạnh của tinh thần định huệ mà dẹp tan và vượt qua bước gian truân khổ hải. Còn về nội tâm thì dùng sức thiền định để phá trừ dục vọng vô minh mà đạt quả Bồ Đề Chánh Giác, hầu lìa cảnh Ta bà thống khổ.
    Ngài cũng nhắc lại tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu sáng tác. Trong đó phần triết lý có đề cập tới Bùi Kiệm và Trịnh Hâm là hai người bạn không tốt, tìm mưu độc hại bạn Lục Vân Tiên, ngày kết cuộc phải bị trả quả một cách đớn đau nhơ xấu.

    CHÚ THÍCH
    GIÁ ÁO TÚI CƠM: Cái giá máng áo và cái túi đựng cơm, không giúp đỡ gì được ai. Nghĩa bóng chỉ cho hạng người chẳng ra gì. Ví dụ: Phường giá áo túi cơm chỉ biết ăn hại bá tánh.
    NGỌN BÚT SẮT: Ngòi viết bằng sắt thép. Thời xưa nước ta và người Tàu dùng viết mực bằng bút lông và nghiên mực. Thời Pháp thuộc thì xài bằng bút sắt và bình mực. Tất cả đều chỉ cho sự nghiệp văn chương, Đức Thầy có câu:
    “Bút lông dẹp với dĩa nghiên,
    Thế vào bút sắt cùng viên mực tròn”.
    (Hoài cổ)
    GẬY KIM CANG: Cũng viết là Kim Cương. Có hai nghĩa: Sự tướng và lý tánh. Về sự tưóng: Kim là vàng; Cang (cương) là hột soàn hay chất gan. Các chất nầy hòa lại rất cứng rắn, sắc bén (chặt sắt được). Về lý tánh có 3 đặc tánh cao quí: 1- Hơn hết các món báu. 2- Hơn hết các chiến cụ. 3- Không hư hoại. Nghĩa bóng : Là chỉ cho lòng thiết thực cứng rắn, nhà tu nhờ nó mà độ mình giúp chúng, trừ ma tà vọng hoặc ra khỏi sanh tử về đến Cực Lạc an cư.
    CẦY CÁO: Cũng gọi là cáo cầy. Hai loại thú rừng cùng một loại với chồn. Ở đây chỉ cho các loài thú rừng, hay phá ruộng rẫy mùa màng của mọi người. Nghĩa bóng: Là chỉ cho vọng tâm phiền não, dục vọng thất tình làm cho người tu không yên tâm niệm Phật để yên vui miền lạc cảnh
    THIỀN TRƯỢNG: Cũng gọi là Tích trượng, tức là cây gậy các nhà tu cầm nó đi đường làm cho yêu ma rắn rít không nhiễu hại ngăn chận được. Nghĩa bóng chỉ cho sự thiền định có diệu năng giúp hành giả trên đường tu dẹp tan được thất tình lục dục, lục căn, lục trần và các mê si tà kiến, ma nghiệp phiền não dể đạt được sự an định phát sanh trí tuệ, kiến tánh thành Phật. Cũng như lúc Ngài Sĩ Đạt Ta ngồi tham thiền dưới cội Bồ Đề dùng thần thông nghị lực thâu phục được Ma Vương (hiện thân của dục vọng) mà thành quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
    Đức Giáo Chủ hiện nay cũng khuyên môn đồ:
    “Quay về cội phúc đường chân Đạo,
    Phật pháp thiền na dốc thực hành”.

    TA BÀ: (Xem STTĐ, trang 361, cột 1, tập 1).
    VINH HOA: (Xem chữ Vinh Huê trong STTĐ, trang 475, tập 1, cột 2).
    BÙI KIỆM, TRỊNH HÂM: Hai nhân vật trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu thời cận đại, hư cấu ra để diễn tả người đời, tình bạn không tốt, thừa cơ hại Lục Vân Tiên rốt cuộc đều bị nghiệp quả báo đền.

    CHÁNH VĂN

    209.-Viết ít câu cho đời ngâm vịnh,

    Phận tài sơ xin hãy thứ tha.
    Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
    212.-Tạm nghiên bút vẽ tranh thế tạo.
    Trong bá-tánh nhìn xem châu-đáo,
    Chớ vội-vàng chê Lão ngu-si.
    Rạch lang-tâm những đứa vô-nghì,
    216.-Nhắc sơ tích người xưa trong sử.
    Khuyên bá-tánh vạn dân gìn-giữ,
    Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình.
    Đứng trung cang hành thiện truy kinh,
    220.-Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 209 tới câu 220)
    Tới đây, Đức Giáo Chủ dùng lời khiêm nhượng với vạn dân bá tánh cho dù có tài sơ trí siển song Ngài cũng nói ít lời cho mọi người xem coi học hỏi và có chỗ nào không vừa ý xin hãy thứ tha.
    Bởi lòng quá yêu sanh chúng nên Ngài mượn giấy mực và ít lời kệ cơ, vẽ thành một bức tranh cảnh đời mà tạo hóa sắp diễn ra để khắp vạn dân tìm xem học hiểu.
    Ngài nhủ khuyên bá tánh nên đọc hết qua kệ giảng và tìm hiểu cho thấu đạt nghĩa lý trong đây rồi sẽ quyết định. Chớ chẳng nên phê phán một cách vội vàng hời hợt. Bởi vì Ngài nhiệt tình đem tiếng nói tự đáy lòng để vạch rõ tâm địa xấu ác của bá tánh hiện nay cho mọi người hiểu rõ. Đồng thời Ngài cũng nhắc lại những tích trong Kinh sách thời xưa cho mọi người được nhớ mà chừa bỏ những thói hư tật xấu, gìn giữ mà học đòi các tấm gương thiện lương trung hiếu. Ngài cũng ước mơ cho khắp thế giới đều hưởng sự thái bình an lạc và mong ước mọi dân tộc đều biết thương yêu thuận thảo đoàn kết lẫn nhau trên đường tầm cầu chơn lý.

    CHÚ THÍCH
    TẠM NGHIÊN BÚT VẼ TRANH THẾ TẠO: Mượn bút mực và giấy viết họa lên bức tranh của cảnh trần sắp xảy ra mà do người đời tạo nhân từ xưa, giờ đây sắp đến ngày hưởng quả:
    “Nhìn vạn vật cuộc đời ngao ngán,
    Bởi hoàn cầu thù oán cứ gây.
    Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
    Vẻ tranh thiên tạo Bồng Lai cảnh tình.
    Lại thêm vẽ phù sinh cõi tạm,
    Dắt hồn người hắc ám khỏi mang”.

    (Đến làng Nhơn Nghĩa, Cần Thơ)
    XEM CHÂU ĐÁO: Xem xét một cách xác đáng tân tường.
    RẠCH LANG TÂM: Rạch là vạch ra. Lang tâm là lòng lang dạ sói. Ý chỉ Đức Thầy hiểu rõ lòng xấu xa sai quấy của mọi người để lo cải sửa.
    VÔ NGHÌ: Chẳng phải, trái lý đạo nghĩa.
    TRUNG CANG: Trung thành với quốc dân và nền Đạo nghĩa của nước nhà.
    TRUY KINH: Đọc hiểu và gìn giữ y theo những lời trong Kinh sách đã chỉ dạy, Đức Thầy từng khuyên:
    “Hành thiện truy kinh thị sĩ hiền,
    Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
    Phật tiền hữu nhựt vĩnh miên miên”.

    (Hiếu Nghĩa vi tiên)

    CHÁNH VĂN

    221.-Đã thấy lộ cơ trời báo ứng,

    Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
    Nợ hồng-trần túc-trái tiền-khiên,
    Ta quyết dẹp cứu nàn dương-thế.
    225.-Noi chí đức Hoàng Thang luật chế,
    Đời không hay những việc xa vời.
    Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
    Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
    229.-Cảnh thế-tạo càng ngày thỏn-mỏn,
    Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
    Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
    232.-Gặp Biển-Thước, Hoa-Đà lai thế.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 221 tới câu 232)
    Đoạn giảng trên, Đức Giáo Chủ cho biết cơ tận diệt sắp diễn ra để chọn lọc hiền còn dữ mất, dân chúng khắp nơi phải chung chịu: Nào thế chiến thứ hai, nào thiên tai địa ách sắp xảy ra liên tiếp.
    Đây là do lòng bạo ác của số người gieo nhân, giờ đây phải chịu luật quả báo trừng phạt:
    “Luật trời báo ứng nhãn tiền,
    Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ đây
    .(SG, Q.1)
    Vì thế, những người có trách nhiệm cứu dân độ thế như Đức Thầy đã trừ dứt nợ oan khiên, tu bồi tâm đức từ nhiều tiền kiếp. Giờ đây trở lại khuyến hóa nhân sanh đồng gieo nhân từ thiện để kịp vượt qua thời kỳ chọn lọc.
    Công cuộc cải tạo đời tân, Đức Giáo Chủ khuyên mọi người có bổn phận noi theo chí đức của vua Thành Thang đời Hạ Kiệt thuở trước, để thi hành cho đúng đức độ của Đạo làm người nhân, hiếu, tiết, nghĩa song toàn. Chính đó là cái nhân tạo nên cảnh đời Thượng nguơn Thánh đức sắp tới.
    Cảnh đời chúng ta đã tạo và đang sống, nó sẽ bị tiêu hoại trong một ngày gần đây, không còn xa lắm. Như người có bịnh đang bị các vi trùng từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể, cộng với bên trong đang hoại phá, làm cho ngũ tạng của ta phải đau khổ giày bừa cho đến khi biến đổi cuộc đời. Đức Thầy hằng khuyên: Ai muốn thoát ly cảnh huống ấy phải tự xét mình: Nếu bịnh về bên ngoài tất phải tìm Bác Sĩ, danh y giỏi điều trị. Còn tâm bịnh và dục vọng phiền não thì phải tìm cho được Tiên y, Phật dược, như hai vị thần y đời Xuân Thu và Tam Quốc (Biển Thước, Hoa Đà) rồi hành y theo lời dạy của các ông ấy mới mong kết quả.

    CHÚ THÍCH
    CƠ TRỜI BÁO ỨNG: Cơ trời là máy trời, báo ứng là đáp lại, trả lại. Đây là chỉ cho luật báo ứng của nhân và quả, hành thiện kết quả lành. Tạo nghiệp ác hung thì kết quả dữ. Đức Giáo Chủ từng cho biết:
    “Luật trời báo ứng nhãn tiền,
    Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ đây”.
    (SG, Q.1)
    Và:
    “Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai
    .(KT,Q.5)
    Hoặc là:
    “Đời xưa quả báo thì chầy,
    Đời nay quả báo một giây nhãn tiền
    .(SG, Q.3)
    DIỆT LOÀI GIAN: Cơ chọn lọc của Trời Đất tiêu diệt số người hung ác, chọn lại những con Tiên cháu Phật để lập lại đời tân. Đức Thầy diễn tả cơ chọn lọc hiền còn dữ mất ấy:
    “Diệt kẻ quấy lọc lừa dân lương thiện.
    Mong tạo hóa sắp xong tuồng cổ điển,
    Đặng nhân sanh kiến cảnh thái bình hòa”.

    (Không buồn ngủ)
    NỢ HỒNG TRẦN: Nợ thế, nợ trong cõi trần gian. Người sống trong cõi hồng trần ai ai cũng đều có vương nợ và phải đền trả. Ví như: Nợ đời gia đình con vợ…Còn nữa: tức nợ Tứ ân, nợ Tam nghiệp. Đức Thầy có khuyên:
    “Tu đền nợ thế cho rồi,
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.

    TÚC TRÁI TIỀN KHIÊN: Nghiệp nợ do mình gây tạo kết cấu oan trái rất nặng nề đã gây tạo nhiều kiếp trước, giờ đây đã đầy đủ (chín mùi) tất phải chịu báo ứng. Đức Thầy có câu:
    “Những nỗi tiền khiên gây lắm nợ,
    Đời nầy trả dứt mới mong cầu”.

    (Cho cô Hai Gương, Cần Thơ)
    Còn món nợ đặc biệt nữa là nợ vì chúng sanh và Đạo pháp. Như Đức Phật Thầy Tây An đã nói:
    “Nợ tiền khiên Bồ Đề giống trước,
    Vẹn một mình mới vẹn ba phân”.

    Đức Thầy nay cũng nói rõ:
    “Nợ cùng bách tính hãy còn vương”.
    Từ ngữ nầy, Đức Thầy có dụng ý cho biết ai muốn độ mình và cả chúng sanh thì trước phải trả dứt nghiệp nợ oan khiên nói trên mới mong kết quả.
    CHÍ ĐỨC HOÀNG THANG: Tâm hành và chí đức hay chí khí của vua Thành Thang. Vua Thành Thang trước kia là một chư hầu của vua Thương, họ là Từ Thị, hiệu là Thiên Ất hay Thành Thang, mình cao 9 thước (thước Tàu hồi đó). Ông là người có đủ nhân từ đức hạnh.
    Một hôm vua Thành Thang đi du ngoạn ngoài thành thấy dân đánh cá lưới chim. Bủa lưới đủ bốn mặt xong, họ khấn vái: “Con nào từ trên trời đi xuống, từ bốn phương lội lại (đi tới) đều vào lưới ta”. Vua Thang nghe vậy liền than: Như vậy thì dân chúng bắt hết cá chim hay sao ? Ngài liền ra lịnh những người ấy dỡ hết ba mặt lưới và nguyện cầu lại:“Con nào muốn đi bên phải, bên trái thì cứ đi, con nào không vang lịnh thì đi vào lưới ta”.Các nước chư hầu nghe vậy đồng khen Vua Thang là người có nhơn đức, biết thương yêu cả chim muông điểu thú.
    Sau vua Thành Thang rước được một bậc kỳ tài ẩn sĩ, tức là ông Y Doãn ở đất Hữu Sằn về giúp. Thấy bậc hiền tài, vua Thành Thang đem dâng cho vua Kiệt. Vua Kiệt không dùng nên ông Y Doãn trở về hợp chư hầu phò vua Thang đem quân vào bắt vua Kiệt đày ra đất Nam Sào, nay thuộc tỉnh An Qui.
    Nhà Hạ bị diệt từ đó. Vua Thành Thang đuổi Hạ Kiệt xong, lên ngôi Thiên Tử, đóng đô ở đất Bạc, lấy hiệu là nhà Thương. Vua Thang họ Tử Thị cũng gọi là dòng vua Huỳnh Đế. Nhà Thương trị vì được 661 năm truyền đến vua Bàn Canh thì dời đô qua đất Bạc và đổi hiệu là nhà Ân…
    HOÀNG THANG LUẬT CHẾ: Vua Hoàng Thang bỏ luật của Hạ Võ, chế lại luật pháp mới hợp với lòng dân, tạo nên cảnh đời an lạc suốt con cháu, truyền suốt 661 năm.
    Một hôm ông đi du ngoạn ngoài đồng thấy những người đi săn đang bủa lưới bốn hướng và khấn vái: “Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều võ mảnh lưới ta”.
    Ông Thang nghe lời nói ấy, liền than thầm. Như vậy muông cầm điểu thú bị bắt hết còn gì !
    Ông liền truyền lịnh mở rộng bốn phía lưới, bảo các thợ săn nguyện vái lại: “Muốn qua thì qua muốn lại thì lại, ở trời sa xuống, ở đất chun lên, muốn ra chạy ra. Con nào hết mạng sống thì vào lưới ta”.
    Bấy giờ các thú đều thoát ra chỉ còn số ít bị kẹt lại, đời sau người ta thường nói: “Mở lưới Thành Thang” tức là muốn nhắc lại lòng nhơn đức của vua Thành Thang.
    Sau đó, ông liền chế ra các điều luật để ổn định đời sống của nhân dân như sau:
    1.-Chánh Thất Tiết: Trên thì vua luật nước phải phân đoán công bình cho bá tánh. Dưới các quan phải thẩm xét cho được ngay thẳng để dân chúng được nhờ.
    2.-Nữ Tiết Hạnh: Không được bắt gái đẹp sung vào cung vua, và các cô gái hạnh nết luôn giữ nghiêm chỉnh không nên học thói lăng loàn.
    3.-Dân Thất Chức: Kêu gọi và giúp đỡ dân thất nghiệp, lo cho đời sống khỏi bị đói khó nghèo khổ.
    4.-Bảo Thơ Hành: Không được ỷ mình quan lớn hiếp đáp quan nhỏ, mà phải đối xử bình dân và biết thương yêu lẫn nhau như con đỏ.
    5.-Sung Cung Thất: Từ vua đến dân nhà cửa đều như nhau không phân biệt. Nếu có tiền, dân quan vẫn được quyền xây cất nhà cao cửa rộng như nhau.
    6.-Phàm Phụ Xướng: Những kẻ nịnh bợ quan thần đều bị sa thảy (cách chức hết). Chỉ chừa lại các quan thanh liêm chánh trực mà thôi.
    Nhờ các điều luật chế đó mà vua Thành Thang huấn luyện các chư hầu và cả nước đều đối xử thái bình an lạc hơn 6 thế kỷ (661-1783, trước Tây lịch Kỷ nguyên).
    Do đó, giờ đây Đức Thầy cũng khuyên các nhà cầm quyền hiện tại: Muốn cho nước mình được an cư lạc nghiệp, nên noi theo chí đức của vua Thành Thang mà thành lập pháp trị trong nước.
    CHO TƠI: Tơi là áo mưa, tức áo che mưa. Xưa, người ta kêu áo che mưa là áo tơi. Đây nói người hảo tâm hay giúp người qua cơn khi gặp trời mưa rét lạnh.
    TỪ BI GIÚP NÓN: Khi gặp cơn nắng hạn thì giúp nón để bớt cơn nóng bứt. Vậy chữ “cho tơi giúp nón” là nói đến người có lòng nhơn (từ bi) hay cứu khổ nhân sanh lúc nguy nghèo.
    CẢNH THẾ TẠO: Cảnh đời hay cả thế giới con người đang sống và mọi sự sang hèn vui khổ là do tâm nghiệp của người đã gây tạo từ trước, bây giờ đáo lại (gieo gió gặt bão).
    CÀNG NGÀY THỎN MỎN: Ý nói quả địa cầu chúng ta đang sống một ngày một mòn lần đến khi hoại hẳn.
    GIỐNG VI TRÙNG: Từ ngữ nầy chỉ chung các vi sinh vật rất nhỏ bé phải dùng kính hiển vi mới thấy được, thường hay gây bệnh cho con người, như vi khuẩn, nguyên do sinh động vật các nấm. Nghĩa bóng là chỉ cho những người gian tà hung ác hay quậy phá sanh vật và vũ trụ hoặc do thiên tai địa ách, chiến tranh đói đau, khổ nạn đều do tâm và nghiệp của con người gây tạo giờ đây bị trả lại.
    PHƯƠNG THUỐC PHẢI TÌM: Bịnh do vi trùng phá hoại ngũ tạng, phải tìm cho được danh y Thánh dược như Biến thước Hoa Đà. Còn căn còn bịnh do luân hồi quả báo thì phải tìm Đức Phật và chư Bồ Tát rồi thực hành theo lời dạy của các Ngài mới mong kết quả.
    BIẾN THƯỚC: Là tên một vị Thánh Y, Trung Hoa, được mọi người tôn là Thánh Tổ trong nghề làm thuốc, vì ông có tài cải tử huờn sanh. Ông sanh đồng thời với Hiên Viên Huỳnh Đế.
    Thời Đông Châu Liệt Quốc có người tên Trần Hoản tự là Việt Nhân rất thông y học. Ông ngụ tại đất Lư Thông nước Tề nên được người ta gọi là Lư Y. Sau đó Trần Hoản có một quán xá, đối đãi rất tử tế một bậc dị nhân là Trường Tranh Quân. Tranh Quân cảm ơn hậu liền tặng cho Trần Hoản một viên thuốc uống vào thấy được mọi việc xảy ra, dầu tà ma quỉ quái cũng thấy được. Nhờ đó, khi xem mạch Trần Hoản thấy rõ ràng ngũ tạng lục phủ của người bịnh. Ông chữa bịnh được nổi tiếng thêm và sau được người đời tặng cho danh hiệu là Biến Thước tiên sinh, để gọi Trần Hoản cũng như Biến Thước được Trần Hoản tái sanh.
    Trong lúc ông sang chơi bên nước Quắc, gặp Thái tử bên nước ấy ngộ cảm mà chết, được ông cứu sống lại. Nhờ đó Biến Thước (Trần Hoản) nổi danh là một y sĩ cải tử huờn sanh. Chính Biến Thước vào yết kiến vua Tề Hoàn Công đã đoán bịnh ba lần mà vua Tề không nghe theo, quả nhiên sau khi Biến Thước rời khỏi nước Tề, vua Hoàn Công bị bịnh mà băng hà.
    HOA ĐÀ: Ông là người đời Đông Hán ở đất Tiểu quận, nước Bái, tức là nguyên quán. Nổi tiếng làm thầy thuốc, giỏi về thuật châm cứu, lại biết rành về khoa mổ. Trong đời ông đã cứu được nhiều người bịnh nguy ngập.
    Kẻ nào đau trong ngũ tạng, lục phủ khó chữa thì Hoa Đà cho uống một thang “Ma Phế” khiến cho người bịnh mê man như chết, rồi dùng dao bén mổ bụng ra, lấy thuốc rữa tạng phủ mà người bịnh không hề đau đớn. Sau đó, ông lấy thuốc rịt vào và lấy kim vá lại, độ vài mươi hôm hay một tháng người bịnh sẽ khỏi. Chữa bịnh nào, Hoa Đà cũng tỏ ra am hiểu tường tận về căn bịnh ấy sẽ khỏi ngay tức khắc. Nhưng đặc biệt nhứt là khi trị vết thương cho Quan Công, lúc Quan Công vây Phàm Thành, vì không đề phòng bị quân Tào Nhân bắn tên độc trúng cánh tay mặt không cử động được. Hoa Đà xem vết thương xong cho biết: Tên có tẩm thuốc ô dầu rất nguy hiểm, nếu không chữa sớm thì cánh tay sẽ hỏng. Tuy nhiên lối chữa nầy đau đớn lắm, chỉ sợ Tướng công ghê rợn mà thôi.
    -Chữa cách nào mà ghê rợn vậy ?
    -Bây giờ phải tìm chỗ kín đáo, chôn một cây cột thật chắc, phía trên xuyên một vòng sắt lớn để lồng cánh tay Ngài vào đó, dùng giây thừng buộc chân vào cột, lấy cái khăn chùm kín đầu lại. Sau đó, tôi mới dám dùng dao nhọn rạch da, khoét đi chỗ thịt làm độc, gọt thẳng vào chỗ bị bắn, nạo hết chỗ xương ngấm độc, lấy thuốc rịt vào và dùng chỉ khâu lại sẽ khỏi ngay. Quan Công nói:
    -Tưởng gì khó chớ việc như vậy cần gì phải đóng cọc với vòng cho thêm phiền.
    Nói rồi ông sai quân bày tiệc thiết đãi, uống được mấy chén rượu rồi chìa tay cho Hoa Đà mổ. Hoa Đà lại bảo ông hãy lấy khăn che mặt cho khỏi ghê. Quan Công bật cười bảo:
    -Ông cứ tự nhiên!
    Thấy Hoa Đà còn phân vân, Quan Công sai quân hầu bày bàn cờ , mắt chăm chú vào bàn cờ, tay trái đánh cờ, tay mặt đưa cho Hoa Đà mổ một cách tự nhiên.
    Hoa Đà cầm dao thật sắc, sai quân nâng cái chậu lớn ở phía dưới cánh tay để hứng máu, Hoa Đà nhắc lại lần nữa, Quan Công bảo:
    -Cứ việc mổ xẻ tự tiện, mình không phải là hạng tầm thường đâu.
    Hoa Đà đưa mũi dao rạch toạt lằn da bên ngoài, khoét bỏ miếng thịt hỏng, gọt thẳng vào tận xương thì thấy chỗ xương ấy đã xanh xám lại. Hoa Đà đưa dầu lưỡi dao gọt nà nạo mạnh tiếng kêu nghe rởn tóc gáy, mọi người đều xanh mặt không dám nhìn. Nhưng Quan Công vẫn thản nhiên ngồi uống rượu nhắm thịt, dùng tay chỉ bàn cờ và nói tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra, mặt không lộ vẻ đau đớn. Một lúc sau máu đầy cả chậu. Hoa Đà đã nạo sạch chỗ xương ngấm độc, liền dùng thuốc rịt chỗ mổ, lấy chỉ khâu lại. Khi làm xong thì Quan Cộng cười và nói to lên với các tướng: Cánh tay ta đã co duỗi được rồi, không còn thấy đau đớn nữa. Ta chưa hề thấy ông thầy thuốc nào giỏi như thế nầy. “Tiên Sinh quả là Thần Y”.
    Hoa Đà vội đáp:
    -Cả đời làm thuốc, tôi chưa thấy ai gan đến thế, Tướng quân quả là Thiên thần. Nói xong, ông để lại cho phương thuốc trị liệu và dặn phải tịnh dưỡng trong 100 ngày thì bịnh sẽ lành hẳn. Nói rồi ông từ giã ra đi, không nhận món gì, dầu Quan Công hết lòng cầm lại.
     
  12. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    CHÁNH VĂN

    233.-Kim với cổ nhìn xem thế-hệ,
    Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
    Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền,
    236.-Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.
    Ai coi qua xin đừng bỏ lảng,
    Gắng công-trình vạch lá tìm sâu.
    Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
    240.-Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.
    Điên nhơn-nghĩa điên vì Đạo cả,
    Thôi chào đời khép cửa buồn duyên.
    Có thiện-căn sớm lại cửa thiền,
    244.-Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.
    Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.

    Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 233 tới câu 244 và Hết)
    Đoạn giảng trên, Đức Thầy khuyên môn đồ hãy bình tâm xét nghiệm: Hành động con người từ thế hệ xưa đến nay những tấm gương tu thân hành đạo, hư nên tốt xấu mà học đòi hay xa lánh. Nếu không được vậy, e có ngày phạm tội với Trời Đất. Tới đó dầu ta có xin tha thứ cũng khó đặng.
    Những điều đục trong tốt xấu như thế nào, cho đến cơ mầu diệu của Trời Đất, Ngài cũng phân tách một cách sáng tỏ trong bài giảng nầy. Viết đến đây Ngài sắp dừng bút, nhưng lòng thương khắp bá tánh vạn dân vẫn chưa hết.
    Vậy ai có xem qua xin đừng thờ ơ quên lãng mà hãy nghiên cứu xét suy từ chữ để tìm ra lý nghĩa tu hành. Hiện tình, chúng sanh rất may mắn gặp lúc Đức Thầy ra đời mở cơ phổ hóa, ví như đem nước cam lồ tưới mát cho hoa kiểng được tươi nhuận. Vậy chúng ta còn chần chờ chi nữa mà chẳng lo hứng lấy nguồn Giáo lý ấy để làm hành trang trên đường sang đất Phật.
    Đoạn kết của bài “Diệu Pháp Quang Minh”. Ngài nhắc lại danh từ Điên một lần nữa để môn đồ lưu ý. Tuy Điên nhưng Điên vì nền nghĩa nhân Đạo đức chớ chẳng phải là Điên thật. Đó là Ngài muốn đối phương bớt ngờ vực làm trở ngại sự Hoằng Pháp và cũng thức tỉnh số người hay chê bướng chê càng ít chịu suy xét cho thấu đáo.
    Sáng tác đến đây Ngài tạm dừng bút, u buồn cho số phận của mình: Việc Hoằng Pháp lợi sanh còn nhiều trở ngại. Tiếng kêu gọi sau cùng là người có thiện căn thiện chí hãy sớm tỉnh ngộ trở về với gốc lành cội cũ và rán làm lành niệm Phật, tu tâm dưỡng tánh cho đến ngày chung cuộc, để được hưởng cảnh huy hoàng của ngày Thượng nguơn Thánh đức sắp tới đây.

    CHÚ THÍCH
    KIM CỔ: Xưa và nay. Đây có ý chỉ dạy hành giả phải suy xét cho kỹ chuyện thời xưa và hiện nay để lập thân hành đạo. Như Ngài thường kêu gọi:
    “Đời phải biết suy kim luận cổ,
    Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh Hiền”.

    THẾ HỆ: Thế là đời; Hệ là một hệ thống có quan hệ với nhau. Nghĩa chung là thời cùng một số tuổi ngang nhau, như thế hệ cha hay thế hệ con cháu hoặc là số người và sinh vật sống trong một thời hay trong giai đoạn từ xưa đến nay.
    HOẠCH TỘI Ư THIÊN: Xuất phát từ câu Tục ngữ của chư Phật Thánh: “Hoạch tội ư thiên nhi thiện đảo giả”.( Đã phạm tội với Trời Đất, dầu có cầu xin cũng khó được).
    NẺO ĐỤC TRONG: Hai con đường, một đi vào chỗ nhơ xấu tội lỗi. Hai, con đường đi đến chỗ trong sạch chơn chánh thanh khiết. (Đường tà nẻo chánh).
    “Chọn bến nước rủi may trong đục,
    Nếu chần chờ lục đục trễ chơn”.

    CẠN TỎ CƠ HUYỀN: Cạn tỏ là bày nói rõ, rất rõ ràng. Cơ huyền: Việc cao sâu mầu diệu trong bộ máy tạo hóa. Hiểu chung hết câu có nghĩa: Từ việc đục trong hư nên tốt xấu cho đến thiên cơ đạo lý, Đức Giáo Chủ cũng nói hết cho chúng sanh rõ:
    “Việc Thiên cơ Khùng tỏ hết trơn,
    Cho trần hạ tường nơi lao lý”.

    MỰC ĐÃ CẠN: Bình mực đã hết và cạn. Ý nói Đức Thầy viết bài Giảng đến đây sắp dừng bút.
    LÒNG YÊU CHẲNG MÃN: Tâm thương xót chúng sanh để ban vui cứu khổ cho muôn loài lúc nào cũng chứa chan không hết, không nản lòng thối chí:
    “Lòng yêu sanh chúng luân chuyển kiếp,
    Dạ ái dương trần đổi xác thân”.

    BỎ LÃNG: Quên lãng, bỏ qua không siêng năng với công việc đang làm. Ở đây nói đến việc tu hành đạo đức.
    VẠCH LÁ TÌM SÂU: Vạch là cành trong thân cây đã trồng để bắt sâu bọ ra. Có 2 nghĩa: 1.- Như làm rẫy, hoa, kiểng phải bắt hay diệt hết sâu bọ rầy mò mới kết quả. 2.- Những phiền não vọng tâm hay quậy phá tâm trí ta, khiến tu lâu thành Đạo. Cho nên Đức Thầy bảo mỗi hành giả nên nhìn kỹ vào tâm mình để lọc hết vô minh phiền não ra. Và phải cố gắng siêng năng thật hành, không nên nản lòng thối chí.
    Đức Giáo Chủ thường nhắc nhở:
    “Lúc làm rẫy rủi nhiều sâu bọ,
    Rồi ngẩn ngơ bỏ giống hay sao ?”

    Nên Ngài thường khuyến khích:
    “Giết cho sạch những loài sâu bọ,
    Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng”.

    Nếu chúng ta siêng năng kỹ lưỡng việc tu thì ắt đặng: “Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông”.
    MƯA NGÂU: (Xem CT trong các bài trước).
    GIỌT SƯƠNG ĐÔNG HẠ: Giọt sương của giữa mùa Đông và mùa Hạ rất mát mẻ như nước cam lồ, nên dụ cho nguồn Giáo Lý của Phật Pháp. Cũng ví như các nhà nông gọi các mùa lúa Đông Xuân, Hè Thu và Thu Đông. Vậy chữ Đông Hạ là giữ mùa Xuân và mùa Hè (Hạ). Còn mùa Thu ngày rắm tháng 8 chính là giữa mùa Thu. Ngày Đức Giáo Chủ bắt đầu viết Sấm Giảng Kệ Kinh, mùa Thu có mưa phùn mát mẻ, do điển tích mưa Ngâu (Ngưu Lang Chức Nữ trùng phùng nhau). Cho nên trong giáo lý PGHH chỉ mùa Thu có nguốn mưa pháp như nước cam lồ tưới cho các gốc lành (Thiện căn) được sum sê nẩy nở. Như Đức Thầy từng cho biết:
    “Giảng nầy ra cuối mùa Thu,
    Dạy ăn dạy ở chữ tu vuông tròn”.

    Và: “Đến trung tuần tháng tám Ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Đìen mượn bút mực tiết lộ lấy thiên cơ truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn năn cải hóa làm lành..”.
    BUỒN DUYÊN: U buồn cho số phận của riêng mình. Lúc mới ra đời phổ hóa chúng sanh chưa được hanh thông lắm. Đức Thầy lại phải lâm vòng Pháp nạn, khiến cho người tu gặp nhiều trở ngại
    THIỆN CĂN: Căn lành (Xem thêm CT chữ Căn lành trong STTĐ trang 435, tập 1, cột 2).
    CỬA THIỀN: Cửa Đạo. Ý chỉ cho đạo Phật.
    NIỆM PHẬT: Niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Ý chỉ khuyên người lo niệm Phật làm lành (tu theo Tịnh Độ Tông). Chuyên lo làm lành niệm Phật để cầu Đức Phật A Di Đà tiếp độ linh hồn mình cùng người sang cảnh giới an lành trong sạch (Cực Lạc) của Ngài. Đây ý khuyên mọi người lúc nào cũng giữ tâm tinh tấn Niệm Phật và làm lành, để tiến đến chỗ trọn lành trọn sáng.
    CHUNG CUỘC: Kết cuộc (mãn tuồng). Nghĩa bóng là Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ Phật Tử nên ẩn nhẫn niệm Phật làm lành cho đến ngày chung cuộc sẽ biết ai còn ai mất.
    NAM MÔ ĐỊNH TÂM VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT: Đây là danh hiệu của vị Bồ Tát Đẳng Giác đã có đại nguyện để cứu độ chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp. Ngài có thệ nguyện giúp cho các hành giả, trước khi sáng tác hay đọc tụng Kinh giảng nên niệm đến danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ giúp cho tâm tánh an định, nội ma phiền não đều tan biến vượt qua các chướng ngại cản ngăn thử thách.
    Do đó, khi sáng tác xong bài “Diệu Pháp Quang Minh” chính Đức Thầy niệm danh hiệu của Bồ Tát Định Tâm Vương và Ngài cũng có dụng ý cho tín đồ hành theo.

    4.- SA ĐÉC

    XUẤT XỨ
    Khoảng cuối năm Kỷ Mão (1939) và đầu năm Canh Thìn (1940), nhà cầm quyền Pháp ra lịnh cho hai viên Quận Trưởng: Tân Châu và Chợ Mới theo dõi Đức Thầy từ ngày mới khai Đạo tới giờ, để tìm đủ điều kiện bắt Ngài đem đi, nên họ tổ chức rình rập hạch hỏi đủ cách.
    Sự theo dõi kéo dài, mãi đến ngày 12 tháng 4, họ mới bắt Ngài đem lên tỉnh Châu Đốc. Hai giờ sau là đưa luôn Sa Đéc, làm việc suốt hai ngày. Đến đêm thứ ba nhằm ngày rằm tháng 4, tức là đêm xét việc sau cùng, viên cò BAZIN Chánh chủ sở Mật thám Sa Đéc mời Ngài ngồi ghế đối diện. Đầu tiên, y chỉ bốn quyển Sấm Giảng (tang chứng) đang để sẵn trên bàn, hỏi:
    -Bốn quyển Giảng đó có phải ông viết ra chăng ?
    Đức Thầy đáp:
    -Đúng là của tôi sáng tác.
    Viên Cò hỏi tiếp:
    -Vậy thì hiện giờ ông hãy viết trước mặt tôi và mọi người đang ở đây một bài tương đối như vậy, có được không ?
    Đức Thầy mặc nhận bằng cách gật đầu, đoạn rồi Ngài ngồi xây mặt ra phía trước. Ngài vừa viết và vừa đọc lớn lên cho mọi người cùng nghe, suốt hai tiếng đồng hồ, ai nấy nghe qua đều ngạc nhiên thầm kính: Chưa từng thấy ông Thầy nào đủ tài đức như vậy. Do đó bài giảng nầy được mang tựa đề là “SA ĐÉC”.

    VĂN THỂ
    Đây là một bài vận văn (văn vần) thể thơ Thất ngôn trường thiên, lối khuyến tu hay thuyết giáo, dài 172 câu. Khởi đầu bằng các câu:
    “Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
    Cửa thiền môn còn hỡi khóa then”.

    Và chấm dứt bời các câu:
    “Trong bá gia tìm đạo quá mòm,
    Thôi giã thế ước mong đời thạnh”.

    Chủ đích Đức Giáo Chủ muốn diễn tả định luật: Bi, hoan, ly, hiệp và sự gian lao khổ khó của những người có trách nhiệm đang hoằng truyền Phật pháp.

    NỘI DUNG
    Đây là một bài Giảng đặc biệt lời văn lúc thì kiên cường sắt thép có lúc lại mềm mỏng dẻo dai, cũng có khi lâm ly thấm thiết. Trước nhứt Ngài bày tỏ ý chí của mình đang đương đầu với thời Pháp nạn:
    “Cơn dông tố mịt mù bụi cát,
    Chẳng nao lòng của Đấng Từ Bi”.

    Kế đó, Ngài bày tỏ tâm nguyện và lòng bác ái xót thương dân chúng và tìm phương cứu khổ cả vạn loại chúng sanh, nên sự thành bại của dòng đời Ngài chẳng nao núng lòng, vì Ngài đã phát nguyện gánh chịu mọi đau khổ cho chúng sanh:
    “Muốn lập đạo có câu thành bại,
    Sự truân chuyên của khách thiền môn.
    Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
    Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.

    CHÁNH VĂN

    1.-Nhìn cuộc thế bộn-bề sóng dậy,
    Cửa thiền-môn còn hỡi khóa then.
    Nương xứ xa tạm viết với đèn,
    4.-Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Tuy sống trong cảnh bị người Pháp đàn áp bắt đi điều tra xét hỏi nhưng lòng Đức Giáo Chủ vẫn luôn nhớ đến sanh linh đang gặp cơn đồ thán, do cuộc đệ nhị thế chiến đang xảy ra, cũng như người đang đi thuyền gặp sóng bão tới tấp.
    Để cứu vãn tình thế Đức Thầy vừa khai mở nền Đạo mấy hôm phải dừng lại, nhưng hôm nay nhân dịp nhà cầm quyền Pháp đem Ngài xuống đây (Sa Đéc), lại ra lịnh cho Ngài được viết một bài Giảng trước mặt mọi người để thử xem trí năng và tài đức của Ngài đến cở nào. Nhân đây, Ngài liền mượn giấy mực của họ để bày tỏ tâm trạng của người đã hoàn toàn chứng đắc đạo quả.

    CHÚ THÍCH
    CUỘC THẾ: Cuộc đời, mọi cảnh vật, chung trong thế giới loài người. Đức Thầy có câu: “Cuộc thế trau dồi mượn tất hơi”.
    BỘN BỀ SÓNG DẬY: Nhiều việc rối rắm. Đây chỉ cho cuộc thế chiến thứ II sắp xảy ra, dân chúng gặp nhiều tai nạn sắp đưa đến.
    CỬA THIỀN MÔN: Cửa Đạo hoặc cửa chùa.
    KHÓA THEN: Cái chìa khóa và cái then gài cửa. Ý nói nền Đạo bị người Pháp ngăn chận chưa được truyền bá rộng. Ý Ngài muốn nói: “Từ nay cửa Khổng gài then, chờ Ta trở lại thì đèn hết lu”.
    LIỄU ĐẠO: Đắc đạo hoặc chứng đạo.

    CHÁNH VĂN

    5.-Sách có chữ thâm ân dục báo,
    Phận làm người hiếu-thảo noi gương.
    Ấy chẳng qua là đạo luân-thường,
    Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dậm.
    Non tuyết sương rú-rừng thăm-thẳm,
    10.-Đem thân phàm tầm đạo siêu-sanh.
    Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
    12.-Khắp bốn biển dân lành sùng bái.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 5 tới câu 12)
    Đức Giáo Chủ PGHH khai hóa nhân sanh với tôn chỉ Học Phật Tu Nhân. Phần Tu Nhân tức phận làm người, đức hiếu thảo đứng đầu. Ngài dạy môn đồ thật thi theo câu sách của Thánh Nhân: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai sanh ngã Phụ Mẫu cù lao, dục báo thâm ân hạo thiên võng cực”. Song đó là nền luân thường đạo lý.
    Còn về học Phật và tu Phật hãy noi theo gương của Đức Thích Ca thuở xưa. Vì muốn cứu khổ chúng sanh, mà Ngài đã sớm lìa quách thành thê tử, vợ đẹp con ngoan vào non Tuyết Lãnh chịu bao cực khổ gian lao, tìm ra chánh đạo để độ rỗi chúng sanh. Gương hy sinh tầm đạo ấy đã cách đây hơn 2.500 năm mà hiện giờ cả bốn biển năm châu người người vẫn còn sùng kính.

    CHÚ THÍCH
    THÂM ÂN DỤC BÁO: Muốn đáp ân sâu của Tổ tiên Cha mẹ. Đức Thánh đã dạy: Công cha sanh ta, ơn mẹ nuôi ta, thương thay công ơn cha mẹ sanh đẻ và nuôi dưỡng ta cho được lớn khôn như cù lao rất khổ nhọc. Muốn đáp ân sâu thật là trời cao khó sánh.
    LUÂN THƯỜNG: Giềng mối của Đạo làm người, gồm có Ngũ luân và Ngũ thường. Thời xưa dạy Ngũ Luân là đạo: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Thời nay thì đổi lại Quốc dân, Phụ tử nếu chưa có gia đình thì đổi Phu thê ra Sư đệ, Bằng hữu và Huynh đệ. Ngũ thường gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. (Xem thêm CT ở Q.6). Đức Thầy từng dạy: “Luân thường nặng nợ phải vai mang”. Và:
    “Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam cang trung trực người rằng ngu si”.

    PHẬT THÍCH: Đức Phật Thích Ca, cũng gọi là Đạo Phật, phát xuất từ xứ trung Ấn Độ (Nepal), cách đây trên 2.500 năm, do Đức Thích Ca làm Giáo Chủ.
    NON TUYẾT SAN: Cũng gọi là núi Tuyết. Ở Ấn Độ có dãy núi Hy Mã Lạp Sơn rất cao, quanh năm tuyết phủ đông giá lạnh ít ai vượt qua khỏi. Thế mà Đức Thích Ca vẫn lên đây tu hành chứng quả.
    ĐẠO SIÊU SANH: Đạo lìa khỏi sanh tử, đạt Niết Bàn. Đức Thầy đã xác định: “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
    BỐN BIỂN: Bốn biển lớn trong quả địa cầu chúng sanh đang sống: 1. Thái Bình Dương, 2. Bắc Băng Dương, 3. Ấn Độ Dương và 4. Đại Tây Dương.
    SÁU CHÂU: Cũng gọi là sáu tỉnh. Tức sáu tỉnh Châu thành cựu trào thời nhà Nguyễn. Gồm có: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang và Hà Tiên. Tới hồi Pháp thuộc thì đổi ra 20 tỉnh. Nói chung là chỉ chung miền Nam (Nam Kỳ Lục Tỉnh). Đức Thầy từng nói: “Lục châu Ta dạo bằng nay,
    Thấy trong lê thứ quá dài gian nan”.

    CHÁNH VĂN

    13.-Muốn lập Đạo có câu thành bại,
    Sự truân-chuyên của khách thiền-môn.
    Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
    16.-Ta chịu khổ, khổ cho bá-tánh.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 13 tới câu 16)
    Xưa nay, bất cứ mọi sự việc gì nếu có tổ chức hình tướng đều phải có chi phối bởi định luật thành bại. Nhưng sự xấu ác gian xảo thì trước thành sau bại. Còn các điều tốt lành chơn chánh, như những người có đạo đức thì phần nhiều là trước bại sau thành.
    Song sự thành bại ấy có khác nhau, hễ việc xấu ác thì khi thất bại bị mất luôn danh thể sự nghiệp và mạng sống. Còn việc tốt lành thì khi thành công thì thành công luôn vĩnh cửu. Đức Thầy đã xác định rõ:
    “Bại rồi, thành lại nên tuồng,
    Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma ha”.

    Đến như PGHH hiện tình đang gặp cảnh truân chuyên khổ khó trong giai đoạn vậy thôi. Đức Thầy còn nói rõ khi mà khắp bốn biển sáu châu đều biết Ngài đã có bản nguyện gánh chịu muôn ngàn khổ khó cho cả vạn dân, chớ chẳng phải riêng Ngài. Đó là thời PGHH phổ hóa được khắp đại đồng thế giới. Đó không phải là việc ước mơ, mà “Quyết cứu đời dùng đạo phổ thông” và:“Khắp bốn biển liên dây Hoà Hảo”.

    CHÚ THÍCH

    LẬP ĐẠO: Cũng gọi là khai mở nền Đạo: “Muốn cứu đời dùng Đạo phổ thông”. Và sách Thánh cũng dạy: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế dĩ hiển kỳ Phụ Mẫu hiếu chi thị giả”.
    TRUÂN CHUYÊN: Khó nhọc vất vả, như người đi thuyền bị sóng gió, nhồi dập làm lắc lư, phải chống đỡ rất khó khăn khổ nhọc. Ở đây chỉ cho PGHH đang đối đầu với thời kỳ Pháp nạn.

    CHÁNH VĂN

    17.-Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
    Chạm lợi quyền giàu có cạnh-tranh.
    Bước chông gai đường đủ sỏi-sành,
    20.-Đành tách gót lìa quê hương dã.
    Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
    Bởi sự thường của bực siêu-nhơn.
    Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
    24.-Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
    Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
    Chẳng nao lòng của đấng từ-bi.
    Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
    28.-Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 17 tới câu 28)
    Đức Giáo Chủ dùng lời lẽ bằng giấy trắng mực đen kêu gọi khắp vạn dân sớm lìa khỏi sông mê, bước lên bờ giác. Muốn thế mỗi người đừng ham luyến lợi danh quyền tước và chẳng nên tranh đấu làm chi rồi cuộc đời cũng thả trôi sông.
    Trên đường truyền Đạo của Ngài dù có dẫy đầy gai chông sành sỏi, song Ngài chẳng bao giờ nản lòng thối chí, Nay lại có dịp Ngài tách rời quê hương để gánh chịu bao tai ách thời Pháp nạn.
    Với sự trạng vừa xảy ra Ngài cũng chẳng buồn lòng, bởi vì Ngài xem đó là việc thường của bực siêu nhơn đã quyết tâm xây dựng cuộc đời. Miễn làm sao cho vạn loại chúng sanh thông hiểu con đường giải thoát.
    Việc người Pháp bắt Ngài lưu đày, đối với Ngài và các môn đệ như bị một cuộc phong ba bão tố. Nhưng lòng Từ bi chẳng hề nao núng trước cảnh huống ấy. Vì Ban Giám Khảo thiên đình chưa tới hồi công bố, nên Đức Thầy nhân dịp nầy lưu hành khắp đó đây để giáo độ nhân sanh thêm thời gian nữa.

    CHÚ THÍCH
    SÔNG MÊ: Nói cho đủ là sông mê bể khổ, bờ chúng sanh đang sống, đối với giác ngạn, bờ của Phật. Đức Thầy từng cho biết: “Thoàn Bát nhã Ta cầm tay lái, Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.
    Hoặc là: “Bến giác bờ mê, mê phải tránh”.
    SỎI SÀNH: Sỏi là đá vụn hay đất hầm, sành là miển chén tộ bằng sành đập bể. Xưa, người ta thường dùng rải lên các con đường bị lầy lội. Chữ sỏi sành ở đây là chỉ con đường truyền Đạo cứu đời của Đức Thầy gặp nhiều khó khăn nguy hiểm, chưa được trơn láng êm xuôi:
    “Trải qua một lúc sỏi sành,
    Trung Ương hòa hiệp mới đành lòng đây”.

    SIÊU NHƠN: Con người vượt người thường. Ý chỉ những người có đủ tài đức hơn người thường. Ngụ ý chỉ cho các bậc Phật Thánh đã liễu Đạo, đắc Đạo.
    DẠ SẮT: Lòng cứng rắn như sắt thép không một hoàn cảnh thử thách nào làm khờn mẻ lay chuyển được.
    THIÊN ĐÌNH: Triều đình trên trời.
    MỞ HỘI THI: Cuộc thi cử, về trường đời thi cử một hay 2, 3 năm là có một lần thi văn chương Tài lực để chọn bậc hiền tài ra giúp nước trị dân. Ở đây có khác, vì triều đình trên Trời tất phải thi theo định luật của vũ trụ, tức luật nhân quả hiền còn dữ mất để lập lại đời tân.
    PHIÊU LƯU: Bay trôi khắp đó đây. Ý nói hiện giờ Đức Thầy phải lưu hành khắp nơi nơi để giáo độ chúng sanh.

    CHÁNH VĂN

    29.-Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
    Nó ngờ đâu lòng Lão yêu đương.
    Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương,
    Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
    Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
    34.-Bởi nạn-tai vừa mới vấn-vương.
    Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
    Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
    Dạy con cả nào đâu than cực,
    Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
    Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
    40.-Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
    Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
    Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng ?
    Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
    44.-Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 29 tới câu 44)
    Những người hung ác khi nghe Đức Giáo Chủ nói cuộc người Pháp bắt Ngài đem đi vừa qua, chỉ là cơ thử thách, thì họ cho rằng Ngài nói túng để chữa thẹn. Chớ họ đâu có ngờ lòng Ngài quá yêu sanh chúng, nên nhân dịp nầy cũng giúp cho Ngài có đủ phương tiện phổ độ chúng sanh nhiều hơn.
    Hôm ấy (rằm tháng Tư) xe của nhà chức trách Pháp vừa rồ máy chở Ngài ra đi, khiến cho người môn đồ phải đau lòng bực tức. Rồi nghĩ: Đây âu cũng là một cuộc Pháp nạn dành cho duyên phận và cũng là một cuộc thử thách vậy thôi.
    Vì lòng Từ Bi và có trách nhiệm giáo hóa khắp cả chúng sanh, nên Ngài chẳng hề than van hay thấy cực khổ. Ngài chỉ thấy mình là bổn phận làm Thầy lúc nào cũng thương xót môn đồ như người cha thương lo đùm bọc đứa con đỏ đang gặp hồi nạn tai nguy biến.
    Do đó, Đức Giáo Chủ khuyên các môn đồ nếu ai bền lòng kiên chí tất sau nầy được gia tăng phẩm vị. Bằng không giữ vững đức tin thối chí nản lòng buông trôi Đạo đức sau nầy ắt chịu muôn điều tai khổ.

    CHÚ THÍCH
    BỰC TỨC: Bực bội tức tối làm cho lòng xao xuyến khó nghĩ.
    LIÊN ĐÀI: Đài sen, nơi chư Phật ngự. Đây chỉ cho ngôi Tam Bảo hay các tự viện.
    CÔNG ĐỨC: Công là dùng trí năng diệt hết vọng tâm phiền não; Đức là lòng luôn được thanh tịnh, Từ bi và Bình đẳng; hoặc là người hành Đạo khi đặng trọn lành trọn sáng gọi là công đức.(Xem thêm STTĐ trang 63-64, tập 1).
    CON CẢ: Con khắp hết môn nhơn đệ tử. Đức Giáo Chủ có trách nhiệm độ hết tín đồ dù cao thấp, trí ngu, nghèo giàu không bỏ sót hay phân biệt một ai. Ngài đã từng viết:
    “Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.

    NẶNG ĐÔI VAI: Hai bên vai đều chịu nặng nề hết. Nghĩa rộng chỉ cho lòng Từ Bi, bổn phận làm Thầy phải chịu trách nhiệm tai nạn dạy dỗ khổ đau của cả tín đồ.
    KHÔI HÀI: Chuyện vui, chuyện vừa xảy ra thật đáng buồn cười. Ở đây, Đức Thầy có ngụ ý nói: Vì lòng bác ái Ngài mới ra đời khai Đạo cứu dân cứu nước; thế mà có nhiều người hiểu lầm vội chê bai dè xẻn và tìm cách ám hại, chuyện thật đáng buồn cười:“Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen”. Hoặc là:
    “Nực cuời cho lũ sói muôn,
    Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn Nghiêu”.

    THÀY LAY: Việc không phải của mình mà gánh lấy, chen vào.
    ÔNG TẠO: Cũng gọi Tạo hóa hay thợ trời. Ý chỉ luật trời đất rất sâu kín mầu nhiệm lắm, người đời khó mà hiểu đặng.
    Thành ngữ “Thày lay Ông Tạo” xưa nay người ta thường dùng để thống trách bâng quơ khi mà việc không vừa ý mình. Đức Thầy từng dùng: “Trớ trêu con tạo thày lay”, hoặc là: “Trớ trêu tạo hóa ông bày trò chua”.
    NHỒI QUẢ: Một trong 5 cách bị quả báo: Hiện báo, sanh báo, hậu báo, nhồi báo và dư báo.
    Đây là quả báo cách thứ tư: Có nghĩa khi mình tạo nhân lành hoặc dữ nhiều kiếp trước bây giờ thay vì phải trả nhiều lần, nhưng nay vì do phát động lực của tâm hạnh mình yếu mà phải trả dồn một lần cho hết như câu chuyện “Nhồi Quả” trang 273 ở quyển “Điển tích Triết Văn Chọn lọc”, đúng ra anh nhà nghèo phải bị trả quả luôn ba kiếp: Một kiếp nhà nghèo, một kiếp bị cùi và một kiếp chết trôi sông. Nay chỉ bị trả 3 kiếp dồn một lượt, là xong.

    CHÁNH VĂN

    45.-Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
    Phải bền lòng mới rảnh trần-ai.
    Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
    48.-Khó gặp chữ không không mà có.
    Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
    Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao ?
    Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
    52.-Ai thật tánh ai người giả đạo.
    Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
    Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
    Nay thân Thầy cũng đặng bình-an,
    56.-Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 45 tới câu 56)
    Đức Giáo Chủ khuyên các nhà tu đã phát tâm kính tin Tam Bảo thì hãy rán lo trau dồi tâm đức mình cho được thanh tịnh tinh minh. Cứ bền lòng mãi hoài như vậy ắt sau nầy sẽ chấm dứt được cuộc đời đau khổ nhơ xấu và trên con đường tầm cầu Đạo Pháp ai muốn tiến tới chỗ chơn không bất hoại, hãy kiên tâm bền chí, nhẫn nại không để một vi tế phiền não nào chi phối được mình, tất đạt được kết quả như ý.
    Ngài cũng sách tần tín đồ nên noi gương những người làm ruộng rẫy, khi bị sâu bọ quậy phá thì họ lo bắt sâu sửa nhánh chăm sóc chu đáo thì ruộng rẫy không bị thất thoát. Còn nhà tu hành khi miếng ruộng tâm của mình bị sâu bọ phá hại tất cả phải lo diệt trừ bằng cách lọc sạch vọng tâm phiền não ra, để tâm trí mình được an nhiên sáng tỏ, tất huệ nhựt hiện bày.
    Và nếu khi chúng ta đem chì thau sắt vụn để vào lò rồi dùng trí huệ siêu mầu nấu lọc thì thấy vàng thau thiệt giả rất rõ ràng. Cũng như Phật ma, tà chánh phân minh chẳng còn làm hại nữa. Từ khi được cái tin người Pháp bắt Đức Thầy ra đi vang dội như sét đánh, làm cho môn đệ rất hoang mang xao xuyến. Ngài dùng lời lẽ trong bài Sa Đéc cũng là báo tin cho bổn đạo được biết hiện nay thân tâm Ngài cũng được an lành, môn đồ nên an tâm vững lòng lo tu niệm.

    CHÚ THÍCH
    PHẬT ĐƯỜNG: Cũng gọi là Phật Đàng. Có nghĩa đường về cảnh Phật hay đạo Phật, như Ngài từng viết:
    “Ngày nay sớm đến Phật Đàng,
    Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn”.
    Hoặc là: “Trẻ già lớn nhỏ Phật đàng yên thân”.
    TRẦN AI: Bụi bặm nhớp nhơ bao phủ. “Rảnh Trần ai” là tu hành giũ sạch nợ hồng trần để được giải thoát an vui. Đức Thầy từng khuyên:
    “Nợ trần con sớn liệu toan,
    Nghĩa ơn trọn vẹn mới an tấm lòng”.

    Và : “Trần ai chỉ có thú phong lưu,
    Tranh đấu thành ra mãi oán cừu”.

    Hoặc là :
    “Nợ hồng trần túc trái tiền khiên,
    Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế”.

    CAO SIÊU PHẬT PHÁP CÒN DÀI: Giáo pháp của nhà Phật rất sâu, mầu diệu vô cùng tận, chẳng phải nhìn vào mặt văn từ ngôn ngữ mà thấu đạt được.
    KHÓ GẶP CHỮ KHÔNG KHÔNG MÀ CÓ: Đây là nói đến cái lý sắc không hoặc cái lý chơn không bất hoại. Bản thể của nó vốn là chơn không, cho nên nói sắc chẳng khác gì không. Vả lại từ cái chơn không, hiện ra mọi cảnh vật hoạn sắc cho nên không chẳng khác gì sắc. Tuy nói là chẳng khác nhưng hai tiếng của không và sắc vẫn còn. Để khỏi bị thiên chấp, trong “Tâm Kinh Bát Nhã”, Phật có giải: “Sắc tức vị không, không tức vị sắc”(Hoạn sắc tức là chơn không, chơn không tức là hoạn sắc, sắc chẳng khác nào không, không chẳng khác nào sắc). Nghĩa là nói ngoài cái hoạn sắc không có cái chơn không, ngoài chơn không cũng cũng không có cái hoạn sắc (cảnh vật hữu vi).
    Khi ngộ được lý “sắc không”, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có nói:
    “Tòng vô hiện hữu, hữu vô không,
    Hữu hữu vô vô tất kính đồng.
    Phiền não bồ đề nguyên bất nhị,
    Chân như vọng niệm tổng giai không.
    Thân như huyễn cảnh, nghiệp như ảnh,
    Tâm nhược thanh phong tính nhược bồng.
    Hựu vấn tử sanh ma dữ Phật,
    Chúng tinh cũng bắc thủy triều đông”.

    (Từ không bày có, có hoàn không,
    Có có không không rốt cũng đồng.
    Phiền não bồ đề không tưởng khác,
    Chơn như vọng niệm thảy đều không.
    Thân như huyễn cảnh nghiệp như ảnh,
    Tâm nhược thanh phong, tánh nhược bồng.
    Hựu vấn tử sanh ma dữ Phật,
    Chúng tinh cũng bắc thủy triều đông).
    Như thế, sắc chất và chân không cũng chỉ là một tâm thể như sóng và nước. Vậy câu “kiếm chữ sắc không” là nói thấu đạt cái “bản thể” cái “chân như thật tướng” của chính mình. Đức Thầy từng dạy:
    “Hãy tìm kiếm cái không mới có.(SG, Q.2)
    Và:
    “Sắc không không sắc chớ lìa xa. (Tỉnh bạn TG)
    Tu phải tìm học nghiên cứu cho chính xác, rồi cố gắng thực hành theo mới thâm nhập được. “Tùng văn tư tu đắc nhập Tam Ma Địa”.(Phải nương theo Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ để vào cảnh giới thanh tịnh). Đức Thầy có dạy:
    “Quay về cội phúc đường chân đạo,
    Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.

    PHẬT TÁNH: Cái tánh chơn thật. Cũng gọi là tánh Phật của mỗi chúng sanh. Có nhiều tên gọi khác nhau, như Chơn tâm, Bổn lai diện mục, Chủ nhơn ông, Như lai tạng.v.v... “Khó gặp chữ không không mà có”.
    SẤM SÉT: Tiếng nổ trên nền trời như tiếng súng lớn để báo tin trời sắp có mưa. Nghĩa bóng là chỉ cho tin tức quan trọng vừa xảy ra làm cho ai nấy phải hoang mang tự hỏi.

    CHÁNH VĂN

    57.-Tuy xa đường có lời luận-biện,

    Bởi bút thần bay luyện khắp nơi.
    Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
    60.-Kim mài giũa kim kia mới bén.
    Người làm phải như tằm trong kén,
    Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
    Sách có câu “Minh đức tân dân”,
    64.-Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
    Ta còn thương, thương trò liệu-điệu,
    Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông.
    Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-Tông,
    68.-Cũng như Phật xuất gia thuở trước.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 57 tới câu 64)
    Từ xã Hòa Hảo đến tỉnh Sa Đéc tuy không xa lắm, nhưng Đức Giáo Chủ đoán biết người Pháp sẽ đem Ngài đi luôn cả thời gian dài dặc, khó mà về thăm nhà được. Nên Ngài mượn bút thần đưa lời lẽ của Ngài thăm viếng khắp nơi nơi.
    Hòn ngọc tuy quí sáng nhưng nếu để lâu không lau chùi ắt không sáng chói được; cũng như cây kim nếu không được mài giũa thì nó cũng không có bén. Tâm trí người tu cũng thế, phải trau sửa luôn luôn mới được kết quả.
    Ví như loại tằm, khi được ta nuôi trong ở kén, bên ngoài muôn tơ bao bọc thì con vật nào cắn phá được. Ví như nhà tu nếu biết làm lành làm phải, bấy giờ kẻ hung ác muốn ám hại cũng không được.
    Đức Khổng Tử xưa có dạy: “Người hành đạo khi đạt đến bực Đại Học, phải làm sao cho đức mình được sáng, dân được mới và đưa đến chỗ tột lành”. Theo đạo Phật nhà tu khi trụ cái tâm vào chỗ vô sở trụ (Trụ chỗ vô sanh bất diệt), tất nhiên cái khiếu huyền quang (sáng suốt) khai mở vô cùng tận. Đức Thầy dung thông các phương cách hành đạo của cả Tam giáo dạy ra đoạn Kinh nầy.
    Bởi Đức Giáo Chủ quá thương xót tín đồ còn đang liệu điệu giữa đoạn đường tu học chưa thấu đạt dến nơi đến chốn, phần Ngài thì đang bị người Pháp đày đi nơi nầy nơi nọ. Dù vậy Ngài cũng mừng cho Ngài có dịp đem nguồn chánh pháp ban rải trong khắp nơi bá tánh hầu cứu độ quần sanh.
    Cũng như Đức Thích Ca khi xưa, lúc Ngài tu đắc Đạo, Ngài độ được vua Tịnh Phạn, Hoàng hậu Ma Da và cả dòng họ Thích đều giác ngộ tu hành kết quả.

    CHÚ THÍCH
    LUẬN BIỆN: Cũng gọi là biện luận, luận giải bàn bạc cho ra lý lẽ phải trái, hư nên tốt xấu “Ta là kẻ tu hành thiển kiến, Xét thế trần luận biện đôi điều”.
    BÚT THẦN: Cây bút và lời lẽ của các bậc siêu nhân, mỗi khi nói ra đều mang lợi ích cho mọi người nên gọi là bút thần.
    NGỌC NHỜ LAU NGỌC MỚI RẠNG NGỜI, KIM MÀI GIŨA KIM KIA MỚI BÉN:Hạt ngọc nhờ có luôn lau chùi, ngọc mới sáng suốt. Cũng như cây kim người xài nó, nếu chẳng thường mài giũa thì kim ấy ắt bị sét lụt.
    Đức Thầy dùng Tục ngữ nầy ở đây, là ý muốn dạy nhà tu nếu chẳng siêng năng gội rửa lọc lừa những tánh mê xấu xa ra ngoài thì trí huệ khó mở mang sáng suốt. Như Ngài thường dạy:
    Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng
    ”. (SG. Q.3)
    Và: “Trau tâm luyện tánh cho minh,
    Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn
    ”.(KT, Q.5)
    MINH ĐỨC TÂN DÂN: Đây là một câu chữ trong sách Đại Học của Thánh Khổng Tử. Nói cho đủ là “Đại học chi đạo tại minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” (người tu học đạt đến Thánh đạo (Nho) thì trước phải làm cho tâm mình được sáng, dân chúng được mới và đưa họ đến tột chỗ lành.
    ĐẶNG THỦ TRỤ: Là câu trong Pháp Bửu Đàn Kinh dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Nếu trụ cái tâm vào chỗ không sanh thì “kiến tánh thành Phật” vô sanh bất diệt).
    Câu Kinh trên xuất phát từ kinh Kim Cang Bát Nhã của Phật nói ra. Đức Lục Tổ Huệ Năng xưa nghe đến câu kinh nầy thì biết lối vào. Rồi đến phút cuối cùng ông được Đức Ngũ Tổ kêu vào phòng cũng thuyết tới câu Kinh nầy thì Ngài hoát nhiên đại ngộ (chứng đạo) được Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ thứ sáu.
    HUYỀN KHAI NHỨT KHIẾU: Cái khiếu huyền quang được khai mở, tức cái trí huệ (vô sư) được bừng sáng.
    Ba đoạn Kinh kể trên, được Đức Giáo Chủ dung thông cả tam giáo: Phật, Lão, Nho để dạy môn đồ.
    1.-Câu 1: “Minh Đức Tân Dân”, trong sách Đại học của Nho giáo.
    2.-Câu 2: “Ưng vô sở trụ” là của Phật Giáo trong kinh Kim Cang.
    3.-Câu 3: “Huyền Khai Nhứt Khiếu”, là câu trong Lão giáo thường dùng.
    Đức Giáo Chủ PGHH đã xác định:
    “Trong Tam Giáo ân cần mở đạo,
    Trường ngoại bang phục đáo như xưa”.

    PHỔ THÔNG: Phổ biến được thông suốt. Đức Thầy đem nguồn Giáo pháp phổ biến khắp nơi cho mọi người đều thông suốt Đạo Pháp mà lo tu hành.
    TỔ TÔNG: Ông bà dòng họ. Một hành giả khi tu đắc Đạo thì cứu được ông bà cha mẹ lần lượt siêu thăng giải thoát:Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu huyền thăng”.

    CHÁNH VĂN

    69.-Các bực Thánh châu-lưu nhiều nước,
    Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
    Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
    72.-Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
    Quá sung sướng rồi quên đạo ngỡi,
    Thì khác chi loài thú rừng săng.
    Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
    76.-Chỉ có biết ngủ ăn, ăn ngủ.
    Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
    Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
    Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
    80.-Bu nút thịt của loài bạo ác.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 69 tới câu 80)
    Các bực Phật Thánh xưa kia khi chứng đạo, các Ngài liền đem nền giáo thuyết truyền bá khắp nước cứu đời: như Đức Thích Ca và Khổng Tử. Cũng như Ngài Nhan Hồi nghèo đến đổi chỉ một bầu nước đai cơm mà gìn tròn cái Đạo, danh thơm còn lưu để ngàn thu, còn hơn người giàu sang chạy theo vinh hoa phú quí mãi để tiếng đời sau chê trách.
    Những kẻ giàu sang bạc ác, tuy họ sống sung sướng mà quên đi nền Đạo nghĩa, thì tâm tánh chẳng khác gì thú cầm sanh vật. Suốt đời họ chỉ biết hưởng thụ ăn với ngủ không làm điều gì lợi ích cho ai.
    Những kẻ ấy khi chết xác thể chỉ làm mồi cho ruồi lằng bu nút, linh hồn thì đọa lạc trần mê, tiếng đời khi nhắc đến ai cũng nhạo chê phỉ báng.

    CHÚ THÍCH
    BỰC THANH: Chư Phật và các hiền nhân Thánh Triết như Đức Thích Ca, Thánh Khổng Tử và Lão Tử, đứng đầu tam giáo.
    CHÂU LƯU: Châu là khắp nơi; Lưu là chảy đi. Châu lưu là di hành khắp đó đây. Ở đây có ý cho biết các vị Phật Thánh khi chứng Đạo thì lưu hành khắp nước, hoặc khắp thế giới để tùy phương cứu khổ chúng sanh.
    THẦY NHAN HỒI: (Xem trong STTĐ, trang 280 có giải rõ).
    ĐẠO HẰNG: Nói cho đủ là đạo ngũ hằng, tức năm mối thường hằng, tức giềng mối của đạo làm người. Gốm có: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy có câu:
    “Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam cang trung trực người rằng ngu si”.

    (Để chơn đất Bắc)

    CHÁNH VĂN


    81.-Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,

    Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
    Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
    84.-Chay được tánh chay tâm mới quí.
    Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
    Chỗ tâm-thần tọa vị nơi thân.
    Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
    88.-Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 81 tới câu 88)
    Nền đạo mà ai hiểu được cái lý cao siêu kỳ diệu trong đó, tất thấu đạt được cái lý thơm tho. Nhà tu muốn kết quả hãy sớm chấm dứt nợ trần ai và dầu cho người đời có chê khen mặn lạt cũng không màng kể.
    Đã quyết chí tu hành, trì chay niệm Phật nhà tu phải cố gắng giữ cho đúng chay tâm chớ chẳng phải ăn chay với hình thức bên ngoài mà được.
    Trong giáo lý của nhà Phật rất cao siêu bí hiểm. Nhà tu không chỉ nhìn nơi hình tướng qua loa bề ngoài mà thông được, mà rồi thâm tâm mình cũng không được gì. Bởi ngoài tâm không có Đạo, mà ngoài Đạo không có tâm. Mà : Đạo tại tâm, tâm Đạo bất tùng, tùng Phật Đạo mới là thật Đạo. Và phải nhớ rằng cái Đạo vốn chẳng có, chẳng không, không chẳng không”.Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất vị không, không bất vị sắc.(Kinh Kim Cang). Vậy nhà tu muốn đạt đến cao quí đó, tất ngày đêm phải sở cầu và sở hành một cách tha thiết chuyên cần tinh tấn, tất được kết quả.

    CHÚ THÍCH
    NAM MÔ: Phạn ngữ là Namal, Tàu dịch là qui mạng và cứu ngã. Cũng có nghĩa là qui y, tức chịu qui phục nơi Đức Phật và cầu Ngài cứu độ mình. Đức Phật từng viết:
    “Nam mô lòng sở nguyện cầu,
    Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan”.

    TRÌ GIÁI: Gìn giữ giới luật đừng cho quấy phạm. Theo người tu Phật từ xưa thì bắt đầu giữ Tam qui Ngũ giới, Thập bát giới, 250 giới cho Tỳ kheo, 348 giới cho Tỳ kheo ni. Theo Đức Giáo Chủ PGHH hiện nay thì dạy môn đồ giữ Bát Giới (tám điều răn cấm) là đủ. Ngài đã nhắc nhở:
    “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
    Niêm Phật thì phải dẹp lòng tà”.

    CHAY TÁNH CHAY TÂM: Gìn giữ sự ăn chay cách nầy: Không ăn loài hữu tình, có tri giác và mạng sống. Chỉ ăn các vật tương chao, đậu hủ, rau củ. Nhưng không chỉ ăn chay bằng thân khẩu mà phải ăn cả tấm lòng nhơn đức, bác ái Từ Bi mới gọi là chay tâm chay tánh. Nghĩa là phải ăn chay cả tấm lòng thanh tịnh từ bi giúp đời và cho đến thất tình lục dục, sân si, nhân ngã cũng không hề quấy phạm mới trọn vẹn là người chay tâm.
    HUYỀN BÍ: Sâu kín mầu nhiệm không thể dùng mắt phàm phu mà thấy được.
    CHỖ TÂM THẦN TỌA VỊ NƠI THÂN: Cái thần hồn và linh tánh trí tuệ của mỗi người đều hòa đồng với nhau một thể. Bởi tâm thần linh tánh là thể, còn thân xác ngôn ngữ và tướng là dụng. Vậy ai muốn kiến tánh hãy nhìn kỹ:
    “Trong cây có trái hoa,
    Trong tâm có Phật Đà.
    Chớ thấy bằng nội tướng,
    Phải thấy bằng tâm ta”.


    CHÁNH VĂN

    89.-Đuốc thiền-lâm phương Đông chói ánh,
    Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
    Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
    92.-Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
    Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
    Đồng bay về Cực-Lạc một đàng.
    Thì thân Thầy hết phải gian-nan.
    96.-Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
    Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
    Dòm êm trời thì cứ ra tay.
    Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
    100.-Mới ngơi-nghỉ tấm thân của Lão.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 89 tới câu 100)
    Đức Giáo Chủ từ phương Tây rọi đuốc huệ về phương Đông, tức cõi phương Đông Á châu chúng sanh đang ở để dìu dắt linh hồn bá tánh vượt khỏi sông mê, sớm trở về bến giác. Dầu cho ngày nay Thầy tớ có xa cách giữa Sở và Tề, nhưng sau Tớ Thầy sẽ gặp nhau nơi Phật cảnh.
    Ngài rất ước mong cho khắp bá tánh đều tu hành dứt nghiệp trần mê, được nhẹ nhàng sớm siêu thăng về Cực lạc. Bấy giờ Tớ Thầy mới giải thoát cảnh gian nan lao khổ và cũng chẳng còn người đời nhạo chê phỉ báng.
    Gẫm lại ngày tháng trôi qua rất mau lẹ, như ngựa qua song cửa, Đức Thầy tùy theo thời cơ mà đưa môn đồ sớm về cảnh Phật. Ngài cũng đã quyết định phải đưa khắp chúng sanh cho đến cảnh Tiên Phật mới đành an nghỉ.

    CHÚ THÍCH

    ĐUỐC THIỀN LÂM: Đức Giáo Chủ dùng ngọi đuốc huệ của Đạo Phật mà áp dụng vào việc cứu đời độ chúng.
    PHƯƠNG ĐÔNG CHÓI ÁNH: Nhắm vào phương Đông Chấu Á chiếu sáng để soi đường dẫn lối cho khắp bá tánh.
    DẮT HỒN NGƯỜI: Giác ngộ đưa rỗi chúng sanh nương theo đó mà tinh tấn tu hành để sớm quay về con đường chánh giác.
    VƯỢT KHỎI SÔNG MÊ: Qua khỏi sông mê trở về bến giác, vượt khỏi cuộc luân hồi sanh tử.
    SỞ VÀ TỀ: Hai nước chư hầu của nhà Châu cũng ở chung trên đất Trung Quốc, nhưng cách nhau rất xa, vì nước Trung Hoa bấy giờ rất là rộng lớn. Sở ở Hồ Nam, Tề ở Hồ Bác. Chỗ ở hai người nầy muốn gặp nhau không phải dễ.
    Ở đây, Đức Thầy muốn nói, tuy hiện giờ Thầy Tớ cách xa trắc trở thế nào đi nữa nhưng rồi sau nầy cũng được gặp nhau nơi Phật cảnh. Ngài cũng luôn ước mong sao cho bá tánh đều giác ngộ tu hành để sớm về Cực Lạc hưởng sự an nhàn. Tất Thầy trò không còn gian nan cực khổ hay người đời nhạo chê phỉ báng nữa.
    BỒNG LAI: Cảnh Tiên. Tương truyền nơi biển Bột Hải có ba hòn đảo: Phương Trượng, Doanh Châu và Bồng Lai. Nước ở biển nầu rất nhẹ, lông chim rớt xuống cũng không chìm, nên gọi là nhược thủy.
    Đức Thầy có viết:
    “Cố tưởng ước mơ về Nhược thủy,
    Ngặt vì không cánh lấy gì bay
    .(Viếng non Ô. Két)

    CHÁNH VĂN

    101.-Lúc Tam-Tạng Tây-phương quyết đáo,
    Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
    Đức từ-bi phải lộ trắng đen,
    104.-Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
    Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
    Thấy Đường-Tăng thơm thịt muốn ăn.
    Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
    108.-Với Đại-Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
    Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
    110.-Thì nạn tai cũng thoát như không.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 101 đến câu 110)
    Từ khi Pháp Sư vâng lịnh vua Đường Cao Tôn đến Ấn Độ (Tây Phương) thỉnh Tam tàng kinh Phật đem về Trung Quốc phiên dịch truyền bá khắp nước, giác ngộ chúng sanh.
    Trên đường đi Tây phương gồm có năm thầy trò: một Đường Huyền Trang (ông Thầy), đệ tử thứ nhất là Tôn Ngộ Không, thứ nhì là Trư Bát Giái và ba là Sa Ngộ Tịnh, cùng một Bạch Mã. Thầy trò phải đương đầu biết bao tai nạn, nào yêu tinh cọp cáo, nào yêu ma quỉ quái, giặc cướp cản ngăn, chúng quyết ăn xương nuốt thịt thầy trò cho kỳ được.
    Song nhờ có Đức Từ Bi Quan Âm Bồ Tát, vâng lịnh Phật Tổ theo sát bên, khi ẩn khi hiện bảo hộ ngày đêm không rời. Cuối cùng các tai nạn đều vượt qua; Thầy Trò đạt kết quả, đem được ba bộ Kinh về Đại Đường và đều chứng quả. Đó cũng là nhờ Tam Tạng chuyên niệm tâm kinh và trì niệm Lục tự Di Đà không hở cách.

    CHÚ THÍCH
    TAM TẠNG: Để có ý niệm về lịch sử chính xác, Đường Tam Tạng tên thật là Trần Di con của Trần Huê ở huyện Trần Thi, Châu Lạc. Ngài sanh năm Khải Hoàn thứ 16, đời vua Văn Đế nhà Tùy (589).
    Vốn là một người thông minh, từ thuở bé lại được thân phụ giảng dạy Hiếu Kinh. Năm Ngài lên 9 tuổi đã thông Nho học trình độ khá cao. Ngài thường tới chùa Tịnh Độ đất Lạc Dương, nghe người anh làm Hòa Thượng ở chùa giảng giải kinh Phật. Những buổi giảng làm ông nghe say mê và đã ảnh hưởng rất nhiều cho cuộc sống tu hành của Ngài sau nầy. Và Ngài cũng bắt đầu có xu hướng nghiên cứu về Phật Giáo.
    Năm 13 tuổi, Ngài chính thức xuất gia tu học với pháp danh là Huyền Trang. Từ đó Ngài tận tâm nghiên cuứ Kinh điển, khi nghe có Tăng sư nào đức hạnh và kiến giải sâu xa thì Ngài đến cầu học. Không bao lâu, Ngài nổi tiếng là người học vấn uyên thâm, biện thuyết thông suốt.
    Pháp sư Đạo Cơ, một cao Tăng thời bấy giờ đã nói về Ngài: Như thế nầy ta đi qua các giảng đường khá nhiều mà chưa thấy một sư trẻ tuổi nào mà thâm ngộ Đạo pháp như thế nầy.
    Năm Ngài 14 tuổi (có chỗ chép 23 tuổi) phụ cận kinh đô Trường An gặp tai nạn mưa đá mất mùa, dân chúng đói khổ, nhà vua ra lịnh cho dân chúng di cư tản mát các miền phong phú mà sống, Ngài thừa cơ hội đó làm cuộc Tây du trốn sang Ấn Độ.
    Trải qua 123 nước lớn nhỏ, với bao sự gian nguy, trên đường đi vượt qua bao gian khổ, bão phong hỏa đài, nào nạn: giặc cướp, sa mạc, qua Gô Bi, tuyết sơn lãnh…Ngài phải chịu đói khát, bắt bớ tù đày có khi suýt vong mạng.
    17 năm lưu lạc ở Ấn Độ, gót chân Ngài lưu hành khắp đó đây tu học ở các nơi đại tự. Nhất là ở ngôi chùa Na Lan Đa (Na Lăng Đà). Nơi đây được sư trưởng Giới Hiền Luận Sư truyền giới Duy Thức cho Ngài.
    Còn theo truyện Tây Du Ký, thì Đại Thánh Tề Thiên vốn là một Thạch Hầu, do tảng đá thọ khí âm dương sanh ra, lớn lên tìm ra động Thủy Liêm trên Hoa Hỏa Sơn, nên được bầy khỉ tôn làm chúa động cầm đầu cả đàn và xưng là Mỹ Hầu Vương.
    Sau Thạch Hầu vượt biển tầm Tiên cầu đạo trường sanh, được Bồ Đề Tổ Sư thâu nhận làm đệ tử đặt tên là Tôn Ngộ Không, và truyền cho thất thập nhị huyền công (72 phép biến hóa) và pháp Cân đẩu vân, nhảy một cái đi xa 10 muôn 8 ngàn dặm. Khi thành tài, Tôn Ngộ Không trở về luyện tạo bầy khỉ phân làm đội ngũ như người. Ngộ Không xuống biển Đông Hải lấy trụ sắt trấn biển của vua ĐạiVõ ngày trước làm thiết bảng, rồi xuống Long Cung bôi sổ từ của loài Hầu, Thượng Đế chọn người tài có công học Đạo nên triệu về phong chức Bạch Mã Ôn. Sau rõ chức hèn mọn, Tề Thiên bỏ về xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Ngọc Hoàng phải chịu thụ phong và cho cai quản Vườn Đào, ông lén vào ăn mấy món ngon hết; lấy trộm thuốc kim đơn của Thái Thượng Lão Quân. Thượng Đế nổi giận cho Thiên binh, Thiên Tướng vậy đánh bắt được đem về nhốt vào lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân đốt mười ngày đêm. Ông sợ lửa bèn ẩn trong cung Tốn 49 ngày đêm. Bị khói nung thành mắt nửa tròng vàng. Sau ông ra khỏi liền loạn Thiên cung đánh tới Linh tiêu Bửu Điện. Ngọc Hoàng kinh hải thỉnh Phật Tổ Như Lai đến. Phật hóa phép đè Tề Thiên dưới núi Ngũ Hành Sơn trọn 500 năm.
    Phần Đường Tăng, vào đời Đường Thái Tông có Trần Giang Lưu là con quan Trạng nguyên Trần Quan Ngụy và bà Â Ôn Kiều, xuất gia từ thuở nhỏ, được Pháp Minh Hòa Thượng đặt Pháp danh là Huyền Trang.
    Sau vua Đường muốn cầu siêu cho các cô hồn thác oan vì chiến tranh vừa qua nên tuyển lựa trong dân chúng thấy Ngài Huyền Trang tài đức vẹn toàn.Vua truyền thiết lập trai đàn thỉnh Ngài thuyết pháp và thí thực cúng cô hồn. Khi ấy Phật Bà Quan Âm vâng lịnh Phật Thích Ca sang Đông Độ (Trung Quốc) lựa người sang thỉnh Kinh bên Tây Vức (núi Khứu Linh), Quan Âm lẫn vào đại chúng nghe Kinh. Nghe xong, Phật cho vua tôi nhà Đường biết: Kinh nầy thấp lắm, không thể cứu được cô hồn. Nay Phật có ba Tạng kinh ở chùa Lôi Âm nước Thiên Trước bên Tây Thiên, mới độ nỗi vong hồn. Nói xong Phật Bà để lại một bài Kệ rồi biến mất. Bài Kệ ấy như sau:
    “Tỏ cùng Chúa Đại Đường,
    Kinh tại bên Tây Phương.
    Dặm đã xa mười vạn,
    Đường thêm lẻ tám ngàn.
    Kinh cao về nước cả,
    Hồn quỉ khỏi thành oan.
    Ai có công đi thỉnh,
    Ngày sau hóa Phật vàng”.

    Huyền Trang nghe xong tình nguyện thân hành sang Tây Phương thỉnh ba Tạng Kinh đem về Trung Quốc. Vua Thế Tôn liền kết làm anh em với Ngài và đặt cho Ngài là Tam Tạng Quốc Sư. Đoạn, Ngài từ giã vua và khởi hành.
    Trải bao gian nan khổ khó, vượt bao đường xá chông gai vất vả, Tam Tạng bị yêu bắt ăn thịt mấy người tùy tùng. Còn Ngài nhờ Thái Bạch Kim Tinh cứu thoát. Sau có Lưu Bá Khâm cứu khỏi nạn bị thú dữ bao vây và đi đến Ngũ Hành Sơn gặp Tề Thiên hối cải qui y, nguyện theo Thầy đi thỉnh Kinh. Tam Tạng ưng chịu và lên chót núi gở lá bùa của Phật Tổ. Tề Thiên ra khỏi núi và được Tam Tạng đặt hiệu là Hành Giả. Vì Tề Thiên tánh còn sân hận không nghe lời Tam Tạng, nên Phật Bà bắt niền chiếc Kim Cô lên đầu, nếu Tề Thiên còn trái lời thì Tam Tạng niệm Thần chú, Kim Cô bóp siết vào nhức đầu thấu ruột gan chịu không nổi, khiến Tề Thiên một lòng theo Tam Tạng mà không dám trở lòng.
    Khi đến suối Ưng Thần nước Xà Bàn con ngựa chở Tam Tạng bị con Rồng nuốt mất. Tề Thiên đánh mãi không bắt lại được, sau nhờ Phật Quan Âm bắt nó hóa ngựa Long Cu, chở Tam Tạng đi thỉnh Kinh để chuộc tội. Thầy trò lại đội tuyết dầm sương chẳng nài khổ cực đi đến xứ Cao Lão gặp Trư Cang Liệp ở núi Phước Lăng (vốn là Thiên Bồng Nguyên soái vì mắc tội nên Ngọc Hoàng đày làm con heo) bắt con gái ông Cao Thái Công, nên Đại Thánh bắt được họ Trư. Trư Cang Liệp xin qui y và được Tam Tạng đặt cho hiệu là Bát Giái. Phật Bà có đặt cho Pháp danh trước là Ngộ Năng.
    Ba Thầy trò đồng lên đường. Một hôm đi ngang Huỳnh Phong Lãnh, Tam Tạng bị chúa yêu là Huỳnh Phong bắt định ăn thịt. Tề Thiên, Bát Giái đánh không lại khải cầu Linh Khiết Bồ Tát xuống thâu về núi. Thoát nạn rồi, Thầy trò cùng đi nhắm hướng Tây thẳng tiến. Đi đến sông Lưu Sa, gặp con thủy quái rất dữ chận ngang sông, định bắt Tam Tạng ăn thịt. Nguyên con Thủy quái nầy vốn là Huyện Liêm Tướng quân, vì mắc tội làm bể chén lưu ly của Ngọc Hoàng nên bị đày làm Thủy quái sông Lưu Sa. Tề Thiên và Bát Giái ví đánh; Thủy quái đánh không lại phải lặn xuống sông nên bắt không được. Tề Thiên phải cầu viện với Quan Âm. Phật Bà phái cho Huệ Ngạn xuống bắt Thủy quái theo làm đệ tử Tam Tạng, Đường Tăng liền đặt tên là Sa Tăng. Phật Bà có đặt cho Pháp hiệu trước là Ngộ Tịnh.
    Bốn Thầy trò đồng nhắm hướng Tây trực chỉ. Chúa yêu ở các động nghe Tam Tạng là hậu thân của Kim Thiền Tử, đệ tử thứ hai của Phật Tổ mắc đọa tu đã 10 kiếp, nếu ai ăn đặng một miếng thịt sẽ trường sanh bất tử, nên các yêu tranh nhau đón bắt song nhờ có các đệ tử hết lòng bảo hộ và nhờ Tam Tạng tâm tư lúc nào cũng tưởng nhớ Phật nên lắm lần đều thoát qua các nạn tai. Đến đò Lăng Vân, Tam Tạng bỏ xác phàm tại đây, rồi lên núi Linh Sơn vào chùa Lôi Âm thỉnh được ba tạng: Kinh, Luật, Luận đem về Đông Độ cầu siêu cho các cô hồn, giác ngộ bá tánh. Xong xuôi, Ngài trở về Tây phương đắc quả Phật hiệu là Chiêu Đàng Công Đức Phật.
    Tính qua bao gian khổ nguy nan, Ngài Tam Tạng phải thọ khốn 81 lần tai nạn (tiêu biểu cho 81 món phiền não gồm có nội ma, ngoại cảnh). (Đây là dẫn theo bộ Tây Du Ký)
    Ngài Huyền Trang trở về với cố quốc muôn ngàn rực rỡ vinh quang: 175 bộ kinh Phạn ngữ gồm 1.335 quyển được Ngài phiên dịch chú thích rành rọt giúp Phật Giáo có cơ phát triển cao độ.
    Ngài mất vào giữa đêm mùng 5 tháng 2 năm 664 tại Ngọc Hoa Cung hưởng thọ 69 tuổi có chỗ chép 63 tuổi, để lại bao sự mến thương cảm kích của vua Đường Cao Tôn và tăng lữ cùng đại đa số tín chúng.

    CHÁNH VĂN

    111.-Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
    Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
    Ai mê tâm nghe qua không phủng,
    114.-Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
    Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
    116.-Thì cũng thấy bổn lai diện mục.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 111 tới câu 116)
    Trong đời tu hành từ xưa đến nay ít ai tìm gặp “Chủ nhơn ông” của chính mình. Vì ông chủ nầy ẩn sau bức màng vô minh dày bịt. Nếu hành giả phá được mây thì sẽ lòi mặt thật ông chủ, chớ khỏi tìm đâu xa lạ. Ông chủ nầy ai ai cũng đều có.
    Nếu người nào còn mê muội thì chưa nhận ra ông chủ. Thế nên cố gắng suy tầm để cho trí huệ được khai thông hầu thực hiện bản tâm thanh tịnh.
    Trên phương diện tu hành, kinh điển là phương tiện dẫn dắt bước ban đầu, như ngón tay chỉ mặt trăng. Hành giả phải trực ngộ bản lai tâm bằng trực giác của chính mình, chớ không đợi thuộc nhiều Kinh điển.

    CHÚ THÍCH
    CHỦ NHƠN ÔNG: Là ông chủ của chính mình. Theo kinh Phật giải: Mỗi người đều có trí vô sư, tức là Phật tâm. Ông Phật thật nầy có từ đời vô thỉ, trước càn khôn vũ trụ, san hà đại địa; không do ai sinh, không do ai tạo. Như câu: “Có một vật không sinh mà có, không tạo mà nên, không lập mà thành”. Đức Giáo Chủ PGHH xác định trong quyển “Khuyến Thiện” như sau:
    “Các chúng sanh đều có như ta,
    Bị vô minh vọng tưởng vạy tà.
    Nên quay lộn Ta Bà cõi khổ”.

    SANH CHÚNG: Cũng gọi là chúng sanh, gồm có bốn loài: Thai, noãn, thấp, hóa.
    -Loài sanh bằng bào thai.
    -Loài sanh bằng trứng.
    -Loài sanh nơi ẩm thấp (cá rô, cá trạch…)
    -Loài hóa sanh, như: Rệp nước hóa sanh ra chuồn chuồn, rễ gáo hóa thành lươn.
    MÊ TÂM: Tâm mê muội, tâm chưa giác ngộ. Nghĩa bóng: Chỉ cho người còn còn chạy theo hình tướng sắc màu chưa nhận được chơn lý.
    SUY TẦM: Suy xét và tầm kiếm, nghĩa bóng: Tra cứu, xét nét, thật hành, đúng theo lẽ phải. Hoặc thật hiện theo pháp: Văn, tư, tu để cho mở trí sáng.
    BỔN LAI DIỆN MỤC: Còn gọi là Bổn Lai tâm, tức là trực nhận tâm Phật của chính mình. Nếu giác ngộ là Phật. Còn mê muội là chúng sanh. Cũng như sóng và nước, vọng và chơn, chân và giả. Nó vốn sinh từ gốc bản lai. Do câu chuyện như sau:
    Xưa, Đức Lục Tổ ở xứ Lãnh Nam vốn là người không biết chữ, một hôm Ngài đi đốn củi đổi gạo gặp một Sa Môn đọc kinh Kim Cang đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, thì Ngài giác ngộ đi tu. Sau tám tháng giã gạo tại chùa Huỳnh Mai được Ngũ Tổ bảo hãy vào nhà sau truyền pháp. Ngũ Tổ cũng lấy kinh Kim Cang giảng nghĩa cho ông nghe, và cũng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm như trên ông liền đắc ngộ. Vì thế ông thốt lên bài Kệ:
    “Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
    Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt.
    Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp,
    Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ,
    Nào dè tánh mình vốn luôn trong sạch”.


    CHÁNH VĂN

    117.-Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
    Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
    Chừng ơn trên ban được Lục-Thông,
    Thầy mới được Tây, Đông du-thuyết.
    Thâu cho được con long ác-nghiệt,
    122.-Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 117 đến câu 122)
    Theo lịch trình diễn tiến của lý tam ngươn, thời hiện giờ là đời mạt hạ: “Hạ ngươn nay đã hết đời, Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang”. Đức Giáo Chủ lâm phàm đây là lần chót, như Ngài minh định: Nên kiếp chót nầy đây há lại tiếc chi thân phàm tục. Song vì tình cốt nhục tương thân cũng ủng hộ chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình”.
    Ngài nhắc cho mọi người hiểu biết để tự lo liệu hoạch định chương trình tu tiến cho kịp chuyến đò chiều..
    Tuy nhiên cơ trời biến chuyển có khi chậm, khi mau. Đức Giáo Chủ phải “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Ngày giờ nào Trời Phật ban bố cho Ngài có đủ sáu phép thần thông, chừng đó Ngài mới thỏa lòng mong ước, chu du độ chúng.
    Cơ trời vận chuyển đến đúng thời kỳ con long nghiệt xuất hiện tại sông Vàm Nao, nó hoành hành dữ dội đến đại bác súng đồng cũng không hàng phục nổi. Chừng đó cả nhơn loại đều hoang mang mong mỏi một vị cứu tinh xuất hiện để thâu phục con độc long cho yên bá tánh. Đức Giáo Chủ PGHH mới đúng lúc trở về và thi hành bổn phận hàng phục con sấu dữ. Và danh tiếng Ngài chói rạng nghìn thu, dân chúng đều phục tùng nể kính.

    CHÚ THÍCH

    LỤC THÔNG: Sáu pháp thần thông.
    1-Thiên Nhãn Thông: Mắt thấy mười phương không bị vật gì ngăn cản.
    2-Thiên Nhĩ Thông: Tai nghe suốt tám giới thập phương không bị vật gì làm trở ngại.
    3-Túc Mạng Thông: Biết các kiếp quá khứ, vị lai của mình và của chúng sanh.
    4-Tha Tâm Thông: Biết rõ ý niệm cả chúng sanh.
    5-Thần Túc Thông: Đi lại mười phương chớp nhoáng.
    6-Lậu Tận Thông: Diệt hết phiền não không còn một mảy ô trược. Đức Giáo Chủ minh định:
    “Ngày nào đắc được lục thông,
    Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.

    DU THUYẾT: Dùng tài hùng biện đi châu du thuyết giảng. Xưa có nhà hùng biện là Tô Tần, tự Quý Từ, người Đông Châu, lúc chưa gặp vận đi du thuyết khắp nước Trung Hoa không có nơi nào trọng dụng. Suốt ba năm trường, tiền bạc xài hết, áo hồ cừu rách nát, thân hình tiều tụy xơ sát. Sau thời cơ đưa đến, nhờ dùng pháp “hợp tung” hiệp sáu nước: Triệu, Hàn, Ngụy, Yên, Tề, Sở cự với nước lớn là Tần, mang ấn sáu nước danh tiếng lẫy lừng. Ở đây Đức Thầy ví Ngài sau nầy cũng như Tô Tần vậy.
    LONG ÁC NGHIỆT: Là con rồng dữ. Lịch sử Phật Giáo đã chứng minh hai dữ kiện: Một của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hai của Đức Lục Tổ Huệ Năng.
    Lúc Đức Phật còn tại tiền có lần Ngài đến động của ông Ca Diếp, buổi ban đầu dùng lửa tam muội thiêu đốt hang động và thu phục con rồng tại đây. Ông Ca Diếp mới đầu không cho. Nhưng Đức Phật quả quyết đến chung ngụ với Rồng để thâu phục con long ác nghiệt và chú nguyện cho rồng ấy thoát xác.
    Thuở Đức Lục Tổ Huệ Năng lưu cư tại chùa Bửu Lâm, thuộc tỉnh Thiều Châu (Trung Hoa) gần chùa có con rồng dữ ở dưới cái hào rất sâu, thường làm mưa làm gió và tác hại dân chúng quang vùng.
    Một hôm, Rồng hiện lớn lên, làm cho sóng nổi, nước dâng trào, mây giăng tối mịch. Các môn đồ sợ hãi, Đức Lục Tổ nghe báo bước ra xem, nạt Rồng: “Ngươi có thể hiển hiện ra hình lớn, chớ không biến lại hình nhỏ được. Nếu ngươi là bậc thần thông thì biến hóa lớn, nhỏ cho ta xem”.
    Rồng hụp xuống, phút sau thu hình nhỏ lại, nhảy khỏi mặt hồ. Tổ Sư liền mở bình bát ra thách rằng: “Nhà ngươi có dám chui vào bình bát của lão tăng không ?”.
    Rồng tự hăm hở chui vào, nhưng sau đó hết phương vùng vẫy.
    Tổ đem bình bát về chùa thuyết pháp cho Rồng nghe, nó liền cổi lốt đi mất. Bộ xương rồng dài 7 tấc, đầu đuôi sừng cẳng đều có đủ, để lưu lại chùa làm kỷ niệm.(bộ xương nầy lưu giữ cho đến năm Kỹ Mão, niên hiệu Chí Chánh, bị nạn binh lửa lạc mất).

    CHÁNH VĂN

    123.-Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
    Chửa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
    Thì đạo-hạnh ngày kia mới đắc,
    126.-Chớ chứa hờn đứa dữ ích chi.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 123 tới câu 126)
    Con người ai ai cũng đều có “hỏa diệm”, hỏa diệm nầy nó ẩn sâu dưới lớp màng vô minh; bình thường thì nó lặng trang, nguội lạnh. Nhưng việc làm nào phật ý, hoặc quá sức chịu đựng thì nó bùng cháy, một khi nó bùng cháy thì nó không còn kiêng nể một ai, dù ruột thịt hoặc người dưới nó xem tất cả đều là đối tượng. Ví như con thú dữ sắp bắt được mồi. Nó vồ chụp, nó gào…Nó nghiến, miễn làm cách nào được thỏa dạ mới thôi. Chúng sanh vì nó mà tan nhà nát cửa, đất nước vì nó mà phải đảo điên; thiên hạ, thế giới vì nó xé xâu nhau gây cảnh chiến trường máu rơi, thịt đổ, tan nát cuộc đời. Nó không bao giờ dự định trước để cho ta chuẩn bị cách đối phó. Đức Giáo Chủ PGHH diễn tả:
    “Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
    Nổi lôi đình đâu có định chừng,
    Cho ta biết mà toan giữ trước.
    Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
    Nên loài người ở cõi thế gian.
    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
    Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
    Hơn tự đắc, khoe khoang, dõng sức,
    Phải bị người hiềm khích ghét ganh.
    Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
    Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
    Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
    Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
    Phân từ mảnh mới là thỏa dạ”.

    Muốn chữa hỏa diệm nơi tâm phải dùng ba phương pháp căn bản.
    Cũng gọi là “Ba tiêu” để đối trị. Đó là khoan dung, nhẫn nhục và từ bi. Ba phương pháp nầy rèn luyện cũng từ trong tâm. Vì vạn vật do tâm tạo: “Tâm sanh chủng chủng pháp sanh, tâm diệt chủng pháp diệt”. Đức Giáo Chủng PGHH đưa ra luận chứng như sau:
    “Diệt được nó tâm trần thong thả,
    Ta thường nên tập tánh khoan dung.
    Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
    Nay ta đã quy y cầu Đạo,
    Gây gổ là trái thuyết từ bi”.


    CHÚ THÍCH
    QUẠT BA TIÊU: Truyện Tây Du ký kể: Thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh đến chơn núi Thúy Vân thì khí trời trở nên nóng nực lạ thường; và được gặp cụ già mới bảo: Xứ nầy có hòn “Hỏa Diệm Sơn”, ngày đêm lửa cháy hừng hực nên tiết ra sức nóng dữ dội. Nhưng không có con đường thứ hai nào đi được. Lúc đó có người bán bánh đi vừa tới, Ngộ Không bước đến thăm hỏi: “Ở vùng nầy khô hạn và nóng bức làm gì có lúa nếp để làm bánh ?”
    -Sở dĩ vùng nầy có lúa nếp là nhờ Thiết Phiến Công Chúa ở núi Thúy Vân có cây quạt phép gọi là “Ba Tiêu”. Quạt một lần thì tắt lửa, quạt lần nữa thì có mưa. Tôn hành Giả thỉnh ý Thầy rồi đằng vân đến núi Thúy Vân. Sau bao lần chiến đấu vất vả, và sau cùng nhờ Như Lai, Bồ Tát và Kim Cương trợ lực, hàng phục được vợ chồng Ngưu Ma Vương. Tôn Hành Giả mới được bà Thiết Phiến Công Chúa trao cho quạt “Ba Tiêu”.
    Nhờ đó mà “Hỏa Diệm Sơn” mới dập tắt, dân chúng làm ăn yên ổn và Thầy trò Tam Tạng mới có đường tiếp tục thỉnh Kinh bên Tây độ.

    CHÁNH VĂN

    127.-Phận tu-hành tai gác mặt lỳ,

    Chịu cay đắng của người sang-sớt.
    Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
    Đừng thở-than bận đến lòng Ta.
    Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
    132.-Đặng dạy kẻ đường xa chưa rõ.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 127 đến câu 132)
    Bổn phận hành giả trên bước đường tu phải kiên nhẫn luyện tập cho mặt chai mài đá, gác bỏ ngoài tai tất cả thế gian. Dầu miệng thế có lắm điều trêu chọc, cay đắng đủ điều cũng kiên tâm nhịn chịu: “Chịu cay đắng tu hành mới giỏi”.
    Người tu phải đặt lòng vị tha cao cả lên hàng đầu. Vì đó là quyền lợi chung cũng là chí nguyện thiêng liêng của Phật của Thầy và của chư Tổ, chư Sư. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên môn đồ hãy xóa đi tình thương nhỏ hẹp, riêng tư của tình sư đệ; để Ngài yên tâm dấn thân trên đường gió bụi dạo khắp đông tây, khuyến dạy những ai còn ngủ vùi trong tràng mộng ảo.

    CHÚ THÍCH
    TAI GÁC MẶT LỲ: Gác bỏ ngoài tai những chuyện thế sự, gương mặt trở nên lầm lỳ, chịu đựng tiếng đời mai mỉa, kẻ sang người sớt. Nghĩa bóng: nhẫn nhịn các tiếng thị phi nguyền rủa để an phận lo tu hành. Đức Thầy sách tấn: “Phải nhẫn nhục chờ người cổ tích, Phật với Trời phân định cho ta”.
    TA BÀ: Còn gọi là Sa Bà, Phạn ngữ Saha. Dịch nghĩa kham nhẫn, đại nhẫn. Cõi chúng sanh đang sống. Cổ nhân có câu:
    “Ta bà khổ, Ta bà khổ,
    Ta bà chi khổ thùy năng sổ”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ bảo:
    “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”.

    CHÁNH VĂN

    133.-Nay rừng bụi có người mở ngõ,
    Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
    Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
    136.-Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
    Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường-ngạnh,
    Ôi ! kể sao cho hết thói đời !
    Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
    140.-Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 133 đến câu 140)
    Ngày xưa rừng rậm u uất, ít người lui tới, đường xá cheo leo nên kẻ đi rừng rất khó khăn và thường hay lạc lối, người thợ rừng phải nắm chắc trong tay mới có thể tiến trình được.
    Ngày nay rừng núi được hanh thông, có người đứng ra mở đường dẫn lối. Đường lối đó là con lộ quang minh chánh đại, đúng chân truyền, khế lý, khế cơ của chư Tổ chư Sư từ ngàn xưa để lại. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng sanh nên noi theo bước chân của Ngài để tu tiến hầu đạt thành sở nguyện. Ngài ví người đi rừng phải tầm dấu chân của thỏ, đường đi của dê để thoát ra chốn hiểm nguy.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ trên đường truyền giáo lúc người Pháp tìm cách cản trở, rồi lại giục thúc bôn ba đây đó ví như vó ngựa, không cho Ngài được rảnh chơn thong thả. Nhưng Ngài thệ nguyện không chùn bước, mượn hoàn cảnh lưu đày nầy đổi lại cuộc vân du giáo Đạo, miễn sao làm tròn sứ mạng mới là toại chí và chừng đó tấm thân Ngài mới rảnh.
    Tuy nhiên con người của buổi Hạ nguơn dữ nhiều lành ít, ngỗ ngang cường ngạnh đủ điều, ít ai hướng về nẻo thiện lo trau tâm sửa tánh. Ngài cất tiếng buồn than cho thói đời và Ngài xác định: Lòng dạ con người đời nay chỉ biết đua chen theo con đường trụy lạc, sa ngã vào chỗ hư hèn nên phải chịu luân hồi chuyển kiếp lên lên, xuống xuống trong cảnh giả ảo trần hoàn.

    CHÚ THÍCH
    DẤU THỎ ĐÀNG DÊ: Dấu thỏ: Con thỏ đi qua để lại dấu. Đàng dê: Do chữ dương trường, đường cong quẹo khúc khuỷu như ruột dê. Nghĩa bóng: Chỉ cho giáo lý nhà Phật rất tinh tế, sâu kín huyền diệu phải tìm hiểu một cách chính xác để khỏi lạc vào tà đạo.
    GIỤC VÓ CU: Tiếng gió ngựa phi nhanh. Nghĩa bóng: Trên bước đường bôn ba khắp mọi nơi phải chịu nhiều vất vả.
    NGHINH NGANG, CƯỜNG NGẠNH: Nghinh ngang: Ngang tàng bướng bỉnh không phục tùng ai; Cường ngạnh: Cường: Mạnh mẽ. Ngạnh: Gai gốc, u nần. Nghĩa bóng, chỉ cho hạng người trời đánh thánh đâm, bất trị. Xã hội đời nay thiếu gì hạng người đó. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xác định:
    “Hung đồ cường nghịch một hồi cười reo.
    Đâu đây mà có hùm beo,
    Khéo bày bá láp nghe theo làm gì”.
    SAY SƯA: Say đắm triền miên không bao giờ dứt. Đức Thầy có câu: “Cớ sao đời còn mãi say sưa”.

    CHÁNH VĂN
    141.-Suối Tiên thanh đổ ra cuồn-cuộn,
    Tràn ruộng đồng gieo giống mới nên.
    Kẻ vô-tình chẳng có chí bền,
    Phải sa-ngã theo nơi mộng-ảo.
    Giấc mộng vàng đặng truyền đại-đạo,
    146.-Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 141 đến câu 146)
    Trên đường hoằng pháp, lời giáo pháp của Đức Tôn sư PGHH tuôn ra như suối đổ, làm thắm mát cõi lòng nhân thế, số người quy y thọ giáo rất đông, nhưng người tu thật tâm thì ít, còn người chạy theo hình thức quá nhiều. Chỉ được một thời gian hành đạo gặp nhiều khổ khó, kẻ vô tình phải chùn chân thối bước, sa ngã theo đường danh nẻo lợi, vật dục kim tiền.
    Nếu người tu chân chánh, đầy lòng vị tha luôn luôn được Trời Phật ủng hộ: các Ngài thị hiện trước mắt bằng thực tế, hoặc báo mộng trong giấc ngủ, hoặc mượn tay trước tác thi thơ Sấm Giảng.v.v…Như trường hợp của cậu hai Trần văn Nhu, ông Ba Thới thế hệ BSKH…và gần nhất là ông Thanh Sĩ, một môn đệ Đức Huỳnh Giáo Chủ được Phật truyền Pháp nhiều lần. Cuộc đời của Ngài là cả sự nghiệp hưng truyền Phật pháp PGHH từ quốc nội cho đến quốc ngoại.
    Vả lại, Niết Bàn là cõi tịch tịnh an nhiên, hoàn toàn trong sạch, dù người tu hay không tu khi được trông thấy thực tế, hoặc trong giấc mộng, hay trong kinh điển, cả thảy đều say mê trìu mến. Nhưng người sâu duyên thì đuợc đại ngộ, kẻ kém duyên phải chịu nhiều vất vả khó mà nhận được chơn lý.

    CHÚ THÍCH
    SUỐI TIÊN THÁNH: Suối: Dòng nước chảy qua rừng núi. TIÊN: Phạn ngữ: Richi, bậc tu trên núi đã chứng đắc, có phép thuật và trường sanh bất lão. Đức Thầy cho biết:
    HTML:
    “Thơ với phú Thần Tiên giáng bút”.
    THÁNH: Bậc đã chứng đắc hoàn toàn giác ngộ, không còn ô nhiễm trần tục. Đức Thầy xác nhận: “Cư trần bất nhiễm là người Thánh. Suối Tiên Thánh: Là lời thuyết pháp của Tiên Thánh đổ ra cuồn cuộn như suối chảy không phút nào ngưng và có giá trị thực tiễn, đưa người từ bờ mê sang qua bến giác, thành công chắc chắn.
    CUỒN CUỘN: Chạy uốn khúc, nước bắn lên tung tóe, cuộn vòng triền miên.
    TRÀN RUỘNG LÒNG: Tràn: Đầy; Ruộng Lòng: Cũng gọi là Ruộng tâm tức tâm từ bi của hành giả. Tràn Ruộng Lòng: là đầy tràn tâm từ bi của giác ngộ.
    VÔ TÌNH: Không có tình cảm. Nghĩa bóng: Chỉ cho người kém duyên đạo pháp.
    SA NGÃ: Rơi rụng vào chỗ hư hèn.
    MỘNG ẢO: Mơ mộng ảo huyền. Nghĩa bóng: Mơ mộng việc tục trần, đam mê danh, lợi, tình.
    GIẤC MỘNG VÀNG ĐẶNG TRUYỀN ĐẠI ĐẠO: Giấc chiêm bao thấy được điềm lành. Ông Trần văn Nhu (con Đức Cố Quản Trần văn Thành) trong khi thập tử nhất sanh, ông nằm trên chiếc võng bỗng té khụy xuống bộ ván, rồi liệm đi suốt ba ngày. Bữa thức, ông tự nhiên ngồi dậy và cho biết: trong mấy ngày rày ông được Đức Phật Thầy Tây An truyền Đạo và chỉ rõ việc vị lai. Từ đó, ông bắt đầu thuyết giảng đạo lý và đem con ấn BSKH của Đức Phật Thầy giao cho Đức Cố Quản trước kia tiếp tục hoằng truyền, sau trở thành bậc liễu ngộ trong thập nhị hiền thủ.
    VÔ SANH: Không còn sanh diệt, chỉ cảnh niết bàn tịch tịnh an nhiên.

    CHÁNH VĂN

    147.-Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
    Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
    Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
    Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
    Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
    152.-Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 147 đến câu 152)
    Căn cứ vào thời tiết và địa dư thì miền Nam chịu ảnh hưởng thủy triều lên xuống hai mùa rõ rệt. Đông Xuân thì nước hạ thấp dần đến lúc cạn kiệt, đồng ruộng khô khan, cỏ cháy. Nhưng từ độ cuối Hè sang Thu nước cứ dâng cao mãi ngập cả ruộng đồng, đê điều trắng dã. Nguyên nhân là do dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Tạng đổ dòng xuống.
    Bàn luận việc đời kiếp sống con người cũng thế, cũng có lúc lớn ròng, khi thạnh khi suy, lúc may lúc rủi. Khi lên, lên tận chín từng mây. Khi xuống, xuống tận đáy ao hồ. Đó là lẽ thường tình của kiếp nhân sinh thế sự.

    CHÚ THÍCH
    ĐỒNG KHÔ CỎ CHÁY: Ruộng đồng cằn cổi, nứt nẻ, cây cỏ héo xào có thể đốt cháy.
    GIAN NAN: Khó khăn nguy hiểm.
    KHAO KHÁT: Thèm muốn gắt gao. Đức Giáo Chủ bày tỏ tâm nguyện: “Đi tới đâu giúp người khao khát”.

    CHÁNH VĂN

    153.-Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
    Bay cả trời tỏ ý từ-bi.
    Khắp thế-gian con thảo phục quì,
    156.-Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 153 đến câu 156)
    Vì sống trong vòng kềm kẹp của Thực dân Pháp, xác thân ĐHGC phải chịu lưu đày đây đó, không được tự do như cánh chim bằng tung bay khắp cả bốn phương trời; nên Ngài ước mong đất nước sớm hòa bình, toàn dân hát khúc khải ca đồng quì trước bệ ngọc của Đức Ngọc Đế hoặc vua Thánh Đức đời Thượng nguơn sắp đến. Như các Tiên ông được sống cuộc đời thảnh thơi nhàn nhã, muốn sao tùy ý, “Ngao du tứ hải dạo khắp Tiên bang cảnh an nhàn của người liễi Đạo muôn ngày vô sự, long sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh chê khen ? Vì lòng từ ái chứa chan, thương bánh tính tới hồi tai họa. Phật Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa Bình cho vạn quốc chư bang”. Cũng vì sứ mạng thiêng liêng như trên mà Phật Trời chưa đến ngày phân định, nên Đức Thầy phải chấp nhận thân cá chậu chim lồng, tủi hổ thế thôi, thật ra muốn thoát khỏi vòng cương tỏa ấy cũng rất dễ dàng, như Ngài xác định:
    Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
    Cớ sao đời còn mãi say sưa ?
    Không tìm thấy đặng hưởng phước thừa.
    Ngày lập Hội tay vin cành quế.
    Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
    Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng”.

    BẠCH HẠC: Bạch: trắng; Hạc: chim hạc. Tương truyền chim hạc sống đến 1.000 năm. Hạc trắng ngày xưa các vị Tiên Trưởng thường cỡi.
    TỪ BI: Từ là hiền lành; Bi là thương xót. Hai trong tứ đức của chư Phật (từ, bi, hỉ, xả). Như Đức Thầy đã khẳng định: “Từ bi buộc chặt cõi lòng”.
    NGỌC ĐẾ: Vua Trời.

    CHÁNH VĂN

    157.-Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
    Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
    Phải chuyển-xây trái đất một bầu,
    160.-Đặng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
    Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
    Xử phân người cùng vật thưởng phong.
    Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
    164.-Có địa-ngục Thiên-đường hay chẳng.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 157 đến câu 164)
    Sự nhục vinh trong trần thế xét kỹ đều do hóa công sắp đặt. Thế hệ nầy qua, kế thế hệ khác tiếp, từ một đơn vị nhỏ hẹp, đến cái bao la trừu tượng cũng đều nằm trong bộ máy tuần hoàn.
    Cơ vận chuyển của trời đất rất huyền rất diệu, kẻ phàm nhơn không lường tính kịp. Theo đạo giáo khoảng thời gian từ vô thỉ đến vô chung tạm chia làm ba thời kỳ: Thượng, Trung, Hạ. Cũng gọi là lý Tam nguơn. Thời Thượng nguơn là thời Thánh đức, Trung nguơn là là thời ăn no mặc ấm hưởng nhàn; đến Hạ nguơn thì lòng dạ đồi dời nham hiểm đấu tranh giành lấy sự sống. Cũng là thời chọn lọc lành còn dữ mất, Phật Tiên Thần Thánh lâm phàm gồm phân định tìm kiếm người lương thiện để lập lại hội thi, tội trừng, công thưởng con người và vạn vật trên quả địa cầu. Luật nầy rất là công bằng chánh trực không hề tư vị một ai.
    Muốn thấy hiện thực bộ luật tuần hoàn, trời đất sắp đặt tới đây ta phải rán lo tu để được sống sót hầu chứng kiến cảnh Đức Tôn Sư PGHH Trên đài cao gọi các linh hồn”.Chừng đó kẻ dương trần mới thấu rõ bộ luật của hóa công, và rành phân cảnh Thiên đàng, Địa ngục.

    CHÚ THÍCH
    THẾ HỆ: Thời đại có những mối liên lạc ràng buộc với nhau, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Đức Thầy có câu: “Kim với cổ nhìn xem thế hệ”.
    SẮP ĐẶT: Cơ trời đã định sẵn.
    CHUYỂN XÂY: Vận chuyển xây vần.
    LỪA LỌC: Lựa chọn đúng chuẩn.
    SỬA SANG: Sắp đặt lại cho tốt hơn. Đức Thầy bảo: “Phận làm người thủng thỉnh sửa sang”.
    TIÊM TẤT: Cũng gọi là tươm tất. Thứ tự chu đáo.
    XỬ PHÂN: Xét rõ để giải quyết. Đức Thầy khuyên: “Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.(SG, Q.3).
    DƯƠNG TRẦN: Cõi bụi bặm. Cõi chúng sanh đang sống. Đức Thầy mong mỏi: Ước sao mình như cuội trên trăng, Đặng soi khắp cả dương trần”.(Thu đã cuối).
    THIÊN CÔNG: Tài khôn khéo của máy trời.
    ĐỊA NGỤC: Tiếng Phạn Niraya, naralea, phiên âm là Nê lê giả, na lạc ca. Dịch là Địa ngục. Đức Thầy cho biết: Mê muội ác hung về địa ngục”.
    THIÊN ĐƯỜNG: Cõi trời. Đức Thầy phân định: “Địa ngục cũng tại tâm làm quấy, Về Thiên Đàng tâm ấy tạo ra”.

    CHÁNH VĂN

    165.-Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
    Suy cho tường rồi sẽ biện-minh.
    Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
    168.-Cho phép Lão tố-trần đôi lẽ.


    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 165 đến câu 168)
    Tất cả mọi người mọi giới, sau khi nghe lời ĐHGC bình phán bộ máy tuần hoàn, cách xử phân của trời đất, sự lừa lọc con Tiên cháu Phật của cha hiền Ngọc Đế, và đâu là Thiên đàng và đâu là Địa ngục thì hãy yên lặng nghĩ suy cho tường tận rồi mới biện minh cho đúng lẽ thật.
    Nhân lúc vui vẻ ĐHGC xin phép với Đấng Thiên Đình cho Ngài bày tỏ tâm niệm tường trình công việc ở thế gian, đồng thời Ngài tỏ lời cám ơn và từ tạ các đấng Thiêng liêng.

    CHÚ THÍCH

    BIỆN MINH: Nói cho rõ ràng, làm sáng tỏ lẽ phải trái.
    THIÊN ĐÌNH: Thiên:Trời; Đình: Nơi vua tôi gặp nhau. Triều đình ở trên trời.
    TỐ TRẦN: Là sẵn sàng bày tỏ một việc gì.

    CHÁNH VĂN

    169.-Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,

    Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
    Trông bá-gia tìm Đạo quá mòm,
    172.-Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.

    NAM-MÔ A-DI ĐÀ PHẬT

    Sa Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh Thìn.
    (Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần-tử muốn thử coi sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).

    LƯỢC GIẢI
    Để kết luận bài SA ĐÉC, Đức Tôn Sư PGHH nhấn mạnh rằng lời Thầy dạy trong đây thật là cặn kẽ. Bao nhiêu tình bác ái nhủ khuyên Ngài đã dành sẵn đều tom góp vào đây.
    Trên đường phiêu lưu độ chúng, Ngài nhận thấy nam nữ tu hành tìm Đạo khá khổ nhọc, vậy bổn đạo chớ nản lòng. Viết đến đây, Ngài giã biệt mọi người và cũng ước mong cho tất cả sống cảnh thanh bình thạnh thái.

    CHÚ THÍCH
    CẶN KẼ: Kỹ lưỡng tỉ mỉ.
    BÁC ÁI: Bác: rộng lớn; Ái: lòng yêu thương rộng lớn. Đức Thầy có câu: “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh”.
    BÁ GIA: Trăm nhà. Ý chỉ mọi người.
    ƯỚC MONG: Mong muốn được như ý.
    QUÁ MÒM: Quá kiệt sức mòn mỏi.
     
  13. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    5.- NANG THƠ CẨM TÚ


    XUẤT XỨ
    Trên bước truân chuyên truyền Đạo, tấm thân Đức Huỳnh Giáo Chủ phải xa quê hương, lưu lạc xứ người. Vì nghĩ đến đấng sanh thành và tình sư đệ chia tay cách biệt, chẳng biết ngày nào mới trùng hưng, nên Ngài cất tiếng buồn than và tỏ cho mọi người được biết: Âu cũng là sự sắp đặt của hóa công, chớ lòng Ngài không muốn vậy. Nhưng “Tuy thân Thầy lướt cuộc gió sương, Mà thỏa chí tang bồng hồ thỉ” Và: “Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.
    Hôm ấy nhằm ngày 29/5 năm Canh Thìn, nhà đương cuộc Pháp dời Ngài đến làng Nhơn Nghĩa (Xà No). Đức Giáo Chủ sáng tác bài: “Nang Thơ Cẩm Tú”để nói lên ý chí tự tin và tài thao lược của đấng giác ngộ.

    VĂN THỂ
    Đức Giáo Chủ PGHH viết bài nầy bằng thể Thất ngôn trường thiên, lối thuyết giáo, dài 214 câu. Hai câu chót viết theo thể Lục bát bằng lối ngâm. Khởi đầu bằng câu: “Trời thanh lặng gió đưa hiu hắt”. Và chấm dứtbởi câu “Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.

    NỘI DUNG
    Đức Huỳnh Giáo Chủ nói lên nỗi lòng héo hắt xa quê hương, lìa cha mẹ, ly cách Thầy trò. Nhưng đây là cơ thử thách để tỏ rõ tấm lòng của bậc trượng phu có nao núng cùng chăng ? Rồi Ngài bày tỏ chí khí của bậc anh hùng mang một hoài bão to tác “Lấp biển vá trời”, dựng lên thời thế oanh oanh liệt liệt. Sau cùng Ngài cầu chúc bá tánh hưởng cuộc đời vui tươi hạnh phúc đồng hát khúc khải ca, muôn nhà thạnh thái.

    CHỦ ĐÍCH
    Đức Huỳnh Giáo Chủ mong mỏi tín đồ và toàn dân nước Việt nuôi chí quật cường lên để “Phá tan óc tinh thần nhu nhược”“Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Sau đó, Ngài kêu gọi tinh thần đoàn kết không phân biệt Bắc Nam rồi Ngài đơn cử những bậc anh hùng để kích thích lòng nghĩa khí của những trang tuấn kiệt, noi theo gương hạnh của người xưa trong sách sử.

    CHÁNH VĂN

    1.-Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắt,

    Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh-lùng.
    Gẫm xác trần còn cách cội thung,
    2.-Đâu có được giũ mùng quạt gió.


    CHÚ THÍCH
    NANG THƠ: Nang là cái đãi, cái túi bao (bao thư). Thơ: Bài viết thể văn vần (vận văn) bao đựng thơ văn. Nghĩa bóng: Bài văn tiên đoán vận mệnh tương lai được để lại cho hậu thế.
    CẨM TÚ: Cẩm: gấm; Tú: thêu. Sự đẹp đẽ như gấm thêu. Nghĩa bóng: Văn chương hay đất nước đẹp đẽ như gấm thêu.
    HIU HẮT: Nhè nhẹ. Ôn Như Hầu có câu: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt”. Đức Thầy cũng diễn tả: “Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ”.
    LẠNH LÙNG: Lạnh lẽo. Nghĩa bóng: Không có vẻ ân cần sốt sắng. Đức Thầy cũng bảo: “Lạnh lùng mây bạc bị luồng giông”.
    CỘI THUNG: Cội: gốc rễ. Thung: loài cây sống lâu, biểu tượng người cha (thung cỗi huyên già) cha già.
    GIŨ MÙNG QUẠT GIÓ: Rung mạnh cho sạch bụi bặm, quạt mạnh để đuổi muỗi mòng. Nghĩa bóng chăm lo săn sóc cha mẹ già yếu.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 1 tới câu 4)
    Vào một ngày giữa mùa Hè trời trong thanh lặng, cảnh vật nên thơ, gió đưa hiu hắt khiến lòng lữ thứ hoài cảm bao mối tâm tư; Đức Thầy ngồi một mình đối diện với bóng đèn khuya chợt nhớ đến đến hoàn cảnh ly hương mà lòng Ngài bắt lạnh lùng chua xót. Gẫm lại xác nầy do cha mẹ sanh ra trăm cay nghìn đắng mới được nên người, giờ đây phiêu lưu gió bụi cách biệt song thân, cái ân sanh thành ấy biết chừng nào đền đáp được. Âu cũng là số mạng trớ trêu. Nghĩ rất buồn thay cho số phận!

    CHÁNH VĂN

    5.-Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,

    Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
    Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
    8.-Nào phải giống chim muông điểu-thú.
    Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
    Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.
    Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
    12.-Nên còn ngại bước đường trở gót.


    CHÚ THÍCH
    LŨ Ó: Lũ: bầy. Ó: Con ó. Bầy con ó. Nghĩa bóng chỉ cho bọn Thực dân.
    NGẬM NGÙI: Thương nhớ trong lòng không nhớ ra. Bùi ngùi xúc động.
    LỤY NGỌC: Lụy: lệ nước mắt. Ngọc: Quý báu. Ý chỉ bậc vương giả. Nước mắt của kẻ giàu sang hay người con gái đẹp. Đức Thầy có câu: “Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn”.
    CHIM MUÔNG ĐIỂU THÚ: Các giống chim và thú vật. Trong Cung Oán có câu: “Kìa điểu thú là loài vạn vật”.
    QUÊ HƯƠNG: Nơi mình sinh ra. Đức Thầy có câu “Quê hương rày đã dặm tràng sơn xuyên”.
    HẤP THỤ: Nhận chịu lấy, thu nhặt vào.
    LUNH TUNG: Loạn xạ, không có thứ tự, khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.
    TRỜI ÂU: Cũng gọi là trời Tây (do chữ Âu Tây). Chỉ cho Châu Âu, châu này gây nên Đệ nhị thế chiến (1939).

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 5 đến câu 12)
    Cuộc trùng phùng giữa thân quyến và Tớ Thầy chưa được hả hê, bỗng nhiên hung tin bất ngờ đưa đến, rồi người Pháp dùng áp lực bắt buộc lưu đày Ngài nhiều nơi do họ chỉ định, làm cho thân xác Đức Huỳnh Giáo Chủ phải chịu vày vò khổ khó. Ngài phải chịu cảnh lìa quê hương một cách đột ngột không một lời từ giã. Ngài buồn tủi xác thể con người chớ nào phải loài cầm thú chi mà bọn thực dân đối xử quá nhẫn tâm, quá điểu giả. Ôi ! Cuộc nhân tình thế thái nào ai khôn lường trước được.
    Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, nghĩa sanh thành dưỡng dục cù lao, tình Thầy tớ ruột rối tơ vò, ân nghĩa mặn nồng như chim liền cánh, cội liền cành thế mà nay phải chịu cảnh chia ly cách biệt. Ôi ! Có cái khổ nào bằng cảnh:
    “Người mình thương bỗng lại chia lìa,
    Khi khóc than nước mắt đầm đìa.
    Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót”.

    Tạo hóa nỡ bày chi lắm điều chua cay quá nhỉ !
    Lại nữa cuộc chiến cứ bùng nổ lung tung khắp bầu trời Âu Á làm cho nhân loại điêu linh trong cơn binh lửa, làm trở ngại bước đường về. Thế nên Đức Tôn Sư PGHH phải đành chấp nhận thực tế phũ phàng quên câu nghĩa cũ.

    CHÁNH VĂN


    13.-Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,

    Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
    Con lạc cha con hỡi u-ơ,
    16.-Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
    Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
    Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương.
    Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
    20.-Cho chim phụng mặc tình sè múa.
    Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
    Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
    Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
    24.-Ta thỏa chí hô-hào trung-nghĩa.
    Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
    Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.
    Tuy ngày nay chưa được ấm no,
    28.-Sau được dựa nơi non nhược thủy.


    CHÚ THÍCH
    THẢNH THÓT: Nghe rõ từng tiếng một. Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu: “Giọt ba tiêu thảnh thót cầm canh”. Ý nói: Lời thở than đau xót của chư bổn đạo khắp nơi Đức Tôn Sư đều nghe rõ từng tiếng, từng cá nhân.
    ƯỚC MƠ: Mong mỏi hy vọng, Đức Thầy có câu:“Ước mơ thế giới lân Hoà Hảo”.
    U Ơ: Nói không rõ tiếng. Ông Nguyễn Thanh Tân có câu: “U ơ bầy bướm hỡi chờ xuân”.
    NGẨN NGƠ: Kinh ngạc, lấy làm lạ. Nghĩa bóng: Không thiết sự đời nữa. Đức Tôn Sư từng bày tỏ:
    “Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,
    Trị chơi ít bịnh ngẩn ngơ xóm riềng”.

    VẬN THỜI: Khí số xoay vần theo diễn tiến của thời gian. Đức Thầy xác định:
    “Vận thời luân chuyển đưa Ta tới,
    Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên”.
    Hoặc giả: “Xét xem hai chữ vận thời còn xa”.

    TIỆC QUỲNH TƯƠNG: Quỳnh: Tên một loại ngọc đẹp. Nghĩa bong: Tốt đẹp quý giá. TƯƠNG: Nước dùng để uống. Rượu ngon. Tiệc Quỳnh Tương: Tiệc của các bậc Tiên gia dọn đãi Thánh chúa và chư Tiên hội ăn mừng các ngày đại lễ. Đức Thầy có câu:
    “Chén Quỳnh Tương gát điều gai ngạnh,
    Vui tinh thần bày biện cuộc cờ.
    Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,
    Bày thi phú than qua thời thế”.

    CÂY NGÔ ĐỒNG: Loại cây to, gỗ nhẹ, thường dùng làm đàn. Thường thường cứ đến mùa Thu thì lại trụi cành. Tương truyền: Nơi nào có cây ngô đồng tức có chim phụng đến đậu. Nghĩa bóng: Cây quý. Cổ thi có câu: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”.(Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu).
    ĐƯỢM SƯƠNG: Đượm: Thắm thía; Sương: Hơi nước ở trong không khí, ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh thường đọng lại trên cây cỏ. Đượm Sương: Đượm hơi sương lạnh. Nghiã bóng: Thỏa lòng mong muốn.
    CHIM PHỤNG: Chim Phượng Hoàng. Con trống là Phụng, con mái là Hoàng, mình bạc, mỏ gà, mắt người, cổ rắn, hàm én, lưng rùa, đuôi cá, lông ngũ sắc; chẳng phải cây ngô đồng thời không đậu, chẳng phải cây trúc thời không ăn. Phụng Hoàng là giống chim đem lại điềm lành (điều lành). Khi nào Phụng Hoàng ra đời thì có Thánh nhân. Một trong bốn con vật linh thiêng: (Long, lân, qui, phụng). Đức Thầy có câu:
    “Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng,
    Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.

    SÈ MÚA: Sè: Giương cánh ra. Múa: Thể hiện những động tác mềm mại, liên tiếp biểu hiện những tư tưởng tình cảm. Sè múa: Cử động đôi cánh và hai chân ăn nhịp theo điệu khúc tình tiết xúc động. Nghĩa bóng: Biểu hiện tình tiết thỏa mãn của lòng mong muốn.
    SUM VẦY: Đoàn tụ hội hiệp, Đức Thầy có câu:“Trên cùng dưới sum vầy một buổi”.
    MÂY LÀNH: Mây: Đám hơi nước trong khí quyển ngưng lại, lơ lửng trên bầu trời. Lành: Điềm lành. Nghĩa bóng: Có Trời Phật che chở.
    TRỜI NAM: Chỉ cho nước Việt Nam. Đức Thầy có câu: “Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ”.
    THIÊN LA: Thiên: trời; La: Bao la. Do câu: “Thiên la địa võng”, lưới trời lồng lộng. Nghĩa bóng: Luật trời hay luật nhân quả. Đức Thầy có câu: “Ly kỳ thiên định dĩ thiên la”.
    THÁNH HIỀN: Bậc Thánh và bậc Hiền, theo Nho học cho rằng trong nhân loại có ba hạng người: Sinh nhi tri (không học mà biết) đó là bậc Thánh nhân. Học nhi tri (có học thì biết) đó là bậc Hiền nhân. Học nhi bất tri (học mà vẫn không biết) đó là người ngu muội. Đức Thầy có câu:
    “Thánh hiền chẳng biết sao vừa lòng dân”.
    NÔM NA: Do thành ngữ: “Nôm na là cha mách qué”. Theo lối nôm thì được cấu tạo như sau. Thí dụ: Chữ “Biết” (còn gọi là Biệt). Khi đọc là Biết, khi đọc là Biệt. Tùy theo chỗ đứng của nó. Trong Kiều có câu:“Thấy chàng đau nỗi biệt ly”. Và câu “Thoát trông nàng đã biết tình”. Nghĩa bóng: Dùng chữ nghĩa để lại đời. Đức Thầy có câu: “Theo học cổ nôm na ít tiếng, Làm nhiều điều xao xuyến nhơn tâm”.
    NÔM: Tiếng thông dụng của người Việt Nam xưa. Chữ Nôm đối với chữ Nho. Chữ Nôm hoặc dùng nguyên chữ Nho, hoặc lấy hai ba chữ Nho ghép lại để đọc theo tiếng nói của người Việt. Ví dụ: Túc cầu nói nôm na là đá bóng. Nghĩa rộng: Dùng tiếng nước nhà. Đức Thầy có câu: Ngày nay ta cũng nôm na”, theo mỹ ý toàn câu: Chữ nghĩa Thánh Hiền xưa, hôm nay Đức Thầy tạm gượng ép thành chữ nghĩa để viết ra Sấm Giảng cho người Việt chúng ta xem.
    HÔ HÀO: Hô: kêu gọi; Hào: la lớn. kêu gọi kích động mọi người cùng làm một việc trọng đại.
    TRUNG NGHĨA: Trung: hết lòng cới vua, với nước; Nghĩa: làm theo chánh nghĩa, hoặc theo lẽ phải. Trung Nghĩa: Hết lòng phò tá với dân với nước theo con đường chánh nghĩa. Dù có hy sinh tánh mạng chẳng nao lòng. Đức Thầy có câu:
    “Thương những người trung nghĩa vẹn toàn”.
    GIỐNG HIỀN XƯA: Giống: hột giống. Hiền xưa: hiền nhiều kiếp trước. Giống hiền xưa: Giống lành sẵn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Do câu sách Thánh:“Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”.(Người mới sanh, tánh vốn lành). Nghĩa rộng: Hột giống Phật tâm mình xưa kia đã bị vùi lấp, ngày nay mới bắt đầu tỉa lại.
    THƠM THO: Mùi hương dễ chịu bay loang tỏa khắp nơi. Nghĩa bóng: Việc hợp với đạo lý khiến mọi người ưa thích làm theo. Đức Thầy sách tấn: “Thơm tho gia trụ danh đề Tổ Tông”.
    ẤM NO: Đầy đủ về vật chất. Xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Truyện Kiều có câu: “Tay không chưa dễ tìm vành ấm no”.
    NHƯỢC THỦY: Tên một con sông ở về cực Tây nước Tàu (Tr.Hoa). Theo sách “Sơn Hải kinh” có nói về nước sông ấy có tính rất yếu, không đỡ nổi hột cải. Nghĩa rộng: Ý chỉ cảnh Tiên nơi thoát tục.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 13 đến 28)
    Sau cái hung tin bất ngờ, đồng đạo trẻ già phải chịu cảnh “con xa cha, Thầy lạc tớ”, trăm người như một, não nuột sầu bi, khó đứng khôn ngồi, lệ ứa thâm mi, dường như cắt đau từng khúc ruột. Ôi ! Khổ ơi là khổ, không có cái khổ nào bằng cái khổ “kẻ ở người đi”. Nhưng rồi lần lượt thời gian cũng trôi qua, ai cũng đều trông ngóng vận thời đưa đến trong một ngày gần đây, tớ thầy đồng sum hợp Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê, Ấy thời đại thánh tiên trổ mặt”.
    Để cùng xiết chặt tay nhau dự hội Quỳnh Tương nơi miền Bảy Núi “Trên non Tiên văng vẳng tiếng phụng hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.
    Chừng đó nhà nhà đều không đóng cửa. Ngoài đường của rơi không người lượm. Chim phụng gáy đầy ngoài đồng nội. Cây ngô đồng mọc đầy đường, cành lá tốt tươi, hoa trổ bốn muà thơm ngát. Đó là cảnh “Bốn biển một nhà Cha, Phật, Thánh”. Khắp cả trời Nam đều có mây lành bay tủa, các bậc Thần Tiên đều lâm phàm, quăng phép mầu: Trên bố trí thiên la, dưới quăng địa võng, bao bọc khắp thành trì miền Bảy Núi. Thật là cảnh an nhàn vui đẹp chưa từng thấy.
    Chừng đó nền Đạo Thánh mới được rạng rỡ và gương trung nghĩa được danh bia khắp chốn. Giá trị của người tu được nâng cao tột bực. Bao nhiêu ước vọng hoài mong trong nhiều tiền kiếp Đức Huỳnh Giáo Chủ nung nấu từ ngàn xưa rồi đây sẽ trở thành hiện thực. Hoa từ bi sẽ nở rộ khắp trời Nam, mọi nhà, mọi giới, mọi hồn linh đều được hoan ca vui khúc khải hoàn. Tuy rằng hiện giờ thân xác Thầy phiêu lưu trôi giạt, như cánh buồm không định hướng, toàn dân chưa được ấm no. Nhưng ngày sau chắc chắn sẽ được tròn nguyện ước trên cảnh non bồng nước nhược.

    CHÁNH VĂN


    29.-Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,

    Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
    Cho người lành dạ ái bắt nôn,
    32.-Cúi đầu trước quy-y Phật-Pháp.
    Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
    Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
    Vẽ cho dân lập chí râu mày,
    36.-Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
    Thân nặng nề như chim ô-thước,
    Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
    Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
    40.-Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.


    CHÚ THÍCH
    TRƯNG BÀY: Trưng: Chứng cớ. Bày: Phô trương sắp đặt. Nghĩa rộng: Có bằng chứng rõ rệt. Đức Thầy có câu:
    HTML:
    “Trưng bày tích cũ đành rành”.
    CANG KỶ: Còn gọi là cương kỷ. Trật tự và quy luật của một quốc gia. Chữ Cang có nghĩa là giềng mối: Theo quan niệm xưa xã hội Á Đông lấy tam cang (Quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang) và Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) làm trọng. Đức Thầy có câu: “Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.
    TỈ MỈ: Phân ra nhiều phần nhỏ, rất chi li.
    RUNG HỒN: Làm xao động tâm hồn. Tiếng đàn có cảm xúc rung động trái tim của đối tượng.
    DẠ ÁI: Dạ: lòng. Ái: yêu. Dạ ái: Lòng yêu thương sẵn có nơi tâm hồn nhân đạo của con người.
    BẮT NÔN: Bắt nôn nóng làm nhanh lên. Ý Đức Thầy khuyên: Làm người nên phải nôn nóng quy y phật pháp.
    MƯA NẮNG TÁP: Nói cho đủ “nắng táp mưa sa”. Ý chỉ cảnh gian truân vất vả, gây bao nỗi cực nhọc. Ca dao có câu:
    “Mưa xuân lác đác vườn đào,
    Công anh đắp đất ngăn rào trồng hoa.
    Ai làm gió táp mưa sa,
    Cho cây anh đổ cho hoa anh tàn”.

    ẤM ÁP: Ấm: Dễ chịu. Nghĩa bóng: Sự thỏa mãn về vật chất và tinh thần.
    LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.
    RÂU MÀY: Nghĩa chữ Tu mi. Chỉ người đàn ông. Đưc Thầy có câu: Sống sanh ra phận râu mày”.
    TINH THẦN: Tinh: Cái gì thuộc về linh hồn (trái với vật chất). Thần: Phần thiêng liêng sáng suốt của con người. Nói chung về phần tâm hồn. Đức Thầy có câu: “Lấy tinh thần hiệp vén ngút mây”.
    NHU NHƯỢC: Nhu: mềm mỏng. Nhược: Yếu mềm. Lấy nhu để thắng cương. Đức Thầy có câu: “Gìn tâm nhu nhược chờ vận đến”.
    CHIM Ô THƯỚC: Ô thước còn gọi là cầu Ngân do chim quạ kết thành cầu bắc qua sông Ngân hà. Do điển tích Chức Nữ và Ngưu Lang: Kẻ dệt vải, người chăn trâu. Cả hai đều siêng sắn, Thượng Đế thương tình cho kết làm chồng vợ. Nhưng khi có đôi bạn sanh ra lười biếng, nên bị đày, lấy sông Ngân làm ranh giới. Hằng năm chỉ đến đêm trừ tịch (Mùng 7 tháng 7) khi chim quạ nối đuôi nhau thành cầu, hai người mới được gặp nhau. Đức Thầy có câu:
    “Chim ô đà dựa cầu ngân,
    Người xưa trỏ gót cho gần người nay”.

    Ở đây Đức Thầy ví mình như chim Ô Thước, chúng sanh nhờ lập công bồi đức ngày sau được gặp lại Ngài.
    CẦU ĐÁ SÔNG NGÂN: Cầu đá: Bắc cầu bằng đá. Tương truyền: Chim quạ đội đá bắc cầu qua sông Ngân. Sông Ngân: Nghĩa của chữ Ngân hà. Tức là con sông Bạc, danh từ dùng gọi con đường trắng ở về phía đông trên trời người ta còn đặt tên là Ngân hà, hay Thiên hà tức là con sông trên trời. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Trăm năm thề chẳng lòng phàm, sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người”, và trong thơ có câu:
    “Đêm đêm trong dãy ngân hà,
    Chuỗi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
    Đêm mòn mà dạ chẳng mòn,
    Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”.

    BÁU NGỌC CHÂU TRÂN: Báu ngọc: Đồ làm bằng ngọc ngà châu báu. Châu: Hạt trai. Trân: Quý. Hạt trai quý báu. Báu ngọc châu trân: Đồ quý giá bằng ngọc ngà được người đời trân trọng.
    CON THẢO: Người con hiếu thảo.
    NHUẦN ÂN: Gội nhuần ân đức.
    THÁNH ĐẾ: Ông vua đắc quả Thánh. Đức Thầy có câu: “Rày gặp mưa nhuần ân Thánh Đế”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 29 đến câu 40)
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ví lời Sấm Giảng như một bản đàn thâm diệu. Ngài rung động đê mê để đánh thức bao tâm hồn có căn lành sớm quay về nẻo giác. Giữ gìn thuần phong mỹ tục kỷ cương của tôn giáo, lo tu hành tiến thẳng về cảnh Tiên Phật.
    Ngài chẳng ngại chi thân bị sóng dập gió vùi, chẳng màng đến cảnh giàu sang phú quý của thế nhân, miễn làm sao chúng sanh biết tu thân lập mạng tỏ ra chí khí trượng phu nam tử, dũng mãnh tiến xa trên đàng giải thoát, đánh tan đầu óc nhu nhược.
    Mang lấy thân phàm rất là nặng nhọc, hơn nữa bị cảnh lưu đày, nhưng ý chí vùng lên không bao giờ chùn bước, Ngài quyết làm xong cầu đá lấp ngang dãy Ngân hà như loài chim Ô thước cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Lòng Thầy như thế đó, biết trò có đủ khả năng, tròn công đức, đủ điều kiện gặp gỡ trùng phùng như chàng Ngưu, ả Chức hay chăng ? Trên đường truyền giáo miễn sao tròn chí nguyện, thành công tốt đẹp, hoàn thành nhiệm vụ nhà nhà no ấm được gội nhuần ân đức của Thánh Vương, tấm thân của Đức Thầy không màng chi báu ngọc châu trân.

    CHÁNH VĂN

    41.-Đứng anh-hùng dựng nên thời-thế,

    Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
    Vội đem lòng cượng-lý ghét ghen,
    44.-Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.
    Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,
    Đang trông ngày tới số bắt hồn.
    Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
    48.-Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.


    CHÚ THÍCH
    ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa. Hùng là vua các loài thú. Nghĩa bóng: Chỉ cho những người tài giỏi an bang tế thế. Theo sách Vương Thông cho biết: “Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng”.(tự biết mình là anh, tự thắng mình là hùng). Ông Nguyễn Công Trứ có câu: “Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay”.
    TRÙNG DẾ NHỎ NHEN: Con trùng con dế sống ở dưới đất rất là nhỏ nhen.
    CƯỢNG LÝ: Chống lại lẽ phải.
    GHÉT GHEN: Vừa ghét vừa ghen kẻ hơn mình.
    TIẾNG KÈN LỜI QUYỂN: Do thành ngữ “Giọng kèn giọng quyển”, lời dệt thêu thêm bớt không trung thực. Đức Thầy có câu: “Tiếng quyển tiếng kèn mặc ý bá gia”.
    ÂM TY: Cõi âm phủ. Tục truyền vua Tần Quảng Vương ngự trị tại đây, xét việc lành dữ của chúng sanh để tra tấn và hành phạt.
    NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN: Đầu trâu mặt ngựa, chỉ cho quỷ sứ dưới cõi âm ty.
    CÕI ÂM THẦN: Âm: cõi người chết. Thần: Buổi ban mai, cõi người sống.
    BỊNH SÁI ÔN DỊCH: Bịnh dịch tả, còn gọi là bịnh thời khí. Bịnh nầy ngày xưa thường hay ói, tả tử vong rất cao. Người ta bảo nhau là bịnh ôn dịch do trời đất ban cho. Ông Sư Vãi có câu:
    “Chết mà chẳng thấy trối trăn,
    Là kêu ôn dịch hay mang khốn nghèo”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng bảo:
    “Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 41 tới câu 48)
    Là đấng anh hùng trong trời đất, có bản lãnh cao cường tạo dựng thời thế, nghĩa là có khả năng thay thế cuộc diện: Từ thua bại trở thành thắng lợi, nên những ghét ghen cượng lý, thêm bớt, tiếng kèn lời quyển chỉ là lẽ tầm thường, nhỏ nhen ích kỷ, không đáng bận tâm, chí đại của Đức Huỳnh Giáo Chủ đâu cũng là như thế.
    Cái đáng sợ là lưỡi hái của tử thần, những dịch bệnh âm binh, những cảnh trừng phạt của ngưu đầu mã diện nơi chốn âm ty. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng sanh nên trực nhận xác thân vô thường, việc sanh, lão, bịnh, tử là trọng.

    CHÁNH VĂN

    49.-Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,

    Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
    Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
    52.-Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
    Nhìn gương kiến sao không biết hổ,
    Lũ gian thần nào biết Tổ-Tông.
    Làm âu-sầu một góc trời Đông,
    56.-Bị miệng sói thổi lông tìm vít.
    Văn cang-thường đem ra bày trích,
    58.-Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.


    CHÚ THÍCH
    TIÊN BANG: Nước Tiên hay cõi Tiên. Đức Thầy khuyến dạy:
    “Theo Ta đến chốn Tiên bang,
    Đặng coi các nước hội hàng Năm Non”.

    Nghĩa bóng ám chỉ cho nước Việt Nam sau nầy quí báu như cảnh Tiên.
    KHÓA CỔNG: Đóng cổng lại. Nghĩa bóng chưa đến thời kỳ.
    NHÀ CHA XƯA: Nhà cửa của Đấng Cha lành trước kia.
    CỬA ĐÓNG THEN GÀI: Nhà chưa mở cửa then còn gài chặt. Nghĩa bóng chỉ cho thời kỳ chưa có vua chúa xuất hiện.
    THẢO NGAY: Thảo: bảo dưỡng. Ngay: Ngay chánh. Hết lòng bảo dưỡng cha mẹ và trung thành với dân với nước.
    NGỖ NGHỊCH: Ngang tàng nghịch ngợm, xem mọi người không ra gì.
    ĐỨT CỔ: Bị chặt cổ. Nghĩa rộng: Bị chết một cách thảm khốc.
    GƯƠNG KIẾN: Gương lũ kiến. Loài vật biết kết đoàn và tận tình giúp đỡ nhau đến tận cùng. Lúc nào cũng tha mồi về đầy tổ để có no đủ cho cả đàn.
    LŨ GIAN THẦN: Nói cho đủ “Gian thần nịnh tặc”. Bầy tôi gian nịnh, ham sống sợ chết, a dua theo quyền thế, bợ đỡ để mua quan bán chức.
    ÂU SẦU: Lo lắng buồn phiền. Đức Thầy có câu: “Lòng ta thương chúng luống ưu sầu”.
    TRỜI ĐÔNG: Một vòm đất ở phía đông, gồm có nhiều quốc gia: Việt Nam, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan…
    THỔI LÔNG TÌM VÍT: Vạch lưng chim, thú vật để tìm vết thương, vết sẹo. Nghĩa bóng: Bới móc tìm chỗ xấu của người khác để chê bai, chỉ trích.
    VĂN CANG THƯỜNG: Văn: chữ nghĩa lời văn. Cang: giềng mối. Thường: Thường hành. Bổn phận thường hành của người. Nam thì có Tam cang, Ngũ thường. Nữ thì có Tam tùng, Tứ đức (theo quan điểm thời xưa của người Á Đông).
    Tam Cang: Quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang.
    Ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
    Tam tùng: Tùng phụ, tùng phu, tùng tử.
    Tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh.
    BÀI TRÍCH: Bài bác, chỉ trích để gạt bỏ ra.
    CỔ TÍCH: Truyện xưa tích cũ. Những di tích lịch sử từ xưa lưu truyền lại.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 49 tới câu 58)
    Theo cơ thiên định, luật hằng chuyển của lý Tam nguơn nay là thời mạt pháp, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối; nhà Tiên cửa Thánh của ông cha ta trước kia, tức dòng giống Tiên Bang còn cửa đóng then gài, chưa đến thời Minh Vương xuất thế, trị chúng thế giới bình an.
    Hôm nay nếu có đứa con nào biết hướng thượng, qui ngưỡng thẳng về Tông Tổ ngày xưa: cũng như cha lành của nước Việt Nam sau nầy. Đó là thuận với lẽ Trời, hiện tại lo tu hành thảo cha ngay chúa, hiếu đễ song thân sẽ được sống sót đến ngày lập hội và được vinh Tông diệu Tổ. Ngược lại đứa con nào ngỗ nghịch thì sẽ bị luật Thiên đình trừng phạt, khó mong sống sót.
    Đây là gương kiến, tuy mang thân súc vật nhỏ nhoi, nhưng chúng biết sống vầy đoàn, nhường nhịn từ miếng ăn, chung sức bảo vệ tiếp sức lẫn nhau đến cùng. Huống chi ta đã mang thân người, linh hơn muôn vật sao chẳng chịu học đòi theo. Trái lại a dua theo lũ nịnh thần, hại dân bán nước làm tay sai cho bọn Thực dân, quên đi nền luân lý cổ truyền của dân tộc Á Đông đã có trên bốn ngàn năm văn hiến.
    Bọn Tây Dương quen lối sống hùng hổ, xâm lấn cõi bờ các nước nhược tiểu, làm tan nát cuộc đời và gieo biết bao hận thù truyền kiếp với chúng dân Đông Nam Á. Chúng ta còn lạ gì lũ giặc đó nữa.
    Nền luân lý Tam cang, Ngũ thường của Thánh nhơn xưa là giềng mối căn bản nhứt, các bậc Thánh triết đã truyền thừa qua nhiều thế hệ kế vãn khai lai, ảnh hưởng toàn cõi Trung Hoa lan dần qua Đông Nam Á, các bậc tiền nhân Việt Nam ta nhờ thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh giữ vẹn nhân luân; phụng hành trung hiếu và giữ an bờ cõi một cách đắc lực.
    Thế mà hôm nay lũ nịnhn thần lại thổi lông tìm vết, đem bài bác biếm nhẻ người xưa. Nghĩ thật buồn cười cho bọn chúng.

    CHÁNH VĂN

    59.-Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,

    Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
    Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
    62.-Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.
    Mãi để câu vi diệu thậm thâm,
    Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
    Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
    Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
    Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
    68.-Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.


    CHÚ THÍCH
    GIÀY BỪA: Chà đạp một cách không thương tiếc.
    LĂN LÓC: Từng trải qua, từng nếm qua. Ví dụ: lăn lóc trong cuộc đời. Đức Thầy có câu: “Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”.
    BÌNH TỊNH: Còn gọi tịnh bình. Tức bình đựng nước cam lồ. Theo truyền thuyết xưa, Phật Bà Quan Âm thường sai Hồng Hài Nhi theo hầu và cầm tịnh bình, trong chứa nước cam lồ và nhành dương liễu, khi hữu sự rưới xuống trần gian cứu độ người lâm tai nạn. Đức Thầy có câu: “Khẩn bái Quan Âm trút tịnh bình”.
    VI DIỆU: Vi: nhỏ nhặt, huyền bí; Diệu: Tốt đẹp. Đã đến chỗ tốt đẹp tinh tế.
    THẬM THÂM: Thậm: rất; Thâm: Sâu xa. Hết sức sâu xa. Đức Thầy có câu: Thậm thâm đây đó niềm liên ái”.
    RỪNG LÂM: Núi rừng trùng điệp, khó tìm lối thoát hiểm. Đức Thầy có câu:
    “Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
    Mà ruột Năm non có các đài”.

    MÃI ĐỂ CÂU VI DIỆU THẬM THÂM, CHO SANH CHÚNG RỪNG LÂM KHÓ MỞ: Ý nói: nền đạo Phật rất cao sâu huyền diệu. Như câu: “Đạo Phật diệu diệu thậm thâm, Dầu mà tận thế ngàn năm vẫn còn”.
    Thật vậy, Đạo Phật gồm có pháp hữu và pháp vô. Nếu lấy bên hữu không cũng chẳng được. Ngược lại, nếu chấp bên vô cũng chẳng rồi. Có lúc phải dùng hữu và có lúc phải dùng vô. Hơn nữa, có lúc còn phải dụng quyền, dụng thiệt, dụng đốn và tiệm. Cho nên kẻ mới phát tâm không sao hiểu thấu nguồn gốc của Đạo.
    Kinh Phật thường ví nền Đạo như đám rừng, nếu ta thiếu duyên lành khó kiếm nẻo ra. Mặc dù thế nếu hành giả thật chân tu và sâu duyên cùng Phật pháp sẽ tìm được lối thoát một cách dễ dàng.
    GIÓ NHẸ: Tiếng gió đưa nhè nhẹ. Nghĩa bóng: Chỉ cho chính sách thực dân để lặng êm cho Đức Tôn Sư PGHH bành trướng nền Đạo.
    ÂM KHÍ: Âm: thuộc về cõi chết. Khí: hơi khí lạnh lẽo, nặng nề như từ cõi âm đưa lại. Nghĩa bóng: Tin dời Đức Huỳnh Giáo Chủ như sét đánh bên tai, dự báo như một luồng âm khí nặng nề đưa đến.
    PHỤNG GẶP KÊ: Phụng: chim phụng. Ám chỉ Đức Thánh Vương. Kê: gà. Nghĩa bóng: Chúa Thánh sẽ gặp tôi hiền. Ấy là thời đại Phật, Thánh, Tiên trổ mặt.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 59 đến câu 68)
    Xét nghĩ: Không biết nguyên do vì đâu có cuộc giày bừa của quân đội Pháp, làm cho đất nước ta bị bệnh binh đau tang tóc, số người mới quy đầu Phật pháp phải một trận “thất điên bát đảo”, đạo tâm hơi lung lạc.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ ước mong phải chi Phật Tổ dùng pháp cam lồ rưới xuống trần gian cho sanh chúng gội nhuần ân đức, đồng cải tà quy chánh thì phước đức biết bao, các Ngài cứ để tự nhiên cuộc thế xoay sao cũng được.
    Vả lại, nguồn chơn lý của đạo Phật từ ngàn xưa đến hiện giờ rất cao thâm huyền diệu. Khi cao tận trời xanh, khi thấp la đà mặt đất, khi rộng khắp bốn biển năm châu, khi nhỏ như hạt tiêu hạt cải. Hơn nữa, khi quyền, khi thiệt, lúc đốn, lúc tiệm. Làm cho người ít thiện căn khó mà nắm vững. Ví như kẻ đã lạc vào rừng khó tìm được nẻo ra.
    May mắn thay, vào thời mạt pháp được Phật Trời ân xá bớt tội căn, và được chư Phật sắc lịnh cho Đức Thầy giáng trần khai Đạo là điều diễm phúc. Nhưng thật tế lại có khác, giặc Pháp ngang nhiên tác oai, tác quái làm cho nền Đạo bị ngưng trệ, và tấm thân Đức Huỳnh Giáo Chủ phải xa cách môn đồ dấn thân trên đường gió bụi. Có thể nói một cơn lốc dữ dội đưa đến nền đạo PGHH, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên nên: “Đợi cơ thiên địa xây vần đến, Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành”. Trông đúng ngày chim phụng gáy, đó là ngày Đức Thánh Vương ra đời có đủ Phật, Thánh, Tiên lâm phàm trợ trưởng lập lại cuộc đời tân. Theo truyền thuyết xưa đời Ngũ Đế trị vì thiên hạ chim phụng xuất hiện đầy đồng nội. Đến đời Võ Vương thì chim phụng gáy ở chót núi Kỳ Sơn. Nếu cuộc thế xoay vần đúng lúc qua khỏi khúc quanh lịch sử mai sau chim phụng và gà có ngày được gặp mặt nhau tại trung tâm điểm miền Nam Việt Nam. Suy ra, giữa tín đồ và Đức Tôn Sư PGHH hoàn cảnh sau đây cũng na ná như vậy.

    CHÁNH VĂN

    69.-Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
    Đau chi bằng đau khúc đoạn-trường.
    Ước sao mà thuận gió buồm trương,
    72.-Đò bát-nhã rước tôi lương đống.
    Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
    Cớ sao đời còn mãi say-sưa ?
    Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
    76.-Ngày lập hội tay vin nhành quế.
    Trau thân phận rạng danh hiếu để,
    Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng.
    Đừng chia lìa Bắc tổ Nam tông,
    80.-Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.

    CHÚ THÍCH
    ĐOẠN TRƯỜNG: Đứt ruột. Chuyện hết sức bi thảm và khổ cực, khiến người ta đến tan nát cõi lòng. Sách Sử ký xưa có ghi lại câu chuyện: Vua Hứa Tinh Vương và quần thần đi săn đến một vùng núi nọ gặp hai mẹ con khỉ đột đang chuyền nhảy trên cành. Hứa Tinh Vương lắp tên bắn cả hai. Khỉ mẹ nhờ lanh tay nên bắt tên kịp, khỉ con yếu đuối nên bị trúng tên. Hứa Tinh Vương sai người trèo lên cây lôi khỉ con xuống và vác đi. Lúc đó khỉ mẹ rất đau lòng từ trên cây buông tay rớt xuống đất. Quăn lính bắt cả hai đem về trào làm thịt, khi mổ bụng cả hai mẹ con thì thấy khỉ con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên vẹn, còn khỉ mẹ tuy không bị tên nhưng ruột đứt từng đoạn, trông vào thật là thảm não. Hứa Tinh Vương trực nhận được hoàn cảnh đó, ông rất bùi ngùi cảm động, tự hối tận đáy lòng. Bắt đầu từ đó ông ra lịnh cấm chỉ đi săn. Và thời gian sau ông bỏ ngôi tự nguyện xuất gia, chỉ trong một kiếp đó Hứa Tinh Vương được đắc đạo. Ở đây Đức Thầy muốn xác định: Lòng Đức Tôn Sư nhìn cảnh chia ly giữa tình thầy tớ hiện giờ đứt từng đoạn ruột như khỉ mẹ vậy.
    THUẬN GIÓ: Xuôi theo chiều gió thổi. Nghĩa bóng: Đồng một quan niệm, một đưòng lối hay một chí hướng.
    BUỒM TRƯƠNG: Cũng gọi là trương buồm, mở buồm cho bọc gió.
    ĐÒ BÁT NHÃ: Cũng gọi là bát nhã thoàn. Bát nhã là một trong sáu pháp Ba la mật của chư Bồ Tát thường hành, nó có diệu năng đưa người từ bờ mê sang qua bến giác. Thật ra Bát nhã là một từ đặc dụng trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa.
    Văn tự Bát Nhã: Sự sáng suốt thông hiểu lý nghĩa mầu nhiệm trong kinh điển đạo Phật, do học rộng, nghe nhiều sưu tập mà đạt.
    Quán chiếu Bát Nhã: Cái trí thấu suốt phân biệt các pháp do tịnh lự tư duy mà mở thông.
    Thật tướng Bát Nhã: Cái linh trí sáng suốt sẵn có của mọi người (trí vô sư). Đức Thầy cho biết:
    “Thuyền Bát nhã Ta cầm tay lái,
    Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

    LƯƠNG ĐỐNG: Lương: cái rường nhà. Đống: cái đòn tay nhà. Rường và đòn tay là hai bộ phận quan trọng (không thể thiếu được) trong căn nhà. Nghĩa bóng: Kẻ bầy tôi quan trọng của đất nước. Đức Thầy bày tỏ:
    “Liên hoa đua nở nụ cười,
    Rước tôi lương đống chào người chơn tu”.

    VUI TƯƠI: Vui vẻ tươi tỉnh và phấn chấn. Thí dụ: Không khí vui tươi của ngày hội.
    LỐ BÓNG: Nổi lên, nhô ra. Bóng: hình dạng. Lố bóng: lộ hình dạng cho thấy rõ.
    SAY SƯA: Say đắm triền miên. Đức Thầy bảo: “Say sưa chuyện cổ nhắc chừng đời”.
    PHƯỚC THỪA: Phước: Tốt đẹp may mắn. Thừa: dư. Phước thừa: Trời Phật ban bố phước đức thừa sức.
    TAY VIN NHÀNH QUẾ: Trong sách “Tam Tự Kinh” có chép: Ngày xưa, ở đất Yên Sơn có nhà họ Đậu, là người phẩm hạnh hiền đức, thông minh học rộng biết nhiều. Gia đình khá giả, hạ sanh được năm người con. Ông Đậu giáo huấn các con đều nên người, ai cũng chuyên cần học tập, nên về sau đều thi đỗ được bổ làm quan nơi triều chính. Thật là một gia đình gương mẫu, đời sau sách sử ghi biên, văn gia ca ngợi. (Đậu Yên sơn ngũ chi đan quế, Danh thơm còn lưu để ngàn thu).
    HIẾU ĐỄ: Có lòng kính trọng cha mẹ và hòa thuận với anh em trong gia đình.
    MÂY RỒNG: Nghĩa chữ Long Vân. Rồng gặp mây thì tha hồ vùng vẫy. Nghĩa bóng: Tôi chúa gặp nhau tớ thầy sum hợp, thi cử đổ đạt. Đức Thầy có câu: “Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa”.
    BẮC TỔ NAM TÔNG: Bắc Nam cùng chung giống con Hồng cháu Lạc.
    LẠC HỒNG: Còn gọi là Hồng Lạc, tức họ Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là “Hồng Lạc”, tức tổ tiên người Việt Nam. Cổ thi có câu: “Nhớ câu ngọc bổn thủy nguyên, Cháu con Hồng Lạc lưu truyền ngàn xưa”, và Đức Thầy cũng bảo: “Quyết chí nâng niu giống Lạc Hồng”.
    THƯỢNG CỔ: Còn gọi là Thương nguơn (thời xa xưa). Thời con người còn ăn lông ở lổ. Đức Thầy có câu: “Huờn lai Thượng Cổ mới bình yên”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 69 tới câu 80)
    Càng nhìn dân lòng từ của chư Phật càng ruột thắt tơ vò. Ôi thảm cảnh cha xa con, Thầy lạc tớ diễn ra trên thật tế thật phũ phàng đứt ruột. Kẻ đi người ở bùi ngùi giọt lệ ướt đẫm bời mi, dầu ta lòng gan sắt đá cũng không nén đước tức tửi. Thật là cảnh đoạn trường chư từng có trên lịch sử Việt Nam.
    Dù thế Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ước mong sao trên đường phiêu bạc được thuận gió xuôi buồm, thuyền chèo mát mái. Con thuyền Bát nhã của Ngài được tự do đưa rước những tôi lương đống, chào đón những kẻ chân tu để qui hồi cựu vị.
    Đức Tôn Sư PGHH cho biết thêm ngày lập hội nơi miền Bảy Núi cũng không còn xa lắm, sắp lố dạng nay mai. Cớ sao đời cứ mãi say sưa trụy lạc ? Không chịu quay về nền xưa nếp cũ tìm gặp Đức Thầy để tiến xa trên đường tu tỉnh, hầu hưởng được ân thừa của Trời Phật ban bố; và ngày thi cử được chiếm bảng vàng.
    Một lần nữa, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến khích nhơn sanh lo lập thân hành đạo cho tròn vẹn kiếp con người, làm rỡ ràng đứa con hiếu thảo và tỏ rạng danh Thầy trong ngày đại hội Long Vân sắp đến.
    Tinh thần đạo Phật vốn chủ trương đoàn kết, tương trợ lẫn nhau như con một cha, không phân biệt đông, tây, nam, bắc, bến bờ. Vì sao ? Vì toàn thể dân tộc Việt Nam vốn phát sinh từ gốc Lạc Long Quân họ Hồng Bàng, thượng cổ thời đại.

    CHÁNH VĂN


    81.-Tai nghe chi những câu ái-ố,

    Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
    Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
    84.-Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
    Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
    Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
    Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
    88.-Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
    Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
    Trên đài cao gọi các linh hồn.
    Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
    92.-Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.


    CHÚ THÍCH
    ÁI Ố: Ái: thương. Ố: ghét. Thương ghét.
    LÒNG TỪ BI: Từ: hiền lành; Bi: thương xót. Từ bi là hai trong bốn đại đức của chư Phật (Từ, bi, hỉ, xả). Ý nói: Người Phật tử lúc nào cũng điêu luyện tâm thương xót tất cả muôn loài, không nhớ lời gièm siễm, vì đó là tánh xấu xa ích kỷ.
    GỎI NEM: Gỏi là thức ăn được trộn nhiều thứ như: Cá thịt, đậu hủ, các thứ rau, giấm, chanh. Nem: Thức ăn làm bằng thịt, vỏ bưởi…trộn lẫn với các thứ gia vị khác, gói bằng lá chuối, lá dừa để vài ba bữa lên men mới sử dụng. Người xưa thường nói: “Nem công chả phượng”. Gỏi nem là hai thức ăn ngon, thích khẩu mọi người. Nghĩa bóng: Đạo đức vốn hợp với lý lẽ chân thật, được mọi người tôn kính chấp nhận. Đức Thầy đã so sánh:“Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh”.
    LẤM LEM: Dính dơ nhiều.
    TRẦN TỤC: Trần: bụi bặm. Tục: nơi mọi người đang ở. Cõi đời đầy bụi bặm mà chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu: “Lánh nơi trần tục học hành đàng Tiên”.
    GANH HỜN: Ganh: ghen. Hờn: giận dỗi. Cụ Nguyễn Du có câu: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
    NGHI NGÚT: Bốc cao lên cuồn cuộn, lan tỏa khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Hương đăng nghi ngút lễ vọng cầu”.
    BẦN TĂNG: Bần: nghèo. Tăng: thầy tu. Tiếng các thầy tu tự xưng một cách khiêm nhường. Đức Thầy có câu: “Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt dùm”.
    SỒNG NÂU: Sồng (sùng). Giống cây có lá dùng để nhuộm màu đen. Nâu: loại cây leo, có trái màu dà sẩm để làm thuốc nhuộm. Nghĩa bóng: Người quy y đầu Phật. Trần Tế Xương có câu: “Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng”. Và Truyện Kiều có câu: “Nâu sồng từ bén màu thiền”. Ông Thanh Sĩ cũng cho biết:
    “Những bộ áo sồng nâu đâu vắng,
    Se sua đồ xinh xắn lụa the”.
    THIÊN LÝ: Thiên: ngàn. Lý: dặm. Nghìn dặm. Nghĩa bóng: Rất xa xăm, rất dài.
    CHẠM BẢNG: Chạm: đụng nhẹ vào vật gì. Bảng: vật có mặt phẳng thường bằng gỗ, dùng để viết hoặc dán nội dung thông báo vào đó cho người xem. Chạm bảng: Ghi khắc tên tuổi những nhân vật có công trạng với nước với dân hay Đạo pháp. Ở đây Đức Thầy cho biết: Ngày hội thi sắp đến thanh danh Ngài được khắc ghi trên bảng vàng.
    LINH HỒN: (Xem STTĐ, trang 199, cột 2).
    LEN LÕI: Chen mình vào giữa đám đông, hoặc chỗ khó đi một cách vất vả. Đức Thầy có câu: “Ta thương đời len lõi xuống trần. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Ngài khờ khạo phải len lõi tân thôn quê dạy đời một cách quá cực nhọc.
    HƯƠNG THÔN: Xóm làng. Đức Thầy có câu: “Hương thôn bổn đạo lo âu mối giềng”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 81 tới câu 92)
    Lỗ tai người biết Đạo phải luyện tập không cho phật ý khi nghe tiếng huyễn lời gièm hay tiếng nịnh hót. Vì người tu đầy lòng bác ái vị tha, từ, bi, hỉ, xả. Được thế mới đúng đường chơn lý Phật gia.
    Gỏi nem là thực phẩm ngon nhất trong buổi tiệc, nó là món cao lương từ thành thị đến thôn quê. Cái lý đạo nếu chúng ta nắm bắt được và hành trì theo nó còn hơn gỏi nem nữa. Mặc dù chúng ta đang sống trong cõi tục trần, đầy bùn trịn, nhưng người hiểu Đạo sẽ được vươn lên khỏi chất ô trược bợn nhơ.
    Cái tâm ganh hờn ghét ngỏ, nếu chúng ta còn chất chứa trong lòng nó sẽ cao vút tận chín tầng mây, đời đời kiếp kiếp chuyển luân trong cõi thế để trả cái nghiệp oan oan tương báo. Là phật tử phải luôn luôn tiêu diệt chúng, bằng cách: “Giữ dạ trong đừng đục mới mầu”. Nghĩa là phải bỏ tất cả lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siễm, dua nịnh, ích kỷ, tư tâm, sự gây gổ mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng.
    Bản thân Đức Giáo Chủ hiện giờ tuy bên ngoài khoác bộ sồng nâu của người chơn phật tử nhưng Ngài vẫn là một cao đệ của Đức Phật Tổ Thích Ca xưa kia, nên cuộc sinh hóa vận hành trong trời đất của vũ trụ càn khôn Ngài đều biết rõ, và biết một cách chính xác.
    Tuy hiện giờ Đức Huỳnh Giáo Chủ giả dại giả ngu vào lòn ra cúi, ở trong hang cùng ngõ hẻm. Nhưng sau nầy Ngài sẽ là một vị an bang xuất chúng, phò trợ Đức Thánh Vương ở thời Thượng nguơn tới đây. Chừng đó thanh danh Thầy sẽ rạng rỡ khắp năm châu rồi Ngài sẽ hoàn thành sứ mạng: Chọn những đấng tu hành cao công quả ban cho xứng vị, xứng ngôi. Người đủ các thiện căn để giáo truyền đạo đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”. Và Ngài sẽ hoàn toàn đắc đạo, tiếng đồn vang xa bốn biển.

    CHÁNH VĂN

    93.-Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
    Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.
    Tuy là Ta không thể sanh-thành,
    96.-Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
    Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
    Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.
    Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
    100.-Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.


    CHÚ THÍCH
    GIẢNG VỚI SẤM: Giảng: giải thích cho hiểu rõ bài vận văn khuyến tu. Sấm: những lời dự đoán về tương lai do những câu truyền khẩu hay sách xưa để lại.
    SỬA KIỂNG: Sửa cây cảnh cho có giá trị và trồng các loại hoa quý hiếm. Nghĩa bóng: Lo trau dồi đạo hạnh hằng ngày được trở nên tốt đẹp. Đức Thầy có câu:
    “Biết lo sửa kiểng trồng huê,
    Thơm tho gia trụ danh đề tổ tông”.

    KỆ CÙNG CA: Kệ: là thể văn trong Kinh Phật. Thường cứ một thiên Kinh thì có một bài Kệ, để tán thán hoặc giải thích đoạn Kinh đó. Như trong quyển Khuyến Thiện, Đức Tôn Sư PGHH sáng tác hai bài Kệ: “Tiếng kệ từ bi…” và tiếng kệ “Đêm thanh”. Và trong kinh Pháp Bửu Đàn, Đức Lục Tổ có viết bài kệ phá tướng: “Bồ đề bổn vô thọ…” hay sư Thần Tú viết bài Kệ chấp tướng như sau: “Thân thị bồ đề thọ…” Ca: những bài vận văn ca tụng công đức hay giáo pháp của chư Phật. Như trong kinh Phật có bài “Chứng Đạo Ca”.
    LỰA TUYỂN: Lọc lừa, kén chọn. Đức Thầy có câu: Hội triều đình các quan lựa tuyển”.
    SANH THÀNH: Sanh: đẻ ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ cho nên người. Thành: thành công. Tiếng đệm cho chữ sanh. Nghĩa bóng: Nói đến công ơn cha mẹ. Đức Thầy có câu:“Ham công danh quên chữ sanh thành”.
    DẠY DỖ: Chỉ dạy, dỗ dành. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Ngài không bỏ rơi một chúng sanh nào dù: Ngu trí, dốt nát hoặc siêng năng. Nếu có căn duyên quày đầu hướng thiên là độ tận, và đùm bọc đến nơi đến chốn.
    SUY KIM NGHIỆM CỔ: Xét chuyện nay nghĩ đến chuyện xưa.
    CƠ ĐỒ: Cơ: nền móng. Đồ: mưu tính. Sự nghiệp vững chắc. Đức Thầy có câu:“Chừng nào thấy được cơ đồ”. Ý Đức Thầy muốn nói: Muốn an bang tế thế phải thông hiểu binh thơ đồ trận, đầy thao lược mới dựng nên thời thế, cơ nghiệp của Thánh Hiền. Như ông Khương Tử Nha giúp nhà Châu dựng nên cơ nghiệp trị vì suốt 800 năm, hoặc Trương Tử Phòng phò trợ Lưu Bang thống nhất lãnh thổ Trung Hoa, xây dựng đất nước thanh bình, toàn dân lạc nghiệp cũng suốt thời gian dài.
    THÁNH HIỀN: (Xem CT bài Sa Đéc, chung tập).
    OAN KHIÊN: Oan: oan ức. Khiên: tội lỗi. Bị kết tội một cách oan ức. Ở đây ý Đức Thầy quyết một lòng rứt sạch nợ oan tương báo từ nhiều kiếp đến giờ, dầu cho giặc Pháp kết án này án nọ, hay lưu đày ra sao cũng mặc. Miễn Ngài cứu an bá tánh đồng lo tu hành giải thoát cảnh Ta bà thống khổ.
    BÁ TÁNH: Trăm họ. Chỉ cho tất cả mọi người.
    LAO KHỔ: Cực nhọc, lao đao khổ sở. Ý nói: Còn mắc trong vòng ràng buộc của hóa công và giặc Pháp.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 93 đến câu 100)
    Kệ giảng và Sấm cơ của Đức Huỳnh Giáo Chủ cho ra đời dạy dỗ là Ngài đã ra công sửa chữa rất dày dặn. Nó có công năng đưa hành giả từ phàm phu thành Phật Thánh. Ngài tuy không có công sanh dưỡng chúng dân, nhưng lòng thệ nguyện độ tận mọi người, mọi giới; không phân biệt ở giai cấp nào, quyết một lòng dạy dỗ và dìu dắt nhơn sanh xong đền nợ thế để trở về nhà Tiên cửa Thánh.
    Mang được thân người linh hơn muôn vật, chúng ta phải biết nghiệm suy những gương hạnh tốt đẹp của xưa nay. Nhất là phải lảu thông thao lược để phò vua giúp nước, đem tài trai nâng đỡ sơn hà và làm rạng danh con Hồng cháu Lạc, và lo dựng nghiệp Thánh Hiền, an bang tế thế để đưa tổ quốc đến tột đỉnh vinh quang hạnh phúc.
    Bản thân Đức Huỳnh Giáo Chủ dù khoác áo cà sa làm tăng sĩ độ đời, nhưng lúc nào cũng nguyện đem hết tài trai phụng sự tổ quốc khi đất nước cần dùng. Ngài nguyện đưa con Hồng cháu Lạc ra khỏi gông cùm lũ giặc ngoại bang, cứu độ dân sinh hết cơn binh lửa và giải ách nợ tiền khiên túc trái trong nhiều đời nhiều kiếp đã vay mang.

    CHÁNH VĂN


    101.-Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,

    Có một ngày rớt lốt hổ-hang.
    Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
    104.-Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp.
    Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
    Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
    Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
    108.-Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.

    CHÚ THÍCH
    GÀ LÔI: Loại gà có thân hình cao, trông giống như con công, người ta thường nuôi để lấy thịt.
    TỐ HỘ: Nghĩa bóng: Con gà lôi mượn oai của con công để làm uy với đồng loại; ý nói mượn uy danh, hay tay của người khác để làm uy với mọi người.
    HỔ HANG: Xấu hổ. Ca dao có câu:
    “Làm người sao chẳng hổ hang,
    Thua em kém chị xóm làng cười chê”.

    Ý nói: Mình mượn uy người hay tay chân của người khác, một khi đổ bể hay lòi mặt nạ, rớt lốp khoác bên ngoài, rất là xấu hổ.
    NHU HIỀN HÒA NHƯỢC ẮT THẮNG CANG: Nhu: mềm mỏng. Hiền: đức hạnh, trung hậu. Hoà: thuận thảo, biết tiến thoái trong việc xử thế tiếp vật. Nhược: yếu. Mềm yếu: lấy nhu để thắng cang, lấy mềm mỏng, hiền hòa, nhu nhược để thắng lòng cương trực của đối phương. Trường hợp Lưu Bang thắng Hạng Võ xưa là chứng tích điển hình. Hay Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh trước kia, cũng là tấm gương ít có. Hôm nay ĐHGC học đòi theo gương của tiền nhân để thắng giặc Pháp.
    ĐỜI CÙNG ĐẠO BI, HOAN, LY, HIỆP: Ý nói việc đời, việc Đạo đều diễn biến theo định luật: Buồn, vui, tan, hiệp. Hay nói một cách khác: Bỉ, thái, cùng, thông. Nghĩa là: Đời Đạo gì cũng nằm trong lý vô thường: Hết buồn đến vui, hết tan đến hiệp. Ý khuyên con người sớm tỉnh mộng trần gian và kiên tâm chịu đựng những hoàn cảnh khổ khó rèn đúc ý chí cang cường bất khuất để đạt những thành quả tốt đẹp.
    TẤM LÒNG THÀNH: Lòng là nghĩa của chữ tâm. Thành: thật thà, chất phác. Đức Thầy có câu:
    “Đầu ngưỡng vọng đất trời minh chứng,
    Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời”.

    Ở đây ý nói: Lòng thành đã toát ra, dù nhọc nhằn, lao khổ cách nào không bao giờ sờn lòng thối chí. Tục ngữ có câu:
    “Mũi tên dồn hết tâm thành,
    Bắn vào đá cứng, tan tành như chơi”.

    GIAN TRUÂN: Gian nan, khó khăn khổ sở. Đức Thầy có câu: “Gẫm trong thế sự còn đầy gian truân”.
    CHỚ KHIẾP: Không khiếp sợ.
    ĐỨC TỪ BI: (Xem CT ở các đoạn trước).
    TIẾP DẪN: Nói cho đủ “Tiếp Dẫn Đạo Nhơn”. Vị Phật ở Tây Phương Cực Lạc hằng độ chúng sanh trong cơn binh lửa. Ngài có sứ mạng tiếp dẫn vong linh những linh hồn có thiện duyên với chánh đạo, rước về Tây Phương Cực lạc. Theo truyện Phong Thần kể: Trong trận Tru Tiên và Vạn Tiên, Ngài cùng với Đức Chuẩn Đề hóa quang vào trận: Vừa dẹp giặc, vừa quăng túi gấm (bửu bối) ra thâu những vị bên Xiển giáo và Triệt giáo có đủ công đức rước về cõi Phật A Di Đà.
    LINH HỒN: (Xem chú thích đoạn trước).
    NÉN HƯƠNG NGUYỀN: Nén hương cầu nguyện thấu đến bên tai chư Phật để nhờ oai linh các Ngài cứu giúp chúng sinh.
    PHẬT TÔN: Tiếng tôn xưng đối với Ngài Phật Tổ Thích Ca. Đức Thầy có câu: “Lão đây vâng lịnh Phật Tôn”.
    PHƯỚC HUỆ: Phước: những điều may mắn tốt đẹp đưa đến, do nhân lành đã gieo từ trước. Huệ: sự thông minh thấu suốt mọi lẽ, do công tu dẹp sạch vô minh phiền não mà được.
    CỨU NÀN: Cứu hết tai nạn.
    DƯƠNG THẾ: Cõi chúng ta đang ở.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 101 đến câu 108)
    Làm người ở đời phải sống thật với chính lòng mình, không nên vay mượn oai của kẻ khác để hù dọa đồng loại; nhứt là mượn oai của ngoại bang, vì chúng không bao giờ để yên cho ta hưởng thụ. Chúng ta đời đời nhớ câu Tục ngữ “Hết xôi, rồi việc” để răn lòng. Đã mang thân gà lôi, có hình sắc như giống công, chớ nào phải thật công đâu mà mượn oai công hù dọa đồng loại. Nếu ta cứ mượn oai của người khác, không sớm thì muộn sẽ lòi mặt nạ giả. Chừng ấy thật là xấu hổ.
    Trên phương diện đời hoặc Đạo, chúng ta phải lấy bài học “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Gương của Lưu Bang thắng Hạng Võ, Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh để làm bài học gối đầu giường.
    Về sách sử cũng như thật tế, cuộc diện: Bi, hoan, ly, hiệp thường diễn ra trong xã hội loài người. Hết vui tới buồn, hết thạnh tới suy, hết hiệp rồi tan, hết tan rồi hiệp; đó là đặc tánh thường tình của hóa công sắp đặt.
    Lòng thành là điều kiện tất yếu để hoàn thành công việc đời hoặc Đạo, có nó chúng ta mới không khiếp sợ trước gian truần thử thách của trường đời. Các chư Phật hằng nguyện tiếp dẫn chúng sanh về cảnh giới Cực Lạc, nếu ta có đủ tấm lòng thành. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng là một vị cứu tinh trong nhơn loại trong thế kỷ 20 và 21 này, Ngài luôn có bản nguyện và luôn cầu nguyện với mười phương chư Phật độ rỗi và ban phước huệ cho cả chúng sanh, trong thế giới Ta Bà được giải thoát tai nạn, và lo tinh tấn tu hành đến ngày công viên quả mãn.

    CHÁNH VĂN

    109.-Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,
    Nay được nên vai-vế trưởng-thành.
    Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,
    112.-Thân hành Đạo vang danh khắp chốn.
    Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,
    Câu quân-thần phụ-tử rã-rời.
    Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,
    116.-Chẳng hề mở miệng ra than trách.


    CHÚ THÍCH
    BỒNG BẾ: Bồng con và bế cháu. Tục ngữ có câu “Tay bồng, tay bế”. Nghĩa bóng: Chịu đựng vất vả.
    VAI VẾ: Hai vai và hai vế. Đủ bộ phận của người thành nhân. Nghĩa rộng: Đủ tay chơn bộ hạ.
    TRƯỞNG THÀNH: Lớn khôn. Từ 18 tuổi trở lên là được trưởng thành. Dưới 18 tuổi trở xuống gọi là vị thành niên.
    TRƯỢC THANH: Trược (trọc): đục bẩn. Thanh: trong sạch. Nghĩa bóng: Sự đê hèn thấp kém, và sự thanh cao trong sạch.
    HỖN ĐỘN: Hỗn: lẫn lộn. Độn: rối loạn. Cuộc đời lộn xộn chưa phân định tà chánh, chúa tôi. Ai cũng giành nắm quyền hành trong tay. Ví như đời “Thập Bát Phản Vương” bên Trung Hoa. Hay thời loạn “Mười Hai Sứ Quân” bên nước Văn Lang chúng ta. Ở đây Đức Thầy ví thời Pháp thuộc cũng giống như hai thời loạn vừa kể trên.
    QUÂN THẦN: Quân: vua. Thần: tôi. Vua tôi. Ý chỉ bầy tôi không còn kính mến vua nữa.
    PHỤ TỬ: Phụ: cha. Tử: con. Tình nghĩa cha con. Ý chỉ bỏ hết lễ nghĩa luân thường đạo lý.
    RÃ RỜI: Chia ra từng mảnh vụn. Cảm thấy nát rời vì mệt mỏi. Câu “Quân thần phụ tử rã rời” ý nói: Giữa tình vua tôi, thầy tớ, cha con, chồng vợ không còn thắt chặt như xưa nữa. Mạnh ai nấy lo chiếm đoạt giềng mối để làm của riêng.
    TU HÀNH: Tu: sửa. Hành: làm. Đức Thầy có câu:
    “Bởi chữ tu liền với chữ hành,
    Hành bất chánh người đời mới nói”.

    HAO SỨC TỔN HƠI: Hao sức: tổn sức lực. Tổn hơi: giảm lần hơi thở. Ý nói: Tốn kém sức lực và mòn lần kiếp sống.
    THAN TRÁCH: Than van trách phận.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 109 đến câu 116)
    Nhớ lại thuở ấu thơ nhờ ơn cha mẹ sanh đẻ ẳm bồng, ân cần dạy dỗ cho mình được nên người, công lao thật là rộng lớn. Ca dao có câu:
    “Công cha như núi thái sơn,
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

    Hôm nay mình được trưởng thành, làm nên danh phận trong xã hội là do sức khó nhọc của tổ tiên và cha mẹ mà ra.
    Suốt cuộc đời nếu đem ra suy gẫm tường tận nó chỉ nằm trong hai lẽ “trược và thanh”. Trược thì miệng thế chê bai biếm nhẻ. Thanh sẽ được người đời ca tụng nhắc nhở đến luôn. Và nhứt là “chơn Phật tử” sẽ được thế gian lưu truyền mãi mãi, thanh danh sẽ lan rộng khắp bốn biển năm châu, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ xác định:
    “Ta bây giờ tu niệm tầm thường.
    Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.

    Nhưng ngặt nỗi sanh bất phùng thời, chưa gặp vị chơn chúa, nên cuộc đời đảo lộn, không ra thể thống gì cả: Giữa tình cha con, chồng vợ, giữa nghĩa kim bằng, ân thầy trò và vua chúa, không còn trật tự như xưa nữa: Tất cả đều rã rời tan nát. Thật là một thời đại suy thoái chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
    Đức Tôn Sư PGHH ra đời dạy Đạo dùng đủ lời lẽ giải bày, hao sức tổn hơi và chịu nhiều gian khổ, nhưng Ngài không bao giờ mở miệng ra than trách. Vì sao ? Vì mang lấy sứ mạng, vì vĩ nghiệp của đấng cha lành trong tam cõi, vì muốn phục hưng nền đạo pháp bị bóp méo sự thật, vì muốn phò trợ Đức Thánh Vương trong tương lai, và vì muốn chọn người có đủ thiện căn để giáo truyền Đại Đạo trong thời Thượng nguơn sắp đến, nên Ngài tự nguyện Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”,

    CHÁNH VĂN

    117.-Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,

    Các con lành khá chọn ngay đường.
    Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,
    120.-Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.
    Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,
    Chữ anh-tài của đấng trung-lương.
    Phận tu hành đạm bạc rau tương,
    124.-Miễn cầu được an-khương bốn bể.


    CHÚ THÍCH
    TÁNH TÌNH KIÊU CÁCH: Tánh tình tự cao tự đại, kiêu căng tự đắc. Nghĩa bóng: Tự cho mình là hay là giỏi hơn người. Đức Thầy có câu: “Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách”.
    NGAY ĐƯỜNG: Còn gọi đàng ngay. Tức là con đường ngay thẳng, chơn chánh đúng theo đạo lý. Nghĩa rộng: Đúng chơn lý, đúng lẽ phải, đúng đối tượng và hợp thời đại.
    GIÓ SƯƠNG: Gió: Luồng không khí chuyển động từ vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp, thường gây cảm giác mát hoặc lạnh. Sương: hơi nước gồm những hạt màu trắng, rất nhỏ làm đọng lại trên cây cỏ vào ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh. Nghĩa rộng: Chỉ sự chịu đừng vất vả gian lao cuộc đời xông pha gió bụi.
    TANG BỒNG HỒ THỈ: Tang: cây dâu. Bồng: cỏ bồng. Hồ thỉ: cung tên. Bên Trung Hoa có tục lệ, khi sanh người con trai thì dùng gỗ bằng dâu, tên bằng cỏ bồng bắn ra bốn hướng trên trời và dưới đất để cầu chúc đứa bé ngày sau lớn lên vùng vẫy dọc ngang, lập công danh hiển hách. Ông Nguyễn Công Trứ có câu:
    “Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay”.

    TRƯỢNG PHU: Người đàn ông giỏi giắn, đầy đức hạnh. Nghĩa là người có chí lớn. Đức Thầy có câu:
    “Trượng phu chí cả dọc ngang,
    Dạo trong bốn biển mới trang Thánh Hiền”.

    NGHĨA SĨ: Nghĩa: trọng lẽ phải hợp đạo lý. Sĩ: người có học thức. Người có học thức giỏi, ứng xử hợp với đạo lý và có chí khí hơn người.
    TRUNG LƯƠNG: Trung: ngay thẳng chơn chánh. Lương: lành. Tôi trung lương chánh trực. Đức Thầy có câu: Trung lương chánh trực dựa kề đài mây”.
    AN KHƯƠNG: An: yên ổn. Khương: vui vẻ, tráng kiện. An khương: được yên vui tận hưởng điều lành.
    BỐN BỂ: Còn gọi bốn biển. Chỉ chung những đất nước trên thế giới loài người chúng ta đang ở trên quả địa cầu. Gồm có: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 119 đến câu 124)
    Người tu cần bỏ dứt tấm lòng tự cao tự đại. Nó là tâm ngã mạn; nó có từ ngày tạo thiên lập địa và là bản tánh hằng hữu của chúng sanh. Con người cũng vì nó luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Là phật tử chúng ta nên chọn con đường chánh, đúng chơn lý Đạo Phật, đúng chánh pháp vô vi, đúng chân truyền của chư Tổ, chư Sư mới thỏa nguyện vọng người tầm sư học đạo. Vì thời này tà chánh còn lẫn lộn khó phân.
    Tuy xác thân Thầy hiện giờ chịu lắm phong ba bão táp, sự kềm kẹp của người Pháp, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời. Vả lại nhờ nó mà Thầy được luân lưu khắp chốn, thỏa chí tang bồng của đấng trượng phu quân tử:
    “Càng đi càng biết nhiều nơi,
    Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.

    Hơn nữa, người anh hùng phải đặt mình vào chốn hiểm nguy không cho mềm lòng nản chí, kẻ trượng phu phải vùng vẫy hiên ngang, mới là trang tuấn kiệt. Người Pháp đặt Ngài vào hoàn cảnh khó xử, nhưng tấm thân Thầy đã hiến mình cho trần thế, nên xem đó là cơn thử thách, phải vượt qua tất cả những chướng ngại gai chông để tỏ rõ chí khí anh tài của trang lương đống nước nhà:
    “Lò cừ nung nấu sự đời,
    Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

    Trên đường lập thân hành đạo cuộc sống của Đức Tôn Sư PGHH rất là đạm bạc, ngày hai bữa cơm tương là đủ, Ngài không đòi hỏi gì khác nữa, chỉ có tâm hồn hướng thượng và cầu mong cho bá tánh được an khương bốn bể, nhà nhà được lạc nghiệp, phát bồ tâm tu tiến đến ngày chung cuộc.

    CHÁNH VĂN

    125.-Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,
    Gọi hồn người hành thiện truy kinh.
    Ra khuyên dân hẹn có sơn-minh,
    128.-Dìu bá-tánh hứa câu thệ-hải.
    Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,
    Sống ở trần hối-cãi tiền phi.
    Sống làm sao vẹn chữ tu-mi,
    132.-Sống vùng-vẫy râu-mày nam-tử.


    CHÚ THÍCH
    CHUÔNG LÀNH: Chuông: Vật được đúc bằng hợp kim đồng, lòng rỗng, miệng loe tròn, phát ra tiếng trong và ngân dài khi kéo, rung. Lành: Hiền lành. Rung chuông lành: Rung chuông thức tỉnh việc làm lành để mọi người trở lại con đường quang minh chánh đại. Vì tiếng chuông nó có công năng tỉnh giác người còn mê ngủ. Nghĩa bóng: Kinh giảng so sánh như tiếng chuông, vì Kinh giảng có diệu năng thực tế, bằng ngôn ngữ im lặng, bằng tiếng nói tự đáy lòng, bằng vô vi pháp, hữu tướng, vô tướng:“Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ”. Đức Tôn Sư PGHH mượn tiếng chuông ngân để bộc lộ giáo pháp hữu vi, vô vi thật tướng của Thiền na. Ngài rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ giảng để đưa tâm hồn chúng sanh lạc lỏng chơ vơ, trở về Chánh pháp nhãn tàng Niết bàn diệu tâm của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni tự nghìn xưa, hôm nay đành quên lãng: “Đờn tây rồi lại đờn đông, Trách trong bá tánh gặp sông quên nguồn”. Tiếng kệ ấy là chánh pháp vô vi, là thật tướng của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni trao cho ông Ma Ha Ca Diếp tại Hội Linh Sơn: “Đạo vô vi của Phật ân cần, Noi theo chí Thích Ca ngày trước”. Ngài còn ví Kệ giảng như tiếng đàn, nhưng đàn không dây không phím: “Lắng tai nghe rõ tiếng đờn, Không dây không phím oán hờn cũng không”. Qua đó chúng ta thấy Ngài rung chuông bằng Kệ Giảng, bằng giáo lý biệt truyền, bằng bản đàn tại chùa Lôi Âm trên non Linh Thứu.
    “Chuông Linh Thứu ba hồi giục thúc,
    Đờn Lôi Âm khải điệu êm tai”.

    Ta hãy lắng nghe tiếng chuông để cho tâm hồn ta lâng lâng thoát tục. Ta nghe Kinh giảng để lòng ta hành thiện truy kinh, hầu tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.
    Thật vậy, Kinh giảng có công năng hơn tiếng chuông chùa. Chuông chùa chỉ làm cho ta vơi bao niềm trần tục, vơi chớ không đoạn lìa hết được. Vả lại Kinh giảng đưa ta nhận chân cuộc đời là khổ hải, danh, lợi, tình là xiềng xích trói buộc con người vào hố sâu tội lỗi. Ngày trước ta không biết nên ta đam mê, hôm nay ta đã giác ngộ nên tự đoạn lìa; thế nên Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ, chớ không rung bằng tiếng chuông chùa, thật là linh diệu biết bao.
    HÀNH THIỆN TRUY KINH: Làm việc thiện và truy tầm kinh điển, dụng ý Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa hành giả từ chỗ mới phát tâm tu thân hành thiện đến chỗ truy tìm nghĩa lý để tiến xa trên đàng Phật pháp. Hành thiện không chưa đủ, vì nó mới bước sơ cơ. Phải truy kinh để mở mang trí tuệ. Đây là pháp Học Phật Tu Nhân căn bản mà mỗi tín đồ PGHH không thể thiếu được. Kinh kệ vốn là chìa khóa nhập môn để mở rộng kho tàng pháp hải, là kim chỉ nam đưa người tu không lầm đường lạc hướng, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa tín đồ nắm vững những then chốt và yếu lý của Đạo.
    SƠN MINH: Sơn: núi. Minh: thề nguyền. Do thành ngữ “sơn minh hải thệ” (non thề biển hẹn). Lấy non thề nguyền để chứng thật thân tâm của lòng mình.
    THỆ HẢI: Lấy biển làm chứng lời thề nguyền. Dụng tâm hành giả ngưỡng mong đất trời chứng giám: lấy núi non làm điểm tựa, lấy sông biển làm căn cứ cho lòng thành của con người đứng trong vũ trụ.
    HƯ VÔ: Hư: trống rỗng. Vô: không. Giữa khoảng trống không trên bầu trời. Nhưng trong khoảng không đó có thiên hình vạn trạng biến hóa khôn lường. Tâm được hư vô là tâm không dính mắc, không ô nhiễm, không điên đảo vì ngoại cảnh chi phối. Đức Thầy ước mong tâm hư vô đó vẫn tồn tại mãi với thời gian, với không gian vô cùng, vô tận, vô thỉ, vô chung. Và bản tâm đó sẽ được trời đất, núi non, sông biển chứng minh cho lòng phát thệ của Ngài.
    HỐI CẢI: Hối: ăn năn. Cải: Sửa đổi. Ăn năn lỗi lầm và tự nguyện sửa đổi
    TIỀN PHI: Tiền: trước. Phi: sai trái. Điều sai quấy trước kia đã gây nên.
    SỐNG Ở TRẦN HỐI CẢI TIỀN PHI: Con người sống trong trần phải biết tự giác, cải sửa những lỗi lầm mình đã gieo tạo từ nhiều kiếp trước. Có thế mới là đáng sống, đáng mặt anh hùng sanh trong vũ trụ. Vì bản thân chúng ta vốn do vô minh sanh ra, rồi đi hành động…đến lão tử. Nên người biết Đạo như Đức Thầy phải hối cải những cái lỗi lầm; và Ngài khuyên chúng ta hãy ghi nhớ trong lòng để cải sửa, những hành vi đen tối đã gây tạo.
    TU MI: Tu: râu; Mi: lông mày. Nghĩa rộng: Bậc tu mi nam tử (người đàn ông, con trai) Đức Thầy có câu:
    “Hiền thần sách sử nêu ghi,
    Miễu son tạc để tu mi trung thần”.

    VÙNG VẪY: Tung hoành khắp nơi.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 125 đến câu 132)
    Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn lời Kệ giảng, bằng chứng Ngài đã sáng tác kho tàng Thi Văn Giáo Lý toàn bộ. Đó là chìa khóa để mở bản tâm thật tướng, vô tướng trong xác thể con người.
    Ngài kêu gọi những linh hồn có thiện duyên phải nhứt tâm hành thiện và truy tầm Kệ giảng để tìm hiểu nghĩa đặng hành theo mới là đắc Đạo:
    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
    Cố công gìn giữ tánh thuần lương”.

    Ngài dạy Đạo khuyên dân thệ có núi non chứng giám. Ngài dắt dìu mọi người xin nguyện cùng biển cả chứng tri, trời đất có thấu chăng tấm lòng thành của Ngài !..
    Bản tâm của con người vốn vô hình vô ảnh, nhưng nó ẩn chứa tiềm tàng với muôn hình vạn trạng. Có khi hữu, khi vô, lúc quyền, lúc thiệt, khi đốn, khi tiệm. Nó vốn linh diệu vô cùng tận. Nên ví nó giống khoảng trống của không gian, u u, minh minh, huyền huyền, ảo ảo, nó vốn trường cửu với thời gian, nên nó không nằm trong xác thể của con người, nó vốn hư vô nên ngoài xác thân ta không có nó. Thật là mầu nhiệm biết bao !
    Làm thân con người phải biết cách sống: Sống sao tâm hồn thong thả an vui. Sống phải biết ăn năn những lỗi lầm của mình gây tạo nhiều kiếp đã qua. Sống phải biết vùng vẫy vươn lên cho rõ chí khí đấng râu mày nam tử. Sống làm cho vẹn chữ tu mi, mới xứng đáng con người sinh trong vũ trụ.

    CHÁNH VĂN

    133.-Tự như nhiên oai-phong thiên-tứ,
    Bút thần-linh mượn mực tay đề.
    E dương-trần công việc trễ-bê,
    136.-Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.
    Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,
    Lo cho đời qưên vóc ốm gầy.
    Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,
    140.-Xanh men-mét cũng thây thịt xác.
    Đi tới đâu giúp người khao-khát,
    Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy.
    Trong suốt ngày làm việc lây-quây,
    144.-Dùng giấy, mực trưng bày đạo-đức.


    CHÚ THÍCH
    TỰ NHƯ NHIÊN: Tự: chính mình. Như: giống như, như là. Nhiên: vậy. Không rõ duyên do vì sao mình muốn như vậy.
    OAI PHONG: Oai (uy): sức mạnh. Phong: dung mạo thái độ. Oai phong là dung mạo thái độ uy nghi mạnh mẽ.
    THIÊN TỨ: Thiên: trời. Tứ: ban cho. Trời ban cho.
    THẦN LINH: Thần: Những gì có tính cách thiêng liêng. Linh: hiển hiện. Những gì có tính linh hiển làm cho người ta nhận biết.
    DƯƠNG TRẦN: Dương: cõi dương. Trần: bụi. Cõi chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu:
    “Ước sao mình như cuội trên trăng,
    Đặng soi khắp cả dương trần”.

    TRỄ BÊ: Còn gọi là bê trễ: Chễnh mảng phóng túng. Không có lề lối qui củ
    GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.
    NHƠN SANH: Nhơn: người. Sanh: sinh ra. Chỉ chung mọi người cùng sống chung trong quả địa cầu, không phân biệt màu da tiếng nói.
    CÀY CẤY: Làm ruộng nói chung, Nghĩa bóng: Sốt sắng tu hành.
    BÁ NHA: (Xem chữ Đờn Bá Nha trong STTĐ, trang 130, cột 2).
    HỘI MÂY RỒNG: Nghĩa của chữ hội Long Vân, ngày xướng danh những người đỗ đạt. Cổ thi có câu: “Mong con gặp hội Rồng Mây với người”.
    Ngoài ra còn có nghĩa: Hội tôi chúa trùng phùng. Cổ thi có câu:
    “Trời sinh trời chẳng phụ nào,
    Long Vân gặp hội anh hào ra tay”.

    MEN MÉT: Da màu xanh nhợt nhạt, yếu ớt.
    KHAO KHÁT: Thèm muốn gắt gao. Đức Thầy có câu: Lúc khô hạn đi đồng khao khát”.
    LÂY QUÂY: Cũng viết loay hoay. Làm nhiều việc, hết việc nầy đến việc khác, quây quần tối ngày. Ở đây Đức Thầy muốn nói Ngài bận rộn nhiều việc: Nào trị bệnh độ đời, nào thuyết pháp độ đời, nào viết Sấm Giảng độ đời.
    TRƯNG BÀY: Trưng: chứng cớ. Bày: phô trương, kết đặt. Nghĩa rộng: Sắp xếp có bằng chứng rõ ràng. Đức Thầy có câu: Trưng bày tích cũ đành rành”.
    ĐẠO ĐỨC: Đạo: Con đường hợp lẽ phải, đúng chơn lý, sát thực tế, đạt dến chỗ tuyệt đối. Đức: Tâm lành đến chỗ tột lành. Đạo Đức: Con đường đưa hành giả tiến đến chỗ tốt đẹp, từ thể xác đến tâm hồn; vạch một lối đi rất quang minh chánh đại để lòng mình hướng về chân thiện mỹ. Đức Thầy có câu:
    “Việc đạo đức bất cần thối thắng.
    Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi”.


    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 133 đến câu 144)
    Không biết tạo sao tự nhiên Đức Thầy có oai lực phi thường, dường như trời đã sắp đặt trước. Tự tay Ngài đã sáng tác bốn quyển Giảng một cách mau lẹ như ngọn bút thần.
    Đức Tôn Sư PGHH sợ chúng sanh chểnh mảng công việc cày cấy ruộng nương, cũng như ruộng lòng nên hằng giục thúc mọi người sốt sắng lo làm ăn và lo tu hành chơn chất.
    Bá Nha xưa có tài đờn tuyệt diệu, trong nước không ai sánh bằng. Y tự mãn khắp thiên hạ khó tìm được bạn tri âm. Nhưng qua đôi phút chờ đợi thắc thỏm, câu nghi vấn của y được phá giải. Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn tài đờn của Bá Nha lồng vào giáo pháp bằng lời Kinh tiếng Kệ. Ngài “Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn”. Ngài Lo cho đời quên vóc ốm gầy, Xanh men mét cũng thây thịt xác”. Mục đích cầu mong mọi người mau gặp hội rồng mây, mới thỏa nguyện vọng của mình.
    Ngài càng đi càng giúp đồng bào giải cơn khao khát, hưởng trọn niềm vui phấn chấn tu hành. Nhưng ngặt nỗi giếng nhà quá sâu, quá nhiều người mê muội, nên Ngài khó múc cho mau đầy được. Dù vậy nhưng Ngài không chùn bước chí khí hiên ngang: Hết trị bịnh độ đời, hết thuyết pháp khuyến tu đến tiếp tục viết Sấm thi độ chúng. Ngài làm việc suốt ngày đêm với đại công trình “Hoằng pháp lợi sanh”.

    CHÁNH VĂN

    145.-Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,
    Trẻ cùng già đồng hiểu Phật gia.
    Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,
    148.-Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.
    Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
    Khói mịt-mù văng xác đầy đường.
    Cuộc đời nay như ngựa buông cương,
    152.-Khó dừng lại vó cu lụp-bụp.

    CHÚ THÍCH
    TỈNH THỨC: Tỉnh: Hiểu biết. Thức: Biết. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết. Nghĩa bóng: Khi người được giác ngộ. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”.
    PHẬT GIA: Nhà Phật, đạo Phật. Đức Thầy có câu:
    “Nền đại đạo lưu thông khắp cả,
    Bậc Tiên hiền đều trọng Phật gia”.

    HÙNG PHONG: Hùng: mạnh mẽ. Phong: bộ dạng. Bộ dạng mạnh mẽ.
    CUỒNG CA: Cuồng: ngay dại, điên khùng. Ca: còn gọi là hát, giọng ngâm nga cao thấp. Cuồng Ca: Ca hát theo lối ngây dại, không có bài bản. Nhưng cuồng ca ở đây Đức Thầy có dụng ý giả làm bộ dạng điên điên khùng khùng, ca hát líu lo làm cho người Pháp không để ý đến Ngài.
    CUỘC THẾ: Còn gọi là cục thế. Cuộc diện hay cảnh trạng trong đời.
    KHUYNH ĐẢO: Khuynh: nghiêng. Đảo: xô ngã. Làm cho nghiêng ngã, sụp đổ. Đức Thầy có câu: “Xưa nước đã bao lần khuynh đảo”. Hoặc: “Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày”.
    NƯƠNG HÙNG PHONG TRỔI GIỌNG CUỒNG CA, CA CUỘC THẾ CA CÂU KHUYNH ĐẢO: Đức Tôn sư PGHH giả khùng, giả điên để lợi dụng nương theo sức mạnh của thời thế, Pháp quốc đô hộ, hát ca những bài có nội dung tinh thần yêu nước, yêu dân nhằm đánh thức một số người đang ngủ vùi trong cơn mộng. Ngài diễn ca: Cuộc đời ly loạn bất an”, kế biến sang đất nước lâm nguy trải qua nhiều cảnh hãi hùng đưa đến làm khuynh đảo cuộc diện ở ngày mai.
    MỊT MÙ: Xa xôi, mù mịt. Không thấy gì. Đức Thầy có câu: “Cơn dông tố mịt mù bụi cát”.
    VÓ CU LỤP BỤP: Vó cu: còn gọi là vó câu: Móng con ngựa to chạy rất nhanh. Truyện Kiều có câu: “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập gềnh”. Lụp Bụp: Tiếng vó ngựa phi nhanh, chỉ nghe tiếng lụp bụp nện trên đường trường.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 145 đến câu 152)
    Nhà Phật, đạo Phật là một nền Đạo vô cùng mầu nhiệm, vô cùng thật tế đưa mình tới ngôi Tiên Thánh, thế mà thời nay ít có người tỉnh thức tu hành, nương theo giáo lý nhà Phật để hiểu chính xác nền Đạo Phật, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ than thở đôi điều.
    Đức Tôn Sư PGHH giả dạng khùng điên để nương vào sức mạnh của giặc Pháp hát lên những bản hùng ca có nội dung yêu nước, yêu dân để thức tỉnh số người còn vong bản. Ngài ca hát về sự đời áo não năm châu, cuộc thế xoay vần và đất nước bị khuynh đảo ở ngày mai biến thiên sụp đổ.
    Giai đoạn 60 năm về trước đốt pháo vẫn thạnh hành, mỗi buổi tiệc hoặc mỗi cuộc lễ đều có đốt pháo để giúp buổi họp tăng phần long trọng, đầy phấn khởi. Có khi đốt suốt buổi, khói bốc hơi lan tỏa bịt bùng, xác văng tung tóe đầy đường sá.
    Cuộc diện nước Việt Nam ngày nay giặc Pháp hăng máu cai trị, đàn áp thẳng tay; và số người chạy theo cuộc sống đua đòi mới, ví như ngựa phi nước đại, giục vó buông cương khó mà dừng lại được, nếu muốn dừng chân phải trải qua chặng đường nữa. Ý Đức Tôn Sư PGHH nhắc khéo tín đồ và chúng sanh hiện tại.

    CHÁNH VĂN

    153.-Mặt nước biển lô-nhô lặn-hụp,
    Chim đua bay, cá lại tranh mồi.
    Ngọn thủy-triều nô-nức sục-sôi
    Bầu trái đất một phen luân-chuyển.
    Ta là kẻ tu-hành thiển kiến,
    Xét thế-trần luận-biện đôi điều.
    Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,
    160.-Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.

    CHÚ THÍCH
    LÔ NHÔ LẶN HỤP: Mặt nước biển khi cao khi thấp, lúc trồi lên, khi tụt xuống cứ thế mà liên tiếp không lúc nào ngừng. Nghĩa rộng: Chỉ sự chinh chiến kéo dài.
    THỦY TRIỀU: Con nước lên xuống.
    NÔ NỨC: Háo hức, hăm hở. Đức Thầy có câu: “Nô nức nhau kiến thiết quốc gia”.
    SỤC SÔI: Dâng trào cao ngọn
    LUÂN CHUYỂN: Luân: bánh xe. Chuyển: xê dịch, quay. Nghĩa bóng: Luân hồi chuyển kiếp, còn trong vòng sanh tử. Đức Thầy có câu: “Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp”.
    TU HÀNH: Tu: sửa. Hành: làm. Chấp nhận cải sửa việc xấu và làm theo việc lành, việc phải. Đức Thầy có câu: “Bởi chữ tu liền với chữ hành,
    Hành bất chánh người đời mới nói”.

    THIỂN KIẾN: Thiển: ít. Kiến: nhìn thấy, kiến thức, ý kiến nông cạn. Tiếng khiêm nhường dè dặt trong phát biểu, viết lách. Ví dụ: theo thiển kiến của tôi.
    THẾ TRẦN: Còn gọi là trần thế. Thế: đời. Trần: biụ. Cõi đời đầy bụi bặm.
    LUẬN BIỆN: Bàn luận giải bày. Bàn luận giải bày cho rõ ràng một vấn đề còn khúc chiết.
    TRỚ TRÊU: Né tránh ranh mảnh. Sự tráo trở né tránh. Đức Thầy có câu: “Trớ trêu tạo hóa ông bày trò chua”. Hoặc: “Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu”.
    GIÁC TỈNH: Giác: biết. Tỉnh: hiểu biết tỉnh táo. Nghĩa rộng: Được giác ngộ hết mê lầm.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 153 tới câu 160)
    Đến ngày Phật Trời phân định: Cả thế giới phải chịu cảnh bom rơi đạn lạc, ba đào sóng dậy triền miên: Chim đua bay cá lại tranh mồi”, nước lớn hiếp đáp nước nhỏ, quốc gia nầy sát phạt quốc gia kia, gây nên cảnh máu rơi thịt đổ chưa từng thấy trong lịch sủ nhân loại.
    Lúc biến thiên ngọn thủy triều cứ dâng cao mãi, nước văng tung tóe, sức nóng dữ dội có thể lên đến 90 độ C. Quả địa cầu phải một phen luân chuyển, thay đổi toàn diện: Đất đai, sông biển, núi non, luôn cả loài người và vạn vật.
    Đức Tôn Sư PGHH tỏ lời khiêm nhượng, Ngài là người ít hiểu biết, trí thức nông cạn, tu hành thấp thỏi; nhưng xét cuộc thế trần trong ngày biến thiên sắp đến, lòng bắt xót thương nên bàn luận điều hơn lẽ thiệt cho dân chúng tỉnh trí tu thân.
    Mục đích chính của Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời là để giác tỉnh người mê trở lại con đường lành; chớ Ngài không phải hạng người thêu dệt trớ trêu: “Nói xiên xỏ cũng không no béo”, vậy chúng dân nên mạnh tin để tiến xa đường về chân thiện mỹ.

     
  14. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    CHÁNH VĂN

    161.-Mong sanh-chúng học điều thông-thái
    Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.
    Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,
    164.-Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.
    Mà nào khác chợ trưa đồ ế,
    Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua.
    Mảng lo theo lối mới tranh-đua,
    168.-Lại bỏ ngón se-sua học-thức.
    Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,
    Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.
    Miệng toàn lời bắt chước chúa Tần,
    172.-Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.

    CHÚ THÍCH
    THÔNG THÁI: Hiểu biết rộng rãi hơn người. Đạo Phật gọi là thế trí biện thông. Đức Thầy có câu:
    “Học chữ nghĩa cho thông cho thái,
    Đặng xuê xang đài các xe tàu”.

    BÁC ÁI: Bác: rộng lớn. Ái: yêu. Lòng thương yêu rộng lớn. Đức Thầy có câu: Bác ái xả thân tầm đạo chánh”.
    TRAU TRIA: Dồi mài, sửa soạn cho đẹp. Đức Thầy có câu: “Mảng trau tria xác thịt thanh bai”.
    CẤP CẤP: Gấp gấp.
    SỚM KHUYA: Còn gọi khuya sớm. Ngày đêm. Nghĩa bóng: Tích cực với công việc. Đức Thầy có câu: “Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.
    HÀNH ĐẠO THIỀN CẤP CẤP SỚM KHUYA: Yếu lý của PGHH là “Thiền Tịnh song tu”. Nhưng chỗ nầy Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương Pháp môn Thiền tông, là pháp tu tự lực:“Tự mình đắm mê, tự mình giác ngộ”. Đây là pháp tối thượng thừa dành độ những bậc thượng căn, thượng trí. Vào thời Phật Thích Ca còn trụ thế, lần đầu tiên đi giác chúng, Phật đem pháp Thiền nầy đô năm anh em Kiều Trần Như. Chỉ sau một thời pháp năm anh em đều đắc đạo. Và từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. Chính là pháp “Tứ Đế” và “Bát Chánh đạo”. Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương như sau:
    “Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
    Non Tuyết rèn ra Bát chánh kìa.
    Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
    Hoàn cầu bốn biển khắc danh bia”.

    Và từ đó Tổ Tổ tương truyền, trải qua 33 đời, từ Ấn sang Hoa, rồi lại bặt truyền. Hôm nay lại sang Việt. Trước tiên là vị Giáo tổ BSKH:
    “Thọ truyền giáo đạo Thích Ca,
    Mùi Thiền tâm ấn phép nhà nhiệm thay”.

    Hôm nay lại đến Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Đạo vô vi của Phật ân cần,
    Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.

    Ngài khuyên hãy kíp kíp rán hành đạo Thiền, suốt cả ngày đêm, không phân biệt giờ khắc. Vì đó là pháp môn tối diệu.
    KHUYÊN RĂN: Khuyên lơn, răn bảo.
    RẺ RỀ: Rẻ mạt, rẻ như bèo. Thí dụ: Món hàng nầy bán rẻ rề.
    MÀ NÀO KHÁC CHỢ TRƯA ĐỒ Ế, BÁN RẺ RỀ ÍT KẺ HỎI MUA: Đ
    ây là ĐHGC dùng lối văn ẩn dụ, so sánh ngầm, tỷ dụ ngầm. Ngài ví giáo lý như món hàng đem vào chợ bán rẻ rề, ngồi đến trưa mà chẳng có ai đến mua. Thật là buồn cười cho số phận. Vì quá yêu đời nên lặn lội xuống trần đặng chịu cảnh chê khen. Ngài đem giáo lý nhiệm mầu, có công năng cứu vớt và đưa con người từ một chúng sanh mê tối sa đọa tiến về bến giác siêu cao, thoát đọa trầm luân, thế mà ít người ân cần han hỏi.
    TRANH ĐUA: Giành giựt hơn thua.
    SE SUA: Khoe khoang bằng việc làm, điệu bộ với ý khoe khoang quần áo tiền bạc. Đức Thầy có câu: Se sua nói nói cười cười”.
    HỌC THỨC: Trí thức thu nhận được qua quá trình học tập.
    HÈN YẾU: Yếu ớt không có can đảm.
    NĂNG LỰC: Khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc.
    BẮT CHƯỚC: Làm theo một cách rập khuôn máy móc.
    CHÚA TẦN: Chúa nhà Tần (221-206 TTL). Tần Thủy Hoàng: Sau khi gồm thâu lục quốc (Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở) liền thống nhứt nước Trung Hoa, bãi bỏ chế độ phong kiến, xây Vạn lý Trường thành, trở thành ông Tổ chuyên chế ở Phương Đông, dùng chánh sách bạo ngược để cai trị dân, lung lạc sĩ phu, nhưng lòng người bất phục nên có việc đốt sách vở Thánh hiền và chôn sống học trò. Nói đến Tần Thủy Hoàng là nói đến chánh sách cai trị gắt gao tàn bạo. Đức Thầy có câu: Bỗng hay đâu nghi ngút khói vua Tần”.
    ANH TÀI: Tài đức hơn người. Là người xuất sắc nhiều mặt. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đầng trung lương”.
    NHU SĨ: Còn gọi là Nho sĩ. Người học trò của Đức Khổng Tử. Người theo Nho giáo. Đức Thầy có câu: “Nhu sĩ lương hiền thêm cảm mến”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 161 đến câu 172)
    Đức Huỳnh Giáo Chủ mong tất cả chúng sanh rán học hiểu về sự đời hay đạo đức mọi mặt đều thông thái. Nhứt là trau luyện tâm từ bi bác ái càng ngày mở rộng thêm ra, cho duyên Bồ đề in sâu vào tâm khảm.
    Hằng ngày phải lóng sạch phàm tâm, trở về với bản lai thanh tịnh, phải sống thật với lòng mình từ giây, từ phút không kể đêm ngày để tiến xa trên đường giải thoát. Đức Thầy vì quá thương xót chúng sanh nên dạy khuyên đủ lẽ.
    Nhưng với Thế kỷ XX vừa qua, lượng người thật tu thì ít, Đức Thầy ví việc đạo đức như món hàng đem ra chợ bán, ít thấy ai hỏi mua, chẳng khác bán chợ trưa đồ ế. Người đương thời cứ chạy theo lối sống mới tranh đua xa hoa trụy lạc của người phương Tây. Và lại tuyên truyền rằng: Người Âu Mỹ văn minh hơn mình, toàn là dân học thức.
    Đức Tôn Sư PGHH xác định, bản thân của người Việt chúng ta phần đông hèn yếu, và thiếu khả năng học hỏi, sao chẳng tìm phương thuốc thật hay điều trị, trước sửa gân cốt cho thân khỏe mạnh, sau điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng chung lưng đoàn kết, xiết chặt tay nhau chờ thời cơ hưng hóa nước nhà. Cớ sao lỗ miệng phần đông nói a dua theo giặc Pháp, bắt chước bọn Tây Dương, bọn họ chủ trương cám dỗ nhồi sọ cho dân ngu để dễ bề cai trị. Họ lại theo chánh sách nhà Tần Quyết chôn sống anh tài nhu sĩ”. Vậy toàn dân Việt Nam hãy mau thức tỉnh.

    CHÁNH VĂN

    173.-Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,

    Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.
    Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,
    176.-Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.
    Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã
    Hạ bút thần thơ đã đề khai.
    Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,
    180.-Chỉ tưới nước vung phân cây quí.


    CHÚ THÍCH
    TỪ BI: (Xem CT đoạn trước cũng trong bài nầy).
    LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.
    LƯỢC THAO: Cách dùng binh. Gồm có: (Văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao và khuyển thao) và Mưu kế (lược) gồm (Thượng lược, trung lược và hạ lược). Tức là người có mưu trí đảm đang, giỏi xoay sở. Tay thao lược.
    THẦN TIÊN: Thần: là bậc trung cang nghĩa khí, đầy lòng yêu nước thương dân. Sau khi chết được hiển linh. Đức Thầy có câu:Dầu không siêu cũng đặng về Thần, Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”. Tiên: là bậc thoát tục, sống an nhàn tự tại, thường ngao du tứ hải, dạo khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo”. Thường trợ giúp những người mắc nạn và nhiều lúc phò trợ Thánh Vương.
    TAO NHÃ: Phong lưu tao nhã, lịch sự. Thí dụ: Văn chương tao nhã. Người phong lưu tao nhã.
    BÚT THẦN: Cũng gọi là thần bút. Bút của vị Thần. cây bút siêu hình có sức mầu nhiệm trên các bậc văn nhân thi sĩ.
    MIỆNG NHÍCH MÔI ĐẦY VĂN TAO NHÃ, HẠ BÚT THẦN THƠ ĐÃ ĐỀ KHAI: Miệng của Đức Thầy nói ra đầy văn chương tao nhã của một nhà khoa bảng. Bằng chứng Ngài thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Với 107 vị trí trong vòng 2 tháng khuyến nông khắp Nam kỳ Lục tỉnh, nơi nào không giống nơi nào, đề tài đều khác nhau và Ngài không cần luận trước. Một nhà viết báo Nam Kỳ lúc đó phê bình tài diễn thuyết của Ngài: “Vô địch giải quán quân về môn diễn thuyết”. Đến tài viết lách chỉ trong vòng 2 tháng Ngài viết bốn quyển Giảng dài, mỗi quyển trung bình 700 câu. Điểm đặc biệt là viết một mạch, không bôi xóa. Thử hỏi có ai viết được như vậy chăng ? Đây chẳng phải bút thần là gì ?
    HIỀN THÁNH: Hiền: (Phạn ngữ= Bardra) Người có tài đức phẩm hạnh. Thánh: Bậc tài đức phẩm hạnh cao quí và bậc được thế nhân ca tụng tôn thờ khi sống và lúc chết. Đức Thầy có câu:
    “Chữ xúc pháp treo gương Hiền Thánh,
    Tránh sáu đường cũng đặng về Thần”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 173 đến câu 180)
    Với Đức Huỳnh Giáo Chủ là bậc noi gương cao cả của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni. Ngài luôn luôn nuôi chí và lập chí, tài kiêm văn võ, thao lược vẹn hai: Chẳng những Ngài phục hưng nền đạo Phật, mà còn có sứ mạng phò tá Đức Thánh Vương trong ngày Thượng nguơn lập hội.
    Đây là công việc sắp bày của các Phật Tiên, các Ngài nung nấu chí khí thêm cho Đức Huỳnh Giáo Chủ. Thế nên, Ngài dùng tài biện luận thao thao bất tuyệt để thuyết giảng hoằng khai chánh pháp. Và dùng ngọn bút thần sáng tác kệ giảng thơ văn bằng ngôn ngữ Việt, lưu truyền hậu thế.
    Người Pháp lưu đày Đức Tôn Sư PGHH đến bao lâu đi nữa cũng không làm nao núng chí quyết tâm cao cả của bậc Hiền Thánh. Trái lại càng vun quén cho cây Bồ đề đạo hạnh của Ngài thêm sung túc.

    CHÁNH VĂN

    181.-Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,
    Cận Thầy xưa định việc an dân.
    Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,
    184.-Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.
    Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,
    Để chờ ngày hoán võ hô phong.
    Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,
    188.-Nay giục thúc câu quân tu ký.


    CHÚ THÍCH
    NHẠC NGHỊ: Người thời Chiến quốc, làm tôi nước Triệu, thuở nhỏ ông luyện tập tinh thông binh pháp. Ở Triệu bị gièm pha bèn sang Ngụy, cũng chẳng được tin dùng. Nhạc Nghị xin ẩn trú tại nước Yên. Ông đi du thuyết các nước: Tần, Hàn, Triệu, Ngụy và Yên được năm nước phong làm Thượng Tướng Quân, kéo quân sang đánh nước Tề, vào đến Lâm Tri (kinh đô nước Tề) tịch thu rất nhiều vàng bạc châu báu cho Yên, trong vòng 6 tháng, Nhạc Nghị chiếm 72 thành của Tề Vương.
    Ông được vua Yên là Yên Chiêu Vương tin dùng. Làm nhiều người ganh tị. Sau đó vua Yên băng hà, Thái Tử Nhạc Tư lên ngôi, nghe lời bọn gian thần, nghi ngờ Nhạc Nghị có mưu tạo phản bèn tước hết binh quyền, khiến ông phải đào tị về Triệu.
    Vua Triệu biết Nhạc Nghị là người hiền tài nên trọng dụng, cho Nhạc Nghị ở Quan Tân gọi là Vọng Chư Quân. Nhạc Nghị đứng ra liên kết giữa Yên và Triệu gây sự hòa hiếu lẫn nhau, sau Nhạc Nghị được Yên và Triệu phong làm Khách Khanh, về sau ông mất ở Triệu quốc.
    THÊM MẮC PHẢI TAY CHÀNG NHẠC NGHỊ, CẬN THẦY XƯA ĐỊNH VIỆC AN DÂN: Nghĩa bóng: Ý nói chánh sách của quân Pháp thêm mắc phải tay ĐHGC không sao tiến triển được. Ngài ví mình như Nhạc Nghị thuở xưa, học đủ binh thơ đồ trận, tiến thoái dễ dàng và biết liên hiệp Nhựt để tạo thanh thế, xoay chuyển nước cờ chiếu bí, Ngài có đủ tài thao lược, định việc an dân cho dân tộc Việt.
    TRUNG LƯƠNG: Trung: ngay thẳng chơn chánh. Lương: lành. Tôi trung lương chánh trực. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đấng trung lương”.
    HIẾU NGHĨA: Hiếu: bảo dưỡng và tôn kính cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy: “Hiếu từ chi phụ thân: Cư tắc chí kỳ kính, dưỡng tắc chí kỳ lạc. Bịnh tắc chí kỳ ưu, tang tắc chí kỳ ai, tế tắc chí kỳ nghiêm, cố bất ái kỳ thân, như ái tha nhân giả, vị chi bội đức”.(Người con hiếu thờ cha mẹ, lúc ở tôn kính rất mực, khi nuôi hết lòng vui, khi bệnh phải lo lắng hết lòng, khi để tang phải hết lòng buồn, khi tế thì rất mực nghiêm trang, cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người khác là trái đức vậy). Nghĩa: việc làm hợp với lẽ phải. Hiếu hạnh và tiết nghĩa.
    BÀN CỬ: Bí danh là Nhạc Phi, ông sinh vào đời Tống Vi Tông, quê ở huyện Thang Âm, phủ Tương Châu, tỉnh Hà Nam.
    Thuở nhỏ ông mồ côi cha, mẹ là bà Nhạc An Nhơn cho theo thụ giáo với ông Châu Đồng, học nghề văn nghiệp võ. Bấy giờ Tống Vi Tông mở khoa thi chọn hiền tài, Nhạc phi và bằng hữu đi thi. Quan giám khảo là Trương Ban Xương, Trương Tuấn và Vương Đạt, trước đó đã ăn hối lộ của Sài Quế. Nhạc Phi ở giữa đấu trường hạ được Sài Quế nên bọn họ tìm cách đuổi Nhạc Phi về quê.
    Trong lúc chưa gặp vận, gia trạch hàn vi, có lần bạn là Vương Tá tự động giới thiệu mua chức cho Nhạc Phi với lũ giặc Động Đình Hồ. Khi nghe biết câu chuyện đó, Nhạc Phi giận tím môi, nhưng đã nhận Vương Tá làm em nuôi, ông đành lặng thinh im tiếng. Do cớ sự xảy ra như thế nên mẹ là bà Nhạc An Nhơn biểu Nhạc Phi nằm dài, rồi bà vạch lưng lấy mũi nhọn xâm vào lưng khắc bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”. Do đó, sách vở và Đức Tôn Sư PGHH ghi lưu trong thanh sử: “Ông Bàn Cử mẹ ghi chạm thịt”.
    Sau đó giặc Kim phiên xâm loạn bắt vua Tống Khâm Tôn làm tù binh ở dưới giếng lạn, Khương Vương Triệu Cấu trốn thoát được, về tức vị lên ngôi là Tống Cao Tôn. Nhạc Phi được triệu về Kinh dẹp giặc. Lúc đầu được vua phong Thống Chế, sau có công được thăng chức phó Nguyên Soái, rồi đặc cách Ngũ Tinh Đại Nguyên Soái, và Võ Xương Khai Quốc Công Binh Bộ Thượng Thư Đại Nguyên Soái. Ông là người tận trung với Tống trào, lập nhiều công trận, sau bị gian thần Tần Cối mạo chiếu Vua triệu ông về Kinh giam vào ngục, lén giết tại Phong Ba Đình, lúc ấy Nhạc Phi mới được 39 tuổi. Thật là tấm gương trung lương hiếu nghĩa có một không hai trong lịch sử Trung Quốc.
    LUẬN SƠ SƠ: (Hơi sơ) luận sơ qua một lượt. Thí dụ: Sáng ra điểm tâm sơ sơ hết mấy chục bạc.
    HOÁN VÕ HÔ PHONG: Hoán: gọi mời. Võ: mưa. Một pháp thuật để gọi mưa hú gió.
    CAY NỒNG: Cay: đắng cay. Nồng: xông lên, tỏa lan. Sự cay đắng sâu đậm. Đức Thầy có câu:
    Buồn ai châm chít chữ cay nồng”.
    GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.

    TU KÝ: Ở nhờ, tạm nhờ nơi khác. Đức Thầy có câu: “Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký”.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 181 đến câu 188)
    Chính sách cai trị của Thực dân ở miền Nam nước Việt không được thành công. Lý do vì gặp tay đối thủ là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài ví mình như tướng Nhạc Nghị thuở xưa, đủ tài thao lược, an bang tế thế, hay dùng đường lối định việc an dân. Hơn nữa gặp phải tay bản lĩnh trung lương chánh trực đó là ông Bàn Cử. ông nầy được mẹ chích vào lưng bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”, cho nên ông cứu dân cứu nước đến ngày cuối cùng. Đức Huỳnh Giáo Chủ hiện giờ cũng noi theo những tấm gương hy sinh cao cả đó.
    Đức Tôn Sư PGHH luận sơ qua cho dân rõ biết tích xưa để thấy rõ cục diện hiện tại. Ngài hiện giờ ẩn nhẫn để chờ dịp lành đưa đến hầu hoán võ hô phong, đem tài trai ra phụng sự tổ quốc.
    Đến ngày chung cuộc Đức Tôn Sư PGHH sẽ ban cho đời thoát chữ cay nồng, mọi người được hưởng một mùa Xuân an lạc. Thế nên hiện giờ phải nương nhờ tạm ẩn nơi quân Phiệt (Nhựt) cho qua thời buổi hầu sau nầy giải phóng dân tộc quê hương.

    CHÁNH VĂN

    189.-Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,
    Ấy thời lai bình trị muôn dân.
    Khắp các nơi chư quốc xưng thần,
    192.-Trong bốn biển chúng dân lạc-nghiệp.
    Theo dõi gót người xưa mới kịp,
    Vừng mây lành ngũ sắc hào-quang.
    Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,
    196.-Miền Nam-địa phân chia đẳng cấp.


    CHÚ THÍCH
    TỌA VỊ: Toạ: ngồi. Vị: thứ. Ngôi thứ địa vị được giành sẵn cho.
    BÌNH TRỊ: Cai quản ở trong vùng, trong nước được yên ổn. Đức Thầy có câu: Dậu Thân bình trị trong ngoài âu ca”.
    MUÔN DÂN: Người sống chung trong đất nước.
    CHƯ QUỐC XƯNG THẦN: Nhiều nước láng giềng xưng là bầy tôi, đồng tôn trọng nước Việt Nam làm minh chủ.
    BỐN BIỂN: (Xem CT đoạn trước).
    LẠC NGHIỆP: Lạc: vui. Nghiệp: nghề. Việc làm vui vẻ, làm ăn. Đức Phật Thầy có câu: “An cư lạc nghiệp phước vô biên”.
    NGƯỜI XƯA: Bậc tiền nhân. Nghĩa bóng: Bậc đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời, như trường hợp của Đức Phật Thầy Tây An (1849-1856), Giáo Tổ hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đức Thầy nhắc lại:
    “Chim ô đà dựa cầu Ngân,
    Người xưa trở gót mấy lần ai hay”.

    Hoặc:
    “Đời này chưa vẹn thảo ngay,
    Thì là khó thấy mặt mày người xưa”.

    NGŨ SẮC: Năm sắc: Xanh, đỏ, trắng, vàng, đen.
    HÀO QUANG: Hào: lông mày. Quang: sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông màu trắng, phóng ra ánh sáng nên gọi là hào quang, một trong 32 tướng hảo của Phật, Đức Thầy có câu:
    “Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

    Hay là: “Hào quang chư Phật rọi mười phương”.
    PHẬT THÁNH TIÊN: Phật: Bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Thánh: Bậc “sinh nhi tri” (không học mà biết) có học thức uyên bác, ăn ở hợp với đạo lý, được người đời kính trọng. Tiên: là tu tu trên núi, có pháp thuật và chứng đắc. Phật, Thánh, Tiên: Ba quả vị: Phật giáo, Nho giáo và Tiên giáo thường nhắc trong sách sử.
    ĐÔNG ĐỘ: Địa danh ở Phương Đông đối tượng với Tây Độ.
    NAM ĐỊA: Địa phận miền Nam Việt Nam (ám chỉ sáu tỉnh miền Tây thời Pháp thuộc).
    ĐẲNG CẤP: Thứ bậc, các hạng người trong xã hội.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 189 đến câu 196)
    Đức Tôn Sư PGHH xác định: Ngày nào các đấng Phật Tiên đều qui hồi cựu vị, đó là ngày chúng dân các nước được thái bình an lạc. Khắp các nơi đều được phép xưng thần, đồng tôn nước Việt Nam làm Minh chủ. Trong bốn biển không còn cảnh tàn khốc vì bom đạn hay nạn chiến tranh, thật là cảnh trời Nghiêu đất Thuấn trở lại.
    Muốn được hưởng cảnh thái bình như trên trong toàn dân phải theo dõi gót người xưa, nghĩa là hiện giờ phải lo thức tỉnh tu hành mới mong kịp chuyến đò chiều. Vì các Phật Tiên Thần Thánh hiện hào quang tìm kiếm người lành khắp cả sáu tỉnh miền Nam, đồng phân chia đẳng cấp để dìu dẫn chúng sanh trong thời Hạ nguơn tiến lên đời Thưọng nguơn Thánh đức.

    CHÁNH VĂN

    197.-Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
    Trổ tài hay biển lấp non dời.
    Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,
    200.-Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.
    Tạo nền móng Thánh-quân đạt vững,
    Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.
    Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,
    204.-Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.


    CHÚ THÍCH
    ẢM ĐẠM KHÍ TRỜI: Ảm: Sắc đen sậm. Đạm: nhạt. Một sắc đẹp lờ mờ không đậm hẳn (ở đây nói về cảnh vật hay nói về người) có nghĩa: Tối tăm. Khí trời: không khí, nơi cần thiết cho sự sống còn. Khí trời gồm có dưỡng khí, thán khí và nước. Đức Thầy có câu: “Tiết trời ảm đạm mịt mù gió mây”. Hoặc:
    “Xuân sang ảm đạm ánh dương mờ”.
    THẾ GIỚI: Thế: đời. Giới: Đất đai nằm trong bầu trời, đồng nghĩa với vũ trụ. Tiếng gọi chung ám chỉ các nước trên toàn cầu.
    MƯA HÒA GIÓ THUẬN: Mưa gió thuận chiều. Nghĩa bóng: Cảnh đời an lạc, trên dưới thuận hòa, đất nước âu ca.
    THÁNH QUÂN: Vua Thánh. Chỉ vị Thánh Vương thời Thượng nguơn Thánh đức.
    ĐẶT VỮNG: Đặt: sắp đặt có nền nếp. Vững: chắc chắn. Đặt vững: Sắp đặt qui củ chắc chắn.
    TRIỀU CA: Triều: triều đình, nơi vua tôi hội hợp. Ca: khúc hát. Nghĩa bóng: Nơi chúa tôi hợp mặt để bàn việc triều chính.
    GẦY DỰNG: Xây dựng lập thành, dạy dỗ giúp đỡ hoàn thành công việc.
    TÔI HIỀN: Nghĩa của chữ hiền thần, bầy tôi hiền đức, dám sống chết với vua với nước. Như Tiết Nhơn Quí đời Đường, Phạm Lãi đời Việt Vương Câu Tiễn…Đức Thầy có câu:
    “Hiền thần sách sử nêu ghi,
    Miễu son tạc để tu mi trung thần”.

    THIÊN LÝ VỊ NHIÊN: Lẽ tự nhiên của trời đất là như vậy.
    CÒN ĐÃI: Còn chờ đợi.
    THIÊN OAI NẤY LỊNH: Thiên oai: Uy linh của Thượng đế. Nghĩa bóng: Uy quyền của nhà vua. Đức Thầy có câu: “Vi lộ thiên oai bảo giác dân”.
    Nấy lịnh: Xuống lịnh. Chờ đợi oai trời xuống lịnh.

    LƯỢC GIẢI
    (Từ câu 197 đến câu 204)
    Ngày Phật Tiên phân định cho cuộc đời tân sắp đến là ngày do cơ tạo hóa sắp đặt, ví như bàn cờ mới sắp nước mới. Nước cờ mới hiện nay đang khởi sắp. Tức là cuộc đời Thượng nguơn Thánh đức đang vén màn. Các bậc Phật, Tiên, Thần, Thánh dùng thần thông dời non lấp biển cảnh trí thiên nhiên đều theo định luật của hóa công mà xoay chuyển thời thế. Chừng đó dưới cùng trên đồng tiết ra màu trời ảm đạm do không khí vận hành, và pháp thuật của Tiên Phật hóa hiện. Và qua giờ phút thê lương đó, cả thế giới bắt đầu mưa hòa gió thuận. Số người sống sót đồng một lòng, một ý chí như nhau: Phò trợ Thánh Vương và tu hành tinh tấn đến ngày công viên quả mãn.
    Bực Thánh Vương lo kiến thiết cơ đồ và đặt nền móng vững chắc tại triều ca, gây dựng bầy tôi hiền đức để củng cố đất nước thành một đất Thánh.
    Vả lại hiện giờ còn chờ oai lực của Trời đất phân định đúng ngày giờ năm tháng mới thi hành mạng lịnh của máy thiên cơ. Vậy chúng dân nên ẩn nhẫn đợi thời.

    CHÁNH VĂN

    205.-Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,
    Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.
    Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,
    208.-Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.
    Đó mới biết ai là Phật Thánh,
    Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.
    Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,
    212.-Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.


    CHÚ THÍCH
    CUNG THỈNH: Mời một cách kính cẩn.
    KHÁN QUAN: Xem coi.
    XEM TUỒNG: Xem coi tuồng tích. Nghĩa bóng: Xem ngày lập hội giống như tuồng hát. Nhưng nó thật tế và cụ thể hơn.
    ĐIỂU THÚ: Chim và loài thú vật. Đức Thầy có câu: “Nào phải giống chim muông điểu thú”.
    CHIM MUÔNG: Chim và chó săn. Nghĩa bóng: Kẻ dữ. Những tay sai hung dữ của kẻ ỷ quyền thế hại người.
    HUỜN LAI BỔN TÁNH: Trở về tánh bản lai, tức tánh nguyên thỉ của mình thuở trước. Theo kinh điển cho biết: Mỗi người đều có tánh bản lai, nó vốn thanh tịnh hằng hữu. Nhưng bản tánh nầy chưa có thời gian gạn lọc nên bị vô minh che mờ. Nếu nay chúng ta phá được mây, huệ nhựt sẽ hiện bày tức khắc. Cái bản lai thanh tịnh đắc ngày nay thật nó không khác cái bản lai của ta trước kia. Nhưng cái chưa lọc và cái đã lọc rồi. Nó ví như chất nước chưa lọc và chất nước đã lọc, nó không khác. Có khác chăng là tại lớp bùn sịn còn chất chứa trong nước trong mà thôi.
    THẢO HIỀN: Hiếu thảo và hiền lành.
    LỖI ĐẠO NHÀ: Lỗi đạo ông bà cha mẹ của mình. Nghĩa bóng: Chỉ những kẻ ninh hót a dua theo giặc Pháp, bỏ hết luân thường đạo nghĩa nước nhà.
    PHỤ TỬ: Đạo cha con.
    KHẢI CA: Bài hát thắng trận. Ca khúc khải hoàn.
    TRĂM HỌ: Nghĩa của chữ bá tánh. Ý chỉ tất cả mọi người.
    MUÔN NHÀ: Mười ngàn nhà. Nghĩa bóng: Chỉ chung những người đang sống.
    THẠNH THỚI: Thới lai thịnh vượng, thời buổi hưng thịnh. Cái thế đang hưng, đang mạnh, làm ăn phát đạt dễ dàng.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 205 đến câu 212)
    Để kết thúc bài “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Tôn Sư PGHH vì quá thương đời, nên cạn lời bày tỏ vào đây, cung thỉnh mọi người, mọi giới xem đi xét lại tận tường để vào cửa xem tuồng; đó là cuộc diện thế giới bùng nổ ở trời Nam vào thời cuối Hạ sang Thượng nguơn sắp tới.
    Đạo Phật cao siêu ở chỗ bình đẳng về thể tánh; Đức Phật xem tất cả: Cỏ cây, loài người, vạn vật đều có Phật tánh như nhau. Sau khi lập lại đời tân bản tánh ra sao phải đầu thai vào cảnh giới đó. Ai được nên Tiên, nên Phật thì tốt. Những ai phải đầu thai thú cầm sanh vật cỏ cây là tùy theo nghiệp lực của mình gieo tạo từ trước, Phật Trời rất công minh không vị tình và cũng không hành phạt một ai. Tại mình tròn đạo hiếu, hay lỗi đạo nhà, chớ oán trách ai.
    Đức Tôn Sư PGHH cầu chúc mọi người, gia đạo bình an, đồng hát khúc khải ca, tu hành tinh tấn, làm ăn phát đạt và hưởng mùa Xuân an lạc.

    CHÁNH VĂN

    NGÂM

    Bồ-đào rượu thánh trà tiên,
    Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.

    Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn.

    CHÚ THÍCH
    BỒ ĐÀO: Cây nho, rượu nho. Tương truyền: Các vị tu Tiên thường nấu rượu Bồ Đào để đãi khách quí. Rượu Bồ đào có đặc tánh: Uống vào không say, uống nhiều càng bổ. Không phải như rượu nếp ở thế gian làm. Nói đến Bồ Đào là nói đến cảnh Tiên.
    RƯỢU THÁNH TRÀ TIÊN: Rượu trà của các bậc Thánh Tiên dùng. Thường Tiên ông hay tụ hợp nhau đánh cờ, ngâm nga thi phú, tiêu khiển bằng rượu trà. Ngụ ý: Con người thoát tục, không mến công danh phú quí. Rượu Thánh Trà Tiên còn có nghĩa chỉ tình nghĩa đậm đà gắn bó, không phân quen biết gần xa. Tâm bình đẳng.
    CHÚA HIỀN TÔI TRUNG: Chúa hiền: Chúa nhơn đức, biết chiêu hiền đãi sĩ, trọng vọng người có công, tận tâm giúp kẻ nguy nàn. Tôi trung: Bầy tôi một dạ với vua, với nước, hết lòng phò tá, chẳng nại gian nan nguy hiểm. Tục ngữ có câu: “Trung thần bất sự nhị quân” (người tôi trung không phò hai chúa).
    Chúa hiền Tôi trung tức Chúa Thánh, tôi hiền hết lòng bảo vệ và che chở lẫn nhau.

    LƯỢC GIẢI

    (Từ câu 212 đến câu 214)
    Đến hai câu chót, Đức Tôn Sư PGHH diễn tả cảnh thanh nhàn của đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Thầy tớ, chúa tôi họp nhau đàm luận đạo mầu, ngâm nga thi phú, uống rượu Bồ Đào, Trà Tiên Rượu Thánh.
    Thật là cảnh thái bình an lạc chưa từng thấy ở cõi thế gian. Muôn năm mới toại hưởng một lần, và muôn năm công lạc chúa hiền tôi trung. So sánh khác nào bồng lai Tiên cảnh.
    Vậy ai là kẻ thức thời, cố gắng lo tròn việc Đạo để cùng vui hưởng cảnh trường xuân tươi đẹp./.
     

Chia sẻ trang này