Chữ "Tu" trong giáo lý phật giáo hòa hảo

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Tamtran, 5/10/16.

  1. Tamtran

    Tamtran Administrator


    CHỮ "TU" TRONG GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO

    Tu không cần lạy cần qùy,
    Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau.
    Lời của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ

    Hai câu giảng trên, chúng tôi trích trong "Sám Giảng quyển 3", Đức Thầy đã viết vào năm 1939 tại Hòa Hảo, trong đoạn giảng Đức Giáo Chủ dạy về chữ TU
    Tu là tâm trí nhu mì,

    Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.
    Tu cầu cứu vớt Tổ Tông,
    Với cho bá tánh máu hồng bớt rơi.
    Tu cầu cha mẹ thảnh thơi,
    Quốc vương thủy thổ chiều mơi phản hồi.
    Tu đền nợ thế cho rồi,
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
    Người tu phải lánh hơi men,
    Đừng ham sắc lịch lắm phen hại mình.
    Tu là sửa trọn ân tình,
    Tào khang chồng vợ bố kình đừng phai.
    Tu cầu Đức Phật Như Lai,
    Cứu dân qua khỏi nạn tai buổi nầy.
    Chữ tu chớ khá trễ chầy,
    Phải trau phải sửa nghe Thầy dạykhuyên.
    Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,
    Nào ai có rõ Thần Tiên là gì.
    Tu không cần lạy cần quỳ,
    Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau.
    Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.

    (Sám Giảng Q3)

    Tu là một nỗ lực chuyển hóa tâm thức, hạ thủ công phu giải quyết vấn đề nội tại của chính mình, nhìn lại mình để sửa đổi làm cho các phiền não không dấy khởi, làm cho bớt khổ đau. Trong lãnh vực tu hành, căng thẳng không phải là điều tốt để tiến Đạo và sự nôn nóng cũng không bao giờ thàng công, nhất là muốn cắt dòng sinh tử trong một đời. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:
    Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,

    Đường đạo đức bước đi từ nấc.
    Ngoại quang hình bất chấp kỳ hình,
    Phải bền lòng chặt nẽo sắt đinh.
    Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt,

    (Diệu Pháp Quang Minh)

    Người tu là người phải biết thực tập thong thả, từ từ không chạy nước rút. Nỗi sợ tử sinh là tự nhiên của con người, nhưng không phải là kinh hoàng. Con người không chết, cái gọi là sanh tử là chuyện bình thường, là để chúng ta thay đổi một hoàn cảnh khác. Người tu đến mứt độ nhuần nhuyễn thâm sâu không cần phải dụng công gì hết, không phải ra sức khó nhọc đến độ phải chùn bước. Chúng ta chỉ nhẹ nhàng tự nhiên để tâm thể bất động, vô niệm tỉnh sáng vận hành trôi chảy miên man. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạ
    Chữ tu hãy rán miệt mài,

    Đừng kể vắn dài, đừng nệ mau lâu.
    (Sám Giảng Q3)
    Hay là:
    Việc đạo đức bất cần thắng thối,
    Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Chúng ta tu hành, không nên tham mau, mà phải bền chí, buông bỏ phiền não, nhìn lại chính mình thì tự nhiên sự giác ngộ sẽ đến với mình. Nếu chúng ta hướng ngoại, nhìn cảnh nhìn người rồi nhớ cảnh nhớ người thì làm sao giác ngộ cho được. Tu là biết xoay lại, trở về con đường giác, xoay lưng với trần cảnh, trở về tánh giác của mình. Nhìn lại chúng ta hiện nay, đa phần xoay lưng với tánh giác, chạy theo trần cảnh mà muốn thành Thánh, thành Phật thì thành sao được! Chỉ cần đổi hướng từ mê qua giác là đường tu của chúng ta ngày thành tựu sẽ sớm hơn.
    Trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ nói: "Bởi chữ tu liền với chữ hành, Hành bất chánh người đời mới nói. ". Hành là hành vi, hành vi sai lầm, cách nhìn, cách nghĩ sai lầm; đem sai lầm nầy tu chính trở lại gọi là tu hành. Thế nào là đúng? Thế nào là sai?. Làm lành là đúng, làm ác là sai. Hạ thủ công phu từ chỗ nầy, phải dứt ác tu lành, vì:

    Làm lành đâu phải mất tiền xu.
    Mà sau lại được về Tiên cảnh,
    Thêm thoát ngục mê chốn Diêm phù.
    [FONT=&amp](Tối Mùng Một).


    [FONT=&amp][/FONT]
    [/FONT]​
    Thói quen làm ác của chúng ta qúa nhiều, là căn bịnh, vậy phải làm thế nào để sửa cho đúng? Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:
    Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,
    Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.
    Lòng dục tu thì phải thiệt hành,
    Chớ đừng có ham điều sung sướng.
    Đức Phật Tổ nào đâu hẹp lượng,
    Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.
    Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
    Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Vậy chúng ta phải hạ thủ công phu từ chỗ khó khắc phục nhất. Cái khó vượt qua được, còn các thứ khác sẽ dễ dàng hơn. Phiền não, thói quen của mỗi người đều khác nhau. Chính mỗi người tự biết, tự mình kiểm điểm, luôn luôn phản tỉnh thói quen là quan trọng. Chúng ta hạ thủ từ thói quen đó. Nếu có lòng tham, hãy hạ thủ từ bố thí; có tật háo sắc, hạ thủ bằng cách xa lánh sắc. Biết được tật bịnh của bản thân mình, chúng ta đã giác ngộ rồi. Sửa đúng tật bịnh, đó là công phu thật,là chân tu.
    Chúng ta đừng bao giờ hiểu sai lầm nghĩa của việc tu hành. Không phải mỗi ngày chỉ vài thời công phu bái lạy hay tụng vài lần kinh hoặc niệm vài câu Phật hiệu, đó gọi là tu hành. Đó là hình thức không phải thực chất. Công phu thực chất mới thật sự lợi ích chính mình.
    Biết sửa lỗi, là công phu bước thứ nhất để đoạn ác tu thiện. Tiến thêm một bước nữa , hành nhẫn nhục. Có được vậy, công phu của chúng ta được bảo trì không mất. Bố thí là tu phước, nhẫn nhục để tích đức. Tu phước mà không làm được nhẫn nhục, tuy phước đức còn, công đức không có.
    Chúng ta đều biết, phước đức không thể giải quyết vấn đề sanh tử luân hồi nếu không có công đức chân thực. Chúng ta không biết vô thường đến từ lúc nào. Chết rồi sẽ đi về đâu?. Đây là vấn đề lớn. Con người có sanh ắt có tử, đừng kiêng kị, đừng sợ chết. Dùng trí tuệ đối diện hiện thực, tự cầu đa phước, cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên:

    Kẻ tu hành đa phước thì nên.
    Quyết trau thân tánh hạnh cho bền,
    Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
    Ao sen báu Tây Phương đua nở,
    Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.
    Rán tu cho qủy khiếp thần khâm,
    Được tâm phát Bồ Đề vững chắc.
    Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt,
    Thường nhớ câu Đại Lực, Đại Hùng.

    (Khuyến Thiện)

    Người hiểu thông Phật pháp chân chính là người nhận ra trong Phật pháp không có sanh tử. Sanh tử chỉ là chuyển biến mà trong kinh luận Phật nói rõ tường tận với chúng ta. Chuyển biến thù thắng nhất là niệm Phật, nghĩa là không có gì hơn niệm Phật. Niệm Phật vãng sanh bất thối thành Phật, đây là chuyển biến thù thắng không gì sánh bằng. Điều mà chúng ta phải hiểu rõ.
    Niệm Phật không thể vãng sanh nguyên do từ đâu? Nguyên nhân chúng ta không chịu buông xuống, trong lòng vẫn còn nghĩ nhớ vấn vương, vẫn còn bị các ngoại duyên dụ dỗ, trong ngoài đều không thanh tịnh, niệm Phật theo lối nầy làm sao vãng sanh cho được. Cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên người tu đạo, cuộc sống càng đơn giản càng tốt:

    Cõi hồng trần các việc mến ưa,
    Sự giả tạm ta nên rứt bỏ.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Không buông nổi chấp trước, thị phi nhân ngã, tham sân si mạn, đây là những thứ liên lụy phiền phức. Nếu không buông nổi những thứ nầy, khó vãng sanh! Khó ở chỗ không chịu buông bỏ tự tư tự lợi, ngã chấp kiên cố . Những chấp ngã của chúng ta đã đông lại từ vô lượng kiếp, nhưng nếu trí tuệ phát sinh thì dần dần sẽ khai ngộ.
    Người tu học phải điều tiết thân tâm theo con đường trung đạo. Con đường trung đạo là con đường đưa đến thành tựu đạo nghiệp mà các bậc Thánh qúa khứ từ Đức Phật cho đến các vị Thầy cận đại đều đi.
    Áp dụng con đường trung đạo vào thực tế thật không đơn giản mà phải giữ làm sao cứ thẳng con đường ở giữa, không bước lệch qua trái, cũng như không bước lệch qua phải. Điều nầy cũng có nghĩa là đừng lạc vào trạng thái căng thẳng của tinh tấn, cũng đừng bước lạc vào buông lung. Đường tu rất dài, mà tâm sinh lý của chúng ta thay đổi từng ngày một, nay vui, mai buồn, khi mạnh, khi yếu... Thế nên về mặt lý thuyết, đi vào con đường trung đạo xem ra dễ, nhưng nếu áp dụng vào thực tế để đi trọn con đường tu không thối chuyển là điều hết sức khó khăn.

    Trên đường tu, chúng ta phải luôn luôn nhìn lại chính mình, tự thân phải có đức tính kiên nhẫn. Nếu không, con đường tinh tấn của mình thục lùi, đường tu không đi hết được. Kiên nhẫn và tinh tấn là hai đức tính rất cần cho người tu, nếu không sẽ bị "quỷ dắt đường cong" như lời Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy
    Khuyên bá tánh giữ gìn cho chặt,

    Đừng để cho qủy dắt đường cong.
    (Khuyến Thiện)

    Người tu phải giữ truyền thống, đừng hay thay đổi pháp môn nầy qua pháp môn khác, đó là tâm thức của người thiếu kiên nhẫn. ĐứcTôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Chánh Tinh Tấn dầu thành hay bại,
    Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
    Dầu cho ai phá rối đức tin,
    Ta cũng cứ một đàng đi tới.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Trong việc " Tu thân xử kỷ", "Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên dạy, hãy "Lấy tâm lấy trí xét soi" và "Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo lý ấy như thế nào".
    "Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ. thấy rõ ta mê tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài bác, nhạo chê hủy báng và cũng rất uổng cho cái công trình thành kính lễ bái của ta vậy".
    "Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy gẫm phán đoán kỹ càng; chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chính đáng, ông THẦY rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả"
    .
    "Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa, đạo đức".
    Người tu phải sáng suốt nhận ra con đường trung đạo tùy theo cơ chế của từng hình hài bao gồm thể xác và tinh thần. Điều kiện sức khỏe phải thích ứng khi áp dụng con đường trung đạo vì không có một tiêu chuẩn chung nào cho mọi người. Con đường trung đạo của người tu đặt ra chính là thân tâm, trí tuệ của từng cá nhân.
    Đi vào thực tế dụng công, người tu thường có khuynh hướng hay dễ dãi với chính mình. Chỉ cần một lần dễ dãi là lần sau nó có cơ hội lập lại và từ từ sẽ trở thành thói quen.Tâm thức của chúng ta không phải lúc nào cũng thường còn bất biến mà hay thay đổi khôn lường; chúng ta lại hay chiều chuộng nó để đi vào con đường giãi đãi. Con đường nầy tác hại lên thân rất lớn, về lâu về dài ảnh hưởng đến công phu điều phục tâm, biến chúng ta thành kẻ lười biếng. Hai con đường cực đoan: trưởng dưỡng xác thịt, giãi đãi, lười biếng và ép xác khổ hạnh thái qúa đều dẫn đến kết qủa thiệt thòi là suốt một đời thực tập không đi đến đâu, không nếm được hương vị thật sự của pháp lạc.
    Người tu chúng ta phải thực tập xả ly. Cái xả ly gần gủi nhứt với chúng ta là của cải vật chất chung quanh. Điều nầy chúng ta chưa làm được thì không thể nào xả ly được bản ngã, tình cảm đang quậy phá chúng ta. Câu chuyện là một hôm nhà vua rước quốc sư Huệ Trung từ núi Bạch Nhai về triều đình. Nhà vua hỏi:"Bốn mươi năm trên núi Bạch Nhai, Ngài chứng được qủa vị gì?". Huệ Trung chỉ lên trời nói:"Mây trắng trên trời do ai đóng đinh mà dính trên không gian vậy?". Nhà vua trả lời:"Không có ai đóng cả, nó tự vây thôi". Quốc sư nói:"Ta cũng thế, ta không có qủa để chứng, ta là người bình thường, là một ông tăng trên xó núi thảnh thơi thôi, ta không bị buộc vào gì cả".
    Chúng ta hãy thực tập sống một đời sống của người bình thường xem nhẹ vật chất của thế gian, xem nhẹ địa vị lợi danh thì chúng ta mới hành đạo được; nếu không, ngũ dục lạc sẽ cuốn hút chúng ta làm chúng ta mất Đạo.
    Chứng nghiệm Đạo qủa là tự nó có sẵn trong ta, không phải bên ngoài, cũng như niềm hạnh phúc là ta tự có. Nếu như vàng thật không có trong quặng mỏ thì dù cho con người có tài giỏi luyện lọc bao nhiêu cũng không kiếm ra được. Cho nên muốn tìm cầu sự chứng nghiệm, chúng ta hãy trở về tâm thức của chúng ta. Phật pháp nằm ngay trong hình hài nầy của chúng ta. Vậy người thực tập giỏi là người biết quay về đừng hướng ngoại.
    Hành giả phát tâm tu, muốn thành đạt con đường tâm linh, phải xác quyết niềm tin kiên định, nuôi dưỡng tâm Bồ Đề ngày mỗi lớn lên và làm cho niềm đam mê tu tập rực sáng mới có thể đi trọn con đường tu. Khởi đầu làm người cư sĩ tu học Phật pháp cũng phải có niềm tin bất hoại như câu chuyện về ông Cấp Cô Độc, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ nói trong giáo lý của Ngài:

    Cấp Cô Độc là nhà bá hộ,
    Còn đành lòng bố thí xả thân.
    Chữ vinh hoa phú qúy chẳng cần,
    Miễn hiểu đạo hơn là châu báo
    .
    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Cấp Cô Độc là người đã cúng dường cho Đức Thế Tôn tất cả tài sản, nhưng đến ngày thất bại trong công việc làm ăn đến khánh kiệt, trở thành nghèo đói. Vậy mà ông vẫn để dành cúng dường Đức Phật một bát cháo mỗi ngày.
    Trước nhà ông có con quỷ Dạ xoa trú ẩn từ lâu. Khi thấy Tăng đoàn của Đức Phật không đến khất thực tại nhà ông nữa, nó bèn dùng mưu mẹo dụ dỗ ông bằng một kho tàng đầy vàng bạc, châu báo với một điều kiện là khi ông lấy được kho tàng, trở thành giàu có thì phải quay lưng lại không làm đệ tử của Đức Phật nữa. Ông liền điểm mặt qủy Dạ xoa:"Ngươi không được xúc phạm Đức Thế Tôn, ta dù nghèo có rớt xuống tám tầng đia ngục thì ta vẫn là đệ tử của Đức Phật". Và ông không cho nó ở trước vòm cổng nhà ông nữa. Con qủy đến cầu xin Tứ Thiên Vương năn nỉ giúp nhưng vẫn không đượcchấp thuận cho ở lại chỗ cũ. Mãi đến khi qủy Dạ xoa bằng lòng sám hối trước Đức Phật những lời hắn từng xúc phạm, ông mới cho ở lại vòm cổng trước nhà.
    Câu chuyện cho chúng ta thấy niềm tin của Cấp Cô Độc vào Tam Bảo là niềm tin bất hoại như kim cương. Nếu không có niềm tin vững chắc vào tâm Bồ Đề của mình thì người cư sĩ chúng ta không thể tiến đạo, không thể tin chúng ta có khả năng thành Phật. Theo giáo lý nhà Phật, dù tu theo pháp môn nào đều xác định niềm tin nầy. Đối với Đạo, niềm tin là nền tảng căn bản của đời tu chúng ta, nếu không có niềm tin thì chúng ta không thể bước vào qủa vị Phật.
    Nhìn vào tự thân của chúng ta, bằng lòng với những gì chúng ta có là tuyệt vời rồi. Hãy nhìn các bậc Đạo sư đức hạnh làm đạo trong qúa khứ và hiện tại để thấy các Ngài có phước hữu lậu như Đế vương nhưng tự thân đời sống của các Ngài thanh đạm, bình dị, mộc mạc như dân quê. Bằng với cách sống nầy chúng ta có thể xác định đạo hạnh sáng chói của các Ngài là cách sống viễn ly. Hãy nhìn vào gương thân giáo của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ, để cố gắng từng bước noi theo thì đạo hạnh của chúng ta mới sớm thăng hoa. Ngài tự thuyết:

    Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
    Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.
    Chẳng có cần trà, qủa, hương nồng,
    Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ.
    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hoặc trong bài "Trao Lời Cùng Ông Táo", Ngài viết:
    Thần cũng chẳng say mê chùa tháp,
    Chẳng tham tiền, tham vật món chi chi.
    Hay là:
    Chẳng ham cúng kiến chè xôi,
    Phật Trời chẳng muốn điều tồi ấy đâu.
    Muốn cho dân hiểu Đạo mầu,
    Chớ không có muốn chùa lầu cho cao.
    Bao nhiêu cũng biết vàng thau,
    Dạy khôn trần thế chớ nào dạy ngu.
    (Khuyên Người Đời Tu Niệm)
    Hoặc:
    Không ham danh lợi giàu sang,
    Mong cho bá tánh được nhàn tấm thân.

    (Khuyên Người Đời Tu Niệm)
    Hay là:
    Cũng không có muốn hoa hòe,
    Lầu đài sơn phết cũng là chẳng ham.
    Ai chê khờ dại cũng cam,
    Chớ tôi cũng chẳng có ham lầu đài.
    (Sám Giảng, Q3)
    Là cư sĩ tại gia, chúng ta nương theo lời khuyên dạy của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ: "Tập ở ăn theo nết Thánh hiền, Lòng tu tỉnh dòm Phật Tiên nối chí":
    Đạo vô vi của Phật ân cần,
    Noi theo chí Thích Ca ngày trước.
    Câu phú qúy Ngài không màng ước,
    Chữ bồ đề như cội bá tòng.
    Rán dưỡng nuôi chữ đó trong lòng,
    Thì là được định chừng diệu qủa.
    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hoặc là:
    Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền,
    Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên.
    Bác ái xả thân tầm đạo chánh,
    Độ người lao khổ dạ không phiền.
    Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,
    Vóc ngọc Đông cung tước phế liền.
    Xem đó hỡi người mau lập chí,
    Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên.
    (Luận Việc Tu Hành)
    Hay là:
    Chữ bần tiện khuyên dân đừng nại,
    Miễn cho ta trở lại ngay đàng.
    Chữ vinh hoa giờ chớ có màng,
    Bởi giả tạm của đời Nguơn Hạ.
    Gắng công tu xem nhiều phép lạ,
    Của Thần Tiên trừ lũ hung đồ.
    Nào lụa là, lãnh nhiễu, tố sô,
    Chớ ham mến mà sau lao lý.
    (Giác Mê Tâm Kệ_
    Con đường tu của chúng ta là trở về an trú trong trạng thái nhận biết hiện tiền, tĩnh tại, chớ không phải vướng mắc vào những lợi danh tiền của, tình cảm vui buồn...
    Chúng ta nghĩ tu là được gì thêm không? Đừng bao giờ nghĩ tu là được gì thêm. Tâm thể của chúng ta vốn vô sinh bất động, vốn vô ngã, vốn là Niết Bàn, vốn là Phật rồi chớ không phải đợi tu mới thành Phật (Niết Bàn không phải là một cảnh giới ở hành tinh nào xa lạ, mà là trạng thái tự tâm có mặt hiện tiền. Hãy dừng suy nghĩ và quán chiếu thì thấy ngay Niết Bàn hiển lộ). Cho nên chúng ta nói tu là không làm gì thêm mà là loại bỏ, dừng lại. Chúng ta muốn học Phật thành công, muốn được lợi ích, nhất định phải buông xả thành kiến cá nhân, phải thừa nhận thành kiến của chính mình có sai lầm, phải sớm quay đầu tìm về bến giác, y theo lời dạy của chư Phật, chư Bồ Tát. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên dạy chúng ta trong "Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Phật" khi niệm hương với câu: "Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo". Điều đó chứng tỏ rằng khi chúng ta quy y với Tam Bảo thì phải làm y, không được làm điều gì sai trái, "Quy y thì khá làm y, Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời". (Thức Tỉnh Một Tín Đồ ở Bạc Liêu). Bằng ngôn ngữ rất bình dân, giản lược, Lục Tổ Huệ Năng đã giúp cho Huệ Minh cũng như người học đạo nắm được bản tâm, tức tâm thể chân thật của chúng ta. Huệ Năng bảo: "Nếu ông thật sự vì đạo đến đây thì hãy lắng tâm rồi ta dạy cho". Là câu nói đầu tiên Lục Tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh, khi Lục Tổ bước ra khỏi chỗ ẩn trốn trong lúc Huệ Minh rượt đuổi theo để giựt lại Pháp y. Khi Huệ Minh ngồi xuống để tâm tư lắng lại, an tịnh lại. Rồi Lục Tổ nói tiếp:" Ông hãy buông hết tất cả những vọng niệm lăng xăng, an tâm tại ngay nơi đây và giờ phút nầy. Hãy nhìn lại xem lúc tâm thức an bình tĩnh lặng, không có ý niệm về thiện, về ác; lúc đó cái gì là Bản Lai Diện Mục của ông". Khi tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không chạy về qúa khứ, không chạy tới tương lai mà dừng trụ tại đây sáng rỡ nhận biết trong giờ phút nầy thì Bản Lai Diện Mục của chúng ta hiển lộ. Bản Lai Diện Mục tức là nhận ra mặt mũi thật xưa nay của chính ta, tức là Chơn Tâm, Phật Tánh hằng hữu bất sanh bất diệt mà chúng ta đã quên từ lâu.
    Với ngoại cảnh, chúng ta ngừng chạy theo danh lợi vật chất phù hoa. Tất cả đều bị vô thường làm mục rữa, rồi tàn hoại theo thời gian. Chúng ta đến cõi đời nầy bằng một hạt mầm bé nhỏ gieo trong trứng mẹ, nằm chín tháng mười ngày trong máu thịt, ra đời không một mảnh vải che thân, chỉ là một hình hài như bao nhiêu hình hài khác, có gì là sang quý vọng tộc. Dù cho có tô điểm sơn phết cái bản ngã của chúng ta đến mức nào đi nữa, đến cuối cùng ai ai cũng rũ bỏ hình hài nầy cho cát bụi để ra đi.
    Sống ở đời không có gì làm chúng ta mặc cảm cũng như không có gì gọi là cao ngạo. Chúng ta đều như nhau, cũng đều có khả năng nhận biết, đều có tánh chiếu diệu như nhau, đều có khả năng làm Phật như nhau. Phật và chúng sanh chỉ cách nhau có đường tơ kẽ tóc. Chỉ có điều làm chúng ta quên hay nhớ mà thôi.
    Thất niệm là quên, quên tự thể tâm, quên tự thể Niết Bàn đang hiện hữu và chánh niệm đưa chúng ta trở lại vùng trời Niết Bàn của chính mình. Vậy thất niệm và chánh niệm không cách xa nhau.
    Một hôm ngài Chân Tịnh dẫn đồ đệ đi dạo núi, Ngài hỏi đệ tử:"Con có thấy trăng sáng không?". Đệ tử thưa:"Dạ thấy". Con có ngửi ra mùi hoa nguyệt quế thơm không?". Đệ tử thưa:"Dạ có".Ngài liền bảo:" Đạo lý bày ra trước mắt con. Ta có gì dấu con đâu, con cũng như ta, cũng có cái nhận biết như ta".
    Tất cả chúng ta đều có khả năng nhận biết như Phật, như Thầy Tổ và không hề có sự khác nhau về giác ngộ. Chỉ khác nhau một điều là chúng ta ở trên mặt sóng biển, còn Người Cổ Tích thì luôn trụ trong đại dương bao la không gợn sóng, an trụ trong Niết Bàn thường tịch.
    Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy:"Đệ tử của ta tuy ở xa ta vài ngàn dặm, nhưng nếu nhớ nghĩ, hành trì giáo pháp của Ta tất sẽ đắc Đạo. Ở bên cạnh ta tuy thường ngày gặp gỡ Thế Tôn nhưng không hành trì và tu tập giới pháp của Ta thì cuối cùng cũng không đắc được Đạo".
    Điều nầy có nghĩa là dù xa cách Đức Thế Tôn về thời gian và không gian nhưng không phải là điều quan trọng, mà quan trọng chúng ta có hành trì tu tập giới pháp của Ngài không?. Hiện tại giáo pháp của Ngài vẫn còn, các bậc Thầy lớn, các bậc Đạo sư vẫn còn, nên chúng ta hãy nhìn lại để thấy tự hào phúc duyên của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta ở bên cạnh Ngài sáng, trưa, chiều, tối, nhưng không thực tập những lời Ngài dạy, không nhìn lại chính mình để chuyển hóa gột rửa thân tâm thì cuối cùng cũng không chứng được Niết Bàn, như lời tường thuyết của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:

    Phật thương bổn đạo như con,
    Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời.

    (Sám Giảng, Q3)
    Hay là:
    Giảng kinh đọc tụng đêm thanh,
    Ấy là châu ngọc để dành ngày sau.

    (Khuyên Người Đời Tu Niệm)

    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ tiên tri là Ngài sẽ xa cách tín đồ và thời gian xa cách là một thử thách cam go, nên chúng ta phải nắm chặt giáo lý siêu thượng của Ngài, cũng như người đi biển phải có địa bàn để tìm phương hướng giữa trời nước mênh mông mà nếu không, hậu qủa gặp sóng to gió lớn chắc bị nhận chìm mất mạng.
    Buông thả giáo lý của Ngài thì sẽ bị ngoại đạo cám dỗ, nhứt là nghe linh ứng, hoặc xưng Thầy trở lại. Họ cũng dựa theo giáo lý của Ngài rồi viết trại theo, khiến những người nhẹ dạ dễ tin, có tâm nhưng thiếu trí, tưởng là Thầy mình trở lại, thật đáng thương! Đức Tôn Sư biết rõ nên báo trước cho chúng ta điều nầy:

    Các đạo tà mưu khéo âm thầm,
    Dân rán tránh kẽo lâm mà khổ.
    Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẩy khó mong sống sót.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Chúng ta nên xét kỹ, Đức Thầy là một vị Phật lâm phàm có sắc lịnh hai vị Phật Tổ: Đức Thích Ca và Đức A Di Đà. Ngài vắng mặt nhưng vẫn còn để lại cho chúng ta một kho tàng Pháp Bảo và đã dạy:


    Giảng kinh đọc tụng chiều mai,
    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.

    (Từ Giả Bổn Đạo Khắp Nơi)
    Chúng ta hãy tự xét mình có làm y theo lời chỉ dạy của Ngài không? Nếu có thì lo gì không gặp Ngài. Theo sát giáo lý của Ngài, thì dù có xa cách nghìn dậm, nhưng cũng như ở bên Tôn Sư. Trái lại nếu không nghe theo lời dạy của Ngài, càng tìm kiếm Ngài chừng nào thì càng xa Ngài chừng nấy, rồi bị mắc lừa mưu mẹo của kẻ tà đạo thì khổ não vô cùng.
    Chúng ta may mắn được làm đệ tử của Phật, chúng ta phải làm một việc quan trọng là tu tập được cho chính bản thân mình. Một khi chúng ta chứng nhập được Niết Bàn hiện tiền, đó là món qùa rất lớn ban tặng niềm vui, hạnh phúc cho mình cũng là ban tặng cho mọi loài trên trần gian nầy như lời tường thuyết của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:

    Làm Phật Nhi phải được lòng thành,
    Thì mới đặng vãng sanh Cực Lạc.

    (Kệ Dân)

    Đức Phật, Đức Thầy đã chỉ dạy chúng ta tự lo cho mình "nhìn lỗi mình", mà không dạy chúng ta nhìn "lỗi người khác", "Bắt lỗi người phải xét lỗi mình" (Giác Mê Tâm Kệ) . Như vậy giáo giới trong nhà Phật đều nhằm răn dạy từng cá nhân. Nếu chúng ta không từ chỗ nầy đi vào cửa Phật mà muốn đạo nghiệp sớm thành tựu thì tuyệt đối không thể nào làm được:

    Đạo pháp thường hay dung với hòa,
    Xét người cho tột xét thân ta.
    Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
    Ta thứ người, người thứ ta.

    (Lời của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ)

    Đức Lục Tổ nói:"Nếu là người tu đạo chân thật thì không thấy lỗi lầm của người khác trong thế gian". Chúng ta thường thấy lỗi lầm của người khác thì chúng ta sẽ thất bại. Chúng ta thường mắc phải một căn bệnh là mỗi ngày đều nhìn thấy lỗi lầm của người khác nhưng không thấy lỗi của mình. Đến một ngày nào đó chúng ta không còn nhìn thấy lỗi lầm của người khác mà chỉ còn nhìn thấy lỗi của mình thì chúng ta sẽ thành công.
    Người khác làm gì và làm thế nào cũng có nhơn qủa riêng của họ. Điều quan trọng là nhơn qủa của mình, nhơn qủa của người khác chúng ta không thể thay thế cho họ mà cũng không thể giúp họ thay đổi. Sống trong đời ít ai chịu nói ra lỗi lầm của người khác. Chỉ có hai người, một là cha mẹ của chúng ta, hai là thầy giáo của chúng ta. Họ có trách nhiệm nói ra lỗi lầm của chúng ta mà chúng ta không phản đối lại . Bạn bè nếu nói ra có sự xích mích thù hận lẫn nhau rồi sẽ tìm cách trả thù. Cho nên không ai chịu nói ra lỗi lầm của người khác.
    Chư Phật, chư Bồ Tát thuyết pháp thường dùng cách nói khéo mà nhắc nhở để chúng ta nghe rồi suy nghĩ xem tự mình có phạm lỗi đó hay không. Nếu có thì mau mau sửa đổi, "Ai ai cũng rán xét mình, Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài" (Lời của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ). Chư Phật, chư Bồ Tát không chỉ trích lỗi lầm của chúng ta mà chỉ nói một cách gián tiếp, khiến chúng ta tự mình phản tỉnh, tự mình giác ngộ. Tâm của các Ngài là tâm thanh tịnh nên những lỗi lầm đề cập trong kinh luận, thật ra là Phật và Bồ Tát không thấy lỗi lầm của bất cứ một người nào; đây là sự cao siêu thâm áo của những phương pháp răn dạy của Phật và Bồ Tát, tất cả đều không đánh mất tâm thanh tịnh, như lời của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:

    Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,
    Sợ gạt chúng kiếm xu, kiếm cắt.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hay là:
    Nghe không thì cũng mặc tình,
    Nói cho rõ rệt dân tin không là.

    (Sám Giảng, Q3)
    Hoặc là:
    Tu không tu cũng không mời thỉnh,
    Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hay là:
    Không tu chừng khổ cũng ưng,
    Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay.

    (Để Chơn Đất Bắc)

    Nói cho người nầy nghe, muốn cho người nầy tu, người kia tu khó hơn là chúng ta tự tu. Tự mình tu là đã cúng dường Tam Bảo rồi, tự mình tu là món quà rất lớn làm cho Phật pháp trường tồn, là món quà đẹp và ý nghĩa nhất cho gia đình, người thân và bạn bè. Điều nầy chúng ta làm được trong tầm tay vì mình tự làm chủ đời mình.
    Đức Phật đã từng nói với đệ tử:"Như Lai không phải là hình thể ngũ uẩn, các ông đừng tìm Như Lai qua sự biểu hiện của ngũ uẩn". Vậy thì khi chúng ta muốn gần Phật không cần phải gần hình hài của Ngài mà gần Phật là chúng ta phải từ giáo pháp trong trái tim của Ngài đưa nó vào trong trái tim mình để sống.
    Khi chúng ta nếm được hương vị Phật pháp thì yêu cầu của thực tập là thường xuyên, miệt mài liên tục. Không có một hạt giống nào bỏ xuống đất, một ngày mưa năm mười ngày nắng mà lên mầm tốt tươi được. Cũng như chúng ta tu là gieo hạt mầm trí tuệ để nở hoa giác ngộ nên sự điều tiết rất quan trọng, không nôn nóng cũng không buông lỏng,"Đường đạo đức bước đi từng nấc". Chúng ta sửa sang hình thức bên ngoài rất dễ, nhưng để sửa đổi tập khí một đời rất là khó, nếu tu không thật sự nghiêm túc thì cả một đời không làm sao chuyển được nghiệp. Nghiệp tham, sân, si, rất khó diệt trừ, nó có gốc rễ rất sâu. Ba nghiệp nầy dầu cho hình hài có già cổi, mòn mỏi cũng không thể mất được. Thế nên những nghiệp nằm sâu trong tâm thức, chúng ta phải miệt mài công phu từng phút, từng giây, không buông lơi mới mong chuyển được. Thế nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên chúng ta phải hiểu về lợi ích của người chơn tu:

    Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lòng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.
    Trồng cây lành vị qủa thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất.

    (Khuyến Thiện)

    Chúng ta đừng làm người lanh lợi, hãy làm người thật thà, thâm nhập lời dạy của Đức Tôn Sư, dâng hết trái tim mình cho Đạo. Chúng ta lấy lời dạy của Ngài để làm giàu cho đời sống bên trong của chính mình. Ngài dạy:

    Con Phật thì chẳng có khôn lanh,
    Đời văn vật khôn ma khôn qủy.

    Hay là:
    Chữ lanh khôn của qủy của ma,
    Chớ nó không có giống người ta.
    Ma với qủy sanh người hung ác,

    Giác Mê Tâm Kệ

    Trong bài "Dặn Dò Bổn Đạo", Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết:


    Tu trì nguyện ước cầu mai,
    Thượng Nguơn hồi phục là ngày an cư.

    Cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của nhơn loại, là món ăn tinh thần và là một nhu cầu chính đáng giúp chúng ta luôn giữ niềm tin và an tâm đối với dòng đời nghiệt ngã trong vũ trụ bao la nầy.
    Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người con Phật; nhờ cầu nguyện mà niềm tin tăng trưởng, nguyện lực của họ mạnh mẽ hơn, tuệ giác Phật được phát huy, thiện nghiệp tăng trưởng, ác nghiệp sớm tiêu trừ và từng bước tiến lên con đường giác ngộ, giải thoát, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn
    Hay là:
    Tu cầu Phật hóa tánh tình,
    Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao.

    (Khuyến Thiện)

    Cầu nguyện là ước mong một cái gì đó được thành tựu viên mãn. Cầu dứt ác, làm điều thiện lành là cầu cho mình và mọi người phát tâm tín thiện với tình vô ngã vị tha bằng trái tim yêu thương và hiểu biết với tất cả mọi người đạt được như ý trong cuộc sống để vượt qua dòng đời nghiệt ngã, thành tựu mục tiêu giác ngộ, giải thoát; trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Tu cầu cửa Phật đặng vào,
    Gót sen thong thả xiết bao thanh nhàn.

    (Khuyến Thiện)

    Hay trong bài "Tây Phương Ngũ Nguyện", đứng trước bàn thờ Phật, khấn nguyện, Đức Tôn Sư dạy:
    "Nam Mô tứ nguyện cầu Bá tánh vạn dân từ tâm bác ái, giải thoát mê ly"
    "Nam Mô ngũ nguyện cầu Phật Tổ, Phật Thầy từ bi xá tội đệ tử tiêu tai tịnh sự, trí huệ thông minh, giai đắc đạo quả" (Yêu cầu chúng ta tu tập để chứng nhập Niết Bàn hiện tiền).
    Trong cuộc sống, chúng ta qúy kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân và nhơn loại còn sống hay đã qúa vãng mà có lòng cầu nguyện, mong muốn mọi người đều được sống an vui, bình yên và hạnh phúc, cũng như người chết được vãng sanh. Sự cầu nguyện đó có việc được việc không nhưng đã nói lên tình thương yêu, an ủi, chia xẻ, nâng đỡ cho nhau bằng tình người trong cuộc sống. Đức Tôn Sư dạy:

    Tu cầu trăm họ hiền lương,
    Đồng thanh niệm Phật tai ương chẳng còn.
    (Khuyến Thiện)

    Cũng trong bài nguyện, đứng trước bàn thờ Phật, khấn nguyện, Đức Tôn Sư dạy:
    "Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu Huyền Thất Tổ tịnh Độ siêu sanh"
    "Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây Phương"

    Cầu nguyện cho mọi người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết để thế giới chấm dứt chiến tranh, không còn cảnh máu đổ thịt rơi, sát giết lẫn nhau. Cầu cho mọi người luôn sống hiếu thảo với cha mẹ trên tinh thần biết ơn và đền ơn, chồng vợ biết nhường nhịn nhau thì thế gian nầy là thiên đường của hạnh phúc. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Tu cầu chóng hết binh đao,
    Gặp đời bình trị xiết bao vui vầy.

    Hay là:
    Tu cầu gia đạo vuông tròn,
    Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền.

    (Khuyến Thiện)

    Cầu nguyện là duyên giúp ta không lui sụt ý chí, kết qủa là đạt được mục đích đề ra. Nếu chúng ta muốn được thân tâm trong sạch, trước tiên là hóa giải phiền não tham, sân, si, chính là nhân; sau đó chúng ta nương vào sự gia hộ của Phật mà quyết tâm dứt trừ vọng niệm. Bản thân mình không chịu sửa đổi tâm tham lam, sân hận, mê si, thì dù chúng ta có tha thiết cầu Phật cứu giúp cũng không thể nào dứt được qủa khổ đau.
    Trong đạo Phật, cầu nguyện không phải là một hình thức cầu khẩn, van xin vào một thế lực bên ngoài. Chúng ta phải lấy nổ lực của bản thân để làm tăng thêm sức mạnh cầu nguyện chớ không phải ngồi ỳ ra đó mà cầu khẩn van xin.
    Cho nên trong việc cầu nguyện, phải dùng thiện tâm, phải dùng công đức chân thật, không có công đức chúng ta dùng gì để cầu? Không phải trước mặt chư Phật, chư Bồ Tát, ngày ngày khấu đầu, đốt vài cây nhang, cúng một chút hương hoa trái cây thì có thể cầu được,nhất định phải tu hành thiết thực.
    Phật pháp dạy chúng ta cầu, đều dạy chúng ta phát tâm bồ đề, phải làm việc lợi ích tất cả chúng sanh, không nên làm những việc lợi ích riêng mình, như vậy mới thật sự là đoạn ác tu thiện. Những gì thuộc lợi ích cho riêng mình đều thuộc về bên ác, lợi ích cho xã hội, lợi ích chúng sanh là thuộc bên thiện. Tổn mình, lợi người là đại thiện,không yêu cầu qủa báo, nó tự nhiên hiện tiền, thiện nhân tất có thiện qủa, "Trồng thiện nhân, nhất định đắc thiện qủa. Tạo ác nhân nhất định bị ác báo", chính là đạo lý nhơn qủa. Với lòng chân thành cầu nguyện,"Hữu thành tất hữu thần", sẽ có chư Thánh hiền xuất thế gian gia hộ phù hợp với đạo lý ''Hữu cầu tất ứng".
    Tinh Vân thiền thoại kể rằng: Có một ông nhà giàu kia, quanh năm suốt tháng mãi mê đầu cơ tích trữ, vun vén cho bản thân, nuôi tham vọng làm cho cơ nghiệp ngày càng thêm lớn, bất chấp thủ đoạn, giẫm bừa lên khổ đau của người khác. Một lần vợ ông bịnh nặng, ông thỉnh một vị Tăng về nhà tụng kinh cầu phước giải bịnh. Ông nói với vị Tăng: "Nhờ thầy thay tôi tụng kinh cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho gia đình tôi được bình an, việc làm ăn của tôi thêm phát đạt, vợ tôi qua khỏi cơn trọng bịnh, con cháu tôi được thăng quan phát tài".
    Nghe ông nhà giàu nói những điều mong cầu mà vị Tăng thở dài ngao ngán. Vị Tăng muốn cảnh tỉnh ông, bèn làm lễ, tụng kinh và khấn lớn tiếng rằng:"Nguyện chư Phật và chư Bồ Tát phương xa từ bi chứng giám, hiện tiền chủ gia cầu khẩn chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho gia đình ông ta được bình an, làm ăn thịnh vượng, vợ ông mau chóng khỏi bịnh, con cháu thăng quan phát tài".
    Ông nhà giàu nghe vị Tăng khấn nguyện lấy làm ngạc nhiên, thắc mắc:"Bạch sư phụ, sao thầy lại cầu khẩn Phật và Bồ Tát ở phương xa mà không cầu các vị ở gần để các vị ấy đến đây cho mau lẹ?".
    Vị Tăng đáp:"Sở dĩ tôi không cầu Phật và Bồ Tát ở gần là vì e ngại các vị ấy không chịu giúp ông. Ông nghĩ coi, bình thường ông chẳng làm việc phước đức, chẳng gieo nhân lành, không làm việc gì có ích cho ai, ngược lại còn tham lam, sân hận , mê si, tà kiến, kiêu căng, ngã mạn. Tôi e rằng Phật và Bồ Tát ở gần đây đều biết ông, các vị ấy sẽ không đáp ứng lời thỉnh cầu của ông. Vì vậy bất đắc dĩ tôi phải cầu chư Phật và Bồ Tát ở xa giúp ông, may ra vì không biết rõ về ông mà các vị ấy giúp ông ít nhiều".
    Lúc bình thường thì "Nghinh ngang làm thiếu lấy thừa", không kết thiện duyên, không tạo phước báu, thì dù cầu chư Phật, chư Bồ Tát ở gần hay ở xa cũng khó có sự cảm ứng. Kỳ thật chẳng phải Phật và Bồ Tát ở xa thì không hay không biết việc làm của ông nhà giàu. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Tây Phương tuy ở cõi xa,
    Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.

    (Sám Giảng, Q3)
    Hay là:
    Thánh Thần phưởng phất hồn bay,
    Ở đâu cũng đến độ rày chúng sanh.

    (Từ Gỉa Làng Nhơn Nghĩa)

    Đối với chư Phật, chư Bồ Tát thì không có chuyện ở gần hay ở xa mà các Ngài không hay không biết việc làm của chúng ta như lời của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết:

    Tuy là Trời đất rộng thinh,
    Có Thần xem xét phân minh cho người.

    (Sám Giảng, Q3)

    Quan trọng người đời có thật tâm hay không, có thật lòng hướng về Phật và Bồ Tát hay không, tâm ý và việc làm của người đó có tương ưng với hạnh nguyện của chư Phật và chư Bồ Tát hay không. Điều nầy có nghĩa là nuốn cầu Phật và Bồ Tát có sự cảm ứng thì phải sống cho tốt,biết hành thiện,làm việc gì đều có lợi cho mình và lợi người khác, có lòng từ bi hỉ xả, thương người mến vật... Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Ai mà tu tỉnh chuyên cần,
    Làm điều ngay thẳng có Thần độ cho.

    (Sám Giảng, Q3)

    Phật và Bồ Tát là những bậc toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, muốn cầu các Ngài có cảm ứng thì tâm niệm và việc làm phải tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết.

    Ở đâu cũng Phật cũng Trời,

    Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.
    (Sám Giảng Q3)
    Hay là:
    Non nước tuy xa đâu cũng trời,
    Cũng trời, cũng Phật, cũng an nơi.
    Một tâm chí nguyện cho tròn Đạo,
    Lòng chớ lo chi sự đổi dời.

    (Cho Ông Đỗ Văn Viễn)

    Sắp Đổi Đi Làm Việc Xứ Xa Thế gian nầy không chỉ có ông nhà giàu kia mà còn có biết bao người bình thường chẳng màng tội phước, không tin nhơn qủa, không ngần ngại tạo nghiệp xấu để thỏa mãn lòng tham lam, sân hận, mê si, cống cao ngã mạn, đến khi tai nạn giáng xuống, gặp chuyện không may bất trắc xảy đến thì lạy lục cầu xin Phật và Bồ Tát che chở. Lúc đó dầu có dâng cúng phẩm vật trọng hậu, qùy lạy sát đất cũng không có ích gì. Phật và Bồ Tát không khi nào làm thiên lệch luật nhơn qủa được vì "Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai, Cúng với lạy khó trừ cho đặng" (Giác Mê Tâm Kệ). Người có tâm địa xấu ác, ích kỷ thì làm sao có được kết qủa tốt đẹp, làm sao có được sự cảm ứng nơi chư Phật và chư Bồ Tát được. Cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cảnh tỉnh nhơn loại chúng sanh:

    Cứ lo làm việc tà tây,
    Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn.
    Chừng đau niệm Phật lăng xăng,
    Phật đâu chứng kịp lòng người ác gian.
    Thấy đời mê muội lầm than,
    Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉnh ghê.
    Chữ tu không phải lời thề,
    Mà không nhớ đến đặng kề Tiên bang.

    (Khuyên Người Đời Tu Niệm)
    Và nên nhớ rằng:
    Nuôi tằm ắt được nên tơ,
    Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng.

    (Từ Gỉa Làng Nhơn Nghĩa)
    Ngoài tinh thần cầu nguyện của người tu theo đạo Phật, thứ đến việc lễ lạy cũng là một hình thức cần thiết cho người hành đạo. Chúng ta cũng đừng quên cúng lạy là sự tu tập, thế nên người đi trên đường tu chớ nên xao lãng. Nó mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và niềm tôn kính đối với chư Phật, các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có công khai phá giang sơn, bảo vệ sơn hà xã tắc và tổ tiên dòng họ nối tiếp, nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên dạy:

    Nhỏ to lời lẽ chớ quên,
    Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu.

    (Từ Giả Bổn Đạo Khắp Nơi)

    Đối với công ơn của tổ tiên, cha mẹ, chúng ta phải ghi tạc vào lòng và làm theo lời dạy của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khi lễ lạy:

    Đầu cúi lạy Cửu Huyền Thất Tổ,
    Ngõ đáp ơn báo bổ sanh thành.
    Nay con quy Phật tu hành,
    Cửu Huyền Thất Tổ lòng lành chứng tri.
    Lời Phật dạy từ bi bác ái,
    Dạ nhơn từ quảng đại mở mang.
    Hiếu trung con giữ vẹn toàn,
    Từ rày chẳng dám lăng loàn như xưa.
    Sau hưởng được phước thừa của Phật,
    Hồn nhẹ nhàng vượt khỏi tử sanh.
    Nguyện đem công qủa tu hành,
    Cứu trong tông tổ vãng sanh liên đài.
    Về Phật quốc ngày ngày an lạc,
    Cả giống giồng giải thoát luân trầm.
    Rồi đem đạo pháp huyền thâm,
    Độ trong sanh chúng hết lầm hết mê.
    Cả vạn vật đồng về Phật cảnh,
    Chẳng luyến trần ảo ảnh gạt lường.
    Nguyện cầu chư Phật mười phương,
    Niết Bàn tịch tĩnh là đường vô sanh.

    (Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Cửu Huyền)

    Chú thích: Bài nầy Đức Thầy viết tại Bạc Liêu lối cuối năm Tân Tỵ, nhưng vì thấy nó hơi dài nên Đức Thầy viết bài khác chỉ có 12 câu cho anh em bổn đạo học mau thuộc. Ấy là bài:"Cúi kính dưng hương trước cửu huyền" Hầu hết các tôn giáo đều có lễ lạy, nhưng với nghi thức và ý nghĩa khác nhau. Với người tu theo đạo Phật, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy và chúng ta hãy ghi tạc vào lòng:
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
    Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng.
    Tam quy ngũ giái lòng hằng gìn theo,

    (Cho Ông Cò Tàu Hảo)

    Khi Đức Phật còn tại thế, mỗi lần nghe pháp hay thưa thỉnh việc gì, chư tăng thường chắp tay lạy ba lạy rồi thưa hỏi hay ngồi nghe pháp. Đức Phật mặc nhiên chấp nhận cung cách nầy. Tuy vậy Ngài cũng không đặt thành nghi thức lễ lạy mà để tùy tâm của các đệ tử.
    Sau khi nhập Niết Bàn, hình thức lễ nghi và sự tôn kính ấy vẫn được duy trì trong hàng đệ tử của Ngài. Sự duy trì hình thức ấy với mục đích là luôn luôn xem Đức Phật như còn tại thế. Chư tăng mỗi khi tụng kinh ôn lại lời Ngài dạy, phải mặc áo cà sa trang nghiêm. Hàng đệ tử tại gia cũng theo gương chư tăng lễ lạy như thế.
    Ba ngôi báu gọi là Tam Bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sanh tử luân hồi.
    Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp, Tăng, còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi báu trong chúng ta, trong mỗi chúng sanh. Vì chúng sanh và chư Phật cũng đồng một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh từ bi, bình đẳng (Pháp tánh), và đồng một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
    Sự cầu nguyện, lễ lạy của người cư sĩ tại gia quy y theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên dạy hành lễ công phu bái sám hằng ngày:

    Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.

    (Từ Giả Làng Nhơn Nghĩa)
    Hay là:
    Bận lòng cạn tỏ vân vi,
    Bớ dân hai chữ công trì sớm khuya.

    (Từ Giả Bổn Đạo Khắp Nơi)

    Đức Tôn Sư dạy chúng ta là công phu sáng tối là để nhắc nhở chúng ta y theo lời dạy trong kinh sấm và đọc bài nguyện trước bàn thờ Ông Bà, bàn thờ Phật và bàn Thông Thiên để tu hành, nhắc nhở chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói tạo tác ngày hôm nay đều lấy kinh giáo làm tiêu chuẩn. Công phu tối là để phản tỉnh, hôm nay chúng ta có làm được lời dạy dỗ của Phật, Bồ Tát không? Nếu có thì cố gắng làm tốt hơn, nếu chưa làm được, ngày mai nhất định làm cho được. Chúng ta làm xong công phu sáng, chúng ta có phát tâm chưa? Nếu như tâm nguyện của chúng ta không tương ưng với nội dung của kinh văn, công phu nầy không có lợi ích gì. Đây mới là ý nghĩa thật sự của công phu sáng tối.

    Chúng ta tỉ mỉ kiểm điểm trong ngày hôm nay khởi tâm động niệm, lời nói tạo tác, có tương ưng với điều dạy dỗ của Phật, Bồ Tát không? Nếu như không tương ưng, thì chúng ta tạo ác, tạo tội, niệm Phật như thế thì làm sao có thể vãng sanh cho được. Cho nên công phu niệm Phật của chúng ta không có kết qủa. Mỗi ngày đều làm công phu sáng tối, thực tại là không có làm, những gì làm chỉ là hình thức, chỉ là bề ngoài, thực chất không có. Chúng ta làm công phu sáng tối chân thành, mãnh tiến, căn cơ đạo nghiệp của chúng ta được buộc chặt bền vững, chính chúng ta cảm giác được hộ niệm của chư Phật, chư Bồ Tát, ủng hộ của lòng thiên thiện thần; chúng ta không cần hỏi người khác, chính chúng ta có được cảm giác Sự hành đạo tại gia của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tại ba nơi thờ phượng, trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, trước bàn thờ Phật và trước bàn Thông Thiên, là quan trọng, cho nên Đức Giáo Chủ thuyết:
    Xả thân tầm Đạo vô vi,

    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày.
    (Từ Giả Làng Nhơn Nghĩa)
    và:
    Cho dân đều hiểu cuộc đời,
    Thiên cơ để dạ Lão thời yên thân.

    (Từ Gỉa Làng Nhơn Nghĩa)

    Chúng ta lạy Tam Bảo với lòng thành kính nhớ ơn Phật, nhớ ơn Pháp, nhớ ơn Tăng. Trong lúc lễ lạy tâm chúng ta không nghĩ ngợi điều gì, không tưởng đến ai, đến vật gì, đến cảnh gì. Hãy để tâm rỗng lặng không mong cầu điều gì "Khi cầu khi nguyện việc gì thành tâm" (Dặn Dò Bổn Đạo) Bài kệ "Quán Tưởng" trong quyển"Tăng Đồ Nhà Phật" mà xưa kia các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni thường tụng hằng ngày trước khi đảnh lễ:

    Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch,
    Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
    Ngã thử đạo tràng như đế châu,
    Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
    Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
    Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
    Đã được Đức HUỲNH GIÁO CHỦ dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ song thất lục bát:
    Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh,
    Đạo cảm giao (1) khó tính khôn bàn.
    Nay tôi ở trong đạo tràng,
    Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.
    Mười phương Phật hiện bầu hình ảnh,
    Có bóng tôi cũng sánh các Ngài.
    Từ chơn cho chí mặt mày,
    Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy y.
    (1) Đạo cảm giao: mối tương quan và cảm ứng giữa Đức Phật và chúng sanh. Quan hệ giữa Đức Phật và chúng sanh giống như tình mẹ con. Đây là do cơ duyên của chúng sanh đã thuần thục, khiến được chư Phật hưởng ứng, nên cảm ứng của chúng sanh và của chư Phật đan xen nhau. Hơn nữa căn tính của chúng sanh nhiều đến trăm ngàn, nên sự cảm ứng khéo léo của chư Phật cũng vô lượng.
    Bản chất Phật và chúng sanh vốn là"không tịch" yên tĩnh, lặng lẽ hay còn gọi là Chân tâm. Chỉ khi niệm khởi lên là bắt đầu bị cuốn vào vòng vô minh, từ đó thức mới hoạt động, có suy nghĩ, mới phân biệt năng sở tức là có "ngã", có "nhân", có "ta" và "không phải ta", mới nẩy sinh ra tình cảm thương, ghét, tạo nghiệp, chuyển vào vòng sanh tử luân hồi không lối thoát.
    Câu "năng lễ, sở lễ tánh không tịch", có nghĩa là người lạy và đấng mình lạy thể tánh đều yên lặng, bình đẳng, không phân biệt, không thấy mình lạy và người để cho mình lạy. Trong lúc lễ lạy tâm không mong cầu, dầu là cầu cho tha nhân hay một chút tưởng đến điều gì như nghĩ đến công ơn của Đức Phật, nhớ đến ông bà tổ tiên cũng đều không đúng phép. Tâm của chúng ta phải ở trong trạng thái thật thanh tịnh vắng lặng mà Đức Thầy đã nói: Định tâm thần như mặt nước hồ" (Giác Mê Tâm Kệ).
    Khi tâm đã định thì trí bát nhã mới có dịp hiển lộ, mới cảm nhận được mùi vị cam lồ của Phật pháp. Đức Thế Tôn là Đấng Đại Giác đã nhận ra được cái tánh "không tịch" và dẫn đường cho chúng sanh suốt khoảng đường dài khi Ngài còn trụ thế, để lại cho trần thế biết bao kinh sách là kim chỉ nam, là bản đồ chỉ đường dẫn lối cho hậu thế nương theo tu tập để trở lại cái tánh "không tịch" ấy.
    Tóm lại muốn báo đền ơn Đức Phật, chúng ta phải làm theo lời Phật dạy, nghĩa là "Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi, Phải làm tròn các việc vẹn toàn. Dân chớ nên làm bướng làm càn, Trong lúc ấy niệm cho lấy có" (Giác Mê Tâm Kệ), và "Khi cầu khi nguyện việc gì thành tâm"(Dặn Dò Bổn Đạo) mà Đức Thầy đã cảnh tỉnh chúng ta. Nên nhớ một điều hể một niệm tưởng dấy lên là ô nhiễm rồi, là hết "không tịch", là "Bị vô minh vọng tưởng vạy tà, Nên quay lộn tà bà cõi khổ" (Khuyến Thiện), trôi lăn vào vòng luân hồi miên viễn.
    Sau đây là lời dạy thiết thực của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:
    "Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ tiên, ông bà , cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẵn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi".
    "Vì sự tu hành cốt ở trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái bề ngoài".
    "Lúc nào cũng nhớ câu Nhơn Qủa của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Qủa cũng do đó được toàn thiện vậy".

    "Tôn trọng giới luật của Đạo, rán sửa mình cho trong sạch để gây qủa phúc cho linh hồn và thể xác""cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày".
    "Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy? Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng "các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người", mà trái lại Ngài dạy rằng: "Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình". Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy".
    "Ta hãy đem đức tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành động y theo lời phán dạy của Phật". Và chúng ta nên nhớ "Sự lễ bái là điều phụ thuộc là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phân sự mà làm".
    "Mỗi người hãy nên lấy trí thông minh nhận xét Đạo lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức tin thọ lảnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế mình mới có thể tấn hóa trên con đường Đạo đức".
    Đức Tôn Sư của chúng ta ước mong rằng:"toàn thể trong Đạo suy gẫm kỹ càng và thực hiện để bài trừ sự mê tín ngông cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư tưởng thiện hòa của Phật đạo được phát triển mau chóng".
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ đã: "Dạo trong khắp cõi ta bà" "Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi". Đi tới đâu Ngài cũng thấy "Lê dân ngoan ngạnh xóm làng cừ khôi". Vì muốn Đạo pháp trường tồn, vì muốn nhơn loại không còn sống trong mê mờ, vong tưởng vạy tà nên Ngài đã"Đục trong cạn tỏ khúc nôi, Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng. Lang tâm như thú thiếu long, Trớ trêu cửa miệng trong lòng gươm đao", và trước mắt thấy nào là:

    Cuộc sám hối vô chùa thường thấy,
    Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.
    Thấy dương gian lường gạt thánh thần,
    Mà chua xót cho đờii Nguơn Hạ.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hay là:
    Bước và chùa thấy Phật lạy dài,
    Lui khỏi cửa ra tay cấu xé.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
    Cúng với lạy khó trừ cho đặng.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Chẳng làm phước để làm hung dữ,
    Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.
    Phật Tây Phương có lẽ hiểu dư,
    Dụng tâm ý chớ không dụng vật.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Hay là:
    Niệm Phật được lúc đầu hôm,
    Đêm khuya muốn giựt nồi cơm của người.

    (Sấm Giảng, Q1)
    Cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên:
    Thấy đời tu dối khuyên lơn,
    Từ đây sửa lại gặp cơn thái bình.
    Phật trời đâu dụng phép linh,
    Chỉ dùng đạo đức mặc tình ghét ưa,
    Nghinh ngang làm thiếu lấy thừa,
    Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ ngang.
    Ngày nay mới đến Phật đàng,
    Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền.
    Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
    Rồi sau tội nghiệp liên miên tới mình.
    Dương trần phú trọng bần khinh,
    Mãng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
    Biết bao đầy được túi tham,
    Không ngăn không đái càng làm không kiêng.
    Mỉa mai đến kẻ tu hiền,
    Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng.
    Gẫm đời bụng dạ gai chông,
    Nên còn khổ sở trời đông túng nghèo.

    (Từ Gỉa Làng Nhơn Nghĩa)

    Không nên chỉ biết trông cậy vào sự gia hộ, che chở của Phật và Bồ Tát mà phải hiểu rằng sự gia hộ của Phật và Bồ Tát cũng do chính mình mà có được, do việc là thiện lành của mình, do công đức mình đã tạo mà có sự cảm ứng. Một khi đã tin hiểu nhơn qủa thì biết muốn có cây lành trái ngọt thì phải gieo nhân tốt, tạo các duyên thích hợp, thuận lợi cho nhân phát triển:

    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.

    (Khuyến Thiện)
    Nếu không sống tốt, không biết gieo nhân lành, sống thiếu ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội thì đâu có Phật, Bồ Tát nào phò hộ cho. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy :"Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái với những lời mà Ngài đã chỉ dạy", và Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên:
    Ai ai cũng rán xét mình,
    Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài.
    (Sám Giảng Q3)

    Trong nhân gian không ít kẻ khi mong muốn điều gì có ích cho bản thân cũng như cho gia đình mình thường đến chùa xì xụp vái lạy cầu xin đủ thứ chuyện, cúng một ít tiền hay phẩm vật thì muốn Phật và Bồ Tát làm cho mình lắm điều; họ không biết Phật và Bồ Tát là những ai, mỗi ngày ngồi chờ hương qủa để cho họ sai khiến?. Nếu như việc cầu xin của họ được như ý thì trên đời nầy sẽ không còn công đạo, không còn nhơn qủa nữa. Những hành động mù quáng sai lầm đó chẳng khác nào hủy báng chư Phật, chư Bồ Tát, hủy báng Chánh pháp.
    Chúng tôi đã trình bày sơ lược ý về việc "Tu không cần lạy cần qùy". Tiếp theo chúng tôi sẽ lược qua về lời dạy"Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau".
    Người tu hãy khéo léo an trú trong chánh niệm, phải biết nhìn lại mình từng phút, từng giây. Nếu chúng ta nếm được niềm vui của sự thực tập trong đạo thì không thể có bất cứ niềm vui nào của trần thế dù nhỏ có thể làm xao động tâm thức của mình cả. Tất cả mọi niềm vui ngoài nhân gian đều phù du và đôi lúc cũng là nỗi buồn khổ, trong khi niềm vui của đạo tinh ròng miên viễn. Tâm hồn chúng ta mà trống trải cô liêu thì thường có nhu yếu tìm các thú vui để lấp cho đầy, còn nếu đời sống của chúng ta đã tràn đầy niềm vui thì đâu cần tìm tới những thú vui tạm bợ bên ngoài.
    Có một thiền sinh hỏi vị thầy của mình là một Thiền sư: "Thưa thầy, làm sao con có thể giải thoát để không vướng mắc, không sầu khổ, không bất an?". Vị Thầy bảo:"Tâm không dính với cảnh thì giải thoát". Giải thoát không tìm đâu ra, không phải tìm ở phương trời nào không có bóng người, không có sắc màu, không có âm thanh. Giải thoát hay không, vướng mắc hay không là ngay nơi đây chúng ta nhận diện tất cả sắc màu trước mắt chúng ta, chánh niệm nhận biết.
    Nhìn và nghe trong nhân gian tạo thành nỗi đắng cay trong đời sống con người. Trong một ngày, qua sự tiếp cận với các sinh hoạt chúng ta xử dụng hai cánh cửa nghe và nhìn nhiều nhất so với các giác quan khác. Đó là hai giác quan đầu tiên của lục căn đi vào tâm thức của chúng ta rất dễ, và nó cũng dẫn dắt tâm chúng ta bước lạc ra bên ngoài nhiều nhất. Thói quen của chúng ta là khi nghe thì bị dẫn dắt, bị đắm chìm trong tiếng; thấy thì bị dẫn dắt, chìm đắm trong màu sắc,như lời của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:

    Nhãn thấy sắc thường hay bận bịu,
    Tai ưa nghe nhuũng điệu âm thinh.
    Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Người tu dù sống lẫn lộn trong nhân gian, họ cũng tu được, họ không nhứt thiết phải sinh hoạt theo nghi thức tôn giáo, thờ Phật, lễ bái, tụng kinh..., cho nên phẩm chất đạt ngộ của người tu rất quan trọng, phải biết rõ bổn tâm, phải quay lại chính mình. Quay lại chính mình để nhận cho ra được thực tánh là nền tảng vững chắc để từ đó ta sống an nhiên tự tại. Khi nhận ra được bổn tâm, sẽ có hùng lực rất lớn, dù cho bị muôn ngàn cay đắng của cuộc đời vùi dập, ta vẫn vươn vai đứng lên sừng sửng như núi, không vì bất cứ trở lực nào làm cho ta chán nản, không vì bất cứ điều gì làm ta buông rơi lý tưởng tu tập của mình, như lời của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CH
    Bước tới hùng ca bước tới hoài,

    Đạo đời hủy báng mặc tình ai.
    (Hai Mươi Chín Tháng Chạp)
    Khi thấu đạt nguồn tâm, chúng ta sống như mọi người nhưng việc chúng ta làm không giống như mọi người. Chúng ta thể hiện con người có nghị lực có thể vượt qua nhiều thử thách của cuộc đời dù phong ba có làm điêu đứng muốn nhận chìm chúng ta; chúng ta vẫn là người an trú trong Pháp nhãn tịnh đang trôi dần vào biển Niết Bàn, không trôi vào con đường nào khác (Pháp nhãn tịnh là khi mắt chạm đến bất cứ cái gì đều hồi quang trực nhận và an trú nơi tự thể tâm thanh tịnh).
    Người tu chúng ta cần giữ cho được sự lắng lòng, giữ được ý chí. Trong đời người muốn thành đạt lợi danh rất dễ, nhưng giữ vững niềm tin và ý chí để tu là rất khó. Thành đạt lợi danh là thành đạt những điều rất dễ thấy, dễ kiểm soát nên dễ giữ vũng ý chí, có niềm tin và tự hào về bản ngã dù cuộc đời có bị vùi dập cũng cố vươn lên để đuợc địa vị cao sang trong lãnh vực lợi danh. Tuy có khó khăn nhưng người ta vẫn giữ ý chí đeo đuổi đam mê không mệt mỏi. Nhưng trên đường tu, hành gỉa giữ được niềm đam mê tu tập từ đầu cho đến khi thành đạt không phải dễ.
    Con đường tu buộc chúng ta phải loại trừ bản ngã, loại trừ lòng tự hào kiêu ngạo. Cho nên bước vào đường tu là chúng ta đi từ cái có đến cái không. Thử xem cái chúng ta hiện có mà vứt bỏ đi thì tự bản thânlà sự đối nghịch với đời sống của chúng ta...
     
  2. Tamtran

    Tamtran Administrator


    Mất bao lâu khổ cực vô cùng mới có được cuộc đời đầy đủ, có được địa vị, có niềm tự hào như hiện tại; nhưng đối với đạo Phật thì những thứ đó là những trở ngại vì càng đi sâu vào đường tu chúng ta thấy như mình bị mất mát, cho nên khó giữ được chí tu bền bỉ.
    Con đường tu không có lớp để bước qua, không ai chứng cho chúng ta là đã đạt được đạo qủa gì cả. Chỉ có chúng ta chứng biết lấy trình độ đời sống tâm linh của mình. Vì vậy chúng ta rất dễ chán.
    Người tu hành phải có chí nguyện lâu dài, dù không cần nôn nóng, vội vàng, nhưng nó phải luôn có mặt trong đời mình, dìu dịu như lửa than không lịm tắt phút giây nào cả. Nuôi được chí nguyện từ ngày nầy qua ngày nọ suốt cuộc đời là không phải dễ.
    Người ta có thể làm việc cực nhọc, nhưng có lúc cũng phải được nghỉ ngơi; nếu cứ làm mãi đều đều như thế thì khó ai làm được. Nhưng con đường tu là con đường như vậy, cứ đều từng bước thực tập chánh niệm mà bước hoài không ngừng nghỉ.
    Con đường của đạo Phật là con đường Định và Huệ. Lòng ta có an tịnh, thanh thản, nhưng nếu không có ánh sáng chánh niệm đi vào thì chúng ta chìm vào hôn mê, chìm vào buồn chán. Lục Tổ Huệ Năng giảng:" Định và Huệ chỉ một thể không phải hai. Định là thể của Huệ; Huệ là dụng của Định; lúc Huệ thì Định trong Huệ; lúc Định thì Huệ trong Định; thấu được nghĩa nầy tức là Định, Huệ đồng nhau. Các người học Đạo chớ cho là trước phát Định, sau phát Huệ, hay trước Huệ có khác, kiến giải như vậy thành ra pháp có nhị tướng. Miệng hay nói lành mà trong tâm chẳng lành, tuy có Định, Huệ mà Định Huệ chẳng đồng nhau. Tự giác ngộ tu hành, chẳng nên tranh biện. Nếu tranh luận về Định, Huệ, phân biệt Định có trước, Huệ có sau là còn mê, không dứt hơn thua tức tăng chắp ngã lạc vào bốn tướng" (Bốn tướng của kẻ chắp ngã, chẳng rõ hư gỉa về cái ngã Chơn Như thật tướng: 1- Ngã tướng là tưóng của ta; 2- Nhơn tướng là tướng của người; 3- Chúng sanh tướng là tướng của chúng sanh; 4- Thọ gỉa tướng là tướng thọ mạng dài hoặc ngắn).
    "Định, Huệ giống như cái gì?- Như đèn và ánh sáng, có đèn thì mới có ánh sáng, không đèn thì tối, đèn là nguồn gốc của sáng, tức là thể của sáng, sáng là kết qủa của đèn tức dụng của đèn. Tên tuy có hai, nhưng thể chỉ là một, pháp Định, Huệ nầy cũng vậy".
    Đường tu qúa dài lại có nhiều khó khăn nên tâm thức rất dễ phát sinh bất cứ ý niệm nào để dẫn dắt chúng ta đi vào những ngõ tẻ. Thế nên chúng ta cần có trí tuệ, từ bi và vận dụng đức nhẫn nhục để vượt qua. Hãy thực tập những điều rất nhỏ, những điều rất gần của đời thường. Chúng ta chỉ có khả năng làm được điều lớn nếu chúng ta đã hoàn tất những việc rất nhỏ. Chúng ta cần làm những việc rất nhỏ để nuôi dưỡng ý chí. Sống ở đời cần có ý chí thật vững mạnh, con người mới có thể vượt qua ngàn vạn khó khăn. Ý chí của người tu phải là "xung thiên chí'' bay lên đến tận trời cao như tư tưởng của thiền sư Quảng Nghiêm "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Làm trai có chí xông trời thẳm chớ không phải chí tầm thường, có chí nguyện cao chúng ta sẽ là chim phượng hoàng chỉ tìm đậu trên những cành ngô đồng. Ngược lại nếu ý chí không tôi luyện, chúng ta sẽ được ví như loài quạ, dù có bay cao cũng nhìn dưới trần thế nầy chỉ là những cái phàm thường,những vật cấu uế mà thôi. Sống giữa lòng đại chúng, chúng ta chỉ thắc mắc, dòm ngó nhau những chuyện lặt vặt nhỏ mọn để làm thương tổn nhau, để làm buồn lòng nhau thì chúng ta cũng chỉ là những con quạ mà thôi. Cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy chúng ta cách sống:

    Sống ở trần hối cải tiền phi,
    Sống làm sao vẹn chữ tu mi.
    Sống vùng vẫy râu mài nam tử.

    (Nang Thơ Cẩm Tú)
    Hằng ngày chúng ta phải đối diện với biết bao nhiêu người với biết bao điều khó chịu, nhưng họ hay ta cũng đang là chúng sanh như nhau, cũng lao xao trên con đường sanh tử dài mịt mờ, rồi cũng ra đi không biết lúc nào. Vậy hãy trải lòng từ bi rộng lớn để có thể nhìn mọi người bằng cái nhìn tình thương và kính trọng. Khi chúng ta nuôi lớn được tâm đại bi, tự thân thấy mình vô ngã với nhẫn lực rất lớn, chúng ta có thể làm được nhiều điều, có thể thành đạt được đạo quả, thành đạt được an lạc, hạnh phúc tự thân.
    Trong cuộc sống tu tập, nếu không khéo, chúng ta dễ bị vùi dập trong tâm thức so sánh, ganh tị, kiêu ngạo, mặc cảm không thể trưởng thành tâm linh được. Thấy ai bằng thì cố gắng cho hơn; khi được hơn thì sanh tâm kiêu ngạo, khi mình thua thì mặc cảm, ganh ghét. Cho nên chúng ta không cần so sánh với một ai, mà ta là ta tức khắc chúng ta loại trừ được tâm thức mặc cảm, tự tôn hay thua kém.
    Trưởng thành trong đời sống tâm linh là chúng ta tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Không cần nhìn quanh, không cần cầu cạnh, không cần đối chiếu, không cần được lòng ai mà cứ an nhiên tĩnh tại trong cuộc sống tu học.
    Trong thiên nhiên, cây cỏ sống hạnh phúc hơn loài người. Loài cây lớn đứng kiêu hùng, vươn cành, vươn lá, ra hoa. Những loài cây nhỏ mọc lẫn trong cỏ cũng trổ hoa, tươi cười trong gió, vẫn an nhiên sống hạnh phúc dưới thấp, không tự ái, không mặc cảm, không buồn tủi về thân phận nhỏ bé nầy.
    Loài người khổ cũng không phải vì nghèo, mà khổ vì nhìn qua bên cạnh, nhìn ra ngoài để so sánh, để đối chiếu nên không thể có hạnh phúc.
    Hạnh phúc có thật khi phát sinh tâm tùy hỷ. Tâm tùy hỷ là tâm khi thấy người ta làm việc thiện, mình khởi niềm vui, cùng vui với người. Đức Phật dạy:"Thấy người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước lớn". Có vị Sa môn hỏi Phật: "Phước nầy có hết không?". Phật đáp: "Ví như lửa của ngọn đuốc, có vài trăm nghìn người đem đuốc đến mồi lửa về để nấu ăn hay để thắp sáng, lửa ngọn đuốc nầy vẫn như cũ. Phước của người hoan hỷ hổ trợ cho người thực hành bố thí cũng vậy". Chia xẻ niềm vui với người kia thì niềm vui của người làm việc thiện không vì lý do chia xẻ mà bị giảm thiểu, đôi khi lại còn làm tăng trưởng thêm.
    \Khi chúng ta khen ai một lời, tâm ta khởi niềm vui tức khắc. Nếu không làm được điều nầy, tâm chúng ta chỉ là một mảnh đất hoang sẽ sinh trưởng hạt giống của sự ganh tỵ, kiêu ngạo hay mặc cảm. Chủ động tạo niềm vui cho mình, mỗi ngày phải làm sao cho niềm vui tràn đầy tâm thức, mỗi ngày là một bình minh rực rỡ, tươi hồng, cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Bớt phiền bớt não cuộc đời,
    Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.

    (Dặn Dò Bổn Đạo)

    Bằng sự tùy hỷ, nên những gì trước mắt ta đều có thể cho ta niềm vui, đều có sự khả ái và dễ thương của nó. Đôi mắt chúng ta nếu được nuôi dưỡng bằng tâm lành thiện bên trong thì nhìn đâu cũng thấy niềm vui, dù sống dưới bất kỳ môi trường chung quanh nào cũng đều trở thành an lạc hạnh phúc.
    Chuyện kể về một con dê rớt xuống giếng khô, không thể nào nó trèo lên được và cũng không ai cứu nó lên. Người ta quyết định lấp giếng lại, vì để cho nó chết lần thì tội. Họ mới nghĩ cách cứ xút đất đổ vào thì dê chết nhanh, giảm bớt sự hành hạ nó và cũng bớt hôi thối. Thế là người ta thay nhau xút đất đổ xuống lấp giếng. Một hồi sau nhìn xuống họ ngạc nhiên thấy con dê vẫn còn sống, nó đứng lên cao hơn. Sự thế, khi một xút đất đổ lên lưng con dê, nó lắc người cho đất rơi xuống leo đứng lên trên. Vô tình người ta muốn chôn sống nó thì nó càng lúc càng lên cao, cuối cùng giếng đầy đất, nó an nhiên bước ra nhẹ nhàng, thong dong. Câu chuyện hay, đầy ý nghĩa trong cuộc sống.
    Trong đời sống thường của người hành đạo có biết bao điều thử thách. Nhưng mỗi thử thách là mỗi vá đất đổ lên lưng, để chúng ta vận dụng trí thông minh khéo lắc người cho vá đất kia trở thành viên gạch lót đường nâng chúng ta lên cao. Đó là cách ứng xử cho cuộc sống tuyệt vời.
    Có thể trong cuộc sống chúng ta bị xem thường, không được thương yêu có muôn vàng khó khăn, không ai hiểu, không ai yểm trợ, nhưng chúng ta vẫn nhìn đời bằng mắt tùy hỷ, hãy trân trọng những khó khăn của người gởi đến cho mình. Làm được điều nầy, phước lành ta lớn vô cùng. Đúc Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu,
    (Tự Thán)
    Hay là:
    Ai thương ai ghét mặc tình,
    Phận mình cứ giữ, tâm mình cho ngay.

    (Khuyên Người Đời Tu Niệm)

    Chúng ta chỉ cần có tâm tùy hỷ, vui với niềm vui của người khác thì loại trừ được chất tiêu cực và tâm thức mình được tự nhiên không còn sân hận, trí tuệ nở hoa.
    Tâm ganh tị được lập trình thành lập trong tâm thức chúng ta, luôn sống trong ganh tị, rồi cũng chết trong ganh tị. Cả một đời nếu chưa biết tu thì chúng ta mãi mãi sống trong ganh đua chạy vạy để so sánh, lúc nào cũng thấy đẹp hơn, xấu hơn, giàu hơn, sang hơn, tài giỏi hơn...và tâm thức nầy mang theo suốt kiếp khốn khổ vô cùng cho đến cuối đời vẫn chưa thỏa lòng với gì đang có.
    Tâm ganh tị là bản chất thâm sâu của con người cho nên Đức Phật đã dạy và khích lệ chúng ta khi thấy ai làm những thiện hạnh như bố thí, cúng dường, chúng ta chỉ vui với niềm vui người đang làm, chúng ta đã có đầy đủ công đức như người kia vậy.
    Việc khởi tâm lành vui theo với niềm vui của người khác hay tán trợ một ai làm thiện rất là khó; khó hơn khi chính chúng ta bỏ tiền, bỏ công sức ra để giúp. Bởi vì khi chúng ta bỏ tiền của, công sức ra cúng dường, bố thí chúng ta nghĩ mình là người ban ơn, người kia là người thọ nhận. Điều nầy làm tăng trưởng nơi niềm tự hào, kiêu ngạo, làm tăng thêm bản ngã. Một khi chúng ta đứng ngoài không là gì, chỉ nhìn người ta bố thí cúng dường mà khởi niềm vui, đâu có gì làm lớn thêm bản ngã của mình cho nên khó làm hơn nhiều.
    Bởi thế cho nên trong pháp hành nhà Phật luôn có ý khuyến khích chúng ta hãy mở rộng tâm tùy hỷ là điều quan trọng.
    Nhìn lại các vị thầy trong qúa khứ cũng như hiện tại làm công việc hoằng pháp độ sinh đều là những vị có tâm yêu thương bao la như biển, đức tùy hỷ như không gian. Chúng ta chưa bao giờ nghe một bậc thầy lớn nào bài xích bất cứ một ai, chưa bao giờ thấy bậc thầy lớn nào có trái tim nhỏ hẹp chỉ thương có năm bảy người. Tái tim yêu thương của các bậc thầy dung chứa đủ mọi loại người, mọi truyền thống tôn giáo, cũng như mọi cấp độ chúng sanh.
    Chư Phật, chư Bồ Tát lấy lòng chân thành đối đãi người, bất luận người nào, gặp oan gia trái chủ cũng lấy lòng thương chân thành đối đãi,nhất vị chân hành từ bi đối đãi tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh có duyên, họ tiếp nhận, không có duyên, họ không tiếp nhận. Thế nào là người có duyên? Người có lòng thiện, hành thiện, nhận lấy từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát. Người có lòng ác, hành ác, bài xích từ bi của Phật và Bồ Tát. Không phải Phật, Bồ Tát không từ bi, không phải Phật, Bồ Tát không ái hộ, vì họ bài xích, họ không nhận lấy, "Duyên lành rõ được Khùng Điên, Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần" (Viếng Làng Mỹ Hội Đông). Tuy họ bài xích không nhận lấy, lòng thương yêu, từ bi chân thành của Phật và Bồ Tát đối với họ không giảm chút nào.
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cho chúng ta biết, cách nay gần ba thiên niên kỷ, Đức Phật đã tỏ rõ tình yêu thương nhơn loại chúng sanh như thế nào: Phật thương bổn đạo như con, Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời. (Sám Giảng, Q3)
    Thời cận đại có Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ ra đời "Lòng thương lê thứ đáo ta bà, Thừa chuyển pháp luân dụng khuyến ca. Cảnh tỉnh người mê về cõi ngộ, Dạy răn kẻ tục vượt nê hà." (Chuyển Pháp Luân). Ngài cũng tỏ lời tâm huyết đối với muôn loại chúng sanh bằng tình yêu thương vô hạn:

    Nhơn dân bá tánh cũng con lành,
    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh.
    (Bác Ái Đại Đồng)
    Hay là:
    Tuy là Ta không thể sanh thành,
    Nhưng thương hết ra tài dạy dỗ.

    (Nang Thơ Cẩm Tú)
    Hay là:
    Giàu sang nghèo khó cũng người,
    Nên Ta thương hết dầu cười hay khen
    .
    (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)
    Hay là:
    Ta có tình yêu rất đượm nồng,
    Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
    Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ,

    Và:
    Ta đã đa mang một khối tình,
    Dường như thệ hải với sơn minh.
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh.

    (Tình Yêu)
    Hay là:
    Phật Tiên thương hết cả nhơn sanh,
    Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành.

    (Đức Thầy đáp họa theo bài xướng của ông Nguyễn Thanh Tân)

    Những bậc thầy lớn là những người chịu đựng nhiều sóng gió nhất, nào ganh ghét, đố kỵ, nhục mạ ... của bao nhiêu người. Chúng ta thử nhìn trong một rừng cây, cây nào cũng bằng nhau đều chịu chung sức gió, nhưng nếu có một cây vượt lên cao thì cây đó sẽ bị gió lay mạnh nhất. Trong tâm của các bậc thầy chưa bao giờ nẩy sinh niềm thù ghét của sự ganh tị, như lời tự thán của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ:

    Ta không gây oán kết cừu,
    Cớ sao dân sự phiền ưu nỗi gì?
    (Từ Giả Bổn Đạo Khắp Nơi)
    Trên đường tu học, chúng ta đi theo bước chân của các vị Đạo sư, những bậc thầy đầy đủ phước trí, nên điều quan trọng chúng ta hãy tự mình nhìn vào tâm mình từng giây từng phút để tránh cho tâm nẩy mầm ganh tị, ganh ghét, sử dụng sai lời nói, việc làm của chúng ta. Thực tập lòng yêu thương và tùy hỷ, chúng ta không mất công sức hoặc tài vật gì hết. Bởi vì lòng yêu thương và tùy hỷ đã có sẵn trong trái tim của chúng ta. Chúng ta chỉ cần vui theo người khác làm tức khắc thành tựu hạnh tùy hỷ. Lòng yêu thương và tùy hỷ đã có sẵn trong ta nên hai hạnh nầy chúng ta thực tập rất dễ, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:
    Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,
    Nếu thật người thì biết thương người.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Phàm phu và Thánh nhân được định nghĩa trong cái nhìn về cuộc đời, về quan niệm trong cuộc sống. Tuy sống trong nhân gian, chìm trong lòng nhân thế nhưng vẫn xả ly được năm món dục lạc; trường hợp đó chúng ta gọi đó là bậc Thánh trong đời "Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền" (Luận Việc Tu Hành), là lời dạy của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ. Cho nên khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhơn không thể định được giá trị bằng những biểu hiệu trong đời sống bình thường mà phải tiếp cận sâu sắc và nhìn từ đời sống bên trong. Nếu nội tâm chúng ta không bị ô nhiễm, phạm hạnh tràn đầy thì dù chúng ta ở giữa nhân gian, bao ngàn vạn cuốn hút của dục lạc, chúng ta vẫn là người thanh khiết. Cho nên chúng ta chưa đạt được tâm cực kỳ thanh tịnh của bậc Thánh thì chúng ta đừng bao giờ nghĩ chúng có thể đi vào chốn ô uế của trần gian và nói chúng ta vô nhiễm.
    Có một vị Thiền sư, đồ chúng rất đông. Đời sống của ông biểu hiện ra ngoài là gặp gì ăn nấy. Gặp thịt ăn thịt, gặp cá ăn cá, gặp rượu uống ruợu... Đệ tử thấy thầy mình tự tại qúa, họ đua nhau bắt chước. Một hôm ông dẫn đồ chúng đến bãi thiêu xác, lượm những thịt còn sót lại sau khi thiêu đem về trộn vào cơm. Xong ông bới từng chén mời tất cả cùng ăn. Đồ chúng chưa ăn mà thấy ông làm đã bắt ụa mữa bỏ chạy, nhưng ông ngồi ăn rất ngon lành giống như ăn thượng vị. Sau khi ăn xong, ông gọi đồ chúng lại bảo: "Nầy, các ông nên biết là ta đã năm trăm đời làm tăng, nghiêm tu phạm hạnh, hiện thân trong cõi trần, đi vào chốn bùn lầy để độ sinh nên ta mới làm được điều nầy. Còn các ông, nếu chưa đủ năm trăm đời tu phạm hạnh như ta chớ có bắt chước, đoạ Địa Ngục như tên bắn", Xem ra khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhân rất gần. Hình hài giống nhau, đời sống bên ngoài có thể giống nhau, nhưng Thánh hay phàm được đánh giá từ bên trong tâm thức; mà tâm thức gột rửa một đời chắc gì đã sạch.
    Cho nên chúng ta nên học đòi theo gương phẩm của người xưa là họ tu rất là quyết liệt. Họ tu như thế nào để cuối cuộc đời giống như các đệ tử của Đức Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn ngày xưa đã nói:"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm, ta không còn trở lại cõi nhân gian thọ nhận hình hài nầy nữa".
    Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy:"Người ham mê ái dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất sẽ bị họa cháy tay". Chúng ta hãy thành thật với chính mình để nhận lấy chướng nạn căn bản đầu tiên của người tu là ái dục. Chúng ta chưa phải là Thánh, nên muốn thành công trên đường tu là phải biết mình, ví như tu tập của chúng ta còn yếu, tâm thức còn nhiều ái nhiễm thì ta hãy nhận diện được điều nầy trong tâm mình. Nếu nhận chân được còn yếu, năng lượng ái nhiễm còn nhiều thì chúng ta hãy tránh tình trạng tạo môi trường thuận lợi để tâm ái nhiễm phát triển. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:
    Phải gìn dục vọng lòng tà,

    Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân.
    (Sám Giảng Q3)

    Đức Phật dạy: "Chúng sanh lấy mười việc để làm thiện, và cũng lấy mười việc nầy để làm ác. Thế nào gọi là mười việc? Mười việc là thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Ba điều của thân là sát sanh, trộm cắp, dâm dục. Bốn của miệng là nói hai lưỡi, nói dối, nói lời hung dữ, nói lời thêu dệt. Ý có ba là tham lam, hờn giận, si mê. Mười việc như thế không thuận Thánh đạo gọi là mười hành vi ác, mười hành vi nầy nếu dứt thì gọi là mười hành vi thiện".
    Như chúng ta đã hiểu phần luận về Tam nghiệp, nếu quy kết lại hai phần của thân, miệng, thì phần thâm sâu là ý nghiệp chủ trì. Mọi tội lỗi của thân miệng gây nên đều có tham sân si làm chủ và ba phần nầy nằm trong ý thức.
    Tuy nhiên trong phần thân nghiệp, sát sanh, đạo tặc, dâm dục, thì với người cư sĩ tại gia, nghiệp dâm dục nơi thân sẽ đổi lại là nghiệp tà dâm vì pháp chế của họ có khác biệt.
    Thường là tự thân nghiệp sát nếu không có chủ ý thì không thành nghiệp sát sanh. Trong kinh Pháp Cú có ghi: Một vị Trưởng lão mù về thăm Đức Thế Tôn, trong lúc chờ đợi để gặp Ngài, ông ở ngoài tịnh xá. Đêm hôm ấy trời mưa rất lớn, nhưng như thường lệ ông vẫn đi thiền hành. Trên con đường đi, ông dẫm chết vô số côn trùng bò đầy trên mặt đất vì ông không thấy. Các vị Tỳ kheo trẻ rất phiền muộn nghĩ ông thầy già nầy lúc sáng mắt không chịu tu, để đến khi già không còn thấy đường lại tinh tấn thiền hành dẫm chết nhiều chúng sanh như vậy. Các vị lên trình Đức Thế Tôn tình trạng phạm tội sát sanh của vị thầy già. Thế Tôn bảo: "Vị A La Hán kia mù mắt, hơn nữa tâm ông không khởi ác niệm nên không hề bị vướng vào nghiệp sát sanh và có tội".
    Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy ý căn là nền tảng cho tác nghiệp của thân và miệng. Cũng giống như luật của thế gian, ngộ sát không có ý thức mình tham gia vào việc phạm tội thì được giảm khinh hay vô tội.
    Sống ở đời, chúng ta đừng tưởng nói một lời ác hay một hành động cho người nào đó thì mới tạo thành nghiệp. Chỉ cần dấy lên một niệm tưởng xấu là đã tạo nghiệp rồi. Cho nên người tu hành cần phải cẩn trọng.
    Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng ý nghĩa của tu hành chơn chính thì chúng ta mới có thể đoạn ác tu thiện. Chữ hành trong Phật pháp chia làm ba loại: Thân, Khẩu, Ý. Tạo tác của thân thể, là hành vi của thân nghiệp; khẩu nghiệp là ngôn ngữ; ý nghiệp là tư tưởng, kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn của chúng ta, là hành vi của ý. Trong tam nghiệp hành vi quan trọng nhất là ý nghiệp khởi tâm động niệm. Nếu như tâm niệm của chúng ta, niệm vì lợi ích chúng sanh, đây là thiện; nếu niệm vì lợí ích của riêng mình, như thế là ác; lợi ích mình, cũng lợi ích chúng sanh, như thế là trong ác có thiện; lợi ích tất cả chúng sanh, trong đó vẫn có riêng mình, đây là trong thiện có ác .
    Thánh hiền xuất thế gian dạy bảo tất cả chúng sanh là dạy chúng ta có khả năng phân biệt thiện ác. Mục tiêu giáo đạo trong Phật pháp thuờng có ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhứt là dạy người "Đoạn ác tu thiện", giai đoạn thứ hai "Phá mê khai ngộ", giai đoạn thứ ba" Chuyển phàm thành Thánh". Căn bản là "Đoạn ác tu thiện". Chúng ta chưa phân biệt rõ ràng thế nào là thiện,thế nào là ác, từ ngữ trong nhà Phật gọi là khai ngộ, cho nên chúng ta phải hạ công phu thực hiện cho được mục tiêu thứ nhứt trong việc tu học Phật pháp, chúng ta mới mong đạt được kết qủa. Mục tiêu thứ nhứt mà đạt được, chúng ta mới không đọa ba đường ác.
    Một khi không phân biệt được thiện ác, thì chúng ta khó mà tích thiện. Chúng ta niệm Phật mong muốn cầu sanh Tịnh Độ, nhưng lòng còn mê,"Nhiều người kinh sử lảu thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê" (Viếng Làng Phú An), lời của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ. Mê hoặc trong lòng thì ác nghiệp vẫn cứ làm. Miệng, thân chúng ta không tạo nghiệp, nhưng ý chúng ta đang tạo, niệm niệm tương ưng với ác, không tương ưng với thiện; niệm Phật như vậy nảy sinh chướng ngại cho việc vãng sanh, điều nầy có lẽ chúng ta hiểu dư.
    Duyên phận của chúng ta trong đời nầy không tệ, được thân người, gặp Phật pháp, đặc biệt gặp được Tịnh Độ Tông, một pháp môn thù thắng, thế nhưng một đời nầy vẫn không thể thành tựu, chúng ta thử nghĩ có tiếc lắm không! Vậy thì mọi người trong chúng ta cần tận tâm, tận ý hiểu rõ trong lòng.
    Về cách nghĩ và cách nhìn của chúng ta, mỗi khi chúng ta ngồi một mình thì những ý niệm giấu trong đáy lòng của chúng ta, không ai biết giấu những gì trong lòng, chúng ta khởi ý niệm gì. Trong giây phút đó , chúng ta tự mình phản tỉnh, kiểm điểm, mình có chân thành hay không, chúng ta có nghĩ về thiện, nghĩ về ác hay không. Chân chính làm cho được trong tất cả nơi chốn, tất cả thời khắc, không dối mình, không dối người, đây mới là công phu thành kính.
    Tuy là trời đất mênh mông, nhưng lời nói riêng của mỗi người trong thế gian, Trời nghe như sấm nổ, còn lòng tính quấy, trong nhà kín, phàm nhân không hay không biết, nhưng mắt Thánh thần thấy rõ ràng "Tuy là Trời đất rộng thinh, Có Thần xem xét phân minh cho người" (Sám Giảng,Q3). Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cho chúng ta biết bậc Đại Giác như Ngài thì việc trần thế Ngài đều rõ biết.
    Tiếng riêng than tai nghe thảnh thót,

    Trăm ngàn nhà bổn đạo ước mơ.
    Con lạc cha con hởi u ơ,
    Thầy xa tớ ngẩn ngơ thương mến.

    (Nang Thơ Cẩm Tú)
    Hay là:
    Nào ai biết tâm ta đời bác lãm.
    (Không Buồn Ngủ)

    Tất cả hành động tội hay phước của mỗi chúng sanh ở cõi trần thế đều được hai vị thần ở hai bên ghi chép đầy đủ, để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra, tội của chúng sanh dẫy đầy, còn điều phước thiện chẳng được bao nhiêu:
    Lưỡng thần ghi chép liên miên,​

    Nào tội nào phước dưới miền trần gian.
    Tâu qua Thượng Đế Ngọc Hoàng,
    Dương trần hung ác đa đoan qúa nhiều.

    (Sám Giảng, Q3)
    Điều nầy chúng ta hãy nghĩ về Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ, trong bài "Dặn Dò Bổn Đạo", Ngài đã nói sứ mệnh của Ngài
    Trớ trêu con tạo thày lay,
    Lôi Âm sắc lịnh đòi rày hỏi han.

    Cúi đầu tâu trước Phật đàng,
    ...Lê dân ngoan ngạnh xóm làng cừ khôi.
    Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
    Một trăm mới đặng ối thôi mười người!
    Mảng lo cao thắp ngạo cười,
    Bởi chưng trần hạ biếng lười không lo...
    Di Đà nghe tấu buồn xo,
    Vạn dân bá tánh đắn đo nhiều bề.
    Làm sao cửa Phật dựa kề,
    Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên.

    (Dặn Dò Bổn Đạo)

    Thái Thượng Lão Quân dạy: Điều hiển nhiên, trong trời đất có thiên thần, quỷ thần, chuyên giám sát người trần thế, y theo lời của người phạm nặng hay nhẹ mà định đoạt, tính toán. Phước giảm tất nghèo cùng, hao tổn thường gặp ưu sầu hoạn nạn. Người làm điều ác thì hình phạt,thiên tai hoạn nạn tùy theo đó mà phát khởi.
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Thánh Thần phưởng phất hồn bay,
    Ở đâu cũng đến độ rày chúng sanh.

    (Từ Giả Làng Nhơn Nghĩa)

    Và trong bài "Trao Lời Cùng Ông Táo", Đức Giáo Chủ PHẬT GIÁO HÒA HẢO nói cho nhơn loại chúng sanh rõ là trong thế giới Ta Bà nầy, có Thánh Thần ở quanh ta. Vì mắt phàm phu chúng ta không thấy được, chớ chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Thần đều thấy rõ hành động, việc làm của chúng ta không sót:
    Đôi lời cạn hỏi Táo quân ông,

    Sắp tính về chầu Thượng giới không?
    Nếu có việc trần tâu thẳng lẽ,
    Đừng như những kẻ bén hơi đồng

    ***

    Đêm ngồi nghĩ hỏi thăm ông Táo,
    Sổ sách trần ông tính đã xong chưa?
    Năm Canh Thìn nhiều trận gió mưa,
    Cho nhơn loại trăm cay cùng ngàn đắng.
    Còn một tháng trông coi dài dặn,
    Chắc hăm ba theo lệ cũng chầu Trời.
    Đêm nay trò chuyện với tôi chơi,
    Thêm dặn trước ít lời ông xin nhớ.
    Táo cười rằng! có chi nhắn nhở?
    Mới hôm nay sao lại gấp quá chừng?
    Có điều chi lo liệu bâng khuâng,
    Mà vội vã dặn dò tôi sớm vậy?
    \Sãi cả cười vuốt ve tấm đãy:
    Sợ ngày về ông bận lắm chè xôi.
    Của chúng sanh làm lễ vãng hồi,
    E quên mất những lời tôi gởi gắm.
    Nên tính trước trao tờ cáo thẩm,
    Cuộc trần gian đà trải một năm qua.
    Luôn từ ngày Tăng Sĩ xa nhà,
    Đều uất kết tâu qua cùng Thượng Đế.

    (Trích bài "Trao Lời Cùng Ông Táo")
    Có nhiều thiên địa quỷ thần phụ trách xem xét khởi tâm động niệm, tạo tác hành vi của tất cả chúng sanh, cho nên tất cả thiện, tất cả ác, không chỉ là ngôn nhữ tạo tác, ngay cả khởi tâm động niệm quỷ thần đều thấy. Không những nhìn thấy mà còn ghi chép, mỗi một chúng sanh đều có một hồ sơ tài liệu đầy đủ. Không khác chi xã hội hiện thực của chúng ta, mỗi người từ khi sanh ra cho đến chết, cơ quan chánh phủ đều có tài liệu của người đó trong hồ sơ. Thành Hoàng bổn cảnh quản lý khu vực cũng có tài liệu mà so với tài liệu của chính phủ còn đầy đủ hơn. Trong kinh sách Phật nói với chúng ta, Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, phạm vi các ngài quản lý là Ta Bà thế giới nầy.Trong lục đạo, người quản lý chúng ta quá nhiều, nhưng chúng ta không biết.
    Tập tục là ngày 23 tháng chạp Âm lịch, Táo Quân lên trời báo cáo nhà nầy làm việc thiên, làm việc ác trong một năm. Người hiện tại cho là mê tín, nhân gian không thờ Táo Quân nữa. Dù không thờ Táo Quân, Táo Quân vẫn còn cai quản nhà của chúng ta. Không phải không thờ thì Ngài không lo, không thờ, Ngài vẫn lo.
    Táo Thần có thật, quyết không phải hư dối. Không những có Táo Thần mà còn có nhiều quỷ thần, chúng ta khởi tâm động niệm, sở tác, sở hành, người không thấy, quỷ thần thấy rõ ràng. Truyền ký về đời nhà Minh bên Trung Hoa, cư sĩ Du Tịnh Ý gặp Táo Quân. Không chỉ Du Tịnh Ý gặp, theo bút ký của người xưa, nhiều người thấy được Táo Thần.
    Người có học, người tu hành thường hay tự cho mình là hiền lương, người khác nhìn vào cũng tưởng là không tệ, mỗi ngày đều làm việc tốt, nói lời tốt. Du Tịnh Ý năm xưa cũng vậy. Nhưng đời của ông nghèo nàn lận đận, tự cho mình đều làm việc tốt, không có làm việc ác, trách ông trời quả báo nầy không công bằng. Táo Thần rất từ bi nói với ông:"Hành vi của ông giống như thiện, ý niệm của ông quá ác(ác ý), bản thân ông không thể phản tỉnh. Tại vì ý của ông ác, việc làm thiện của ông đều không thực tại, đều là giả dối. Cho nên thiên địa quỷ thần giám sát ông từ ngày mùng một đầu năm đến tháng chạp ba mươi, không có một việc làm tốt thật sự, toàn là không thiết thực, là giả, làm cho người ta coi, giả thiện, không phải chân thiện". Táo Quân điểm hóa ông như vậy, làm thức tỉnh ông, ngộ ra điều sai trái của mình, ông mới thật sự hiểu rõ.
    Người làm ác không sợ, chỉ sợ là không thể hồi đầu, không thể giác ngộ. Phải làm thay đổi bản thân của chúng ta, đoạn ác tu thiện, phá mê khai ngộ. Chúng ta cố gắng sửa lỗi, làm mới, không những chính mình được cứu độ, cũng có thể giúp được người khác, đây là công đức to lớn.
    Những lời Táo Thần nói với ông Du Tịnh Ý đáng để cảnh tỉnh chúng ta. Sai lầm của ông chính là điều chúng ta đang mắc phải hiện nay. Lỗi của chúng ta mắc phải, thực sự chính chúng ta cũng không biết, tưởng rằng những gì chúng ta nghĩ, chúng ta nói, chúng ta làm đều đúng, những gì của người khác đều không đúng, mà trong Phật pháp gọi là mê hoặc, điên đảo.
    Táo Thần nói:" Ác ý của ông quá nặng, chuyên chú về hư danh. Những điều thiện ông làm, tuy rất nhiều, nhưng đều không phải thật, chỉ mua danh chuốc tiếng . Thiên địa quỷ thần ngày ngày giám sát, ngày ngày nhìn vào ông. Trước mặt quỷ thần, ông cầu khẩn hầu như cũng rất khẩn thiết, cũng có một chút thành ý nào đó, nhưng ông xử thế, tiếp người đối vật, với lời cầu khẩn trước mặt quỷ thần không tương ưng. Thượng Đế ra lịnh chư vị quỷ thần giám sát thiện ác của thế gian đến đây xem xét ông, thấy ông bao nhiêu năm chưa từng làm qua một việc tốt thật sự, những việc tốt ông làm đều nhằm phụ họa người khác. Nếu như người khác không làm, ông nhất định không bao giờ chủ động đi làm. Lúc ông một mình không có ai, nhìn thấy niệm tham của ông, niệm dâm, ý nghĩ hẹp hòi, tự cao khinh thường kẻ khác, niệm ức vãng kỳ lai (nghĩ về quá khứ, hy vọng tương lai), niệm ơn thù báo phục, vọng niệm, tạp niệm của ông quá nhiều, kể không hết! Đây đều là ác ý. Những loại ác ý nầy kết chặt trong lòng của ông, thiên địa quỷ thần đã ghi trong hồ sơ rất nhiều".
    Những lời nầy đã đánh thức ông Du Tịnh Ý. Ông qùy trước Táo Thần (Táo Thần là thị hiện một thân người) nói, Ngài nhất định là thần tiên. Ngài biết tôi rõ ràng như vậy, cầu Táo Thần giúp đỡ, cầu Táo Thần cứu giúp, ông vẫn còn tâm niệm như vậy. Thấy ông có tấm lòng ăn năn, Táo Thần giúp đỡ, dạy ông từ nay về sau, bất cứ vọng niệm, tạp niệm nào đều phải dứt sạch.
    Với người đời nay, vì bị ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, họ không tin, cho là mê tín, khó tiếp thụ, nên việc sửa lỗi quá khó! Nghe lời Táo Quân dạy bảo, Du Tịnh Ý hồi đầu, y giáo phụng hành, hiểu rõ đạo lý và sự thật của báo ứng. Ông sống tới 80 tuổi, có bốn đứa con, chết ba còn một. Đứa còn lại cũng mất tích. Đứa con nầy, lúc còn nhỏ đi chơi, vào lầm tàu của người ta, cuối cùng tàu nhổ neo,sau đó bị bán đi. Vẫn còn may, được một ông thái giám mua. Ông thái giám nầy tốt bụng, mua vài đứa bé làm con mình, nuôi con phòng già sau nầy (tích nhi đãi lão).
    Sau nầy ông Du Tịnh Ý làm quan, công danh hiển đạt, làm thiện lũy đức, chuyển tất cả nghiệp báo trở lại. Ông đi bái kiến lão thái giám nầy, lão thái giám bảo mấy đứa con nuôi gặp ông. Khi gặp mặt, nhìn thấy có một đứa dung mạo giống con ông, nhưng vì nhiều năm không gặp, hỏi đứa bé: "Con là người ở đâu?" Đứa bé trả lời, ông rơi lệ. Ông hỏi: Dưới gót chân của con có phải có hai nốt ruồi?" Cởi giày ra xem, quả nhiên không sai, đúng là con của ông. Vị thái giám trả đứa con nầy lại cho ông, sau nầy học hành đỗ đạt công danh. Đứa con nầy cũng sanh nhiều con cái. Thật là thiện hữu thiện báo, nhân duyên quả báo tơ hào không sai.
    Tạo tác thiện ác, chúng ta thường nói tới tam nghiệp. Từ sáng tới tối "Thân, Khẩu, Ý" của chúng ta tạo nghiệp không ngừng. Động tác của thân thể, lời nói từ miệng, ý niệm trong lòng, tương ưng với thập thiện là lành, trái ngược với thập thiện là ác. Đây là tiêu chuẩn phân biệt thiện ác. Câu chuyện Vệ Trọng Đạt, vào thời nhà Tống bên Trung Hoa. Năm đó ông nhậm chức tại Hàn Lâm Viện, có một ngày bị Vô Thường bắt đi. Sau khi phán quan điều tra những tạo tác thiện ác trong cuộc đời của ông ấy. Kết thúc phát hiện án kiện tạo ác của ông ấy chất cao như núi, việc thiện chỉ có một phần. Nói cách khác, là suốt đời của ông chỉ làm có một việc lành. Sau khi nhìn thấy tình hình nầy, ông nói với phán quan:"Tôi chưa tới 40 tuổi, tôi là sao tạo ác quá nhiều như thế?"
    Phán quan trả lời ông ấy: "Những sự việc tạo tác nầy là từ khởi tâm động niệm của ông, khi ông khởi một niệm ác, dưới âm phủ liền có một hồ sơ tại đó, không chờ tới ông làm, khởi lên một niệm ác, ông liền để lại một hồ sơ. Nếu ông làm, tội của ông càng sâu càng nặng".
    Trong lúc chưa so sánh thiện ác, ác niệm nhiều như thế, Diêm Vương rất tức giận. Diêm Vương nói lấy cây cân để cân. Dùng cân để cân, tội lỗi nhiều như thế của ông ấy lại nhẹ, ngược lại phần thiện nặng hơn. Diêm Vương thấy vậy rất vui mừng.
    Vệ Trọng Đạt lại hỏi Diêm Vương:"Việc thiện đó của tôi rốt cuộc là việc thiện nào?"
    Nguyên thời đó nhà vua muốn xây dựng một công trình, công trình nầy có thể không cần thiết làm, lao dân tổn tài. Ông ấy đệ trình lên vua một tấu chương, khuyên vua đừng thi hành. Ông ấy thật lòng đệ trình tấu chương nầy. Ông ấy nói:" Nhưng ông vua không nghe".
    Diêm Vương trả lời:"Nếu như ông vua nghe theo, phước báo của ông to lớn hơn nhiều. Vì là không nghe, nhưng với tấm lòng chân thành, ông có ý niệm nầy, sự kiện thiện lành nầy tiêu trừ đi rất nhiều việc tạo ác của ông".
    Diêm Vương lại nói thêm:"Bởi vì ông tạo ác qúa nhiều, tiền đồ của ông bị chướng ngại, mạng của ông vốn là làm thừa tướng, nhưng bái tướng ông cũng không có phần". Sau nầy quan chức của ông ấy làm tới thượng thư sử bộ, thượng thư sử bộ tương đương với bộ trưởng nội vụ, làm tới chức vụ nầy, đây là giáng đi một cấp.
    Công án nầy rất có giá trị xứng đáng dùng để phản tỉnh chúng ta.
    Khi nhìn một người nào mà khởi lên tâm ác, lập tức gây dấu ấn trong tâm ta rồi, chúng ta có thể quên, nhưng mà không bao giờ mất, nó sẽ có cơ hội trở lại. Cũng giống như khi chúng ta gieo một hạt mầm xuống đất, nó nằm yên ở đó, chờ đợi đến một cơ hội sẽ tái mọc lên và phát triển mạnh mẽ.
    Điều đáng lưu ý là người tu tâm được ít nhiều sự thanh tịnh, trong sáng thì sự phóng tâm tác nghiệp nhanh hơn so với người ít tu. Vì tâm thức của người tu đã lắng, đã thanh lọc nên khá trong, giống như mặt gương đã được lau nhiều, đã sạch, nên khi có một nét gì dính vào thì hiện lên rất rõ ràng. Cho nên người tu khi càng vươn lên cao, những bước đi cần phải cẩn trọng. Chúng ta cẩn thận từng niệm một, chỉ một niệm phóng tâm, cứ lao theo là dấu ấn đậm nét trong tâm thức. Ý niệm khởi lên rồi khổ đau, phiền não, lo lắng bất an sẽ có mặt là một tràng dài của ba cõi sáu đàng, là con đường sanh tử đã trải ra và chúng ta cứ quanh quẩn trên con đường nầy mãi.
    Đức Phật dạy:"Người có lỗi lầm mà không tự sám hối để sớm cấm dứt tâm tạo ấy, thì tội lỗi càng chồng chất vào thân như nước chảy về biển dần dần trở nên sâu rộng. Nếu người có lầm lỗi mà biết nhận lỗi, bỏ ác làm lành thì tội tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi, dần dần sẽ khỏi bịnh".
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Chữ tự hối nào ai có lạ,
    Là ăn năn cải sửa tâm lành.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Sám hối trong đạo Phật là tự mình làm mới chính mình gột rửa thân tâm cho sạch sẻ và chuyển hóa thân tâm. Thực hành pháp sám không có nghĩa cầu khẩn năng lực bên ngoài giúp mình. Đây là điều đặc biệt của từ sám hối trong đạo Phật.
    Sám là ăn năn những lỗi lầm mình đã gây ra và hứa rằng không tạo lại như đã từng làm trong qúa khứ. Hối là ăn năn các tội sau của mình, đoạn dứt hẳn không còn khởi lại. Người phàm phu chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết hối lỗi sau; do không hối nên lỗi trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh, vậy đâu gọi là sám hối. Cho nên chúng ta sám lỗi trước mà cũng phải hứa từ đây về sau nhứt định không phạm lại điều đó nữa thì mới đủ ý nghĩa sám hối. Vậy phải hiểu sám hối là nguyện sám lỗi trước và nguyện chừa lỗi sau, như vậy mới gọi là sám hối.
    Bản chất thực của tội lỗi là một năng lượng có thể loại trừ. Tội lỗi dù có nghiêm trọng đến đâu cũng có thể loại trừ và chúng ta cũng có khả năng làm mới thân tâm bằng con đường tịnh hóa tâm thức.
    Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy pháp sám hối vô tuớng, pháp nầy tiêu diệt hết tội lỗi ba đời, khiến ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, hãy nguyện như thế nầy:
    "Đệ tử chúng con, từ những thời gian trước, đến nay và sau nầy, lúc nào cũng nguyện không để lòng mình bị nhiễm sự u mê, ngu muội. Tất cả những ác nghiệp, tội lỗi do u mê, ngu muội gây ra từ thời gian trước, đến nay thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại".
    "Đệ tử chúng con, từ những thời gian trước, đến nay, và sau nầy, lúc nào cũng nguyện không để lòng mình bị nhiễm sự kiêu căng, dối trá. Tất cả những tội lỗi do ác nghiệp kiêu căng, dối trá, gây ra từ thời gian trước, đến nay, thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không còn khởi lại".
    "Đệ tử chúng con, từ những thời gian trước, đến nay và sau nầy, lúc nào cũng nguyện không để lòng mình bị nhiễm sự ganh ghét, tật đố. Các tội do nghiệp ác ganh ghét, tật đố gây ra từ những thời gian trước, đến nay, thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt vĩnh viễn chẳng còn khởi lại".
    Khi ra đời dạy Đạo, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết cho chúng sanh hiểu vì,

    Dân đông đảo lời truyền chẳng xiết,
    Nên phải tạm mượn cây ngòi viết.
    Đem Đạo mầu như hạn cho mưa,
    Đặng tố trần tâm ý Người Xưa.
    Chữ thậm thâm trong kinh Phật Giáo,

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Và:
    Khai rừng kinh kệ câu huyền bí,
    Để cứu nhơn sanh khỏi thảm sầu.

    (Tối Mồng Một)
    Nên:
    Viết kệ cơ giảng dạy ít bài,
    Mặc lê thứ làm không tự ý.
    Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
    Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
    Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
    Chớ chẳng phải của người đảng trí.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Vậy xem kệ giảng phải hiểu tường tận mới khỏi lạc lầm "Ngâm nga hiểu nghĩa đáng kim ngà, Huyền bí nhiều lời chỉ thiệt xa. Bổn đạo rán tầm cho cặn kẽ, Lòng hiền Phật độ khỏi tinh ma" (Tối Mồng Một), nên:

    Coi rồi phải thân mình tự trị,
    Chẳng độ xong Phật khó đắt dìu.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy:

    Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
    Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.
    "Gọi tâm chúng sanh là tâm tà mê, tâm vọng dối,tâm ganh ghét, tâm ác độc. Các tâm như thế gọi là tâm chúng sanh, phải dùng tánh mình mà tự độ, đó gọi là chơn độ. Sao gọi tánh mình mà tự độ? Nghĩa là các chúng sanh, tức các tánh xấu trong tâm như: tà kiến, phiền não, si mê ... phải đem chánh kiến là sự thấy, sự hiểu biết chơn chánh mà hóa giải, trừ dứt. Đã có chánh kiến thì thấy trí bát nhã tức là trí huệ sáng suốt, giải trừ các chúng sanh si mê, tham vọng. Mình phải độ lấy mình. Tà đến dùng chánh độ, mê đến dùng ngộ độ, ngu đến lấy trí độ, ác đến lấy thiện độ. Độ như thế gọi là chơn độ"
    "Tất cả các phiền não không kể xiết đều thệ nguyện bỏ hết, tức đem trí bát nhã của tánh mình mà đoạn trừ lòng nghĩ tưởng gỉa dối. Vậy mới gọi là chơn độ".

    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Ai ai cũng ở trong đời,

    Chốn nào không Đạo là đời vô liêm.
    (Để Chơn Đất Bắc)

    Nghe lời dạy trên đây, ai ai cũng muốn tu, sửa đổi tâm tánh. Nhưng cũng có trường hợp tuy muốn tu, niềm vui rộn ràng được một thời gian rồi tự nhiên ngoặt vào con đường tẻ. Tại vì chúng ta không có pháp hành trì, không phòng hộ sáu căn để sáu căn bị lôi kéo, bị quyến rũ bởi ngũ dục, lục trần ở bên ngoài và tự tâm chất ham muốn dục lạc còn dạt dào nên đẩy chúng ta về hướng làm tan tác đời tu. Cho nên Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Trong sắc thân giám thị lục căn,
    Đừng cho chúng tính lăng quằng.
    Ngoài thì chắp thủ mà ngăn lục trần,
    Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái,
    Cội sân si cũng phải tảo trừ.
    Đem về giác tánh chơn như,
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh.

    (Cho Ông Cò Tàu Hảo)

    Chúng ta tu là đi từ tầng cạn đến chiều thâm sâu. Nghĩa là bước đầu chúng ta tiếp xúc với giáo lý, bước thứ hai đem giáo lý của Đức Phật, Đức Thầy vào trái tim của mình, bước sau cùng, lúc bấy giờ giáo lý đã thành máu thịt, xương tủy của mình tạo thành chính bản thân mình.
    Khi chúng ta đi vào thực hành chánh đạo, có ba tầng cho sự thực tập: tầng cạn là hành thiện, tầng giữa là thực hành những điều Đức Phật, Đức Thầy dạy, tầng thứ ba là khi đạt được pháp môn thực tập, chúng ta phải có niềm tin vững chắc và hành trì. Điều quan trong chúng ta phải hành trì bền bỉ.
    Trong đời sống tâm linh, chúng ta hãy làm sao đối xử với nhau cho có tình người, chính là con đường hành thiện. Cũng có khi chúng ta ở trong Đạo lâu chúng ta hà tiện nụ cười, hà tiện lời khen. Chúng ta xài rất là hào phóng tâm ganh tị, thói đố kỵ . Sự trân trọng, khiêm tốn, yêu thương hòa ái thì chúng ta giữ rất kỷ. Thay vì xử dụng năng lượng tích cực thì lại vận dụng nguồn năng lượng tiêu cực, làm cho thiện nghiệp bị bào mòn và cuộc đời bị chìm xuống.
    Có một vị Sa môn hỏi Đức Phật:" Điều gì là thiện?, Điều gì là lớn? Đức Phật dạy:"Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật là thiện. Chí nguyện hợp với đạo là lớn".
    Đạt được lý và thực tập cách sống trong trần đời bằng tâm hiền thiện như thực hành Tam Qui, Ngũ Giới, Bát Chánh Đạo... Chớ nên xem thường các điều ấy vì đó là căn bản trong cuộc sống.
    Giữ sự chân thật là một đức tính của người tu. Chỉ là người thường thôi chưa phải là người tu, nhưng nếu có đức nầy cũng là viên kim cương trong cuộc đời.
    Lấy trí tuệ làm sự nghiệp và thành tựu Niết Bàn, đó là bản nguyện của người tu. Con đường trí tuệ là con đường sáng vào qủa vị Niết Bàn cũng là con đườg ngắn nhứt để thành đạt đạo qủa. Con đường nầy có thể một đời cắt dược dòng sinh tử luân hồi.
    Trong pháp môn thực tập, nếu chúng ta nhận được phương pháp chánh niệm và điều quan trọng sống được trong chánh niệm và từng hơi thở của chúng ta trong từng phút giây đang an trú trong vùng trời Niết Bàn tự tâm.
    Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy:

    Xác trần tục như cây cạnh khến,
    Làm hiền hoài ắt phải tiêu mòn.
    Đẽo với bào riết nó cũng tròn,
    Đến chừng đó trông vào rất tốt.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Ngài đưa ra hình ảnh dẫn dụ cho người đi trên đường đạo tu sửa thân tâm cũng như khúc gỗ mới cưa xuống còn đầy u nần cạnh khến. Người thợ trạm trổ phải dầy công đẽo bào để biến nó thành món đồ khéo đẹp hữu dụng. Như người tu hành phải làm lành lánh dữ mới mong đạt tành Đạo qủa.
    Muốn luyện được an trú tâm phải trải qua con đường dài để luyện, chớ không thể chỉ ngày một ngày hai mà có được. Cho nên chúng ta phải tự hứa với lòng mình một đời thành tựu đạo nghiệp. Chúng ta phải qúy tiếc thời giờ, sinh mạng và nỗ lực hành trì. Mạng người chỉ trong một hơi thở. Chúng ta lao xao trong kiếp sống nhơn sinh không bao lâu rồi mỗi người đều trở về với cát bụi. Hãy tỉnh giác trong từng hơi thở khi có được kiếp người, xin đừng thả trôi: "Làm chẳng trọn uổng thay một kiếp" (Giác Mê Tâm Kệ). Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
    Nam Mô A Di Đà Phật.

    Ngày 29 tháng 12 năm 2014
    PHAN THANH NHÀN
     

Chia sẻ trang này