HAI MƯƠI HAI CHƯƠNG của Cư sĩ Nguyễn Văn Đon

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Ngoctruc, 3/11/16.

  1. Ngoctruc

    Ngoctruc Member

    "HAI MƯƠI HAI CHƯƠNG" NGƯỜI TU SĨ CẦN BIẾT của Cư sĩ Nguyễn Văn Đon

    'HAI MƯƠI HAI CHƯƠNG'
    NGƯỜI TU SĨ CẦN BIẾT

    -oOo-

    GIỚI THIỆU

    ***

    Mặc dù tác giả (anh Nguyễn Văn Đon) là một tu sĩ, lúc bấy giờ (1972) tuổi đời còn rất trẻ (khoảng 35, 36 tuổi) tu theo giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo. Song anh từng là Phó Giám Đớc, Tổng Giám Thị, Giảng Huấn các khóa tu học “ Đào Tạo Giảng Viên Truyền Bá Giáo Lý sơ cấp I”, chương trình do Ban Phổ Thông Giáo Lí Trung Ương đề ra. Tuy bận việc giáo sự, song lúc nào anh cũng trăn trở lo lắng đến tiền đồ đất nước, đến tôn giáo, hội đoàn, thậm chí người lãnh đạo trong gia đình… nên anh đem sớ kiến thức, sự kinh nghiệm hiểu biết và trắc nghiệm qua cuộc sớng đời mình để viết ra tác phẩm này.
    Trước năm 1975, lúc là tu sinh ở tu viện Kim Cở Tự (Phủ Thờ ông Ba), chúng tôi có sao chép tác phẩm này, qua bản viết tay của người bạn, khi thấy có những điều rất bổ ích cho cuộc sống của mình. Chúng tôi những tưởng là của ai đó, vì không thấy đề tên tác giả. Giờ đây anh hai đã mất (ngày 9 tháng 12 năm Tân Mão 2011, hưởng thọ 72 tuổi). Tình cờ gặp người bạn đạo trao cho bản thảo “photo” nét chữ của anh hai, chúng tơi mới vỡ lẽ ra là của anh.
    Nay cho tác phẩm này ra đời, để kỉ niệm tình huynh đệ giữa anh và chúng tôi, cũng để cống hiến các bạn làm hành trang khi có nhiệt tâm muốn dấn thân trên đường lãnh đạo đất nước, tôn giáo…
    Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn gần xa.

    Cù Lao ông Chưởng, ngày cuối xuân
    Bính Thân (2016)
    Hoàng Thụy Như Liên

    LỜI NÓI ÐẦU

    ***
    Một đêm trăng thanh gió mát, với cảnh tĩnh mịch nơi căn nhà lá nhỏ, ngồi “trầm tư mặc tưởng”, nghĩ nhớ đến bốn trọng ân còn mang nặng trên vai chưa đền đáp, lòng tôi như se thắt lại…Tự hỏi: đời mình phải làm gì đối với những người, với em, cháu đã tín mến nơi ta?
    Tác phẩm “HAI MƯƠI HAI CHƯƠNG” này phát sinh ra từ độ ấy.
    Thật là bể Thánh mênh mang, rừng Thiền chớn chỡ, sự hiểu biết của con người có giới hạn, nhưng tôi cũng tùy khả năng sắp xếp ý mình theo từng chương mục để độc giả dễ nắm được những gì mà tôi muốn nói.
    Những chương mục ấy là: HÒA, HƯỠN, KIỆM, MINH, TRÍ v.v…
    Tuy nhiên, mô phạm văn nghiệp chưa phải là sở trường, song tác giả muốn có nhã ý với độc giả phần nào trên bình diện tiến bộ về TÀI ÐỨC, không thể giải thích khác hơn.
    Một việc làm đơn độc, chưa quen, dĩ nhiên khó chu đáo được.
    Mong các bậc cao minh điểm xuyết lại cho !

    Miền sông Hậu, Thu phân Nhâm Tý (1972)
    Nguyễn Văn Đon


    CHƯƠNG MỘT: CẦN
    Cần mẫn là chuyên cần và mẫn cán (siêng năng, lanh lợi), nghĩa là tính siêng năng chăm chỉ lo làm công việc.
    Không cần mẫn khó thành công, không tiến bộ và việc làm chẳng chu đáo.
    Thánh nhân nói: “Cần vi vô giá bảo” (cần là của quí vô giá).
    Ðược no ấm, được đỗ đạt, được tiến bộ và được hiển đạt chân lý là cả một công trình cần mẫn. Thức khuya, dậy sớm dồn hết trí lực và thời gian vào mục tiêu đã nhắm; nào phải dễ dàng đâu. Những kẻ biếng nhác, phí thời gian rong chơi vô bổ, là những con thuyền không lái, trôi dạt long bong trên mặt bể, rồi chờ đến ngày tan rã nào có ích lợi cho ai!
    Như chúng ta đã thấy, trên đời có hạng người không cần mẫn, chỉ biết có bữa ăn hôm nay, chẳng biết đến ngày khác hơn, mới lạ hơn! Có thể nói là hạng người tiểu chí chỉ biết lo về mặt vật chất: ăn mặc, nhà cửa, sự nghiệp cho cá nhân mình thôi. Ngoài ra, việc tiến bộ về mặt tinh thần, trí huệ, việc xã hội và đạo pháp, họ không chút quan tâm! Hạng người đại chí thì khác hẳn, các Ngài giống như người “đãng trí”. Và bao nhiêu ảo ảnh thông thường của nhân thế không làm cho tâm các Ngài dao động, ngày đêm quên ăn, mất ngủ cố theo đuổi hoài bão và chỗ lập chí, nên dù cảnh nào, các Ngài cũng vẫn phải cần mẫn luôn.
    Bởi vậy, người có tánh cần mẫn khi đã ý thức một điều gì rồi không cần phải nhờ ai khuyến tấn, tự mình nỗ lực siêng năng làm công việc ấy cho đến khi thành đạt kết quả mới thôi.
    Xưa A Nan nhờ đức cần mẫn mà được hoàn thành công tác kết tập ba tạng: Kinh, Luật, Luận của Phật, truyền lại cho đời. Tư Mã Quang (đời nhà Tống, thế kỉ XI) nằm kê đầu bằng cái gối hình tròn. Dụng ý, nếu khi ngủ mê, đầu rớt khỏi gối, giựt mình thức giấc để học. Nhờ tính cần mẫn ấy, ông trở thành một nhân vật chính trị đại tài và một nhà hiền triết lỗi lạc nơi đất Trung Hoa.
    Và có những bậc vĩ nhân suốt cả đời theo đuổi một phương án, nhưng không thành đạt mà thần chết đã đến, đành phải ghi công thức để lại cho người kế tiếp làm theo.
    Nhắc đến đây, tôi rất ngậm ngùi, bởi nhớ đến nhà ái quốc Phan Sào Nam (Phan Bội Châu (1867-1940) tên thuở nhỏ là Phan Văn San, quê làng Ðan Nhiễm, nay thuộc thị trấn Nam Ðàn, huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An) vì đồng bào mà suốt cả đời người phải vào tù ra khám, lận đận lao đao. Nhưng đức can mẫn của ông luôn đầy đủ. Trước khi dứt hơi thở cuối cùng, trên giường bệnh, ông còn thốt lên câu:
    …Nay đang lúc tử thần chờ trước ngõ,
    Có vài lời khuyên nhắc về sau,
    Chúc đoàn hậu tấn tiến mau !”
    Tóm lại, từ anh nông phu, em học sinh, nhà cách mạng và hàng tu sĩ với đức cần mẫn không phải chỉ trong một thời gian nào mà cần phải cưu mang xuyên suốt cuộc đời ta, mới mong được kết quả. Bằng ngược lại, dù bao nhiêu công phu vẫn phải tan dần theo mây khói.


    CHƯƠNG HAI: CẨN
    1/. CẨN: Là cẩn thận dè dặt, đắn đo suy nghĩ trước khi làm. Chân lý vẫn luôn công nhận tánh cẩn thận là phương pháp hộ thân và bảo vệ việc làm hữu hiệu nhất.

    a/. CẨN THẬN LỜI NÓI:
    Người ta bị thất bại phần lớn là vì bất cẩn lời nói của mình.
    Ðể tránh tai hại này phải phân lời nói ta ra từng trường hợp :
    - Trường hợp thông thường giữa chỗ đông người, ta khỏi phải cẩn thận lắm. Nói sao cho vui vẻ và hợp lý là được.
    - Trường hợp quan trọng giữa chỗ đông người ta vẫn nói được. Song phải lựa lời trước khi nói.
    - Trường hợp tối quan trọng, ta có thể nói cùng những người ta đã chọn lọc kỹ. Và đôi khi dù là cha mẹ, chồng vợ, cha con, anh em cũng không thể nói. Trường hợp này, chúng ta rất kính cố thi sĩ Nguyễn Xuân Thiếp. Ngày nọ Ông ngồi buồn ; có lẽ đang suy tư một việc chi quan trọng, phu nhân ông thấy vậy mới hỏi. Ông ôn tồn nói: Bà an phận lo nuôi dạy con, không nên biết công việc của tôi làm chi!
    Cho nên tính hay nói, thiếu cẩn thận, không ai dám tin tưởng và bày tỏ việc cơ mật với ta. Một con người như vậy, không còn sáng suốt và không thể làm nên trò gì được cả.
    - Xưa Khổng Minh ban lệnh cho tướng Mã Tắc cầm quân ra trận. Khổng Minh không an tâm, cho một tướng khác theo yểm trợ. Quả nhiên Mã Tắc khinh địch, không cẩn thận nên bại binh, phải bị quân kỷ hành hình.
    - Ngũ Tổ gọi Lục Tổ giờ tý vào tịch liêu truyền Y Bát. Dặn dò mọi công việc xong, Ngũ Tổ cẩn thận đưa Lục Tổ qua phương Nam lánh nạn chờ cơ duyên thuận tiện ra mở đạo.
    Lấy đó mà xét, việc làm của những bậc siêu nhân, các Ngài rất dè dặt suy xét kỹ chớ không như hạng thường nhân càn bướng, thiếu cẩn thận.

    b/. CẨN THẬN VIỆC NHỎ NHẶT HẰNG NGÀY:
    Phần nhiều người ta chỉ can thận việc lớn, ít ai để ý cẩn thận việc nhỏ như : nói năng thưa thớt, không nhìn trước ngó sau, đồ vật bỏ bừa bãi thiếu cẩn thận…
    Tôi có một anh bạn rất tốt bụng, nhà nghèo vô đồng cắt lúa mướn. Xong mùa vụ, anh gom góp tiền bạc về ăn tết. Tiện dịp anh xuống ao bắt cá. Khi thấy lửa cháy đến, anh chạy lên thì gói mền mùng quần áo của anh đều bị cháy hết . Anh chỉ còn chiếc khăn đắp trên vai và cái quần cụt đi bộ suốt ngày đường mới về đến nhà rước xuân với muôn ngàn đau khổ và hối tiếc tính thiếu cẩn thận của mình.
    Xưa Hàn Tín tùng quân theo Hạng Bá (chú Hạng Võ), Hạng Bá không biết Tín là kỳ tài nên cho Tín làm quân hầu. Tín buồn, nhưng cũng ẩn nhẫn chờ thời. Ngày nọ Tín dâng cho Hạng Bá một tờ biểu bàn việc lợi hại về quân chính. Hạng Bá không nghe Tín và không cẩn thận, bỏ bừa bãi tờ biểu trên bàn. Trương Lương đến nhà Hạng Bá, may gặp đọc trộm tờ biểu ấy, biết Tín là một nhân tài xuất chúng nên tìm cách chiêu dụ Tín về với Lưu Bang. Và trao hết binh quyền ấn soái cho Tín chỉ huy đánh tan quân Sở. Nước Sở bị thảm bại nguyên nhân do Hạng Bá thiếu cẩn thận về một tờ biểu đó thôi.
    Thế nên việc nhỏ nhặt hằng ngày ta không quan tâm sẽ đưa đến chỗ tai hại lớn. Ta phải ý thức thêm : một đóm lửa nhỏ có thể thiêu hủy cả núi rừng. Và trong các phiên tòa tuyên án tử hình, hoặc khổ sai chung thân, phần nhiều cũng từ trong chỗ thiếu cẩn thận chuyện nhỏ nhặt mà ra. Ta đừng ỷ tài bách chiến bách thắng mà nguy, phải luôn luôn cẩn thận . Vì lắm khi đi bể cả không chìm, về ngọn cùng mà chết.

    c/. CẨN THẬN LÚC VUI BUỒN, HOÀI NGHI, CĂM TỨC:
    Vui buồn, hoài nghi, căm tức nó là trạng thái “bất bình thường”, làm cho tâm ta dao động, thiên lệch, quyết định không tự chủ và thiếu sáng suốt.
    Có lắm gia đình, nhà lãnh đạo quốc gia và tu sĩ thiếu cẩn thận về trạng thái bất bình thường này nên gia đình hư hoại, đất nước điêu linh và công tu đổ vỡ:
    Trụ Vương vì quá vui say Ðắc Kỷ sát hại trung thần mà tiêu vong đế nghiệp. Vua Gia Long vì căm tức giết oan cha con Nguyễn Văn Thành, một khai quốc công thần, dày công thượng mã. Tào Tháo vì hoài nghi sát lầm gia đình cùng họ đã tốt lòng với Tháo. Và một tu sĩ hữu tài, thiếu cẩn thận trong chỗ đặt tình thương không đúng nên phải rời khỏi chốn thiền môn.
    Ðể tránh tai vạ nói trên, ta phải tập tánh bình tĩnh thản nhiên trước cảnh ngộ. Nếu trong khi quyết định một điều gì mà tâm ta còn mang nặng vui buồn, hoài nghi và căm tức thì không thể giải quyết công bằng, sáng suốt được. Và khi hối tiếc thì sự việc đã muộn màng.

    d/. CẨN THẬN NHỮNG THÁI ÐỘ BÊN NGOÀI:
    Ðời có lắm hoàn cảnh éo le, đau nam chữa bắc. Ta không thể thấy thái độ bên ngoài của người mà vội kết luận hung hiền, tốt xấu bên trong của họ được.
    - Ông A đang ngồi chấm thi với Hội Ðồng Giám Khảo. Bỗng tiếp được báo cáo một thí sinh (thân nhân của ông A) vi phạm trường qui, đang chờ cấp trên giải quyết. Hội Ðồng Giám Khảo biết đó là thân nhân của ông A nên chờ coi ông A có thái độ giải quyết như thế nào. Ông A ngồi trầm lặng đôi phút, rồi đáp : “Thư ký lập ngay biên bản trục xuất thí sinh vi phạm trường qui, không được thi”. Hội Ðồng Giám Khảo thấy ông A làm việc công bằng nên đem lòng kính mến ông và đề nghị cho thí sinh đó tạm thi xong sẽ giải quyết . Như thế, ông A ngoài mặt có thái độ chẳng tốt với thí sinh ấy, nhưng bên trong ông có một dụng ý rất tốt và sâu sắc để chữa tội cho thân nhân của ông khỏi kỷ luật nhà trường.
    - Xưa có một nhà vua mới thu nhận một mỹ nhân ngoan, đẹp. Vua say mê đắm đuối. Hoàng Hậu ghen thù. Nhưng không tỏ thái độ cho ai biết. Cử chỉ bề ngoài, Hoàng Hậu rất tử tế, lo trang điểm và dạy mỹ nhân phép hầu hạ nhà vua. Ngày nọ Hoàng Hậu cho mỹ nhân biết : Vua rất sủng ái em, chỉ có chiếc mũi em vua rất ghét. Vậy khi lại gần Vua, em nên lấy khăn che khuất mũi em lại … Mỹ nhân y lời . Mặt khác, Hoàng Hậu nói với nhà Vua là, mỹ nhân chê bệ hạ có thứ mồ hôi hơi khó chịu, nên khi lại gần mỹ nhân phải che mũi. Nhà vua nổi giận truyền lệnh xẻo mũi mỹ nhân. Ðó là thái độ bề ngoài tốt mà bên trong xấu.
    Cho nên làm người phải có đức cẩn thận khi chứng kiến những thái độ tốt xấu bề ngoài. Nếu chẳng đặng vậy ắt phải lầm, khi hối tiếc thì đã muộn.

    e/. CẨN THẬN KHI NGHE TIN TỨC BÁO CÁO:
    Từ ông chủ sở, vị lãnh đạo quốc gia và người trụ trì Tự Viện. Trước khi vạch ra chương trình làm việc và giải quyết vấn đề chi, ta phải tiếp nhận tin tức, báo cáo. Nếu nghe không chính xác, nhận xét chẳng kỹ càng thì quyết định mọi việc bị hư hỏng.
    Ðiều này cũng khó xử trí. Nếu không nghe tin tức báo cáo, biết sao làm việc. Bằng vội nghe tin, lại khổ nỗi chỉ thấy bề mặt thôi, còn bề trái rất khó biết. Bởi khách hành lang và cấp dưới phần nhiều vì bướng bỉnh, hèn nhát và vì bát cơm manh áo nên báo tin không xác thực.
    Muốn nắm vững sự thật, ta phải có một bộ óc sâu sắc, sáng suốt và cẩn thận mới không lầm khi tiếp nhận mọi tin tức, báo cáo.
    Ngoài ra, còn có những trường hợp chính tai ta nghe, mắt ta thấy người làm một việc rất dở. Nhưng ta đừng vội kết luận. Vì cái dở ấy biết đâu bên trong của họ có cái dụng ý rất hay, rất lợi hại mà ta chưa lường biết trước được. Ta phải tự hỏi: Trình độ, tánh tình và khuynh hướng người đó như thế nào? Tại sao họ phải làm như vậy? Ðừng háo thắng vội kết luận mà lầm.
    Như thế mới gọi là người biết cẩn thận trong khi tiếp được tin tức, báo cáo và nghe thấy … Làm người có trách nhiệm lãnh đạo các cơ sở quốc gia và tôn giáo đối với đức “cẩn thận” nầy không thể thiếu sót trong khi hành sự.


    CHƯƠNG BA: HÒA
    1/. HÒA: Là hòa nhã, nghĩa là hòa thuận và nhã nhặn, không gây sự hơn thua kình chống với ai.
    Câu thành ngữ: “Dĩ hòa vi quý” dầu ai cũng phải công nhận.
    Vậy chúng ta tìm xét tĩnh từ hòa nhã:

    a/. LỢI ÍCH CỦA SỰ HÒA NHÃ:
    Trong gia đình biết giữ sự hòa nhã, gia đình mới đầm ấm, làm ăn phát đạt. Hàng xóm biết giữ sự hòa nhã mới có tình tương thân tương trợ và dễ nhìn mặt nhau trong khi gặp gỡ. Quốc gia biết giữ sự hòa nhã thì về mặt đối nội, cũng như đối ngoại, quốc gia mới được độc lập phú cường. Và đạo giáo biết giữ sự hòa nhã sức đoàn kết nội bộ mới được chặt chẽ và phát huy giáo lý sáng tỏ… Bình Ðịnh Vương lúc giao tranh với quân nhà Minh, giặc yếu thế nghị hòa. Nhưng các tướng sĩ ta cương quyết đánh. Duy có Nguyễn Trãi ông chấp thuận giải pháp “hòa”, vì ông thấy chỗ lợi hại xa hơn.
    Cho nên một con người không tập tính hòa nhã, tức phải thất cả nhân tâm, không thể làm nên trò trống gì đặng cả và phải sống vất vả suốt đời. Người thiếu đức hòa nhã dù làm dân phu đập sắt “lò rèn” cũng không xong. Vì đập không hòa theo nhịp nhàng, phải bị chạm trán “u đầu”.
    Tôi có một ông bạn tài học cao (Ðại học), tánh ông không “hòa nhã”. Cổ nhân bảo: “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nhưng ông thì trái lại, khi mở lời ra ông lựa những lời lẽ khó khăn chống chỏi luôn. Ðời ông không ai thích, phải sống rày đó mai đây, không nơi yên ổn. Vào ngành giáo ít lâu, ông bị cách chức. Ông ra làm chánh trị không mấy năm lại bị sa thải. Sau cùng ông vào chùa tu Phật, ông cũng bị loại ra luôn. Ông trách xã hội không biết dùng ông. Nhưng ông không thấy bản tánh bất hòa của ông chính là nguyên nhân chiêu lấy quả khổ cho ông thôi. Và đã bao lần nghe lời bạn khuyên, ông cũng muốn hòa để sống yên thân như mọi người. Song, ông muốn hòa mà mỗi khi nói làm điều chi, ông vẫn muốn hơn người, không sợ ai mất công, tốn của và không nhịn nhục ai cả. Và cũng không ăn ở tốt bụng với ai, thì bảo làm sao hòa cho được?
    Một con người biết vụt tắt ngọn lửa tham lam, sân nộ, biết đánh tan tự kiêu, ngã mạn, ích kỷ của mình mới có được đức hòa nhã thật sự. Bằng chẳng đặng vậy, dù cho có hòa cũng chỉ là cái hòa tạm giả đó thôi.
    Nhưng dù sao, phần nhiều các nhà lãnh đạo quốc gia và tôn giáo lúc nào họ cũng không quên ý nghĩa này nên họ luôn lo nghĩ đến vấn đề liên minh và hòa nhã. Vì nó là tiềm năng tiến bộ và ảnh hưởng việc thành bại trong mọi lãnh vực trên đời.

    b/. TAI HẠI CỦA SỰ HÒA:
    Vừa qua chúng ta đã biết sự bất hòa là điều tai hại, nhưng hòa mà kém trí, thiếu dè dặt cũng chẳng phải là việc hoạn họa nhỏ đâu. Bởi lẽ:

    - Hòa bị tập nhiễm:
    Nhìn lên những tấm gương đạo đức đáng để cho chúng ta gần gũi, hòa theo. Nhưng nhìn xuống số người bất hảo, cũng là bài học cho chúng ta đắn đo xa tránh.
    Có số người đặt nặng thái quá về thuyết “hòa nhã”. Thành phần tốt xấu gì ta cũng hòa thân được cả. Ðây là một nhận xét ngớ ngẩn sai lầm và tai hại vô cùng. Bởi trăm thứ hoa, chỉ có hoa sen gần bùn mới chẳng hôi. Và chỉ có Phật Thánh gần đời mới chẳng nhiễm. Hạng phàm nhân đừng tưởng lầm rằng mình như Phật Thánh.
    Sống gần với số người bất hảo, hung bạo, trộm cắp, cờ bạc, rượu trà ta nên hòa nhẫn họ để không chuốc lấy tai vạ. Nhưng bản thân ta và nhất là con em chúng ta không nên để chúng lân la với số người bất hảo mà phải bị hậu quả chẳng tốt. Câu thành ngữ : “Gần mực thì đen, Gần đèn thì sáng”. Và câu chuyện dời nhà ba lần của bậc mẫu nghi xưa đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Sách Minh Tâm cũng đã xác nhận thực tế về vấn đề này.
    - Hòa thiếu sáng suốt bị lừa bịp:
    Khoa học càng ngày thêm tiến bộ thì sự gian xảo của loài người cũng rất tinh vi. Kẻ gian xảo cực độ sẽ giống như người chân thật.
    Thấy cô có nhan sắc, thấy ông có tiền của, thấy cậu có tài năng… kẻ tiểu nhân làm sao không mơ ước và tìm mọi cách lợi dụng, ám hại? Phi trừ một vài trường hợp ngoại lệ của các bậc siêu nhân ra. Nếu ta hòa không sáng suốt sẽ dễ bị kẻ tiểu nhân thừa cơ hội lừa dối ta ngay.
    Con cá mắc câu, con chim vướng bẫy và con người bị lầm lạc. Ðầu tiên họ đâu có cho rằng tại mình dại mà tại miếng mồi ngon, dễ tin, dễ mến nên lầm.
    Chúng ta phải công nhận: “chơn thật hơn gian xảo, hòa nhã hơn oán thù”. Vì hòa thuộc về đức độ. Ta lấy đức độ mà đối xử với đời là rất quí. Nhưng tuyệt đối lấy đức độ áp dụng trong trường hợp hơn thua thì không nên. Bởi đức độ, về phẩm giá của nó quí như vàng ngọc, tài năng ví như sắt thép ; sắt thép vẫn đập vàng ngọc tan nát luôn. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta bác bỏ phần đức độ, chúng ta phải biết : “dụng tài năng thắng vượt mọi hoàn cảnh để tiến đến thành công, dùng đức độ chủ trì việc làm để thành chánh nghĩa”. Như vậy mới không lầm ý hòa nhã theo con đường sáng đẹp mà các bậc siêu nhân đã dạy.

    c/. HẬU QUẢ CỦA SỰ BẤT ÐỒNG Ý KIẾN:
    Trong một gia đình hay một tổ chức có đông thành viên trong khi bàn cãi, ai cũng cho ý kiến mình là đúng rồi tranh luận với nhau. Rốt lại, không ngã ngũ vấn đề, sinh ra buồn chán, đưa đến cảnh đổ vỡ, chia ly.
    Muốn giữ sự hòa nhã để khỏi phải tổn thất quyền lợi chung, ta nên biết: thế nào là “tranh luận” thế nào là “bàn luận”. Tranh luận là dùng mọi lý lẽ tranh hơn thua, cao thấp với đối phương, mục đích làm sao giữ thắng lợi cho mình là đủ. Những cái thất bại, bất lợi của đối phương, mặc kệ họ. Bàn luận là góp ý bàn xét, luận giải rõ ràng để tìm ra phương hướng hay, sáng hầu theo đó mà làm việc, lợi lạc chung, tránh cảnh đổ vỡ, trâu trắng, trâu đen . Ðó là “bàn luận”. Nhưng trong tuồng đời biến dịch, chúng ta khó lượng sắp trước công việc cho toại nguyện được. Có khi việc đó và người đó ta không hạp, nhưng lý trí buộc ta phải “hòa”. Và có khi việc ấy người ấy ta thích, nhưng lý trí buộc ta phải “nghịch”. Do đó, người kém trí, thiếu nghị lực phải lầm lộn, không có biện pháp nào sáng, giải quyết đúng với đạo thường nhiên của chân lý.
    Tóm lại, người biết ép mình nhịn nhục, nương nhau để sống, không tập nhiễm theo thói hư hèn, không bị kẻ gian lừa dối và biết trọng ý kiến hay của kẻ khác. Ðồng thời biết nhận thức được ý nghĩa uẩn khúc của sự hòa nhã để tự vệ cho nhau. Ðó là người biết ý thức được chỗ cao quí của sự hòa nhã vậy.


    CHƯƠNG BỐN: NHẪN
    1/. NHẪN: là nhẫn nhịn, chịu thua, dằn lòng, nhận lãnh mọi khó nhọc.

    a/. NHẪN VỚI CẢNH SỐNG CƠ HÀN NGUY KHỔ:
    Làm người dù ai cũng phải có ít nhiều lập chí. Ðã có lập chí tức phải cố gắng theo đuổi hoài bão của mình. Nhưng việc theo đuổi hoài bão ấy, nào phải một sớm một chiều mà thành công. Phải dồn hết trí lực của ta qua tháng năm dài hạn. Trong khoảng thời gian đó, ta phải chịu lắm cảnh cơ hàn, nguy khổ, nhân thế miệt khinh, chớ nào được yên vui, suôn sẻ tiến đến nấc thang vinh hạnh đâu!
    Em học trò phải chịu vất vả nắng mưa, bài vở mệt óc mới mong đỗ đạt. Các vị anh hùng liệt sĩ phải chịu cảnh tù đày, chết chóc… mới mong đắc thắng khải hoàn. Và nhà đạo sĩ phải sống với cảnh đạm bạc thức khuya, dậy sớm, tra cứu kinh điển, và làm mọi công việc từ bi mới nên đạo quả.
    Ðó là nhẫn với cảnh sống cơ hàn nguy khổ.

    b/. NHẪN VỚI SỰ BẤT ÐỒNG Ý KIẾN VÀ CẢNH ÐỐI XỬ TỆ BẠC CỦA NỘI BỘ:
    Bất cứ một gia đình hay một tổ chức nào cũng vậy, nhiều người, trình độ thấy biết không đồng nhau và đôi khi vì quyền lợi tư riêng nên sinh ra phản nghịch, bạc đãi hơn nữa. Thói thường lúc thạnh thời, có mặt đông đủ; khi nguy khốn người ta viện thế nầy, lý nọ để xa lánh cho yên thân. Do đó nội bộ đi dần đến chỗ chia rẽ, hận thù.
    Ðể cứu vãn vấn đề trở ngại này, ta phải xem nhẹ những gì thuộc về cá nhân kể cả tính mạng của ta cũng thế. Mọi thành kiến cố chấp, hiềm riêng còn mang nặng, chưa phải là một con người đại độ và biết nhẫn trong khi gánh vác trách nhiệm trên vai.
    Hơn thế, còn có những trường hợp bậc cao minh đại độ, phải nhẫn nhịn kẻ nông nỗi để cho nội bộ không bị chia rẽ và làm thương tổn quyền lợi chung.
    Việc bất đồng ý kiến, tranh danh vị, quyền lợi, đối xử tệ bạc, vong ân … từ trong một gia đình, hay một tổ chức, không thể tránh và biến đổi hoàn toàn theo ý ta được. Muốn xây dựng gia đình và tổ chức, nếu bận tâm vấn đề nầy, tức không thể làm nên việc lớn. Ðây là điều cần biết của những người có trách nhiệm lãnh đạo gia đình, quốc gia và tôn giáo.

    c/. NHẪN VỚI TIẾNG THỊ PHI:
    Ði trên đường, thấy việc chi gay mắt, ta dừng chân lại tranh hơn thua, biết bao giờ đi cho đến chốn?
    Trời ở chưa vừa lòng người, Phật Tổ Thích Ca còn bị ngoại đạo bài bác và Chúa Giê Su còn bị kẻ ác chống báng. Nên khi nghe tiếng thị phi, ta đừng bực tức, hãy thản nhiên lo tiến hành công việc và vì chính bản thân ta cũng chưa phải toàn thiện; vẫn còn thay sửa mãi cho hợp với đạo lý. Mình biết mình hơn ai hết. Hãy cố gắng tiến lên theo hoài bão của ta. Việc tranh cãi không lợi ích, chỉ có tai hại thôi. Bởi khi tư tưởng con người đã ấn tượng một điều gì rồi, người ta thấy biết chỉ có bấy nhiêu thôi, khó làm cho tư tưởng của họ khác hơn nữa được. Câu chuyện “mất búa” (1) đã chứng minh cho lý lẽ nầy.
    Cho nên người trầm tĩnh, kiến thức cao rộng, ít chịu tranh cãi với ai trong những việc không đáng. Hãy vui vẻ nhẫn nhịn và lấy đó làm bài học kinh nghiệm, chuẩn bị cho ta đủ điều kiện để đi qua một quãng đường đầy chông gai, lang sói.
    Tóm lại, làm người có chí lớn phải biết nhẫn với cảnh sống cơ hàn, nguy khổ; nhẫn với chỗ bất đồng ý kiến trong nội bộ và cảnh đối xử tệ bạc của kẻ dưới, người trên và nhẫn với tiếng thị phi phải trái. Hãy dũng mãnh đi qua, đừng ngoái cổ nhìn lại những gì chẳng đẹp, làm phiền rộn tâm ta trong khi đang lập chí. Ðó là ý nghĩa của chữ “nhẫn” mà người xưa đã dạy :
    “Chữ nhẫn là chữ tượng vàng,

    Nếu ai biết nhẫn rộng đàng dễ đi”.

    (1) Xưa có ông kia mất một chiếc búa. Ông nghi cho hàng xóm lấy trộm. Ông nhìn người hàng xóm với cặp mắt căm hờn. Người hàng xóm thấy sợ nên tìm cách tránh ông. Ông mới nghĩ: thằng này ở đời rất xấu. Tư tưởng ấy mãi ám ảnh ông.
    Một hôm, ông lục lọi tìm tòi trong nhà, chợt ông gặp được chiếc búa. Ông mới thương cho chú hàng xóm bị nghi oan. Ông nghĩ: chú hàng xóm ở đời cũng có cái tốt, chớ nào xấu hết đâu.
    Tư tưởng hiền lành, không khí nhẹ nhàng đã trở lại với ông như trước.


    CHƯƠNG NĂM: LỄ
    LỄ: Lễ phép, tức lễ độ, phép tắc, cách ăn, nói, đi, đứng, nằm, ngồi và xử sự …
    Một con người dù tài năng cao giỏi mà thiếu lễ phép, nghĩa là không biết kính trên, nhịn dưới, tự đắc, khoe khoang, nói năng càng bướng, điệu bộ khó coi. Người như thế là thiếu lễ độ và không mấy ai ưa. Họ đã đặt mình ngoài khuôn khổ đạo đức và lòng kính mến của mọi người.
    Lễ cũng là một hạt giống phát sinh đức quí. Người có hạt giống quí, biết lo vun quén sớm muộn gì cũng được nở ra đóa hoa thơm đẹp cho nhân thế mến yêu.
    Một tu sĩ đang nằm trên võng, gặp bác nông phu gặt đầu chào hỏi, tu sĩ liền ngồi dậy đáp lễ… Khiến cho bác nông phu đem lòng kính mến và ân cần giới thiệu với người khác. Thế là bậc chân tu. Và một học sinh nghèo, quen tánh lễ phép với mọi người nên được thầy, cô thương tình giúp em ăn học đỗ đạt. Trái lại, một ông bạn, cử chỉ hách dịch, ai chào hỏi, ông chẳng mấy quan tâm đến việc đáp lễ. Ông thất cả nhân tâm, không ai mến.
    Bởi vậy, Ðức Khổng Thánh đi ra đường gặp trẻ con chào hỏi, Ngài liền dở nón đáp lễ. Và Ðức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo không để cho ai bái lạy Ngài và khi có người thi lễ Ngài vẫn gật đầu đáp lễ luôn.
    Lịch sử cho biết: dẫu cho bậc tài ba xuất chúng mà thiếu lễ, cũng không thể làm nên công nghiệp đáng kính. Mà dù có được thành công, thành công ấy vẫn đi ngoài chánh nghĩa. Và chúng ta cũng đừng nghĩ rằng, lúc hợp nhóm trước giới quan trường và khi tham dự lễ các nơi lăng miếu, ta mới giữ lễ. Còn những việc xuất xử hằng ngày, như: chào hỏi không dở nón, ngồi trên xe chỏi chân nói chuyện với người cao niên hoặc mặc quần cụt, áo lót, trần trụi tiếp chuyện với khách v.v… Hành động này tuy thông thường nhưng vẫn làm cho người đánh giá ta là con người vô lễ và sự mất giáo dục của gia đình từ thuở ấu thơ. Và nói “bô lô ba la” không đúng trường hợp, lớn tiếng cười cợt thái quá, cử chỉ không đằm thắm, hay tranh việc nhỏ, kém lễ… Người có trách nhiệm lãnh đạo gia đình, quốc gia và tôn giáo nên quan tâm tập sửa điều này, kẻo để cấp dưới khinh lờn vì ta không đủ tư cách điều khiển họ.
    Thế nên chữ lễ làm người bất cứ đứng trong lãnh vực nào, thường nhân hay ở trong địa vị quan trọng, không thể thiếu lễ được. Chữ lễ phải từ trong tính chất chơn thật mới có phẩm giá đáng kính. Ngược lại, nó chỉ là thứ gian trá, đáng khinh


    CHƯƠNG SÁU, BẢY: - KHẨN, - HOÃN

    KHẨN, HOÃN: Khẩn là khẩn cấp, cần kíp; hoãn là chậm lại, không gấp.
    Từ giới nông phu, người có trách nhiệm với gia đình và tôn giáo, phải biết việc nào khẩn cấp, việc nào hoãn đãi, việc nào chính, việc nào phụ, trước sau có thứ lớp. Nếu không biết như vậy, việc làm phức tạp, khó thành công.
    Anh nông phu, không biết khẩn, hoãn để gieo giống cho hợp thời tiết, phải bị tổn thất mùa vụ. Người có trách nhiệm với quốc gia, không biết dùng khẩn, hoãn không thể áp dụng kế sách : cứu quốc và kiến quốc hợp với thời thế. Và người có trách nhiệm với tôn giáo, không biết dùng khẩn, hoãn cải thiện, tức không đạt đạo, khó thể chỉnh lý giáo điều đúng với chánh pháp, và đạo không tiến bộ sáng tỏ.
    Tuy nhiên, kinh nghiệm trong việc xuất xử hằng ngày, chúng ta phải biết: Cơn nóng giận vì một việc không đáng kể, nếu ta chẳng dằn lòng, khẩn cấp gây cuộc cho hả giận. Qua cơn giận dữ, đôi khi ta tự thấy hối hận. Và nếu ta biết dùng hoãn đãi, chờ qua cơn nóng giận sẽ giải quyết, hoặc có thể bỏ qua luôn. Như thế chẳng mất lòng nhau và không vương hậu quả bất lành.
    Chúng ta nên biết: việc cứu hỏa phải khẩn cấp; việc gỡ cuồn tơ rối, phải hoãn đãi. Ðây là điều trọng yếu, dù ai cũng phải quan tâm.
    Xưa Lưu Bị hội kiến với Khổng Minh, Khổng Minh đưa ra kế sách bình định đất nước. Trong đó có khẩn cấp chiếm giữ căn cứ địa (Tây Thục) để dung thân trong thế ba chân vạc. Và hoãn đãi, củng cố nội bộ, chờ cơ hội thuận tiện thống nhất lãnh thổ Trung Hoa… Nghe xong, Lưu Bị toát mồ hôi, vì biết mình thất sách trong thời gian qua.
    Cuộc cách mạng lật đổ độc tài Ngô Ðình Diệm ngày 11-11-1960, Ủy Ban Cách Mạng không biết áp dụng chiến thuật khẩn cấp, thanh toán địch bằng cách chớp nhoáng, cứ dây dưa điều đình với họ Ngô… nên lầm kế giục hoãn cầu mưu. Ðợi đến khi viện binh của Diệm các nơi kéo về. Bất ngờ các tướng cách mạng trở tay không kịp, bị tóm cổ ! Ðó là các tướng cách mạng không biết dùng “khẩn cấp”, phải bị thảm bại. Ngô Ðình Diệm biết dùng “hoãn đãi” nên được thành công.
    Tóm lại, từ việc nông nghiệp, gia đình, quốc gia và tôn giáo, luôn đến cách xử sự hằng ngày, ta nên biết: việc nào khẩn cấp, việc nào hoãn đãi, đâu đó có thứ lớp, trước sau chu đáo. Thế mới tránh khỏi cảnh hư hại đáng tiếc và những bối rối, có thể diễn ra thêm.


    CHƯƠNG TÁM: KHIÊM
    KHIÊM: Là khiêm tốn, nhún nhường, đặt mình xuống thấp, không kiêu hãnh, tự đắc, khoe khoang.
    Làm người cần phải tập luyện cho mình có được ít nhiều tài năng, vì nó có lợi cho mình và cho đời. Nếu chẳng thế, phải hoang phí một kiếp con người rất uổng.
    Trạng thái con người có ba thời kỳ:
    - Thứ nhất: Người chưa có tài, thường rụt rè, tự ti, e ngại, không dám tự kiêu.
    - Thứ hai: Lúc ta có tài lưng lửng, tánh hay ngứa nghề, tự cao háo thắng.
    - Thứ ba: Người có thực tài, khí huyết đã bình, tâm tánh đã định nên khi làm việc chi cũng tùy theo duyên cảnh mà ứng dụng. Và tánh hay nhịn nhường, không thích tranh luận, khoe khoang như Ðức Lão Tử nói “Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ háo tranh” . ( Thanh Tịnh Kinh)
    Thời gian (1946) nơi chiến khu 7 (miền Ðông), Ðức Huỳnh Giáo Chủ và một ít phòng vệ ở tạm trong một căn nhà thường dân. Nhà có đứa bé gái câm, độ 7 tuổi. Ngày nọ chuẩn bị cuộc di quân, Giáo Chủ tay cầm cây roi trúc, chận đánh đứa bé một roi, nó hoảng sợ la lên và biết nói luôn.
    Thấy chuyện lạ nầy, mọi người trong nhà vô cùng khen ngợi. Và mẹ đứa bé nói: Từ lâu chỉ nghe tiếng, bây giờ mới thấy tài cao phép lạ của Ông Tư. Giáo Chủ ôn tồn nói: “tại thím không biết cách dạy em bé, nào có chi đâu”.
    Rồi đó, Giáo Chủ từ giả lên đường trước sự cảm ơn và muôn vàn kính phục của một gia đình nơi làng vắng.
    Cho nên, mục đích của tài năng là để phụng sự cho đồng bào và nhân loại. Chớ không phải để làm thỏa mãn lòng tham vọng, kiêu hãnh của con người.
    Ðừng háo danh, ham lợi, đảm đương trách nhiệm quá khả năng mình, làm tổn hại quyền lợi chung. Và khiến cho những người hữu tài bên cạnh ta bực tức, miệt khinh. Nếu xét thấy ta bất tài nên sẵn sàng nhượng trọng trách cho những người có tài đức hơn ta kiêm nhiệm. Người đời thường nói: Không có thứ bực bội nào bằng kém tài đức mà háo danh, ham lợi, cản ngang như tấm vách dừng, khiến cho cả đám không làm ăn và tiến bộ gì được cả.
    Ðể kết luận đức khiêm tốn, ta nên nhớ lời Ðại Sư Lý Khánh Vân dạy Lý Công Uẩn trước khi lên đường vì đại nghĩa. Sư nói : “Dẫu cho anh hùng cái thế, lực địch vạn nhân đi nữa, mà nuôi lòng tự phụ dẫy đầy, thì không thể làm nên việc chi lớn đặng”.


    CHƯƠNG CHÍN: NGHĨA

    NGHĨA: Là lối xử sự phải đường hào hiệp, là nghĩa vụ phận sự phải làm.
    Một gia đình khi bối rối, một quốc gia lúc khuynh nguy và một tôn giáo đang gặp hồi pháp nạn…Người con, dân và tín đồ phải có nghĩa vụ bảo vệ và phải đặt nặng nghĩa vụ trên tất cả đời mình. Ðó là trách nhiệm làm người không ai có thể chối cãi được.
    Năm 1418, Lý Phụng Tiên (vị anh hùng trẻ tuổi của dân tộc) đã đứng lên phất cờ chính nghĩa đánh quân nhà Minh, giải phóng quốc gia khỏi ách nô lệ của ngoại xâm. Phụng Tiên bàn với chư tướng nên gia nhập chủ lực cùng Lê Lợi để kháng địch. Chư tướng không đồng ý và cho rằng : Tài của Phụng Tiên không kém Lê Lợi, chúng ta cứ lo kháng chiến, nếu toàn thắng, thì ban sư vui hưởng; bằng yếu thế, chừng đó sẽ gia nhập với Lê Lợi cũng chẳng muộn. Nay chúng ta dại gì chịu dưới quyền điều khiển của Lê Lợi. Chư tướng đều tán đồng ý kiến ấy. Nhưng Lý Phụng Tiên không đồng ý và nói: “Người anh hùng vì đại nghĩa, chỉ biết đánh xâm lăng giành lại chủ quyền độc lập cho quốc gia, chớ không thể có dụng ý mượn tiếng chánh nghĩa để mưu đồ danh lợi cho cá nhân mình. Lương tâm ta không cho phép làm như vậy được…” Tất cả chư tướng nghe lời chánh đáng của Lý Phụng Tiên, thảy đều kính phục và tuân lệnh.
    Xưa Tổ Ca Diếp trên đường nghĩa vụ, truyền giáo ở phương xa. Khi Ðức Phật nhập niết bàn, Ca Diếp về không kịp, báu thân Phật đã đặt vào kim quan. Ca Diếp đi chung quanh kim quan ba vòng đầm đìa giọt lụy. Từ trong kim quan Phật hiện hai bàn chân ra, Tổ Ca Diếp ôm bàn chân Phật hôn mà đau xót vô cùng.
    Xem đây chúng ta thấy nghĩa vụ đối với quốc gia, truyền giáo và thầy trò sâu đậm như thế nào rồi.
    Làm người không ý thức phần nào nghĩa vụ, quanh năm chỉ biết chạy theo chén cơm manh áo riêng mình, là thiếu đạo nghĩa, sống ngoài tổ chức của xã hội loài người. Ðây gần như đa số mà sách Thánh Hiền, tôn giáo và ngành giáo dục quốc gia không quên cảnh tỉnh số người phi nghĩa nầy.
    Một gia đình lúc nguy biến, người con hiếu nghĩa bao giờ cũng có mặt, chịu tốn công, hao của, nhường nhịn lo cứu vãn cảnh nguy nàn. Ngược lại, cũng hiếm kẻ vô lương tâm, thiếu đạo nghĩa, luôn tìm mọi cách tránh lách, chờ chừng nào có ăn, có hưởng mới chường mặt đến “huênh hoang” đủ thứ !
    Còn một điều đáng trách nữa là: Sao tạo hóa lắm nỗi éo le, sanh chi loại muỗi mòng ngày núp trong bóng tối, đêm bay ra hút máu no nê ! Thật là loại ác ôn ! Mà trong chỗ sình lầy bưng trấp chúng ngày càng sinh hóa ra nhiều ; chớ không diệt mất cho đời bớt đi đau khổ! Còn những con chim phượng, chim oanh sao không sinh nở thêm để hót lên những tiếng nhẹ nhàng êm ả cho đời thưởng thức cảnh thơ mộng nhàn vui !
    Và Nghĩa cũng là một trong năm đạo thường hằng của con người theo luân lý Á Ðông. Người có trách nhiệm của bề trên phải biết lấy Nghĩa xử sự với kẻ dưới. Không nên vì quyền lợi cá nhân, hay vì một lý do nào mà cư xử xấu bụng với nhau. Những kẻ đã tin, đóng góp trí, lực với mình để theo đuổi một lý tưởng, ta lại nỡ đang tâm cư xử tệ bạc với họ, thì trời đất chẳng dung tha. Và lịch sử không thể tư vị đâu.
    Ðể kết luận danh từ nghĩa vụ nầy, chúng ta nên lưu ý lời của vị anh hùng “Kiếm bạc Kiên Giang…” khi hợp mặt với cụ Huỳnh Mẫn Ðạt (làm quan tuần phủ An Giang thời vua Tự Ðức), Ngài nói với cụ Ðạt : “… Kẻ thất phu được đánh giá xuyên qua hành động diệt giặc cứu nước… Với tướng sĩ thì cái Dũng, cái Trí, cái Nghĩa khắc phục người tướng sĩ, hơn là tiếng hò hét dõng dạc, ông à!”


    CHƯƠNG MƯỜI: LIÊM
    LIÊM: Là liêm chính, nghĩa là thanh liêm và chính trực, không tham.
    Những cái nào công lý cho phép ta được quyền sở hữu bảo vệ tài vật chính thức của ta, là liêm chính; ngược lại là tham nhũng.
    A làm công trong một xưởng trà, lương mỗi tháng ba mươi đồng, A lãnh đủ. Ngoài ra A không khuất lấp lộn lưng đem về nhà. Ðó là A liêm chính. B trồng một cây mận, không để tàn nhánh gie qua ranh đất người. Ðó là B chánh trực ! Ngược lại, là thiếu thanh liêm và chánh trực.
    Trên đây là hạng người thường nhân. Tiếp theo xin bàn thêm về số người ngồi trên cổ chiếu địa vị quốc gia và tôn giáo.
    Lý tự nhiên, trái một cây, có ngọt có chua; con một mẹ, có ngu có trí, thì bất cứ trong một đoàn thể nào cũng vẫn có tà, có chánh. Chánh trong sạch ngay thẳng, tà tham ác vô liêm.
    Có những kẻ được đứng trên địa vị, bám chặt cái địa vị, rồi tha hồ cho lòng ham muốn khiến sai. Họ dùng đủ trăm mưu ngàn kế, lừa dối mọi người để sống bằng giọt mồ hôi nước mắt của số người dại khờ, mê tín!
    Vì chỗ mất liêm chính nầy mà bè bạn tan rã, đất nước điêu linh và cửa thiền môn nghiêng ngửa … Ðời có mấy ai được như các cụ Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm… nặng về đức liêm chính, rời khỏi quan trường trở về vui thú điền viên theo tinh thần cao siêu Phật giáo.
    Và như trường hợp Hớn Chung Ly học đạo với Thầy. Thầy dạy cho ông phép điểm đá thành vàng. Nghĩa là luyện một tảng đá thành khối vàng to; mặc sức mà xài phí ! Người phàm tục ai lại chẳng ham. Nhưng Chung Ly bạch thầy : Vàng nầy xài được thời gian bao lâu ? Thầy đáp : quá năm trăm năm, vàng ấy sẽ hoàn lại đá. Chung Ly không học phép đó. Vì ông cho rằng : hiện tại có lợi cho mình mà sau nầy có hại cho đời.
    Hớn Chung Ly đại biểu cho số người chơn tu, đức liêm chính tăng cao tột độ. Ðời nay có mấy ai, nhất là giới đạo sĩ có theo kịp phần nào về đức liêm chính nói trên chăng?
    Cho nên giới quan trường hoang phí ngân quỹ quốc gia và nhà đạo sĩ dung dưỡng riêng mình, hủy hoại tiền của bá tánh thái quá, không thể gọi là liêm chính. Và cũng đừng cho rằng, ta có đức để kẻ khác hao công tốn của phục dịch ta nhiều mà giảm đức “liêm chính”. Thiếu đức liêm chính tức phi chánh nghĩa và chánh đạo. Nhưng, chán ngán thay cho thế thái nhân tình: phường gian tặc kỵ bóng trăng, kẻ phi liêm chính không thích gần người tài đức vì sợ trở ngại cho hành động đê hèn của họ.
    Tựu trung, dù đứng trong lãnh vực nào, đời hay đạo ta cũng phải biết giữ phẩm giá của mình bằng đức “Liêm chính”. Hãy biết cái thính giác bén hơi đồng và bàn tay dính nhám của con thằn lằn để cho nước được phú cường, Ðạo được hưng thịnh. Và để cho tòa án lương tâm không tuyên án khổ sai chung thân và sách sử lưu lại những cái chẳng đẹp của ta về cách sử dụng đức “Liêm chính” nầy.


    CHƯƠNG MƯỜI MỘT: DŨNG
    DŨNG: Là dũng cảm, gan mật, không khiếp sợ đứng trước một thế lực và sự nguy hiểm nào.
    Xưa nay những bậc trung nghĩa, chứng đắc quả vị Phật, Thần là những con người đầy đủ dũng cảm mà nên.
    Thi nhân Nguyễn Xuân Thiếp, khí phách hiên ngang, đầy dũng cảm ngâm lên vần thơ tuyệt mệnh trước giờ phút chết . Trần Huyền Trang hoàn thành công tác chuyến đi thỉnh kinh Tây phương, nhờ tính dũng cảm mà được thành công.
    Những bậc đáng kính trên không phải ngẫu nhiên các Ngài có được tính dũng cảm. Ðức tính ấy của các Ngài đã được hun đúc trong lò đạo đức, trải qua bao tháng năm dài hạn. Trái lại, những kẻ có bẩm sinh dũng cảm, không được rèn luyện trong lò đạo đức, thứ dũng cảm đó là thứ dũng cảm của loại sói hùm, gây tai hại cho đời rất lớn.
    Ngoài ý nghĩa dũng cảm kể trên, còn có một ý nghĩa quan trọng nữa là : tự thắng được mọi cảm giác và làm chủ được tâm mình, mới thật là Dũng. Có thể nói đây một con người, dùng uy quyền hâm dọa, không khiếp sợ; khiêu khích nhục mạ, không tức giận; dụng tiền của, mỹ nhân câu nhữ, chẳng ham. Một con người có đủ Dũng như vậy rất khó thể thắng và làm lay chuyển lòng dạ họ được. Và Dũng cũng là một trong những yếu tố để đạt đến thành công. Song ta phải biết áp dụng cho đúng với trường hợp. Trường hợp nào nên Dũng, trường hợp nào không nên Dũng. Nếu ta áp dụng lầm lộn thì tai hại vô cùng.
    Tóm lại, ý nghĩa của biến từ “Dũng”, ta nên lưu ý lời của Tô Ðông Pha, một nhân vật hữu danh đời nhà Tống (Trung Hoa ) , ông nói :
    Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng nhân tình khó thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục thì đứng dậy vươn mình xốc tới đánh… Ðó chưa phải là Dũng. Bậc đại dũng trong thiên hạ trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng chẳng kinh, vô cớ gặp những điều bất trắc cũng chẳng giận . Thế là nhờ ở chỗ hoài bão và lập chí của họ rất lớn vậy”.


    CHƯƠNG MƯỜI HAI: BÌNH

    BÌNH: Có hai nghĩa:
    1/. Bình là bình đẳng, bằng nhau, không ai hơn kém. Nghĩa là mọi người công dân đều được sống bình đẳng trước pháp luật, như: quyền nói, quyền làm, quyền bảo vệ tài sản, tánh mạng và quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình. Và tùy khả năng được hưởng quyền lợi, phẩm cấp như nhau; bất cứ trên bình diện quốc gia hay tôn giáo, nam hay nữ…
    Chế độ phong kiến, hủ bại, bất bình đẳng xưa đã bị các cuộc cách mạng dân tộc đẩy lui bên vệ đường tiến bộ của nhân loại từ lâu.
    Cách đây, hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Ðức Thích Ca Mâu Ni chủ trương cuộc cách mạng tư tưởng. Ngài đem thuyết “Bình đẳng” phá tan giai cấp bất bình đẳng của xã hội Ấn Ðộ đương thời. Mặc dù huyền năng Ðức Phật hữu dư nhưng giai cấp bất bình đẳng đã trở thành thói quen trong lòng người dân Ấn và trên thế giới nên nhân loại chưa hoàn toàn ý thức cuộc cách mạng tư tưởng này.
    Hôm nay trình độ dân trí đã tiến bộ, người công dân cũng như Phật tử phải triệt để tuân hành cuộc cách mạng tư tưởng do Ðức Phật đề ra, làm cho giữa con người với con người, không còn đối xử nhau tệ bạc và mất phép lịch sự về vấn đề “bình đẳng”.
    Thể hiện chủ trương bình đẳng nầy, Ðức Phật Thầy Tây An với đôi trâu (sấm sét) ra đồng cày ruộng cùng chung sống với các đệ tử, để nói lên tinh thần bình đẳng cao độ của vị Giáo Tổ Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
    Nhà chỉ huy quân sự, từ việc: ăn, ở, ngủ, nghỉ… như binh sĩ để nêu cao tinh thần bình đẳng và tình thương đồng đội trong những ngày sống vất vả và chịu làn tên mũi đạn nơi chiến trận. Cấp lãnh đạo tôn giáo cùng ăn ngủ chung, chia sẻ cảnh cơ hàn với chư tín đồ hầu thể hiện tinh thần bình đẳng, giữa thầy trò và huynh đệ quần tụ bên nhau trong những ngày gian nan tu học. Ðó là chánh nghĩa, chơn tu. Ngược lại, cấp lãnh đạo thì tiện nghi đầy đủ, ăn cao lương mỹ vị, binh sĩ và tín đồ thì thiếu hụt, sống quấy quá qua ngày. Ðây trái ngược với thuyết bình đẳng, mất cả lương tâm, mị dân và tà giáo. Bậc kiến thức cao rộng và uyên thâm đạo lý, nhất định không ai chấp nhận điều nầy!
    Có một điều đáng buồn hơn nữa là phần nhiều người ta sống với bản năng ích kỷ của mình, chớ không sống theo lý trí đại đồng. Mọi tư tưởng đều sai với chủ thuyết “bình đẳng”, nghĩa là người ta chỉ biết lo cho bản thân và bênh vực gia đình mình thôi. Ngoài ra không động lòng nhân ái ban bố ân huệ cho ai cả, mặc dù họ đã mục kích cảnh đau khổ của mọi người.
    Nạn quân phiệt, bất công, tham ác là loài lang sói làm xáo trộn sự đoàn kết của xóm giềng; là những con giặc tiêu diệt lá cờ độc lập quốc gia và ngọn đèn trí huệ của Phật giáo. Chính đây cũng là nguyên nhân làm cho những nhà ái quốc và những bậc thâm nhập đạo từ bi phải đau thắt con tim qua bao thăng trầm của dân tộc.
    Nhưng đời có mấy ai lưu ý hành động trái lẽ như đã nói trên. Phần đông người ta vẫn xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó, cúi đầu vâng dạ, trợ lực cho kẻ mị dân, tà giáo để tác hại muôn người. Biết bao giờ dân trí và đồ trí được tăng cao trình độ hầu đánh tan những chướng ngại cho bước tiến của dân tộc đi đến chỗ “Bình đẳng” và chỗ “chí ư chí thiện” như chư Phật Thánh đã dạy.
    Tóm lại, người có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia và tôn giáo còn bộ óc độc tài, chuyên quyền lấn áp kẻ yếu hèn, cô thế là đi ngược với tinh thần “Bình đẳng” do chủ trương của Phật đề ra. Và công cuộc cách mạng chính nghĩa của quốc gia, dân tộc.
    2/. Bình: Cũng gọi là “Bình thường” hay “Trung bình”. Nghĩa là không thái quá, bất cập, Khổng Thánh gọi là “Trung dung”, Phật giáo gọi là “Trung đạo”. Tức là một giải pháp vừa với khả năng con người, hợp với thực tế và chân lý. Trái lại, là viễn vông, mị dân và tà giáo.
    Chúng ta có thể nói: một cây cân mất song bằng là bộ phận cân đó bị hư. Một con người mất bình thường (thái quá bất cập), bộ óc quá khích động, tê liệt thần kinh và tâm mất đi bình tĩnh, sáng suốt .
    Cho nên, lo nghĩ, siêng năng, gắp rút, kỹ lưỡng lắm là thái quá; vô tư, biếng nhác, chậm trể, dơ bẩn quá là bất cập. Nói nhiều, cười cợt, ưu đãi lắm là thái quá ; vô tình, lãnh đạm, nghiêm khắc lắm là bất cập. Cũng như thuốc, trên liều lượng là thái quá. Ngược lại là bất cập…
    Tóm lại, người có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia và tôn giáo, không đủ lý trí sáng suốt và nghị lực đánh tan bản năng ích kỷ hèn kém của mình và không thật sự thi hành chủ thuyết “Bình đẳng” là sai chính nghĩa, là tà giáo. Nhất định không chóng thì chầy, công phu phải đổ vỡ đó thôi!


    CHƯƠNG MƯỜI BA: KIỆM
    KIỆM: Là tiết kiệm, dành dụm . Ðộng từ kiệm ở đây gồm có :

    1/. TIẾT KIỆM NGÂN QUỸ:
    Là tiêu phí dè dặt, vừa chừng, không ăn xài chưng dọn thái quá; vì ăn xài chưng dọn thái quá, tức phải cần tiền. Cần tiền là nguyên nhân đưa đến chỗ : tham ác, đoạn nghĩa, dứt tình, mất trung, mất hiếu, hư hoại quốc gia và đạo pháp.v.v…
    Kinh nghiệm thực tế: người không giữ đức tiết kiệm, gia đình nghèo khổ, tổ chức tan rã, quốc gia điêu đứng và đạo pháp ngửa nghiêng. Nhưng ở đời ít ai quan tâm đến việc thông thường nầy !
    Chuyện hoang phí lớn có tai hại, người ta dễ biết, còn việc hoang phí nhỏ ít ai để ý đến. Người ta đâu có ngờ, nhiều lỗ thủng nhỏ sẽ làm đắm con thuyền lớn kia mà. Ðem kinh nghiệm việc gia đình mà nói : nhất là người đàn bà cầm cán trong gia đình thiếu đức cần kiệm, hoang phí tiền của không đúng nơi đúng chỗ ta cho là việc nhỏ. Nhưng đây là nguyên nhân nghèo khổ cho gia đình khôn lường được. Chính tật nhỏ ấy ta không sớm trừ, lâu ngày sẽ thành tật xấu to.
    Giới quan trường mất đức thanh liêm, nhà đạo sĩ phi chánh giáo phần lớn không tiết kiệm ngân quỹ quốc gia và tiền của bá tánh mà thôi.
    Thế nên các bậc trung thần, Hiền Thánh và chơn tu phải sống với cảnh đơn giản để ức chế nguyên nhân tội lỗi do tiền của gây ra. Và lưu lại tấm gương trong lành cho đời sau noi dấu.
    Nhưng tiết kiệm và keo kiệt ý nghĩa vẫn khác nhau. Tiết kiệm là tiêu xài chừng mực, đúng chỗ, dám làm việc nhân nghĩa giúp đời. Keo kiệt là bo bo giữ của, xem tiền của hơn bản thân mình và không dám giúp đỡ ai.

    2/. TIẾT KIỆM THỜI GIAN:
    Cổ nhân nói: “Nhứt thốn quang âm nhứt thốn kim”. (Một tấc thời gian một tấc vàng). Thời gian quí báu hơn vàng ngọc. Người có chí lập thân không dám hoang phí thời gian. Họ luôn tiết kiệm dồn thời gian vào những công trình cần cù, lặng lẽ để hoàn thành một dự án theo lý tưởng duy nhứt của họ. Trái lại, những kẻ không lập chí, thiếu sáng suốt, tánh như lục bình trôi sông thì họ xem nhẹ thời gian, vui theo bàn cờ, chung rượu, rong chơi, tán nhảm, và học lóm.v.v…Rốt lại phải đi theo dòng sông tiêu cực mà số người nông cạn cho đây là định mệnh an bày!

    3/. TIẾT KIỆM SỨC KHỎE:
    Sức khỏe là điều quan trọng của đời người. Và sức khỏe cũng là một trong ba yếu tố: cơm áo, khiếu thông minh và sức khỏe, tối cần của kẻ sĩ, những nhà lập quốc và truyền giáo.
    Tai hại về sự ép xác, hành thân, bỏ ăn, mất ngủ làm tổn hại cho sức khỏe, là sự trở ngại lớn cho công cuộc lập thân. Người kiến thức rộng, không ai chấp nhận điều nầy.
    Cho nên đạo Thánh có Trung dung, đạo Tiên có phép trường sanh, Phật giáo hành theo Trung đạo. Ðây là một trong những yếu tố gìn giữ sức khỏe của con người. Ðời hay đạo muốn tiến thân không thể thiếu ba yếu tố căn bản kể trên.

    4/. TIẾT KIỆM TINH THẦN:
    Tinh thần là phần sáng suốt trong tâm trí con người để hiểu biết, phân biệt lẽ phải trái, lợi hại. Người biết tiết kiệm tinh thần không để tinh thần tản mác bởi những chuyện không đâu. Nói rõ hơn là không để cho đầu óc ta bận rộn trong chỗ bày khoe sang đẹp, thương ghét, phiền não.v.v… Ðang khi suy tư một công thức và bàn chuyện ở đây mà gặp con gà cũng nói, gặp bé Tý cũng ghẹo và nói chen vào những chuyện ngoài đề, không cần thiết. Người để cho tinh thần bị tản mác như thế là người thiếu lập chí, thấy ai làm chuyện chi cũng bắt chước làm theo, nhưng làm cho có chừng, rốt lại công phu bị cáo chung theo vỡ tuồng tuyệt vọng.
    Tinh thần không bị tản mác mới được tập trung đầy đủ và mạnh sáng. Ðây là điều tối quan trọng trong việc chuẩn bị tiến lên đến mục phiêu chính yếu thành công.
    Những nhà phát minh khoa học, quanh năm cặm cụi trong phòng thí nghiệm không tiếp xúc bên ngoài. Ðó cũng là phương pháp tập trung tinh thần để hoàn thành một dự án cần thiết phụng sự cho nhân loại. Những thi nhân nổi tiếng, những nhà chính trị đại tài và những nhà tu đã thành công siêu vượt đều từ trong chỗ tập trung tinh thần đầy đủ mà nên.
    Người biết tiết kiệm và tập trung không để cho tinh thần bị tản mác là người đã tỏ ngộ được mối manh, phát huy trí huệ và sẽ nắm được thành công căn bản. Và tiết kiệm tinh thần cũng là không làm cho loạn động, phải dồn tinh thần vào phép tư duy làm việc để đeo đuổi theo hoài bão của ta. Nhưng ta phải biết sử dụng tinh thần cho hợp lý; giờ nào làm việc, giờ nào nghỉ ngơi đúng phương pháp, không để cho tinh thần làm việc thái quá sẽ rối loạn đầu óc. Vì sau một cơn thất vọng cực độ, một lúc tham thiền xa chánh định, hành giả có thể bị mất trí ngay.
    Tóm lại, tiết kiệm là nguyên nhân no ấm gia đình, thành công trên bước lập thân, làm tiến bộ quốc gia và chánh đạo. Ngược lại, gia đình nghèo khổ, bước tiến thân tan vỡ, khuynh đảo quốc gia và tôn giáo bị nghiêng ngửa.v.v… Người có trách nhiệm với gia đình, quốc gia và tôn giáo phải rất mực quan tâm về động từ “tiết kiệm” như đã bàn xét ở trên.

     
  2. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    CHƯƠNG MƯỜI BỐN: TÍN

    TÍN: Tín gồm có.

    1/. TÍN CHƠN THẬT: Tín là cái đức chơn thật của con người, không lừa phỉnh dối gạt ai. Theo đạo lý: người biết giữ chữ Tín, là phần tử tốt. Viện sở phát triển lâu bền; chánh thể trở thành chính nghĩa, dân theo. Và tôn giáo biết giữ chữ tín, là chánh đạo, hiển đạt quả vị. Trái lại, là xấu, sa sút, phi chánh đạo.
    Ý thức tầm quan trọng nầy, cổ nhân có câu: “Nhơn vô tín bất lập”. Thật vậy, người thiếu chơn thật không thể làm nên việc gì được cả.
    Xưa vua Tề ỷ mạnh bắt vua Lỗ phải dâng cái đỉnh quý, vua Lỗ yếu thế đành chịu. Nhưng làm cái đỉnh giả, sai Nhạc Chính đem dâng. Nhạc Chính tâu với vua Lỗ : nhà vua quý cái đỉnh ấy thế nào, hạ thần cũng quý chữ Tín của hạ thần thế ấy. Vua Lỗ đành phải dâng cái đỉnh thật. Bởi vậy, người biết quý chữ tín mới được mọi người tin dùng! Ngược lại, dù đem thân làm tôi đòi cũng chẳng ai tin. Tưởng hứa suông, nói láo cho vui và làm vài chuyện chẩn chẹt nhỏ cũng chẳng có sao, vì không
    phải trộm cướp, sát nhân mà có tội. Chớ ta đâu có ngờ, ấy là một điều nguy hại cho đời ta lắm đó. Nhất là cấp lãnh đạo quốc gia lừa phỉnh chúng dân, là nguyên nhân phản loạn, thù địch chớ chẳng phải việc nhỏ đâu!
    Tôi có một ông bạn đi chợ mua đồ, giá cả không xong, bước chơn đi, cô chủ tiệm nói : Chỗ nào bán giá như cháu, chú trở lại mua dùm cháu nhé ! Ông bạn gật đầu, đồng ý.
    Rồi ông đi đến chỗ nào giá cả cũng như vậy. Ông nghĩ, chỗ mình hứa hồi nãy trở lại thì xa, mua ở đây tiện đường về, gần hơn. Nhưng ông lại nghĩ : mình đã lỡ hứa với người nên lương tâm không cho phép ông thất tín, phải trở lại mua với người mà ông đã hứa. Thế nên đức lành của ông ít kẻ sánh bằng.
    Tuy nhiên, đời có lắm cảnh trái ngang uẩn khúc là những trường hợp : hoặc vì nhân đạo, hoặc vì chỗ lợi ích chung, buộc ta phải “phương tiện”, không thể giữ chữ tín được. Mà đây chỉ là tình thế bắt buộc phải đối với kẻ ngoại địch trong lúc quốc biến đó thôi. Ngoài ra, đối với mọi người và liên minh các quốc gia trên thế giới, ta vẫn phải giữ chữ tín nhiệm luôn.
    Bởi vậy, làm người dù đứng trên cương vị nào, đời hay đạo, không thể thiếu chữ tín được ; Thiếu nó ví như cây to đứt rễ, khó tồn tại lâu dài.
    Cho nên phép xử sự đối với mọi người nhất là với kẻ dưới có lòng tin tưởng nơi ta, gởi gắm sinh mạng và tâm sự của họ cho ta, dù trường hợp dâu bể thế nào ta cũng phải giữ đức quân tử đối với họ bằng chữ tín, không nên vì quyền lợi cá nhân hay vì hiềm riêng mà trả thù theo thói tiểu nhơn thất tín. Và phải luôn luôn giữ bí mật cho những người cung cấp tin tức cho ta. Nếu vô tình hay cố ý để bại lộ, không còn ai dám tin ta nữa. Một con người bề trên không tín dụng, kẻ dưới chẳng dám tin, nhân phẩm không còn sẽ không làm nên việc gì quan trọng cả.
    Và cũng đừng nghĩ rằng: việc lớn mới giữ chữ tín, việc nhỏ không quan tâm. Ðiều ấy rất lầm. Vì một bài văn bố cục không thứ lớp, văn phạm quá vụng về, ai tin là người có trình độ văn chương cao ! Khi đi đâu ta hứa hẹn chẳng đúng giờ điểm ; nhận lời nhắn gởi của người, ta không chuyển, mượn một quyển sách ta hẹn hoàn trả ta không giữ y lời v.v … ai cho ta là người có uy tín? Việc nhỏ ta làm không được, việc lớn ai tin? Vả lại, bệnh thông thường ta không sớm lo điều trị, tích trữ lâu ngày sẽ thành bệnh nan y chỉ chờ ngày mệnh chung đó thôi.

    2/. KHÔNG TỰ DỐI GẠT LÒNG MÌNH:
    - Dối gạt người, đạo đức không cho phép, dối gạt lòng mình lại càng nghiêm cấm hơn. Bởi lẽ, tự dối gạt lòng mình tức là mình không làm chủ được mình, ý chí và lập trường thay đổi, nói và làm không đồng nhất. Một ông cha ngoài miệng dạy con ăn ở theo đạo đức, nhưng trong lòng và hành động phi nhân, đủ thứ. Một ông quan ngoài miệng nói vì dân, vì nước mà trong tâm mưu lợi cá nhân, phi chánh nghĩa. Một tu sĩ ngoài miệng nói vô ngã, giải thoát, nhưng trong lòng vướng bận lợi danh. Ðó là tự mình dối gạt lòng mình. Dối gạt lòng mình, tức công phu không thành đạt, tạo nhiều tội lỗi, nhân thế miệt khinh.
    - Thời Tam Quốc, Khương Duy là một tướng tài của Tây Thục. Trước khi mệnh chung, Khổng Minh giao hết binh quyền cho Khương Duy điều khiển. Trải qua những trận thư hùng quyết liệt, binh thế hao dần. Ðối phương tìm mọi cách chiêu dụ. Nhưng Khương Duy không thay đổi lòng dạ. Cuối cùng ông nhất thân nhất mã tả xông hữu đột với địch quân. Chẳng may lúc lâm trận bệnh đau tim bộc phát, Khương Duy không còn sức chiến đấu, nên bị địch quân giết ngoài trận tuyến. Khương Duy một con người không dối gạt lòng mình, chỉ biết lấy cái chết để hoàn thành chữ tín đối với Khổng Minh. Khương Duy là vị anh hùng bất khuất trên lãnh thổ Trung Hoa.
    - Ông ba Nguyễn Văn Thới, một cao đồ trong hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương, cuộc đời hành đạo của ông Ba sống với hoàn cảnh vô cùng bi đát… Ðiều rất đau lòng suốt ba năm trường, ông Ba ngồi sáng tác cuốn Kim Cổ Kỳ Quan trong lúc ông còn mang nặng vết trọng thương nơi cổ. Nhưng chí quyết định của ông, trước sau như một, chớ không hề thay đổi lập trường. Ðó là những tấm gương sáng, không tự dối gạt lòng mình.
    Có thể nói rõ thêm : Khí huyết ta có tà có chánh, nên lúc đau hồi mạnh ; tâm ta có tỉnh, có mê, nên lúc đúng hồi sai. Lúc tỉnh biết lẽ phải trái, khi mê lấn áp tỉnh, tỉnh biết mà không đủ nghị lực làm theo lẽ phải nên bị mê chủ quyền sinh ra xảo trá, tìm mọi cách ngụy lý biện hộ cho việc trái quấy của mình nên mới nói vầy, làm khác, nói đúng làm sai ; quanh quẩn trong chỗ tự dối gạt lòng mình như thế đó.
    Khó lắm, làm người dù đứng trên cương vị nào cũng phải giữ phẩm giá con người. Nếu ta không quyết tâm tập sửa hằng ngày để sự mê muội tung hoành trong tâm ta mãi, nó sẽ trở thành thói quen, sinh ra tội lớn. Ðời người như thế thì không còn làm nên trò quái gì đặng cả.
    Tuy nhiên trong lãnh vực chính trị hay tôn giáo ít người đi suôn sẻ đến mục đích. Song chúng ta phải tự tin rằng : “Không có cuộc chiến thắng nào mà chẳng bị chiến bại, nhưng chiến bại rồi rút kinh nghiệm, dùng gót sắt tiến lên chiếm lấy mục phiêu”. Ðó là người chiến sĩ không tự dối gạt lòng mình và đáng kính, đáng yêu!

    3/. TỰ TIN CHỖ LẬP CHÍ CỦA TA:
    Sở dĩ, người ta không tự tin rằng mình làm một việc nào đó sẽ được thành công, nên phân vân, rồi chán nản…Vậy khi chọn lọc kỹ và quyết định làm một việc gì rồi, ta phải tập trung tinh thần mạnh mẽ, lòng dạ vững chắc như núi Thái Sơn thì không có việc gì mà làm chẳng đặng.
    Các vị tiền bối lưu lại tấm gương cao cả. Các Ngài vẫn bằng xương bằng thịt, các Ngài làm được một việc nào, nhất định chúng ta cũng phải làm được việc đó. Không một trở ngại nào ngăn cản, nếu chúng ta có chí và biết tự tin nơi sức cố gắng của mình.
    Xưa, khi họp các vị anh hùng bàn kế hoạch khôi phục nhà Ðường, người ý kiến thế nầy, kẻ ý kiến thế khác… Tiết Cương, đưa thẳng tay lên nói: Chỉ sợ Tiết Cương chết thôi. Nếu Cương nầy còn sống, nhất định phải khôi phục vĩ nghiệp nhà Ðường được mà thôi. Một con người biết tự tin và cương quyết như thế, có việc chi mà chẳng đặng thành công!
    Tôi có một đạo hữu, trình độ không quá tiểu học. Trải qua bao ngày ăn nằm trong cửa Phật, ông ý thức rằng : giới tu sĩ kém văn thơ, tức không đủ phương tiện cho vấn đề truyền giáo. Ông cố gắng luyện suốt bảy năm trường. Vị hướng dẫn phê văn ông : “lượm thượm” và “dở bẹt”.Ông không nản lòng và tự tin rằng, sức kiên nhẫn của ông chẳng sớm thì muộn cũng được toại nguyện. Và chữ ông viết như cua bò, ông tìm mẫu chữ đẹp, tập viết theo phương pháp từ chữ một, không bao lâu ông viết chữ rất đẹp. Ngày nọ, thơ của ông mới được vị hướng dẫn phê “tạm khá”, và “có triển vọng”. Ông cố gắng tập luyện thêm, trước sau trên mười năm, ông trở thành một tu sĩ, Phật học uyên thâm, văn hay chữ đẹp, được những nhà trí thức, thiện tín theo về với ông rất đông.
    Thế nên người có đức tự tin, không ngồi chờ Phật hay một vị nào khác ban phước và làm thay cho mình. Ta phải tận dụng trí lực và sức kiên nhẫn của ta, âm thầm gầy dựng một tương lai đầy tươi sáng. Nhưng muốn trưởng dưỡng đức tự tin và dùng bộ óc tự lực của ta làm việc. Ta phải biết: việc thiên nhiên không liên quan gì đến vấn đề nhân sự. Và hạng phàm nhân đừng bắt chước các Tiên ông bấm tay toán máy âm dương. Việc làm quá khả năng mình không thành đạt. Không thành đạt dĩ nhiên đức tự tin phải tan mất, lòng chán nản tăng cao. Nguyên nhân không tiến bộ, hư hoại, nhất là giới tu sĩ “bán đồ nhi phế”, phần lớn do đó mà ra.
    Tóm lại, Tín là cái đức chân thật của con người không lừa phỉnh dối gạt ai và cũng không tự dối gạt lòng mình, trước sau như vậy. Dù phải trải qua gian nguy thử thách, cũng không lay chuyển lập trường tự tin chỗ lập chí của ta sẽ có ngày thành đạt. Chính chỗ tự tin nầy mới thực tế và căn bản để tiến đến thành công.

    CHƯƠNG MƯỜI LĂM: MINH

    1/. MINH: Là minh mẫn sáng suốt, thấy biết được trình độ và chỗ khuyết điểm của ta, để cải sửa cho hợp với lẽ phải và bước tiến đều đặn. (Tự tri giả minh).
    Thói thường đa số người tưởng học cho có cấp bằng cao, văn chương chải chuốt và nói cho hay giỏi, gọi là sáng suốt. Chúng ta lầm! Chỗ sáng suốt ấy là:

    a/. THẤY BIẾT ÐƯỢC TRÌNH ÐỘ VÀ CHỖ KHUYẾT ÐIỂM CỦA TA:
    Những cái thất bại tan nát con tim, gần như hầu hết là do không thấy biết được chỗ khuyết điểm của ta. Nghĩa là thiếu sáng suốt, không thấy biết được khả năng và chỗ dở của mình để kịp thời thay sửa, chỉ trừ một vài trường hợp ngoại lệ thôi.
    Cũng đồng một gia đình, một quốc gia và một tôn giáo, với tài sản, diện tích, dân số và giáo lý đó, người lãnh đạo minh mẫn sẽ làm cho gia đình giàu, quốc gia mạnh và tôn giáo sáng. Ngược lại thì nghèo, yếu và tối.
    Ðây là lẽ đương nhiên không thể hoàn toàn đổ cho “định mệnh”.
    Xưa Khổng Minh thốt lên câu : “Sanh sự tại nhân, thành sự tại thiên ; ngô nguyện như thử, như thử, thiên lý vị nhiên, vị nhiên”. ( Sanh sự tại người, thành sự tại trời, người nguyện dường ấy, dường ấy, Trời chưa vậy, chưa vậy). Khổng Minh thốt lên câu nầy là sau khi ông đã vận dụng hết tài năng xoay trở cục diện quốc gia mà không đạt thành ý nguyện, nên ông chỉ than thở vậy thôi. Chớ ông vẫn giữ lập trường vững chắc như núi, quyết xây dựng nhà Hán cho đến hơi thở cuối cùng.
    Người đời nay không biết, cứ mãi biếng nhác, chẳng tận lực vùng vẫy lên, thả xuôi theo dòng thời gian tiêu cực, lại đem chuyện Khổng Minh ra biện hộ cho cái chí mục nát của mình. Thật rất sai lầm!
    Ðể tránh chỗ nhận xét nông nỗi nầy, khi làm một công việc chi bị trở ngại, ta phải cố gắng tìm ra cho được nguyên nhân:
    - Một ông chủ xưởng trà, hàng bị ế động, ông không nản, kiểm tra nhân viên? Giá cả? Giống trà ? Và cách chế biến v.v… Sau khi tìm được nguyên nhân vì ông lấy nước của một giếng lạt, nên nấu trà không ngon . Ông liền sửa lại. Từ đó xưởng trà của ông phát đạt luôn.
    - Thời Mãn Thanh, Từ Hy Thái Hậu độc ác, Tôn Văn và các đảng cách mạng Trung Hoa đứng lên chống bạo quyền. Bao lần tấn công đều bị thất bại ! Nguyên Hồng một vị tướng tài, nhưng địa vị thấp nên không thể đem hết tài năng ra thi thố được. Một hôm, vị chỉ huy trưởng hy sinh, binh sĩ gần như tan rã! Nguyên Hồng được may mắn lên thay quyền chỉ huy. Hồng tiến quân đánh đến đâu, ông cho rãi truyền đơn đến đó.
    Ðại cương truyền đơn của ông:
    - Tất cả khoán trái của triều đình Mãn Thanh vay với quý quốc, sau khi đảng cách mạng của chúng tôi thành công sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trả số quốc trái ấy.
    - Tuyệt đối : bảo đảm tài sản và tính mạng kiều bào trên toàn lãnh thổ Trung Hoa.
    - Yêu cầu các Sứ Quán đừng nhúng tay vào công việc viện trợ Mãn Thanh.v.v…
    Các Sứ Quán ngoại quốc, trước kia vì sợ cách mạng thành công thì tài sản và tánh mạng của họ bị thiệt hại, buộc họ phải giúp Mãn Thanh để bảo vệ quyền lợi của họ. Nhưng nay dù Ðảng cách mạng được thành công họ cũng không lo điều ấy nên họ không giúp Mãn Thanh nữa. Do đó Ðảng cách mạng do Nguyên Hồng chỉ huy trong một sớm, một chiều đã làm chủ trên toàn lãnh thổ Trung Hoa.
    Thế nên ở đời, dù đứng trên cương vị nào cũng vậy, phải biết trình độ và chỗ khuyết điểm của mình để cải sửa là sáng suốt, thành công. Bằng ngược lại, là tối tăm, tan nát.
    Nhưng phần nhiều chúng ta chỉ thấy biết chỗ khuyết điểm lớn, còn chỗ khuyết điểm nhỏ của mình ít ai lưu ý cải sửa ! Mời bạn ăn một trái chuối kém hơn chuối ta ăn, nói một lời nói chơi gác hơn người, một cái liếc xéo, cãi vã nhỏ nhặt. v.v…Ðó cũng là cái nhân đôi khi làm cho người bất mãn, đi dần đến chỗ nghịch lẫn, đoạn dứt nghĩa tình.
    Bởi vậy, biết tìm xét trình độ và chỗ khuyết điểm lớn và nhỏ của mình để cải sửa mới gọi là người sáng suốt.
    Còn một điều cần nói rõ thêm: một con người tự đắc, không biết xét chỗ khuyết điểm của mình để kịp thời cải sửa, đời họ vẫn phải chịu đau khổ luôn, và không có thứ ác xấu nào họ chẳng dám làm.

    b/. BIẾT TRỌNG LẼ PHẢI KHUYÊN CAN:
    Trừ bậc Thánh nhân, ngoài ra làm con người dĩ nhiên ai cũng phải có lỗi! Người sáng suốt chẳng những hằng ngày lo tìm xét lỗi mình lại còn phải biết nghe lời phải khuyên can.
    Thầy Tử Lộ-đệ tử của Ðức Khổng Tử (551-479 trước Thiên Chúa) nghe lỗi mình thì mừng; Khổng Minh- người sinh ở đất Nam Dương, Trung Hoa-rất hoan hỷ khi nghe người dưới trướng chỉ lỗi. Và Quản Trọng (tướng nước Tề, đời Ðông Chu, chánh trị rất cao đưa nước Tề từ chư hầu suy yếu lên thành bá chủ Trung Hoa) rất trọng ý kiến của dân. Nhờ vậy, các Ngài tránh được mọi lỗi lầm, trở thành Hiền Triết. Ngược lại, các vị hôn quân nghe ai chỉ lỗi mình là chém đầu, đốt xác. Và những kẻ độc tài phi nhân đạo, nghe ai nói đến lỗi mình thì tìm mọi cách mờ ám dìm ép và diệt người đó ngay.
    Ở đời ai cũng muốn cho mình tốt, gần với gương hạnh Thánh hiền nhưng khổ nỗi không đủ sáng suốt và nghị lực, làm chủ tâm mình theo hạnh đức Thánh hiền mà vẫn tập theo tánh chất tiểu nhân độc tài ích kỷ nên tội lỗi ngày thêm chồng chất! Bậc Thánh hiền và phàm tục khác nhau ở chỗ đó.
    Bởi vậy, bất cứ là người lãnh đạo một gia đình, hay một tổ chức nào cũng phải vui vẻ tiếp nhận lời lẽ khuyên can và những ý kiến chung, nếu ý kiến đó hợp lý! Và không nên độc tài, độc đoán làm cho kẻ khác chịu oan tình, gây thêm bất mãn, chia rẽ lẫn nhau và đưa đến chỗ tan rã! Mỗi khi có việc gây cấn trong gia đình hay trong một phiên hợp hội, ta không nên cố chấp, bươi xới những lỗi lầm đã qua. Hãy rộng lượng quên hết việc sai sót cho nhau để cùng lo tìm mọi biện pháp thích nghi mới, hầu xây dựng lại lành mạnh. Nếu ta hẹp lượng đem chuyện xưa cũ ra trách hờn, lỗi phải, chẳng những chuyện mới ta không giải quyết được mà còn đeo đẳng phiền não thêm. Người sáng suốt không thể có những hành động vụng về như thế!
    Tuy nhiên, không có thứ bực bội nào bằng bác bỏ ý kiến người mà không có một biện pháp nào hữu lý hơn ! Ðiều bất mãn nữa là, dìm ép nhân tài, cái gì cũng giành cho mình và phe phái mình làm để khoe danh, thủ lợi. Ðây là hạng tiểu nhân, thấy ai hơn mình thì sanh lòng “ganh hiền ghét ngõ” mà từ xưa đến nay trong các tổ chức đều có hạng người đê tiện nầy.
    Tóm lại, chúng ta có thể nói thật thà cho dễ nghe, đời người đâu có ai khỏi bệnh hoạn, cũng như đâu có ai chẳng sai lầm. Nhưng bệnh hoạn chịu thuốc đắng tức lành mạnh; sai lầm biết nghe lời phải khuyên can thì hết tội lỗi. Bằng ngược lại, chỉ còn có cách đào đất lấp xác là xong và chờ đến ngày đền tội, cùng rước lấy cái đau thương nhục nhã, mà thôi.

    c/. HỌC VÀ THỰC HÀNH HAY HƠN NÓI:
    Nói nhiều dễ bị sơ xuất, làm mất thời gian, không thu thập ý kiến của kẻ khác trong khi đàm thoại. Những cái mà ta nói hôm nay trước đây đã có nhiều người nói. Họ nói có lý và hay hơn ta nữa. Nhưng thực hành thì trái lại . Cho nên kẻ kém sáng suốt bình tĩnh thích nói và hay nghe, tin người nói nhiều. Ngược lại, người có kinh nghiệm thì dè dặt hơn. Vì họ đã thừa biết cái mề đay, ai cũng đeo cái bề mặt ra ngoài thôi. Và thực hành phải có giá trị cao hơn lý thuyết. Ta nên biết : Trường hợp nào cần phải nói nhiều, trường hợp nào không nên nói nhiều. Nhưng dù sao ta cũng cố tránh tật nói nhiều, vì trong khi đang chất chứa tâm sự, ta nói nhiều dĩ nhiên khó tránh khỏi chỗ sơ xuất. Lời nói ví như tên bắn ra, khó thu lại được; khi hối tiếc thì việc đã muộn rồi !Vả lại, sống với người kém trí mười năm, không bằng học với bậc sáng suốt trong một ngày, và đọc một trang sách quý.
    Lưu Bị hầu chuyện với Khổng Minh trong một buổi, biết ngay kế sách phục hưng nhà Hán. Nguyễn Bỉnh Khiêm kiến diện bậc dị nhân trong sáu khắc, được khai ngộ suốt thông bộ “Thái Ất Thần Kinh”. Và Lê Lợi đọc một bức cẩm nang của Nguyễn Trãi, liền am hiểu phương lược “Hưng Lê, diệt Minh”.Và còn một điều chúng ta cần biết: nên có một “sở học” rộng, giữ lại “sở tồn”, khi đem ra làm “sở dụng” phải hợp với : Cơ, tình, lý. Ðược vậy, gọi là người sáng suốt
    .

    d/. SẮP XẾP CÔNG VIỆC CÓ PHƯƠNG PHÁP:
    Công việc gia đình, trường sở, quốc gia và tôn giáo, vẫn bề bộn đa đoan. Người ý thức trách nhiệm phải lao tâm nhọc sức. Nếu ta không vạch được một phương pháp thích nghi hoàn cảnh và có thứ lớp, tức công việc phải bề bộn thêm.
    Có một bà giúp việc cho gia đình ông giáo, công việc làm cho bà rối trí, do thiếu óc tổ chức. Ông giáo thương tình, bảo bà nên sắp xếp lại công việc có thứ lớp, trước sau, chính phụ, giờ giải trí và giờ ngủ, nghỉ v.v… Bà kháng cự, không nghe. Ông giáo chịu thua và nghĩ: vì bà ta đã hấp thụ trong một gia đình thiếu học thức, tâm tánh kém văn minh nên không thể thay sửa cho bà sớm được!
    Rồi đó, công việc hằng ngày lu bu, làm cho bà cau có hơn.
    Ngày nọ, ông giáo chịu hết nổi, đòi cho bà nghỉ việc nên bà phải nghe theo lời ông giáo.
    Thời gian qua, bà cải sửa tâm tánh và làm việc có phương pháp. Bà quen dần với nếp sống văn minh, công việc không còn bối rối như trước nữa.
    Việc gia đình còn phức tạp như thế, huống chi trường sở, quốc gia và tôn giáo nào có gọn gàng đâu ! Nhưng, ta biết dùng bộ óc sáng suốt, khoa học tổ chức có thứ lớp, và việc nào chính, việc nào phụ, việc nào trước, việc nào sau thì việc bề bộn cũng trở lại gọn gàng và công tác vẫn tiến đều đặn, vừa với sức khỏe, và tâm mình cũng được thong thả yên vui.


    e/. CHỌN CHO MÌNH MỘT ÐƯỜNG LỐI SÁNG SUỐT:

    Từ xưa đến nay có biết bao người trên thế giới, ai cũng cố gắng phấn đấu theo lý tưởng của mình. Song số đi theo con đường hoàn thiện thì ít, ngược lại rất nhiều.
    Muốn đặt chân đúng với con đường toàn thiện, ta cần phải quan tâm:

    - Vấn đề sinh sống:
    Tránh các việc lường cân, tráo đấu, đầu cơ, sát nghiệp, cho vay cắt cổ, buôn rượu, chứa điếm, bán á phiện v.v…. phải chọn cho mình một nghề sinh sống theo chánh nghiệp.
    - Về quốc gia:
    Hiến pháp chuyên chế, trái với đường lối Dân chủ thật sự, phi chánh nghĩa và phi chánh thể. Kế sách bất công, tham nhũng, thoái hậu, lừa bịp dân lành…ta không nên tham gia.

    - Về tôn giáo:
    Không có một nền giáo lý thích hợp với trình độ nhân sinh, đi ngược chiều hướng tiến bộ khoa học ; nhân sinh quan không xác thực, không có yếu pháp cắt đứt mọi đau khổ cho chúng sinh và bày ra âm thinh, sắc tướng, mê tín, dị đoan; mượn đạo dung thân…Thế là tà đạo, ta phải tránh.
    Có số người bảo: theo chủ nghĩa nào cũng được, miễn mình lo làm lành, làm phải thì thôi ; ai làm tội, họ chịu lấy. Nhận xét nầy rất nông nỗi, trái ngược với công lý. Vì theo công lý : thuyền bị đắm mọi người trong thuyền đều bị hại, đi chung với bọn cướp, ai nói mình ngay? Và theo Kiệt, Trụ lịch sử nào cho phép mình chính nghĩa:
    Câu “chim khôn chọn cây lành mà đậu, tôi hiền tìm Minh chúa mà thờ”ø và người muốn tu phải chọn “chánh đạo” mà theo. Ðó là lẽ đương nhiên của chân lý, không một ngụy thuyết nào bác bỏ được. Và ngồi bấm tay toán máy âm dương, đổ cho định mệnh, mọi việc chờ Trời Phật giúp cảnh an nguy…Thế không gọi là minh, vì trái với khoa học cùng Phật học.

    h/. QUAN NIỆM THÀNH NHÂN:
    Lịch sử chứng minh: không thể căn cứ việc thành bại mà đánh giá con người.
    Anh nhà giàu đôi khi chưa phải anh có tài kinh doanh hơn anh nhà nghèo mà chỉ vì anh có sẵn số vốn và nhờ có dịp may nào đó. Nhà chánh trị được thành công hay bị thất bại, biết đâu không phải do đủ tài, hay thiếu tài, mà chỉ vì thời thế thuận nghịch và may rủi vậy thôi!
    Muốn đánh giá thấp cao, khinh trọng, ta phải biết chỗ dụng ý của họ đúng hay sai? Dụng ý đúng dù không được thành công nhưng vẫn được thành nhân. Và chính đó mới là bậc đáng để cho hậu thế tôn thờ. Dụng ý không đúng, đôi khi cũng thành công. Song cái thành công phi nghĩa ấy, đâu có chi đáng quí.
    Thực dân Pháp được thành công trong cái tham ác, xâm chiếm đất nước Việt Nam, đặt ách thống trị đồng bào ta cả trăm năm. Nếu đem so cái chiến bại “thành nhân” của các vị anh hùng dân tộc ta hy sinh vì đại nghĩa bảo vệ tổ quốc thì cái thành công của giặc Pháp vẫn là hèn thấp thôi! Và còn nhiều cái thành công phi nhân đạo nữa, nhưng chương mục nầy không cho phép chúng tôi bàn thêm.

    i/. BIẾT XÂY DỰNG TƯƠNG LAI:
    Ðề cập đến việc xây dựng tương lai trong tác phẩm nầy cũng khá nhiều và có giải thích nơi phần Tổng kết trong một chương mục sau. Nhưng xét thấy đây là chỗ cần yếu nên phải dùng điệp khúc để rõ thêm.
    Việc xây dựng tương lai gia đình không mấy khác việc xây dựng quốc gia và tôn giáo. Song việc gia đình là việc cá nhân nhỏ hẹp, ta chỉ biết siêng năng, tiết kiệm và gìn giữ… thì được no ấm. Việc quốc gia và tôn giáo là việc công, trọng đại hơn nên cần phải tổ chức qui mô, nhân tài đông đủ mới đẩy mạnh công tác đến mục phiêu. Nhưng phép dụng nhân tài đâu phải dễ, ta phải có kinh nghiệm về vấn đề nầy. Không được vậy, thì nội bộ vẫn phải lủn củn luôn. Song nếu hạng thường nhân phép dụng người tâm lý sành sỏi quá thì hay gian xảo nên phải trong mức độ trung bình đạo đức thôi. Ðiều cần thiết là phải “chánh kỷ”mới “hóa nhơn” được.
    Tuy nhiên, câu: “Thư thị tùy thân bổn, tài thị quốc gia trân”. (sách theo mình làm gốc, tài là báu của nước). Cổ nhân để lại vẫn còn giá trị.
    Thật vậy, một con người muốn mở mang trí huệ phải nhờ có sách vở, muốn cho quốc gia giàu mạnh, tôn giáo thịnh hưng phải có đông đủ nhân tài.
    Nhà lãnh đạo quốc gia chỉ biết lấy uy lực trấn áp lê dân, dụng bè phái điêu ngoa mị chúng, bất công, xới bớt v.v… Ðó là tối tăm, phi chánh nghĩa; không am hiểu đường lối “Kinh bang tế thế”, làm cho quốc gia nghèo yếu, đắc tội với tiền nhân. Người có trách nhiệm với tôn giáo chỉ biết lo giảng luận theo lối : “trích cú từ chương”, nho, điển dài dòng, “tu rị, tu rị, giả giả, giả giả” mà chẳng thâm sâu diệu lý nhà Phật, không hành đúng chánh pháp và cải thiện kịp thời. Mà chỉ biết chuyên việc tu phước, cầu cúng, an phận hiền ngu, chờ Phật ban trí huệ, tư tưởng tiêu cực, mong ngày trời sập .v.v… Ðây là mê tín, không đúng chánh đạo.
    Có thể nói, trừ một vài trường hợp đặc biệt ra, chúng ta rút kinh nghiệm thực tế của gia đình thì biết : gia đình nào cố kiềm chế cho con em ăn học đến nơi đến chốn, tuy phải chịu vất vả ngày nay, nhưng ngày mai dù sao cũng được sáng tỏ .
    Với quốc gia và tôn giáo cũng thế, phải biết thật sự trọng dụng nhân tài, tìm mọi cách đưa trình độ dân trí và đồ trí (trí thức của tín đồ) lên cao độ; biết cải thiện “chánh thể” và tu chỉnh “giáo điều”, thì nước giàu đạo sáng. Nhà lãnh đạo quốc gia và tôn giáo không quan tâm cực điểm về vấn đề nầy là điều tai hại vô cùng!
    Thế nên biết trọng dụng nhân tài, và lo đào tạo nhân tài là sáng suốt, tiến bộ mà trong các tài liệu quốc gia và tôn giáo chân chính xưa nay vẫn duyệt y và khuyến tấn luôn.
    Ngoài ra, nhà lãnh đạo quốc gia và tôn giáo phải thấy xa, không nên thấy gần. Phải buông bỏ lợi nhỏ, nắm lợi lớn, mới gọi là nhà lãnh đạo sáng suốt.
    Tóm lại, biết lo tìm sửa chỗ khuyết điểm của mình, biết trọng lẽ phải khuyên can, học và hành hay hơn nói. Ðồng thời biết lo sắp xếp việc làm trước, sau có thứ lớp, chọn cho mình một lối đi sáng suốt, biết đặt nặng quan niệm thành nhân, biết xây dựng tương lai đúng cách. Và biết chỗ thương ghét, danh, lợi, tình là tai hại. Thế mới thật một con người biết lo xây dựng tương lai cho mình vậy.

    CHƯƠNG MƯỜI SÁU: TRÍ
    1/. TRÍ: Là trí thức, đầu óc sáng suốt, sự hiểu biết của con người .
    Xin bàn khái yếu về việc biết người (Tri nhân giả trí)

    a/. BIẾT NGƯỜI TÀI CAO, THẤP:
    Không phải người đương kiêm chức vụ, cử nghiệp cao, ăn nói lanh lẹ và văn chương chải chuốt, gọi là tài trí cao. Người vạch được một đường lối thích nghi tiến bộ, biết được người khác, ít kẻ bì kịp và việc làm của họ đâu đó có thứ lớp, thấy trước lợi hại, khó ai đoán lường được chỗ sâu sắc của họ. Ðó gọi là người tài trí.
    Ca dao có câu:
    Dò sông dò biển dễ dò,

    Mấy ai lấy thước mà đo lòng người.
    Tuy lòng người khó thể đo lường. Song thấy khó rồi ta buồn chán, không bạn, không dụng người, sống đơn độc, cái sống ấy rất vô bổ.
    Nhưng biết người không phải đánh giá qua tướng mạo, giai cấp, tuổi tác và sự phô trương bề ngoài. Ta phải biết chỗ tiềm ẩn sâu kín hơn là dụng tai, mắt nghe thấy bằng cách thông thường. Bởi những kẻ đang đứng trên địa vị quan trọng, đôi khi chỉ vì họ có sẵn số vốn kế nghiệp, và nhờ có dịp may nào đó, hoặc họ dùng trí xảo nhất thời để củng cố địa vị bất chánh của họ thôi. Sự thật, chưa phải họ có tài trí hơn người cô thế. Và lắm khi họ là những con người tầm thường không đáng kính!
    Ngược lại, những kẻ ở địa vị thấp kém, cơ hàn, nhưng chưa phải là hoàn toàn kém tài trí, mà chỉ vì thời vận bất thông. Và đôi khi chỉ vì họ quá đặt nặng đức quân tử, nên tài trí của họ đành phải mai một ! Chỉ có những nhà trí thức cao kiến xét thấu mới tiếc thương cho tình cảnh uẩn khúc của những anh tài vùi lấp cuộc đời trong thất chí!
    Hơn nữa, kẻ ương ương háo thắng thích khoe khoang, người thực tài thì bình tĩnh, kín đáo, có thể gần như khó tánh. Nếu không hợp thời cơ, họ cam tâm vùi thân nơi lòng đất lạnh, chớ không chịu bán rẽ tài năng và lời nói của họ. Bởi vậy, những bậc kỳ tài xưa, ai không hết lòng cầu khẩn, họ không giúp!
    Chúng ta nói : khó tánh, hơi quá đáng. Thật ra, đó là một việc làm hợp lý. Vì thức ăn dù ngon nhưng kẻ không thèm khát, có nài ép ăn cũng chẳng ngon; vật dù quý, người không biết xài, cũng không quý. Và Phật dù từ bi, nhưng người không thành tâm, cũng chẳng linh.
    Vả lại, tư tưởng của bậc thực tài, thì luôn luôn cao viễn mới lạ, khác hẳn với kẻ thường nhân. Vì vậy, chúng ta khó thể nhận ra kẻ thực tài trong khi thời vận của họ chưa được hanh thông. Nhưng biết được người tài, ta phải có tài tương đối. Nếu không phải Châu Văn Vương, khó biết được Tử Nha. Và nếu không phải Trương Lương, khó biết được Hàn Tín.
    Cho nên, nhân tài và quần chúng, đối với quốc gia và tôn giáo đều quan trọng cả. Người có trọng trách với quốc gia và tôn giáo không thể thờ ơ hai yếu tố then chốt nầy. Nhưng quần chúng là đa số thường nhân kém trí, những gì có lợi cho cá nhân hiện tại, thì họ theo ngay, nên rất dễ thu phục. Ngược lại, nhân tài là số người rất quí hiếm, và rất khó thu phục. Nếu không hội đủ điều kiện, tức họ không phục, không theo. Người có trọng trách với quốc gia và tôn giáo, không nghiên cứu kỹ hai yếu điểm nầy, là điều thất sách rất lớn.
    Tuy nhiên, một con người háo danh, ham lợi, mê tình tức dễ bị kẻ gian xảo đánh đòn tâm lý, lợi dụng đưa họ vào con đường tội lỗi, thì đâu còn gì gọi là Trí.

    b/. BIẾT TRUNG NỊNH TỐT XẤU:
    Ở đời, vì đồng hoặc khác chí hướng và vì quyền lợi cá nhân mà thù nghịch, hay thân thiện với nhau. Bậc tài trí họ thấy việc ngày nay, vẫn đoán biết được việc ngày mai, chớ không phải đợi đến khi vỡ chuyện.
    Và thường ngày, người ta có thể nhìn ngay bản tính con người : Thích bóng sắc, tiền của, danh vị, sung sướng, lánh nặng, tìm nhẹ, tính ba phải, tham sanh úy tử, và chứng kiến cảnh bất công của xã hội, không bực tức v.v… Những con người ấy đến khi gặp việc, họ phải ngó trước nhìn sau, thọt giò bên nây, chõi cẳng bên kia, cấu kết với ngoại địch, bán nước hại dân và tìm mọi cách bảo vệ sinh mạng, quyền lợi cá nhân của họ. Là kẻ nịnh xấu đương nhiên không có thứ nịnh xấu nào họ chẳng dám làm. Bởi bản chất của họ đã sẵn có. Ngược lại, những con người bình nhựt, xem nhẹ lợi danh, không màng cực sướng, không chịu cúi đầu nịnh bợ, ăn nói ngay thẳng, tính nghĩa khí… Tự nhiên đến việc, họ là người trung nghĩa, vì bản chất hằng nhật của họ đã quen.
    Ðây là kinh nghiệm thực tế và sách sử đã ghi rõ, không lầm.

    c/. BIẾT NGĂN NGỪA GIAN DỐI:
    Thuyết đại đồng của nhân loại và của Phật giáo : với cảnh đất Thuấn trời Nghiêu, nhà không đóng cửa, ngoài đường không người lượm của rơi, thiên hạ thái bình, lạc nghiệp…Ai mà chẳng ham sống với cảnh ấy ? Nhưng đó chỉ là cái “mơ ước” và cái “lý tưởng” toàn thiện vậy thôi!
    Ðã là mơ ước và lý tưởng thì phải chờ đợi một ngày mai ! Còn hiện giờ, đời lắm kẻ tham gian hiểm ác, nếu riêng ta thực hiện cái lý tưởng ấy là nguy và vô cùng ngớ ngẩn. Ta tối, ta bị lừa, tự ta chịu lấy, luật pháp không khen thưởng ta đâu và Phật cũng không giúp ta nữa, bởi ta là số công dân lạc hậu và số tín đồ mê tín kia mà!
    Cho nên kinh nghiệm của các nhà lãnh đạo cổ kim cho biết:
    - Cho ở xa để xem lòng Trung.
    - Cho ở gần để xem lòng Kính.
    - Cho ở chỗ phiền tạp để xem Thần sắc.
    - Hẹn cho ngặt để xem cái Tín.
    - Hỏi bất ngờ để xem cái Trí…
    Và họ còn dè dặt cẩn thận những người khác chí hướng lại tốt bụng với ta. Nhứt là cái tốt quá mức thông thường! Với câu: “Hài lòng trước, đặng việc sau” đôi khi là dụng ý của kẻ gian phi cực độ. Bởi khi con hổ cúi đầu xuống là chuẩn bị chồm đến vồ bắt con mồi! Và câu : “Người ta gây chiến để được hòa ; cũng như người ta tạm hòa để chuẩn bị tái chiến”!
    Trên đây là những điều mà người có trọng trách với gia đình, quốc gia và tôn giáo không thể không lưu ý.
    Hơn nữa, một con người dù trước kia thông minh tài trí nhưng để cho tửu, sắc, tài, khí lấn quyền đầu óc trở lại tối tăm, hiền tài xa lánh, gian nịnh lại gần làm nhiều điều thất đức, tức nhiên không còn gọi là Trí. Và kẻ dùng trí gian xảo, lừa phỉnh ngu khờ, dối gạt nội bộ để làm lợi riêng cho mình. Thứ trí đó được xếp vào hạng trí của kẻ tiểu nhân, dã man, ích kỷ, lịch sử chán chê. Người biết dụng Trí đối chọi với ngoại địch, ngăn ngừa gian dối để bảo vệ cho mình, quốc gia và đoàn thể mình, hoặc áp dụng vào công cuộc binh vực lẽ công bằng, cứu giúp kẻ nguy nàn cô thế. Thứ trí nầy mới thật thứ trí của bậc quân tử, đáng kính.

    d/. BIẾT CÁI HAY CỦA ÐỐI PHƯƠNG:
    Người đời hễ ghét ai thì những cái hay của người đó không cần tìm biết, và nhắc đến làm chi ! Không nhắc cái hay của người, tức cho người dở, cho người dở thì khinh địch. Trường đấu trí cao thấp, nếu khinh địch phải bị thảm bại!
    Sở Bá Vương, có tài vũ dũng, trong một ngày đánh lui trên sáu mươi viên kiện tướng của Lưu Bang. Nhưng chỉ vì Bá Vương thiếu trí, khinh địch, không biết cái hay của con người Trương Lương và Hàn Tín nên Bá Vương phải bị bỏ mình nơi bến Ô Giang! Khổng Tử xem thường Hạng Thác (thần đồng) trong cuộc khẩu chiến…sau cùng Khổng Tử phải nhượng bộ Hạng Thác!
    Thế nên ta đừng thấy kẻ nhỏ tuổi, địa vị kém, và việc bày trí bên ngoài của họ dở, rồi ta háo thắng, vội kết luận mà lầm. Vì trước thế cờ tranh phân đắc thất, đôi khi ta nghe lời nói và thấy hành động bề ngoài của người dở, nhưng bên trong của họ rất hay, rất lợi hại mà xưa nay trên bình diện chính trị có biết bao người phải bị nguy hại, vì thiếu dè dặt vấn đề nầy!
    Vả lại, ta không thích ai, ta không tiếp chuyện với người đó nhiều, dù là người đó hữu tài. Trái lại, người nào ta thích, ta tiếp chuyện với người ấy nhiều, dù người ấy kém trí. Do đó hằng ngày ta hy sinh thời gian cho tình cảm không đâu, và nghe học với người kém trí nhiều làm cho trí óc ta quanh quẩn nông cạn, không thấy được những gì hay khéo của đối phương.
    Những hậu quả lầm người, không ngoài các lý do như đã nói trên.
    Tóm lại, làm người không đợi là nhà chánh trị mới nghiên cứu cho trí óc của mình mở rộng thêm ra. Mà dù cho giới người nào cũng phải quan tâm chỗ : biết người tài cao thấp, biết trung nịnh, tốt xấu, biết ngăn ngừa gian dối và biết chỗ hay, dở của đối phương để chúng ta không làm thằng ngốc giữ nhà, và con cừu non hiến mình cho hổ đói ăn sung sức tác hại muôn người. Ðược vậy, mới đúng với câu : “Tri nhơn giả trí” của cổ nhân đã dạy.


    CHƯƠNG MƯỜI BẢY: TRUNG
    1/. TRUNG: Là trung thành, nghĩa là trung nghĩa và thành thật với một đất nước, hay một tôn giáo đang hồi nguy ngập. Nhưng con người trong xã hội được phân ra làm nhiều hạng.

    a/. HẠNG NGƯỜI SỐNG CẦU AN:
    Ðây là đa số người, kể cả số người kém trí và số người có trình độ học vấn. Hạng người nầy phần nhiều vì tánh hèn nhát, nhận xét theo biên kiến, chịu lòn cúi, không biết bực tức, nhục nhã khi thấy kẻ xâm lăng giẫm nát trên đầu cổ cá nhân và chủ nghĩa của họ. Và họ cũng không nóng lòng khi chứng kiến cảnh bất công, đau khổ của đồng loại. Họ chỉ biết vui sống với gia đình và quyền lợi cá nhân của họ là đủ, sự đoàn kết, an nguy của đất nước họ không cần biết là gì cả.
    Nếu tiền nhân ta sống theo lối ích kỷ hiền ngu ai chết nấy chịu, không biết sỉ nhục, nhân phẩm và quốc thể của mình, thì đồng bào ta phải chịu làm thân trâu ngựa, nô lệ mãn kiếp nào thấy được bầu trời quang đãng độc lập tự do. Và quanh năm họ chỉ biết : “Ăn cơm Hồng Lạc, đập nồi Hùng Vương” trong cuộc sống cầu an phi nghĩa.

    b/. HẠNG NGƯỜI VONG BỔN:
    Hạng người nầy không đến đổi nhát gan lắm mà do lòng tham danh lợi, địa vị, tài sắc ; cho nên gặp lúc nguy nàn họ chỉ biết chạy theo lòng tham của họ thôi. Họ không nghĩ đến danh thể của họ bị người đương thời và hậu thế nguyền rủa chi hết. Chính vì bản năng hèn hạ ấy mà họ tìm đủ mọi thủ đoạn lừa dối, tránh lách, phản nịnh và giúp ích cho kẻ ngoại địch v.v… Chẳng những thế họ còn lôi kéo số người kém trí cùng tư tưởng với họ, làm thương tổn tiềm lực quốc gia và đạo giáo. Và họ rất khéo, có nhiều lý lẽ biện hộ cho hành động đen tối của họ chẳng hạng như trường hợp: Hội Ðồng Tư Vấn Nam Kỳ, Nguyễn Hữu Ngươn, Huỳnh Công Tấn và số người kém trí chạy theo bộ máy chánh quyền Pháp đô hộ nước ta. Họ cho rằng, họ thông hiểu thời thế, bài bác các vị anh hùng dân tộc chống Pháp là không rõ lẽ cương nhu, tự rước lấy tai họa cho thân, và phá rối an ninh đất nước…Chớ họ đâu có ngờ thân phận họ như:
    “Gà lôi mang lốt con công,

    Tưởng mình là đẹp đi dong đi dài.
    Gặp công xáp lại nhập bầy,
    Công đá xể mặt, trầy mày đuổi đi.
    Trở về bạn cũ hiệp ti,
    Bạn cũ cắn mổ đuổi đi không nhìn.”
    Ý nghĩa hạng người vong bổn đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi. Họ còn là tay thợ sơn rất khéo, đổi thù làm bạn mà người chân thật khó nỗi tri tâm ! Họ uống nước không nhớ ơn người đào giếng; ăn trái chẳng nhớ kẻ trồng cây.
    Cái hiu hiu tự đắc của họ là cái vinh hạnh của con quốc mồi đứng trên cạm bẫy, cái tốt lòng với người bạn thân của họ biết đâu là cái xấu bụng của kẻ nhìn vào thửa ruộng của bạn ở ngày mai.
    Họ đâu có biết miệng con tằm không thấy nhóp nhép mà lá dâu tiêu mất (tàm thực). Khi tỉnh lại thì sự việc đã muộn màng và lịch sử không thể dung tha phường vong bổn.

    c/. HẠNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA:
    Hạng người trung nghĩa trên đời ít có và tính chất của họ rất trái ngược với đa số người.
    Sinh ra ở đời, ai cũng muốn cho mình sung sướng, yên ấm với gia đình. Ðâu có ai muốn cho đời mình phải nghèo khổ, tù đày, chết chóc. Nhưng bậc trung nghĩa thì cuộc đời họ gắn liền với quốc gia và đạo pháp. Hành động của họ được thể hiện qua hai câu : “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”.
    Bởi thế nên khi quốc gia khuynh đảo, đạo pháp suy đồi, thì họ không thể ngồi yên. Ðức Cố Quản Trần Văn Thành xem nhẹ tánh mạng cả gia đình, quyết đổi lấy tự do cho nòi giống. Vị anh hùng Phạm Hồng Thái vì nền độc lập quốc gia đành phải để thi hài mình trôi giạt lênh đênh bên bờ sông đất khách.
    Ðiều không thể quên được tâm sự của Ðức Huỳnh Giáo Chủ trước cảnh nước mất nhà tan:

    “Yêu nước bao đành trơ mắt ngó,
    Thương đời chưa vội ẩn non cao.
    Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật,

    Coi lệnh từ bi dạy lẽ nào. (Yêu Nước)
    Và lúc Giáo Chủ lánh nạn rừng chà là:

    “Bên rừng tạm gởi thân cô quạnh,
    Nhìn thấy non sông suối lệ trào”. (Riêng Tôi)

    Tuy nhiên, đây xin sáo lại điệp khúc trung nghĩa rõ hơn:
    Dù suy thịnh có lúc khác nhau nhưng trung nghĩa đời nào cũng có. Và sinh mệnh người trung nghĩa gắn liền với lẽ tồn vong của quốc gia và đạo pháp. Quốc gia độc lập, Ðạo pháp hưng truyền thì người trung nghĩa mới vui nhàn yên tĩnh. Quốc gia điêu đứng, đạo pháp ngửa nghiêng con người trung nghĩa phải gian nan, vào sinh ra tử, mạng sống khó bảo đảm an toàn.
    Trên đời có lắm kẻ tham, nịnh mặt lỳ, bị đối phương đầu độc tư tưởng, phản lại nguồn gốc đạo pháp và nguyên thủy quốc gia.
    Ðức Thầy Huỳnh Giáo Chủ cực lực lên án hạng người phi trung nghĩa:
    “Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ…” (Diệu Pháp Quang Minh).
    Hay là:
    “Ðời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa”. (Diệu Pháp Quang Minh).
    Và Ngài hi vọng:

    “Từ nay trong nước Nam ta,
    Thề rằng chẳng chịu đẻ ra giống nầy”. (Tặng Hội Ðồng Cố Vấn Nam Kỳ).

    d/. BẢN CHẤT CỦA NHỮNG CON NGƯỜI TRUNG NỊNH:
    Như chúng ta đã biết : Kẻ nịnh phần nhiều là hèn nhát, tánh ba phải, chẳng dám nói thẳng, khiếp vía trước uy quyền. Thò giò bên này, chỏi cẳng bên kia, miễn sao cho quyền lợi của họ chẳng bị mất, thân của họ được yên. Họ không đau lòng khi nghe thấy danh thể của cha họ bị người chà đạp, đối xử bất công. Họ vui sống với cảnh xỏ mũi, giựt dây điều khiển…
    Hành động đê hèn chẳng những họ không biết hổ thẹn mà còn cho mình là cao thượng, am hiểu thời thế, biết tìm lẽ sống hơn người. Trái lại, người trung nghĩa đủ gan mật, nói thẳng, không sợ mất quyền lợi, không khiếp sợ kẻ uy quyền, hay bực tức trước cảnh bất công và xem nhẹ cái chết.
    Bởi bản chất trung nghĩa ấy, cụ Phan Châu Trinh năm 1922, gởi thơ nói thẳng với Vua Khải Ðịnh 7 điều và cho biết : Nếu nhà vua không thoái vị giao quyền chính cho quốc dân, ông sẽ lãnh lệnh 25 triệu đồng bào mà tuyên chiến với nhà vua (theo “Thành ngữ điển tích danh nhân tựï điển” của Trịnh Vân Thanh, quyển II). Và Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ hạch tội 18 lộng thần để chỉnh lý lành mạnh Lê triều. Vì bản chất các bậc quân tử, trung thành khác hơn hạng tiểu nhân nịnh bợ. Là bởi bầu nhiệt huyết của các Ngài tràn đầy nghĩa khí tác động con tim, trách nhiệm không cho phép các Ngài an tâm nhìn thấy cảnh xâm lăng giày xéo tổ quốc, đạo pháp ngửa nghiêng và sẵn sàng hy sinh đời mình cho chánh nghĩa. Bởi thế nên cuộc đời các Ngài phải chịu cảnh cơ hàn, vào sanh ra tử luôn!
    Ngược lại, kẻ nịnh bợ, cầu an khinh người trung nghĩa, họ chỉ biết lo quyền lợi, tánh mạng cho cá nhân họ thôi nên họ được yên thân sung sướng hơn. Họ đâu có ngờ, những con người ngày nay họ khinh bỉ đó, ngày mai trong các Thánh Ðường tôn giáo và các nơi Lăng Miếu quốc gia tôn thờ mà họ và cha mẹ, con cháu của họ cũng phải bái lạy luôn

    e/. ÐỜI SỐNG VẬT CHẤT CỦA NHỮNG CON NGƯỜI TRUNG NỊNH:
    Nhìn vào đời sống vật chất, ta có thể đánh giá con người trung nghĩa cao thượng hay kẻ nịnh bợ đê hèn. Bậc trung nghĩa cao thượng bao giờ họ cũng để tâm lo việc lớn, có lợi cho quốc gia và đạo pháp nên sự sống, ăn, mặc, ở của họ rất đơn giản, tiết kiệm.
    Xưa Châu Văn Vương muốn đắp một cái đài cao để coi thiên văn trông nom việc nước nhưng nhà vua sợ hao tốn ngân quỹ quốc gia. Nhờ nghe lời can gián hữu lý của các trung thần nên Văn Vương chuẩn tấu việc xây cất đài. Và khi Lưu Bị tìm đến thảo am của Khổng Minh, thấy trên vách có hàng chữ: “… đạm bạc minh chí, ninh tĩnh trí viễn” (sống đạm bạc thì cái chí sáng, yên tĩnh tinh thần, thì trí thấy xa).
    Ðồng một quan niệm nầy, hồi tháng 11- 1946 Ký giả Hồn Quyên (Sài gòn) vào chiến khu 7, phỏng vấn Ðức Huỳnh Giáo Chủ: “..._ Trước khi từ giả, xin ông cho biết đời sống ở bưng biền có ảnh hưởng chi tới sự hành đạo của ông chăng?
    Ðức Huỳnh Giáo Chủ đáp:
    - “ Với sự hành đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện những đức tánh cao cả và thực hành trên thực tế bằng mọi biện pháp đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết…” (Trích báo Nam Kỳ, ngày 29/11/1946)
    Ðó là đời sống của bậc quân tử. Trái lại, hạng tiểu nhân như Trụ Vương thì hoang phí, tiêu xài trác táng, ăn thịt rừng, uống rượu ao, đàn hát vui chơi nơi “Trích tinh lầu”, cao sang tột độ. Và phường mọt nước sâu dân, quan liêu, tham nhũng, dối tu, lúc nào đời sống về vật chất của họ cũng luôn hoang phí dư thừa.
    Như vậy chúng ta thấy rằng, bậc quân tử trung nghĩa, với hạng tiểu nhân tham nịnh khác nhau như hai thái cực.
    Ông Ba Thới, một cao đồ trong hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương cho biết:
    “ Quân tử mê đạo, bỏ ăn,

    Tiểu nhơn bỏ đạo, giữ ăn làm đầu”.

    g/. KHÔNG TRUNG VỚI MỘT CÁ NHÂN:
    Thời phong kiến người ta chỉ biết trung với một cá nhân (Trung thần bất sự nhị quân). Quan niệm nầy không hợp với đạo trời. Bởi đạo trời là làm thế nào cho cái lý tưởng đương nhiên của lẽ phải được sáng tỏ thôi. Vì vậy cuộc cách mạng giữa hai nhà lãnh đạo Thành Thang và Vũ Vương, Thánh nhân vẫn khen“Thang Vũ cách mạng ư dân nhi ứng hồ thiên”, nghĩa là vua Thành Thang và Vũ Vương cách mạng vì dân và hợp lòng trời. Và trong “Tứ y pháp” Phật giáo có nói: “Y pháp bất y nhân” (Y theo giáo pháp, chớ chẳng y theo một cá nhân).
    Như thế, đạo trời chỉ theo cái lý đương nhiên của lẽ phải mà làm. Ðạo Phật cũng tùy nghi phương tiện mà xử, chớ không đóng khung trong một hình thức cố định, là phải trung thành phục dịch cho một cá nhân nào, nếu cá nhân ấy hành trái chân lý và không đáng để mọi người tôn kính.
    Thời nầy, trên vũ đài chính trị, phần nhiều bề ngoài ai cũng nói : Vì tự do hạnh phúc đồng bào. Nhưng bên trong chỉ là tay lái buôn thôi. Do đó chúng ta không giữ theo chế độ phong kiến: “ Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung”, phải thay đổi lại: “Dân vi chủ” cho kịp trào lưu tiến bộ của nhân loại trên thế giới ngày nay. Nhưng mỗi lần giải phẩu cắt bỏ một khúc ruột đâu phải việc trò chơi. Chúng ta phải dè dặt đắn đo kỷ về vấn đề nầy.

    h/. NGUYÊN NHÂN MẤT ÐỨC TRUNG THÀNH:
    Lịch sử chứng minh : những con người phản phúc, mất đức trung thành phần nhiều là kém trí, không làm chủ được tâm mình, do tánh hèn nhát và lòng tham mà ra. Thay vì bậc trung thành tiết tháo, trí của họ sáng, chọn đúng đường hướng, nghị lực của họ đầy đủ, dũng cảm đương đầu với mọi gian nguy, thế lực, xem nhẹ lợi danh, tánh mạng v.v…
    Và ta cũng không nên lầm câu: “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Ý nghĩa nầy chỉ dành riêng cho một vài trường hợp đặc biệt của những bậc vĩ nhân xưa, như : Trương Lương biết giữ mình sau khi bình giặc, Nguyễn Bỉnh Khiêm biết thoái vị trong lúc mạt Lê. Ngoài ra, người sinh trên đời, dù muốn, dù không, cũng phải thọ công ơn cây cội nước nguồn. Ðã thọ ơn tức phải lo đền trả. Nếu chúng ta cho rằng “biết thì sống”, tức ta chỉ biết lo tìm cái sống cho cá nhân ta thôi.
    Một con người quanh năm chỉ biết lo tìm cái sống cho cá nhân mình, đó là hạng người “giá áo túi cơm”, tham sanh úy tử, đâu còn chi để bình phẩm tốt xấu, đúng sai! Và nếu ta cho là : Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống, thì các bậc anh hùng, Thánh Thần đã chết vì tổ quốc, vì đạo pháp các Ngài chẳng biết bằng chúng ta ư? Và nếu mọi người đều quan niệm như thế, thì trong tòa nhà Phật giáo đâu có các bậc “Thánh tử vì đạo”. Và trên bàn thờ tổ quốc toàn là người chết già, chết bịnh, chết lao, chết tổn… chớ không hy sinh ngoài chiến trận để hiển đạt quả vị Thánh Thần!
    Vậy, nguyên nhân mất đức trung thành là do kém trí, hèn nhát, tham sanh úy tử, say mê danh vị tài sắc mà ra.

    i/. QUYẾT ÐỊNH DỨT KHOÁT:
    Quyết định dứt khoát, là để giải quyết xong một vấn đề gì không còn dính dáng dằng dai nữa.
    Trên đường tiến hóa, lắm khi tinh thần ta yếu đuối, phân vân, nửa dùn, nửa thẳng. Bởi ta không đủ nghị lực quyết định dứt khoát một vấn đề gì đó, mới đưa dần đến chỗ thất bại thay đổi lập trường.
    - Em học trò không quyết định dứt khoát : tánh biếng nhác, chơi xa xí, nên không được đỗ đạt.
    - Tướng sĩ không quyết định dứt khoát : tánh háo danh, tham nhũng, bè phái, bất trung, nên không hiển đạt quả phẩm trung thần.
    Nhà tu không quyết định dứt khoát: tánh tham, sân, si, lợi danh, tài sắc… nên không phát sinh trí huệ và đắc quả Niết Bàn.
    Tóm lại, trong một quốc gia hay một tôn giáo gặp lúc nguy cơ mới thấy rõ hạng người sống cầu an, hạng người vong bổn, hạng người trung thành và bản chất con người trung nịnh. Và chúng ta phải vượt khỏi cái trung với cá nhân theo thời phong kiến. Ðồng thời phải tìm ra nguyên nhân nào làm cho ta mất đức trung thành, và phải có một quyết định dứt khoát để giữ cho ta có được đức tốt ấy. Thế mới chẳng thẹn một kiếp làm người khi nhìn lại đạo giáo và tổ quốc thân yêu.

    CHƯƠNG MƯỜI TÁM : TRÁCH

    TRÁCH: Là trách nhiệm phải gánh vác.
    Giữa đồng bào ta và nhân loại trên thế giới phải có một mối tình tương thân, tương trợ lẫn nhau để sống theo chiều hướng văn minh, đạo đức. Mối tình ấy đậm đà chân thật, thì người trên thế giới đời sống Tự do, Hạnh phúc. Trái lại thì nô lệ khổ đau!
    Nói dễ nghe hơn, con người không thể từ chối trách nhiệm thiêng liêng nầy được; bất cứ trẻ già, nam nữ, thường dân hay binh sĩ, đều phải ý thức trách nhiệm, xoay sở theo khúc nhạc tiến bộ và chân lý. Khúc nhạc ấy chỉ ngay bổn phận làm con đối với cha mẹ khi già yếu; công dân đối với quốc gia đang hồi khuynh đảo. Và tín đồ đối với Thầy, Ðạo đang lúc ngửa nghiêng.
    Trách nhiệm là một câu “mật chú” có công năng cấu tạo sự cứu khổ, ban vui cho mọi người.Và cũng là một phương tiện trong “Tám muôn bốn ngàn” pháp môn mà chư Bồ Tát thường dùng trong quãng đời hành đạo của các Ngài. Một tờ hiệu triệu công bố khắp nơi trong nước khích động anh hùng liệt sĩ, và thất phu không thể thờ ơ trách nhiệm của mình trong lúc xâm lăng giày xéo Tổ quốc. Và một con người trăn trở trên giường bịnh, dầu không nói được, nhưng đôi khi cũng ra dấu nhắc nhở thân nhân phải nhớ trách nhiệm trong lúc mình sắp ly trần. Thậm chí, như loài ong, kiến không quên trách nhiệm binh vực lẫn nhau, gìn giữ hang, tổ.
    Qua những cuộc thiên tai, động đất, hoặc các hội từ thiện, hoặc cá nhân đã thể hiện tinh thần trách nhiệm như thế nào rồi ! Và phải chăng cụ Phan Thanh Giản dùng độc dược quyên sinh trong khi tình thế không cho phép ông hoàn thành trách nhiệm đối với đất nước lúc nguy cơ! Ngài Bát Thích Mật Ðế vì trách nhiệm tự tay xẻ thịt mình dấu báu kinh trong hồi pháp nạn. Ðại Ðức Mục Kiền Liên hy sinh trên đường trách nhiệm truyền giáo ở phương xa.
    Cho nên bậc thức thời, khi để mắt nhìn lại viễn đồ mà mình có trách nhiệm trong đó họ rất đau lòng, về vấn đề quan trọng chưa được giải quyết. Vả lại đứng về phương diện quốc gia, với câu : “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Và đứng về phương diện tôn giáo, với câu : “Quốc độ động, Bồ Tát động, quốc độ tịnh, Bồ Tát tịnh; Quốc độ động, Bồ Tát tịnh, tức phi Bồ Tát”.
    Ðồng một quan niệm nầy, không luận về nam nữ, nhân sĩ hay thất phu đều phải có trách nhiệm chống xâm lăng giữ gìn cương thổ. Mà hồi tháng tư năm Ất Dậu (1945), thời gian Ðức Huỳnh Giáo Chủ ở chiến khu 7 (miền Ðông), trong bài “Gọi Ðoàn Phụ Nữ”. Ðức Giáo Chủ nói:

    “Chí anh hùng của khách quần thoa,
    Ðâu kém bực tu mi nam tử,

    Sách Thánh hiền truyền lưu mấy chữ
    Thất phu còn trách nhiệm với non sông…”

    Ý thức trách nhiệm mình là một người con chí hiếu; một công dân lương thiện và một tín đồ ngoan đạo, dù ai cũng mến kính luôn!
    Tóm lại, khí thiêng sông núi nhiệm mầu, hun đúc biết bao anh tài nghĩa khí. Trong khung trời thậm thâm vi diệu của Phật giáo, đã phát sinh lắm ngôi sao sáng, soi khắp mười phương ! Ðó là những bậc đã ý thức trách nhiệm con người. Ngược lại, những kẻ không ý thức trách nhiệm, chương mục nầy không cho phép chúng ta bàn thêm.


    CHƯƠNG MƯỜI CHÍN: THẦN
    THẦN: Thần ở đây là thần sắc, cử chỉ do cảm xúc từ trong tâm ý biểu lộ ra.
    Khi nghe thấy việc chi hài lòng thì mặt mày tươi tắn, cử chỉ dễ cảm. Ngược lại, là xụ mặt, nhăn mày, biểu lộ cử chỉ hung bạo, khó thương!
    Trường hợp nầy, nếu hạng thường nhân, được đánh giá là hạng người tầm thường, nông nỗi. Người có trách nhiệm quan trọng với quốc-gia và tôn giáo sẽ bị đối phương nắm được chiều hướng để khai thác hoặc dùng âm mưu sâu kín ngăn chận việc làm trong hiện tại và ở ngày mai.
    Có một sĩ quan thuật lại câu chuyện huấn luyện ở trường :
    Theo kỹ thuật trường sĩ quan, phải triệt để tuân lệnh của hàng huynh trưởng. Và khi nghe tiếng kiểng báo hiệu giờ ngủ nghỉ, dù có Tổng Thống đến trước mặt cũng vẫn tự nhiên, khỏi phải chào hỏi.
    Một ngày nọ A đang nằm nghỉ trưa, bỗng Huynh trưởng đến, A tự nhiên. Huynh trưởng bảo : gặp huynh trưởng phải chào tức khắc, mau lên! A đứng dậy chào ngay! Ðể cho A mỏi đuối, Huynh trưởng bảo: ra sân “thục dầu”, tội chào Huynh trưởng mà mình trần trụi! Nhanh lên! A riu ríu ra sân “thục dầu” lúc 12 giờ trưa! Nắng gắt, A mệt đừ Huynh trưởng bảo : mặt mày phải tươi vui lên! A nghe lời vui tươi nên được tha tội!
    Tiếp theo, bữa nọ Huynh trưởng cầm trái ớt sừng chín hỏi A: Trái gì? A đáp: Trái ớt. Huynh trưởng bảo phải nói trái chuối. A nói: Trái chuối! Huynh trưởng nói: Chuối thì ăn ngay! Không được cãi! A vâng lệnh cầm trái ớt ăn với hai hàng nước mắt chảy tuôn. Huynh trưởng bảo: Ăn không được buồn tức, phải vui vẻ lên! A vâng lời, nhưng bề trong căm thù vô hạn!
    Ðúng ba năm, trong đêm liên hoan mãn khóa, Huynh trưởng gọi A và vài sĩ quan khác vào tư phòng, tặng cho mỗi người một cây bút làm kỷ niệm. Và cho biết : Sở dĩ, phải khắc khổ riêng các em trong thời gian học tập là vì Huynh trưởng đã theo dõi hồ sơ các em từ địa phương, qua các trường sở và những ngày thụ huấn nơi đây. Ðược biết : Các em là người có hạnh kiểm tốt, và có tài năng hơn chúng bạn. Các em nên ý thức : một sĩ quan, ngoài tài hành quân diệt địch nơi chiến trận, chưa đủ. Phải cần những đức tính “điềm tĩnh”, thần sắc tự nhiên trước những trường hợp sôi gan, căm tức để các em tập tánh bình tĩnh, không nóng nảy, nông nỗi, lầm mưu chọc tức của kẻ địch . Và không biểu lộ một cử chỉ nào sơ xuất trong khi ngồi bàn hội nghị, làm cho đối phương không lượng biết được ý mình mà ngăn chận trước. Ðược vậy, mới gọi là một sĩ quan hữu tài về quân sự và chánh trị, cùng có đủ những điều kiện thăng lên cấp bậc lãnh đạo quốc gia quan trọng sau nầy.
    Cho nên, con người, nhất là người có trách nhiệm lưỡng quyền tôn chính, họ rất cẩn thận, tập luyện về thần sắc, cử chỉ trong khi phải đương đầu với những trường hợp bất trắc, gay cấn, đủ bình tĩnh và nghị lực làm chủ tâm mình, không biểu lộ cử chỉ ra ngoài. Do đó, nên đối phương không lượng biết trước việc làm của họ để kịp thời đối phó! Nhờ thế, nên việc làm của họ tránh bớt trở ngại, dễ đạt thành công.
    Tóm lại, làm người dù đứng trong lãnh vực nào, dù đời hay đạo ta cũng nên tập cho mình có được cử chỉ tự nhiện về “thần sắc” khi gặp phải trường hợp “dầu sôi nhiêu bỏng”. Nhất là những người có trách nhiệm quan trọng trên trường chánh trị và tôn giáo. Thần sắc và cử chỉ phải được tự nhiên, vì đây là một nước cờ đấu trí. Người đấu trí phải quan tâm cực điểm vấn đề nầy.

    CHƯƠNG HAI MƯƠI: NHÂN
    NHÂN: Là nhân đạo, quí trọng mạng sống người và vật, và hay thương giúp kẻ khó nghèo, cô thế.
    Làm người không có tình thương đối với người và vật đâu còn ý nghĩa con người. Nhưng tình thương có giới hạn:
    Loài vật không có tình thương đối với những con vật khác, dù cho chung bầy của chúng. Nghĩa là chúng chưa có tình thương gia đình nên giành ăn cấu xé lẫn nhau. (Cũng có những con vật biết thương bầy, nhưng rất ít). Tiến đến con người, đa số chỉ biết thương gia đình vợ con, cha mẹ, anh em, chớ không có tình thương lớn rộng hơn. Tiến hơn nữa, là các vị anh hùng cứu quốc, các Ngài đặt tình thương chung cả chủng tộc đồng bào. Và cao trên hết là tình thương của Phật, Thánh, thương chung vạn loại chúng sanh.
    Hôm nay trình độ nhân loại tiến bộ khả quan, tình thương cũng nên cải thiện. Nhưng trên đời thường có những tình thương thiếu chơn thật. Tình thương thiếu chơn thật tức nhân loại vẫn còn đau khổ hơn. Khi nào con người diệt được lòng tham lam, ích kỷ và bản ngã của mình, mới có được tình thương chơn thật.
    Người có được tình thương chơn thật, đúng với ý nghĩa Nhân đạo, chẳng những không gây tổn hại cho người hiện tại mà còn phải tránh tai vạ cho hậu thế nữa.
    Phải biến dịch tình thương bằng lượng khoan hồng cho những con tim lầm lỗi biết phục thiện! Phải đủ tình thương và trách nhiệm của kẻ làm cha, anh dẫn dắt đường hướng sáng suốt cho những đứa con, em đã tin tưởng và trở về nương tựa với ta.
    Và ta nên quan tâm: việc đời có lắm trái ngang uẩn khúc; người có lòng nhân không nên háo thắng, vội kết tội kẻ khác trong khi hắc bạch chưa phân và làm cho người khác chịu nỗi oan tình mà thương tổn đến lòng nhân đạo của ta.
    Ðường đời vạn nẽo chi li, có nhiều bẫy rập ; người thấy biết xa và có tình thương đồng loại rất đau lòng khi thấy kẻ thật thà, kém trí, không nhận được đâu là chân giả, đâu là lợi hại, phải chịu lạc lầm đi sâu vào con đường đen tối.
    Là người tốt phước hơn đám dân đen nên lấy tình thương chơn thật đối với mọi người. Hãy hình dung lại từng giọt mồ hôi nước mắt của đồng bào mà khắc phục lòng tham ác của ta. Vì trải qua bao thời kỳ binh lửa, đồng bào ta đã chịu đau khổ nhiều rồi. Nay ta nỡ nào nhẫn tâm gây cảnh đau khổ thêm. Ðược vậy mới đúng với ý nghĩa cao quí của biến từ nhân đạo, một biến từ mà các nhà Triết học đông, tây đều nhắc nhở đến luôn.


    CHƯƠNG HAI MƯƠI MỘT: NGHIÊM
    NGHIÊM: Là nghiêm minh, nghĩa là người có trọng trách với gia đình, quốc gia và tôn giáo, lúc nào cũng phải nghiêm khắc, công minh trong mọi hình thức thưởng phạt. Dù người thân hay kẻ sơ cũng vậy. Luôn luôn tùy tài đức giao định trách nhiệm; không vì quyền lợi cá nhân, bè phái làm thiên lệch đòn cân công lý.
    Khi dùng uy nghiêm như cơn vũ bão, lúc dụng đức thiện như nước cam lồ. Lúc nào cũng lấy trí nhật nguyệt soi khắp nơi kinh cùng ngõ hẹp, và đặt chế luật pháp nghiêm minh đúng phép. Luật pháp nghiêm minh đúng phép là điều trọng yếu đem lại cảnh Tự do Hạnh phúc cho mọi người. Nhất là đám dân đen ngắn cổ khó kêu thấu đến trời xanh!
    Và nghiêm minh cũng thuộc về “đại đức” của đấng nghiêm đường, của vị nguyên thủ quốc gia sáng suốt và một đấng Tôn Sư khả kính, đem lại sự công bằng an lạc, phát huy tài năng, tiến bộ cho nòi giống và cho vạn loại chúng sinh. Thế nên có khi ta không thích người đó, nhưng vì lẽ công bằng và vì lợi ích chung, buộc ta phải dung tha, trọng dụngVà ngược lại, đó là phép nghiêm minh của bậc quân tử đại độ xử sự lúc bình thường hay khi bất trắc, dù ở lãnh vực nào, người giữ địa vị quan trọng phải tập cho mình có được hạnh đức nghiêm minh, đi đứng chững chạc, nói làm phải phép. Thế mới đủ tư cách một con người lãnh đạo.
    Ðây là đức nghiêm minh của người có trách nhiệm với gia đình, quốc gia và tôn giáo. Tuy nhiên, với người quân tử :

    “Lỗi người thì hoàn toàn tha thứ,
    Lỗi mình thì tự xử nghiêm minh”

    Hằng ngày hãy lo xét sửa mình và con cháu mình ăn ở theo đạo lý Thánh hiền . Ðó là tánh quân tử nên tập. Trái lại, lỗi mình và con cháu mình thì dung dưỡng, che chở, lỗi người và con cháu người thì moi móc phanh phui. Ðó là tánh tiểu nhân nên chừa bỏ.
    Trước khi muốn nói điều chi ta nên tự hỏi lại lòng ta có phải thật sự như vậy hay không? Hay là bề ngoài nói vầy, bề trong tính khác? Ðứa ăn ở hai lòng, đáng thẹn cùng cây cỏ ! Lắm khi đắp trên vai chiếc áo từ bi, nhưng vẫn dùng chiêu bài mị chúng. Lại nữa bức tường vô minh kiên cố, nhân ngã bám chặt như sam. Tình đồng loại không quên nhắc nhở, nhưng càng nhắc nhở càng ngờ vực, dẫn đến sự chia ly.
    Bởi lẽ:
    “Cỏ cây cùng điểu thú chim muôn,

    Nhơn với vật hườn lai bổn tánh…”
    Cái nguyên thủy bổn tánh ấy, có thể nói dễ hiểu hơn là:
    Cũng đồng một trái cam người nào mình ưa, hái ăn thì mình vui; kẻ nào mình ghét, mó tay vào thì mình buồn! Cách xử sự như vậy chẳng nghiêm khắc công minh chút nào cả. Vì đã mất đi ý nghĩa con người.
    Với câu: “Chánh kỷ hóa nhơn” không còn giá trị với số người nầy. Thế mà họ vẫn huênh hoang trước quần chúng và chễm chệ chốn công đường.
    Thật không còn nghị bàn chi nữa!
    Hãy để cho dư âm khúc nhạc “nghiêm minh” biến dần theo định luật sa thải của tạo hóa mà thôi.


    CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI: CÁCH
    1/. CÁCH: Là cải cách, nghĩa là thay cũ, đổi mới, vùng vẫy, vượt không gian và thời gian theo kịp trình độ tiến hóa của nhân loại .
    Xin đơn cử vấn đề cải cách:

    a/. CẢI CÁCH TÂM TÁNH:
    Muốn tu giải thoát theo Phật giáo, muốn xây dựng quốc gia phú cường và phát huy tôn giáo hưng thịnh, trước hết phải biết cải cách thay sửa tâm tánh ta. Tánh cố định, thủ cựu, tham lam, hèn nhát, bất công, ích kỷ v.v… Những tánh ấy phải tự mình thay sửa cho kỳ được mới hợp lẽ trên đường tiến bước đến thành công. Nhưng việc thay sửa đó, chẳng phải dễ dàng đâu. Bởi bản chất tự nhiên của mọi người đã sẵn. Và vì ảnh hưởng gia đình, tập quán, nhiễm các thói hư tật xấu qua bao tháng năm dài hạn, nó đã trở thành tật đã quen, phải cố gắng lắm mới được.
    Có nhiều người tài học cao và tu lâu năm, họ xa cách chúng ta thời gian khá lâu nhưng khi gặp lại, tâm tánh của họ vẫn y như cũ.
    Tôi có một ông bạn thân, trước khi nói ông tự lấy tay vuốt mũi ông vài lần rồi mới nói. Và một cô bạn muốn nói điều chi, dù nam hay nữ gì cũng vậy ; cô nhìn mặt nhướng nhướng đôi lần rồi mới bắt đầu vào việc. Cách nhau hằng chục năm, khi gặp lại tật cũ vẫn còn y. Mặc dầu đã có người chỉ cái tật chẳng đẹp ấy.
    Với tật nhỏ còn khó sửa thay, huống hồ chi những tật lớn hơn.
    Nhưng một con người không thay sửa được tật (tính) bất hảo của mình, tức phần đức độ kém, đức độ kém, không thể chủ trì được việc làm trở thành chánh nghĩa và chánh đạo.
    Hãy tập trung nghị lực, thay sửa tâm tánh chẳng đẹp, chuẩn bị cho ta có đủ điều kiện bước lên nấc thang cao quý của một kiếp làm người sinh trên cõi thế.

    b/. CẢI CÁCH TƯ TƯỞNG, TẬP QUÁN, GIÁO DỤC VÀ VIỆC LÀM:
    Thói thường con người ta hễ cái nào xài quen, cứ giữ lại xài, chớ chẳng chịu mất công tìm tòi cải cách thay cũ đổi mới. Bởi cái thay cũ đổi mới đương nhiên là vượt trên tầm độ hiểu biết của đa số người, nên họ không tin và không làm.
    “Tân pháp” Vương An Thạch người đương thời không theo, bởi trình độ dân trí kém xa “Tân pháp”. Và tài liệu Tường trình của Nguyễn Trường Tộ, vua tôi nhà Nguyễn chẳng tin, vì trình độ của họ thấp hơn Trường Tộ.
    Buồn cười thay câu chuyện có lợi thực tế phần nhiều người ta ít chịu nghe; câu chuyện ông thiêng liêng ở xứ Chàm Chẹt nào đó, người ta thích nghe và thích tuyên truyền hơn!
    - Hãy bãi bỏ những tục lệ lỗi thời, như : cúi đầu nghe theo lệnh mấy ông già thủ cựu, kém sáng suốt, cùng những con người đương kiêm địa vị, nhưng thiếu tài đức và đi ngược với chiều hướng tiến bộ. Chúng ta chỉ trọng những ý kiến hay, sáng thôi ! Không luận trẻ già, nam nữ.
    - Hãy dẹp hết những tục lệ mê tín, như : cúng căn, thôi nôi, đầy tháng, tam tai, xin xâm, bói quẻ, ăn lễ mùng năm (tháng năm), thờ bà mẹ sanh, ông độ mạng, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng.v.v…
    - Hãy hạn chế những nghi lễ linh đình, xa xí, như : Tang lễ, cưới hỏi, giỗ quải, tân gia, sinh nhật…để tiết kiệm ngân quỹ gia đình cho con em ăn học cùng đóng góp vào công cuộc kiến thiết quốc gia và đạo pháp.
    - Những nghi lễ rườm rà phức tạp xưa không nên áp dụng trong gia đình, công sở và Tự, Viện. Vì nó phí nhân lực, thời gian và ngân quỹ vô ích.
    - Hãy bãi bỏ lối học: phiền toái, nhồi sọ, mất tự chủ và không thích hợp với bước tiến văn minh của thế giới nên học những môn học thực dụng cần thiết, có lợi thực tế và tiến bộ.
    - Các nơi: Ðình, Am, Lăng Miếu, Tự, Viện và những cơ sở do người Việt sáng lập, nên viết bảng bằng chữ “Quốc Ngữ” để nói lên tinh thần độc lập tự chủ của quốc gia Việt Nam. Ngược lại, ta viết bằng ngoại ngữ, chứng tỏ ta còn nô lệ ngoại bang. Ðành rằng, ta vẫn xài ngoại ngữ, nhưng xài với tánh cách giao dịch, văn hóa và thương mại thôi.
    - Ðừng thích mang cây cày với đôi trâu chậm chạp; đừng ham bắn cây súng đại bác thô sơ cũ kỹ; đừng đem tài loạn trường thương của Triệu Tử Long xưa đỡ viên đạn tiểu liên của anh du kích chiến hiện nay.
    - Ðừng mê đọc những câu thần chú cũ kỹ mà không hiểu nghĩa, phải vượt hơn con ếch nằm trong hang và con gà cồ ăn quẩn cối xay trong phạm vi nhỏ hẹp của mái chái gia đình.
    - Hãy phá tan cái khung hình thức cố định và vứt bỏ cặp mắt kính pha màu.
    - Ngoài việc tìm học, đọc sách báo ra, người có trọng trách với quốc gia và tôn giáo, phải có một phương thức hay khéo để thu thập những gì gọi là tiến bộ của bên kia chân trời thế giới, hầu làm tài nguyên cải thiện cho quốc gia mình được phú cường và tôn giáo mình được hưng thịnh.
    - Chúng ta vẫn công nhận phương thức làm việc của người xưa rất hay. Nhưng nó chỉ hay trong một thời điểm nào đó thôi. Khác thời điểm nó không còn hoàn toàn hay nữa. Bởi vậy, nhà lãnh đạo quốc gia và tôn giáo phải luôn luôn quan tâm cực điểm về tinh thần “dân chủ” và “đồ chủ” (nghĩa là tín đồ làm chủ, giống như “dân chủ”) hợp lý và thực tế…
    - Lo đào tạo nhân tài, mở mang “dân sanh”, mở mang “dân đức” và mở mang “dân trí” là mục tiêu chính yếu về việc cải cách mà người có trách nhiệm với quốc gia và tôn giáo không thể thờ ơ.
    - Hãy sáng suốt can đảm dùng lý trí thắng vượt mọi tình cảm, quyền lợi cá nhân và thi hành triệt để những biện pháp đã chọn lọc kỹ. Hãy ý thức quy luật bù trừ và cải tổ hợp lý. Ðây là then chốt yếu cần làm cho cá nhân tiến bộ, nước giàu, đạo sáng.
    Nhưng cải cách phải hợp thời hợp lý và tiến bộ hay hơn, bằng trái lại là thất sách, tai hại.
    Tóm lại, từ việc cải cách tâm tánh, tư tưởng, tập quán, giáo dục và việc làm, người có trọng trách với gia đình, quốc gia và tôn giáo phải biết cải cách theo đà tiến bộ kịp thời đại khoa học nguyên tử. Ngược lại là lạc hậu, suy yếu và họa diệt vong đang chực sẵn bên ta.


    TỔNG KẾT

    Ðể độc giả nhận được thâm ý tác giả muốn nói những gì trong quyển sách nầy, tác giả xin tóm lược vài chi tiết.
    - Chúng ta không cao vọng trở thành ngôi sao sáng trên khung trời như các bậc siêu nhân trong lịch sử Ðông, Tây thế giới. Nhưng dù sao chúng ta vẫn là con người biết tri, biết giác hơn con vật. Chúng ta phải vùng vẫy tiến lên theo chiều hướng hóa sinh của bộ máy âm dương trời đất. Thế mới chẳng uổng công sanh dưỡng của mẹ cha, và không hỗ thẹn mình khi nhìn lại cảnh vật núi sông.
    - Với những từ, như: liêm chính, bình đẳng, tiến bộ, nhân tài…mà tôi thường nói trong đây, gần như vi phạm nguyên tắc hành văn. Nhưng không! Tôi muốn dùng điệp khúc để dư âm ấy còn văng vẳng bên tai hầu trợ từ cho độc giả suy tư nghĩ ngợi việc ở đời.
    - Tôi xin nhắc thêm với tri âm tri kỷ: dầu ta có tài siêu quần, bạt chúng, lái phi cơ bay liệng trên không, ai thấy cũng phục. Nhưng nên cẩn thận sương mù, vì đây là thứ tai hại rất lớn; nếu rủi ro lạc phi đồ va chạm vào núi thì sinh mạng không còn ! Vấn đề nầy trên các đài truyền thanh, báo chí loan tin cũng nhiều. Thì ra, lợi danh ví như sương mù đã làm hại biết bao người, kể cả nhà tu, tướng sĩ, danh nhân.
    Chắc quí độc giả cũng biết: Thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, với tài lái phi cơ khét tiếng của tướng Nguyễn Cao Kỳ ở Việt Nam. Có một lần biểu diễn, ông lái phi cơ chun ngang dạ cầu Bến Lức đồng bào chứng kiến, ai mà chẳng lắc đầu thán phục. Nhưng đối với trường danh lợi, người ta chưa thán phục ông đâu. Vì khi gặp phải áp lực của danh lợi, thì ông cũng phải chịu khổ lụy như bao nhiêu người vậy thôi.
    - Là con người nên sớm ý thức tuồng đời dâu bể, vạn vật vô thường, chúng ta không quá “tham sanh úy tử”, nhưng cũng đừng để chết vô điều kiện như con vật thiêu thân, trong cái chết vừa ham vui, vừa đốt xác, phi lý vô cùng!
    - Tôi còn quên xin nói tiếp: chuyện dị đoan mê tín, càng trái với đường lối khoa học và Phật học; dầu không phải tội sát sanh, đạo tặc. Nhưng nó vẫn đắc tội lớn, bởi làm trở ngại cho tiềm lực quốc gia và đạo pháp.
    Thời Mãn Thanh, Từ Hy Thái Hậu, một nhân vật lãnh đạo quốc gia vì còn mê tín theo phù phép của tổ chức “Nghĩa Bồ Ðoàn” nên bị thảm bại trong cuộc tranh đấu giữ lại chiếc ngai vàng. Cho nên người còn óc mê tín dị đoan, trình độ cạn hẹp, không đủ trí phát minh khoa học, đương đầu với chính trị, và tỏ ngộ Ðạo pháp. Mà trong tài liệu Phật Giáo đã lưu lại bao lần kết tập báu kinh.
    Phần tổng kết: theo nguyên tắc không thể diễn tả dong dài. Tôi tin rằng, sau khi xem kỹ từng chương mục, độc giả cũng lưu ý phần nào về việc phát huy Tài Ðức. Tài đức theo tôi, không phải hoàn toàn đánh giá qua văn bằng cử nghiệp. Tài là làm được những việc ít người làm được. Ðức là tâm lành hạnh tốt. Tài Ðức là hai yếu tố đem lại cho gia-đình đầm ấm, quốc gia giàu mạnh, tôn giáo thịnh hưng.
    Là một biện pháp phương tiện không thể giải thích dù bằng cách nào như cấu thành một công thức Tự do, Nhân quyền, Bình đẳng. Quyển sách nầy đúc kết những điều kiện cần thiết để tiến đến mục phiêu: Liêm, Trí, Dũng… không chấp thuận tác dụng trên bình diện mậu dịch, và chính trị hiện đại ở Việt Nam.

    )(

    MỤC LỤC
    ======
    GIỚI THIỆU 3
    LỜI NÓI ÐẦU 5
    CHƯƠNG MỘT: CẦN 7
    CHƯƠNG HAI: CẨN 10
    CHƯƠNG BA: HÒA 17
    CHƯƠNG BỐN: NHẪN 23
    CHƯƠNG NĂM: LỄ 27
    CHƯƠNG SÁU, BẢY: KHẨN, HOÃN 30
    CHƯƠNG TÁM: KHIÊM 33
    CHƯƠNG CHÍN: NGHĨA 36
    CHƯƠNG MƯỜI: LIÊM 40
    CHƯƠNG MƯỜI MỘT: DŨNG 43
    CHƯƠNG MƯỜI HAI: BÌNH 45
    CHƯƠNG MƯỜI BA: KIỆM 49
    CHƯƠNG MƯỜI BỐN: TÍN 54
    CHƯƠNG MƯỜI LĂM: MINH 62
    CHƯƠNG MƯỜI SÁU: TRÍ 76
    CHƯƠNG MƯỜI BẢY: TRUNG 84
    CHƯƠNG MƯỜI TÁM: TRÁCH 96
     

Chia sẻ trang này