KHÁI NIỆM VỀ TƯ CÁCH NHÀ TU của Cư sĩ Nguyễn Văn Đon

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 3/11/16.

  1. Buile

    Buile Member


    KHÁI NIỆM VỀ TƯ CÁCH NHÀ TU
    cư sĩ Nguyễn Văn Đon

    ***

    LỜI NÓI ÐẦU
    Từ lâu tôi rất đau lòng khi chứng kiến một số em, cháu Phật Giáo Hòa Hảo mang sắc áo nhà tu lại kém về “tư cách”, như: Ði, đứng, nằm ngồi, ăn, nói và phép xử sự.v.v…Ðiều nầy người ta đánh giá chung cho Ðạo. Vả lại, “tư cách” thuộc về “đức hạnh”, đức hạnh là nền tảng của “Ðạo”. Nền tảng không vững chắc thì tòa lâu đài Tiên Phật bị sụp đổ ngay đang và sau khi xây dựng. Nhưng lỗi nầy không phải hoàn toàn do nơi hậu tấn, mà một phần cũng do những người đi trước hiện nay không quan tâm đến trách nhiệm của mình.
    Chính đây là nguyên nhân làm cho quyển KHÁI NIỆM VỀ TƯ CÁCH NHÀ TU nầy được soạn thảo và sao chép ra trong phạm vi cần thiết. Nếu em, cháu nào xét thấy cần thì đọc, không thì xếp lại! Tôi rất hoan hỷ với khẩu hiệu “Tự do” hơn là “Tấn ép”. Và định luật chung của các tác giả xưa nay, đương nhiên phải tiếp nhận những ý kiến hay để xây dựng tốt cho tác phẩm của mình.

    Mộ Bà Cổ Tự, (An Giang) Xuân Quí Sửu 1973.
    Nguyễn Văn Ðon



    KHÁI NIỆM VỀ TƯ CÁCH NHÀ TU (1)​

    Xưa người mới xuất gia tu theo Phật, trước nhất phải vào làm thị giả cho Phật, hoặc một vị đại đức để luyện tập về “tứ oai nghi”: đi, đứng, ngồi, nằm và phép: ăn, nói xử sự yếu tố nầy gọi là “đức hạnh” mà nhà tu không thể thiếu nó được; vì nó là phẩm chất cao quý của một con người có giáo dục về đạo đức.
    Dù không xếp vào hàng Tăng, Ni Phật giáo nhưng cũng là người đã đặt mình vào hệ thống nhà Phật “. . . lần lần lên con đường giải thoát”. Nên hôm nay chúng ta cùng nhau tuần tự bàn về “Tư Cách Nhà Tu” như thế nào?


    CHƯƠNG MỘT

    TỨ OAI NGHI: Ði, Ðứng, Ngồi, Nằm.

    I.- ÐI

    1.- SUY NGHĨ TRƯỚC KHI ÐI:
    Thời gian là vàng ngọc, làm người phải biết dồn thời gian vào việc tiến hóa. Hoang phí thời gian là hoang phí vàng ngọc của đời người. Nếu ta xem thời gian như cỏ rác, thì giá trị ta như cát bụi. Cho nên trước khi muốn đi đâu, ta phải biết đi với mục đích gì? Có nên đi hay không? Ðừng ví mình như: “lục bình trôi” theo dòng sông định mệnh! Rồi ngày nào đó, hối tiếc cho kiếp sống đời ta không có một ý nghĩa đáng nói.

    2-. CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI ÐI:
    Trước khi đi, ta phải sắp xếp, chuẩn bị những vật dụng cần thiết như: thuốc men, nước uống, khăn nón, áo mưa.v.v. . . đừng để ra đường quên việc nầy, thiếu thứ nọ, rồi nôn nóng, nhắn gởi và gặp ai cũng quơ mượn . . .Và việc hứa hẹn phải đúng thời giờ, đừng để người chờ đợi phiền phức.

    3-. CÁCH ÐI:

    Ði ngay đường thẳng lối; không quẹo qua, quẹo lại; không mau quá; không chậm quá, chuyện gấp đi theo gấp, hưỡn đi theo hưỡn. Không cố định. Ði tự nhiên, đừng làm cách thước tha, yểu điệu, không nhắm hình sửa dạng, không hất mặt lên trời,
    không gầm đầu xuống đất, không đi ịch đụi như chày nện sân và khi mang giày dép phải nhẹ nhàng, cẩn thận.

    4-. ÐI RA ÐƯỜNG:
    Khi ra đường, cách ăn mặc hợp với hoàn cảnh và địa vị của mình. Ðừng chưng diện sặc sỡ không đúng cách và cũng đừng quá bẩn thỉu lôi thôi, hở hang trần trụi. Nhất là người Ðạo và lớn tuổi không nên mặc quần đùi, áo lót đi rong chơi hàng xóm. Ra đường phải chấp hành luật giao thông nghĩa là luôn luôn đi bên phải, không đi hàng đôi, hàng ba, lấn choán cả đường. Và không nói cười lớn tiếng, nhất là lúc đêm hôm làm phiền giấc ngủ người chung quanh.
    Ðiều lịch sự là phải vui vẻ khi chào hỏi người quen biết. Ðối với các bực cao niên kỷ, ta không nên vô lễ
    để người chào hỏi ta trước, và dù không quen biết ta cũng giữ gìn lễ độ. Khi chào hỏi, ta phải dỡ nón và không ngồi trên xe Honda, xe đạp chỏi chân nói chuyện với người lớn tuổi hơn ta. Ðừng gặp người quen rồi dòm xuống, hoặc xoay mặt chỗ khác. Và cũng đừng chào hỏi với cách mất “bình đẳng” phú trọng bần khinh, vì giàu nghèo, ngu trí cũng vẫn là con người.
    Khi đi qua nhà một người thân quen, dù bận công việc ghé không được, nhưng ta cũng phải nhìn vào để tỏ chút tình, đừng xoay mặt qua hướng khác, hoặc ngó xuống rồi đi luôn, làm cho người bất chợt nhìn thấy phải hiểu lầm, và cách xử sự ấy kém tâm lý, mất lịch sự. Lúc đi đường, ta không nên nhìn bên nầy bên kia, hỏi thứ nầy, tò mò thứ nọ, hoặc chỉ trỏ người rồi nói cười vô phép. Nếu khi nhìn người, ta phải nhìn với đôi mắt hiền lành, mặt mày vui vẻ, dễ cảm. Ðừng nhìn người với cử chỉ chòng chọc, trề môi, nhăn mày, trợn mắt cử chỉ khó thương, hoặc lãnh đạm khinh khi. Ðiều nên tránh, là vừa chạy xe đạp, xe gắn máy, hoặc vừa đi, vừa nói đạo làm ồn ngoài đường. Ðạo pháp là quý báu, bàn luận phải đúng nơi đúng chỗ, đâu như bánh kẹo mà rao bán ngoài đường.
    Nếu cùng đi trong một đoàn, ta phải chờ đợi nhau cho có tình có nghĩa. Khi đi đến ngã ba đường, người đi trước phải chờ đợi người đi sau, kẻo để lầm lộn đường. Và cũng đừng rong chơi chỗ nầy nơi nọ hứa hẹn không đúng giờ, điểm, làm cho người đi chung mất công chờ, kiếm.

    5-. ÐẾN NHÀ NGƯỜI:
    Trước khi đến nhà người, ta nên chọn giờ giấc thích hợp; không làm trở ngại người trong cuộc sinh sống hằng ngày.
    Lúc đến nhà người, ta phải lột mũ, nón ra, phải chậm lại một ít phút, không nên vội vàng suồng sã vào nhà vô lễ. Khi đậu một chiếc xe, để một cái xách, cũng phải đặt chỗ nơi cho đúng cách, và không nên mang giày dép vào nhà bừa bãi. Nếu không phải là chỗ thân tình, phải để người mời, ta mới ngồi. Sau khi chào hỏi xã giao xong, ta nhớ nên hỏi thăm sức khỏe người già cả tuổi tác bịnh hoạn và sự
    vắng mặt người trong nhà (nếu chỗ quen thân), rồi mới bàn qua chuyện khác. Ta nên biết, nếu mình là người không có trách nhiệm, quyền hạn với người trong nhà, thì đừng lên mặt dạy đời, sửa cái nầy, thay thứ nọ . . Cũng đừng tò mò lục soạn sách báo, hay gặp một quyển sách rồi ngồi chăm chú đọc mãi, làm cho chủ nhà bực mình vì phải ngồi chờ choán mất thời gian!
    Ta còn cần phải tìm biết tính tình và khuynh hướng người trong nhà: khoa học, hay mê tín? Bác ái hay ích kỷ? Ðể áp dụng lời nói của ta cho thích hợp. Ðừng đem chuyện gia đình của ta ra nói nhiều, làm cho người bực bội. Và cũng không nên nói như một ông thầy giảng kinh cho đệ tử nghe (nếu không được sự yêu cầu tha thiết). . .Ngoài ra, ta phải biết tâm lý, lánh mặt, dành thời gian cho người nói chuyện riêng. Và nhất là những câu chuyện cẩn mật. Ta không nên nói lớn tiếng làm cho người bên cạnh nghe sinh sự mất lòng và gây nhiều hậu quả chẳng tốt.
    Lúc chuyện vãn, ta phải biết chủ nhà có bận việc chi không? Nếu xét thấy thời giờ không cho phép, ta nên kiếu về, đừng cà kê lâu làm cho người chán. Và cũng đừng dòm ngó thứ nầy, nói dèm thứ nọ, cũng đừng làm phiền người trong việc đưa rước, uống ăn.
    Tóm lại, khi đến nhà người, phải tùy nghi xử sự sao cho khi ta ra về người còn lưu luyến và không để lại một cái gì gọi là nặng nề nơi đầu óc của người trong gia đình. Ðó là phép lịch sự khi đến nhà người

    6-. ÐI THĂM BỊNH:
    Vì chỗ tình nghĩa, khi người quen thân có bệnh ta phải đến thăm. Việc tặng quà hay không là tùy thuộc
    nơi ta. Có điều nên lưu ý: Trong nhà có người bệnh hoạn, ta không nên nói nhiều và cười giỡn lớn tiếng. Nếu trực tiếp hỏi thăm bệnh nhân, ta chỉ nói ngắn gọn thôi. Và nếu bệnh nhân trầm trọng, ta hỏi thăm người nhà cũng được.
    Ðiều vô duyên là ta kể lại chuyện bệnh hoạn nan y và chuyện vắn số của người khác cho bệnh nhân nghe. Ðây là hành động ngây ngô lắm! Nếu ta có tốt lòng điềm chỉ lương y, thuốc men, ta nên góp ý kiến với người nhà thôi. Ðừng cả quyền quyết định, nếu ta thấy không có trách nhiệm và đủ tư cách thẩm quyền. Câu thành ngữ: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, hàm dụng ý rất quý. Song ta phải biết: Trong gia đình người hữu sự, ta cần phải ở lại lâu, hay nên về sớm? Làm thế, không có nghĩa là vô tình hay lạnh nhạt, mà cốt để tránh bớt việc bận rộn, hao tốn cho gia đình thôi. Nhưng dù sao gia đình thân thiết hữu sự, ta thường lui tới thăm hỏi, giúp đỡ cho trọn nghĩa tình và hỗ trợ nhau khi tối lửa tắt đèn là điều rất tốt.

    7.- ÐẾN CÁC NƠI:
    - Ðến công viên: Công viên là nơi giải trí công cộng, ta không nên vi phạm các điều lệ trong bảng cấm. Và không nên tiêu tiểu, ngắt hái hoa kiểng, xả rác làm dơ bẩn, mất lịch sự.
    - Ðến cửa hàng: Khi vào cửa hàng mua đồ, ta muốn mua vật chi phải hỏi người có trách nhiệm trong đó. Ðừng tự tay lục soạn vô phép. Và đồng ý thì mua, không đồng ý thì thôi. Ðừng có lời chê bay món nầy vật kia làm mất cảm tình.
    - Ðến quán ăn: Ðừng ngồi chễm chệ, dựa qua ngả lại, gác chân lên bàn ghế và khạc nhổ.v.v. . . Muốn ăn món chi, ta nên dùng lời nhã nhặn, đừng ỷ mình có tiền, cử chỉ hống hách. Và có điều nên nhớ: ta đã mang sắc áo nhà tu, lại ngồi nơi bàn cờ, mâm rượu và tửu điếm hoặc xem phim ảnh “Không lành mạnh”. . .
    Ðây là một trong những hành động làm mất ý nghĩa sắc áo từ bi. Nhà tu nên tránh điều nầy.
    - Ðến bệnh viện: Ðến bệnh viện ta phải tuân hành theo nội quy của viện, không nên nói cười lớn tiếng
    làm mất sự yên tĩnh, biết nhân nhượng người đau yếu và biết gìn giữ vệ sinh chung.
    - Ðến công sở: Công sở là nơi làm việc của các cơ quan chánh quyền nhằm mục đích giải quyết mọi vấn đề thuộc về pháp lý, đem lại quyền lợi chung cho nhân dân và bảo vệ an ninh trật tự quốc gia. Người công dân nên ý thức và trách nhiệm của mình. Khi đến công sở không nên chen lấn, làm ồn. Phòng nào không liên quan đến chúng ta, ta không nên vào chật chội, phiền phức nơi công sở.

    8-. ÐI ÐÁM TIỆC:
    Ðám tiệc là thông lệ của tập tục xã hội Việt Nam xưa nay để thù đáp qua lại chỗ tình nghĩa với nhau, giữa xóm chòm và thân quyến. Vậy ta phải biết phân ra từng trường hợp:
    Trường hợp già yếu: Người ta thường nói: Ðám tiệc có ông già bà cả thì ấm áp hơn. Bởi có người thức đêm giữ chừng nhà cửa, và chỉ dạy về nghi lễ. Nhưng đừng bày vẽ những nghi thức rườm rà làm phiền phức. Và già yếu không giúp ích được việc chi, đôi khi bệnh hoạn rủi ro, làm cho con cháu phải hầu hạ, chạy lo bận rộn thêm nữa. Ðây là điều của người già yếu nên tự xử trí thân phận mình.
    - Trường hợp khách: Với tư cách là người khách, ta đến dự lễ để thể hiện tình nghĩa cho vui vậy thôi. Ðừng lên mặt dạy đời, phê bình, chỉ trích, hoặc thắc mắc và làm những việc lôi thôi cho gia đình. Cũng đừng để cho người mất công mời thỉnh lâu. Ở giữa nơi đông người có thể tự tiện ra về, khỏi phải từ giã, làm cho người nhà bớt bận việc đưa tiễn.
    - Trường hợp người thân: Nếu ta là người cao niên kỷ và tình thân với gia đình ta nên ngồi, đứng cho đúng chỗ để chuyện trò với khách, hoặc nhắc nhở một ít nghi lễ cho em cháu trong nhà (nếu thấy cần). Và ta cũng không hay đi lại chỗ nầy, chỗ nọ. .. Làm cho người trong nhà phải mất công tìm kiếm, mời thỉnh lâu.
    - Nếu ta trẻ tuổi, có sức khỏe và thân tín với gia đình, ta nên sẵn sàng phụ giúp bàn ghế, nước nôi, tiếp đãi khi cần. Và có thể ăn sau cùng với gia đình để nói lên tình thân thiện với nhau. Ðừng biếng nhác, rụt rè làm giảm đi tình nghĩa chẳng tốt.
    Mọi cử chỉ: vui, buồn, cười giỡn hay nghiêm trang. . .ta tùy theo ý nghĩa từng trường hợp, xử sự cho đúng phép. Ðó là tư cách khi đi đám tiệc.

    9.- ÐẾN ÐÌNH CHÙA:
    Ðình chùa là nơi tôn thờ những tấm gương đáng kính. Nên khi đến nơi ấy ta phải cung kính các ngôi thờ phượng và giữ lễ phép với các vị đương nhiệm nơi đây (dù là khác tông phái). Trước khi muốn lễ bái, ta phải xin phép. Muốn xem hình, tượng Phật và những câu huấn dụ trên vách, ta không nên đứng với kiểu cách vô lễ.
    Lúc hầu chuyện ta phải giữ lễ độ trang nghiêm thành thật không tỏ thái độ ngạo mạn, chỉ trích làm phiền người có trách nhiệm nơi đây. Có số người đối với tông phái khác, khi tiếp chuyện, họ hay bắt bí, đả phá, cho rằng mình chánh đạo hơn người. Hành động tự họ làm giảm phẩm chất cá nhân và tôn giáo của họ mà họ không hay. Với tư cách là một công dân và một thiện tín đến viếng lễ nơi Ðình, Chùa, khi ra về tăng trưởng thêm long kính Thần, trọng Phật và được giới người hữu trách nơi ấy cảm mến. Thế mới đúng với ý nghĩa của chuyến đi hành hương các nơi tôn nghiêm cao quý.

    10-. PHÉP THAM DỰ CÁC CUỘC LỄ:
    Khi ta đến tham dự lễ các nơi Ðình, Chùa, hoặc tư gia trong Ðạo hay khác tôn giáo, ta phải trang nghiêm tuân hành theo chương trình nghi lễ của ban tổ chức sắp xếp. Không nên tự tiện hành lễ một mình, làm rối trật tự, mất thì giờ và làm phiền bận người khi hữu sự. Nếu trường hợp xét thấy cần cảm tưởng, hay tổ chức cầu nguyện theo nghi lễ của ta, do sự nhu cầu của Ban Tổ Chức, ta phải bàn thảo ổn thỏa kỹ càng, không nên bày vẽ theo ý mình không tốt.

    II.- ÐỨNG.

    Ðứng đúng vị trí của ta. Ðứng ngay thẳng, không ẹo qua ngả lại, không đeo vai cặp cổ, không đứng vô lễ trước những nơi thờ phượng có hình ảnh tôn kính và người già trưởng thượng. Không đứng chân cao chân thấp và chân trước chân sau như chuẩn bị thế võ công để hạ địch thủ. Không đứng lấn choán đường giao thông và lối đi trong nhà chật hẹp. Không đứng chống nạnh với điệu bộ khó coi. Không đứng trên gió xổ nực, giũ khăn áo, chải gở trước mặt người và nơi thờ phượng.
    Không đứng một chân trên ghế, một chân dưới đất thiếu cẩn thận. Không đứng án ngang trong khi người ta đang nhìn ngắm một vật chi ở phía trước. Không đứng chờm hờm và nhìn người ta đang làm một chuyện gì.
    Muốn nói chuyện với ai, ta đừng đứng cách xa; cũng không nên đứng sát bên quèo móc, cười cợt . . .Khi chào hỏi xã giao xong, nam nữ phải đứng theo thứ tự, đúng phép. Ðừng đứng ngoài đường, sau mái hiên nói chuyện khó coi.
    Trong lúc mọi người đang vui và nghiêm chỉnh đồng hướng về một vị trí nào đó, ta không nên vô tình, hay cố ý đứng xoay mặt về hướng khác. Cử chỉ ấy vụng về và làm cho người bất mãn (chỉ trừ một vài trường hợp đặc biệt). Và ta muốn nói điều chi với người, phải vào nhà, đừng đứng ngoài ngõ nói vọng vô, lắm khi làm cho
    người bên cạnh ta không thích. Có điều khó coi là tiểu đứng, không nhìn trước ngó sau.
    Tóm lại, làm người dù ở trong cương vị nào, ta cũng nên giữ cách “đứng” của ta cho phải phép một con người biết Ðạo và biết cách lịch sự ở đời.

    III.- NGỒI.
    .
    Tục ngữ có câu “. . .ngồi coi hướng”. Ngồi coi hướng, tức không được ngồi bừa bãi, trái phép. Giữa chỗ đông người, nếu ta lớn tuổi và địa vị khá cao, ta lại ngồi chỗ sau thấp, đó là ta làm khó cho lớp trẻ tuổi, kém địa vị hơn ta. Trái lại, ta là người thiếu phong cách. Cho nên trước khi ngồi, ta phải chọn chỗ ngồi cho đúng. Và nếu là khách sơ giao, phải đợi chủ nhà mời, ta mới được phép ngồi.
    Ngồi ngay ngắn, không dựa qua ngả lại khi viết lách và giữa chỗ trang nghiêm. Không ngồi điệu bộ như thầy giảng kinh và tréo chân, rung đùi, quạt gió trước mặt người. Không ngồi ghế này, gác chân qua ghế khác làm choán chỗ. Và không ngồi chồm hổm ăn trong một mâm cơm Khi chuyện vãn, nếu thấy trong người mình kém sức khỏe hoặc buồn ngủ, ta nên cáo lỗi đi nghỉ, đừng ngồi ngủ gục gặc khó coi. Lúc mọi người vui vẻ đàm thoại, dù không thích, ta cũng ngồi tự nhiên, đừng nháy nhó, nói nhỏ với người bên cạnh rồi cười vô lễ.
    Có một điều đáng nói là khi người ta đang làm một công việc gì khó khăn, nực nội, ta lại ngồi sát bên, làm cho người bức rứt. Nhà vệ sinh là nơi bẩn thỉu, đi xong rồi ra, đừng ngồi trong ấy xỉa răng, đọc báo để người khác chờ đợi.
    Tóm lại, cách ngồi đối với người không biết phép lịch sự thì ngồi sao cũng được. Nhưng với người biết Ðạo, biết giữ tư cách, không thể không tập sửa phép ngồi của mình cho đúng đắn, như đã nói trên.
    IV. NẰM.

    Nằm cho phải phép, chân không hướng về nơi thờ kính và trước mặt người trưởng thượng. Không nằm ểnh lưng, dựa ngang dựa ngửa và đưa võng trước mặt người. Không nằm giữa chỗ nhiều người đang ngồi. Không được phép nằm nói chuyện với người lớn tuổi đáng kính, nếu không được sự cho phép, không được
    phép nằm tự nhiên trong khi gặp khách đến, cũng như lúc khách kiếu ra về (chỉ trừ khi đau yếu). Và cách tốt hơn hết là khi ngủ nghỉ ta nên nằm nghiêng bên tay phải theo cách nằm của Ðức Phật lúc “nhập Niết bàn”. Tựu trung, phép nằm cũng là một phép được đánh giá nhà tu không kém quan trọng cùng với ba phépnhư đã bàn trong chương mục “Tứ oai nghi” nầy.


    CHƯƠNG HAI: ĂN

    Trước khi ăn ta phải rửa tay, lau mặt sạch sẽ, đừng để miệng mồm, mắt, mũi dơ bẩn làm cho người ta nhờm gớm. Không làm phiền người mời thỉnh lâu. Khi vào ăn phải ngồi cho đúng vị trí, phải biết phân nhường chỗ ngồi và san sớt thức ăn cho đồng đều. Khi cầm đũa phải mời người ngồi gần bên cùng ăn.
    Cách cầm đũa, ta không nên cầm sát dưới đầu đũa ăn và cũng đừng cầm lêu lỏng trên đầu đũa, bung cùi chỏ ra làm đụng chạm người ngồi gần. Tay cầm đũa phải gọn gàng, đừng ngay ngón trỏ ra khó coi. Nếu ngồi ăn trên chỏng, ta đừng ngồi chồm hổm, và có thể ngồi xếp bằng, hoặc ngồi bàn tròn thì tay đừng chỏi
    đầu gối và trên bàn. Muốn múc xúc canh cơm phải để đũa xuống, đừng vừa cầm đũa vừa cầm muỗng múc xúc, và cũng đừng vói múc gắp những thức ăn quá tầm tay, khó coi.
    Ăn uống tự nhiên, không làm cách nhỏ nhẻ, nhưng cũng đừng chan húp ô tạp. Nếu nhiều người cùng ăn một tô canh, tốt nhứt ta nên dùng muỗng múc thức ăn để vào chén mình. Ðừng dạo đũa vào tô canh làm cho người ăn không hài lòng. Trường hợp còn người ăn sau, ta phải dành phần riêng, hoặc có thể dùng muỗng múc thức ăn trong tô, không nên dùng đũa gắp. Ăn góc nào phải có phần.
    Trong khi ăn, tay áo phải xăn lên, đừng để vói gắp kéo lê trên thức ăn; cũng đừng hít mũi và nói cười lớn tiếng khi ăn cơm làm mất vệ sinh. Và đang khi ăn, ta đừng nói những gì bẩn thỉu làm cho người gớm.
    Những thức ăn không gọn, ta nên gắp để vào chén, dùng đũa và vào miệng, đừng hả miệng lớn khó coi. Và cũng đừng le lưỡi liếm thức ăn. Phải tự ta múc xúc cơm, đừng để người lớn múc xúc cho ta. Dù đang ngồi ăn, nhưng thỉnh thoảng cũng nên nhìn lên vui vẻ nói một vài lời với những người ngồi ăn gần ta. Ðừng cúi đầu nhìn xuống ăn mê miết mãi.
    Ăn phải kiêng nhường nhau, những thức ăn nào nhiều, ta ăn nhiều, ít ta ăn ít, không “chê” thức ăn này, “kỵ” món nọ, và đòi hỏi bận rộn. Bởi ta ăn để sống, chớ không sống để ăn; cũng như dầu mỡ chỉ làm cho xe trơn cốt, mùi vị đối với xe có ý nghĩa chi đâu! Ăn phải chờ đợi nhau, đừng ăn mau quá, làm cho người cùng ăn không no. Nhưng cũng đừng ăn chậm lắm, làm cho người chờ đợi lâu. Và cũng đừng tấn ép người ăn uống quá vô lễ.
    Khi ăn xong, có xỉa răng phải cẩn thận. Và cũng đừng khạc nhổ bừa bãi mất lịch sự. Còn một điều cần chú ý: Nếu ta là chủ nhà, hoặc với tư cách thay mặt chủ nhà, ta không nên vô tình mời thỉnh “bất bình đẳng”, làm tự ái người tham dự.
    Trên đây là ý nghĩa và tư cách về việc ăn uống mà nhà tu không thể không quan tâm về vấn đề nầy.


    CHƯƠNG BA: NÓI

    Ca dao có câu:
    “Lời nói không mất tiền mua,
    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
    Lựa lời mà nói tức lời nói có đúng có sai, có phước, có họa. Nên trước khi nói, ta phải lựa lời. Nhưng cácnhà soạn sách giáo khoa ngày nay gần như không mấy quan tâm về môn “ngôn ngữ học”. Bệnh ung thư là một mối hiểm họa lớn cho loài người, các nhà khoa học Ðông, Tây đều lo tìm phương cứu chữa. Với tai hại của lời nói gây đau khổ hằng ngày từ trong gia đình, Tự viện và mỗi tổ chức xã hội đâu
    phải chuyện nhỏ. Tại sao văn minh loài người không quan tâm đến điều ấy?
    Dù sao cũng là người đã đặt mình trong khuôn khổ đạo đức, chúng ta nên cố gắng nghiên cứu phần nào về cách nói năng như sau.

    1.- LỄ PHÉP KHI CHÀO HỎI:

    Những tiếng: thưa, dạ, vâng và những lời nhã nhặn lễ phép khi chào hỏi là thông lệ thường nhiên, làm người không thể thiếu được. Thiếu nó không còn ý nghĩa con người.
    Vậy khi chào hỏi, nếu người lớn tuổi, địa vị cao hơn ta nên chấp tay hoặc khoanh tay chào hỏi; người nhỏ tuổi hoặc kém địa vị ta nên bắt tay thân mật. Ðiều ta phải lưu ý: lời lẽ thưa dạ, nhã nhặn chưa đủ gọi là lễ phép; nếu ta để mình trần, mặc áo lót, quần đùi tiếp khách, nhất là đối với bực cao niên kỉ và địa vị cao hơn. Và cách chào hỏi phải giữ bình đẳng không phú trọng khinh bần, làm tủi lòng người nghèo khó, và cũng trái với đức độ nhà tu về phép cư xử vớiđời.

    2.- LỜI THÔ BỈ:
    Nhà tu nên tránh những tiếng nặng nề, thô bỉ: mầy, tao, mi, tớ, quân, tụi và những lời tục tằn trây trúa . . . Ðứng trên cương vị nào, nếu ta thốt những lời thô bỉ ấy là tự ta phá huỷ nhân phẩm ta. Về mặt thường dân, đây gọi là mất giáo; về mặt quan trường đây gọi là ô lại; về mặt đạo đức đây gọi là kẻ giả tu.
    Cho nên dù gặp cảnh trái ngang bực tức ta cũng nên cố gắng dằn lòng, đừng nói những lời nặng nề, thô bỉ. Làm thế không có nghĩa là ta sợ người mà ta chỉ sợ nhân phẩm của ta bị giảm hạ mà thôi.

    3.- LỜI TRA HẠCH:
    Dù là lời nói chơi hay nói thật, ta cũng không nên thường dùng những lời bắt bí, hạch hỏi, rào đón có tánh cách như cảnh sát đối với can nhân . . . Cách nói này không lợi ích gì cho ai cả. Và nó cũng không mập, béo gì cho ta, chỉ làm cho người bực tức thôi. Người thiếu kinh nghiệm, không biết thương mình nên mới dung dưỡng cách nói nầy.

    4.- NÓI ÐÚNG CHỮ:
    Ta không nên nói đớt đát, như: ông chời (ông Trời), thành da (thành ra), thử hổi (thử hỏi), duộng đất (ruộng đất), dao dát (rau rác), dùa dắn (rùa rắn), giồi (rồi), chơn chọi (trơn trọi) . . .
    Có lắm người trình độ học vấn khá cao nhưng nói không đúng chữ. Ðó chỉ vì ảnh hưởng tập quán gia đình từ thơ ấu mà ta không đủ nghị lực tập sửa thói quen ấy. Nếu ta không cương quyết tập sửa thói quen này sẽ làm cho người nghe đánh giá ta xuất thân từ trong một gia đình thiếu huấn luyện về văn hóa.

    5.- PHÁT ÂM TỰ NHIÊN:
    Phát âm tự nhiên là không dọn mồm, sửa giọng như: và, đừng nói quà; về, đừng nói quề; vì, đừng nói quì; vài, đừng nói quày . . . Ðành rằng phát âm như vậy đúng chính tả. Nhưng đó chỉ là trường hợp áp dụng trong nhà trường để học trò viết đúng chính tả thôi. Ngoài ra, ta nên tùy, vì đây không phải là trường hợp đặc biệt. Vả lại, xướng ngôn viên của các đài phát thanh là tượng trưng cho khoa ăn nói, và các văn nhân nổi tiếng như: Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu, và ông Trần Duy Nhứt giáo sư Triết học, Xã hội học và Ngôn ngữ học của viện đại học Waseda - Ðông kinh. Các ông vẫn phát âm tự nhiên thôi.
    Ta đừng lầm lẩn điều này làm trò cười cho những người có trình độ văn chương uyên bác.

    6.- NÓI VỪA NGHE:
    Ðành rằng, trời sinh người thì nói lớn tiếng, kẻ lại nói rù rì. Nhưng ta không nên theo tính tự nhiên này. Nghĩa là phải tập sửa lại, đừng nói lớn tiếng cũng đừng nói quá nhỏ. Người đứng cách xa ta một thước, ta nói cho người đó vừa nghe; Người đứng cách xa ta mười thước, ta cũng nói cho người ấy vừa nghe. Việc vui vẻ bình thường ta có thể nói lớn tiếng, việc ưu tư cẩn mật ta nên nói nhỏ. Ðừng mang tật cố định, hoặc vô tình áp dụng lời nói của ta không đúng với trường hợp, làm phiền người khác và tai hại lắm. Nhất là bên cạnh ta có người già cả, bệnh hoạn và giờ nghỉ ngơi. Cũng có số người lúc vui thì nói như ống loa, khi buồn thì nói như ễnh ương trở mình. Ðó là con người tâm tính bất thường, khi lý thuyết tận mây xanh, lúc thực hành thấp sát đất, ăn ở vô chừng.
    Nhà tu nên tập và tránh những tính như đã nói trên.

    7.- DÙNG TỪ NGỮ CHÍNH XÁC:
    Từ ngữ nào ta biết nghĩa chính xác ta nói, không biết rành ta không nên nói. Nếu ta áp dụng không đúng, gặp người có trình độ tinh nghĩa về văn chương họ sẽ cười thầm ta là hạng người bừa bãi.
    Trường hợp nầy có số người huyết khí chưa bình, mới tập khoa ăn nói và viết văn thường vi phạm. Ví dụ thay vì nói: Bệnh bác A rất trầm trọng, chưa biết cảnh vô thường đưa đến ra sao? Ta lại nói: Bệnh bác A rất trầm trọng, chưa biết môi trường đưa đến ra sao? Ðó là sai. Nếu dùng từ môi trường, ta phải nói “Môi trường thương mại ở nước ta thời Pháp thật phức tạp” mới đúng (vì môi trường có nghĩa là nơi tiếp nhau để hoạt động và sinh nở).
    Ví dụ khác, ta nói “Cõi Tây phương rất nhàn nhã, vui như cảnh nước nhược non Bồng”. Là sai. Vì nước nhược non Bồng là nơi cõi Tiên (Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu). Cõi Tây phương của Ðức Phật A Di Ðà đâu có nước Nhược, non Bồng.
    Cho nên khi dùng từ ngữ ta phải biết cho tinh nghĩa. Nếu không, ta chỉ dùng những từ ngữ thông
    thường mà ta đã rành rõ thôi.

    8.- KHÔNG NÓI QUÁ LẸ, CHẬM:
    Nói quá lẹ nghe không kịp, người đánh giá ta không nhu mì, hạnh nết; nói quá chậm họ cũng bực bội khinh khi.
    Vậy chúng ta phải biết: cô xướng ngôn viên, cậu bán thuốc quảng cáo và viên trình báo, báo tin khẩn cấp, dĩ nhiên phải nói nhanh. Ngược lại, là bậc cao niên, là lương y, là tu sĩ lại nói quá nhanh đâu còn đúng với tư cách của mình. Thậm chí có số tu sĩ giảng Ðạo cho nói lối lanh lẹ là hay và khi giảng các ông còn pha trò tiếu; vì các ông cho đó là lối giảng “ăn khách” nhất. Các ông đã lầm. Bởi kinh Phật đã cấm: “Ðương thuyết pháp thời, vô đắc hí tiếu” (đang khi thuyết pháp không được giỡn cười)
    Chúng ta thử hình dung lại: một cụ lão, một danh y, một tu sĩ với cách nói chậm rãi, cữ chỉ nghiêm, trang hòa ái. Và với số trái lại, trong hai số người ấy chúng ta kính số người nào? Cho nên ta phải dung hòa cách nói. Nghĩa là giữ ở mức độ bình thường, không nói quá nhanh, quá chậm và đừng mang cái tật cố định không tốt.

    9.- KHÔNG KHOE KHOANG:
    Làm người, nếu ta thích những lời ngọt dịu, khen tặng, nghe ai khen thì mừng. Nếu vậy, ta dễ bị kẻ gian manh khai thác tâm lý để lợi dụng, không còn tự chủ, tiến bộ. Tính người thích được khen là háo danh, háo danh tức hay khoe khoang. Nên mỗi khi ngồi lại, ta khoe con cháu, khoe mình hay tốt. Con cháu ta ngoan, ta hay tốt để cho người biết. Cần gì ta phải khoe. Ta nên biết: trong khu rừng thiên nhiên còn biết bao đóa hoa tươi đẹp hơn nữa kia mà! Vả lại, trên đời phần nhiều người ta chỉ biết vì tiền bạc, bè phái, tình cảm cá nhân thôi, ít người trọng
    tài đức, hay, tốt của người khác. Ta khoe chỉ làm chướng tai cho người ganh ghét, chớ có lợi ích chi đâu. Và tính ta thích khen tức tâm tính ta chưa bình, huyết khí chưa định, thì những cái thật tốt, thật tài chưa đến với ta. Dù ta có khoe đi nữa cũng chỉû thu phục số kém trí, ô hợp; đối với những người kiến thức cao rộng họ có quý phục ta đâu. Và dù ta có tốt, có tài, ít nhiều đi chăng nữa là để góp phần phụng sựcho xã hội, với bổn phận làm người, chớ đâu phải để tự mãn với giả danh mà ta phải bận tâm trong việc khoe khoang!
    Tật khoe khoang cũng là một chướng nghiệp cho nhà đạo, nên chúng ta phải cố tránh để được rảnh rỗi trong lúc tu hành. Và không làm chướng tai gai mắt cho bao người.

    10. NÓI GỌN SÁNG:
    Thời đại nguyên tử này, không có thời gian dư nên khi gặp bà con, bạn bè, ta muốn nói điều gì đừng dùng những từ hoa mỹ diễn tả dài dòng.
    Kinh nghiệm thực tế những nhà văn sâu sắc, các ông nói rất bình dân, giản dị, gần như trình độ các ông không mấy hơn kém chúng ta. Và những bài văn kiệt tác, ta thấy các ông viết rất ngắn gọn, sáng. Mặc dù những bài văn ấy, văn chương lưu loát, mỹ từ rất dồi dào. Ðối với những nhà văn lưng lửng, tài nghệ kha khá thì trái lại. Và ta cũng không nên màu mè, trau chuốt, khen tặng làm mất đức “chân thật” của nhà tu. Những tấn tuồng màu mè chỉ có giá trị đối với người non kém; đối với người có kinh nghiệm dày dặn ở trường đời, đây là tiếng đàn trầm bổng, lạc hậu lắm rồi.
    Nhà tu, khi mở lời nên nói bằng những lời thành thật, đúng lý, từ trong chân tâm của ta xuất phát ra là
    được.

    11. NÓI CÓ CĂN BẢN:
    Muốn cho lời nói của ta có căn bản, hợp lí, ta nên tra cứu, học, đọc nhiều trong các kinh điển, sách báo. Và học với bậc cao minh. Khi đã thâm nhập sở học và lìa được các tướng “nhân ngã”, lời nói của ta mới có căn bản, đúng với chân lý.
    Ðừng biếng nhác, không lo học, đọc, nghiên cứu, lại đến chỗ này nghe ngóng, học lóm với những ông thầy dạo: văn chẳng tinh vi, lý không liễu nghĩa rồi thích đi nói. Lời nói đó chỉ có giá trị với người quê dốt và lắm khi không có phước mà còn đắc tội thêm.
    Cho nên nhà đạo phải tự biết mình có tạm đủ yếu tố căn bản thuyết đạo chưa? Cũng như viên thuyền trưởng phải tự biết mình có am hiểu phần nào về “Bình dương học” và “ La bàn học” chưa? Nếu chưa, ta nên cố gắng nghiên cứu, đừng vội làm thiếu suy nghĩ, không tốt.

    12. NÓI TRONG BÀN TRÒN:
    Ngồi trong một bàn tròn, ta phải tìm hiểu những người ngồi chung quanh ta. Nếu thấy họ có khuynh hướng đối nghịch, ta nên gợi ý cho họ nói nhiều để không lầm về họ. Trái lại, ta không nên nói nhiều để họ phải tranh luận, sơ xuất. Và nếu có những người trình độ hơn ta, ta nên nhường thời gian cho họ nói nhiều. Tốt hơn. Có điều cần biết: nếu người quá non kém, không biết trình độ ta, ta nói nhiều chỉ bán rẻ lời nói của ta và gây thêm phiền phức vô ích. Hơn nữa, nếu ta biết thì nói, không biết thì ngồi nghe cũng tốt, đừng quen tính nói càn bướng, phản khoa học, Phật học, kinh nghiệm thực tế và quyền lợi quốc gia.
    Nhưng biết được trình độ ta và người là vấn đề rất khó. Nếu người chưa bình lặng được con tim nhân ngã và bộ óc hẹp hòi, cố định. Cho nên, ngồi trong bàn tròn, ta phải sáng suốt, tùy trường hợp mà nói đừng nói theo bản năng tự nhiên. Ðó là phép nói chuyện trong bàn tròn.

    13.- NHỮNG CỬ CHỈ TRONG KHI NÓI:
    Trong khi nói, ta không nên chỉ trỏ, nháy nhó, nhăn nhướng, trừng trợn, gãi đầu, cười lạt, nhịp chân, múa tay, háy nguýt, vừa nói vừa cười, hoặc nhìn người chòng chọc. ..
    Ðối với nhà chỉ huy điều khiển binh đội ngoài chiến trận thì đành rồi! Còn đối với một ông cha, giáo chức, lương y và nhà tu, đó là hành động lố lăng, trái phép không thể châm chế được.
    Một giáo sư vướng phải tật nói trên, nhà trí thức đánh giá giáo sư kém sự giáo dục của gia đình từ thời thơ ấu. Một đại đức mang chướng nghiệp này, bậc cao minh nhận ngay đại đức chưa tinh vi tế hạnh. Nếu ta không biết tự trọng tư cách của ta là một nhà tu, với cử chỉ đây đối với ta không có ý nghĩa gì.
    Bằng ta biết tự trọng, ta phải quan tâm tập luyện để cho sắc áo nhà tu của ta không bị giảm mất ý nghĩa, bởi những tật chẳng đẹp thông thường ít ai để ý.

    14.- NÓI THẲNG VÀO VẤN ÐỀ:
    Ðành rằng, cách nói chuyện bình thường của ta không như một viên tình báo, báo cáo tình hình quân địch ngoài chiến trận cho cấp chỉ huy hay biết khẩn cấp. Nhưng khi ta muốn nói, hoặc người hỏi điều chi ta cũng nên nói thẳng vào vấn đề, đừng rụt rè, mím môi, cười lạt rồi mới nói.Ví dụ người hỏi: Bệnh của cô thuyên giảm nhiều chưa? Ta nói thẳng: Giảm khá nhiều, hoặc chưa được
    giảm. Và người ta hỏi: Chị định ngày nào đi Ðà Lạt: ta nói thẳng thứ bảy, hoặc ngày mai. Nói như vậy cũng đủ.
    Ðừng diễn tả dài dòng, có khi quên trả lời hoặc trả lời lạc ý chính của người hỏi, khiến người hỏi bực bội khi tiếp
    chuyện với ta. Chúng ta thử nghe câu ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”(1). Hai câu trên ta thấy rất hay vì nói thẳng vào đề, lời sáng gọn. Và chỉ có hai câu mà tả được hình ảnh người con gái đi theo chồng xa quê hương, mỗi buổi chiều ra đứng ngõ sau ngó về quê mẹ mà đau từng khúc ruột.
    Cho nên, dù viết một bài văn hay nói chuyện thong thường, ta đừng mở đề quá rộng, nên nói thẳng vào đề sáng gọn, giản dị hay hơn.

    15.- KHÔNG CÃI VÃ NHỎ NHẶT:

    Cãi vã trái nghịch nhau việc nhỏ nhặt không đáng, là nguyên nhân làm giảm mất tình thương, gây chia rẻ dẫn đến tù tội chết chóc. Trong gia đình, tự viện, xã hội thường xảy ra tai vạ này.
    Người đại độ hay nhẫn nhịn chẳng cãi vã những chuyện không đáng. Kẻ hẹp hòi thì trái lại, gặp chuyện gì cũng cãi, không cần trúng trật, hậu quả thế nào. Người ta đâu có biết rằng, chỗ cãi vã không đáng này,
    nó là một con dao bén, mỗi lần ta cãi vã không đúng là mỗi lần ta liếc con dao bén trong tiềm thức của người để chờ ngày người đem ra bằm xắt ta thôi. Bởi vậy, người có tính hay cãi vã, sống nơi nào cũng luôn gặp cảnh nghịch lẫn không yên. Chính bản thân không yên mà còn gây buồn tức cho những người cùng sống bên ta.
    Biết được việc cãi vã nhỏ nhặt, không đáng là nguyên nhân tai hại đem đến chuyện bất hòa. Người biết đạo nên tránh cho cuộc sống của ta và người khỏi phải chịu cảnh buồn khổ, mất lòng bởi những chuyện không đâu!

    16.- KHÔNG MOI MÓC CHUYỆN NGƯỜI:
    Là con người đương nhiên không ai tránh khỏi lỗi lầm. Nhưng quý hay không là ở chỗ biết cải thiện hay không biết cải thiện đó thôi. Ta đừng vì thói quen và quyền lợi cá nhân mà moi móc chuyện người, gây thêm hậu quả chẳng lành:
    - Khi vì hiềm khích riêng tư, ta moi móc chuyện quấy của người cho hả giận. Ðó là ta thể hiện tính chất tiểu nhân để cho hạng trí thức thấy biết ngăn ngừa và xa lánh ta. Một con người để cho hàng trí thức xa lánh, tức không phải chánh nghĩa, chánh đạo và tương lai đen tối.
    - Moi móc chuyện người là nguyên nhân chia rẻ, thêm thù, bớt bạn, tức khó yên thân, việc làm bị thù địch phá vỡ. Chỉ trừ trường hợp đặc biệt thôi.
    - Ðối với nhà đạo, moi móc chuyện người tức khẩu nghiệp còn nặng, trí huệ khó phát sinh, không thể tiến xa trên đường giải thoát. Thế nên nhà tu cần phải sửa khẩu nghiệp này.

    17.- KHÔNG NÓI VẶT MẮC XIÊN XỎ:

    Nói vặt mắc là nói xoi mói, lải nhải, vụn vặt, không đáng. Nói xiên xỏ là cách nói hơi hám, xa gần làm cho người nghe bực tức biết là nói mình nhưng không trả lời được.
    Cách nói đây không mang tính chất nam nhân đại độ. Mà nó thường xảy ra ở phía sau của những nơi tư gia và tự viện. Do các bà, các cô đảm trách khi gặp phải tình huống bực bội, lục tặc nổi hành tung!
    Thực trạng này là chứng bịnh nan y, hành hạ con người phải đau thắt tim gan, no hơi bao tử thường ngày mà thuốc phàm tục khó thể trị được! Chỉ có dòng nước Ma Ha của Phật mới cứu được cơn bịnh nguy hiểm cho những ai dốc chí tìm phương giải thoát.
    Chúng ta thử hình dung lại một gia đình, một cơ sở với bộ mặt đầm đầm, với cặp mắt hung tợn và với những lời vặt mắc, xiên xỏ bên tai . . .ai mà chẳng lắc đầu ghê tởm! Thứ ác quái này hành hạ âm ỷ trong nhân loại biết bao giờ mới hết?
    Là người biết đạo, ta nên dẹp bỏ tánh nói vặt mắc xiên xỏ để ta cùng người được giải phóng cảnh đau khổ dài hạn mà xưa nay ít có nhà chính trị và xã hội học nào quan tâm tìm phương trừ diệt.

    18.- NÓI NGAY THẲNG:
    Ở đời con người ta trong cái quấy cũng có cái phải, trong cái phải cũng có cái quấy; không ai hoàn toàn cả. Nhưng thói thường, hễ thương thì che đậy, bảo vệ; ghét thì thêu thùa mưu hại, đây là con đường đen tối nhiều người chen lấn nhau đi. Thậm chí giới nhà tu cũng biết đó là điều “nhân ngã” nghiệp nặng; vi phạm nó khó thể siêu phàm nhập thánh. Song ít ai đủ nghị lực làm chủ được tâm, sửa lại lời nói của mình cho ngay thẳng, nên quả vị Phật, Thánh đối với chúng ta còn phải cách xa. Có người bảo: nói ngay thẳng có hại. Ðiều này đâu có chi khó: nếu trường hợp nói ngay thẳng không được, ta không nói. Và ở đây chỉ đề cặp tính thương ghét (nhân ngã), phát xuất lời nói không ngay thẳng để chúng ta tập sửa lời nói của mình cho đúng đắn thôi.
    Nhà tu nên tập tính nói năng ngay thẳng để không làm giảm hạ phẩm giá của mình, một con người đã mang sắc áo từ bi và có đủ mọi yếu tố tiến xa trên đường giải thoát.

    19.- ÐỪNG NÓI VIỆC NGOÀI ÐỀ TRONG KHI ÐÀM THOẠI:

    Trong khi chuyện vãn cùng người, dù có hợp ý hay không ta cũng nên lắng nghe lời nói của người để phân tích đúng sai, lợi hại hầu thu thập kinh nghiệm thêm. Ðừng lơ đễnh nói qua chuyện khác, như: gặp con gà chạy ngang qua cũng nói, gặp bé Tý cũng ghẹo, hoặc nói chen vào những chuyện ngoài đề. Nếu ta có tính bất lợi này, ta rán cố gắng chừa bỏ, vì nó không làm cho ta tiến bộ về mặt kiến thức. Và những bậc cao kiến không hết lòng giáo dục ta, bởi ta là con người tầm thường, không có bộ óc cầu tiến.
    Nhà tu không nên coi đây là chuyện không đáng kể. Nếu ta muốn tiến xa trên đường học Phật, giải
    thoát tâm linh.

    20.- CÁCH NÓI CHUYỆN THƯA THỚT
    Nói chuyện thưa thớt là cách nói trống trải, không ai tra khảo tự ta nói cho người nắm được tâm lý và việc kín đáo của ta. Trong khi nói chuyện, dù trước mặt hay sau lưng người, ta nên cẩn thận đừng cho rằng: “Ðường vắng hát
    chơi” mà sinh sự mất lòng và vương điều tai vạ. Muốn nói với ai một chuyện chi, nếu là việc khá gay cấn, ta phải nói: “Tôi nghĩ, hoặc tôi nghe người ta nói”. Ðừng nói anh A nói vầy, B nói khác . . .A sẽ hờn trách ta không kín đáo. Và người sẽ đánh giá ta một con người tánh tình thưa thớt, nhất là bậc cao kiến không dám tin dùng ta, thì đời ta không thể làm nên trò trống gì được cả.
    Tánh nói thưa thớt, là một điều tai hại. Làm người dù đứng trong lĩnh vực nào, ta cũng nên cố gắng sửa
    tánh này.

    21.- ÐỪNG HAY NÓI CHUYỆN HÀNG XÓM:
    Thói thường người ta ngồi lại ít người, họ đem chuyện hàng xóm ra bàn nói thế nầy, thế nọ, rồi bình luận phán đoán. Ví như chuyện, cô Giáp bồ bịch với cậu Ất ở xóm kinh cùng nào đó. Câu chuyện bà Chằn có nanh có
    vuốt ở Ðồng Tháp Mười hồi tạo thiên lập địa . . .Người ta cũng đem ra bàn tán, cãi vã và kết luận nọ kia.v.v . . .
    Ðây là thói quen của người đời trong khi ngồi lại hay tán nhảm chơi; chớ đâu phải họ là những nhà phát minh khoa học và những vị tu thiền định mà ngồi yên lặng tìm trong con tim bộ óc nhiệm mầu của họ. Lắm khi câu chuyện đó, người ta đã ăn kết xác minh, nhưng cũng chưa hẳn đúng sự thật. Công đâu mà ta phải lãng phí thời gian và bận rộn đầu óc theo những chuyện phức tạp không đáng ấy làm chi.
    Dù không phải nhà tu đi nữa, ta cũng nên bình tỉnh, không nên tin nói theo người và vội kết luận câu chuyện không đúng trong khi ta chưa suy xét kỹ

    22.- CÁCH KHEN VÔ TÌNH:
    Ta không nên vô tình khen đáo khen để người đồng nghiệp với một người khác, như: khen một bé ngoan trước mặt cha mẹ một bé dại, một cô gái đẹp trước mặt một cô gái thô, một nhà văn trước mặt một nhà văn và một đại đức trước mặt một đại đức v.v. . . Cách khen vô tình nầy là cách chê khéo người đối diện với ta, khiến họ tự ái. Và làm cho người được ta khen bị ganh ghét. Nói thế không có nghĩa là bảo ta tuyệt đối không khen ai. Ta vẫn khen nhưng cách khen đáo khen để, vô tình đem lại hậu quả không tốt.
    Vậy khi mở lời khen ai, ta phải tùy trường hợp, đừng vô tình làm chạm tự ái người.

    23.- ÐỪNG NÓI CHUYỆN THÀY LAY:

    Nói thày lay, hay làm chuyện thày lay cũng đồng nghĩa là làm tài khôn chuốc lấy chuyện người trong khi người ta không mượn, và chuyện đó không liên quan trách nhiệm của ta. Thấy người dại khờ, yếu thế bị kẻ khôn lanh, uy quyền bức hiếp, ta đứng ra binh vực . . .Ðó là hành động nghĩa hiệp, rất tốt và được người mang ơn. Nhưng ta háo thắng, cho mình hay giỏi gặp đâu nói đó, lắm khi công việc ta chưa biết rõ mặt trái và chỗ dụng ý của người như thế nào, ta lại chen vào làm cho bận rộn người thêm. Chẳng những không ai mang ơn lại còn gây ra phiền phức nữa.
    Ðành rằng, giữa tình người đối với người, ta không nên sâu hiểm. Song ta phải biết chuyện nào người cần, và chuyện nào có liên quan đến trách nhiệm của ta mà quả tim nhân đạo và trí tuệ ta cho phép. Nếu ta không phân tách kỹ như vậy, quen tánh nói bướng càn. Ðó gọi là “thày lay”. Ta nên chừa đừng làm người chán ghét!

    24.- NGƯỜI ÐẠO KHÔNG NÊN NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÐỜI TƯƠNG ÐẮC:
    Người dốc chí tu hành lúc nào tư tưởng cũng khác hơn người đời. Vì người đời phần nhiều vẫn chiều theo ngũ
    dục: danh, lợi, tình, thực, thụy và chưng diện áo quần, nhà cửa.v.v. . .Trái lại, người đạo lúc nào cũng dùng lý trí
    thắng bản năng; đình chỉ lòng ham muốn, sống cuộc đời đơn giản lo tu hành.
    Biết rằng đạo phải “Dĩ hòa vi quí”. Nhưng hòa để cho cuộc sống được yên vui và để hóa độ kẻ mê lầm, chớ không thể hòa để bị người đồng hóa. Kinh nghiệm câu thành ngữ cho biết: “Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.Nghĩa là cùng phát ra một tiếng, cùng đáp lời nhau, cùng một khí chất (ý chí) cùng kết lại. Nói dễ hiểu hơn là tư tưởng, nguyện vọng giống nhau thường tìm đến quấn quýt với nhau. Nên khi người gặp một bạn thân của ta, họ có thể biết ta là hạng người như thế nào? Trẻ nhỏ nói chuyện tương đắc với trẻ nhỏ, bạn rượu nói chuyện tương đắc với bạn rượu, nhà văn nói chuyện tương đắc với nhà văn là cái lý đương nhiên không chối cãi được.
    Người đạo khi chuyện vãn với người đời lại tương đắc hợp ý, đó là “tâm đạo” của ta đã lay chuyển, ý chí giống như người đời. Dù người mình chuyện vãn tương đắc ấy là cha mẹ, huynh đệ thâm tình.
    Vậy người đạo nên tự xét mình về vấn đề nầy. Nếu không biết, chắc chắn ngày mai của ta sẽ không còn là nhà đạo nữa. Câu thành ngữ: “Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở” của cổ nhân chỉ dạy, dù là thời đại nguyên tử, nhưng nó vẫn còn giá trị đáng quý luôn.

    25.- ÐỪNG HAY CHÊ NGƯỜI:

    Trừ bậc tài đức siêu vượt, khí huyết đã bình, đối với việc khen chê không có ý nghĩa chi với các Ngài. Ngoài ra ai cũng thích khen, kỵ chê, nếu ta chê người, sẽ bị người hờn oán. Nhưng có số người mở miệng ra thì chê. Và chê nhắn chê gởi làm người bực tức. Tuy chê người, song hành động, ý chí cũng không hơn người đựơc.
    Tánh hay chê này là một chướng nghiệp làm cho đời trái tai gai mắt. Nhưng người vương mang chướng tật ấy cũng rất khó chừa. Là nhà tu, nên cố tránh tật hay chê để khỏi bị người lên án ta là hạng người thiếu đạo đức.

    26.- KHÔNG BIỆN HỘ CƯỠNG LÝ:
    Làm người không ai khỏi lầm lỗi, nhưng lầm lỗi biết nhận lỗi là người tốt.
    Nhận lỗi có hai cách: đủ can đảm nhận lỗi, và nhận lỗi bằng cách làm thinh lo sửa lỗi. Ðây là những con người sáng suốt, biết phục thiện và tiến thân trên đường cao thượng. Ngược lại, có lắm kẻ có lỗi, vẫn không biết lỗi, hoặc cũng biết nhưng vẫn “cưỡng lý” tìm mọi lời lẽ biện hộ cho mình và phe phái mình, dù lời lẽ ấy không đúng với chân lý.
    Cách biện hộ đây chẳng những không giải cho mình hết lỗi mà còn làm cho người bực tức gây tội lỗi thêm. Và tự ta đào cái hố sâu chôn mình vào chỗ nhuốc nhơ đen tối.
    Là nhà tu, nên tránh cách biện hộ cưỡng lý nầy.

    27.- ÐỪNG MỞ MIỆNG RA LÀ TIỀN:

    Ðành rằng, tiền là huyết mạch để sống, nhưng ta sống để làm những gì có ý nghĩa của đời người, chớ không phải sống chỉ vì tiền. Khổ thay! Mỗi buổi sáng mở mắt ra chúng ta thấy: con kiến tha mồi, con ong tìm mật và con gà bươi đất kiếm mồi để sống. Luôn đến loài người cũng thế. Nghĩa là chỉ biết kiếm tiền để sống thôi. Vì quá cần tiền, nên lắm người mở miệng ra là tiền, làm thế này để kiếm tiền nhiều, làm thế kia để kiếm tiền nhiều. Thậm chí có người cho con, em vào trường học, mục đích cũng vì tiền, chớ không có ý nghĩa cao thượng đối với đồng bào xã hội chi cả! Bởi quá say mê tiền nên đời mới đưa đến chỗ tranh giành, lừa bịp, sát hại lẫn nhau làm cho nỗi đau
    khổ của chúng sinh ngày càng thêm chồng chất, và cửa từ bi điêu đứng luôn!
    Nhà tu sau khi dùng thiền định phá tan màn vô minh che phủ, thấy được vạn vật vốn vô thường, tiền của chỉ là phương tiện để sống tiến thân, nên khi mở miệng ra, ta không bàn nói nhiều về tiền bạc như bao người còn đang trong vô minh lầm lẫn.

    28.- KHÔNG NÓI TRỔNG:
    Nói trổng là cách nói suồng sã, vô phép, thiếu tiếng xưng hô trước và sau lời nói. Nên khi nói với người đáng chị ta gọi bằng chị, đáng anh ta gọi bằng anh hoặc có thể gọi thẳng bằng tên (nếu đáng em cháu). Nếu nói cha mẹ ta phải nói cha mẹ…của tôi, hoặc cha mẹ của em . . .Chớ đừng nói cha mẹ mà không nói cha mẹ của ai. Và ta cũng không nên nói: cái gì ta? Hồi nào ta? Ai ta? Làm gì đó ta? v.v . . .Cách nói trổng không thứ lớp ấy đối với người đứng đắn họ khinh thường ta, đối với kẻ không đứng đắn
    đôi khi nhân chỗ nói năng suồng sã ấy họ đi dần đến chỗ không tốt.
    Cho nên cách nói năng dù ta vẫn vui vẻ bình thường, nhưng không nên sỗ sàng lắm, làm mất hạnh đức
    nhà tu. Mà nhất là nữ giới phải dè dặt cách “nói trổng” này.

    29.- ÐỪNG NÓI VỚI TÁNH CÁCH ÐỘC TÀI VÕ ÐOÁN:
    Nói với tánh cách độc tài, là nói nhiều lời, chuyên chế, dành lẽ phải cho mình, tấn ép việc sái quấy cho người và không cần nghe ai nói. Võ đoán là nói ngang theo ý riêng mình không cần chứng cứ, phải trái, ức oan cho người khác.
    Tính người ăn nói “độc tài võ đoán” là hạng người chỉ biết một chẳng biết hai, là hạng người mù rờ voi và đứng ngoài ngõ nói vật trọng, khinh trong nhà người mà không biết ngại ngùng sỉ nhục! Cho nên khi mở miệng ra, họ không căn cứ vào lẽ phải chỉ biết nói theo tư kiến, lòng thương ghét và quyền lợi cá nhân của họ thôi.
    Hạng người như thế, đối với gia đình là ương ngạnh, đối với chòm xóm là gian ác, đối với quốc gia là phi chính nghĩa và đối với tôn giáo là tà đạo. Nếu đời ta quen tính ấy, dù ta có tài năng đi nữa cũng phải đi đến chỗ tối tăm, cô lập và tội ác. Bởi hành động ta trái ngược với phép “tu đức” và thất cả “nhân tâm”.
    Ðể tránh điều nguy hại và đem lại cảnh sống yên vui cho mọi người và chính bản thân ta, tính chướng ngại ấy dù khó tập sửa thế nào, ta cũng nên tập sửa cho kỳ được cách ăn nói “độc tài võ đoán” như đã bàn xét ở trên

    30.- BIẾT TÂM LÝ TRONG KHI NÓI CHUYỆN:
    Nội dung quyển này đã xuyên qua ý nghĩa tâm lý khá nhiều. Ðây xin bàn khái yếu về mục tâm lý khi nói chuyện để chúng ta lưu ý thêm. Tâm lý, là lẽ biến hóa của tâm, nghĩa là sự nhu cầu mong muốn và không mong muốn tự trong tâm của mỗi người. Bệnh nhân mong cho lương y thương tình điều trị lành mạnh, kẻ nghèo thiếu, hoạn nạn mong được người dư giả, hữu quyền giúp đỡ. Hạng quê dốt mong cho người thông minh đừng khinh ngạo. Cô gái nghèo xấu mong cho người đừng coi rẻ mình. Người sơ xuất mong cho chuyện dở của mình và người thân của mình không ai nhắc đến. Nghĩa là tính mạng, quyền lợi và danh dự của mình được bảo đảm và phát triển thêm hơn. Ðó là tâm lý ai cũng mong ước. Ngược lại, là trái tâm lý, không ai thích.v.v. . .Ðược người thương hay ghét, yên vui hay gian khổ, thành công hay thất bại phần lớn do tâm lý mà ra. Tuy nhiên, ở đời cũng có số người biết rành về tâm lý, song vì quyền lợi hay một lý do nào đó mà họ không kể đến việc tâm lý. Và cũng có số người bởi hấp thụ cách ăn nết ở của gia đình trở thành thói quen nên việc tâm lý họ vẫn coi thường; họ cứ làm cho toại ý của họ thôi, họ không nghĩ đến tương lai của
    họ phải đen tối, nhân thế miệt khinh gì cả. Nhưng vấn đề tâm lý rất phức tạp, nếu tiện dịp chúng ta bàn thêm trong một phạm vi khác.
    Tóm lại, làm người dầu ai cũng phải biết ít nhiều về tâm lý, để kẻ khác không đánh giá ta là hạng người khờ dại. Và không vướng những hậu quả đáng tiếc về vấn đề “tâm lý” trong khi nói chuyện.

    31.- CỬ CHỈ VUI BUỒN VÀ NÓI ÐÚNG VỊ TRÍ:

    Là người biết đạo đức, nên kiểm soát lại mọi cử chỉ “vui buồn” của mình, như: trước cảnh hỏa hoạn, đau bệnh, tai nạn, chết chóc . . .ta lại hân hoan. Trái lại, dự lễ: tân gia, liên hoan, mừng thi cử đỗ đạt, hôn lễ ta lại buồn bã. Ðó là những cử chỉ “vui buồn” vô vị, không đúng trường hợp.
    Ngồi trước mặt một người đàn bà gần ngày sinh nở, ta lại kể chuyện quái thai, sinh sản trở ngại. Trước phòng khám bệnh ta lại nói chuyện đồng áng. Và ngồi trong một ngôi chùa đối diện với các vị chơn tu ta lại đem chuyện kinh doanh, mai mối ra bàn bạc . . .thậm chí có người đang ngồi trong cầu vệ sinh nói chuyện với người bên cạnh. Ðó là cách nói năng không đúng vị trí. Dù rằng, đây là việc thông thường. Nhưng việc thông thường được đánh giá qua đức hạnh trí huệ của con người. Và việc thông thường ta không phân biệt được chỗ đúng sai thì cách xử sự với đời và đạo lý khó hơn, cao xa hơn ta làm sao thấu đạt và thực hành cho đúng.
    Cho nên những cử chỉ “vui buồn” đúng trường hợp và cách nói năng đúng “vị trí”, nhà tu nên lưu ý chỗ thông thường này.

    32.- NÓI NĂNG NGHIÊM CHỈNH:
    Muốn người tin nghe một điều chi trọng hệ, ta phải nói với tánh cách nghiêm chỉnh lễ độ, không nên pha trò, nói tiếu làm mất giá trị lời nói của ta đối với những vấn đề quan trọng. Vẫn biết, cách nói cười vui vẻ, hiện nay người ta cho đó là cách xã giao đẹp nhất. Nhưng nó chỉ có giá trị với trẻ con và đa số kém trí thôi. Còn hạng người trí thức thì ngược lại.
    Chúng ta nên lưu ý; từ một ông cha, một nhà lãnh đạo quốc gia và một tu sĩ muốn cho lời nói của mình có giá trị, thì lời nói đó phải nghiêm chỉnh, lễ độ mới cảm hóa được người nghe. Trái lại, nó sẽ giảm đi giá trị, mặc dù lời nói của ta đúng với chân lý.Hơn nữa, vừa nói vừa cười cợt có tánh cách xã giao ngoài trường đời, và cuộc giải trí trước sân khấu, chớ không có tánh cách giáo dục và tư cách con người đạo đức khi thốt ra những lời hữu lý từ trong tim não của một nhà tu.
    Dù sao, chúng ta cũng là con người ăn nằm trong cửa Phật, chúng ta nên cố gắng tập sửa lời nói của mình cho hợp với sắc áo từ bi mà chúng ta đang mang nó trên người.

    33.- NÓI CŨNG NHƯ ĂN:
    Những thức ăn nào dành phần để đãi khách, ta nên nhường cho khách ăn. Nếu thấy người đói, xơi múc
    ăn ngon lành, họ không nhượng ta ăn, ta sẵn sàng nhượng họ ăn no nê cho họ vui. Trái lại, thấy thức ăn ngon ta ra tay suốt đũa họ, dành múc xúc với họ, dĩ nhiên phải có chuyện lôi thôi chớ chẳng không!.
    Việc nói năng cũng thế. Ta mở đề muốn nói và chuyện đó của ta, nhưng họ dành nói, không cần ý kiến của ta chi cả. Ðó là những con người chỉ biết mình, chớ không cần biết người, tính tự kiêu của họ luôn cao độ, thành kiến của họ kiên cố, dù ta có nói họ cũng không nghe. Thôi thì ta sẵn sàng nhượng một bữa ăn ngon cho hả dạ người thích ăn. Và chính chỗ nhượng bộ nầy, Ðức Thái Thượng Lão Quân bảo trong “Thanh Tịnh Kinh”: “Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ háo tranh” vậy.

    34.- ÐỪNG DỤNG LỜI HAY KHÉO BẮT BÍ KẺ DẠI KHỜ:

    Làm người ai cũng muốn cho mình khôn ngoan sáng suốt, không ai muốn cho mình khờ dại tối tăm. Nếu ta hữu phước thông minh hãy thương người tăm tối. Ta không nên có những cử chỉ khinh thị và những lời lẽ chận đầu, đón ngõ bắt bí kẻ dại khờ làm cho họ phải tủi phận!.
    Có số người, nhất là số người với độ đang hăng, hay so trình độ và ỷ mình thông minh lấn lướt kẻ dại khờ. Ðó là điều nhà tu cần tránh, vì nó đi ngược với chiều hướng từ bi.
    Dù ta là một nhà hùng biện, một nhà văn siêu xuất, nhưng khi nói chuyện với số người quê dốt, ta nên hạ mình và dùng những lời lẽ không xa với hạng bình dân. Ðể cho số người kém phước kia được thở giây phút không khí nhẹ nhàng với cuộc đời đáng thương của họ!.

    35.- NÓI CHƠN THẬT:

    Trừ ra lời nói “phương tiện” của lương y đối với bệnh nhân, và phép “kinh quyền” của nhà quân sự đối với địch quân trong thời chiến, và một vài trường hợp đặc biệt. Ngoài ra, phải giữ lời nói của ta cho đúng với lẽ chơn thật. Vì chơn thật là Chính nghĩa, Chính đạo và thắng gian trá trước công lý xưa nay Từ một anh công nhân, một cơ sở, một nhà tu, một đoàn thể, một chánh sách và một tác phẩm, thiếu chơn thật, tức không ai tin, và sớm muộn gì cũng phải bị thối nát, nhục nhã. Ðiều này dù ai cũng phải công nhận. Nhưng trên đời mấy ai sáng suốt thấy được lỗi mình và đủ nghị lực tự chủ khẩu thiệt mình về việc nói
    năng “chơn thật” như những tấm gương tốt của chư Phật Thánh. Chơn thật là nấc thang đầu để bước lên tòa lầu đài tốt đẹp siêu nhân. Người đạo không thể thiếu chơn
    thật trong khi nói. Vì thiếu nó kể như mất cả ý nghĩa nhà tu.

    36.- ÐỪNG NÓI CÀN BƯỚNG NHỮNG GÌ TA CHƯA BIẾT RÀNH:
    Sách xưa nói: “Gần nước biết cá, gần núi biết chim”. Thật vậy, nghề nào ta có lăn lóc trong đó lâu ngày, mới biết rành. Trái lại, ta không biết rành. Nhưng khổ thay một cái hợp đựng tiền đầy rung động không nghe tiếng, đựng một ít xu lúc lắc nghe rổn rẻn điếc tai! Ông A võ giỏi ngồi như gà cú rũ; cậu B học được ít đường roi: “Tạ tả, tạ hữu khai côn, đả, tiến bộ, thích kim tiên”…lung tung! và người không chánh trị, danh từ “cách mạng” thông thường chẳng tinh nghĩa, nhưng họ vẫn nói thạo “kế sách định quốc an dân”. Và họ cũng chưa thâm sâu Phật học, sáu chữ Di Ðà thường hành không hiểu nghĩa, song họ vẫn nói về Phật giáo thế này, thế nọ lu bu!.
    Ðời . . .cũng là nơi vũ đài phức tạp gần như để cho những con người háo thắng nông nổi thao diễn xưa nay!.
    Là người đạo, những gì chúng ta biết rành thì nói, không biết thì thôi. Ðừng cẩu thả như hạng người háo thắng, nông cạn kể trên làm cho hàng trí thức cười thầm và thêm nhiều tội lỗi.

    37.- KHÔNG NÓI TRẢ TREO:
    Nói trả treo có hai cách:
    Thứ nhất: là ương ngạnh, chống báng đối với bề trên khi la rầy ta việc lầm lỗi, nhưng ta không nhịn, còn hỗn hào dụng lời vô phép, trả treo.
    Thứ hai: khi người vô tình, vui vẻ nói với ta một chuyện gì. Nhưng ta dùng lời lẽ đôi co, trả lời đi, trả lời lại với người, dù là lời lẽ của ta gần như nói chơi thôi. Trong hai cách nói trên, người lịch sự và biết Ðạo không nên phạm điều nào cả.
    Vì nếu ta phạm điều thứ nhứt chính ta là kẻ hổn hào mất giáo, ngày càng thêm nhiều tội lỗi. Và nếu ta
    phạm điều thứ hai, thì làm cho bạn bè, không thích và tạo ra không khí nặng nề trong khi nói chuyện với mọi người. Nói thế, không có nghĩa là bảo ta ai nói điều chi cũng phải làm thinh, không được phép trả lời. Mà ta phải ý thức, thế nào là “trả lời”, thế nào là “trả treo” để không lầm lẫn trong khi nói chuyện.

    38.- ÐỪNG NÓI VÔ DUYÊN:
    Nói vô duyên là đụng đâu nói đó, nói ngạo nghễ, không suy nghĩ, không duyên dáng, như: thấy người ta gầy cũng nói, mập cũng nói, thấp cũng nói, cao cũng nói, hô cũng nói, móm cũng nói, ngọng cũng nói, lưng còm cũng nói . . .và chuyện sơ sót của người đối thoại hồi năm nào cũng nói.v.v . . .
    Nếu ta mang tật vô duyên nầy, không được cha mẹ uốn nắn từ lúc ấu thơ. Nay ta khôn lớn phải tập sửa lời nói mình lại, đừng để đi đến đâu ai cũng ghét! Và họ đánh giá thấp về cách giáo dục của cha mẹ ta nữa. Tội lắm!

    39.- ÐỪNG NÓI NŨNG NỊU:
    “Nũng nịu” là nhỏng nhẻo, làm bộ khó khăn lãnh đạm cho người ta chiều chuộng. Thí dụ nói: ba mẹ đâu có thương con mà lo! Em khổ mặc em, ai bảo chị lo làm chi cho mệt! Em mà nhằm nhò gì, anh bận tâm làm chi! Thôi, hổng chịu đâu .v.v.. thường thường nữ giới có tính nầy.
    Cùng lời nói “nũng nịu” ấy, khi vui thương, nghe nói người ta thương nhiều, nhưng lúc buồn ghét, nghe nói người ta ghét thêm. Cách nói “nũng nịu”, đối với người có tai hại như thế đó. Ðối với người Ðạo, nhất là giới nữ, nên tránh. Vì dư âm nó có sức tác động nhè nhẹ, như ngọn gió chiều hè, báo hiệu thời tiết thích hợp cho hạt giống tình ái nứt mộng đâm chồi, đơm hoa kết trái trong cảnh vắng lặng tự nhiên. Mà thuốc khai hoang Mỹ không thể diệt được.
    Nhiều em cháu cho rằng: lời nói “nũng nịu” là cách nói đẹp của người phụ nữ. Các em, cháu lầm! Cách nói chuyện đẹp của người phụ nữ, nói chung là ở chỗ “chơn thật, hiền đức và duyên dáng”. Ðó mới thật đẹp và quý thôi.
    Cách nói chuyện “nũng nịu” nói trên, giới tu sĩ kém tuổi, chưa kinh nghiệm hết sức lưu ý vấn đề nầy.

    40.- ÐỪNG NÓI THEO CHUYỆN DỊ ÐOAN MÊ TÍN:
    Dị đoan mê tín là tin những điều khác lạ, vô căn cứ và huyễn hoặc vì sợ sệt hoặc vì mê muội. Ðó là những việc: xin xăm, bói quẻ, coi tai, coi tướng, cúng sao, thờ bà mẹ sanh, ông độ mạng, đồng bóng, sai thần, bắt quỉ.v.v . . . chẳng những chúng ta không theo mà còn không nói tán đồng những điều mê tín ấy. Có người bảo: coi bói cho vui chớ đâu có tin, và việc đó không phải sát sanh, đạo tặc mà tội! Nhận xét ấy rất sai lầm. Bởi chủ trương dị đoan mê tín là điều lạc hậu, ngăn trở tiềm lực tiến bộ quốc gia, và làm cho chánh Pháp nhà Phật bị lu mờ xa dần chơn lý. Mỗi công dân và mỗi Phật tử là nền tảng của Quốc gia và Phật giáo. Công dân tiến bộ Phật tử chánh tín, tức quốc gia giàu mạnh, Phật giáo thịnh hưng. Trái lại, quốc gia
    nghèo yếu và Phật giáo lu mờ. Chúng ta lại vi phạm điều kiện ngăn trở sự “giàu mạnh” quốc gia, và làm cho
    chánh pháp nhà Phật bị “lu mờ”, bảo không tội với quốc gia và Phật giáo sao đựơc?
    Là một công dân biết yêu mến tổ quốc, một Phật tử biết kính trọng Phật giáo, chúng ta không còn lý do nào dung dưỡng “dị đoan mê tín” nhất định phải xa tránh nó luôn.

    41.- BỚT CƯỜI CỢT, NÓI NHẢM:
    Khi gặp gỡ huynh đệ, ta chào hỏi vui vẻ, thân mật cũng đủ rồi. Nên bớt bày chuyện cười cợt, nói nhảm làm mất phẩm cách nhà tu. Chúng ta không cao vọng đầy đủ “tế hạnh” như chư Phật Thánh, nhưng đã mang tiếng người đạo, ta phải cố gắng giữ cho mình cách nói năng siêu vượt hơn người chưa biết đạo.
    Có lắm người mang sắc áo nhà tu, cũng ăn chay, lễ Phật, làm việc nhân từ. Song cách nói hay cười cợt, nói chuyện nhảm không nhằm lẽ. Cho đến khi tuổi già cách nói năng vẫn chưa nghiêm chỉnh, cười cợt vô chừng! thậm chí có người tu, đang nằm trên giường bệnh chờ đến phút lâm chung cách nói năng cũng còn kém, phẩm hạnh quá tầm thường, mong gì đắc đạo!
    Hơn nữa, nhật nguyệt như thoi đưa, nhà tu nên dành thời giờ áp dụng vào công việc hữu ích về mặt tinh thần hướng thượng tốt hơn. Phải tránh bớt cách nói chuyện nhảm vô ích.

    42.- CÁCH NÓI VỚI NGƯỜI SƠ GIAO VÀ THÂM GIAO:

    Dù là hạng sơ giao hay thâm giao ta vẫn phải giữ lễ độ khi nói chuyện. Nhưng cách nói chuyện ấy phải khác nhau:
    - Với người sơ giao, ta nên nói có lễ phép, không quá vụng về, thưa thớt và quá thân mật làm cho họ ngờ vực và khinh khi ta. Vả lại, quá trình của người sơ giao ta chưa biết rõ nên chỗ nói năng ta phải cẩn thận. Ðừng nghe những lời ngọt dịu, hữu lý của họ mà vội tin. Bởi lẽ “cực gian như thực”, là thứ chiêu bài chuyên nghiệp của kẻ bất lương.
    - Với người thâm giao, tuy là thâm giao quen biết lâu ngày, nhưng có số người ta phải dè dặt với họ. Vì tánh tình họ quá thưa thớt, hời hợt, và cũng có số người ta tin tưởng được. Ðối với những người nói trên khi chuyện vãn ta không nên nói rào đón và văn vẽ lắm, phải nói chân thật, tự nhiên. Và thỉnh thoảng ta nên nhắc lại vài câu chuyện thời thơ ấu, để gợi lại tình nghĩa xa xưa thêm sâu đậm. Nhứt là lúc ta có địa vị hơn người, ta nên quan tâm cách nói có nhân hậu, đừng làm cho người thân phải buồn tủi về việc giai cấp bất đồng.
    Có điều ta nên nhớ, dù là người sơ giao hay thâm giao, khi nói điều chi, ta cũng phải khiêm tốn, đừng bắt bí, đả phá làm mất lòng nhau. Dù là lời bắt bí đả phá đó có tánh cách nói chơi thôi.
    Trên đây là cách nói với người sơ giao và thâm giao mà nhà tu không thể thiếu tư cách nầy.

    43.-ÐỪNG NÓI CHUYỆN VỚI CON CHÁU TRONG NHÀ NHIỀU, KHI ÐỐI DIỆN VỚI KHÁCH.
    Có người khi tiếp chuyện với khách, hay nói chuyện với thân nhân (con, cháu) trong nhà nhiều. Hành động nầy có những điểm chẳng đẹp:
    - Thể hiện cho khách thấy ta là hạng người ích kỷ, chỉ biết có con cháu ta là hơn hết.
    - Chứng tỏ tính khinh người, coi mình trên thiên hạ.
    - Khiến cho bậc trí thức trách ta là hạng người nông nỗi kém tâm lý.
    - Tập cho hậu tấn bên cạnh ta thiếu tế nhị trong khi tiếp chuyện với khách.
    - Thời giờ tiếp chuyện với khách là thời giờ rất hiếm, ta nên dành thời giờ chuyện vãn đầy đủ để cho khách ra về được hài lòng.
    - Tuy đây là thường sự, nhưng làm người nhứt là người đạo, không thể có những hành động quá tầm thường làm giảm hạ tư cách của mình là một nhà tu.

    44.- NÓI VỚI NGƯỜI NGOẠI ÐẠO:
    Nếu ta là tín đồ Phật giáo, khi nói chuyện với người ngoại đạo và bực có học thức, ta nên nói rộng về: khoa học, y học, văn hóa, triết học . . . Hoặc có thể căn cứ trên ba yếu tố: hợp cơ, hợp tình và hợp lý. Nếu không được vậy ta có thể gợi ý để người nói, ta ngồi nghe tốt hơn. Ðừng nhất nhất chứng minh kinh Phật nói như thế nầy, Thầy tôi nói thế nọ . . .cách nói đó gọi là lạc hậu, vì đóng khung trong một hình thức cố định và đôi khi còn làm cho người phản đối.
    Và ta phải biết: ta không kính trọng đạo người, tất người không kính trọng đạo ta. Ta bảo thủ đạo mình chỉ trích đạo người là điều phiền phức, không có lợi. Nếu trường hợp cần phải thanh minh quảng bá cho đạo của ta, dĩ nhiên ta phải nói. Nhưng ta không nên so sánh, chỉ trích chạm tự ái, gây chia rẽ chẳng tốt.
    Cho nên khi tiếp chuyện với người ngoại đạo, ta nên giữ thế nào cho giữa ta và người có được sự cởi mở, tiến bộ và đường lối đạo của chúng ta sáng tỏ chân chính. Thế mới gọi là một tín đồ ngoan đạo, khi nói chuyện với người ngoại đạo

    45.- KHÔNG NÓI THEO BỐN NGHIỆP ÁC:
    Theo giới luật nhà Phật luôn nghiêm cấm tín đồ vi phạm bốn nghiệp ác, do miệng lưỡi gây ra: . Ðến nơi này ta xui người như vầy, lại chỗ kia ta giục người thế khác, làm cho thân quyến bất hòa, xóm chòm thù nghịch (có giải ở trang sau). Ỷ mình trên quyền, nặng nhẹ kẻ yếu hèn cô thế.. Cậy tài khôn xảo, chưởi rủa tục tằn, không kiêng gì người trên kẻ dưới. Chuyện có nói không, chuyện không nói có, giả dối đủ điều.
    Một con người ăn nói ác hại như thế ấy, dĩ nhiên người hiền, tốt xa lánh, kẻ ác xấu chơi thân. Chơi than với kẻ ác xấu như sống gần bầy hổ đói làm sao đời ta không chịu cảnh khổ đau cho được.
    Dù không phải nhà tu chăng nữa, nhưng sau khi xét kỹ, chúng ta không thể xài những lời nói gọi là ác nghiệp mà tín điều Phật giáo đã ngăn cấm tự thuở xa xưa.

    46.- KHÔNG NÓI HAI LƯỠI:
    Ðây làm rõ hơn về cách nói hai lưỡi.
    Nói hai lưỡi là đến với A, ta cùng A bày ra chuyện chẳng tốt của B. Ðến B ta thuật lại A nói chuyện chẳng tốt của B. Và trái lại, làm cho sanh sự bất hòa. Chuyện lớn thì đôi chối, đánh giết; chuyện nhỏ thì để bụng giận hờn.
    Người có tật nói hai lưỡi, đôi khi vì quyền lợi, vì hiềm khích tìm cách nói để hại người. Và có khi vì kém trí, hời hợt, ai nói sao cứ nói lại vậy, chớ không phải có ý thâm độc. Nhưng dù không có dụng ý thâm độc, cái tật ác hại này làm cho phẩm giá của ta phải bị người khinh bỉ luôn...
    Và thay vì người có trí khôn ngoan, A bày chuyện chẳng tốt của B. Ta biết B là người bạn tốt, ta nên biện minh việc B chịu oan tình. Và khi đến với B, ta cũng không nên chỉ ngay A nói xấu B. Mà ta phải biết lựa lời nhắc B phải dè dặt những điều người ta dư luận chẳng tốt đó, để B ngăn ngừa. Làm như vậy, ta vẫn đối xử tốt với đôi bên và cũng không xảy ra chuyện bất hòa với bạn bè, chòm xóm (chỉ trừ trường hợp đặc biệt).
    Ta cũng đừng tưởng lầm rằng, lời nói của ta đó, được người bảo đảm mật kín. Người ta vẫn còn nói đi nói lại nữa. Khi vỡ chuyện ra, ta phải mang tiếng là hạng người: “đâm bị thóc, thọc bị gạo”, tệ hại vô cùng!.
    Hơn nữa, người mang tật nói hai lưỡi dù cách ăn ở rộng rãi, có công giúp người, nhưng không ai dám tín dụng, nhân phẩm mất đi và suốt đời phải sống trong phiền não.
    Tóm lại, tật nói hai lưỡi, ở đời bạn bè, chòm xóm không tin. Và tín điều Phật giáo ghép vào tội “lưỡng
    thiệt”. Nhà tu nên ý thức cái nghiệp chướng quái này.

    47.- NÓI NHIỀU:
    Sách Minh Tâm thánh nhân dạy rất kỹ về bệnh nói nhiều, vì nói nhiều có những điều bất lợi:
    a)- Thức ăn dù ngon, ăn nhiều cũng không còn ngon; lời nói dù hay, nói nhiều cũng không còn hay, và dễ làm cho người sanh chán. Có một cậu tu sĩ mang bệnh nói nhiều, ông dắt được một số người. Mỗi lần ông gặp số người ấy ông nói rất nhiều. Hết luận việc đạo lý, đến việc bàn tán thiên cơ đủ thứ . . .
    Lần nọ, ông hướng dẫn số bà con đi viếng núi, đến vồ nào nghỉ mát ông cũng nói, bất chấp việc mệt mỏi của bà con. Dụng ý của ông nói cho người nghe để lo tu hành cho có phước. Nhưng ông không ngờ sau thời gian đi núi về, người ta xa lánh ông dần, không còn kính ông như lúc trước nữa. Bởi họ phàn nàn chán nản về cái bệnh nói nhiều của ông.
    b)- Nói nhiều dĩ nhiên có điều ta chưa xét kỹ, hoặc khi vui, buồn, tức dễ bị sơ xuất, rất khó thu lại được
    lời nói của ta.
    Có một trường hợp hai bà quen biết, muốn kết nghĩa thông gia. Bữa nọ bà sui trai đến nhà bà sui gái để kết thúc câu chuyện. Nhưng khi cao hứng, bà sui trai nói bất cẩn việc không tốt của cậu con trai bà mà bà không hay. Làm cho bên nhà gái để ý, nên ít hôm sau bên đàng gái tìm cách từ chối cuộc hôn nhân. Bên đàng trai vô cùng hối hận.
    c)- Mỗi khi ta tiếp chuyện với người, cốt để thu thập những ý kiến hay lạ hầu giúp kinh nghiệm them cho ta có số vốn kiến thức trong việc ở đời. Nếu ta nói nhiều, làm mất thời gian trong khi đàm thoại, không thu thập được những gì tiềm ẩn của người. Ðó là điều tai hại cho ta trên bước lộ trình hướng thượng.
    Nhưng đôi khi ta cũng phải nói nhiều, vì trường hợp đặc biệt ta phải nói.
    Kinh nghiệm trong khi đàm thoại: Có số vì kém trình độ nên ít nói; có số hay nói, và có số trình độ cao kiến, huyết khí của họ đã bình, và việc không cần thiết nên họ không tranh nói. Với dụng ý của số người cao kiến nầy, ta rất khó lường được chỗ tiềm ẩn của họ. Ta phải làm thế nào nhận được ý kiến hay của số người nầy, cho kiến thức ta không bị quanh quẩn trong chỗ cạn hẹp như hằng ngày ta đã thường tiếp chuyện với hai số người nói kia.
    Và tôi đã có kinh nghiệm hậu quả của bệnh nói nhiều, nên mấy lượt phải lập lại ý nầy để em, cháu lưu ý thêm.
    Tóm lại, bệnh nói nhiều lắm khi phá vỡ chỗ dụng ý tốt của ta, khiến cho người chán nản. Ðồng thời sẽ làm cho đối phương nắm được tư tưởng của ta, dễ hư việc lớn và không học hỏi được những gì sâu sắc của người siêu vượt hơn ta. Khi ta chợt tỉnh mới hối tiếc thì việc đã muộn màng.

    48.- KHÔNG NÓI GIỌNG GẮT GỎNG:
    Nói gắt gỏng là giọng nói gay gắt khó chịu. Trái với giọng nói ôn tồn dịu hiền dễ cảm thông. Cũng đồng phát ra một lời nói đó, nhưng làm cho người nghe vui lòng, cảm mến. Và cũng đồng phát ra một lời nói đó, nhưng làm cho người nghe bực tức, căm hờn. Giọng nói dị nghĩa nầy đều do tâm ta mà ra cả. Tâm hiền lành thường cảm phát ra giọng nói khác, tâm hung bạo, ghét ganh phát ra giọng nói khác; cũng như tiếng đàn dây dùn, thẳng phát ra âm thanh chẳng giống nhau. Ðây không thể dụng văn từ diễn tả hết ý được, chỉ có chính người nghe mới nhận được ý đó thôi.
    Kẻ nói giọng gắt gỏng nầy, người ta đánh giá là hạng ác hiểm, khó khăn. Nếu bạc phước vương mang giọng nói kể trên ta nên cố gắng chừa bỏ cho kỳ được. Vì nó là giọng nói kém đạo đức, kém lịch sự, ít ai cảm mến.

    49.- KHÔNG NÓI CAO GÁC VỚI NGƯỜI:

    Nói cao gác là nói nhiều lời càn bướng, hỗn láo, không kiêng vị ai.
    Người biết phải trái, hay nhường nhịn dù vẫn biết trình độ kẻ đối thoại kém hơn mình. Ðó là bậc điềm tĩnh khôn ngoan. Ngược lại, kẻ háo thắng không biết đúng sai, lợi hại, ỷ mình lanh xảo, uy quyền, nói năng bừa bãi, luận biện cưởng lý lấn lướt người cho vừa với tánh tự kiêu của mình. Mặc dù đôi khi họ cũng có chút lương tri nhận biết mình sai.
    Ở đời ai cũng mến, giúp đỡ và muốn sống gần người biết nhịn nhường khiêm tốn. Chớ không ai mến, giúp đỡ và sống gần kẻ nói năng hỗn láo, cao gác hơn mình.
    Có một bà chủ tiệm tạp hóa nói: Con T nó cũng siêng năng lắm. Nhưng khi mở miệng ra nó trả lời không rớt một câu, cái nào nó cũng nói cao gác hơn người, nên tôi không mướn nó nữa.
    Bởi vậy, kẻ mang chướng nghiệp nói trên, dù sống trong một gia đình hay trong một tổ chức nào cũng
    bị người ruồng bỏ; đời họ khó thể yên thân. Thậm chí đem thân làm tôi đòi cũng chẳng ai xài.
    Nhà tu nên tránh tật nói “cao gác” nầy.

    50.- CÁCH NÓI TRONG CÁC PHIÊN HỘI THẢO:
    Nói chuyện trong các phiên hội thảo có những trường hợp:
    a)- Trong một phiên hội thảo có vị chủ tọa minh chánh, và sau khi phân tích lợi hại rõ ràng, ta cần phải mạnh dạn phát biểu ý kiến để giải quyết mọi vấn đề có lợi ích chung. Ta không nên vì một lý do nào hèn nhát nín lặng. Khi phát biểu ý kiến, ta phải nhã nhặn đưa ra lý lẽ chính đáng, đừng vì quyền lợi cá nhân mà chủ quan, cưỡng lý. Phải đặt quyền lợi công trên tất cả, và phải tôn trọng ý kiến hay đúng của đa số tán thành.
    b)- Trong một phiên hội thảo, vị chủ tọa tối tăm, bè phái, cử tọa phần đông là hạng người nông nổi và cónhững vấn đề căng thẳng . . .Xét thấy không thể phát biểu ý kiến để giải quyết ngay vấn đề được; ta không nên nóng nảy dụng lời thẳng thắng, phải bình tĩnh chờ một dịp nào thích hợp hơn. Nếu nóng nảy chẳng
    những ta không giải quyết được những gì tốt đẹp mà còn gây thêm lắm chuyện lôi thôi, có hại. Ta cũng không nên giẫm chơn theo những kẻ mưu xảo hành động “giương đông kích tây”, phát biểu man trá lừa bịp lẫn nhau chỉ vì lòng tham ác, ích kỷ của mình. Và ta cũng không nên vì tình cảm riêng tư thiên vị và cúi đầu dua bợ tuân lệnh bất cứ một cá nhân nào trong khi chưa hội đủ những điều kiện minh lý.
    Tóm lại, trong khi tham dự các phiên hội thảo, ta nên sáng suốt phân tích lẽ lợi hại, đúng sai, không quá cương trực làm cho hư hỏng công việc. Cũng không quá hèn nhát thành kẻ nịnh tà; tùy nghi phát biểu.
    Nhưng lời lẽ luôn luôn lễ độ, chánh đáng. Ðó là tư cách nói chuyện trong các phiên “hội thảo” của một nhàtu.

    51.- CÁCH NÓI VỚI NGƯỜI CÓ LỖI VÀ KHI TA CÓ LỖI:
    Cách nói với người có lỗi: Người có lỗi là người đã nói làm những việc sai quấy khiến ta phẩn nộ. Nhưng với tư cách nhà tu ta nên bình tỉnh, dằn cơn thịnh nộ, dùng lời lẽ nhã nhặn chính đáng, tránh những ứng xử lời nói cộc cằn thô lỗ. Dù ta sắp làm tội người không thể tha thứ. Thế nên:
    a)- Nói với người có lỗi, biết phục thiện:
    Ông H, một tu sĩ đã bị bà N và cô C giựt một số nợ. Bà N biết lỗi nên đến trước mặt ông H xin lỗi. “Thật mẹ con tôi có lỗi với chú H rất nhiều, vì không trả số tiền đó cho chú H xài. Xin chú chậm lại cho mẹ con tôi ít lâu, sẽ lo hoàn trả cho chú. Còn con C của tôi, nó không còn mặt mũi nào đến gặp chú H để mở miệng điều chi với chú đặng. Xin chú H thứ lỗi cho”.
    Ông H ngồi trầm lặng đôi phút rồi ôn tồn đáp: “Số tiền đó tuy không nhiều lắm’. Song cũng khá quan trọng đối với tôi trong lúc nầy. Nhưng không sao! Thím N về lo trả cho người khác, để họ nặng nhẹ thím không tốt. Thím về cho tôi nhắn với cô C cô hãy an tâm, đừng lo lắm mà sanh bịnh hoạn. Tôi rất thông cảm cho hoàn cảnh của thím và cô C!
    Bà N xin phép ra về. Cách một tuần sau hai mẹ con bà N mang đủ số tiền đem đến trả cho ông H và tỏ lời cám ơn tha thiết.
    b)- Nói với người có lỗi không biết phục thiện:
    Trong một khóa học nghiệp vụ, khóa sinh A, ban đêm ra ngoài quán nhậu quậy . . .sáng ngày viên Tổng giám thị cho đòi A vào văn phòng làm việc . . . viên Tổng giám thị nói: Anh A, anh là một khóa sinh lẽ ra anh phải tuân thủ nội qui để duy trì trật tự và danh dự chung cho nhà trường! Sao đêm qua anh ra quán nhậu quậy, làm cho trường sở mang tiếng chẳng tốt? Anh có biết tội anh chưa? Anh nói: Thưa ông Tổng giám thị, ai cáo gian cho em nhờ ông đưa ra “Bằng chứng”? Viên Tổng giám thị đưa ra bằng chứng hẳn hoi.
    Nhưng A đổ là vì anh không đọc nội qui nên không biết, và nhiều lý do để chối cải . . .Vị Tổng giám thị nghiêm nghị nói: Anh A, từ ngày nhập học đến nay anh chỉ phạm nội qui lần nầy. Còn những điều khoản nội qui trên bảng trước văn phòng Ban Giám Ðốc đó anh có vi phạm điều nào nữa không? A nói: Thưa ông Tổng giám thị, em không vi phạm điều nào khác nữa cả.
    Vị Tổng giám thị nói:
    Như vậy, anh đã có đọc kỹ nội qui rồi, nên anh mới biết điều nào anh vi phạm, điều nào anh không vi phạm. Ðã có đọc nội qui mà còn viện lý gian dối qua mặt Ban Giám thị. Ðó là tội thứ nhứt.

    Còn anh không đọc nội qui, tức anh có tội hơn! Vì một khóa sinh khi vào trường phải ngoan ngoãn theo dõi và giữ nội qui để khép mình vào khuôn khổ tốt của nhà trường. Trái lại, anh chểnh mảng, ngoan cố sống ngoài qui luật trường sở. Ðó là tội thứ hai.
    Ðã là một khóa sinh, anh không cố gắng học tập, đêm hôm ra ngoài hành động bất hảo, làm giảm danh dự nhà trường. Ðó là tội thứ ba.
    Anh A, anh còn khiếu nại điều gì nữa không? Anh nín thinh! Vị Tổng giám thị xoay qua bàn Thư ký bảo: Thư ký lập biên bản, ghi rõ nội vụ, trục xuất khóa sinh A ra khỏi trường sở. Ðồng thời thảo ngay công văn báo cho gia đình và cơ quan giới thiệu A đến văn phòng Ban Giám Ðốc làm việc v.v. . .
    Vừa qua, chúng ta thấy: Ông H nói chuyện với người có lỗi (biết phục thiện) rất nhã nhặn; vị Tổng Giám thị nói chuyện với người có lỗi (không biết phục thiện) rất nghiêm minh. Bà N (biết phục thiện) nói chuyện với người mình có lỗi, nên được người thông cảm. Và anh A, có lỗi ( không biết phục thiện) còn tìm ngụy lý, chẳng những biện hộ cho mình không được mà còn phải tội lỗi thêm!
    Làm người, dù ở cương vị nào, ta cũng nên ý thức cách nói chuyện với người có lỗi, và khi mình có lỗi như câu chuyện tường thuật ở trên.

    52.- LỜI NHÃ NHẶN:

    Nhã nhặn, là ôn hòa, khiêm tốn.
    Số người kém trí cho rằng: dám hò hét trước kẻ uy quyền gọi là bậc đại dũng. Không! Ðó thuộc về hạng người huyết khí chưa bình, chưa đủ yếu tố gọi là dũng. Bậc đại dũng dù gặp chuyện phẩn khuất thế nào, họ cũng vẫn nhã nhặn. Bởi nhã nhặn nó thể hiện một tâm hồn bình tỉnh, có đủ kinh nghiệm đối phó với mọi trường hợp bất trắc.
    Xưa kia, tu sĩ Trần Huyền Trang trên đường đi thỉnh kinh Tây phương, gặp uy thế nhà vua cưỡng bức nếu Huyền Trang cải lịnh đi, phải bị chém đầu. Huyền Trang nhã nhặn đáp: bệ hạ có thể giữ hài cốt bần tăng ở đây được chứ tinh thần bần tăng làm sao bệ hạ giữ được. Và khi chứng kiến hai người tranh cải dù ai cũng phải công nhận người dùng lời lẽ nhã nhặn dễ mến hơn.
    Thế nên bất cứ hạng người nào, nhứt là nhà tu thiếu nhã nhặn khó chung sống với người, và cũng không cảm hóa được ai.


    CHƯƠNG BỐN: NHÀ CỬA

    Nhà tu lúc nào cũng phải đặt trọng tâm về mặt tinh thần giải thoát, hơn là mặt vật chất buộc ràng. Lối sống của nhà tu là lối sống của những con người thanh cao, bình dị, nên vấn đề nhà cửa đối với họ không mấy quan tâm. Thời gian quý báu, nhà tu quý thời gian để theo đuổi mục đích giải thoát của mình. Mọi sinh hoạt hằng ngày, như: Làm công việc, khách khứa, ăn mặc, tắm rửa, ngủ nghỉ. v.v. . .Nó đâu còn dư thời gian bao nhiêu để áp dụng vào công trình hướng thượng? Nên việc sinh hoạt hằng ngày, chúng ta phải biết thế nào là việc chính, thế nào là việc phụ! Lầm nó như đi lầm đường quanh quẩn, giết mất thời gian, khó mong đến nơi đến chốn!.
    Một ông cha trong nhà, lục đục lo làm công chuyện vụn vặt: nấu cơm, phơi củi, quét dọn v.v. . . Dù ông cũng đỡ hơn hạng người biếng nhác, nhưng vợ con ông vẫn là kém phước. Khó tránh cảnh đói nghèo. Vì ông sống quanh quẩn theo việc phụ, chớ không biết việc chính của người cha phải hoạt bát như thế nào?
    Một “ni sư” trụ trì tự viện hằng ngày chỉ biết lo hướng dẫn ni chúng công quả không hở tay, nào là: tưới hoa, quét lá, lau chùi, dọn dẹp kỹ lưỡng . . .Sự hướng dẫn ấy thiếu sáng suốt. Bởi việc chính của người nương mình nơi am tự là, lo “trau luyện đức lành, giồi mài trí tuệ”. Còn công việc “săn sóc cảnh dà lam”, chỉ là việc phụ thôi.
    Các nhà phát minh khoa học, thi nhân, chính trị và chư thiền đức, lúc nào các Ngài cũng nắm giữ việc chính không rời.Nói thế, không có nghĩa là bảo chúng ta biếng nhác, ăn ở dơ bẩn, nhà cửa lôi thôi, sắp xếp không thứ lớp mà ý thức chúng ta nên phân biệt, đừng lầm việc chính, phụ, để không hoang phí thời gian và tiến cho kịp với thời đại. Vả lại, người quá siêng năng, kỹ lưỡng thì tâm tánh trở lại khó khăn, đầu óc cạn hẹp, tối tăm, tinh thần không yên tĩnh sáng suốt.
    Hơn nữa, mắt chứng kiến nỗi khổ của chúng sinh, nợ tứ ân chưa trả, đường tu học chưa thành; cảnh già, bịnh, chết đang đe dọa hằng ngày . . .Chúng ta đâu có rảnh vui gì mà lo trang hoàng nhà cửa! Người lo trang hoàng nhà cửa, se sua đẹp xấu, chỉ biết riêng mình là số người không thông hiểu lẽ “vô thường”, chưa minh “lý đạo” và con tim của họ mất hết ý nghĩa cao quý, chúng ta không thể giẫm chơn theo.
    Tóm lại, vấn đề nhà cửa, nhà tu nên sống giản dị, không quá siêng năng tô điểm; không quá biếng nhác lôi thôi và vật dụng trong nhà phải sắp xếp đâu đó có thứ lớp theo tinh thần khoa học, để cho cuộc sống của chúng ta có vẽ văn minh và hợp với nếp sống đạo đức hơn.
     
  2. Buile

    Buile Member

    CHƯƠNG NĂM: XỬ SỰ

    Xử sự tức là cách ăn ở đối xử với đời.
    Nói đến vấn đề xử sự, Thánh nhân còn phải than: “Làm người khó, làm người khó”. Chính Chúa Giê Su và Phật Tổ Thích Ca còn xử sự chưa vừa được hết lòng người. Chúng ta là hạng phàm nhân biết phải sao đây?
    Tôi rất ngại, không muốn bàn đến chương mục nầy. Nhưng vì phép xử sự là cái thước đương nhiên của Ðạo đức, bắt buộc con người, nhất là người đạo, không thể vượt ra ngoài phạm vi ấy được. Vả lại, cũng có số nhà tu, cách xử sự rất vụng về, nên chúng ta phải cố gắng nghiên cứu yếu lược về phép xử sự.

    1.- ÐỐI VỚI BẢN THÂN:

    a)- Xét lỗi mình: Chơn lý hiện rõ việc xử sự với đời, thiện hay ác, tốt hay xấu là do ở chỗ biết xét lỗi mình và không biết xét lỗi mình đó thôi. Một con người biết xét lỗi mình mới thấy được chỗ “sai trái” của mình để sửa chữa và mới thông cảm cho người. Lòng nhân mở rộng, thì cách xử sự với đời ít khi lầm lỗi. Trái lại, tội quấy dẫy đầy! Ðời người phải đi qua một quãng đường dài, nhiều chông gai khúc khuỷu, lắm khi phải mang trong lòng một cuồn tơ rối. Nếu không bình tĩnh “xét mình” tìm ra manh mối tháo mở, thì mọi việc không thể được tốt đẹp.
    Từ một nhà lãnh đạo, một vị giám đốc và một tu sĩ, nhờ biết “xét lỗi mình” mới giải quyết được mọi vấn đề rắc rối, vượt qua hồi khủng hoảng và sống hợp với đạo đức, tiến bộ. Trái lại, là thất cả nhân tâm, là hoại diệt.
    b)- Tự lực: Là tự sức mình, không hoàn toàn trông nhờ ai.
    Muốn làm nên một sự nghiệp chi, ta phải tự mình nỗ lực mới thành công; không nên ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Nói thế, không có nghĩa là bảo chúng ta tự đắc, không cầu học và nhờ sự giúp đỡ của những người tốt lòng. Mà nên ý thức: Cha mẹ giúp vốn, thầy cô giảng dạy không quan trọng bằng chỗ tự lực của ta. Vì có vốn, có người giảng dạy, ta không tự lực cũng không làm nên việc chi đặng cả.
    Tự lực gồm có:
    Tự lực về vật chất: Ðạo Phật xưa nay phân ra làm hai hạng người.
    Hạng “xuất gia tu sĩ”: Hạng người nầy nương mình nơi tự viện, hằng ngày lo tu sửa đức lành, nghiên cứu Kinh pháp hầu giảng giải đạo lý cho bá tánh nghe để hồi tâm hướng thiện. Ðời sống vật chất của những vị ấy nương nhờ nơi chư thiện tín giúp cho. Hạng “tại gia cư sĩ”. Hạng người nầy có gia đình, cuộc sinh sống như thường. Nhưng hướng tâm về Phật giáo, giữ ít điều giới luật, ủng hộ Tam Bảo. Tuy nhiên, trong hạng “tại gia cư sĩ” lại có số người tiến bộ. Họ sống độc thân kiên trì giới luật, tự làm tự sống. Và làm các công việc từ thiện. Số người nầy ta tạm gọi với danh từ “tu sĩ”.
    Ðã hướng về hạnh tu giải thoát, nhưng không thọ của tín thí. Ðiều nầy đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “Phải làm sao để sống đây?”
    Theo sự nhận xét của một số người thâm niên hành đạo, có kinh nghiệm: Hạng “tu sĩ” nầy nên tự giải quyết đời sống về “vật chất” cho mình có căn bản tương đối. Nghĩa là phương tiện chọn một nghề thích nghi theo chánh nghiệp cá nhân, hoặc vài huynh đệ sống nương nhau vừa lo làm ăn vừa lo tu hành dài hạn.
    Có người cho đây là bảo thủ. Người ta hiểu lầm! Vì có biết bao vị cao tăng thiền đức cũng tự lực sinh sống nơi cảnh dà lam. Và Ðức Phật Thầy Tây An xưa kia cũng lập trại ruộng để chư đệ tử có công ăn việc làm an tâm hành đạo. Như vậy gọi là “bảo thủ” ư? Nhưng chúng ta phải ý thức, chỗ làm ăn của nhà đạo không giống như chỗ làm ăn của người đời. Vì người đời có một muốn hai, lòng tham vô tận; còn nhà đạo thì dừng cái tâm ham muốn lại ở chỗ “biết đủ”.
    Tự lực về tinh thần: là tự cố gắng rèn luyện cho mình có được “đức hạnh” và “trí huệ”.
    “Ðức hạnh”: Ðức, là những đức tính quý, Như: trung, hiếu, liêm chính, bình đẳng, nhân đạo.v.v… Hạnh, là hạnh nết tốt, như: hòa hưỡn, nhu mì, đằm thắm, chững chạc.v.v… Những tính quý và nết tốt đó gọi là “Ðức Hạnh”.
    Minh tâm có câu: “Bất căn tế hạnh chung lụy Ðại đức” (chẳng giữ hạnh nhỏ, rồi sẽ lụy đến đức lớn).
    Nghĩa là cách ăn nết ở của ta hằng ngày, nếu không lo tu sửa, lâu ngày sẽ trở thành thói quen, hóa ra người bất trung, vô nghĩa, tham lam, hiểm ác, tức là người không có “đức hạnh”. Một con người không có đức hạnh, thế gian chẳng ai ưa, đất Phật làm sao đến đặng. Vì đức hạnh là cốt cán của một động cơ vượt thẳng trên tuyến đường cao quý. Thiếu nó nhà tu khó thể thành công.
    “Trí huệ”, là đầu óc sáng suốt. Người thiếu sáng suốt, thường hay nhận ngụy làm chơn, cho hại rằng lợi, nói
    đại làm càn, tội lỗi chất chồng, bao giờ đắc đạo!
    Tóm lại, nhà tu phải ý thức tinh thần “tự lực”. Nghĩa là tự giải quyết cho mình về “vật chất” thích nghi tương đối, và phát triển về mặt “trí huệ”, thì việc tu hành của chúng ta mới được vững chắc dài lâu trên đường giải thoát.
    c)- An trụ: Là thân an trụ lại ở một nơi nhất định để tu học. Vì một con người, thân không an trụ, tâm
    khó được yên tĩnh để theo đuổi con đường hành đạo cho đến kết quả cuối cùng.
    Một sinh viên, không an trụ nơi trường sở để học tập, không thể được thành tài. Một nhà khoa học, không an trụ nơi phòng thí nghiệm, khó thể hoàn thành một dự án phát minh. Nhà tu cũng thế. Trước khi chưa minh lý đạo, không an trụ một nơi, dành thời gian để lo việc học hành tư duy đạo lý, tức trí huệ khó phát sinh.
    Nói thế, không có nghĩa là bảo chúng ta phải sống yếm thế, “độc thiện kỳ thân”, mà lưu ý nên tự lượng xét mình. Trước khi muốn đi đâu, ta phải biết đi với một lý do chánh đáng, hoặc đi để cầu học, hoặc đi để hoằng pháp lợi sinh như những bực truyền giáo đáng kính? Hay đi vì không làm chủ được tâm mình? Ngồi một chỗ tâm rộn rực không yên, đứng núi nầy trông núi khác? Hoặc ham vui vì bè bạn, hoặc biếng nhác rong chơi cho thong thả, tâm tính trở thành thói quen, rồi xách gói đi lang thang, nay sống chỗ nầy, mai sống chỗ nọ. . .Khi mới đến dĩ nhiên được người vui vẻ, tiếp đãi, ta cho đó là có nhân duyên
    nên ở lại. Sống ít lâu sanh phiền não ta cho là hết nhân duyên, xách gói đi nữa. . .
    Thân dời đổi, tâm làm sao an được? Thân tâm không an, tức phiền não dấy loạn! Ta thử hình dung một con người bị nghịch cảnh, trước giờ phút xách gói ra đi, lòng họ có lâng lâng thư thái, hay phải nặng trĩu tâm hồn và buồn thân tủi phận, lụy đỗ tràn mi?
    Lối sống “ăn gởi nằm nhờ” thường làm phiền người và phiền mình. Ðó là lối sống “bất tịnh”, và mất “tự do”. Rốt lại đời không ra đời, đạo không ra đạo!
    Ngồi viết mục “an trụ” nầy, lòng tôi cảm thấy không vui, vì thương tiếc cho số người sống với cuộc đời trôi giạt lênh đênh, không nơi nhất định mà trong đó có số em cháu chúng tôi.
    Ðể trở lại vấn đề “an trụ”, chúng ta hồi tưởng lại, xưa kia Ðức Phật dù buổi sáng sớm tùy duyên đi hóa độ chúng sanh. Song Phật cũng phải trở về tịnh xá nghỉ ngơi. Với nhà tu dù hạng nào cũng phải có chỗ nơi ăn ở căn bản, có đi đâu cũng phải trở về chỗ “thường trú” của mình. Nhưng có khi cũng phải phiêu lưu mà đó chỉ vì trường hợp đặc biệt không thể làm hơn.
    Hạng người “tu sĩ” nên sớm xét kỹ lại mục “an trụ” nầy. Ðừng để hối tiếc muộn màng cho cuộc đời tu hành trôi nổi của mình không bằng được bao nhiêu bạn đồng môn khác.
    d)- Sự học: Kinh nghiệm cho biết, việc thất học kém trí là điều thiếu sót rất lớn của đời người. Làm người sống với thời đại nguyên tử này nếu thiếu trí khó giữ vững lập trường tự chủ của mình được. Nhưng ở đời cũng có số người chưa ý thức, hoặc ý thức mang máng rồi lãng quên, lo chạy theo cuộc mưu sống hiện tại, không dùng vẫy được qua cảnh đen tối triền miên.
    Mất người yêu người ta còn buồn thảm, thất mùa vụ người ta còn sầu não. Và ở một căn nhà xiêu dột, mặc một manh áo rách, khi nhìn mọi người chung quanh ta biết thẹn thùa,tủi phận, vì sợ người khinh bỉ. Nhưng ta kém trí, nhận xét sai lầm, bị người khinh bỉ sao ta không biết thẹn thùa tủi phận?
    Dân trí thấp, trí đạo kém là điều bất lợi cho quốc gia và tôn giáo. Và một con người thất học, kém trí phải chịu cảnh thua sút suốt đời!
    Khi đã ý thức sự học là điều quan trọng cho đời người; chúng ta nên đôn đốc cho con em vào trường học tập. Nhưng phải sáng suốt, đừng để chúng đi sai đạo đức.
    Riêng về nhà tu, muốn cho trí huệ phát sinh, tu hành đắc quả, ta đừng lầm tưởng rằng, ta chỉ. “bình lặng” vọng tâm rồi hốt nhiên sáng suốt như chư Tổ xưa. Vì chúng sinh trong thời mạt pháp nầy căn cơ thấp kém, phải chuyên trì “Tịnh Ðộ”. Và mỗi ngày ta nên dành một ít thời giờ để học, đọc, viết, nghiên cứu sấm kinh, tích lũy công phu lâu ngày mới mong kết quả.
    Ngoài ra, nhà tu còn phải nhịn ăn, nhịn mặc, tạo một số kinh sách nhất là các loại Tự điển để tra cứu.
    Sự tra cứu mà thiếu Tự điển thì nghĩa lý chẳng tinh vi, mất căn bản và không tiến bộ.
    Vấn đề “bình lặng” vọng tâm hốt nhiên sáng suốt, chúng ta vẫn công nhận, nhưng đời nầy có mấy ai?
    Chúng ta nên biết thân phận mình, nhường phần ưu thắng đó cho chư Tổ và bực cao minh đi!
    Tóm lại, sự học bất cứ hạng người nào trong xã hội đều phải cần, quí; luôn đến nhà tu cũng không thể bỏ qua. Thiếu sự học, coi như mất một cái gì cao quí, của đời người sinh trên cõi thế.
    e)-Tính háo thắng: Háo thắng là kiêu hảnh, không nhân nhượng ai, cho rằng tài năng và chỗ thấy biết của mình hơn cả mọi người. Máy âm dương trời đất biến hóa khôn lường, sự việc trên đời luôn phức tạp, không thể dễ thắng người và dễ thấy biết như những người có tính “háo thắng” đã lầm tưởng! Ở đời, hễ những người giàu sang quyền thế, chạy theo cơ hội nên được nhiều người dua bợ, ủng hộ. Thành ra chuyện dở cũng thành hay, quấy cũng thành phải. Trái lại, những kẻ dại khờ, nghèo khó, gần gũi
    tốn hao, có hại nên người ta không dám thân và nói ngay thẳng binh vực. Cho nên chuyện hay cũng thành dở, phải cũng thành quấy! Bởi vậy trong các khám đường có những vụ án hằng mươi năm biện lý vẫn chưa tìm ra được bằng chứng phải trái! Và có những nhân vật lịch sử, triều đại nầy thì kết án tội lỗi, triều đại khác được tuyên dương công trạng. . .Nên mỗi khi nghe thấy một chuyện gì, ta phải bình tĩnh suy xét tinh tường, đừng “háo thắng” cho mình hay giỏi và vội kết luận sự việc là sai.
    Muốn được vậy, ta phải xem nhẹ lợi danh, đủ can đảm làm chủ tư tưởng thương ghét, không vì thành ,kiến. Và phải bình tĩnh đi sâu vào sự việc “uẩn khúc” của nó, ta mới có thể nhận được chỗ đúng sai phải trái.
    Ngược lại, là tối tăm, lầm lạc.
    Nhưng đây không phải là chuyện đơn giản đâu! Vì phải là một tay thợ mộc chuyên nghiệp mới phân biệt được gỗ quí hay cây chạ. Cho nên làm người dù đứng trong cương vị nào ta cũng nên giữ sự “bình tĩnh”, đừng “háo thắng” cho mình là hay giỏi, và vội kết luận người trong khi ta chưa suy xét tinh vi.
    g)- Ðừng để hối hận: Hối hận là tức giận mình trót đã lỡ lầm.
    Thánh nhân nói: “Người không lo xa tức có khổ gần”. Ðây là câu châm ngôn đầy kinh nghiệm! Việc gì ta không lo xa, suy nghĩ trước hoặc vì tối tăm, hoặc vì ngoại cảnh quyến rủ, không tự chủ được tâm mình, khiến ta làm điều tội lỗi. Khi rước lấy thảm họa ta mới “hối hận”, việc dĩ lỡ rồi, sáng mắt ra đã muộn.
    Ngoài nhân thế và trong cửa từ bi có biết bao người sau khi “hối hận” phải tự sát, và tan nát con tim, như chúng ta đã thấy trên lịch sử.
    Xin tạm kể những điều hối hận:
    - Hối hận sau cơn giận dữ, hoặc lỡ lời, hoặc làm cho vừa với nư tức giận của mình, sinh nhiều tội ác.
    - Hối hận sau giờ phút yếu mềm nhẹ dạ, Khiến ta phải lâm vấp tội tình. Ðiều khó nói nầy, có biết bao dũng tướng tài “bách chiến bách thắng”, có biết bao cô gái “chính chuyên” và có biết bao nhà tu “tự đại” phải bị thảm bại, nhục nhã!
    - Hối hận vì chơi thân với bạn bè bất hảo, khiến ta phải tập nhiễm thói hư tật xấu, khổ lụy thân danh!.
    - Hối hận vì sự thất học, hoặc vì thời loạn, hoặc vì gia cảnh hàn vi, hoặc cha mẹ và ta không ý thức, và vì ta biếng nhác học hành lớn lên phải thẹn cùng chúng bạn. Và cũng có số nhà tu quá say mê tiền của, phí bỏ thời gian, không ý thức việc phước nhân, giồi mài trí huệ, nên một kiếp tu hành hoài công cực khổ!.
    - Hối hận vì không nghe lẽ phải khuyên can, mãi làm điều tội lỗi. Và quan niệm sai lầm, thiếu giải quyết căn bản cho đời sống của mình nên bị người khinh bỉ, vất vả suốt đời.
    - Hối hận vì ta đối với người “kém nhân”, đối với cha mẹ khi còn sống “bất hiếu”, và đối với bậc tài đức lúc sinh tiền ta lại “thiếu duyên” chẳng gặp, hoặc “chểnh mảng”, khi khuất bóng không tìm đâu ra để nương tựa tiến thân!
    Và hãy ý thức: mỗi giờ phút đi qua là mỗi phần thọ nguơn của chúng ta bị giảm; cuộc sống phức tạp, trách nhiệm làm người chưa xong, và một kiếp luân hồi chưa mấy tiến bộ! Thế mà ở đời có biết bao người chưa chịu “hối hận” hoặc hối hận ngày nay rồi ngày mai gây tội lỗi thêm!
    Nhà tu nên sớm tỉnh, đừng đợi khi biết “hối hận” việc đã muộn màng!
    h)- Vấn đề tiền của:
    Sách sử đã ghi chép và trên thực tế chúng ta thấy bậc chơn tu, đời sống của họ rất đơn giản, không lãng phí tiền của. Trái lại, những kẻ tu hành gian dối, lúc nào họ cũng sống với cuộc đời cao sang vương bá.
    Ðiều nầy người có trí đạo, ai cũng phải công nhận. Chúng ta có thể nói là, một con người đối với công quỹ hoặc của ai cũng vậy, trước khi xài, ta phải biết đắn đo suy nghĩ, biết tiết kiệm. Ðó là liêm chính đạo đức.
    Ngược lại, là tham bẩn, phi nhân. Ðây chúng ta không đề cập đến việc lãng phí nhiều mà chỉ bàn qua vấn đề: biết làm chủ tiền của và cách sử dụng tiền của sai, đúng thôi.
    - Biết làm chủ tiền của:
    ·Những cảnh đau thương cực độ thường xảy ra trong nhân loại, phần nhiều do tiền của mà ra. Là con người dù đời hay đạo, ai cũng phải nhờ tiền của để sống. Nhưng ta phải làm chủ tiền của, đừng để tiền của làm chủ lại ta. Nghĩa là, thà cam phận chịu nghèo, chịu chết, chớ không vì tiền của mà làm những điều trái với đạo đức. Và nếu vì việc trung hiếu, nhân nghĩa ta không tiếc, dám xuất tiền của ra để làm. Ðó là ta làm chủ tiền của. Trái lại, ta quá say mê tiền của khiến tâm tánh ta keo kiệt, tính toán ranh mãnh, ham muốn không cùng, “lấy thân che của” và làm những điều sai trái với đạo đức. Ðó là tiền của làm chủ lại ta. Kinh nghiệm cho biết: một con người khi để cho tiền của làm chủ tâm mình, thì không có thứ ác quấy nào mà họ
    chẳng dám làm.
    - Biết sử dụng tiền của:
    Các thứ điện lực và y dược nếu ta biết sử dụng nó có lợi, không biết sử dụng nó có hại. Tiền của cũng thế, ta biết sử dụng đúng chỗ đạo đức, thương kẻ đáng thương, giúp người phải giúp, ta sẵn sàng. Và khi giúp người chỉ vì trách nhiệm và lương tâm nhân đạo, chớ không có ý đồ lợi dụng cho cá nhân mình. Ðó là ta biết sử dụng tiền của sáng suốt, có phước.
    Ngược lại, ta sử dụng tiền của không đúng chỗ, hoặc với ý đồ, và bị người lợi dụng biến ta trở thành công cụ để họ xài vào chỗ đen tối. Ðó là ta sử dụng tiền của tối tăm sai trái, có tội.
    Có số người bảo: Ta có lòng tốt giúp người, Trời Phật chứng cho ta, ai làm chẳng phải tự họ chịu tội.
    Quan niệm nầy rất nông cạn. Vì thế theo nhân đạo, ta phải ví mình như lá dâu xanh giúp tằm ăn để nhã tơ cho mọi người nhờ. Ðừng ví mình như con cừu non dại dột hiến thân cho bầy hổ đói ăn no, thêm sức mạnh tác hại sanh linh.
    Bởi thế, đòn cân công lý xưa nay xét xử: kẻ độc thủ là “phạm nhân”, người phụ giúp là “đồng lỏa”, cả hai đều có tội. Vì lẽ, thuyền đắm người cùng đi trong thuyền cũng phải chung chịu số phận vậy thôi!.
    Nói dễ hiểu hơn, nhà tu lúc nào cũng phải có đủ “trí lực” để sử dụng tiền của phải nơi, đúng chỗ. Thế mới tránh khỏi mọi lỗi lầm xảy ra đáng tiếc!

    2.- ÐỐI VỚI NGƯỜI CHUNG SỐNG:
    Cách sử sự với người chung sống xin tạm kể như sau:
    a)- Chơn thật: Ðứng về phương diện xây dựng bản thân, gia đình, quốc gia và đạo giáo, ta phải giữ đức chơn thật. Có lắm người cho rằng, chơn thật thì “nghèo đói”. Không đâu! Chơn thật đối với bản thân nó là thứ gốc rể bền chắc để gặt hái hoa màu tốt. Vì ai cũng muốn sống gần và giúp đỡ người có đức chơn thật. Chơn thật đối với gia đình nó là thứ linh phù ủng hộ cho việc xây dựng gia cảnh được yên vui. Chơn thật là công thức quý, sử dụng đúng cách làm cho người trên kẻ dưới có sự đoàn kết chặt chẽ, thiết lập quốc gia giàu mạnh. Và chơn thật cũng là bức “dư đồ” chỉ lối cho người tôn giáo đi đúng con đường chánh đạo.
    Nhưng chúng ta đừng lầm “chơn thật” với “dại khờ”, vì hai tĩnh từ ấy ý nghĩa vẫn khác nhau. Chơn thật nó là một trong những “đức tốt” của mỗi cá nhân, được xử dụng nó trong phạm vi xây dựng, có phước lợi cho mọi người. Còn “dại khờ” nó thuộc về “bản năng mê tối”, dễ bị kẻ gian phi lừa gạt, rất có hại. Nhưng dù sao, đức “chơn thật” vẫn có giá trị cao quý mà người tu hành không thể thiếu nó được.
    b)- Nhường nhịn: Thế nào là nhường nhịn? Là bằng lòng chịu thua người một bước, nghĩa là từ một miếng ăn, tấm mặc, chỗ ngồi, việc làm. . .ta dành phần tiện lợi cho người, gọi là “nhường”. Vui vẻ ép mình chịu thua người từ tiếng nói và quyền lợi, gọi là “nhịn”. Trong một tổ chức, tự viện và gia đình mỗi người biết “nhường nhịn” nhau, thì cảnh chung sống mới được vui bền. Ngược lại, phải buồn tẻ, dang dở.
    Người ta thường nói: “Chén trong sóng còn khua”, thì bất cứ cuộc sống nào, người có học thức, hay quê dốt và đời hay đạo cũng không khỏi mất lòng nhau trong việc nhỏ nhặt hằng ngày. Nếu mỗi người không biết cho đây là thường sự, chẳng chịu nhường nhịn nhau, tức không được ổn và dẫn đến chỗ hư hoại lớn hơn. Cũng có người miệng nói nhường nhịn, nhưng chỉ muốn người nhường nhịn mình, chớ mình khôngchịu nhường nhịn ai cả! Thật là bất công phi chân lý! Và người ta chỉ biết nhường nhịn chuyện lớn, còn chuyện nhỏ thì cứ căng thẳng theo ý muốn của mình.
    Họ không chịu hiểu rằng: Cuộc hỏa hoạn thiêu hủy cả núi rừng, dinh thự từ trong đóm lửa nhỏ mà ra.
    Lại nữa, ta nhường nhịn người không phải vì “khờ dại”, chỉ vì ta sợ lấn lướt hơn người mà bị tổn đức bình sanh. Ta nhường nhịn người không phải “dua bợ”, chỉ sợ gây cảnh bất hòa, lúc bình nhật khó yên vui, khi hoạn nạn không ai thương giúp. Ta nhường nhịn người không phải có ý đồ mưu lợi mà vì sợ đời ta trở thành hạng người hung bạo, tiểu nhơn và một kiếp làm người vô ý nghĩa. Và ta nhường nhịn người không phải vì yếu thế, mà vì lòng nhân đại độ, tha thứ kẻ ngu xuẩn lỡ lầm để cho đời ta và người bớt nỗi bi đát đau thương.
    Chính vì xét biết chỗ đúng sai lợi hại ấy nên nhà tu khi huyết khí đã bình, tâm sáng suốt hay “nhường nhịn”, không vì cá nhân mình mà gây hấn với ai.
    c)- Bình đẳng: Lẽ ra tiểu tiết nầy chỉ bàn trong phạm vi sống chung một gia đình hay tự viện thôi.
    Nhưng tiện đây chúng ta bàn rộng thêm để được đúng với ý nghĩa “bình đẳng” hơn.
    Bình đẳng là vì? Là bằng nhau, không ai hơn kém:
    - Với quốc gia, mỗi người công dân không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, nam nữ, khuynh hướng, đều có quyền phát triển tài năng, được hưởng quyền lợi như nhau, tùy theo công sức của mọi người. Nạn bè phái, dìm ép nhân tài, bất công biệt đãi là nguyên nhân của sự đau thương, hoại diệt và bế tắc con đường tiến bộ quốc gia. Với Phật giáo, Ðức Phật Tổ đã chủ trương cuộc cách mạng tư tưởng. Ngài công bố câu: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và: “Phật cũng đồng nhất thể bình đẳng với chúng sanh”. Ðức Phật đem thuyết “bình đẳng” đánh tan “bất bình đẳng” của xã hội Ấn Ðộ trong thời đó. Ngài cũng mang bát đi khuất thực như các chư tăng. Phật không đặt người trong hoàng tộc cầm quyền “giáo hội tăng già”. Và Phật thu nhận, người gánh phẩn (hạ tiện) vào hàng tăng chúng.v.v. . .
    Chính Ðức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cũng đã thi hành thuyết bình đẳng nầy trên thực tế hằng ngày trong thời gian kháng Pháp ở chiến khu miền Ðông (khu 7). Ngài luôn sống bình đẳng: Ăn chung, ngủ chung với bao nhiêu chiến sĩ. Một đêm nọ, Ngài ngủ chung với anh em trong Trung Ðoàn 25, sáng dậy một thanh niên khi thấy chơn mình đang gác trên bụng Giáo Chủ, anh ngỡ ngàng và chữa thẹn:
    - “Thưa Giáo Chủ, đêm qua tôi mơ thấy đám mây nhỏ dám che khuất mặt trời”, Giáo Chủ cười và ôn
    tồn đáp: “Có sao! Ðó là sự tuần huờn của tạo hóa”.
    Và giới lục hòa của nhà Phật áp dụng ở thiền lâm cùng nhằm mục đích thực hiện thuyết “bình đẳng” nầy.
    - Với gia đình: một ông cha, bà mẹ sáng suốt, dù cách xử sự với con cháu có khác nhau, nhưng tình thương phải thực sự bình đẳng. Song ở đời có lắm kẻ làm cha mẹ đặt tình thương thiên lệch, xử sự bất công, phân chia tài sản cho con cháu chẳng đồng đều, khiến cho cốt nhục tương tàn, gia đình bất ổn. Ðó chỉ vì không ý thức thuyết “bình đẳng” của nhà Phật mà thôi.
    Ðiều tai hại hơn nữa, cảnh sống của gia đình thiếu bình đẳng: người lo dành dụm và làm công việc không hở tay, kẻ xa xỉ rong chơi vô bổ, công ít hưởng nhiều, thương no, ghét đói! Người ta không hiểu them lẽ sống bình đẳng của gia đình là: nấu cơm, khỏi ẳm em; đi chợ, khỏi giả gạo; lau nhà, khỏi bửa củi. . .Chế độ độc tài phong kiến: “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và “chồng chúa vợ tôi” . . . nó không còn hợp thời hợp lý nữa. Người cùng chung sống với nhau vẫn có quyền phát biểu ý kiến hay của mình trong mọi vấn đề xây dựng hợp lý.
    Tóm lại, từ lãnh vực quốc gia, Phật giáo và gia đình đối với thuyết “bình đẳng” là phương cách giúp quốc gia cường thịnh, Phật giáo sáng tỏ và gia đình đầm ấm. Nhà tu nên xét kỹ vấn đề nầy.
    d)- Ðối với người trên kẻ dưới:
    Ðành rằng cuộc sống tiến bộ của con người phải ý thức “bình đẳng”. Nhưng chúng ta không nên dựa vào đó mà xử sự lố lăng trái phép với người trên, kẻ dưới. Phép xử sự ấy, xin đơn cử như sau:
    * Bổn phận người trên đối với kẻ dưới:
    Bất cứ một tổ chức hay một gia đình nào cũng phải có vị lãnh đạo. Vị lãnh đạo đó phải sáng suốt thấy biết chỗ đúng sai lợi hại và vạch rõ phương cách cho kẻ dưới làm theo:
    - Phải tu sửa bản thân mình làm mẫu mực cho kẻ dưới noi theo gương hạnh tốt. Trái lại, dù có dung chánh trị hay uy lực chỉ gây rối thêm thôi.
    - Phải biết nghe ý kiến hay của kẻ dưới nhắc khuyên.
    - Phải đủ lượng khoan hồng khi kẻ dưới lỗi lầm, biết phục thiện.
    - Phải hết lòng giáo dục, giúp đỡ, không lợi dụng và dìm ép tài năng kẻ dưới.
    - Phải thực sự thương công sức kẻ dưới. Vì làm nên một việc chi cũng phải nhờ công sức kẻ dưới rất nhiều.
    - Phải sáng suốt thấy được nỗi khổ tâm trong cảnh sống cơ hàn và thiếu tự do của kẻ dưới. Và cách xử sự với kẻ dưới phải bình thường, không khi bồi, lúc lỡ.
    - Phải biết rằng: Ở bề trên mà hẹp lượng, như vào núi báu lại về không, và: trên coi dưới như tay chơn, thì dưới coi trên như đầu cổ; trên coi dưới như cỏ rác, thì dưới coi trên như kẻ địch thù.
    - Phải tự kiểm điểm chỗ bày trí đúng sai của mình; không hoàn toàn đổ tội cho kẻ dưới, và nghiệp quả, định mệnh.
    - Phải ý thức tinh thần khoa học tiến bộ. Nếu thủ cựu lạc hậu sẽ đắc tội với hậu tấn.
    * Bổn phận kẻ dưới đối với người trên:
    Kẻ dưới phần nhiều là háo thắng, thiếu kinh nghiệm, việc làm lắm khi nông nổi nên phải nhờ người trên bình tĩnh có kinh nghiệm hơn (phải thực sự đủ kinh nghiệm hơn) hầu nương theo đó tiến thân, tránh điều tai hại. Nên phải:
    - Lễ phép và hết lòng nghe làm theo lẽ phải của người trên chỉ dẫn.
    - Không gian dối, thất tín với người trên khi giao phó công việc
    - Ðủ thiện chí, sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ danh dự và quyền lợi cho nhau.
    - Không dụng ý riêng tư, ăn cơm bên tây làm việc bên đông, mất trung mất nghĩa và cũng đừng thấy bề trên ưu đãi rồi đèo bồng eo xách lắm, đưa đến kết quả chẳng tốt.
    - Phải tự ý thức và siêng năng công việc hằng ngày, đừng so đo biếng nhác thể hiện tính ý chẳng tốt của mình, làm bận lòng người trên sai khiến.
    - Phải tự xét biết nỗi khổ tâm của người trên khi mình giải đãi và đi ngược với chiều hướng đã chỉ dạy.
    - Phải siêng năng học tập, phát triển tài năng và đức độ thêm hơn.
    Tóm lại, một tổ chức hay một gia đình, mục đối với kẻ dưới, bề trên đạo lý đã vạch định, qui củ rõ ràng.
    Nhà tu nên ý thức điều nầy để hành động đúng với bổn phận của mình trong khi xử sự.
    e)- Vấn đề nam nữ:
    Tập quán các nước Tây phương, vấn đề nam nữ họ rất dễ dãi hơn đạo đức Ðông phương. Ở Tây phương nam nữ khi gặp nhau họ bắt tay thân mật, hôn hít tự nhiên. Ðó là tập quán tít mù xa thẳm của họ. Mặc họ. Ở đây chúng ta bàn qua việc hiện tại của chúng ta thôi.
    Theo Khổng Mạnh, thì “nam nữ hữu biệt”, và Phật giáo có “giới luật tinh nghiêm”. Cho nên đầu tiên Phật chỉ thành lập “Tăng đoàn!”. Song vì lòng từ bi và việc bất đắc dĩ Phật phải chấp thuận cho tổ chức hệ thống “Ni chúng”. Nhưng Phật dạy: Phải sắp đặt tịnh xá Tăng, Ni riêng biệt hẳn hòi.
    Cách năm trăm năm về sau, đạo Phật không còn làn mạnh như lúc trước. Bởi một số tăng đồ và Phật tử không còn gìn giữ giới luật chặt chẽ như thuở Ðức Phật còn trụ thế, nên mới lắm chuyện lôi thôi trong giáo hội tăng già.
    Hôm nay, tu sĩ nam nữ trợ giúp nhau trong việc tu hành, cũng là điều tốt. Nhưng đây là cả một vấn đề phức tạp trầm trọng. Chính Ðức Phật còn phải do dự trong lúc duyệt y. Vậy giới tu sĩ nam nữ nhỏ tuổi khá cẩn thận, và tự lượng lại sức mình về việc “tương trợ” nầy!
    Ðể đi đúng với phương hướng sáng đẹp của Phật, Thánh vạch ra. Với tư cách nhà tu, chúng ta phải lưu ý phần “giới luật” về vấn đề nam nữ, như: Cách ăn, chỗ ở, ngồi, nằm phải phép, đúng nơi. Khi bàn luận đạo lý phải trang nghiêm lễ độ. Không nên tò mò tuổi tác, để ý tướng mạo cao thấp, ốm gầy, đẹp xấu . .việc em nuôi, chị nuôi cũng bãi bỏ đi! Chuyện rủ ren đi hòn đi núi, và làm ăn hùn hạp, khá cẩn thận.
    Tiện đây xin kể vài trường hợp:
    Có một cô rủ chồng người ta đi du lịch, một cậu rủ vợ người ta đi làm từ thiện. . .Lâu ngày “Ớt nào mà ớt chẳng cay”, họ nổi cáo lên! Cũng tại mình làm chuyện “kỳ cục” quá, họ chẳng quậy sao được!.
    Có một cô giáo có chồng, một cậu giáo có vợ, nhà ở gần cùng dạy một trường, hùn đi một chiếc xe honda cho đỡ tốn tiền xăng. Ban đầu cũng ngại ngùng, nhưng hai người ngồi chung xe lâu ngày thấy hồn cũng lâng lâng hay sao đó! Ðến dịp nghỉ hè, rủ nhau đi Ðà Lạt hứng gió cho vui. Ði suốt cả tuần rồi lạc luôn, không chịu về.
    Có một cậu tu sĩ độc thân phải bệnh, huynh đệ đưa đến bệnh viện điều trị, số huynh đệ nầy tính non tính già cho một cô ở nuôi, còn huynh đệ giúp đỡ phương tiện tiền bạc . . .Sau khi lành mạnh, cô xách gói theo về trại tu sĩ ở
    luôn! Huynh đệ không đồng ý. Cô nói: cô tiếp bán hết mùa sầu riêng xong, cô sẽ đi. Nhưng lâu ngày mùi sầu riêng ghiền, cô, cậu sống chung với vườn sầu riêng mãi cho đến răng long đầu bạc mà cô chưa đi!
    Có một cô, một cậu cất cốc ở gần nhau giúp đỡ để lo tu hành. Nhưng lâu ngày. . .chao ôi! Nó nảy ra tụi “lóc cóc” lu bu nữa.
    Bởi vậy tôi có quen một nhà giáo đi làm việc ở xứ xa, gởi thư về nhà dạy con gái của ông không nên thường quan hệ với bạn trai. Ðiều nầy chứng tỏ ông đã có kinh nghiệm về vấn đề nam nữ nhiều!
    Dạo qua một dòng thôn quê, thành thị, núi non, am cốc . . . Ðã chứng kiến lắm cảnh éo le kể sao cho hết! Ðến đây chúng ta mới ý thức được chỗ “nam nữ hữu biệt” của Thánh nhân đã dạy và cách biệt lập “Tăng đoàn”, “Ni chúng” giới luật nghiêm minh của Phật, chúng ta mới sáng mắt thêm và kính phục chỗ thấy biết của chư Phật Thánh vô cùng!

    Thế nên, kinh nghiệm cho ta thấy rằng: Một con người dù thông minh đến đâu đi nữa, nhưng khi đã bị sợi dây tình ái buộc thắt buồng tim của họ rồi, thì không có thứ tội quấy nào mà họ chẳng dám làm.
    Giới nhà tu nên xét kỹ vấn đề nam nữ, để làm bài học kinh nghiệm hầu lượng lấy sức mình trong khi xử sự.
    Có một điều xin bàn tiếp: Cùng đồng thân phận tu sĩ,
    nhưng được người khác giới (nam, nữ) ưu đãi đậm đà hơn. Ðiều ấy ta phải kiểm điểm lại ta và không nên mừng vội; có thể thuyền giác của ta đang bị lượn sóng tình làm dao động, biết đâu hậu quả đem đến cho ta khôn lường.
    g)- Sắc diện vui buồn thái quá:
    Con người ta phần nhiều hễ làm một việc chi được suôn sẻ, hài lòng thì vẻ mặt hân hoan, tươi cười, dễ mến. Ngược lại, việc làm bị trở ngại, nghịch ý thì mặt mày buồn bã, nhăn nhó khó thương. Ðó là “vui buồn” thái quá trên sắc diện, và chướng nghiệp trầm trọng sinh ra những điều bất lợi, như:
    - Tạo không khí nặng nề và cảnh phiền não cho người chung sống. Việc nhỏ, hằng ngày tâm ta chẳng đặng thư thái; việc lớn cảnh chung sống phải bị tan vỡ, thân vất vã điêu đứng trọn đời! Và vui buồn hiện rõ trên sắc diện, sẽ làm cho kẻ khác nắm được lòng dạ ta, tức ta phải bị họ đánh đòn tâm lý lợi dụng. Và bản tính nông cạn nầy đời ta cũng khó tiến lên con đường cao thượng được.
    Ðành rằng, sắc diện vui buồn đương nhiên ai cũng phải có. Nhưng với những con người có trình độ uyên bác, sắc diện bên ngoài của họ ví như tính cây tòng bá, dù phải chịu sương tuyết bốn mùa thay đổi, nhưng màu sắc của nó vẫn xinh đẹp tươi tốt luôn.
    Vả lại, sắc diện vui buồn vượt trên mức độ bình thường, đó là sức mạnh của liên minh thất tình; lục dục, chủ động tâm ta sinh thêm phiền não và đôi lúc xui khiến ta xa dần chánh Ðạo. Bởi lẽ phiền não đối kỵ với trí huệ; phiền não dấy động tức trí huệ lu mờ đâu còn sáng suốt để phân tách được chỗ đúng sai, chân ngụy.
    Tóm tắt, nhà tu phải vận dụng nghị lực làm chủ vui buồn, tức không để cho thất tình, lục dục (1) dẫn dắt ta vào chỗ tối tăm tội khổ trong hiện tại và vị lai.
    Nếu chẳng đặng vậy dù ta có sống nơi gác tía lầu son, núi non, am tự, cũng không thể được những ngày yên vui thong thả và tiến xa trên đường giải thoát.
    h)- Ðừng than trách số phận cô độc:
    Có số người than thở: số tôi “cô độc” tôi luôn cư xử tốt với mọi người, nhưng rốt lại không có người nào “tâm đầu ý hiệp” để làm bạn chung sống được cả.
    Lời đó không hợp lý. Vì trên đời dĩ nhiên phải có kẻ xấu người tốt. Kẻ xấu sống chung với ta không được đành rồi! Còn người tốt sống chung với ta cũng không được nữa sao? Có lý nào như vậy?.
    Ðừng đổ cho “số mệnh” xa vời lắm. Phải tự kiểm điểm lại tánh tình, cách ăn, nết ở của ta như thế nào mà bạn bè xa lánh, không muốn sống chung với ta? Và ta nên ý thức câu: “Dụng nhơn như dụng mộc”. Cây có ngay vạy, tốt xấu phải tùy theo việc mà xài. Việc sống chung và dụng người cũng thế. Tánh ý ta không giống người, tức tánh ý người cũng không giống ta. Nên dụng người cũng phải tùy theo trình độ và tánh ý mỗi người. Nếu ta kỹ lưỡng, khó khăn, chê chấp quá, bảo đời ta không cô độc sao được.
    Tuy nhiên, ta cương trực, thẳng thắng lắm, phải mất đi tình nghĩa, bằng nhu nhược, chìu chuộng quá, phải đi dần đến chỗ hư hèn. Sống theo thuyết “trung dung” của Thánh dạy, hợp lý hơn.
    Và làm người, nhứt là giới nhà tu, phải biết: Việc tu hành của ta là công cuộc tiến hóa trên con đường cao thượng, phải đủ nghị lực chủ tâm đi ngược với “bản năng” trần tục. Nghĩa là phải sống với “lý trí”, phân biệt chỗ lợi hại đúng sai và cách xử sự của ta phải hợp với tinh thần đạo đức, thì lo gì chẳng được người cảm mến! Và đâu còn phải than trách số phận “cô độc” tuyệt vọng, buồn thiểu buồn thiu!
    Nhà tu nên mạnh dạn tin câu “Nhứt thiết do tâm tạo” đó thôi

    3.- ÐỐI VỚI CHÒM XÓM:
    a)- Hòa Nhẫn và tương trợ:
    Là hòa ái, nhẫn nhịn và trợ giúp lẫn nhau khi hữu sự.
    Lắm kẻ ỷ mình lanh xảo, chơi gác người nhà và lấn lướt xóm chòm cô bác. Họ tưởng rằng mình là hạng người anh chị, hay giỏi, ai cũng nể kiêng chớ họ đâu có biết họ là hạng người quanh năm chỉ gây ra cảnh bất lợi cho chòm xóm, và mất ý nghĩa công dân, một giống dân đã có trên bốn ngàn năm “văn hiến”!
    Có thể nói đây là hành động của những con “gà cồ ăn quẩn cối xay”. Phùng lông gáy ó, cắn mổ đồng loại yếu thế, nhưng khi gặp con cáo mạnh thì xếp cánh chạy dài! Người biết đạo đức, nhứt định không có những hành động bỉ ổi nầy.
    Hơn thế, chúng ta thử hình dung lại cảnh bất hòa với chòm xóm, nó làm cho đầu óc ta điên đảo và khi gặp mặt nhau rất bỡ ngỡ. Và chòm xóm bất hòa thì sức đoàn kết phải yếu ớt, không đủ chủ lực hỗ trợ nhau khi hữu sự. Và chòm xóm là nền tảng của đất nước, chòm xóm thiếu sức đoàn kết thì đất nước khó giữ vững được nền độc lập, cường thịnh, văn minh.
    Bởi vậy, bậc cao kiến họ thường hay chịu ép mình để hòa nhẫn với chòm xóm và lúc nào họ cũng sẵn lòng tương trợ lẫn nhau. Vì họ nghĩ rằng, khi chòm xóm hoạn nạn, ta ngồi ngó, lúc hữu sự ai lại giúp ta. Và họ cũng thừa hiểu đời sống của họ đối với tình chòm xóm không thể tách rời nhau được.
    Qua những cơn hỏa hoạn, trộm cướp, đau bịnh, chết chóc, . . .chúng ta mới cảm động tình chòm xóm rất là thiêng liêng mật thiết. Kinh nghiệm xác thực về vấn đề nầy, người xưa nói: “Một nhà có việc trăm nhà lo”. Nhưng hòa nhẫn và tương trợ là việc khó làm. Vì ở đời có số người hung hăng, ngu muội, nói bướng, làm càn không kể phải trái. Ðôi khi tội quấy của họ dẫy đầy họ không biết nhận, lại đổ tội cho ta, Hoặc phản phúc khiến ta khó thể hòa nhẫn. Nên ta phải cố gắng tập tánh nhẫn nhịn khoan dung cao độ mới có thể hòa nhẫn và tương trợ được
    Sau khi xét kỹ, thấy tình chòm xóm rất quan trọng, nên lúc nào chúng ta cũng phải hòa nhẫn và tương trợ lẫn nhau để chung sống với tình thân thiện trong cuộc sống yên lành, mà đạo đức gọi là “tình làng nghĩa xóm” của xã hội loài người.
    b)- KHÔNG THAM GIAN:
    Gia đình xào xáo cốt nhục tương tàn, quốc gia khuynh đảo và đạo pháp ngữa nghiêng . . .không ngoài tánh tham gian mà ra.
    Nhà tu biết được nguyên nhân tai hại ấy chúng ta cương quyết dứt sạch lòng tham. Nhưng những thứ tham lớn, như: giết người cướp của, trộm đạo, chiếm đoạt tài sản lương dân. . .pháp luật trừng trị nên người ta dễ thấy và sơ,ï ít ai làm. Còn những thứ tham nhỏ, như: lấn ranh một ít, trồng cây tàn nhánh xiên qua đất người, tráo trở vụn vặt, ngắt hái khuất lấp từ cọng rau, trái ớt của người. .. ..không có nhà lao giam nhốt nên người ta không sợ, dễ vi phạm.
    Và khi đến nhà người, ta lại vô phép lục soạn đồ vật nơi bàn ghế gường tủ của người và hỏi mượn kinh sách không trả. Ðó cũng là bản chất đen tối của tánh tham; nhà tu không thể vi phạm, vì luật đời hay luật Ðạo vẫn không cho phép.
    Cho nên dù tham lớn hay tham nhỏ, cũng là bản chất tham mà cô bác xóm chòm vẫn đánh giá ta là hạng người “bất hảo”. Và tòa nhà Phật giáo cũng không dung dưỡng ta nữa.
    Nhà tu không nên hời hợt với mình về vấn đề “tham gian nhỏ nhặt” như đã bàn xét ở trên.
    c)- ÐỪNG ÍCH KỶ:
    Ích kỷ là lo riêng cho bản thân mình cho gia đình mình, ai sao cũng mặc.
    Người có tánh ích kỷ, quanh năm chỉ biết lo thủ lợi cho cá nhân thôi, dù trong cái lợi ấy có hại cho kẻ khác. Thậm chí có nhiều người đi Ðình, Chùa lễ bái, không phải vì lòng kính Thần trọng Phật để noi theo tấm gương cao thượng và nghe lời Phật dạy, tu sửa thân tâm, làm điều phước thiện. Mà mục đích đi Ðình Chùa của họ là cậy nhờ Thần, Phật tiếp tay giúp họ mạnh giỏi, gở bùa phá ếm và làm ăn giàu có theo ước nguyện của họ . . .

    Người mang nặng tính ích kỷ, lòng dạ hẹp hòi, không muốn tốn công, hao của giúp đỡ ai; chỉ chờ người làm sẵn cho họ nhờ hùn. Cùng đi một chiếc thuyền bị thủng, họ
    sanh nạnh người tát nước; cùng sống một căn nhà xiêu dột, họ sanh nạnh người tu sửa.
    Và cùng ở chung một xóm gặp hỏa hoạn, trộm cướp, tai nạn, họ cũng không sẵn lòng cứu giúp lẫn nhau mà quanh năm họ chỉ biết lo cho bản thân, gia đình anh em, con cháu của họ thôi.
    Tánh ích kỷ còn khiến họ lỳ lợm, không biết sỉ nhục. Nếu đứng trên cương vị quốc gia họ làm cho quốc gia khuynh đảo, và đứng trên cương vị Tôn giáo, họ làm cho Tôn giáo ngửa nghiêng.
    Người mang nặng tính ích kỷ xử sự với chòm xóm cô bác không có nghĩa, với đồng bào xã hội không có nhân. Một con người xử sự vô nghĩa, bất nhân thì đâu còn là ý nghĩa con người. Thế nên tánh ích kỷ nó là nguyên nhân gây nhiều tội lỗi.
    Chẳng những thế người có tánh ích kỷ họ còn cho rằng, họ khôn khéo, những người lo giúp xã hội đồng bào là dại khờ hơn họ! Họ đã mang cặp kính màu không thấy được những gì khác lạ hơn.
    Ðành rằng, làm người không ai được như Phật Thánh. Nghĩa là không ai chẳng lo thủ lợi cho mình. Nhưng chỗ thủ lợi của người biết đạo không ích kỷ, không giẫm nát trên lẽ công bằng và đạo đức vì ngoài quyền lợi cá nhân ta còn phải mở rộng lòng nhân đạo cứu giúp kẻ lỡ đường, đói rách, tàn tật, tình chòm xóm và những trọng ân khác.
    Tóm lại, tánh ích kỷ là bản năng hèn hạ, mọi người khinh bỉ không có ân với đời, mất ý nghĩa con người, sinh nhiều chướng nghiệp và một kiếp luân hồi không tiến bộ. Nhà tu muốn sang bên kia bờ giác, quyết định phải chặt đứt sợi dây neo “ích kỷ” chằn níu tâm tánh của mình vào biển sâu tội khổ.
    d)- KHÔNG LÀM PHIỀN CHÒM XÓM:
    - Ở đời điều nào ta không muốn người đối với ta, ta đừng đem điều đó đối với người, như: mở máy thâu băng lớn tiếng, ca hát, làm ồn quá giờ giấc nhứt là bên cạnh ta có người già yếu bịnh hoạn. Ðiều nầy dù ai, cũng phiền. Ðành rằng, nhà ta, ta có quyền, nhưng người biết đạo đức phải trái, không thể có những hành động như thế!
    Nuôi gia súc phá xóm, chuồng trại hôi thúi, làm cầu bừa bãi mất vệ sinh, tạt nước ngoài lộ, phơi củi và để đồ vật lấn ép lề đường. Ðổ cỏ rác dưới sông rạch, thả những con vật chết trôi theo dòng nước, đậu ghethuyền trái phép làm trở ngại việc giao thông v.v. . .người biết đạo không thể làm những sai quấy đó được.
    - Có nhà cửa ta nên mua sắm các thứ vật dụng cần thiết để xài, đừng hở một tí chạy lại xóm mượn cây kềm, cái nón, xin tép xả, cọng rau, thấy ai có thứ gì thì trầm trồ thèm ước. Và mất lịch sự hơn nữa là gởi từ chiếc xe, bao trấu, cây củi, đồ vật làm chật nhà người mà không biết ngại. Ðây là cách xử sự vụng về, không tốt. Biết rằng, làm người không ai được đầy đủ. Nhưng cái nào ta xin mượn, nhờ nhõi đó là việc bất đắc dĩ chớ không phải vì thói quen về cách xử sự chẳng tốt của ta.
    Nhà tu nên quan tâm, tránh việc làm phiền chòm xóm như đã kể trên.
    e)- KHÔNG CHƠI GÁC:
    “Chơi gác, cũng như: “tham gian” nhưng tham gian có tính cách giấu kín, còn chơi gác có tính cách công khai.
    Thí dụ: ông A trộm con gà lối xóm, ông giấu kín ăn thịt. Ðó là “tham gian”. Còn anh B đi chơi với bạn, tiền xe, ăn uống anh luôn tìm cách tránh lách để bạn chịu. Và việc làm ăn hùn hạp, đổi chác, chia phân anh đều thủ phần lợi về mình. Ấy gọi là “chơi gác”.
    Tham gian chơi gác vẫn làm cho người tức giận. Nhưng tham gian thường làm cho người tức giận ra mặt, chưởi đánh và tố cáo trước pháp luật. Bỡi kẻ tham gian, phần nhiều ít gần gũi ta. Còn người “chơi gác” cũng làm cho ta tức giận, nhưng rán chịu ngắm ngầm trong bụng, chớ không dám nói ra vì số người “chơi gác” thường gần gũi thân với ta hơn. Và xưa nay cũng không thấy ai kiện cáo và nhà tù nào giam nhốt những người chơi gác nầy. Nên số người chơi gác vẫn sống ngang nhiên phè phỡn, có mặt đông đủ trong các tổ chức xã hội trường sở, đình, chùa, am cốc và gia đình.
    Tuy tội “chơi gác” luật pháp quốc gia và Phật giáo không trừng trị. Nhưng với dụng ý đen tối ấy, luật công bình của tạo hóa chưa phải bỏ qua!
    Vả lại, số người “chơi gác” có rất nhiều lý lẽ, họ cho rằng: của bà con cô bác là của chung, nên xài của người họ không biết ngại, hoặc thọ lãnh cho người có phước, nhưng họ thích thọ lãnh hơn là bố thí. Và họ cho rằng ở đời phải có qua, có lại, song thường thường họ chịu có qua chớ không chịu có lại.
    Sao chúng ta không nghĩ rằng: “Của một đồng, công một lượng”. Và đồng tiền chén gạo từ trong giọt mồ hôi tim mạch của người mà ra. Tuy các bậc vĩ nhân, các vị anh hùng cứu quốc cũng phải nhờ đến hột cơm manh áo của những kẻ tốt lòng. Nhưng các Ngài nhờ bằng cách: người sẵn sàng vui vẻ, và công ân của các Ngài rất xứng đáng với sự nhờ nhõi ấy. Chớ không phải nhờ mà người ta chẳng hài lòng.
    Tựu trung, nếu ta có tánh “chơi gác” dù lanh xảo thế nào cũng khó che giấu được tánh xấu của ta. Và tự ta làm cho bao nhiêu người chán chê xa tránh. Nghĩa là tự ta giết chết hạnh phúc trong hiện tại và tương lai của đời ta. Nên nhà tu phải suy xét kỹ mục “chơi gác” nầy, để chẳng làm phiền phức ai, “tư cách” của mình không bị giảm hạ. Và không ngại với câu:
    “Kiếp nầy nợ trả chẳng xong,
    Kiếp sao phải chịu sừng lông báo đền”.
    Về cái tội; quen tánh “chơi gác” của ta.
    CHƯƠNG SÁU
    KẾT LUẬN

    Khi bàn luận đạo pháp, người ta thường đem ra câu chuyện Phật Thích Ca truyền tâm ấn “Chánh pháp nhãn
    tàng, niết bàn diệu tâm” cho Ma Ha Ca Diếp. Và nào là “Thiền Tam muội, phi tưởng, phi phi tưởng” v.v...
    Nội dung chương mục sách nầy tôi không đề cập đến chỗ cao xa ấy mà chỉ bàn qua cách tu thông thường để chúng ta tu sửa hằng ngày. Ðó là “tư cách” tức chỉ cho dáng dấp cách ăn ở đời. Nói rõ hơn là cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nói và phép xử sự của nhà tu . . .
    Xưa nay các nhà truyền giáo thường khuyến tấn người tu hành, chớ ít ai chỉ thẳng những cử chỉ sơ xuất nhỏ nhặt của mỗi người. Vì sợ chạm tự ái, mất lòng nhau, và cũng không có khám đường nào giam nhốt người thiếu tư cách. Ðây là nguyên nhân dung dưỡng sơ xuất nhỏ lâu ngày trở thành thói hư tật xấu lớn; nguy hại vô cùng! Lại nữa, nhà tu thiếu “tư cách” (hạnh đức) dù sống nơi nào cũng làm chướng tai gai mắt cho những người chung quanh. Duyên cớ nầy làm cho thân không yên, tâm phiền não đời sống vất vả luôn!
    Cũng đừng tưởng rằng ta chỉ lo công phu hành theo pháp môn chánh yếu, khi tâm “ bình lặng” trí huệ phát khai, thì các chướng nghiệp không còn, cần chi phải giữ gìn tư cách “hạnh đức”! Không được đâu!
    Chúng ta sanh trong thời Mạt pháp, ít phước, nhiều nghiệp khó thể bì với bậc đại căn thượng trí được! Thử hỏi, tâm ta chừng nào mới được “bình lặng”? Nếu tử thần đến tâm ta chưa bình lặng mới phải sao đây?
    Là Phật tử, chắc ai cũng công nhận thành một vị Phật phải trải qua nhiều kiếp tu sửa mà tu sửa những gì? Có phải tu sửa tâm tánh, hạnh đức, “tư cách” của mình chăng? Nói đến việc tu sửa nhiều kiếp, tức chỉ cho một việc làm không phải dễ?
    Xa một đạo hữu đôi mươi năm khi gặp lại, ông kinh sử lảu thông, nhưng tật nhỏ vẫn còn y! Như thế, chúng ta thấy tài năng dễ luyện, hạnh đức khó rèn. Nhưng trớ trêu thay, người ta vận động mở khóa học đạo niệm Phật thi đua, làm xã hội v.v. . . chớ mấy ai vận động mở khóa học trau giồi “tư cách” như: cách ăn uống kén chọn, bộ tướng lao chao, nói năng vô lễ, phú trọng bần khinh, chơi gác v.v. . .Ðành rằng trong các khóa học có dạy về “hạnh đức” (tư cách) song chỉ là một việc làm chiếu lệ vậy thôi!. Do đó phần “tư cách” thiếu bồi dưỡng, nên tu thì nhiều, người có hạnh đức rất ít. Hạnh đức là nền móng, nền móng không vững chắc thì tòa lâu đài sớm muộn gì cũng bị sụp đổ là lẽ đương nhiên.
    Vả lại, thân mang sắc áo nhà tu, tư cách vụng về, sắc áo kia mất đi ý nghĩa. Và còn làm cho người hình dung chúng ta sanh trong gia đình thiếu giáo dục. Ân cha mẹ như trời che đất chở, báo đáp chưa xong, chỉ vì cách ăn nết ở thô bỉ của chúng ta hằng ngày làm cho người đánh giá. Hiếu đạo không rồi, Tiên Phật đạo làm sao nói đến!
    Còn một điều chúng ta cần lưu ý thêm: “Tư cách” khác hơn “lập dị”. Người có tư cách tánh tình thuần hậu, cũng làm công việc, ăn uống, nói cười vui vẻ bình thường. Song chỗ bình thường của họ, biết tự trọng nhân phẩm thanh cao. Trái lại, kẻ lập dị tâm địa của họ bất thường, làm ra vẻ đạo mạo hơn mọi người để mê hoặc bá gia, mưu cầu sự sống. Hành động số người nầy đi ngược với chủ nghĩa từ bi Phật giáo, và thương tổn tiềm lực quốc gia! Những phần tử kém trí là tay chân phục dịch cho hạng người lập dị nói trên.
    Trước khi dừng bút, tôi không ngần ngại kết luận: Nhà tu thiếu “tư cách”, thì con đường giải phóng thân tâm đối với chúng ta vẫn cách xa vạn dặm.

    HẾT


    MỤC LỤC

    LỜI NÓI ÐẦU
    KHÁI NIỆM VỀ TƯ CÁCH NHÀ TU
    CHƯƠNG MỘT: TỨ OAI NGHI
    I.- ÐI
    1.- SUY NGHĨ TRƯỚC KHI ÐI
    2-. CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI ÐI
    3-. CÁCH ÐI
    4-. ÐI RA ÐƯỜNG.
    5-. ÐẾN NHÀ NGƯỜI.
    6-. ÐI THĂM BỊNH.
    7.- ÐẾN CÁC NƠI:
    - Ðến công viên
    - Ðến cửa hàng.
    - Ðến quán ăn
    - Ðến bệnh viện
    - Ðến công sở
    8-. ÐI ÐÁM TIỆC:
    - Trường hợp già yếu
    - Trường hợp khách.
    - Trường hợp người thân
    9.- ÐẾN ÐÌNH CHÙA
    10-. PHÉP THAM DỰ CÁC CUỘC LỄ
    II.- ÐỨNG


    III.- NGỒI
    IV.-NẰM
    CHƯƠNG HAI: ĂN
    CHƯƠNG BA: NÓI
    1.- LỄ PHÉP KHI CHÀO HỎI
    2.- LỜI THÔ BỈ…
    3.- LỜI TRA HẠCH
    4.- NÓI ÐÚNG CHỮ
    5.- PHÁT ÂM TỰ NHIÊN6.- NÓI VỪA NGHE
    7.- DÙNG TỪ NGỮ CHÍNH XÁC
    8.- KHÔNG NÓI QUÁ LẸ, CHẬM
    9.- KHÔNG KHOE KHOANG
    10.- NÓI GỌN SÁNG
    11.- NÓI CÓ CĂN BẢN
    12.- NÓI TRONG BÀN TRÒN
    13.- NHỮNG CỬ CHỈ TRONG KHI NÓI
    14.- NÓI THẲNG VÀO VẤN ÐỀ
    15.- KHÔNG CÃI VÃ NHỎ NHẶT
    16.- KHÔNG MOI MÓC CHUYỆN NGƯỜI
    17.- KHÔNG NÓI VẶT MẮT XIÊN XỎ
    18.- NÓI NGAY THẲNG
    19.- ÐỪNG NÓI VIỆC NGOÀI ÐỀ TRONG KHI ÐÀM THOẠI
    20.- CÁCH NÓI CHUYỆN THƯA THỚT
    21.- ÐỪNG HAY NÓI CHUYỆN HÀNG XÓM
    22.- CÁCH KHEN VÔ TÌNH.
    23.- ÐỪNG NÓI CHUYỆN THÀY LAY
    24.- NGƯỜI ÐẠO KHÔNG NÊN NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÐỜI TƯƠNG ÐẮC
    25.- ÐỪNG HAY CHÊ NGƯỜI
    26.- KHÔNG BIỆN HỘ CƯỠNG LÝ
    27.- ÐỪNG MỞ MIỆNG RA LÀ TIỀN
    28.- KHÔNG NÓI TRỔNG
    29.-ÐỪNG NÓI VỚI TÁNH CÁCH ÐỘC TÀI VÕ ÐOÁN
    30.- BIẾT TÂM LÝ TRONG KHI NÓI CHUYỆN
    31.- CỬ CHỈ VUI BUỒN VÀ NÓI ÐÚNG VỊ TRÍ
    32.- NÓI NĂNG NGHIÊM CHỈNH
    33.- NÓI CŨNG NHƯ ĂN
    34.- ÐỪNG DỤNG LỜI HAY BẮT BÍ KẺ DẠI KHỜ 35.- NÓI CHƠN THẬT
    36.- ÐỪNG NÓI CÀN BƯỚNG NHỮNG GÌ TA
    CHƯA BIẾT RÀNH
    37.- KHÔNG NÓI TRẢ TREO
    38.- ÐỪNG NÓI VÔ DUYÊN
    39.- ÐỪNG NÓI NŨNG NỊU
    40.- ÐỪNG NÓI THEO CHUYỆN DỊ ÐOAN MÊ TÍN
    41.- BỚT CƯỜI CỢT, NÓI NHẢM
    42.CÁCH NÓI VỚI NGƯỜI SƠ GIAO VÀ THÂM GIAO
    43.-ÐỪNG NÓI CHUYỆN VỚI CON CHÁU TRONG NHÀ NHIỀU, KHI ÐỐI DIỆN VỚI KHÁCH …
    44.- NÓI VỚI NGƯỜI NGOẠI ÐẠO
    45.- KHÔNG NÓI THEO BỐN NGHIỆP ÁC
    46.- KHÔNG NÓI HAI LƯỠI
    47.- NÓI NHIỀU
    48.- KHÔNG NÓI GIỌNG GẮT GỎNG
    49.- KHÔNG NÓI CAO GÁC VỚI NGƯỜI
    50.- CÁCH NÓI TRONG CÁC PHIÊN HỘI THẢO
    51.- CÁCH NÓI VỚI NGƯỜI CÓ LỖI VÀ KHI TA CÓ LỖI
    52.- LỜI NHÃ NHẶN
    CHƯƠNG BỐN: NHÀ CỬA
    CHƯƠNG NĂM: XỬ SỰ


    1.- ÐỐI VỚI BẢN THÂN
    a)- Xét lỗi mình
    b)- Tự lực
    c)- An trụ
    d)- Sự học
    e)-Tính háo thắng
    g)- Ðừng để hối hận
    h)- Vấn đề tiền của
    2.- ÐỐI VỚI NGƯỜI CHUNG SỐNG
    a)- Chơn thật
    b)- Nhường nhịn
    c)- Bình đẳng
    d)- Ðối với người trên kẻ dưới
    * Bổn phận kẻ dưới đối với người trên.
    e)- Vấn đề nam nữ
    g)- Sắc diện vui buồn thái quá
    h)- Ðừng than trách số phận cô độc.

    3.- ÐỐI VỚI CHÒM XÓM
    a)- Hòa Nhẫn và tương trợ
    b)- Không tham gian
    c)- Ðừng ích kỷ
    d)- Không làm phiền chòm xóm
    e)- Không chơi gác
    CHƯƠNG SÁU

    KẾT LUẬN
    (1) Khái niệm: Ý niệm về một việc gì.
    Tư cách: cử chỉ, dáng dấp, cách ăn nói, xư s-....
    (1) Chín nấc thang trong khúc ruột. Nghĩa bóng sự đau đớn trong lòng.
    (1) Thất tình: hỉ (mừng), nộ (giận). Ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), lạc (vui), cụ (sợ). Lục dục: Theo Phật giáo, là sáu điều ham muốn của lục căn, chạm đến
    lục trần, tức là gặp những việc vui thích ham của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Theo Khổng giáo, lục dục là: danh vị, tài lợi, sắc đẹp, tư vị, tật đố, hư vọng
     
    Sửa lần cuối: 5/2/17

Chia sẻ trang này