Làm Theo Lời Chỉ của cư sĩ Phan-Thanh- Nhan

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Hhuynh, 11/5/13.

  1. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    Làm Theo Lời Chỉ
    --oOo--
    của cư sĩ Phan-Thanh- Nhan

    LỜI MỞ ĐẦU

    Trong xã hội hiện nay có rất nhiều người tu hành, nhưng để biết thế nào là tu hành chân chính, hiểu rõ việc tu cho đúng pháp thì tỉ lệ không cao, theo như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ trình tấu về cõi Phật: “Cúi đầu tâu trước Phật đàng: Lê dân ngoan ngạnh xóm làng cừ khôi. Đầu đuôi tâu lại khúc nôi, Một trăm mới đặng ối thôi mười người! Mãng lo cao thấp ngạo cười, Bởi chưng trần hạ biếng lười không lo. Di Đà nghe tấu buồn xo, Vạn dân bá tánh đắn đo nhiều bề. Làm sao cửa Phật dựa kề, Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên”.
    Hôm nay chúng ta có mặt trong cuộc đời nầy là từ đâu đến? Và vì sao chúng ta phải tu hành? Hãy nghe lời chỉ bảo của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Đạo lành sao lại chẳng tin,
    Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa.
    Nở đâu lại vày bừa đồng loại,
    Cũng gốc Ngài Thượng Đế xuống trần.
    Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
    Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên.
    Thấy sanh chúng quá ghiền cảnh tục,
    Nên nhiều lần giục thúc muôn dân.
    Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
    Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần.
    Vượt cảnh khổ muôn phần u ám,
    Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề.
    Khuyên trong nam nữ chợ quê,
    Cúi đầu thiện niệm trông về Tây-Phương.


    Nếu chúng ta không suy nghĩ thấu đáo thì khó hiểu ý nghĩa chơn chánh của việc tu hành. Chúng ta xuống trần nầy không phải là để làm quan, làm giàu, hưởng mùi vinh hoa phú quý, mà để làm thành tựu cái đại nguyện của quá khứ.
    Như chúng ta đây, có người trong quá khứ, khi Đức Phật còn tại thế, đều nương theo Ngài mà tu hành cũng phát nguyện muốn thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nhưng vì không cố gắng tu hành để đạt đến quả vị của cảnh giới chư Phật. Bởi vậy, đời nầy phải trở lại cảnh giới Ta Bà để tu tập hầu hoàn thành túc nguyện của quá khứ. Cũng có người kiếp nầy đủ túc duyên với Phật pháp, ý nguyện tu hành theo chánh pháp, mong được giải thoát, trở lại cảnh giới của chư Phật.
    Nói chung, mục đích của chúng ta có mặt trong cuộc đời nầy là để tu tập để “Sớm về cõi Phật an thân, Kẽo kiếp phong trần dày gió dạn sương”, sớm thành tựu Vô Thượng Bồ Đề là cứu cánh rốt ráo.
    Muốn tu hành viên mãn, chúng ta tu theo chánh pháp của Đức Phật, cần phải nương vào lời dạy của Đức Phật trong kinh điển (Như Pháp Khai Thị), cũng như lời khuyên tấn trong giáo lý của Đức Thầy. Không phải chỉ đọc tụng bằng văn tự mà phải suy ngẫm từng chữ, từng lời “Ngâm nga hiểu nghĩa đáng kim ngà, Huyền bí nhiều lời chỉ thiệt xa. Bổn đạo rán tìm cho cặn kẽ, Lòng hiền Phật độ khỏi tinh ma” là lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy.
    Muốn thành tựu Phật Đạo, người tu hành bắt đầu từ Bồ Tát mà khởi tu, cần phải hành Bồ Tát Đạo (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ) và cũng không nên chấp trước như danh lợi, địa vị, quyền lực, ngay cả tình ái… của thế gian. Tất cả đều là tùy duyên, như vậy mới có thể làm cho thân tâm an lạc .
    Kỳ thật, những sinh hoạt trong đời thường cũng đều là tu tập, trong mọi lúc, mọi nơi đều phải chuyên tâm gìn giữ trong tinh thần vì lòng Từ Bi. Nếu trong lúc công việc mà chúng ta vẫn giữ được chuyên tâm thì đó là đang tu tập. Ý nghĩa chân chính của sự tu hành là bất luận trong sinh hoạt công việc hay về phương diện tinh thần đều không bị tán loạn, không bị phiền não, sẽ đưa đến những thành quả trong công việc, mà trong cuộc sống luôn mang lại an lạc và hạnh phúc.
    Tu hành không phải là ngồi một chỗ, hoặc xem kinh, tụng kinh, niệm Phật, trì chú v.v... mà trước tiên phải làm cho thân tâm an lạc, sau đó mới mong giải thoát. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Đức Lục Tổ Huệ năng nói: “Tự Tánh vốn thanh tịnh”, mà bản lai diện mục của tâm tánh vốn thanh tịnh, cho nên chúng ta giữ gìn cái tự tánh ban đầu được thanh tịnh không bị ô nhiễm cảnh trần thì tự nhiên thấy được cảnh giới của quang minh.
    Cảnh giới của hiện tượng đều sanh diệt không thật, chỉ có tâm tánh là chân thật không bị sanh diệt. Người đi trên đường Đạo nhất định không để cho tâm tánh tạo nghiệp mà ảnh hưởng đến luân hồi. Trong đời nầy, kiếp nầy chúng ta cần phải giữ thẳng một đường bất thối chuyển làm theo lời chỉ dạy của Thầy Tổ, tìm phương giải thoát hầu trở về cảnh giới của chư Phật.
    Chúng tôi biên soạn quyển “Làm Theo Lời Chỉ” là đề tài bàn luận về lời chỉ dạy của Đức Phật, Đức Thầy, chớ không phải là đề luận khảo cứu, nên hẳn nhiên không thể không có những thiếu sót. Do đó, người viết rất mong nhận sự chỉ giáo của các bậc đi trước. Thành thật tri ân.


    Niên Nhâm Thìn 2012
    PHAN THANH NHÀN

    LÀM THEO LỜI CHỈ


    Chữ tu chớ khá trể chầy
    Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên.
    Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ

    DẪN NHẬP

    Dòng lịch sử đã chứng minh rằng, trong hoàn cảnh xã hội băng hoại, nhân tâm ly tán, thế đạo suy đồi, con người mê-muội hung ác, chính là lúc Thánh- Nhân ra đời để dìu dắt nhân sanh quày đầu, bỏ ác hành thiện, chấn chỉnh nền luân thường đạo nghĩa.
    Đức Phật Thích Ca ra đời tại xứ Ấn Độ trong một xã hội phân chia giai cấp trầm trọng. Giai cấp lãnh đạo tinh thần là các đạo-sĩ Bà la môn, có đặc quyền xây dựng trật tự xã hội. Dân chúng sống trong đất nước Ấn Độ chia thành bốn giai cấp mà trong đó hai giai cấp Bà la môn và Sát đế lỵ là cao quý,còn hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la thuộc hạ tiện bi áp bức xem như nô-lệ để phục vụ.
    Giai cấp Bà la môn tự liệt mình vào hạng nhất, nắm độc quyền về học thuật, tư tưởng, buộc ba giai cấp còn lại phải tuân theo. Họ dùng nhiều thần chú bí hiểm và giữ độc quyền về tế lễ.
    Theo đó giai cấp Sát đế lỵ cũng được ưu đãi, nắm quyền chánh trị, chủ quyền việc cai trị, cha truyền con nối, có toàn quyền sinh sát nhân dân, xem đất nước như cửa riêng.
    Giai cấp thứ ba là Phệ xá gồm có những người làm nông, công, thương, không được quyền học hỏi, chỉ biết làm việc để phục vụ cho hai giai cấp Bà la môn và Sát đế lỵ.
    Giai cấp thứ tư là Thủ đà la gồm các thổ dân. Đây là giai cấp hạ tiện, khốn cùng mà luật Mã Nỗ (do đạo sĩ Bà la môn thiết lập) qui định rằng Thủ đà la là giai cấp sinh ra để làm nô lệ và bị uy hiếp tàn bạo, như nếu người giai cấp Thủ đà la nào giám kêu tên Bà la môn thì bị cắt lưỡi, không tuân lệnh giai cấp thống trị thì bị nấu dầu đổ vào lổ tai v.v.
    Hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la sống trong tủi nhục và uất hận của địa ngục trần gian.
    Trong tình cảnh ấy Đức Phật Thích Ca xuất hiện đem đạo trí-tuệ soi sáng lòng người, đức từ bi phá tan nổi bất công trong xã hội. Ngài làm một cuộc cách mạng vĩ đại đối đầu với chế độ giai cấp bất công cao độ nầy. Ngài cương quyết xóa tan mọi giai cấp bằng thực hiện phương châm “tứ tánh xuất gia, đồng qui Thích thị” (Bốn giai cấp xuất gia đều mang tên họ Thích).
    Ở Trung Hoa, Đức Khổng Tử ra đời vào thời Xuân Thu chiến quốc, các nước thôn tính lẫn nhau, trật tự xã hội rối loạn, nhân dân khốn khổ, luân-lý suy đồi, can thường đảo lộn. Bằng tôn chỉ Khổng Giáo, Ngài dạy đạo luân thường, như năm giềng mối trong gia đình và xã hội: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn gọi là ngũ luân. Năm đức tính hằng tại ở trong con người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là Ngũ Thường. Ngài đem đạo nghĩa trở lại, xây dựng trật tự xã hội băng hoại, đào tạo con người mẫu mực gọi là quân tử và ngược lại là tiểu nhân.
    Ở Trung Đông, Chúa KiTô giáng sinh cũng vào thời con người mê muội, hung ác. Ngài đem tình thương bác ái rãi khắp nơi với tấm gương hy sinh cao cả biểu dương tình thương bất diệt.
    Ở Việt Nam, Đức Huỳnh Giáo Chủ thị hiện cũng trong hoàn cảnh tương-tự như Đức Phật Thích Ca ở Ấn Độ, Đức Khổng tử ở Trung Hoa, Chúa Ki Tô ở Do Thái.
    Suốt 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam lâm vào hoàn cảnh cực kỳ đen tối, hủ hóa cả hai phương diện Đời và Đạo.

    1-Về phương diện Đời.

    Tây Âu đã đem nền văn minh vật chất vào Việt Nam làm sụp đổ nền thuần phong mỹ tục có tự lâu đời Lối sống xa hoa phù phiếm từ thể xác đến tinh thần, đua chen theo những thói hư tật xấu làm bại hoại gia đình, phong hóa suy đồi. Xã hội thời đó, có những hạng người chơi bời theo đàng điếm, rượu trà, cờ bạc, nghiện ngập v.v.

    2-Về phương diện Đạo.

    Dân tộc ta đã ảnh hưởng theo Phật Giáo và Nho Giáo làm nền tảng cho phong hóa kỷ cương, xây dựng cho nước mạnh, dân cường, đào tạo nên hạng người anh hùng liệt sĩ có ích cho quê hương dân tộc. Nhưng từ khi Tây Âu đưa nền văn minh vật chất vào thì nền đạo lý bị suy lạc.
    Nhìn chung xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc đã làm băng hoại cả hai phương diện đời sống vật chất và tinh thần.
    Những trò đồi trụy bại lý thương luân đã diễn ra khắp hang cùng ngõ hẹp. Ở thành thị lối sống hòa hảo đã làm tàn lụn mầm non của đất nước, cờ bạc, rượu chè, dâm ô, á phiện. Chốn thôn quê tệ trạng mê tín dị đoan làm cho tâm hồn người nông dân đa phần thiếu học trở nên ủy mị yếu hèn, sống quay quần theo thầy bùa, thầy cúng, xin xâm, bói toán, hối lộ Thánh Thần, sống cùng ma quỉ, không còn giữ được đức tính tự tin nữa.
    Đến như hạng thanh niên tân học, một khi cấp sách đến trường là xây mộng làm quan, sống được vinh thân, hưởng phú quí trên mồ hôi nước mắt của người nông dân chất phác.
    Rồi như giới cần lao âm thầm chịu đựng số phận tôi đòi bị bóc lột không dám than van phản kháng.
    Chín trong hoàn cảnh đen tối đó, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết “Vì thời cơ đã đến, lý Thiên Đình hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan” và cũng vì “lòng đã quảng đại từ bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ”.
    Cũng vì hoàn cảnh ấy, Ngài nhận thấy “Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ Ngươn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vị chân tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên Đình ân xa bớt tội căn để kíp đến Long Hoa, trước biết luật trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến-diện bật Chân Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái bình, bởi đời nầy pháp môn bế mạc, Thánh đạo trân vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối”.
    Nên Ngài cho biết “Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân; vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, Ta hóa hiện ra cứu độ chúng sanh”.
    Ở đây chúng tôi cũng nên ghi vào chú thích: Trong Phật Học Phổ Thông có giải nghĩa ba từ giáng sinh, đản sinh, thị hiện như sau:
    Khi nói đến sự hiện diện của Đức Phật Thích Ca trong cõi đời nầy, người ta thường dùng chữ đản sinh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, sáng lạng cho cỏi đời); chữ thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần chúng ta thấy được); chữ giáng sinh (nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thắp hơn để sanh).
    Ba chữ ấy đều có ba nghĩa khác nhau: chữ đản sinh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao giờ cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ra mới thấy; chữ giáng sinh hàm cái ý Đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần nầy. Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của Đức Phật.
    Trái lại khi một người phàm ra đời gọi là “đầu thai”. Đầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong mội thời gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sư sống chết.
    Chúng ta tự nghiệm xét lại chữ thị hiện trong trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ, như Ngài cho biết:

    Xưa nay không có mấy khi
    Dương trần có Phật vậy thì xuống đây
    Và chữ giáng sinh:
    Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần
    Ấy vì thương trăm họ vạn dân
    Nên chẳng kể tấm thân lao khổ
    Hay:
    Nam mô sáu chữ Di Đà
    Từ bi tế độ vậy mà chúng sanh
    Xưa nay sáu chữ lạnh tanh
    Kim-Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành

    Vì thương xót vạn dân đến hồi tai ách nên Ngài đành lìa bỏ cảnh thơm tho của mùi sen báo xuống trần cứu độ chúng sanh.
    Từ chỗ xuất xứ đó, như Ngài cho biết để đánh tan sự nghi ngờ của người đời còn do sự chưa đặt trọn lòng tin tưởng vào sự giáo độ của Ngài hầu sớm mau tu tỉnh để khỏi bị sa đọa trong thời hoại diệt. Ngài thuyết:

    Dạy đạo đức người tu rạng lý
    Mong cho người hữu chí làm theo
    Không làm thì ắt mang eo
    Làm xong vượt khỏi qua đèo chông gai.

    Một điều xác định không thể nghi ngại, nếu hành giả thành tâm thể hiện được lời khuyên dạy của Ngài thì một ngày kia sẽ diện kiến bậc Chơn Sư và tu hành mau đắc quả. Ngài nói:

    Giáo khuyên khắp hết đâu đâu
    Bớt điều dối mị mới hầu thấy Ta


    CHƯƠNG I

    ĐỐI NHÂN XỬ THẾ


    Tư tưởng Phật Giáo Hòa Hảo không phải chỉ thuần-túy đạo Phật mà còn thêm tinh thần Nho Giáo, Lão Giáo, nhưng chủ yếu là Phật giáo. Phật Giáo Hòa Hảo từ căn bản vẫn là Phật Giáo. Nền Phật Giáo cũng như nền Nho Giáo ở Việt Nam hòa hợp với nhau để tạo thành một dòng tư tưởng có tính cách riêng, biến thái khác lạ hòa vào dân gian mang truyền thống văn hóa Việt.
    Trong sự hòa hợp nầy Phật Giáo vẫn là chủ đạo của tư tưởng Phật Giáo Hòa Hảo. Nho Giáo, Lão Giáo chỉ thể hiện trong cung cách xử thế, cuộc sống có luân thường đạo lý (Nho Giáo) và phong thái an nhiên tự tại (Lão Giáo).
    Chúng ta hiểu Phật, Thánh, Tiên thể hiện ba biểu tượng. Phật là cứu cánh giải thoát sau khi chấm dứt cuộc đời ở thế gian. Thánh là biểu tượng đạo Thánh Hiền mà Đức Khổng Tử truyền bá làm mẫu mực cho con người xử thế tiếp vật trong cuộc sống ở thế gian. Tiên tượng trưng trong nếp sống siêu nhiên thoát tục tại thế gian theo tinh thần đạo học của Lão Tử. Trong “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Huỳnh Giáo Chủ có mách bảo chúng ta:

    Phật, Thánh, Tiên, Đông Độ lướt sang,
    Miền Nam Địa phân chia đẳng cấp.

    Nho giáo thường thấy nhiều nơi trong Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, như kêu gọi mọi người làm theo:

    Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,
    Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.
    Hay:
    Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
    Sao trai gái chẳng coi mà sửa.
    Hay:
    Trung Dung khuyên đó noi gương Khổng,
    Hay:
    Nối chí Thánh Hiền tìm cội cũ.

    Cũng như nhắc nhở mọi người nhớ lại:

    Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự,
    Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
    Hay:
    Thánh Nhơn ghi sách Trung-Dung,
    Hiền Nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay.
    Hay:
    Chữ Thánh Hiền mới được nôm na,
    Ta thỏa chí hô hào trung dũng.

    Cũng có lúc lời lẽ dẫn dụ mang tính cách đặc trưng:

    Đức Khổng Tử người sanh nước Lỗ,
    Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
    Hay:
    Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du,
    Lúc thập bát chư hầu rối loạn.

    Vị trí của Lão Giáo được thể hiện trong Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ đóng vai trò phụ. Nó chỉ là góp phần thanh thoát phá bỏ những ràng buộc, những tham vọng vật chất để đưa người ta đến cái đích là siêu thăng đến bờ giác “Siêu thăng nhẹ cách đường mây. Trầm luân oan nghiệt càng gây thêm hoài”, tức viên thành Phật quả. Tinh thần phóng khoáng vượt khỏi những gì ô trược ở trần gian của Lão Tử qua thi văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ như:

    Rán kiếm chổ tầm Tiên lánh tục,
    Người ở đời phải được lòng trong.
    Hay:
    Khuyên bá tánh tầm Tiên rời tục,
    Chỉ máy trời bày tỏ việc về sau.
    Hay:
    Một mai thấy được non Bồng,
    Cảnh Tiên rực rở mây rồng đẹp thay.

    Tư tưởng Nho Giáo trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo được xem như bước đầu nhập môn vào giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, từ Nho sang Phật Giáo, thể hiện trong phương pháp “Học Phật Tu Nhơn”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh. Nên truyền ban cho chúng sang tường”, cũng như “Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh. Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người”, và Ngài chỉ bảo:

    Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
    Sao trai gái chẳng coi mà sửa.

    Ngài khuyên hết thảy mọi người nên giữ theo luân thường đạo lý là những đức tính của người xưa đã để lại cho hậu thế bằng những lời quí báu dạy cách làm người trong việc đối nhân xử thế. Những đức tính ấy tuy bình thường nhưng cao quí mà trong chúng ta cũng mong có được.

    Thực ra những luân lý ấy tuy quá trừu tượng và cổ xưa; nhưng nếu chúng ta đọc với tinh thần suy luận và chọn lọc, rút ra những kinh nghiệm cho bản thân phù hợp với thực tế, thiết nghĩ không phải không bổ ích cho đời sống.

    Lại nữa là tín đồ của đạo Phật, trong việc tu thân xử thế, nếu đem áp dụng những tư tưởng, những đức tính Thánh Hiền cho cuộc sống hằng ngày thì rất cần thiết vì “Tập ở ăn theo nết Thánh Hiền. Lo tu tỉnh dòm Phật Tiên nối chí” như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ bảo.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ là bậc Đạo Sư chỉ đường dẫn lối cho chúng ta cách hành đạo về tu thân xử thế. Ngài dạy:

    Tớ Thầy nào nệ cần lao,
    Thương dân dạy dỗ xiết bao nhọc nhằn.
    Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam Cang trung trực người rằng ngu si.

    Cũng trong Tám Điều Răn, Ngài cũng dạy: “phải giữ tròn luân lý tam cang ngũ thường”
    Phàm làm con người ở thế gian phải biết Tam cang Ngũ thường làm căn bản và phải biết Đạo. Nếu muốn hiểu thông chân lý và cư xử thế đạo, dạy dân điều lễ nghĩa, Ngài dùng thi văn khai mở linh khiếu “Thanh minh đạo đức câu huyền bí. Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời”. Nếu học đạo mà không dùng Nho như thuyền không lái “Vạn sự tùng Nho xuất”. Bằng học Nho mà không học Đạo thì chỉ là kẻ cuồng sĩ kiêu căng, Ngài nói:

    Thương đời Ta luống sầu bi,
    Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
    Rung đùi ngâm chuyện trên trời,
    Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.

    Rồi Ngài trách:

    Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa nhân.
    Khoe mình chẳng có ai hơn,
    Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
    Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
    Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.

    Ngài dẫn dụ cho chúng ta thấy, cũng có người học nho mà có tâm hồn đầy nhân ái:
    Đời xưa có Ngũ Viên Kỳ,
    Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.
    Người xưa còn chẳng cần thân,
    Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.

    Người học Đạo phải tìm kiếm gốc mình cho minh chân lý, trước độ mình sau độ chúng “Sửa trau là phận của mình. Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ ràng”. Ngài còn nhắc chúng ta:

    Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế!
    Bởi ít ai cải chế đường tà,
    Sợ e nhiễm trược đọa sa.
    Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn.
    Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
    Quên những câu chánh kỷ hóa nhân.
    Mảng lo tìm kiếm tước qườn,
    Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.

    Làm người ở thế gian nầy có ba bậc: Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm. Bậc thượng phẩm ít có. Bậc trung phẩm nhờ giáo dục mà trở nên hiền thiện như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Thương dân hiền giáo đạo Nam phương. Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ”. Còn kẻ hạ phẩm dù cho có giáo dục vẫn bất thiện, cho nên Ngài nhắc nhở: “Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà. Thì được thấy Phật Tiên Thần Thánh. Việc hung dữ hãy nên xa lánh. Theo gương hiền trau sửa làm người” rồi Ngài diễn dụ trong sách Thánh Hiền

    Sách Thánh Đạo ghi trong Tam-Tự,
    Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
    Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
    Nên tật xấu che mờ thiện tánh.
    Thiếu giáo dục thiếu thêm đức hạnh,
    Ta quyết lòng nhắc lại tánh sưa.
    Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa!


    Những người đáng bậc hiền nhơn quân tử là có đủ Tam cang Ngũ thường, xử thế rất phân minh. Làm con người xử thế lấy đức hạnh làm gốc “Rán giữ gìn luân lý tam cang. Tròn đức hạnh mới là báu quí”. Người không có đức hạnh dù cho có quyền cao chức trọng, giàu sang tột bực cũng chẳng khác nào hoa phù-dung sớm nở tối tàn, bởi có câu “Hạnh đoản thiên giao nhứt thế bần”. Làm người hiền lương thì thảo cha ngay chúa, hiếu để kiêm toàn “Thiên kinh vạn Điển hiếu nghĩa vi tiên”, bởi có câu “Quân tử tuy bần, lễ nghĩa thường tại”, Đức Huỳnh Giáo Chủ dẫn dụ:

    Nghèo Thầy Nhan bầu nước đai cơm.
    Tuy cơ hàn mà được danh thơm,
    Hơn phú quí ngồi ôm bã lợi.


    Đức Khổng Tử khen Tử Lộ là không xấu hổ vì mặc áo xấu mà đứng chung với người mặc áo đẹp. Ngài nói: “Giàu mà không kiêu căng thì còn dễ, chớ nghèo khổ mà chẳng sầu oán thì thật là khó” (Bần nhi vô oán, nan; phú nhi vô kiêu vị).

    Ngài rất khen Nhan Hồi: “ Hiền thay, anh Hồi. Một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẻm; người khác ưu sầu không chịu nỗi cảnh khốn khổ đó, anh Hồi thì vẫn không đổi niềm tin. Hiền thay anh Hồi”.

    Ngài cũng khuyên môn sinh đừng vì bổng lộc, chỉ nên cầu đạt đạo. Chỉ lo không đạt đạo, chớ nên lo công danh (ưu đạo bất ưu bần) là vậy. Có bài thì rằng:


    Làm trai khá giữ hạnh vi tiên,
    Học Đạo thành công độ Cửu Huyền.
    Chánh kỷ hóa Nhơn là thiện sĩ,
    Từ tâm khuyên chúng bực lương hiền.
    Tam Cang, Ngũ Lý nền Nhơn Đạo,
    Ngũ Giới Tam Qui cội Phật Tiên.
    Nghiệp chướng sân si bằng chẳng dứt,
    Khó mong tu luyện bậc chơn truyền..


    Vậy ai là người học Đạo muốn siêu phàm nhập Thánh, trước hết phải thuộc và dọn mình cho đủ Tam Cang Ngũ Thường, tập tánh hiền lương. Đạo người vẹn vẽ rồi sẽ bước sang Phật đạo “Phật đạo tùng Nhơn đạo”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:


    Phật chỉ dạy tam qui lập hội,
    Dựng cho rồi một cội thành ba.

    Hay:
    Trong tam giáo ân cần mở Đạo,
    Trường ngoại bang phục đáo như xưa.


    Ngài muốn nói đến thời kỳ tam giáo qui nguyên. Từ mấy ngàn năm xa xưa, Á Đông đã có ba giáo là Phật, Nho, Lão khuyến dân qui thiện. Ngày nay Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo ra đời, ngoài việc hướng dẫn qui thiện, lại còn nhiều mục tiêu rất cần thiết cho nhân loại ngày mai “ Biết làm sao gieo đạo khắp đại đồng. Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc” và cho dân tộc Việt Nam Ngài nói:

    Việt Nam là giống Hồng bà
    ng,
    Không còn hung bạo lăng loàn như nay.
    Hay:
    Cho tròn nhơn nghĩa mới hay,
    Lễ nghi phong hóa đổi thay làm gì?


    Vì Nho giáo gần gủi Phật giáo, nên khi nói đến Nho giáo chúng ta cũng nên có một chút khái niệm về nhân cách và tư tưởng của Đức Khổng Tử. Qua kinh sách chúng ta thấy:

    a/-Về nhân cách: Đức Khổng Tử có lòng từ ái như nghe Tử Lộ kể lại có người khuyên thầy trò Tử Lộ lánh đời ô trược mà ở ẩn. Ngài nói: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu nầy (Khổng Tử) cần gì phải sửa đổi nữa”. Câu nói thể hiện tấm lòng yêu người tha thiết của Ngài, dù sống trong thời loạn lạc, hiếu sắc hơn hiếu đức, người ta phần nhiều giả dối, nói mà không làm vậy mà Ngài vẫn tin ở con người. Ngài nói: “Đối với người biết nghe để tu chỉnh mà mình chẳng dạy, thì mình làm thiệt thòi một đời người”. Thế nên dù là ác nhân, nhưng khi bước vào cửa đạo quân tử thì có lòng đổi ác thành thiện. Quân tử phải tùy phương tiện mà giáo hóa để mở mang, thông cái tánh lành sẵn có nơi mọi người. Vậy quân tử chẳng chọn người thiện kẻ lành mà bỏ người ác kẻ chậm và Ngài nói: “Quân tử giáo hóa người, chẳng phân biệt kẻ thiện người ác”.

    Chúng ta cũng nhận thấy lòng từ ái của Ngài qua câu nói: “ Ta muốn cho người già đều được an vui, khỏi cực khổ, cho bằng hữu đem lòng tin cậy nơi ta; ta muốn đùm bọc, bao hộ kẻ thiếu niên”.
    Trong nhân gian và chư môn đệ đều tôn Đức Khổng Tử là Thánh nhân, nhưng Ngài khiêm tốn nói: “ Bậc Thánh nhân thì ta không được thấy, nhưng thấy được bậc quân tử, như vậy cũng khá rồi. Bậc Thiện nhơn thì ta không được thấy, nhưng thấy được bậc bằng hữu, như vậy cũng khá rồi. Kẻ nào tự mình không có mà xưng rằng có, tự mình trống rổng mà xưng rằng đầy đủ, tự mình bần tiện mà xưng rằng rộng rãi, kẻ ấy không đáng bậc bằng hữu”. Câu này hàm ý Thánh nhân là hạng người hoàn toàn, dứt lỗi lầm, rõ thông thiên lý. Thiện nhân là người không làm ác, đầy lòng nhân ái. Hai hạng này không có trên đời, nên Đức Khổng Tử chẳng thấy. Có một hạng kém hơn hai hạng trên đó là hạng quân tử có tài đức có học đạo Thánh hiền và hạng hữu bằng là bậc bền chí theo đường lành. Nhưng muốn theo đường lành trước hết nên thành thật, chớ đừng khoe khoang những tài đức mà mình chẳng có.
    Đức Khổng Tử cũng nói: “ Như làm bậc Thánh và bậc Nhân thì ta chẳng dám. Nhưng làm mà không chán, dạy người mà không mỏi, ta chỉ có thể được gọi như vậy thôi”. Rồi Ngài nói: “ Ta có biết rộng chăng? Ta chẳng biết rộng. Nhưng nếu có kẻ thô bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tâm, mờ mịt đến đâu, ta cũng đem hai bề từ đầu chí cuối mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe”.
    Đức khiêm tốn của Đức Khổng Tử, chúng ta nhận thấy nhiều chỗ trong sách “Luận Ngữ”. Đức Khổng Tử quả là một vị Thánh vì Ngài chưa hề có bốn điều lỗi:
    1/-Vô ý: Ngài không có ý riêng, không có lòng tư dục
    2/-Vô tất: Ngài không có kỳ tất, tức là Ngài tùy cảnh mà sửa đổi
    3/-Vô cố: Ngài không cố chấp, tức Ngài có lượng dung thứ
    4/-Vô ngã: Ngài chẳng có lòng ích kỷ, vì mình mà bỏ người

    Luận việc giàu nghèo, Ngài cho rằng là do số mạng, chớ không phải ai muốn giàu đều được. Giàu có, sang trọng ai lại không muốn? Nếu muốn mà được, dầu làm nghề hạ tiện là nghề đánh xe Ngài cũng không từ. Còn muốn mà chẳng được, nên theo đuổi chí thích của ta”.
    Đức Khổng Tử vốn không ham phú quí, biết an bần lạc đạo. Ngài nói: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, ở trong cảnh đơn bạc như vậy, nhà đạo đức cũng lấy làm vui. Chớ do nơi những hành vi bất nghĩa mà trở nên giàu có và sang trọng, thi ta coi cảnh ấy như phù vân”.

    b/- Tư tưởng của Đức Khổng Tử.

    Tư tưởng của Đức Khổng Tử có hai phần: Hình nhi thượng học là cái học thuộc về những lẽ vô hình rất uyên áo, cao viễn, chỉ dành riêng cho một thiểu số cao-đệ của Ngài và phần hình nhi hạ là cái học thuộc về những điều quan hệ đến đời sống hằng ngày của người đời.
    Hình nhi thượng là cái phần tinh thần của Khổng Giáo, nó được thể hiện qua phần Hình nhi hạ hay nói cách khác Hình nhi hạ là phần áp dụng của Hình nhi thượng là phần thiết thực của Nho giáo trong sinh hoạt nhân sinh.
    Đức Khổng Tử thường dùng từ “Quân Tử” trong việc dạy Đạo của Ngài. Theo ý nghĩa chữ Nho, quân tử là người rất cần dùng cho xã hội hay nôm na là người có bổn phận lãnh đạo hướng dẫn xã hội, nhứt là về phương diện đạo đức. Cũng vì lẽ đó mà người học Nho, sau khi thành tài phải đem sở học của mình ra hướng dẫn xã hội. Như vậy gặp thời Nho gia xuất chính, nghĩa là ra làm quan. Sau khi đến tuổi hồi hưu qui điền, lại mở trường dạy học con em trong thôn ấp, bởi có câu “Tấn vi quan, thối vi Sư” là như vậy.
    Trước thời Đức Khổng Tử, những nhà Nho đóng giai trò lãnh đạo quốc dân là những con vua cháu chúa hay những người sinh ra trong gia đình giàu sang mà tổ tiên của họ thuộc giai tầng cao hơn hạng dân đen. Kẻ đó sinh ra đã là quân tử rồi, không cần biết đạo đức của hắn như thế nào. Đến thời của Đức Khổng Tử, Ngài đã thay đổi hoàn toàn quan niệm nầy và tạo cho từ quân tử có một ý nghĩa mới mẽ. Theo Ngài ai cũng có thể trở thành bậc quân tử nếu họ là người có đức hạnh tốt, bình đẳng, nhân ái, vị tha. Không ai sinh là quân tử sẳn có, mà do đức hạnh tạo thành quân tử.
    Chúng ta hãy nghe sau đây lời lẽ hết sức bình dị và khiêm nhượng khi Đức Khổng Tử luận về người quân tử “Đạo quân tử có bốn điều cốt yếu, nhưng Kỳ (Đức Khổng Tử) chưa làm tròn được một. Phận làm con phải hiếu thuận với cha mẹ, ta chưa làm được. Phận làm tôi phải trung với vua, ta chưa làm được. Phận làm em phải kính nhường anh, ta chưa làm được. Cho đến phận làm bằng hữu, trước phải ra tay giúp người, ta cũng chưa làm tròn vẹn. Nhưng ta mới vừa làm được hai điều nầy: thi hành những đức thường và giữ gìn lời nói thường. Hai điều ấy có thiếu thì ta chẳng bỏ qua, ta gắng sức làm cho được; bằng có khó, ta cũng chẳng dám cho rằng tròn vẹn. Lời nói phù hợp với việc làm; việc làm phù hợp với lời nói, hai điều đó lẽ nào bậc quân tử chẳng khắn-khít thực hành sao?”.
    “Cho nên bậc quân tử phải tu tập lấy mình. Muốn tu tập lấy mình, cần phải ăn ở phải có hiếu thảo với cha mẹ. Muốn ăn ở có hiếu thảo với cha mẹ, cần phải biết người tức Nhơn-đạo. Muốn biết người cần phải biết Trời tức Thiên-đạo”.
    “Cái đạo thông thường của người ta trong thiên hạ có năm
    bậc (ngũ luân); muốn thi hành năm bậc đạo ấy, phải dùng ba cái đức. Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn kết giao. Đó là năm bậc thông thường của người ta trong thiên hạ; giữa vua và tôi phải có nghĩa, giữa cha con phải có thân ái, giữa vợ và chồng phải có phân biệt, giữa anh em phải có thứ tự, giữa bằng hữu kết giao phải có lòng tin. Còn ba cái đức thông thường của người ta trong thiên hạ: Trí, Nhân, Dũng. Đem ba cái đức ấy thi hành năm bậc đạo, tuy ba chớ cũng như một, vì phải thành tâm thật ý, hết lòng hết dạ mới được”.
    “Cái đạo ngũ luân ấy, hoặc có người sanh ra tự nhiên mà biết; hoặc có người học tập rồi mới biết; hoặc có người khổ công nhọc sức rồi mới biết. Tư chất và phương pháp dầu khác, chớ mục đích vẫn có một mà thôi: Ấy là sự thấy sáng suốt. Cái đạo ấy, hoặc có người thi hành một cách an-nhiên; hoặc có người vì ham lợi mà thi hành; hoặc có người cố sức lắm mới thi hành được. Tình hình dầu khác, nhưng sự thành công vẫn có một mà thôi”.

    Đạo Ngũ luân gồm có:

    1/-Đạo quân thần: là mối đạo vua tôi. Bậc quân vương muốn các quan và thần dân đều thành thật với mình, hết lòng với mình thì vua phải làm bổn phận của vua là ăn ở theo lễ và thi thố chính sách nhân ái. Đó là đạo quân thần.
    Vua mà chính đáng, ngay thẳng, đàng hoàng, dù không ra lệnh dân cũng theo; nếu vua không ra phận vua, dù cho có ra lệnh dân cũng không theo.
    Kẻ làm quan phò vua giúp nước thì phải trung-trực như lời Thầy Mạnh Tử: “Can gián vua, ra sức làm cho xứng đáng ấy là lòng kính cẩn, bày cho vua việc phải, ngăn sự tà vạy gọi là thiệt lòng thương vua; ta làm quan mà để cho vua không làm được ông vua tốt, đó là hại vua”.
    Vua Định Công nước Lỗ hỏi Đức Khổng Tử rằng: “Vua khiến bầy tôi, bầy tôi thờ vua phải thế nào?” Ngài đáp: “Vua khiến bầy tôi, phải lễ phép; bầy tôi thờ vua, phải hết lòng. Đó là đạo quân thần”.
    Ông Tử Lộ hỏi về đạo quân thần Đức Khổng Tử trả lời: “Làm tôi phải hết lòng thành thật, chớ dối gạt vua; như vua lầm lạc thì phải can gián, đừng sợ mếch lòng”
    Chuyện kể rằng: Văn Quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử, có kẻ nói với ta rằng: trung thần (người bầy tôi thật lòng một dạ với vua, với nước) là người bắt cúi thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, để thì im, gọi thì thưa, như thế cho là trung thần được không?
    Mặc Tử nói: “Bắt cúi thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, như thế khác gì cái bóng? Để thì im, gọi thì thưa, như thế khác vì tiếng vang? Quan liêu mà dùng đến những kẻ như bóng, như vang thì còn được ích gì? Cứ như tôi đây mà gọi trung thần, như khi vua lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện; khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ , mà không lộ ra ngoài. Trên thì thành thật một lòng, một dạ với vua, dưới thì không a-dua vào bè, kết đảng với ai. Những sự tốt lành yên vui thì để phần vua hưởng, những điều oán thù thì mình hứng đựng. Có được như thế thì tôi mới cho là trung thần”.
    Xem ra đạo làm vua gồm cả đạo dụng người, phải chọn những người dám can ngăn điều dở của mình, bày tỏ điều hay của mình, quần thần hết lòng với mình mới là kẻ có ích, giúp mình được việc.
    Chuyện kể rằng: Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quí, giao cho người giữ ngựa chăm sóc. Một hôm con ngựa lăn ra chết. Vua giận lên, sai quân hầu xử trảm người giữ ngựa vì để ngựa chết. An Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: “Vua Nghiêu, Vua Thuấn xưa xử người thì bắt đầu đâu trước?”
    Vua Cảnh Công ngơ ngác nhìn rồi nói: “thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để trị tội”
    Án Tử nói rằng: “ Tên nầy chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì tưởng chừng là oan. Tôi xin vua kể rõ tội của nó, rồi hãy hạ ngục”.
    Vua nói: “Phải”.
    Án Tử bèn kể tội: Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết, là tội đáng chết. Để chết ngựa quí của vua là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua. Ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán hận, nước ngoài có dòm dỏ là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục.
    Vua Cảnh Công nghe nói, ngậm ngùi than rằng: “Thôi, tha cho nó! Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân”
    Án Tử kể tội người nuôi ngựa, mà kỳ thực gợi lên cái lòng nhân ái của Cảnh Công, làm cho Cảnh Công phải biết hối ngộ. Hay thay! Mấy lời nói dịu dàng, thong thả mà cảm hóa được quân vương.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ”, khi mà đất nước có Minh-Vương ngự trị như thời đại Nghiêu Thuấn “ Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu. Lòng hiền đức nào ai có biết” vì “Trên vua minh chánh cầm cân. Dưới quan liêm tiết xử phân công bình” là thời thái bình thịnh trị, an cư lạc nghiệp. Ngày ấy sẽ đến với nhân loại như Ngài cho biết:

    Chừng nào Ta gặp Hớn Hoàng,
    Chúng sanh mới hết phàn nàn số căn.

    Cũng như Ngài nhắc đến cảnh: “Thuở xưa thời buổi Thuấn Nghiêu. Thái bình thạnh trị mến yêu khắn tình” là ý Ngài muốn nói đến sứ mạng “Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng” nghĩa là Ngài có trách nhiệm thiết lập một thế giới đại đồng công bằng và trật tự “Định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang” và rõ hơn nữa là:

    Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
    Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên.

    Trong thời đại không có ông vua cai trị đất nước (ngoại trừ một số nước nào đó còn duy trì chế độc tài cai trị dân theo đường lối tập đoàn thống trị), người ta dùng chế độ pháp trị để trị quốc, cho nên đạo quân thần biến thành lòng yêu nước, yêu đồng bào, yêu Tổ Quốc. Đó là bổn phận và nghĩa vụ của mọi tầng lớp trong xã hội từ bực quan quân cho đến thường dân.

    2/- Đạo phụ tử: là mối đạo giữa cha con. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên trường”.

    Kinh Thi viết: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực”. Cha sanh ta, mẹ nuôi ta! Thương thay cha mẹ sanh ta khó nhọc! Ta muốn đền ơn trả thảo; vì ơn nghĩa cha mẹ bằng trời mênh mông không cùng.
    Bổn phận kẻ làm con trong gia đình phải có lòng tri ân và báo ân đối với cha mẹ hay nói cách khác là đạo hiếu. Hiếu là chìa khóa mở cửa cuộc đời, là hương thơm làm đẹp lòng người. Hiếu vượt qua mọi trở lực để hoàn thành bổn phận cao cả của đạo làm con. Lại có câu: “Hiếu đứng đầu trăm hạnh tốt, hiếu cảm đến Trời thì mưa thuận gió hòa, hiếu cảm đến đất thì muôn vật xanh tươi, hiếu cảm đến người thì mọi phước lành đều tốt”.
    Ông Thái Công nói rằng: “Mình mà hiếu với cha mẹ, thì con mình cũng hiếu thảo với mình; mình mà không hiếu thảo với cha mẹ, thì có lẽ nào con mình nó lại hiếu thảo với mình ư? Mình là người thảo thuận, thì lại sanh con thảo thuận; mình là ngổ-nghịch lại với cha mẹ, thì lại sanh con ra, con ngổ-nghịch lại với mình chẳng sai. Dầu không có tin điều ấy, thì hãy xem giọt nước đầu thềm mà coi: nó cứ nhỏ giọt mãi chớ không có sai đâu”.
    Chuyện kể rằng: có một anh chàng vô-minh kia, vì muốn chối từ bổn phận báo hiếu cho cha mẹ khi cha mẹ tuổi già sức yếu. Một hôm anh ta đang chăm chú đóng một chiếc xe bằng gỗ dùng làm phương tiện đưa cha mình lên núi rừng để sống một mình.
    Đứa con trai của anh ta thấy vậy, mới hỏi cha: “Cha đóng chiếc xe gỗ nầy để làm gì?”
    Người cha trả lời: “Đóng xe gỗ để đưa ông nội con lên núi rừng ở”
    Người con bèn nói với cha: “Khi đưa ông nội lên núi xong, cha nhớ đem chiếc xe gỗ nầy về cho con”.
    Người cha ngạc nhiên hỏi: “Đem xe gỗ về để làm gì?”
    Người con trả lời: “Con để dành xe nầy, đến khi nào cha già yếu như ông nội; con sẽ dùng xe nầy để đưa cha lên sống ở núi rừng giống như cha đưa ông nội vậy”
    Câu chuyện tuy đơn giản nhưng có một ý nghĩa rất vi-diệu cho hành giả trên bước đường tu tập qua luật Nhơn Quả, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Luật Nhơn Quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.

    Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Trong các việc phụng sự của mình, việc nào là trọng đại hơn hết? Tức việc phụng sự cha mẹ là trọng đại hơn hết. Trong các việc gìn giữ của mình, việc nào là trọng đại hơn hết? Người biết giữ gìn thân thể, chẳng hủy hoại nó một cách vô lý, mới có thể phụng sự cha mẹ hết tình, ta từng nghe như vậy rồi. Kẻ chẳng biết giữ gìn thân thể, hãm mình trong các cuộc say mê cho đến vướng bịnh mang tật, thế mà có thể thờ cha mẹ chí hiếu, ta chưa từng nghe như vậy bao giờ. Ở trong xã hội, việc nào chẳng phải là việc mình gìn giữ? Nhưng việc giữ gìn thân thể mình là gốc!”

    Ngày xưa ông Tăng-Tử phụng dưỡng cha là ông Tăng Tích, như mỗi bửa ăn thường dâng rượu thịt. Khi dẹp mâm, ông hỏi cha rằng: “Đồ ăn phần còn lại, nên cho ai?” Cha hỏi: “Còn đồ ăn không?”. Ông đáp: “Còn”. (Thường khi ông Tăng Tử muốn đem đồ ăn còn lại cho người láng giềng là làm theo ý của cha ông muốn như vậy).
    Đến chừng ông Tăng Tích qua đời, Tăng Nguyên phụng dưỡng cha là ông Tăng Tử, mỗi bửa ăn đều dâng lên rượu thịt. Nhưng khi dẹp mâm, chẳng hề hỏi cha: “Đồ ăn thừa nên cho ai?” Nếu cha có hỏi: “Còn đồ ăn không?”, Tăng Nguyên thường thưa rằng: “Hết rồi”. Tăng Nguyên muốn để dành đồ ăn mà dọn bửa kế tiếp. Hành động như vậy chỉ gọi là nuôi cái miệng và cái thân thể của cha mà thôi. Còn như ông Tăng Tử mới đáng khen là người biết dưỡng cái tâm chí của cha. Phụng sự đấng song thân như ông Tăng Tử, thật là phải đạo vậy.

    3/- Đạo phu thê:
    là mối đạo giữa vợ chồng. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác” và “Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau”
    Giữa chồng vợ ăn ở với nhau cho có ân nghĩa. Lấy nghĩa làm thân thiết, lấy ân tình làm hạp với nhau và bất luận việc chi trong gia đình, chồng vợ trao đổi cho nhau được hiểu biết dung hòa trong cuộc sống. Dám liều chết để cứu nhau trong lúc nguy khốn cho trọn nghĩa thỉ chung. Không nên vì hoàn cảnh sang hèn mà thay tâm đổi ý làm mất đi chữ nghĩa tình.
    Chuyện kể rằng: Vua Tề Cảnh Công (thời Xuân Thu) có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử (làm Tướng quốc đời vua Cảnh Công). Ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ. Một hôm đến ăn tiệc nhà Án-Tử, vua bèn hỏi: “Phu nhân đấy phải không?”
    Án tử thưa: “Vâng, phải đấy”.
    Vua nói: “Ôi! Người trông vừa già, vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ đẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?”
    Án Tử đứng dậy thưa rằng: “Nội tử (tiếng để gọi vợ mình) tôi nay tuy già và xấu, nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu kể từ lúc trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua muốn ban ân cho tôi, chắc cũng không nở để tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đã nhờ cậy bấy lâu nay”. Nói xong, Án tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.
    Sống ở đời được mấy người như Án Tử đây, gặp cảnh giàu sang như nhà vua, trẻ đẹp như công chúa, lại như muốn lấy uy quyền bức bách mình mà mình nhứt định từ chối. Ông là người ăn ở thỉ chung với vợ thật đáng làm gương! đúng như câu “uy vũ bất năng khuất”
    Hàng phụ nữ đọc chuyện nầy cũng nên ngẫm nghĩ, chớ nên tham danh, tham tài lấy những kẻ đem lòng phụ vợ, ở với họ được bao lâu mà họ còn phụ; nay nếu họ lấy ta hoặc vì tài lợi chăng, hoặc vì quyền thế chăng, hoặc vì sắc chăng. Nhưng một khi lợi kém, thế hết, sắc suy, thì cái tình vợ chồng lúc bấy giờ hóa ra người dưng nước lã.

    4/- Đạo huynh đệ:
    là mối đạo giữa anh em. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Anh em đừng có đổi dời. Phụ phàng dưa muối se lơi nghĩa tình”.

    Anh em phải thương yêu nhau, phải dạy cho nhau những điều hay lẽ phải, hầu bảo vệ danh giá gia đình để làm vui lòng cha mẹ. Gặp phải lúc nguy biến phải hết lòng tương thân tương trợ, chớ đừng vì quyền lợi riêng tư mà trở nên xâu xé nhau gây thảm trạng giữa tình cốt nhục để phải mang tiếng chê bai trong nhân thế.
    Kinh thi rằng: “Làm anh thì phải phận anh. Làm em thì phải phận em”.Làm anh thương em, làm em kính anh. Ăn ở phải phận anh em. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Từ trên tới dưới thuận hòa,
    Hay hơn châu báu ngọc ngà giàu sang.

    5/- Đạo bằng hữu:
    là mối đạo giữa bạn bè. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đạo
    bạn bất phân nhân với ngã”.

    Qui luật kết bạn là thận trọng và thanh bạch. Thận trọng sẽ ít xảy ra lỗi lầm; thanh bạch sẽ giúp tình bạn lâu dài. Cổ nhân nói: “Gặp được một người tri kỷ, chết cũng không oán hận”. Điều nầy cho thấy bạn tri kỷ thật khó tìm thấy.
    Cho nên kết bạn, không nên cứ xét lỗi lầm của bạn, mà cũng nghĩ nhớ đến điểm tốt của bạn. Không xét nét điểm xấu của bạn, nhưng phải ghi nhớ âm đức của bạn, không xét khuyết điểm của bạn, song phải nhớ ưu điểm của bạn.
    Ông Tử Cống hỏi về tình bầu bạn. Đức Khổng Tử trả lời rằng: “Như bạn có lỗi, mình nên hết lời can gián, mà phải nói một cách khéo léo dịu ngọt. Như bạn không nghe, thì mình nên thôi, đừng nói dai mà mình mang nhục”. Đây là lời khuyên hết sức chí lý và ôn hòa, ta nên suy nghiệm.
    Cổ nhân có câu: “Tửu thực đệ huynh thiên cá hữu, cấp nan chi thì nhứt cá vô!” Anh em có ăn thịt uống rượu thì ngàn người cũng có, đến lúc hoạn nạn gấp rút dầu một người cũng không! Cho nên hể hoa không có đậu trái thì đừng có thèm trồng; bạn mà vô nghĩa thì chớ có kết giao. Cách kết giao của người quân tử lạt như nước lã, mà cách kết giao của kẻ tiểu nhơn thì ngọt như đường như mật. Người thì dùng tiền mà giao, vàng thì lấy lửa mà thử, nước thì phải lấy trượng đem mà dò thì mới biết sâu cạn là thế nào. Người ta dùng của mà kết bạn thì mới biết tấm lòng; có giao thì giao điều nghĩa, đừng có giao việc của tiền; giao việc của tiền thì điều nhân nghĩa tuyệt dứt. Đường dài mới biết sức ngựa, việc lâu mới thấy lòng người.
    Trong gian nan mới biết sự sâu đậm của tình bạn, giàu nghèo mới biết thái độ của bạn, giữa sang hèn có thể nhìn thấy sự thật giả của tình bạn. Trong cảnh ấy mới thấy sự thật tình, thành ý của bạn bè.
    Một hôm học trò của ông Tử Hạ hỏi ông Tử Trương về sự giao kết với bằng hữu. Ông Tử Trương hỏi lại: “Về việc ấy thầy Tử Hạ dạy thế nào?”. Đáp: “Thầy Tử Hạ dạy rằng: đối với người tốt, mình nên làm bạn; đối với người chẳng tốt, mình nên cự tuyệt”. Tử Trương nói rằng: “Điều ấy khác điều ta nghe. Ta thường nghe rằng người quân tử tôn trọng trang hiền đức mà cũng bao dung kẻ tầm thường, khuyên khích trang thiện xảo, mà thương xót kẻ bất tài. Ta là bậc đại hiền chăng? Thì có ai mà ta chẳng bao dung? Ta là kẻ chẳng hiền chăng? Ắt người sẽ cự tuyệt ta vậy. Như thế, lẽ nào mình cự tuyệt người sao?”
    Ở đời dù ta có giao thiệp biết nhiều người cùng là bạn bè, nhưng thật khó mà tìm được người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Đó là người bạn tâm đắc, hiểu rõ tâm tư tình cảm của mình; lúc sống phước cùng hưởng, họa cùng đau, cho nên cổ nhân có câu: “Đắc nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận”, sống ở đời có được một người tri kỷ cũng không còn ân hận gì nữa.
    Đời Xuân thu, Quản Di Ngô tự là Trọng, vốn người có tài kinh bang tế thế. Ngày còn hàn vi, chưa gặp thời thường cùng bạn bè là Bảo Thúc Nha đi buôn chung. Lúc chia lời, Quản Trọng thường lấy phần hơn. Người ngoài thấy thế bất bình, nhưng Bảo Thúc Nha vui vẻ nói: “Quản trọng không phải là tham mà lấy tiền ấy, chỉ vì gặp cảnh quẩn bách bất đắc dĩ nên ta cũng bằng lòng nhường cho hắn”.
    Quản trọng ở chỗ thị tứ thường bị lắm kẻ dọa nạt, hà hiếp mà không một lời phản kháng. Mọi người cười cho là hèn mạt, nhu nhược, nhưng Bảo Thúc cho bạn là người khoan dung.
    Quản Trọng thường đàm luận cùng Bảo Thúc Nha nói nhiều điều sai lầm. Bảo nói: “Đó là con người chưa gặp vận. Chớ lúc gặp thời thì trăm việc không hỏng việc nào”.
    Lúc theo việc quân, mỗi khi ra trận thì Quản Trọng đi sau; khi thu quân về thì Quản Trọng đi trước. Mọi người đều chế giễu cho là nhát. Bảo Thúc Nha nói: “Quản Di Ngô nào phải nhát gan, chỉ vỉ người còn mẹ già nên phải giữ thân thể phụng dưỡng mẹ”.
    Quản Trọng ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi, người người đều khinh. Nhưng Thúc Nha nói: “Di Ngô không phải là kẻ bất tiếu (người không ra gì), vì chưa gặp thời, chưa gặp được vua hiền mà thôi.
    Về sau, Quản Trọng phò công tử Củ; Bảo Thúc Nha phò công tử Tiểu Bạch. Công tử Củ và công tử Tiểu Bạch vốn anh em khác mẹ tranh ngôi nhau. Công tử Củ thất bại ở nhà nước Lỗ, bị vua nước Lỗ giết chết. Vua Lỗ lại bắt Quản Trọng và Thiệu Hốt là người phò công tử Củ nộp cho Tiểu Bạch tức Tề Hoàn Công đương làm chúa nước Tề.
    Thiệu Hốt tự tử. Còn Quản Trọng thì chịu làm tên tù, và chịu tội với Tiểu Bạch vì trước kia đã bắn nhằm đai bụng của Tiểu Bạch. Mến tài của Quản Trọng và do Thúc Nha tiến cử, Tiểu Bạch dùng Quản Trọng làm tướng quốc.
    Người ta chê Quản Trọng không giữ được khí tiết như Thiệu Hốt. Nhưng Thúc Nha lại bảo: “Di Ngô nhẫn nhục thờ Hoàn Công không phải vô sỉ mà là người không câu chấp những tiểu tiết thường tình. Đó chính là kẻ có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ”.
    Quản Trọng nghe được lời phê phán của Bảo Thúc Nha, thường thở dài nói: “Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu biết ta ở đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi”.
    Trong cư xử tình bạn tâm giao, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:

    Đạo bạn bè bất phân nhân với ngã,
    Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.

    Ngoài ra còn mối đạo nữa mà người học đạo, chúng ta không thể nào không nghĩ đến, đó là Đạo sư đệ. Xưa kia người ta rất tôn kính ông thầy dạy chữ nghĩa cho chúng ta mở mang kiến thức và biết sống theo đạo lý. Người cho quí ông mà trong sự sắp đặt thứ vị chỉ đi sau ông vua mà đứng trước người cha sinh thành của chúng ta “Quân, Sư, Phụ”.
    Đạo sư đệ là mối đạo giữa thầy trò. Phận làm trò phải kính và vâng lời dạy bảo của thầy. Đứng trước mặt thầy phải trang nghiêm lễ phép cũng như dầu vắng mặt thầy cũng phải giữ lòng thành kính. Ca dao có câu “Kính Thầy mới đặng làm Thầy”. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương.

    Trong sách Thuyết Uyển có câu chuyện thầy trò dạy nhau như sau: Thường Trung là bậc thầy nay đã già yếu. Một hôm Lão Tử đến thăm, có hỏi rằng: “Tôi xem ra tiên sinh mệt nặng. Dám hỏi tiên sinh có còn gì để dạy đệ tử chúng con nữa không?
    Thường Tung nói: “Qua chỗ cố hương mà xuống xe, ngươi đã biết điều ấy chưa?”
    Lão Tử thưa: “Qua chỗ cố hương mà xuống xe, có phải nghĩa là không quên nơi quê cha đất tổ không?”.
    Thường Tung nói: “Ừ phải đấy! Thế qua chỗ có cây cao mà bước rảo chân, ngươi đã biết điều ấy chưa?”
    Lão Tử thưa: “Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, có phải là kính những bậc cả không?”.
    Thường Trung há miệng ra cho Lão Tử coi và hỏi rằng: “Lưỡi ta còn không?”
    Lão Tử thưa: “Còn”.
    Thường Trung lại há miệng cho Lão Tử coi nữa và hỏi: “Răng ta còn không?”.
    Lão Tử thưa: “Rụng hết cả”.
    Thường Trung nói: “Ôi! Lưỡi mà còn lại, có phải tại lưỡi mềm không? Răng mà rụng hết có phải tại răng cứng không?”. Rồi ông nói tiếp: “Ừ phải đấy! Việc đời đại để là như vậy cả. Ta không còn gì để nói với các ngươi nữa cả”.
    Biết kính quê hương là không quên nguồn gốc. Kính trọng bậc hiền nhân có công khai phá tức là có lòng yêu nước. Người có biết hai điều ấy là tức người có bản lĩnh. Tuy nhiên người ở đời không phải chỉ quay mắt nhìn về phía trước là xong mà phải liên can với người hiện đời nữa. Trong cách liên can ấy không gì bằng khiêm nhã và mềm dẽo. cổ kim thường dạy “Dịu hơn là xẳng”, “Lạt mềm buộc chặt”. Trong câu chuyện nầy lấy cái răng, cái lưỡi làm thí dụ, lại đặt vào người sắp ra đi từ giả cõi đời dặn lại, thật là bài học dạy ta thấm thía, khiến ta cảm động mà cố thực hành.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:

    Chữ nhu ta học âm thầm,
    Ai là người trí rán tầm cho ra.
    Hay:
    Nhu hiền hòa, nhược ắt thắng can.
    Hay:
    Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
    Thì đâu có mang câu thù oán.


     
  2. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    Phần trình bày dẫn thường là nền Đại Kinh tức là Ngũ Luân. Từ Đại Kinh mới lập nên nền Đại bổn tức là Nhũ Thường.

    Ngũ Thường gồm có:


    1/- NHÂN: Là lòng thương yêu con người. Cổ nhân nói rằng: “Nhân là nhân tính, ái chính là tình, nhân là chủ thể, ái là sự ứng dụng cụ thể. Nhân chính là đạo và là thứ hàng đầu trong bách thiện”.
    Đức Khổng Tử nói: “Người nhân ái làm theo nhân đạo, người có trí tuệ biết rằng nhân có lợi cho mình nên mới làm”. Ngài cũng giải thích rằng: “Nhân là đạo làm người”. Nhân là đạo- lý làm người, nhân là thực chất của nhân tính. Nếu bỏ chân tính của nhân tính không thể nói là đạo làm người.
    Thầy Mạnh Tử, thừa kế tư tưởng của Đức Khổng Tử còn giải thích thâm sâu hơn nữa “Nhân là cái tâm của con người”, thế nên không những thừa kế mà còn đi sâu vào nhân tâm. Cho nên hiểu trọn vẹn và thể hiện đầy đũ có thể là Thánh nhân.
    Ông Tử Trương hỏi Đức Khổng Tử về cách làm nhân. Ngài trả lời rằng: “Người làm nhân là người có thể làm cho năm điều đức hạnh phổ cập trong thiên hạ”. Ngài giải thích rằng: Ấy là tự mình nghiêm trang tề chỉnh, có lòng rộng lượng, có đức tín thật, mau mắn siêng năng, thi ân bố đức. Nếu mình có lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì mọi người tin cậy nơi mình. Nếu mình mau mắn siêng năng thì làm được việc hữu ích. Nếu mình thi ân bố đức thì sai khiến được người.
    Ông Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử rằng: “Ví như có người thi ân, bố đức cho khắp cả nhân gian, lại hay cứu tế cho đại chúng thì nên nghĩ cho người ấy ra thế nào? Có nên gọi là người nhân không?”. Đức Khổng Tử trả lời rằng: “Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Ắt gọi là bậc Thánh mới xứng. Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng khó làm xong những việc ấy. Nầy, người nhân hể muốn tự lập lấy mình thì cũng lo mà thành lập cho người; hễ muốn cho mình thông đạt thì cũng làm cho người được thông đạt; hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người chung quanh thế ấy. Đó là những phương pháp phải thi hành để trở nên người nhân đức vậy”.
    Làm sao mới thấy được nhơn tâm! Giả như từ đức hiếu sinh có thể thấy được nhơn tâm, từ lòng yêu người có thể thấy được nhơn tâm, từ lòng từ bi có thể thấy được nhơn tâm, từ lòng trắc ẩn có thể thấy được nhơn tâm, từ chỗ không nhẫn tâm với người và vật thì thấy được nhơn tâm. Ngược lại không hiếu sinh, không nhân ái, không từ bi, không trắc ẩn, thì không còn là người. Thế nên xưa nay anh hùng hào kiệt đều có lòng nhân ái nên mới thành tựu, nên mới vĩ đại trường tồn.
    Đức Khổng Tử nói: “Đức nhân cần yếu cho dân còn hơn nước với lửa. Tuy vậy ta còn thấy người giẩm vào nước, lửa mà chết. Chớ ta chưa thấy ai giẩm vào đức nhân mà chết bao giờ”.
    Nhân là nhân ái, là yêu người, là quảng đại. Nhân tồn tại tâm, nên có thể lập đức đem đến thành quả cho bản thân. Đạo Thánh của Khổng Tử lấy nhân làm trung tâm, coi hành nhân là lý tưởng cao nhất, coi thành nhân là mức độ cao nhất.
    Cổ nhân nói: “Tôn trọng những người già thì có thể nuôi dưỡng thế hệ cha chú của người khác cũng như của mình; thương yêu cô nhi thì có thể nuôi dưỡng và yêu thương con cái của người khác cũng như yêu thương và che chở con cái của mình. Người tàn tật, người già cô đơn đều giống như bậc cha chú, giống như huynh đệ của ta. Hành động bảo vệ họ, để họ vui vẻ, không ưu sầu, đó là sự kính hiếu, là tình anh em”. Những ý tưởng cao đẹp thông thường đó liệu ta có thể làm được chăng!
    Đức Khổng Tử nói rằng: “Ta chưa thấy người nào thật tình yêu điều nhân và ghét điều bất nhân. Người thật yêu điều nhân thì không cho điều gì hơn điều nhân được. Người thật ghét điều bất nhân, trong khi làm điều nhân, chẳng để cho điều bất nhân vướng vào mình. Có ai trọn ngày dùng hết sức mình làm nhân chăng? Ta chưa thấy ai đủ sức mà làm nhân. Hoặc cũng có, nhưng chính mắt ta chưa thấy”.
    Chuyện kể rằng: Ông Phạm Trọng Yêm, người đời nhà Tống ở Trung Hoa, làm quan Tể Tướng mà suốt đời vẫn nghèo. Ông là người trọng nghĩa khinh tài, thích làm việc bố thí. Ông rất trọng hậu người trong họ hàng. Ông để dành tiền lương bổng, mua được một thửa đất, một phần làm nghĩa trang, phần còn lại để lấy hoa lợi giúp người nghèo trong họ. Phàm việc tang tóc, cưới xin của dân chúng, ông đều lo giúp đỡ.
    Thuần Nhân là con của ông, có đức tính cũng như ông. Lúc làm quan ở Khai Phong, Trọng Yêm để dành được năm trăm thùng thóc, sai Thuần Nhân đem về quê. Thuần Nhân đi đến Đang Dương gặp người bạn cũ của cha là Thạch Man Khanh, nhà đã cùng quẫn, chẳng may lại gặp ba cái tang một lúc, Thuần Nhân giúp cho cả năm trăm thùng thóc. Man Khanh lại có hai đức con gái đến tuổi mà chưa nơi nương tựa, Thuần Nhân cho luôn cả cái thuyền.
    Đến lúc về nhà, cha hỏi: “Con đi có gặp ai không?”
    Thuần Nhân thưa: “Con đến Đan Dương có gặp Thạch Man Khanh nhà nghèo khổ, lai gặp lúc liền ba cái tang, hai con gái lớn không có gì để gây dựng, con cho cả năm trăm thùng thóc mà còn chưa đủ”.
    Ông bảo: “Thế sao con không cho nốt cả cái thuyền?”
    Thuần Nhân thưa: “Con cũng đã cho thuyền rồi”.
    Ông khen phải, rồi nói: “Có như thế mới đáng là con ta”.
    Phạm Trọng Yêm làm quan Tể Tướng mà nhà vẫn nghèo thế là một ông quan thanh liêm đáng trọng. Để dành tiền, đem bố thí cho kẻ nghèo khổ, lòng nhân đức đáng trọng hơn nữa. Có năm trăm thùng thóc cho cả, thật là có lòng thương người, đáng phục. Còn chiếc thuyền dùng làm phương tiện cũng cho luôn, hành động đã quên mình, đáng kính phục hơn nữa. Đúng nghĩa của câu “cha nào con ấy”, hai cha con của Phạm Trọng Yêm thật có lòng nhân ái, hiểu thấu cái nghĩa cứu kẻ khốn cùng, giúp người khốn khó là việc vui lòng nhất ở đời. Nên ta có câu:

    Sướng gì hơn sướng làm lành,
    Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu.

    Thế giới đại đồng là lý tưởng của Nho gia, bao trùm thiên hạ bằng đức nhân, lấy nhân để phục vụ thiên hạ.
    Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Kính trọng bậc tiền bối của mình và của người khác, yêu thương con mình và con người khác, thiên hạ sẽ có thể vận động trong lòng bàn tay”.

    Trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy cách hành xử lòng nhân ái của chúng ta như sau:

    Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
    Mở lòng nhân tiếp rước mới là.
    Hay:
    Nhà giàu có xài không sợ tốn,
    Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn.
    Lo ăn xài trà rượu xình xàng,
    Chừng khổ nảo phàn nàn căn số.
    Hay:
    Khuyên những kẻ giàu sang có của,
    Hãy mở lòng thương xót dân nghèo.
    Hay:
    Hãy thương xót những người tàn tật,
    Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắc đến điển tích Lý Phủ và Trọng Như để thức tỉnh lòng người:

    Khúc thời nhắc lại đời xưa,
    Lúc chàng Lý Phủ đổ thừa Trọng Ngư.
    Nhà anh có của tiền dư,
    Sao chẳng hiền từ thương xót bá gia?
    Bây giờ gặp việc thiết tha,
    Bạc vàng có cứu anh mà hay không?

    Chuyện tích như vầy: Xưa có đôi bạn thân là Lý Phủ và Trọng Ngư, cả hai gia đình đều khá giả, ở gần nhau. Lý Phủ có lòng nhân ái thường hay giúp đở kẻ nghèo khổ, tật nguyền, nên được nhiều người cảm mến. Còn Trọng Ngư thì tính tình bỏn xẻn, mọt mại, chỉ biết thâu vô, không hề làm bất cứ việc từ thiện nào, thiên hạ không ưa thích và xa lánh.
    Gặp thời binh biến, giặc cướp nổi lên, tài sản, sự nghiệp của hai người đều tiêu sạch, mỗi người lánh nạn ở một nơi.
    Lý Phủ được nhiều người nhớ ơn, nên anh được giúp đở ấm no. Trái lại Ngư Trọng thì không ai nhìn đến, phải vất vả ăn xin, vô cùng khổ sở.
    Một hôm hai người tình cờ gặp lại nhau, Ngư cho rằng anh Phủ có phước nên được người ta giúp đở ấm no, còn mình vô phước nên vất vả trong cuộc sống. Lý Phủ đáp: “Bởi trước kia lúc anh có dư tiền của mà không rộng lòng bố thí, bây giờ gặp cảnh nghèo khổ, nên không ai tiếp giúp. Phúc họa cũng do mình tạo ra”.
    Cho nên sống ở đời lúc bình thường ta nên mở lòng nhơn bố thí cho kẻ nghèo hèn, tật bệnh, bởi vì của ấy tuy cho ra nhưng không bao giờ mất, như Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Trồng cây lành vị quả thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất.

    Bằng như ai ai cứ mãi tham lam keo kiệt “Của dương thế góp tom bảo thủ” để “Giữ bo đến lúc phong ba. Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân”, không hề giúp đở ai đồng tiền bát gạo; rồi thì của ấy “Sau cũng tiêu theo luật của Trời”, mà chính mình chịu cảnh bi đát như trường hợp anh Trọng Ngư. Vậy hãy mau sớm giác ngộ “Đường vinh nhục rủi may một lác”.
    Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Muốn cho rắn đặng hóa cù,
    Xả thân làm phước Diêm Phù vượt qua.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng ta hãy mở rộng lòng nhơn ái đối với muôn vạn loại chúng sanh thì ít vướng mắc bịnh tật. Nương theo luật Nhơn Quả mà chúng ta suy xét, hễ tạo nhân thì hưởng quả như bóng theo hình. Hễ ai tạo nghiệp sát hay hành hạ đánh đập chúng sanh thì kiếp nầy hay kiếp sau phải bị giảm thọ (đoản mệnh), đau ốm liên miên hay có thân hình xấu xí. Nếu như ai thường hay bố thí cho người hay phóng sanh loài vật thì được nhiều phúc thọ (sống lâu), ít bệnh tật, xinh đẹp. Ngài khuyên:

    Làm nhơn ái ắt tiêu bệnh tật.

    2/- NGHĨA: Thế nào là nghĩa? Cha hiền từ, con hiếu thuận. Anh hiền hòa, em cung kính, chồng nói đạo nghĩa, vợ nghe lời; tiền bối hiền từ, hậu bối cung kính; quân vương nhơn ái, hạ thần trung thành. Mười điều nầy gọi là nghĩa.

    Thầy Mạnh Tử nói: “Nhân là tâm của con người; nghĩa là con đường phải đi qua”. Những người hành hiệp trượng nghĩa tất phải vừa nghiêm khắc vừa nhân nghĩa, hành động vừa hào phóng vừa cương nghị, mạnh mẽ quả cảm, vừa chân thành vừa tín thực. Họ từ bỏ cái nghĩa riêng vì cái nghĩa chung, cho nên lòng hào hiệp thể hiện ở đạo nghĩa. Thầy Mạnh Tử rất chú trọng nhân nghĩa. Ngài nói: “Đức nhân ở chỗ yên ổn của người đời, đức nghĩa là con đường chính đại của người đời và con người khác cầm thú vì biết nhân nghĩa mà thôi”. Rồi Ngài cũng nói: “Sống thì ta vẫn muốn, làm việc nghĩa thì ta cũng ham. Nếu chẳng được hai thứ đó một lượt thì ta dành bỏ mạng sống mà giữ lấy tiết nghĩa”.
    Vì vậy, khi yết kiến ông vua nào, ông cũng đem đạo nhân nghĩa ra giảng, hy vọng đào tạo được một vị nhân-quân. Vì ông vua thích làm điều nhân thì không ai địch nỗi.
    Có lần Thầy Mạnh Tử ra mắt Lương Huệ Vương. Vua hỏi rằng: “Thưa cụ, cụ chẳng ngại đường xa ngàn dậm mà đến đây, ắt cũng có phương pháp chi làm lợi ích (phú cường) cho nước tôi chớ gì?”.
    Thầy Mạnh Tử đáp rằng: “Vua cần gì phải nói việc lợi? Hãy nói việc nhơn nghĩa mà thôi và Ngài giảng giải, nếu ở trên, bậc quốc vương nói rằng: có cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đó hàng đại phu nói rằng: có cách gì làm lợi cho dân tộc ta? Sau đó hạng sĩ và hạng bình dân nói rằng: có cách gì để làm lợi cho thân phận ta? Như vậy từ trên tới dưới đều tranh nhau vì mối lợi, ắt vận nước phải lâm nguy đó. Chỗ nguy là như thế nầy: Thứ nhứt, bậc dưới sẽ hại bậc trên như nước chư hầu muốn tranh giành quyền lực với nước thiên tử nên xảy ra cảnh giết vua đoạt ngôi; cũng đồng sự việc, quan đại phu cũng vì quyền lợi ngôi vị mong hảm hại vua chư hầu để lên làm vua. Thứ hai, cấp trên bắt cấp dưới, người trên bắt kẻ dưới phải phục vụ quyền lợi cho mình với lòng tham vô lượng. Ví như người trên kẻ dưới đều làm việc lợi trước, việc nghĩa sau, thì người nầy quyết đoạt hết của kẻ kia mới vừa lòng!
    Trái lại, chưa hề có người quí điều nhân mà lại bỏ bê cha mẹ bà con mình. Chưa hề có người trọng điều nghĩa mà lại coi việc vua, việc nước nhẹ hơn việc tư riêng của mình. Vậy vua nên nói việc nhơn nghĩa mà thôi. Cần gì phải nói việc lợi?”.
    Qua lịch sử cổ kim, chỉ một thiểu số trung thần, nghĩa sĩ còn giữ được trung nghĩa. Đa phần lớp sĩ phu đều “ham sống sợ chết”, khiếp nhược, hèn nhát, vào chốn quan trường lấy giàu sang phú quí làm chí hướng, lòng tư dục làm quay cuồng đầu óc, bị danh lợi làm lu mờ nhân cách, thường là thấy công danh trở nên mê muội, thấy quyền lợi quên hết nhân nghĩa. Đức Khổng Tử cũng nói: “Quân tử cầu nghĩa, tiểu nhân cầu lợi” và Thầy Mạnh Tử nói: “Ngu Thuấn và đạo tặc chỉ khác nhau ở nghĩa và lợi mà thôi”.
    Thấy việc đáng làm để giúp người, thế mà không chịu ra tay; người như vậy nhát gan, không đáng mặt quân tử. Đức Khổng Tử nói rằng: “Thấy việc nghĩa mà chẳng làm, ấy là người chẳng có khí dõng” (kiến nghĩa bất vi,vô dõng dã).
    Ông Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử rằng: “Quân tử có chuộng sức dõng cảm chăng?” Đức Khổng Tử trả lời: “Quân tử nên chuộng nghĩa hơn hết. Là vì người quân tử ở
    điạ vị trên, nếu có dõng mà chẳng có nghĩa, thì gây loạn nghịch. Còn kẻ tiểu nhân ở địa vị dưới nếu có dõng mà chẳng có nghĩa thì đi ăn trộm, ăn cướp”.
    Chuyện kể rằng: Cuối đời Đông Hán (Trung Hoa) quan Thượng thư Hoa Hâm chạy loạn, cùng với một nhóm người. Giữa đường gặp một người cũng chạy loạn đến xin nhập bọn. Nhóm người ái ngại nhưng cũng thuận cho. Chỉ Hoa Hâm nói: “Không nên. Đang bước nguy hiểm, sinh tử, họa, phước có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ vô cớ nhận thêm một người lạ, chẳng may xảy ra việc gì, thì có bỏ được người ta chăng?”. Nhóm người nầy không nở, đành nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi, Hoa Hâm đồng ý.
    Người nầy đi được một đoạn đường, chẳng may sa chân ngã xuống giếng. Cả nhóm người muốn bỏ mặc, để mau chân đi. Chỉ Hoa Hâm nói: “Không nên. Người ta cùng đi với mình là người trong bọn. Người ta gặp sự rủi ro như vậy, mà mình bỏ người ta sao đành”.
    Nói rồi, liền bảo các người nầy cùng ở lại vớt người kia lên, nhưng không cứu được mạng. Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu toàn rồi mới đi.
    Hoa Hâm là người cư xử có đạo nghĩa. Ông đã biết được cái đạo không nên nhận và cái đạo đã nhận, như vậy mới thực là người hiểu rõ chữ “Nghĩa” tức là hiểu được việc nên làm thế nào là phải vậy.
    Lại như Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề. Đến viếng thăm người bạn cũ. Qua bàn luận, người bạn nầy nói Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ ai còn nghĩ đến việc “Nghĩa”; một mình ông tự khó nhọc vất vả để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu! Chẳng thà phó mặc có hơn không?”.
    Mặc Tử nói: “Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một đứa cầy, chín đứa ngồi không ăn, thì đứa cầy phải chăm cầy hơn lên. Vì sao thế? Tại đứa ở không ăn nhiều, đứa đi cầy ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai làm việc nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm mới phải; có đâu lại ngăn cản tôi như thế!”.
    Trong khi nhân tâm thế đạo suy đồi, nếu mình là người còn đứng vững thì tại sao lại chịu sự suy đồi chung với thiên hạ. Vì mọi người cũng như vậy cả thì có ai là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để duy trì nhân tâm thế đạo. Cho nên, những người thức thời, có chí dù cho ở cái thời biến loạn đến đâu cũng không chịu chìm đắm vào cái bất nghĩa, ví như cây tùng, cây bách vẫn xanh tươi trong mùa băng giá. Như Mặc Tử đây, dù cho đời có biến ảo, nhưng coi sự làm việc “nghĩa” là quan yếu, lại còn đem bao nhiêu tinh lực và tâm trí giữ gìn phong hóa, dìu dắt, đưa đường cho kẻ còn u mê, đồng thời cổ động làm việc nghĩa coi như bổn phận của mình phải làm. Thật là người đáng làm gương cho hậu thế.
    Trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ thường khuyên tấn chúng ta làm việc nghĩa, bảo vệ nền văn hóa tốt đẹp của nước nhà để hoàn thành nhân đạo, như nam nhơn vẹn toàn hiếu nghĩa, nữ nhơn xử trọn đạo tam tùng:

    Câu tam tùng bọn gài nước ta,
    Chữ hiếu nghĩa trẻ trai cho vẹn.

    Ngài cũng dạy chúng ta:

    “Hôm nay đã qui y đầu Phật tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa. Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân, ta phải hy sinh gắng gổ mới mong làm tròn”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ kêu gọi chúng ta hãy làm lành lánh dữ, đừng vì tiền bạc mà làm mất nhân nghĩa, làm sai lệch đạo làm người:

    Dương trần phải rán làm hiền,
    Đừng trọng bạc tiền bỏ nghĩa bỏ nhân.

    Nghĩa nhân là hai điều ở trong Ngũ thường. Nhân là lòng thương yêu người. Nghĩa là làm các việc phải, hợp với đạo lý.

    Còn nghĩa ân là những ân đức mà con người thọ như “Tứ Đại Trọng Ân”, ta cần phải lo đền đáp cho vẹn tròn, đó là điều căn bản trong kinh sách từng dạy:

    Việc tu hành phải vẹn nghĩa ân,
    Kinh với sấm chúng dân thường thấy.
    Hay:
    Nợ nần con sớm liệu toan,
    Nghĩa ân trọn vẹn mới an tấm lòng.

    Khi mà người hành đạo làm đầy đủ ân nghĩa như cho cha mẹ, nghĩa thầy trò, nghĩa vợ chồng v.v…, đến chừng đó mới vui mừng được Thầy Tổ tế độ:

    Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,
    Cảnh non bồng kỳ hẹn ngày kia.

    Một đôi điều về “nghĩa” trong cuộc đời, ta nên xét biết cân phân; dù của cải ta tạo ra là quan trọng mà “nghĩa” lại quan trọng hơn. Của cải có khi tiêu hết, chớ “nghĩa” còn mãi mãi.
    Người ở đời, lúc đã giàu có nhưng vẫn chưa biết đủ “tri túc”, cứ hay vơ vét bộc lộ tánh tham, tưởng thế là bền chặt lâu dài. Nhưng ta nên hiểu cái lẽ “tài vi oán thủ”, nghĩa là của cải là cái kho oán; lắm khi chỉ vì lắm của mà gây nên những chuyện làm cho thiên hạ bất bình, ghét bỏ, thù oán ghen hờn. Cho nên người ta lúc đã giàu có, cũng nên ăn ở làm sao mau chuộc lấy chút “nghĩa” để phòng khi suy biến còn có chốn nương nhờ.
    Việc nghĩa là việc phải, là việc từ thiện. Làm việc nghĩa vì lợi ích chung, công bình, ơn đức; như vậy mới thấm lòng người và làm cho người nhớ dai mà thôi.
    Mạnh Thường Quân nhà giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền đòi nợ thu được, có định mua gì về không?”
    Mạnh Thường Quân nói: “Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua”.
    Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi Dân lại bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả” Đoạn Phùng Huyên đem văn tự ra đốt sạch.
    Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: “Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì tướng công đã mua về”.
    Mạnh Thường Quân nghe như thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.
    Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa ra đón đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy”.
    Điều làm việc nghĩa nầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên chúng ta “Khá thương những kẻ bần cùng. Tâm lành dư của hãy dùng vào đây”, với tâm nguyện:

    Giúp đời đừng đợi trả ơn
    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng.

    Chờ con đầy đủ nghĩa nhân
    Ra tay tế độ dắt lần về ngôi

    Ngoài ra Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên nhủ:

    Ai mà ta dạy chẳng gìn,
    Thì sau đừng trách mất tình yêu đương.


    Cũng như Ngài trách:

    Giàu sang lắm kẻ vô nghì,
    Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa nhân.
    Chẳng kiên chẳng nễ Phật Thần,
    Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang.


    3/- LỄ: là những qui tắc cư xử trong gia đình và xã hội theo tư tưởng Nho Giáo.
    Đức Khổng Tử nói rằng: “Ở nhà mà có lễ phép thì làm cho kẻ lớn người nhỏ phân biệt có phép có bậc; trong nhà mà có lễ phép thì làm cho cả nhà vợ chồng, cha con, anh em trong ngoài hòa thuận, bình an; trong triều mà có lễ phép thì làm cho bậc quan tước phân ra có thứ tự; việc binh nhung mà có lễ phép thì đồng lòng mà thắng được giặc”.
    Lễ là biểu hiệu bên ngoài của đức hạnh, là phép tắc mà mọi người xem như khuôn mẫu. Câu Tử nói: “Con người không có lễ thì không sống được, việc không có lễ thì không thành, quốc gia không có lễ thì không yên”. Lễ là những phép tắc thứ tự trong cách ứng xử đối đãi với người trong cộng đồng dù nhỏ hay rộng lớn.
    Khi bàn về lễ Câu Tử nói: “Đời người có dục vọng; không thể không đạt được thì không thể không cầu; cầu mà không có ranh giới thì không thể không tranh; tranh thì sẽ loạn; loạn thì sẽ vô cùng tận. Các bậc tiên hiền ghét sự loạn nầy nên đặt ra lễ nghĩa để hạn chế nó”.
    Bản chất của lễ xuất phát từ trong mỗi người, sau đó biểu hiện ra ngoài, rồi lại trở về bên trong, nên Đức Khổng Tử nói rằng: “không nhìn những điều không phải lễ; không nghe những điều không phải lễ; không làm những điều không phải lễ”. Cũng như câu: “muốn người ta trọng mình, chi cho bằng mình trọng người ta trước đã” (Nhược yếu nhơn trọng nghĩa, vô như ngã trọng nhơn).

    Ông Hữu Tử nói rằng: “Lễ cốt ở kính, nghiêm; nhưng quí ở điều “hòa”. Lễ chí kính mà không có hòa, thành ra nghiêm khắc, khô khan. Còn như giữ lễ mà chỉ có hòa thì hết nghiêm, làm sao mà thành lễ? Vậy thì hành lễ phải vừa nghiêm kính, vừa hòa hảo mới được”.
    Hiểu rõ đạo lý, tuân thủ lễ nghĩa chính là nền tảng của con người đối nhân xử thế.

    Sống trong thời đại văn minh vật chất của Tây Âu đưa vào nước ta, số đông dân ta đua đòi theo lối tân học, ai cũng cho mình là văn hay chữ giỏi, với mưu cầu tranh danh đoạt lợi, tiêu xài xa xí. Từ đó họ có lối xã giao bề ngoài tỏ vẻ như là ngọt ngào chải chuốt, nhưng trong tâm ý tìm cách gạt lường, Đức Huỳnh Giáo Chủ luận xét:


    Học chữ nghĩa cho thông cho thái,
    Đặng xuê-xang đài các xe tàu.
    Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu,
    Trong tâm ý mưu mô đủ thế.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên, những qui tắc và phong tục của tiền nhân là giáo hóa, ta có bổn phận phải giữ gìn và thiệt hành không nên học đòi thói mới của Tây Âu mà đổi khác đi:

    Cho rồi nhân nghĩa mới hay,
    Lễ nghi phong hóa đổi thay làm gì?

    Vì thấy chúng sanh hiện đang mê dục lạc, chìm đắm trong biển lợi danh, quên đi phong hóa cổ truyền. Từ đó Ngài khai hóa đạo mầu, giải bày cặn kẻ để mỗi người nhận thức hồi tâm tỉnh thức, tập sửa cách ăn ở đúng theo lễ nghi, phong tục tốt đẹp của tiền nhân ta từ trước, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Thấy chúng sanh nhiều người khờ dại,
    Chẳng biết gìn phong tục lễ nghi.
    Nên ta đem đạo đức duy trì,
    Gìn tục cổ để người chẳng rõ.


    Cũng như Ngài trách kẻ nào không gìn giữ:

    An-Nam phong hóa lễ nghi,
    Đời nay văn vật bỏ đi chẳng gìn.
    Mảng lo chế nhạo chống kình,
    Chẳng toan đạo đức mà gìn thôn hương.


    Chuyện kể rằng: Ngũ Tử Tư gặp phải nạn vua Sở giết cha, giết anh, chạy trốn sang nước Ngô, định tìm cách báo thù. Giữa đường bị bịnh và hết lương thực, phải ăn xin. Tình cờ gặp một cô gái đang dệt sợi ở bờ sông Lại Thủy, bên cạnh có giỏ cơm.
    Tử Tư đến gần cô gái và nói: “Thưa cô, cô sẵn cơm đây, xin cô làm phước cho tôi được một bửa không?”
    Cô con gái đáp: “Tôi ở một mình với mẹ, năm nay ba mươi tuổi, chưa có chồng, ông đứng lui ra, cơm tôi, tôi ăn, không thể cho được.”
    Tử Tư nói: “Thưa cô, cô nhủ lòng thương cho kẻ gặp cảnh khốn khổ, cùng quẫn nầy ít cơm, thì có ngại gì tai tiếng”.
    Cô con gái nầy biết Tử Tư không phải là người thường, bèn mở giỏ cơm cho với cả tương, dưa nữa. Tử Tư ăn no, cô gái bảo: “Quân tử đi xa, sao không ăn thêm”.
    Tử Tư ăn xong, lúc đứng dậy đi, bảo cô gái rằng: “Cô che đậy giỏ cơm, bầu nước nầy đi, chớ để cho lộ chuyện”.
    Cô con gái thở dài, nói rằng: “Than ôi! Thiếp ở một mình với mẹ, năm nay đã ba mươi tuổi, một lòng trinh bạch ( trinh là chính chuyên, không thất tiết, bạch là trong sạch) không có tai tiếng gì. Nay đưa cơm cho trượng phu ăn, (trượng phu là tiếng để gọi con trai) qua vượt cả lễ nghĩa, thiếp lấy làm khổ tâm lắm”.
    Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh lại trông thì cô con gái đã đâm xuống sông rồi.
    Qua câu chuyện kể trên, ta thấy cuộc gặp gở tình cờ của trai anh hùng, gái thuyền quyên thì làm sao không sinh ra lòng luyến ái “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Mối tình nó thường khiến ra như thế. Chàng ăn xong chàng đi, thiếp ở lại chỉ một mình, chàng lại dặn đừng lộ chuyện, điều nầy nàng biết rằng chàng đang tính chuyện đại sự, thiếp đâu mở hại chàng. Lại nữa, cô là con gái mà đã chuyện trò với trai, lại cho trai ăn cơm của mình, vượt qua lễ giáo quá nghiêm thời bấy giờ “Nam nữ bất tương thân”, khi mà chưa được phép của cha mẹ. Cô gái gặp cảnh đường kia nỗi nọ thật là nan giải. Chỉ một ý tưởng vượt lễ giáo mà nàng phải liều mình để được trọn tình với chàng và để chàng giữ được chí hướng, lại giữ được nghĩa với đời, như vậy là vẹn cả đôi đường.
    Đáng khen cô gái đã giữ được nề nếp gia phong lễ giáo dù phải hy sinh. Đó cũng là tấm gương cho lớp trẻ trai gái thời nay.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thống trách bọn
    gái trai nước ta ăn ở theo lối văn minh vật chất thời nay, nói năng toàn chuyện bướn ong dục lạc:

    Văn minh sửa mặt sửa mày,
    Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
    Dọn xem hình vóc lả lơi,
    Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.
    Trong tâm nhớ những điều tà,
    Lời ăn tiếng nói thật là quá lanh.
    Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
    Chẳng trau hiền đức học hành làm chi?


    Trai gái mới lớn lên đã biết tô son điểm phấn, trau chuốt mặt mày, tự cấu kết tình duyên với nhau, chớ chẳng đợi lệnh cha mẹ. Nói năng suồng sả không kiêng nể ai nữa:

    Tự do trai gái kết tình,
    Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.
    Trai gái đến tuổi đôi mươi,
    Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả lơi.
    So hình sửa sắc chiều mơi,
    Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.


    Đức Huỳnh Giáo Chủ cảnh tỉnh hạng người hành động trái với nền luân thường đạo nghĩa cổ truyền, phụ rãy tổ tiên nòi giống:


    Người xưa nó lại khinh chê,
    Ông cha hủ bại u mê hơn mình.

    Hay:
    Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa,

    Nghiệp tổ tiên con cháu vày bừa.
    Học lối mới lăng loan theo sở dục..

    Hoặc:
    Cũng dòng dân Việt cũng màu da,
    Sao lại chê bai thói tục nhà.
    Phong hóa lễ nghi trề nhún bỏ,
    Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam gia.


    Với tâm từ bi của bậc Đại Giác, Đức Huỳnh Giáo Chủ xét thấy cõi trần đến hồi nguy khổ mà người đời chẳng nghĩ đến công ơn cha mẹ buông lời khinh chê vô lễ. Tuy tổ tiên ta trước kia kém văn minh tiến bộ, nhưng tánh tình rất trung thực hiền hòa. Ngài kêu gọi hạng người “lạc mất đạo đời nhuốc nhơ” nầy hãy lo nuôi chí lập thân, tu rèn trí đức, đừng hành động gian xảo mà phải vướng khổ lụy vào thân:

    Cớ sao chê cổ trọng kim,
    Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
    Thấy đời trần hạ thon von,
    Ai nuôi cho lớn mà còn khinh khi.
    Ông cha thuở trước ngu si,
    Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
    Học hay lợi dụng tiền tài,
    Lên quan xuống huyện ăn xài lả lê.
    Gặp ai đói rách cười chê,
    Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
    Chẳng lo rèn trí lập thân,
    Để làm xảo trá khổ thân sau nầy.


    4/- TRÍ: là khả năng nhận thức, sự hiểu biết của con người. Người trí là người biết phân biệt trong đời cái gì là định mệnh, cái gì là tự do, cái gì là tùng ta, cái gì là không tùng ta.
    Những cái không tùng ta sanh tử, rủi ro, giàu, nghèo, sang, hèn. Những cái đó có đến với ta hay bỏ ta mà đi, ta không thể ngăn cản nó được. Lại nữa cái gì mà người khác ban cho ta thì họ có thể lấy lại được, vậy chẳng cần quan tâm làm gì. Nghĩ đến nó ta không còn tự do nữa, chỉ là một thứ nô lệ làm mất đi tính tự chủ của mình.
    Ví như có người mắng chưởi ta, ta không thể ngăn cản họ được, đó là thứ không tùng ta, nhưng với ý chí và sự phán đoán của ta xem như không có gì là nhục, là giận, coi như không có gì, bình tỉnh, thản nhiên, cái đó chính là tùng ta.
    Giả như chết là định mệnh, không ai có thể tránh, suy tư vô ích. Vậy chết có đáng sợ hay không tùy nơi mỗi người tiếp đón nó. An nhiên tự tại trong guồng máy tạo hóa thì sẽ có cuộc sống an lạc tự do.
    Như ông Ninh Võ Tử, làm quan đại phu nước Vệ. Ông phụng sự hai đời vua nước Vệ: vua Văn Công và vua Thành Công. Vua Văn Công có tài trị nước, dân an cư lạc nghiệp; ông Ninh Võ Tử bình thường làm quan. Thói đời ai cũng làm được chỗ trí đó. Đến đời vua Thành Công cai trị vụng về đến nỗi phải mất ngôi. Ông Ninh Võ Tử một mực tận tâm, tận lực lo việc dân việc nước chẳng ngại nguy nan. Đương thời, ai cũng cho rằng ông ngu muội. Việc thiên hạ chẳng dám làm, ông lại đảm đang một cách khéo léo để bảo tồn được thân mình và làm tròn việc giúp vua giúp nước. Cái chỗ ngu đó ít ai làm được và theo kịp ông. Nên Đức Khổng Tử khen rằng: “Ninh Võ Tử bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu. Kỳ trí cập giã, kỳ ngu bất khả cập giã”. Khi trong nước yên ổn, ông Ninh Võ Tử là người trí. Khi trong nước loạn lạc, ông biến thành người ngu. Chỗ trí của ông ấy, người ta còn theo kịp, chớ chỗ ngu ông không ai theo nỗi.
    Có lần ông Phán Trí hỏi Đức Khổng Tử về người trí. Ngài trả lời: “Trí là biết người”. Ngài giải thích: Cử người chính trực, bỏ kẻ cong vạy hóa ra chính trực.
    Ông Phán Trí lui ra, đến viếng ông Tử Hạ và đem việc nầy nói ra: “Trước đây tôi có viếng Thầy mà hỏi về trí. Thầy đáp: cử người chính trực, bỏ kẻ cong vạy, khiến họ trở nên chính trực. Thầy nói vậy là ý nghĩa gì?”
    Ông Tử Hạ trả lời: “Lời nói ấy có ý nghĩa rộng thay! Vua Thuấn khi có thiên hạ tức là ở ngôi Thiên Tử, Ngài chọn trong dân chúng, cử ông Cao Dao; những bất nhân đều tránh xa. Vua Thành Thang khi lên ngôi Thiên Tử, cũng tuyển chọn trong dân chúng, cùng ông Y Doãn; những kẻ bất nhân đều tránh xa”. Đó là phép trị dân của vua vừa có đức nhân, vừa có trí sáng. Có đức nhân, thương dân mới dùng người hiền, chính trực giúp vua trị nước, đem phúc lợi cho dân chúng. Vì có trí nên biết phân biệt kẻ chính người tà, lập chính bỏ tà, khiến mọi người trở về đường chính đạo.
    Thầy Mạnh Tử nói về nhân và trí như sau: “Người trí phải hiểu biết tất cả, nhưng trước hết phải biết về việc cần kíp. Người nhân phải yêu thương tất cả, nhưng trước hết phải yêu thương kẻ thân tộc và người tài đức. Vua Nghiêu, vua Thuấn dẫu là người tài trí, nhưng sự thông minh của hai Ngài không thể hiểu biết tất cả. Hai Ngài phải cần hiểu biết những việc cần kíp trước đã. Vua Nghiêu, vua Thuấn dẫu là người nhân, nhưng lòng nhân đức của hai Ngài không thể yêu thương tất cả. Hai Ngài cần phải yêu thương kẻ thân tộc và tài đức trước đã”.
    Đây là mẫu chuyện trí và nhân, đọc và suy nghiệm:
    Ông Tử Lộ yết kiến Đức Khổng Tử.
    Đức Khổng Tử hỏi: “Thế nào là người trí? Thế nào là người nhân?”.
    Ông Tử Lộ thưa: “Người trí là người làm thế nào để người ta biết mình. Người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình”.
    Đức Khổng Tử bảo: “Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn”.
    Tử Lộ ra, Tử Cống vào, Đức Khổng Tử lại hỏi người trí người nhân thế nào?
    Ông Tử Cống thưa: “Người trí là người biết người, người nhân là người yêu người”.
    Đức Khổng Tử bảo: “Nhà người nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn”.
    Tử Cống ra, Nhan Hồi vào, Đức Khổng Tử lại đem trí, nhân ra hỏi.
    Ông Nhan Hồi thưa: “Người trí là người tự biết mình. Người nhân là người tự yêu mình”.
    Đức Khổng Tử bảo: “Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử (sĩ quân tử là bậc người thượng lưu trong xã hội, có đức hạnh, có học vấn, có kiến thức).
    Cũng là một chữ trí và chữ nhân mà ba người trả lời khác nhau. Không phải trí và nhân có lắm nghĩa thay đổi mà tùy trình độ học vấn, kiến thức của mỗi người mà tư tưởng thuyết minh có hơn kém nhau. Ông Tử Lộ trả lời như vậy là vì ông có tư tưởng ngoại vụ, muốn cho người ta biết mình và yêu mình mà thôi. Ông Tử Cống đáp như thế là người quên mình, chỉ biết người và yêu người mà thôi. Nếu đem hai tư tưởng nầy so lại với nhau thì sở học của ông Tử Cống cao hơn của ông Tử Lộ một bậc. Tuy nhiên chưa bằng ông Nhan Hồi vì sở học của ông Nhan Hồi là tự biết mình và yêu mình trước rồi mới suy rộng ra đến biết người và yêu người. Biết mình, yêu mình không phải là lòng tư- kỷ hẹp hòi. Có biết mình thì mới tu- tỉnh thân tâm, tự cải hoá để trở thành người hay người khá. Có yêu mình thì biết trọng tư cách của mình, quí phẩm giá của mình rooi62 mới đem ra đến người khác. Cũng như những gì mình không thích thì đừng làm cho người, tục ngữ có câu “Suy bụng ta ra bụng người” cùng ý nghĩa như vậy.
    Cổ nhân đưa ra mấy dẫn dụ để dùng cái trí xét đoán cái lý lẽ ở đời. Trong thiên hạ có hai cái khó: lên trời khó, mà cầu cậy nhờ vả người càng khó hơn. Trong thiên hạ có hai cái đắng: Hoàng Liên đắng ( Hoàng Liên là một loại cỏ rễ rất đắng dùng làm vị thuốc), mà nghèo kiết khốn cùng còn đắng hơn. Nhân gian có hai cái mỏng: giá mùa xuân mỏng ( giá ở đây là lớp băng mỏng đóng trên mặt nước, nếu không để ý bước lên bị thủng rơi xuống nước sâu sẽ bị chết ngộp), mà thói đời càng mỏng hơn. Nhân gian có hai thứ hiểm: núi sông hiểm, mà lòng người còn hiểm hơn.
    Biết được cái khó , chịu được cái đắng, quen được cái mỏng, dò được cái hiểm mới có thể ở đời được.
    Người biết được những cái khó khăn trên đời là người có chí tự lập không lệ thuộc ai. Chịu được cái đắng là người có quyết tâm, có lòng kiên nhẫn cố gắng làm nên việc bất cứ trong hoàn cảnh nào dầu gặp gian nan. Biết được cái mỏng là người có lòng bao dung độ lượng. Mò mẫn lần tìm hiểu biết cái hiểm là người thấu được nhân tình thế thái. Ở đời ta có được bốn cái trí độ đó, thì giao thiệp, đối đãi với ai mà chẳng được, việc làm nào mà chẳng thành, bởi có câu “Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người” có cùng ý nghĩa.
    Trên con đường tu học, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Người học Đạo muốn mở mang trí- huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội). Muốn diệt cái vô minh phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy.
    Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
    Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ từ mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả”. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Hởi ai tâm trí mau tầm Đạo,
    Tầm đấng hiền từ cứu thế gian.


    Ngài cũng dạy chúng ta trong mục Chánh Kiến như sau: “Mục Chánh Kiến dạy ta phải đem hết trí năng truy cứu các sự rắc rối, cẩn thận xem xét tránh sự lầm lạc trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản ngã đã làm cho trí-huệ mịt mờ u ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng, minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công bình.
    Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm mầu tôn giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo”. Cho Nên “Lấy tâm trí ấy xét soi” như Ngài khuyên.

    5/- TÍN: là đức tin để từ đó con người biết trọng lời hứa và biết tin nhau. Nói ra thì phải giữ chữ tín, lời nói mà không giữ chữ tín thì không phải là bậc chính nhân quân tử, chỉ như loại thú cầm mà thôi.
    Sách Ích Thơ có ghi rằng: “Vua với tôi mà không có tin nhau thì nước chẳng yên được. Cha với con mà không tin nhau thì nhà rối rắm không hòa hợp. Anh với em không tin nhau thì anh em lợt lạt chẳng thân thiết. Bằng hữu không tin nhau thì sự kết nghĩa với nhau lỉnh lảng lợt lạt”.
    Cổ nhân có câu: “Một lời nói ra bốn ngựa khó đuổi” cũng như kinh Thi có câu: “Ngọc trắng có vết cũng có thể mài đi, chớ lời nói không giữ thì khó che đậy”.
    Lão Tử coi trọng chữ tín. Ngài nói: “Những người hứa một cách tùy tiện thì ít khi giữ chữ tín”.
    Khổng Tử coi trọng việc huấn tín, chú trọng việc dạy về chữ tín. Ngài nói: “Quân tử không cần giỏi ăn nói mà giỏi hành động”. và “Người giữ chữ tín thì mọi người tín nhiệm anh ta”.
    Hữu Tử nói rằng: “Nếu mình hứa với ai điều gì mà hạp nghĩa, thì mình nên làm theo lời hứa của mình”. Điều nầy có nghĩa không nên hứa càn, liệu việc phải lẽ mới hứa và khi đã buông lời thì phải làm theo.
    “Tình cảm phát xuất từ tâm, lòng thành phát xuất từ nguyện, tín phát xuất từ khẩu. Nói thì dễ làm được thì khó; giữ tiểu tín đối với lời nói, giữ đại tín đối với tâm. Hiền nhân giữ lời nói, còn thánh nhân giữ cái tâm”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy kẻ đã bước vào đường Đạo thì phải trọng lời nói. Ngài dạy:


    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
    Nói với ai chớ có sai lời.

    Chữ tín đối với bậc quân vương cũng như cấp lãnh đạo rất quan trọng mà có lắm khi “ bất chiến tự nhiên thành”, như câu chuyện vua Tấn Văn Công muốn chinh phục đất Nguyên. Trước khi xuất chinh, ông hứa với ba quân tướng sĩ rằng chỉ lấy được đất Nguyên trong vòng mười ngày với số lượng lương thực mang theo cho đủ dùng. Vừa hết hạn kỳ Tấn Văn Công ra lịnh lui binh. Ngay lúc đó có người đến nói rằng: “Đất Nguyên có thể chiếm đoạt xong trong vòng ba ngày nữa”. Từ quan cho đến binh sĩ đều biết quân Nguyên sắp cạn lương thực, hãy đợi đến lúc đó sẽ tấn công.
    Tấn Công Văn nói: “Ta đã hứa với tướng sĩ trong mười ngày, nếu ta không lui binh sẽ thất tín. Được đất Nguyên mà thất tín thì ta không làm như vậy”.
    Người đất Nguyên khi nghe Tấn Văn Công nói như thế, họ tự đầu hàng và nói: “Làm vua mà giữ chữ tín như vậy, không ai là không qui thuận”. Người nước Vệ sau khi nghe nói như vậy cũng đầu hàng vì họ thuận theo một ông vua biết giữ chữ tín.
    Đức Khổng Tử nghe chuyện như vậy, Ngài ghi lại như sau: “Tấn công nước Nguyên mà được người nước Vệ, đó là nhờ cách giữ chữ tín”. Xem ra bậc quân vương dù có bị mất đi quân đội chớ không để mất chữ tín. Trong nhân gian muốn lập thân phải giữ chữ tín.
    Cũng là chuyện giữ chữ tín, nước Lỗ có một cái đỉnh rất quí ( nước Lỗ là chư hầu nhỏ thời Xuân Thu, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bên Trung Hoa). Nước Tề bắt phải đem dâng (Tề là nước chư hầu lớn thời Xuân Thu cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông). Vua Lỗ tiếc, làm cái đỉnh giả đưa sang.
    Vua Tề bảo: “Đích thân Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang, ta đây mới tin” (Nhạc Chính Tử người nước Lỗ học trò giỏi của ông Tăng Tử).
    Vua Lỗ sai Nhạc Chính Tử đi.
    Nhạc Chính Tử thưa: “Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi quí cái đức “tín” của tôi như thế”.
    Ở vào thế “chẳng đặng đừng”, vua Lỗ phải trao đỉnh thật.
    Như Quí Trát là con vua nước Ngô (Ngô là tên một nước thời Xuân Thu, ở vào địa phận Chiết Giang), khi qua nước Từ vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quí Trát có thanh kiếm báu, muốn xin, nhưng chưa mở lời. Quí Trát trong lòng cũng cho mà chưa kịp dâng vì cuộc du hành còn qua nhiều nước khác nữa. Khi ở nước Tấn về, nghe tin vua Từ đã mất, Quí Trát không biết phải làm thế nào, nên đem thanh kiếm đến treo bên mộ của vua Từ rồi ra về.
    Xem ra Nhạc Chính Tử không chịu mang đỉnh giả. Quí Trát phải cho kiếm báu trước khi về nước, đều là những người biết trọng chữ “tín”. Việc làm của Nhạc Chính Tử nếu không nói đồ giả thì ai biết, giả mà không nói thật đã là quí. Còn Quí Trát chỉ hứa trong lòng mà cố làm cho được thì quí hơn nữa. Chữ “tín” thật quí vô cùng từ xưa đến nay. Người đời giao thiệp nhau cốt lấy chữ tín làm đầu, thế nên thánh nhân liệt chữ tín vào trong Ngũ thường mà Đức Khổng Tử nói: “Nhơn vô tín bất lập”. Người không có tín thì không đứng được ở đời. Tấn Văn Công cũng nói: “Tín vi quốc chi bảo”. Tín là vật quí báu của cả nước.

    Trên đây là nói về Ngũ luân, Ngũ thường là bổn phận của tu mi nam tử. Sau đây chúng tôi bàn về phận thuyền quyên thục nữ, như Tam Tùng và Tứ Đức.

    1/- TAM TÙNG: là Tùng phu, Tùng phụ, Tùng tử.

    Đức Khổng Tử nói rằng: “Hữu tam tùng chi đạo: tai gia tùng phụ, thích nhơn tùng phu, phu tử tùng tử”. Có ba cái đạo buộc phải theo: ở tại nhà phải theo cha, gả về nhà người phải theo chồng, chồng chết theo con.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Rán giữ gìn phong hóa nước nhà,
    Câu tam tùng bọn gái nước ta.

    Hay:
    Nghe lời cha mẹ cân phân,
    Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.


    a/- Tùng Phụ: trong lúc chưa chồng, là thời kỳ trả ơn cha mẹ, phận làm gái ở gần bên cha mẹ, vâng lời các việc dạy bảo. Mỗi việc chi phải hỏi ý kiến cha mẹ, đừng tự mình quyết định từ trong phạm vi gia đình cho đến ngoài xã hội. Cần phải lo trau giồi đức hạnh, hiền lương, trinh bạch. Khéo léo lẹ làng trong công việc để sau khi có chồng không làm cho người ta chê mình hư hèn, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Lớn lên phận gái cần chuyên
    Làm ăn thì phải cho siêng mới là
    Phải gìn dục vọng lòng tà
    Đừng chiều theo nó vậy mà thư thân!

    Hay:
    Tình duyên chẳng kíp thì chầy
    Chớ đừng cải lịnh gió mây ngoại tình


    b/- Tùng Phu: trước khi về với chồng, người con gái đã được bậc cha mẹ giáo dục phẩm hạnh của một người phụ nữ. Cho nên khi có chồng thì xem như chỉ là có một cuộc sống mới, không còn như sống cùng với cha mẹ, anh em ruột thịt nữa. Nói cụ thể là cuộc sống lứa đôi tự nhiên của mọi loài sinh vật không hơn không kém trong vũ trụ.
    Đức Khổng Tử nói rằng: “Phụ nhơn ư nhơn dã, thị cố vô chuyên chế chi nghĩa”. Người vợ thì dựa người chồng, nên không tự chuyên làm theo ý riêng. Người chồng cũng như người vợ đều giữ tốt vai trò của mình thì lo gì tiếng thị phi của nhân thế.

    c/- Tùng Tử:
    nếu chẳng may người chồng qua đời, người vợ phải thủ tiết nuôi con cho được thành người hữu dụng, rồi sống theo con cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Khi con trưởng thành nên tạo lập cho chúng một nghề nghiệp chánh đáng để hộ thân, đồng thời cưới vợ, gã chồng cho chúng. Luôn luôn nêu gương tốt cho con noi theo.
    Có kẻ hỏi rằng: “Theo trong lễ thì đàn bà góa chồng dường như không được tái giá, nghĩa là sao?”. Ông Y-Xuyên trả lời: “Hể cưới vợ thì âm dương phối hợp với nhau, nên nếu cưới người đàn bà thất tiết thì ta cũng lỗi tiết nữa”.
    Lại có người hỏi: “Trong những người đàn bà góa chồng, có người nghèo khổ không nơi nương tựa, thì có nên tái giá chăng?”. Ông Y-Xuyên trả lời rằng: “Như vậy là nhân bởi sợ đến sau trở về già bị đói lạnh mà chết, nên mới có hỏi như vậy đó. Nhưng mà sự đói chết là sự rất nhỏ, chớ cái điều lỗi tiết là điều rất lớn”.
    Người đặt ra hai câu hỏi trên, có lẽ nhìn thấy số phận của người đàn bà sao quá hẩm hiu. Họ muốn đánh thức lương tâm của các nhà đạo đức thời đó đừng vì quá “trọng nam khinh nữ” mà xem thường địa vị làm người của đàn bà mà Tạo hóa đã ban cho họ không trọng khinh dù nam hay nữ. Họ đưa ra hai chữ “tiết hạnh” gán cho người đàn bà phải mang thì thật là tội nghiệp cho họ dù phải chết vì đói lạnh hay nỗi cô đơn bằng một lời lẽ là “thủ tiết”!
    Đành rằng gái “chính chuyên” chỉ có một chồng, nghĩa là không được ngoại tình dù là trong ý nghĩ khi đang sống chung với một người chồng hiện có. Nhưng chẳng may người chồng qua đời sớm thì người đàn bà (người vợ) phải làm sao? Chẳng lẽ chỉ “thủ tiết” thờ chồng nuôi con?
    Chúng tôi có một vài nghi-ngại nhỏ, tại sao cổ nhân lại quá khắt khe cho số phận người đàn bà? Tại sao họ lại quá rộng rãi cho người đàn ông? Tại sao trai được “năm thê bảy thiếp” mà gái chỉ có một chồng ( sau khi chồng qua đời phải thủ tiết). Có phải họ muốn tạo dựng ra một chế độ bất bình đẳng không! Mỗi người trong chúng ta có một cảm nghĩ riêng tùy theo quan niệm sống.

    Có câu chuyện người đàn bà thủ tiết mà theo Ngũ Đại Sử Ký kể: Vương Ngưng rời quê đi làm quan ở xa, chưa được bao lâu thì mất, nhà thanh bạch, con thơ ấu.
    Vợ là Lý thị lo liệu đem con và mang di hài ông về quê. Khi đi qua huyện Khai Phong, đến một nhà trọ xin tạm dừng chân qua đêm. Người chủ nhà trọ thấy đàn bà con trẻ, có ý ngờ không cho trọ. Còn Lý thị thấy trời tối cứ kêu nài xin trọ, không chịu đi. Người chủ dắt tay đuổi ra. Lý thị ngửa mặt lên trời, nức nở kêu rằng: “Ta làm đàn bà chẳng hay thủ tiết để đến nỗi người ngoài cầm được cái tay nầy! Ta chẳng nỡ để vì một cái tay mà bẩn lây cả thân ta”. Nói xong lấy búa tự chặt ngay cánh tay.
    Người chung quanh trông thấy, ai cũng khiếp sợ và cảm động. Quan huyện Khai Phong đem việc ấy tâu lên với triều đình, rồi đưa thuốc chữa, cấp tiền tuất cho Lý thị và phạt người chủ nhà trọ.
    Xem ra hành động thủ tiết của người đàn bà có khi cũng quá táo bạo, dám chặt cánh tay của mình để phản đối người chủ nhà trọ vì ông ấy cầm tay xua đuổi không muốn chứa. Thật ra ông ấy cũng không có tình ý gì.
    Người đàn bà cho rằng người khác phái không được đụng chạm bất cứ chỗ nào trong thân thể (ngoại trừ người chồng) mình. Vì vậy sẽ làm dơ bẩn; thật là quá câu nệ. Tuy vậy, cái tình đối với chồng vẫn là rất hậu đáng khen. Đối lại, có những hạng đàn bà chồng chết, lấy quạt quạt mồ cho mau xanh cỏ để đi tái giá hay chồng vẫn còn sống mà đi ngoại tình, nhớ chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều. Vật chất càng đầy đủ nhân dục càng hoành lưu. Chuyện nam nữ coi như chuyện khát nước. Khát vớ được nước là uống, không cần nước ở nhà hay nước ở ngoài, nước sạch hay nước bẩn. Hãy tự trọng!
    Phía nữ lưu có những người thủ tiết thờ chồng nuôi con cho trọn đạo, thì bên nam nhi cũng có những ông chồng rất mực thương yêu vợ và chung thỉ.
    Câu chuyện kể: Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh là người đẹp và có đức hạnh. Thuở còn trẻ nhà nghèo không có thế lực. Một hôm bịnh nặng, tưởng chừng như sắp chết, nên gọi vợ là Lư thị đến mà bảo rằng: “Tôi bịnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở vói người chồng sau”.
    Lư thị nghe nói mủi lòng, rồi vào trong khoét một con mắt bỏ đi, tỏ ý cho chồng biết dù chồng bất hạnh có chết, cũng không tái giá với ai nữa.
    Không bao lâu ông Phòng Huyền Linh khỏi bệnh.
    Sau đó học hành thi đỗ, làm quan đến chức Tể tướng. Ông một lòng yêu mến kính trọng Lư thị, không hề lấy người tì thiếp nào nữa.
    Bàng quan cho thế là tại ông sợ Lưu thị có tính hay ghen.
    Một hôm vua Đường Thái Tông, muốn thử Lư thị, nên bảo Hoàng hậu gọi vào và nói: “Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, nhà vua muốn ban cho một mỹ nhân”.
    Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng rằng: “Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết”. Rồi sai người đưa một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng: “Đã ghen vậy thì phải uống chén thuốc độc nầy”. Lư thị không ngần ngại, cầm chén uống hết ngay.
    Vua thấy thế, nói: “Ta cũng phải sợ, huống là Phòng Huyền Linh”.
    Tưởng rằng mình sắp chết, thấy vợ còn trẻ trung, không muốn để cho ở vậy, thế là quá thương vợ. Người vợ cũng thương yêu chồng không kém. Sợ chồng tiếc vì sắc đẹp của mình mà chết đi không dứt, nên tự khoét một con mắt của mình để tỏ cho biết thật lòng với chồng, thế là chí tình với chồng.
    Thời may, khỏi bịnh, học hành thi đỗ, sau làm đến chức Tể tướng, ông chỉ biết có người vợ khoét mắt, không thiết gì đến tì thiếp xinh đẹp nào khác. Ông đã giữ được trọn vẹn cái tình đối với vợ.
    Còn bà trong lòng cũng không muốn ông có thêm tì thiếp, đó là thường tình, vì chung tình nên không muốn ai san sẻ mối tình.
    Đôi vợ chồng nầy thật chơn tình và chí tình, suốt đời kính yêu nhau, vợ chỉ biết có chồng, chồng chỉ biết có vợ, một chồng một vợ, không những thoát khỏi cái nạn đa nhân duyên nhiều đường phiền não mà còn gây được cái hạnh phúc lâu dài cho thân, cho gia đình, cho con cháu sau nầy. Thật cao quí thay!

    Sách Ích trí thơ có ghi: “Gái có bốn điều tốt đáng khen: việc làm, dung nhan, lời nói, đức hạnh”
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy cho nữ nhi về Tứ Đức:


    Đi thưa về cũng phải trình,
    Công, dung, ngôn, hạnh, thân mình phải trau.


    2/- TỨ ĐỨC: là Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

    a/- Công: là công việc nội trợ khéo léo, siêng năng may vá, thêu dệt, sắp xếp đồ đạt ngăn nắp, sạch sẽ, ấy là việc làm của người đàn bà. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Công là phải sửa làm sao,
    Làm ăn các việc tầm phào chẳng nên.
    Mình là gái mới lớn lên,
    Đừng cho công việc hớ hênh mới là.

    b/- Dung: là đi đứng phải cho khoan, cho chậm, bước đi hoặc dừng lại phải cho đề đạm cái hình dung. Cử chỉ hòa hưởn, đi, đứng, nằm, ngồi, phải dòm trước ngó sau cẩn thận. Cách ăn mặc giữ được chừng mực gọn gàng, không hở hang, cách điệu. Ngài dạy:

    Chữ dung là phận đàn bà,
    Vóc hình tươi tắn đứng đi dịu dàng.
    Dầu cho mắc chữ nghèo nàn,
    Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.


    c/- Ngôn: lựa lời mà nói, chẳng nói lời quấy, nói năng lễ nghĩa, không dùng lời xảo ngôn, chưởi rủa tục tỉu. Ngài dạy:


    Ngôn là lời nói mặc dầu,
    Cũng cho nghiêm chỉnh mới hầu khôn ngoan.
    Đừng dùng lời tiếng phang ngang,
    Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.


    d/- Hạnh: là tính nết hiền hậu, ôn hòa, tha thứ kẻ lỗi lầm, giúp người thiếu hụt. Không gần kẻ lả lơi, ăn nói tray trúa để ngăn ngừa hại đến danh thể. Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu kính, với ông bà, cô bác, anh chị em thân quyến giữ mực khiêm từ. Ngài dạy:

    Hạnh là đức tánh phải không?
    Ở cùng chòm xóm đừng cho mất lòng.
    Bốn điều nếu đã làm xong,
    Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân.


    Người đàn bà chẳng cần gì cho nhan sắc, bóng dáng; lời của người đàn bà cần gì phải lẹ miệng, lanh lợi; công việc khéo léo của người đàn bà cần gì phải xuất sắc hơn người ta; giữ phận cho đính chính, cung cách giữ lễ. Những đức ấy là đức lớn của người đàn bà, cứ thế làm theo như vậy thì thật là tiết hạnh của người đàn bà.

    Cái đạo thông thường trong thiên hạ có năm bậc ( Ngũ Luân). Muốn hành năm bậc đạo ấy phải dùng ba cái đức. ba đức ấy là NHÂN, TRÍ, DŨNG. Đem ba đức ấy mà hành năm bậc đạo, thành tâm, thật ý, hết lòng hết dạ dù cách hành xử có khác nhưng thành công vẫn có một. Cái đạo Ngũ Luân ấy do theo có người sanh ra tự nhiên mà biết; có người nhờ học tập mà biết; có người khổ công nhọc sức mới biết. Tư chất và phương pháp dù có khác nhưng mục đích vẫn có một.
    Đức NHÂN và đức TRÍ chúng tôi đã trình bày ở phần Ngũ Thường ( Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín).
    Đức Khổng Tử nói: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”. Thấy điều nghĩa mà không làm thì không phải là dũng. Vậy DŨNG hiểu cách nào mới đúng?

    Nhà hiền triết Tô Đông Pha nói: “Chỗ nào mà người xưa... gọi là hào kiệt ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng nhơn nghĩa có chỗ không nhịn được. Bởi vậy kẻ thất phu gặp nhục, tuốc gươm đứng dậy, vươn mình xốc tới đánh. Cái đó chưa đủ gọi là DŨNG. Kẻ đại dũng trong thiên hạ, trái lại thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh; vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.
    Lúc Đức Khổng Tử bị vây ở đất Khuông, Ngài không còn phương kế nào thoát ra được, bèn lấy đờn ra, rồi đờn và ca. Tử Lộ thấy vậy hỏi: “Phu Tử làm sao vui được vậy?”. Đức Khổng Tử nói: “Ta làm hết ta để tránh cái chuyện nầy, thế mà không được; đó không phải còn tại ta nữa, mà là tại Trời. Xưa vua Nghiêu, vua Thuấn không bị sự cùng như ta ngày nay đây, chẳng phải do nơi cái tài thận trọng của các ông ấy hơn ta mà được, mà tại cái Mạng của họ không như của ta. Kiệt, Trụ không phải tại họ tài ba ít hơn Nghiêu Thuấn mà họ bị hại, chỉ vì cái Mạng của họ không giống như hai người kia. Lặn xuống đáy biển, mà không biết sợ giao long, đó là cái Dũng của người chài lưới. Vào rừng mà không biết sợ hổ báo, đó là cái Dũng của người thợ săn. Thấy gươm bén mà không biết sợ tử sanh, ấy là cái Dũng cái người liệt sĩ. Biết được chỗ cùng thông là Thời, Mạng và bất cứ ở vào hoàn cảnh nguy hiểm nào cũng không biết sợ đó là cái Dũng của Thánh Nhân”.
    Rõ là cái Dũng của Thánh Nhân chính là tính điềm đạm tức là làm chủ được mọi tình huống, là người chủ động, không bị động những gì không theo mình nữa, là cái tính “như như bất động”, thản nhiên “không cho ngoại vật động đến tâm mình”. Sau khi cố tránh hoàn cảnh, khắc phục nhưng không được, vui vẻ mà lảnh nhận, đó mới hơn người.
    Cho nên bậc quân tử đối với người thì giữ niềm hòa khí, nhưng không bê tha thói tục thường tình. Sức mạnh ấy vững vàng thay! Đối với mình thì giữ ở mức trung không chênh lệch. Sức mạnh ấy vững vàng thay! Nước nhà gặp thời thạnh trị cũng như trong cơn loạn lạc, bậc quân tử không có gì thay đổi đức tính của mình, dù có tổn hại đến thân mình cũng cam tâm. Sức mạnh ấy vững vàng thay!
    Vậy bậc quân tử xử nhơn thì hòa, xử kỷ thì trung, xử đạt thì không kiêu xa, xử lẽ cùng thông chẳng đổi chí. Như vậy mới thật là cường dũng.
    Còn những kẻ rút kiếm, giương tên, thẳng người mà đánh, dữ dằn, cuồng bạo, chết không nuối tiếc, đó là thứ dũng khí của hạng thất phu tiểu nhơn.

    Trong Thiên Thai Nhơn vương Kinh có nói Ngũ giái của đạo Phật tương đồng với Ngũ thường của đạo Nho như sau:

    1. Bất sát sanh đồng với Nhân
    2. Bất du đạo đồng với Nghĩa
    3. Bất tà dâm đồng với Lễ
    4. Bất vọng ngữ đồng với Tín
    5. Bất ẩm tửu đồng với Trí


     
  3. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    CHƯƠNG II

    BỔN PHẬN


    Sanh ra trong đời ai cũng có bổn phận. Hể có danh thì phải có phận. Cho nên bổn phận là điều kiện con người cần phải làm, như bổn phận làm con, bổn phận làm cha, bổn phận làm mẹ và nhiều bổn phận khác nũa.
    Là cư sĩ tại gia, chúng ta chưa thể làm hoàn toàn đúng theo như lời của Phật dạy, làm theo điều Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi. Hai chữ “tại gia” ràng buộc chúng ta trong những bổn phận mà chúng ta cần phải chu toàn. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:

    Lo bổn phận thảo ngay trọn vẹn,
    Chừng lập đời không thẹn tấm thân.

    Phận làm con phải hiếu kính đối với cha mẹ “Thiên địa tuần hoàn Xuân tại thủ. Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”. Hiếu đứng đầu trăm nết tốt. Hiếu cảm đến Trời thì mưa thuận gió hòa. Hiếu cảm đến đất thì muôn vật sanh tươi. Hiếu cảm đến người thì mọi phước lành đều tốt. Cho nên làm người ở đời phải biết tri ân và báo ân cha mẹ. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên hóa chúng ta:

    Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp.
    Hay:
    Mẹ cha là kẻ trọng ân,
    Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu gầy.

    Chữ hiếu có nghĩa là con cái đối với cha mẹ phải tận tâm, tận sức cung phụng, hầu hạ. Cũng gọi là hiếu thuận, hiếu dưỡng.
    Trong kinh Phật dạy cư sĩ tại gia hay cư sĩ xuất gia đều phải biết cách hiếu thuận. Kinh Hiếu tử ghi “Cha mẹ sanh con, cưu mang mười tháng, như mang trọng bịnh, đến ngày sanh nở, mẹ sợ cha lo, tình cảm như vậy, lời không nói hết”.
    Kinh Phạm Võng cũng nói “Hiếu là pháp chí đạo, cho nên lấy hiếu làm giới”.

    A. TRI ÂN
    a/- Tri ân đối với mẹ
    Công ơn của mẹ “chín tháng cưu mang, ba năm nhũ bộ”, tình thương như dòng suối hiền hòa chảy vào biển Thái bình lai láng. Sự nhẫn chịu bao sự cay đắng phiền muộn như mặt đất dung chứa mọi vật xấu xa dơ bẩn nhưng không bao giờ than trách hay từ chối. Công lao và tình thương của mẹ không thể diễn tả bằng lời.
    Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật bảo An-Nan: “Công ơn từ mẫu có mười điều, phàm kẻ làm con phải lo báo hiếu”. Những gì là mười?
    1- Nhớ ơn Mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
    2- Nhớ ơn khi Mẹ sinh nở, đau đớn vô cùng.
    3- Nhớ ơn khi Mẹ sinh nở, quên cả lo âu.
    4- Nhớ ơn Mẹ ăn miếng đắng, Mẹ nhả miếng ngọt dành dụm cho con.
    5- Nhớ ơn chỗ ướt Mẹ nằm, chổ ráo sê con.
    6- Nhớ ơn ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
    7- Nhớ ơn giặt dũ hong phơi, áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi, Mẹ đành cam chịu.
    8- Nhớ ơn khi Mẹ đi đâu, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một chút chẳng ngơi.
    9- Nhớ công ơn Mẹ, vì sinh nuôi con mà Mẹ cam lòng tạo bao ác nghiệp.
    10- Nhớ ơn lòng Mẹ thương con, trọn đời yêu dấu không chút nào ngơi.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:

    Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc.

    b/- Tri ân đối với cha
    Người đã tạo dựng ra con, hy sinh cả cuộc đời lo cho con sống đầy đủ vật chất lẫn tinh thần. Ý nguyện của người cha luôn luôn muốn cho con mình sau nầy trở thành người tài đức hữu dụng cho xã hội và có cuộc sống an lành hạnh phúc. Dù phải lo sinh kế cho gia đình nên không có đủ thì giờ săn sóc cho con từng miếng ăn giấc ngũ nhưng tình thương của người cha rất bao la sâu sắc thầm kín như tàng cây cổ thụ kiên cố không hề than trách dù trải qua nỗi thăng trầm chịu đựng bao sương gió để che mát đời con. Người cha ấp ủ tình thương, nuôi dưỡng cho con một tâm hồn cao thượng và một ý chí kiên cường.
    Trong cuốn sách “Đức Phật và Phật pháp” của Narada có câu chuyện: Tại vương quốc Ma Kiệt Đà thuộc Ấn Độ thời xưa có ông vua tên Tần-bà-sa-la và hoàng hậu Vi-đề-hi sanh ra thái tử A-xà-thế. Vì nghe theo lời xúi giục của Đề-Bà-Đạt-Đa, A-xà-thế âm mưu sát hại vua cha để lên ngôi hoàng đế. Nhưng bị bại lộ, vua cha không bắt tội mà sẵn sàng tha thứ và nhường ngôi cho con. Để trả ơn, tên hoàng tử bất hiếu liền ra lệnh hạ ngục cha và bỏ đói cho đến chết. Cả triều chính chỉ có hoàng hậu Vi-đề-hi được phép vào thăm. Mỗi khi đi, bà dấu đồ ăn trong túi áo đem cho chồng. A-xà-thế hay được quở trách mẹ. Sau bà dấu trong tóc, A-xà-thế cũng biết được. Cùng đường, bà tắm gội sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn nầy để nuôi sống. Nhưng A-xà-thế cũng bắt được và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua nữa.
    Thấy cha vẫn vui tươi, A-xà-thế nhất định giết cho khuất mắt, hạ lệnh cho người thợ cạo vào khám giết cha.
    Cùng một ngày ấy, vợ A-xà-thế sanh được một hoàng nam. Tin lành đưa đến với vua một lượt với tin vua Tần-bà-sa-la chết trong ngục.
    Tin chánh hậu hạ sanh hoàng nam được đọc trước. Nỗi vui mừng của A-xà-thế không kể xiết, nhẹ nhàng sung sương! Tình thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng, mặn mà sâu sắc, thấm vô từng khớp xương tủy. Đứa con là một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng thức một tình thương mới mẻ đậm đà vô cùng trong sạch. Cảm giác đầu tiên của người cha mới được đứa con đầu lòng dường như đưa họ vào một cảnh giới kỳ lạ, khiến họ cảm tưởng rằng huyết mình nhỏ giọt ra để tiếp nối đời mình.
    Tức khắc, A-xà-thế vội vã đi tìm người mẹ yêu dấu và hỏi: “Thưa mẫu hậu, khi còn nhỏ, phụ vương có thương con không?”. Hoàng hậu trả lời: “Tại sao con hỏi vậy? Mẹ tưởng trên thế gian nầy không thể tìm đâu ra người cha lành như cha con. Để mẹ thuật lại cho con nghe. Lúc mẹ còn mang con trong lòng, ngày nọ mẹ nghe thèm lạ lùng một món kỳ quái, mẹ thèm hút một vài giọt máu trong lòng bàn tay mặt của cha con, mà mẹ nào dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao và sau cùng phải thú nhận với cha con. Khi nghe vậy, cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ hút máu. Lúc ấy nhà chiêm tinh trong triều tiên tri rằng: con sẽ là người thù của cha con. Do đó, con có cái tên là A-xa-thế (có nghĩa là Vị sanh oán, có mối thù từ khi chưa sanh, tiếng Phạn là Ajatasatrou). Mẹ có ý định giết con ngay trong lòng, nhưng cha con không cho. Khi con sanh ra, mẹ nhớ lời tiên tri, nên một lần nữa muốn giết con. Một lần nữa cha con lại cản mẹ. Một hôm con có cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, khóc suốt đêm ngày không ai dỗ được. Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều chính; nghe vậy cầm lòng không đặng, bế con trong lòng và không ngần ngại ngậm ngón tay của con trong miệng cha con và sợ lấy tay ra con sẽ đau, cha con nuốt vào trong bụng cả mủ lẫn máu! Người cha hết lòng thương con vì tình phụ tử đậm đà nhẹ nhàng nuốt hết vừa máu vừa mủ”.
    Nghe đến đó, bỗng A-xà-thế đứng phắt dậy, kêu lên như điên: “Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha yêu quí của trẩm”.
    Nhưng than ôi! Người cha yêu quí ấy đã ra người thiên cổ. Vua xúc động rơi lụy dầm dề. Bây giờ ông mới nhận ra rằng, chỉ khi mới bắt đầu làm cha mới biết được tình cha thương con như thế nào.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ đã từng dạy chúng ta phải biết ơn cha mẹ vì đã sanh ra ta, nuôi nấng ta, dạy dỗ ta từ tấm bé cho đến khi trưởng thành “Thuở ít tuổi ấy là thời thơ ấu, ơn mẹ cha dạy dỗ lúc nâng niu”, vậy ta phải giữ cho tròn đạo nghĩa “Đạo cha con chặt chẻ chữ miê
    n trường” và cũng đừng ngổ nghịch “Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường” để rồi phải nhận chịu tiếng đời dị nghị “Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu”. Và nên nhớ “Cửa Phật Thánh dạy người trung lẫn hiếu”.
    Vì tội ác, hại cha mình chết, A-xà-thế mang bịnh nặng và sợ mình phải sa Địa ngục. Ông được Đức Phật khuyên dỗ và độ cho dứt bịnh. Trước ông có thành kiến với đạo Phật, nhưng từ khi ông được Đức Phật độ thì ông đem lòng kính mộ, có thỉnh Phật vào cung để cúng dường, ông thường đến chiêm ngưỡng và phụng sự Đức Phật. Đức Phật giảng đạo lý cho nghe, đem sự quả báo mà nói với ông.
    Về việc nhơn quả giữa A-xà-thế và vua cha là Tần-bà-sa-la, Đức Phật có giảng trong kinh Đại Niết Bàn như sau:
    Vua Tần-bà-sa-la hồi đời trước là ông vua ác tâm ưa việc săn bắn. Một hôm vua với quần thần lên núi săn nai. Đi khắp vùng mà chẳng bắt đặng con nào. Duy thấy một vị Tiên nhơn tu đắc Ngũ thông đang ngồi thiền. Vua sanh lòng giận dữ, phán rằng: “Hôm nay ta ngự đi chơi và săn bắn, song chẳng đặng con thịt nào, chính tại ngươi ngồi đây đuổi thú đi hết chứ gì?”. Vua bèn khiến kẻ tả hữu giết đi. Vị Tiên nhơn sắp chết, sanh lòng giận, thối thất thần thông, liền thệ rằng: “Ta thật không có tội, nhưng ngươi dùng lòng và miệng mà sát hại mạng ta; ta nguyện đời sau sẽ dùng lòng và miệng mà giết trở lại ngươi”.
    Vua ác tâm thuở trước chính là vua Tần-bà-sa-la hồi đời Đức Phật trụ thế. Còn vị Tiên nhơn bị vua giết oan, chính là thái tử A-xà-thế. Bởi lẽ nhơn quả như vậy cho nên A-xà-thế phạm tội Ngũ nghịch mà không đọa Địa ngục, lại được Phật độ. Lại nữa, hồi đời Phật Tỳ Bà Thi, vua A-xà-thế có đến trước Phật, phát tâm Bồ Đề. Từ đó về sau vua tinh tấn tu hành và chẳng hề đọa Địa ngục.
    Trong hội Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, lúc ấy A-xà-thế và quần thần quyến thuộc có đến nghe Đức Phật giảng Diệu Pháp Liên Hoa đồng thời Đức Phật thọ ký quả Phật cho vua A-xà-thế.
    Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, vua A-xà-thế có thỉnh Xá-lợi của Đức Phật đem về nước và cất tháp thờ. Vua từng hổ trợ giáo hội Tăng già và khuyến khích người ta tu Phật.
    Theo kinh Mahawansee, thái tử A-xà-thế giết vua cha Tần-bà-sa-la và soái vị. A-xà-thế ở ngôi vương được ba mươi hai năm. Khi vua lên ngôi được tám năm, Đức Phật nhập Niết Bàn. Về sau vua A-xà-thế bị con giết. Con vua A-xà-thế là Uddeyabladde ở ngôi được mười sáu năm.
    Trong giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài cũng khuyên hóa chúng ta phải nhận chân được luật Nhơn Quả để khỏi lầm lạc hành động sai lầm, hậu quả sẽ bị đọa tấm thân:

    Luật nhơn quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
    Hãy bền chí có ngày thông thả.

    Kinh Đại thừa bổn sanh tâm địa quán, phẩm báo ân có nói: “Cha có ân từ, mẹ có ân bi, nếu như có người cung kính cúng dường cho 100 vị Đại thần tiên đắc quả ngũ thông, hay 100 vị thiện hữu, nhất tâm cúng dường trải qua hết trăm ngàn kiếp, công đức có được cũng không bằng khởi một niệm có hiếu với cha mẹ. Vì vậy, siêng năng tu tập và hiếu dưỡng cha mẹ có phước đức như cúng dường chư Phật, không sai biệt”.
    Trong luật ngũ phần nói: “Nếu có người vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, dù cho cha mẹ đại tiểu tiện trên đó cũng không nản lòng; lấy thức ăn và y phục tốt nhứt trong thiên hạ để cúng dường cho cha mẹ, trải qua một trăm năm, cũng không thể đền đáp được công ơn lớn như núi Tu Di của cha mẹ. Cho nên phải tận tâm, tận lực, suốt
    đời cung dưỡng cha mẹ, nếu không làm được, tất mang trọng tội”.
    King Tăng Chi cũng nói: “ Có hai người không thể báo ơn hết được. Đó là cha và mẹ. Rồi Đức Phật dạy: “ Nầy các Tỳ kheo, nếu có người vai trái vác cha, vai phải vác mẹ, trải qua ngàn vạn năm, lo áo quần, cơm nước, giường nệm, ngao du, thuốc men chửa bệnh, đại tiện, tiểu tiện ngay trên vai, vẫn chưa thể báo ơn hết được. Tỳ kheo nên biết, cha mẹ ân trọng, bồng bế, nuôi dưỡng, tùy lúc giữ gìn không lỡ thời tiết, xem như mặt trời, mặt trăng. Do phương tiện nầy mà biết ân nầy khó báo đáp. Cho nên, nầy các Tỳ kheo, phải cúng dường cha mẹ, thường phải hiếu thuận”.

    B. BÁO ÂN

    Cha mẹ có bổn phận nuôi dạy con nên người, dù không có ý mong cầu được đền ơn trả hiếu, nhưng bổn phận làm con không thể nào quên được cái trọng ân thiêng liêng cao cả ấy được. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên bảo chúng ta: “ Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc, nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa.
    Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn sanh tiền, có dạy ta những diều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong huynh đệ, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ”.
    Công ơn của cha mẹ là vô lượng, vô biên không thể nào nói hết được. Nhưng sự báo hiếu đền đáp công ơn ấy lại hữu hạn. Hữu hạn là vì đời người quá ngắn, cho nên cả cuộc đời mà chưa thể báo hiếu xong. Lại nữa các pháp của thế gian không phải là pháp chí thiện, không đủ giá trị để đền đáp công ơn to lớn của cha mẹ. Có cái hữu hạn là sự thấy biết hạn hẹp của chúng sanh, tức là không thấy được công ơn trời biển của cha mẹ và không biết cách báo hiếu chí thiện. Đại sự nhân duyên có Phật ra đời để khai mở sự thấy biết cho chúng sanh trước khi khai mở tuệ giác giải thoát. Trước hết Phật dạy cho chúng sanh biết hiếu thuận với cha mẹ, biết làm tròn bổn phận của con người rồi mới dạy cho pháp giải thoát. Sách xưa có câu: “ Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên” ( muôn vạn quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Ngay sau khi thành tựu quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật Thích Ca đã qui định trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới rằng: “ Hiếu thuận đối với cha mẹ, Sư trưởng chư Tăng, đối với Tam bảo là sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự, đình chỉ mọi sự tội lỗi”. Thế nên, đạo Phật còn gọi là đạo Hiếu.
    Mỗi người đều phải thực hiện đạo Hiếu đó, phải tự báo hiếu cha mẹ mình chớ không thể trông chờ vào một ai khác. Kinh Tăng Nhất A hàm có ghi, khi Di mẫu của Đức Phật, tức Đại Ái Đạo Tỳ kheo ni nhập Niết Bàn, chư Thiên, Trời, Rồng… muốn thay Phật thực hiện nghi lễ trà tỳ, nhưng Đức Phật không cho phép. Ngài nói: “ Cha mẹ sinh con, cho con nhiều lợi ích, ân trọng dưỡng nuôi, bú mớm ẫm bồng, cần phải báo ân, không được không báo ân. Chư Thiên nên biết, chư Phật quá khứ, thân mẫu sinh thành đều diệt độ trước, sau đó chư Phật Thế Tôn đều tự cúng dường trà tỳ xá lợi. Giả sử chư Phật Thế Tôn ở tương lai, thân mẫu sinh thành cũng diệt độ trước, sau đó chư Phật đều tự cúng dường. Do phương tiện nầy biết Như Lai nên tự cúng dường cha mẹ, chẳng phải Trời, Rồng, Quỷ thần làm được”.
    Xem ra, ba đời chư Phật đều phải đích thân cúng dường xá lợi cha mẹ mình chớ không ai làm thay thế được việc báo hiếu. Chúng ta là hạng phàm nhân nên noi gương chư Phật. Vì lẽ đó, mỗi người trong chúng ta hãy tự báo hiếu cha mẹ mình theo đúng như lời Phật dạy, và đừng bao giờ vọng tưởng rằng cứ đến mùa Vu Lan thì ghi tên ông bà, cha mẹ rồi gởi tiền xin lễ kỳ cầu siêu trong chùa là làm xong hiếu sự.

    Chúng ta phải làm gì để báo ân cha mẹ?

    1. Đối với cha mẹ khi còn sống

    Châm lo miếng ăn, thức uống cho cha mẹ. Cha mẹ suốt đời tận tụy vì con. Ngày nay chúng ta được trưởng thành thì cha mẹ ta tóc đã điểm sương, sức khỏe hao mòn, thân hình tiều tụy, dung nhan tàn tạ. Giờ đây chỉ còn nương tựa vào con cháu lúc tuổi già xế bóng. Bổn phận làm con, chúng ta phải hiểu rõ công ơn và tâm tư của cha mẹ, nên hết lòng hầu hạ chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, từng viên thuốc khi trái gió trở trời, từng lời an ủi cha mẹ về tinh thần khi có yếu đau. Lẽ vô thường trong cuộc sống, một hơi thở ra không trở lại là đã ra người thiên cổ. Ta chớ quên câu “ Cha mẹ còn đây như tàn cây bóng mát, Cha mẹ mất rồi là ngơ ngác đời con”. Thế nên cha mẹ còn sống ngày nào, tùy theo khả năng hoàn cảnh mà ta phải lo chu toàn. Đừng bao giờ viện lẽ vì lý do kinh tế gia đình khó khăn chưa thể đền đáp, đợi khi giàu có sẽ trả hiếu sau. Thử hỏi chừng nào chúng ta giàu có liệu cha mẹ chúng ta còn sống được đến ngày đó chăng? Tốt hơn hết ngay từ bây giờ có gì dâng nấy dù ít hoặc không cao lương mỹ vị với tấm lòng thành kính biết ơn thì cha mẹ chúng ta sẽ vui vẻ an hưởng tuổi già. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Nếu ai biết chữ tu trì,
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
    Không làm để ở lung lăng,
    Chửi cha mắng mẹ lăng xăng thiếu gì.
    Ở cho biết nhượng biết tùy,
    Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.

    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc.

    Sách Gia Ngữ có câu chuyện về người con có hiếu: Thầy Tử Lộ vào chầu Đức Khổng Tử, nói rằng: “ Đội nặng đường xa, thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ rồi mới nghỉ. Nhà nghèo cha mẹ già, thì con làm nên thế nào hay thế ấy, không đợi có quyền cao tước trọng mới chịu làm. Ngày trước Do nầy ( Do là tên của Tử Lộ), lúc song thân còn cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm phải đội gạo để nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước, thì không sao được nữa!
    Đức Khổng Tử nói: “ Do, nhà ngươi phụng dưỡng cha mẹ song thân như thế rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất thì hết lòng thương tiếc”.
    Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta, phải hết lòng phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống. Khi cha mẹ qua đời phải hết lòng thương nhớ. Đó mới thực là đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Chểnh mảng bổn phận làm con đối với cha mẹ khi còn sống, đến khi cha mẹ mất rồi thì “làm mâm cao cổ đầy, làm văn tế ruồi” như thế cũng là bất hiếu.
    Làm con phải tôn kính cha mẹ như là tôn kính Đức Phật. Trong kinh Đại Tập, Đức Phật dạy: “ Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật”. Lời dạy của Đức Phật ở đây chỉ cho chúng ta thấy rằng “ Làm người phải kính thờ mẹ cha”. Dù biết rằng cha mẹ ta không thể nào bằng Đức Phật về mọi phương diện, nhưng Đức Phật muốn đề cao giá trị tôn kính của người con đối với Đức Phật và cha mẹ như là sự bình đẳng. Chúng ta tôn kính Đức Phật vì Ngài đem đến cho chúng ta lý tưởng sống cao quý, còn người đem lại cho chúng ta sự sống là cha mẹ. Cho nên chúng ta tôn kính phụng thờ cha mẹ chính là tôn kính cúng dường chư Phật vậy.
    Trong Cổ Học Tinh Hoa có câu chuyện: Dương Phủ, Lúc nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cày cấy để phụng dưỡng song thân. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Vô Tế đạo sĩ, ông bèn nói với song thân xin từ biệt ít lâu để đến hầu bậc Vô Tế.
    Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng, bảo ông rằng: "Được gặp bậc Vô-Tế chẳng bằng được gặp Phật”
    Ông hỏi: “Phật ở đâu?”
    Lão tăng nói: “Nhà ngươi hãy cứ quay trở về, gặp người nào mặc áo sắc như thế nầy, đi đôi dép kiểu như thế này, thì chính là Phật đấy!”
    Đương Phủ nghe lời quay trở về, đi đường chẳng gặp ai như thế cả. Khi ông về tới nhà, đêm khuya trời tối, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá, tức thì vội vã khoác chăn, đi dép ngược, ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông trông ra thì hình dáng Phật mà lão tăng đã nói chuyện cho ông nghe.
    Từ đấy ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật chẳng phải cầu kỳ đi mộ Phật đâu xa nữa.
    Câu chuyện trên đây là bài học về chữ “Hiếu”, hãy xem cha mẹ như là Phật, hãy phượng thờ cha mẹ như phượng thờ Phật. Phật có đầy đủ tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn nên mọi người thành kính phượng thờ là điều chính đáng. Cha mẹ là người sanh ra ta, nuôi dưỡng ta nên người hữu dụng, ta lại không thành kính phượng thờ hay sao! Phật xa, cha mẹ gần, bổn phận làm con phải biết kính thờ cha mẹ trước tiên “ Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên” và “ Phận làm người hiếu thảo noi gương” như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy.
    Biết tôn kính cha mẹ, còn phải biết vâng lời cha mẹ dạy bảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
    Vâng lời cha mẹ là gìn gia cang.

    Cha mẹ chúng ta có nhiều tuổi, có nhiều kinh nghiệm việc đời, đã dạy dỗ ta từ tấm bé cho đến lúc thành nhân. Tuy nhiên vâng lời cha mẹ cần phải xuy xét trước khi hành động chớ nên mù quáng. Đừng vì câu nói của Nho gia thời phong kiến mà đưa chúng ta đi vào con đường sai lầm đáng tiếc “ Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” hay” Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Ta phải xem ông vua đó như thế nào, minh quân hay bạo chúa để hành động cho hợp lẽ, có cần phải hy sinh tánh mạng để tỏ lòng trung thành hay không? Một ông vua vì dân vì nước thì sự hy sinh của chúng ta để bảo vệ Tổ quốc là hành động cao cả đáng làm. Còn trái lại là kẻ hoang dâm vô đạo ta lại phục tùng để nuôi dưỡng tội ác thì hóa ra ta là kẻ khờ dại hay sao!
    Vâng lời cha mẹ cũng vậy. Chúng ta phải xét lời dạy ấy có chính đáng hay không? Nếu nghe lời cha mẹ mà chết vì việc bất chính đưa đến hậu quả hiếu đâu chưa thấy mà có khi hại đến cha mẹ nữa. Cho nên theo tinh thần hiếu tử vâng lời cha mẹ không nên trái ý là điều tốt, nhưng cũng không
    phải làm theo việc mà làm theo lời chỉ.
    Sách “ Thuyết Uyển” có kể câu chuyện về thầy Tăng Sâm: Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa lở tay làm đứt mất ít rễ. Cha là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vào lưng. Tăng Sâm đau quá, ngã gục xuống, bất tỉnh một lúc mới hồi tỉnh lại.
    Khi về nhà, liền đến thưa với cha rằng: “ Lúc nãy con có tội để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo”.
    Nói xong lùi xuống vừa gảy đàn vừa hát, có ý để cha nghe tiếng, biết rằng mình không còn đau đớn gì nữa.
    Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện ấy, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào.
    Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội, nhờ bạn lại hỏi vì cớ gì mà ngài giận.
    Khổng Tử nói: “ Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì, ở luôn bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa; cha đánh bằng roi vạt thì cam chịu; đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm thờ cha liều mình để chiều cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá lỡ cha đánh quá tay mà chết mất thì có phải làm cho cha mắc tội không? Tội bất hiếu còn gì to hơn nữa!”.
    Tăng Sâm nghe lại chuyện, biết là mình nhầm lỗi, đến tạ tội Khổng Tử. ( Theo cổ Học Tinh Hoa)
    Người con có hiếu mà vì cha mẹ mình mà phải hy sinh tính mạng thì không có gì vượt quá. Liều mình cứu cha mẹ trong cơn nguy cấp là chí hiếu. Nhưng để cha mẹ đánh đập nhân cơ hội giận dữ, lỡ hại đến tính mạng thì chẳng những mình là bất hiếu mà còn mang tiếng làm hại cha mẹ vào tội bất tử nữa. Ông Tăng Sâm có hiếu nhưng chưa phải cách. Ông thuấn cũng hiếu nhưng biết cách hành xử.
    Kẻ làm con khi thấy cha mẹ làm trái, còn có bổn phận khuyên ngăn mà vẫn không bị tiếng bất hiếu.
    Đức huỳnh Giáo Chủ dạy: “ Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta điều hay lẽ phải ta ráng chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ”.
    Theo đây, chúng tôi xin nêu lên câu chuyện trích ra từ trong sách “ Tống Sử Doản Thuần truyện” về lời huấn dạy của cha mẹ như sau:
    Doản Thuần lúc còn nhỏ học với ông Trình Di. Thường tình ở đời người ta chọn khoa bảng. Đến kỳ thi Tiến sĩ, ông vào ứng thí. Trong đề thi có câu “ Chu Nguyên hựu chư thần” nghĩa là giết hết những người làm việc dưới thời Nguyên Hựu. Ông bỏ bài thi không làm và ra về.
    Khi về đến nhà, Doản Thuần thưa lại với thầy mình là ông Trình Di rằng: “ Từ nay con không đi thi Tiến sĩ nữa”.
    Ông Trình Di nói: “ Ngươi còn có mẹ già kia mà”.
    Doản Thuần về thưa chuyện thi cử với mẹ và nhắc lại cả câu thầy dạy học bảo.
    Bà mẹ nói: “ Ta muốn con lấy “ điều phải” mà nuôi ta hơn là lấy “ bổng lộc không ra gì” mà nuôi ta.
    Ông Trình Di nghe câu chuyện mà khen rằng: “ Giỏi thay một người mẹ như thế!”.
    Xem ra Doản Thuần sinh ra trong một gia đình có kỷ cương đạo nghĩa nên tư tưởng và hành động cũng nghĩ theo lẽ phải; bất bình trước đầu đề bài thi mà bỏ ra về. Tài năng là để phục vụ cho đất nước chớ không phải để phục vụ cho một tầng lớp nào.
    Bà mẹ của Doản Thuần là người biết trọng nghĩa hơn danh lợi. Câu nói của bà với Doản Thuần khiến cho Trình Di là một nhà hiền triết phải phục, phải khen thì chẳng phải là một tấm gương cho những bà mẹ có con thi để chỉ mong có chút danh phận và bổng lộc bất cần hay dở, thiệt giả ra sao. ( Theo Cổ Học Tinh Hoa).
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản”.
    Nếu cha mẹ chúng ta chưa hiểu nhiều về đạo, chúng ta nên tạo dịp thuận lợi nói với cha mẹ tin về luật nhơn quả, nên tích thiện trừ ác “ Tích thiện thì thường có phước dư. Bằng tích ác họa ương đeo đắm” hay “ Luật Trời báo ứng nhãn tiền. Khắp trong thiên hạ đảo huyền từ nay” như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy. Lời dạy nầy cho chúng ta thấy điều ác chưa phát sinh, ta phải giữ đừng cho phát sinh.
    Vì kinh tế, đôi khi cha mẹ tạo nghiệp bất thiện, hành động trái với lương tâm, làm nghề bất chính như nuôi điếm, bán á phiện, đầu cơ, cho vay, buôn rượu, làm hàng giả… Chúng ta phải kiên quyết thuyết phục cha mẹ đình chỉ dứt tuyệt. Điều ác đã phát sinh, chúng ta phải ngăn chặn không cho tiếp tục phát triển.
    Nếu cha mẹ chưa tin tưởng Phật pháp, chưa hiểu giáo lý của Phật, chúng ta nên tạo thuận duyên cho cha mẹ phát thiện tâm quy y Tam Bảo, giữ ít điều giới luật. Chính là ta đã tạo điều kiện cho cha mẹ ta phát sinh điều thiện.
    Khi cha mẹ chúng ta đã phát tâm bồ đề, chúng ta cố gắng khuyến khích tạo điều kiện để cha mẹ thiệt hiện hạnh bố thí, việc phóng sanh, trì giới, giữ chay theo lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Bố thí trì chay giữ giới mà.
    Phật đạo trau dồi tâm tánh lại,
    Giác Thuyền chuyên chở lúc can qua.

    Như vậy điều thiện đã phát sinh hãy cố gắng phát triển lên.

    2. Đối với cha mẹ lúc qua đời

    Cha mẹ qua đời là điều tất nhiên của con người trên quả đất nầy, không một ai ngoại lệ. Do đó người cư sĩ tại gia phải có bổn phận hiểu rõ lẽ vô thường ấy, để khi hữu sự chúng ta không nên than khóc làm hoang mang giao động tinh thần người sắp lìa khỏi cõi đời.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ hiểu rõ nỗi thống khổ trước cảnh biệt ly của con người khi kẻ đã ra đi người còn ở lại trong đoạn thứ sáu của tám cái khổ để mọi người ý thức rằng không ai tránh khỏi:

    Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
    Người mình thương bổng lại chia lìa.
    Khi khóc than nước mắt đầm đìa,
    Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót.
    Ở thế gian mấy ai thoát lọt,
    Nợ gia đình đeo đắm căn duyên.
    Cơn nguy nghèo thân thể truân chuyên,
    Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi.
    Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân ái,
    Đến xong đời để lại sầu ưu.
    Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
    Cũng chung chịu như người tăm tối.

    Lúc ông bà cha mẹ từ trần, chúng ta cần bình tỉnh niệm Phật để những tiếng niệm Phật ấy thấu vào tai người sắp mất, khiến cho tâm trí ông bà cha mẹ an ổn, không có những lo sợ khi sắp sữa bước sang thế giới khác. Chập tư tưởng cuối cùng của con người trước khi mất rất quan trọng, có thể định đoạt được tốt hay xấu trong kiếp cận lai. Trong kinh Đại Niết Bàn có nói: “ Khi Đức Phật còn trụ thế, trong ao Ca La có một con hến, nghe Đức Phật thuyết pháp liền bò lên bờ ẩn vào trong đám cỏ để nghe Phật giảng. Lúc ấy có một người chăn trâu đi ngang thấy số thính chúng vây quanh đức Phật, lấy làm lạ chạy đến xem. Vì muốn nghe pháp, người ấy vội vàng đạp nhằm con hến chết ngay tức khắc. Do tâm niệm lành trong khi đang nghe Đức Phật thuyết pháp, nó liền sanh lên cõi Trời Đao Lợi. Bây giờ, nó bèn nghĩ mình vốn là thân hến, nhờ nghe Đức Phật thuyết pháp mà được sanh lên cỏi Thiên, liền rời cung điện đến trước Đức Phật kính lễ bái tạ ơn đức của Ngài”.
    Về tang lễ, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy người cư sĩ tại gia như sau: “Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cỗ lệ; chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây: Bây giờ chúng ta đã quy y đầu Phật, thì phải do sự thành tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy tiền vàng bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và so sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước những người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn."
    Về việc cúng kiến ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỹ niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giãn tiện, ít lãng phí cứ làm”.
    Cách cầu nguyện cho người chết, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy như sau:
    Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (ba lần) và “ Nam Mô A Di Đà Phật” (ba lần)
    Vái: “Phật Tổ, Phật Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên… ( tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong linh được thoát chốn mê đồ, vãng sanh miền cực lạc!”. Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ chức sắp hàng chắp tay niệm: “ Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tam Thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu, đại từ đại bi tiếp dẫn vong linh A Di Đà Phật” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “ Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật).
    Nên lưu ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại siêu thoát anh linh của người chết.
    Sự cầu nguyện là do dự thành tâm của con cháu chớ không phải có tiền rước người ngoài mà đạt được hiếu thuận nhân nghĩa, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Phật từ bi độ tử độ sanh,
    Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
    Xá với phướng là trò kỳ quái,
    Làm trai đàn che miệng thế gian.
    Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
    Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
    Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
    Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.
    Thấy lạc lầm Đây động lòng son,
    Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.
    Ở dương thế tạo nhiều cảnh khổ,
    Xuống huỳnh tuyền Địa Ngục khảo hình.
    Tuy lưới Trời thưa rộng thinh thinh,
    Chớ chẳng lọt những người hung ác.
    Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
    Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm Đình.
    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.
    Hay:
    Gẫm trong thế sự nực cười,
    Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.
    Mình làm chử hiếu mới hay,
    Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
    Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
    Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.

    Khi ông bà cha mẹ qua đời, ngoài nghi lễ tang chế, chúng ta cần tu phước như tránh sát sanh, nên phóng sanh, bố thí, làm các việc từ thiện. Về sự cúng lễ nên đơn giản, đừng bày biện cổ bàn ăn uống, nhậu nhạt, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Luận xem thế sự thấp cao,
    Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.
    Bỏ bớt rình rang một khi,
    Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
    Là lời truyền giáo của Thầy,
    Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
    Còn mình muốn đãi làng thôn,
    Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.

    Cũng có những người lúc cha mẹ còn sống thì hất hủi “ Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”. Đến lúc mất thì lại than van kêu khóc ra chiều thương tiếc, họ không hiểu “ Đã chánh Đạo thêm còn sức khỏe. Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn. Vẹn mười ơn mới đạo làm con”. Họ lại tạo thêm nghiệp bất lành như giết thú vật cúng tế, làm đám linh đình, để người đời thấy như mình là người con hiếu thảo lo lắng chu toàn cho cha mẹ”. Nếu làm đám được về Cực Lạc. Thì giàu sang được trọn hai bề. Ỷ tước quyền làm ác ê hề. Khi bỏ xác nhiều tiền lo lót”. Cho nên có câu răn đời “ Sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên răn người đời:

    Ai ai hãy rán xét suy,
    Thương đời ta tỏ chuyện ni rõ ràng.
    Làm tuần trà rượu xình xoàng,
    Rồi thì chưởi lộn mà an nỗi gì?
    Dương trần làm chuyện dị kỳ,
    Tạo nhiều cảnh giả, chơn thì chẳng theo.
    Của tiền chớ có bỏ theo,
    Chết rồi tế lễ bò heo làm gì?
    Nếu ai biết chữ tu trì,
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
    Không làm để ở lung lăng,
    Chưởi cha mắng mẹ lăng xăng thiếu gì.
    Ở cho biết nhượng biết tùy,
    Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.


    Việc cúng bái cho người thân qua đời là truyền thống vốn đã có từ xưa như tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trước là coi như một hình thức báo hiếu, nói lên lòng thành kính tưởng nhớ người đã quá khuất, sau là nhắc nhỡ con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm ơn các bậc sinh thành. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã từng khuyên chúng ta:

    Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,
    Một ngày hiệp mặt lập nền từ bi.

    Nhà Phật quan niệm rằng chúng sanh loài hữu tình tiếp xúc được với thế giới bên ngoài là nhờ ở ba thành phần: Căn, Trần, Thức.
    Căn là các bộ phận trong cơ thể. Trần là đối tượng nhận thức của Căn. Thức là phần tâm thức vô hình, vọng khởi từ chân tâm dấy lên. Thức là nhịp cầu nối giữa Căn và Trần, nghĩa là Căn tiếp xúc với Trần mà chúng sanh nhận thức “ cảm” hoặc “thấy” được. Như vậy với một cơ thể đã chết là Căn đã ngưng hoạt động, coi như bộ ba đã mất một phần thì những sinh hoạt về vật chất như ăn uống coi như không thể tiếp tục được nữa.
    Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời dạy Đạo, Ngài đã khuyến hóa người cư sĩ tại gia có cái nhìn chân thật về việc quảy đơm cúng tế cho người quá cố “ Chết không ăn được”.
    Mẫu chuyện bên Thầy có kể như sau: Sau khi giải bày tường tận cho đồ chúng nghe về giáo lý nhà Phật, khi bàn đến việc quảy đơm cúng tế, Đức Huỳnh Giáo Chủ hướng về ông Lê Phát Khuynh bảo: “ Nầy ông Hương Trưởng, lúc mạnh ông ăn được mấy chén?”.
    Ông Khuynh vội vàng đáp: “Bạch Thầy, khi mạnh giỏi tôi ăn được bốn năm chén”.
    Đức Thầy lại hỏi: “Lúc đau ông ăn được mấy chén?”
    Ông Khuynh đáp: “Bạch Thầy lúc đau tôi ăn được một hai chén là quá lắm rồi”.
    Đức Thầy hỏi tiếp: “ Lúc chết ông ăn được mấy chén?”
    Với câu hỏi đột ngột, ông Khuynh lặng thinh không đáp, vì chẳng biết Đức Thầy muốn dạy gì.
    Đức Thầy nói: “Tôi hỏi ông thật đó”. Và Ngài lập lại một lần nữa.
    Ông Khuynh có vẽ lúng túng, gượng trả lời: “Bạch Thầy, lúc chết ăn sao được mà ăn”.
    Đức Thầy liền nhỏ nhẹ: “ Đúng thế ông à! Khi chết con người không bao giờ ăn được. Sở dĩ con cháu cúng giỗ là để tưởng nhớ đến công ơn bậc sanh thành dưỡng dục và để nhớ ngày chia cách đời đời. Tưởng câu: “ Sự vong như sự tồn” vậy thôi. Nhưng nếu sát sanh gà vịt nhiều thì linh hồn người chết khó được siêu thoát”.
    Ngài giảng luận một hồi lâu rồi vào trong, lát sau Ngài đi ra. Ngay lúc đó anh em đồng đạo bàn bạc nhưng chưa ngã ngũ được vấn đề. Thấy Đức Thầy ra, một đồng đạo đứng lên bạch: “ Thưa Thầy, chúng con đến ngày quảy đơm, muốn cúng phải làm sao, mong Thầy chỉ dạy.
    Đức Thầy đáp: “ Cúng ít tội ít, cúng nhiều tội nhiều”
    Có vị đồng đạo lẹ miệng: “ Không cúng được không Thầy?”
    Đức Thầy đáp: “ Không cúng sa địa ngục”.
    Lời Ngài như có vẽ quả quyết. Sau đó Ngài đọc bài thi: “ Báo Hiếu Đạo Nhà” cho tất cả mọi người nghe, và khuyên nên cúng chay:

    Quảy cơm cúng tế lệ xưa nay,
    Sát vật trâu heo đứa mị bày.
    Kẻ chết cho ăn suy khó hiểu,
    Người còn bạc đải lạ lùng thay?
    Cháu con báo hiếu theo nhà Phật,
    Cha mẹ qua đời thủ lễ chay.
    Trong sạch nghĩa nhân vầy mới đúng,
    Hồn linh siêu thoát nhẹ cao bay.

    Xưa có ông Trưởng Giả, ông này bình sanh thường làm việc thiện, rất tin luật nhơn quả. Khi lâm trọng bịnh ông gọi các con lại dặn: Khi cha chết, các con phải nhớ cúng chay từ ma đám tuần, từ quảy đơm, đừng bao giờ cúng mặn cho cha.
    Khi ông qua đời, con cháu y lời cúng chay, đến thất thứ bảy, chúng bàn với nhau, cha mình sống không ăn chay trường, nay chết mình cứ cúng chay hoài làm sao cha ăn ngon miệng. Hơn nữa mình mời bạn bè đến mà cứ cúng chay hoài, người ta nói mình hà tiện, cúng cha không dám cúng thịt cá. Thôi còn một tuần mình làm heo cúng cha, trước cúng, sau mời bà con đến để đãi đằng. Thế là họ làm heo, gà, vịt cúng tuần thất cho ông rất linh đình.
    Còn đang ăn uống, bỗng có đứa bé độ mười tuổi dẫn con trâu đến ngay trước cửa, tự nhiên con trâu ấy ngã ra chết. Đứa bé bèn lấy nắm cỏ đút vô miệng bảo: “ Ăn đi trâu, ăn đi trâu!”.
    Thấy hành động kỳ lạ, những người trong nhà liền nói: “ Thằng nhỏ này bộ điên rồi sao chớ, con trâu đã chết rồi cứ đút cỏ, kêu ăn hoài, làm sao ăn được?”.
    Đứa nhỏ nói: “ Trâu tôi mới chết còn nóng hổi, tôi cho nó ăn cỏ, các ông nói tôi điên, còn cha các người đã chết 49 ngày rồi mà các người còn đòi cúng cho ông Trưởng giả ăn, như vậy các người mới là điên hơn tôi chớ!.
    Con ông Trưởng giả hỏi: “ Ê, mầy ở đâu, con nhà ai mà dám nói tụi tao điên vậy?”.
    Đứa nhỏ đáp: “ Ta là Trưởng giả, cha của các ngươi đây. Bởi các ngươi không nghe lời dạy của ta mà sát sanh cúng kiếng, khiến cho ta phải chịu tội khổ, nên ta hiện đến để cho các ngươi biết, các ngươi là con bất hiếu, chớ không phải là báo hiếu ta đâu. Nói xong, con trâu và đứa bé biến mất.
    Bây giờ các con ông Trưởng giả đều sám hối phát tâm tu hành.
    Nhân gian có câu “ Tử thì táng”. Có nhiều hình thức mai táng khác nhau như địa táng, hỏa táng, thủy táng, điểu táng, huyên táng. Thủy táng bỏ xác chết xuống nước cho cá ăn. Điểu táng là đem xác chết lên núi cao cho chim ăn. Huyền táng là táng treo lên vách núi. Riêng dân tộc Việt Nam, chúng ta chỉ thấy có hai cách địa táng và hỏa táng khi có người thân qua đời.
    Phật giáo không có chủ trương hỏa táng, vì là một tôn giáo tự do, nên rất uyển chuyển không có luật lệ cứng rắn hay bắt buộc trong việc an táng. Tuy nhiên tín đồ theo Phật giáo Nam Tông thường thi hành theo nghi thức hỏa táng khi có người thân chết.
    Địa táng hay hỏa táng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, từ cảm nhận của các thành viên trong gia đình đến môi trường sống ở chung quanh, quan niệm cá nhân về sự sống và sự chết của con người. Điều quan trọng là việc chọn lựa nầy do quyết định của người qua đời khi còn sống có để lại di chúc. Còn như nếu không thì tùy vào việc bàn thảo trong gia đình và có quyết định chung.
    Nói cách khác, Phật Giáo không có chủ trương địa táng hay hỏa táng. Việc chọn lựa phương cách an táng là do quyết định của gia đình hay lời dặn dò của người qua đời khi còn sống.
    Riêng về thủy táng, điểu táng, huyền táng, chúng ta thấy hầu hết các nước trên thế giới ít khi áp dụng ngoại trừ trường hợp đặc biệt nào đó.

    C. BỔN PHẬN CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CÁI

    1. Dạy con biết tích thiện trừ ác

    Cha mẹ và con cái là mối dây thân tình trong linh hồn gia tộc. Cha mẹ có một niềm thông cảm dạt dào không bờ bến trước sự sinh trưởng của con cái, dầu cho phải nhẩn nhục, biết bao sự vất vả, ô uế hay khinh bỉ, trong khi ấu thơ cũng như trong lúc trưởng thành. Cha mẹ chỉ dốc hết cả một lòng thương yêu chân thật và cố gắng lo toan gây dựng cuộc sống tương lai cho con cái.
    Sanh con ra, cha mẹ là người trực tiếp gần gũi và gương cha mẹ là bài học vở lòng cho con trẻ học tập. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khai mở cho chúng ta thấy:

    Sách Thánh Đạo ghi trong Tam tự,
    Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
    Bởi lớn lên tập nhiểm lợi danh,
    Nên tật xấu che mờ thiện tánh.
    Thiếu giáo dục thiếu thêm đức hạnh,

    Vì đầu óc còn ngây thơ non nớt, tư tương trong sạch, tinh thần vô tư như tờ giấy trắng. Cha mẹ phải khéo nhượm màu đạo đức đừng để chúng hoen ố xấu nhiễm sau khó tẩy xóa. Tư tưởng của đứa trẻ giống như thửa ruộng màu mỡ, cha mẹ sớm gieo hạt giống tốt, đừng để cỏ dại mọc sau nầy khó diệt sạch. Nếp sống hàng ngày của cha mẹ sẽ quyết định phần lớn đời sống tinh thần cũng như vật chất con trẻ sau nầy như lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ “ Trung Dung khuyên đó noi gương Khổng. Hiếu hạnh dạy con chớ mến lầu”. Nếu cha mẹ bê tha giáo dục con trẻ, cũng như không cẩn thận, vô tình cha mẹ dạy con những tính xấu mà không hay biết. Như khi con có lỗi lầm, cha mẹ giận dữ rầy la lời thô lỗ. Ngôn ngữ đó, phải chăng cha mẹ đã dạy chúng tính sân hận và lời tục. Đối với bậc làm cha mẹ, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khuyên dạy:

    Dạy rồi những chuyện đức ân,
    Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.
    Lỗi lầm chớ có hùng hào,
    Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
    Đem lời hiền đức tốt tươi,
    Đặng mà giáo hóa vàng mười chẳng hơn.
    Hay:
    Cũng đừng gây gổ giận hờn,
    Cho con bắt chước sạ dươn mới là.

    Nguyên nhân của sự gây gổ bất hòa là do sự chấp chặt cái ý kiến, cái suy nghĩ, cái sở học, cái hiểu biết của mình luôn luôn là đúng, ai làm ngược lại , ai nói ngược lại, ai nghĩ ngược lại đều là sai hết! Chỉ có mình là đúng nhứt mà thôi! Cuộc sống có an lạc và hạnh phúc khi nào chúng ta phá bỏ được sự cố chấp. Một gia đình hòa thuận an vui, chúng ta cần phải thực sự hiểu nhau, thông cảm nhau mới có thể thương yêu nhau thực sự bằng tinh thần vị tha.
    Cách dạy con của mẹ thầy Mạnh Tử xưa nay hiếm có. Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào huyệt chôn người chết, thân nhân khóc kể thảm thương, về nhà cũng bắt chước. Bà thấy thế nói: “ Chỗ này không phải chỗ cho con ta ở được”. Bèn dọn nhà ra gần chợ.
    Thầy Mạnh Tử ở gần chợ thấy người ta buôn bán lăng xăng, về nhà cũng bắt chước bày trò buôn bán. Bà mẹ liền dọn nhà đến gần trường học.
    Thầy Mạnh Tử ở gần trường học thấy trẻ con hàng ngày, đua nhau học văn, tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước cặp sách vở, tập lễ phép. Bây giờ bà mẹ mới hoan hỉ nói: “ chỗ này là chỗ cho con ta ở được”.
    Một ngày nọ, thầy Mạnh Tử thấy người hàng xóm giết lợn, về nhà hỏi mẹ: “người ta giết lợn để làm gì vậy mẹ?”. Bà nói đùa: “ Để cho con ăn đấy”.
    Nói xong, bà nghĩ lại hối tiếc: Ta đã lỡ miệng nói dối con, phải chăng ta đã dạy nó nói dối sao! Liền bà đi mua thịt lợn về làm món cho con ăn.
    Một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt vải, trông thấy liền cầm dao cắt đứt tấm vải bà đang dệt trên khung cửi và nói: “ Con đang đi học mà bỏ học thì cũng như ta đang dệt tấm vải nầy mà cắt đứt đi vậy”.
    Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử không dám bỏ học nữa, chuyên cần học tập, về sau trở thành một bậc đại hiền triết, người đời sau tôn kính Ngài như là vị Á Thánh sau Đức Khổng Tử. Thế nên giáo dục con trẻ từ trong gia đình thật là quan trọng và vai trò của cha mẹ là tấm gương sáng hay mờ cho tương lai con trẻ sau nầy.
    Phương ngôn có câu “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Cho nên muốn giáo dục con cái, trước hết là cha mẹ phải biết tu thân, nêu gương sáng cho con thấy. Muốn con hiếu hạnh, cha mẹ phải ăn ở hiền lành. Muốn con xa lánh đường ác cha mẹ đừng làm điều bất lương phi nghĩa. Hàng ngày cha mẹ thể hiện được việc làm cao đẹp như không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa..., luôn làm điều ích mình lợi người, tự nhiên đức độ ấy cảm hóa con cái, đôi khi cha mẹ không cần đến lời nói hoặc la rầy mà con trẻ phục tùng kính nể, đó là “ dĩ đức hóa nhân”.
    Là cư sĩ tại gia, cha mẹ nên cố gắng dành một chút ít thì giờ hướng dẫn con trẻ nghe kệ giảng, đọc sách Thánh Hiền để mở mang kiến thức hiểu biết về việc tu thân, tích đức. Cha mẹ cũng nên gieo vào tư tưởng của con trẻ về công đức của Đức Phật, đức tính từ bi hỉ xả, như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Làm cho đời hiểu rõ thinh danh,
    Công đức Phật từ bi vô lượng.

    Hiểu về giáo lý nhơn quả, luân hồi, để huân tập các điều lành. Nên tập cho con trẻ trong gia đình có những ngày chay, ít nhất mỗi tháng bốn ngày. Vì ăn chay là để nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng đối với muôn loài chúng sinh. Điều này cha mẹ nên giảng giải rõ sự lợi ích ăn chay của ngày đó để con trẻ hiểu được vui vẻ thực hành.
    Nếu có điều kiện, cha mẹ cũng nên dẫn dắt con cái đến các nơi như viện dưỡng lão, viện tế bần, viện cô nhi...để chúng chứng kiến tận mắt cảnh cô khổ, thiếu tình thương của kẻ bất hạnh. Từ đó tâm tư của chúng phát khởi lòng từ bi, thương xót người khốn khổ, cũng là bài học về nhân quả thực tế.
    Sự tu thân của cha mẹ rất cần thiết, không những lợi ích cho bản thân mà còn để lại âm đức cho con cháu sau này. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Nuôi tằm ắt được nên tơ,
    Nên ta làm phải phước hờ theo bên.

    Cũng như ta trồng cây sinh ra qủa ngọt. Sau một thời gian cây nầy trổ hoa kết trái thì chính ta là người hưởng trước. Sau đời ta, con cháu vẫn thừa hưởng cái lộc từ ta để lại. Phương ngôn có câu: “ Ông cha kiếp trước khéo tu. Bây giờ con cháu võng dù nghênh ngang”.
    Sống trong thế gian này, mọi vật thể đều bị chi phối bởi định luật nhơn quả. Ta thử nghiệm xét lại về loài người, có biết bao bậc hiền tài, người có quyền thế, kẻ có gia quyến hưng thịnh, hiển vinh, hầu như xuất thân từ gia đình hiền lương có tu nhân tích đức cả, thế nên Euripides đã nói “ Cao quý sanh con cao quý”. (Noble fathers have noble children).
    Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực bố thí mà không mong cầu gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bảo rằng: ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau phát quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ.
    Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.
    Cha mẹ nào chẳng muốn có tài sản để lại cho con cháu. Mà người hiểu đạo lý thì có lối suy nghĩ khác. Họ vừa biết lo tạo dựng tài sản để nuôi sống mà còn tạo cái kho tàng phước đức, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Giảng kinh đọc tụng đêm thanh,
    Ấy là châu ngọc để dành ngày sau.

    Cái kho tàng phước đức mới là bảo đảm không sợ ai lấy cắp, không bị con cháu phá tán, vì có câu “ có đức mặc sức mà ăn”.
    Theo quan niệm của Nho giáo, người ở đời phải lấy việc tu thân làm gốc, như Đức Khổng Tử nói: “ Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Hành động hay đẹp của cha mẹ hàng ngày sẽ cảm thụ, thấm nhuần được con cái noi theo.
    Tích âm đức và giáo dục con cái theo đường lối của Đức Phật dạy, tạo vốn kiến thức nghề nghiệp cho chúng thì sau này tự chúng sẽ làm nên sự nghiệp với bao nhân tốt mà cha mẹ đã gây tạo vun bón. Hạt giống lành đã gieo mà biết lo vun bón chăm sóc thì có ngày sẽ trổ quả thơm ngon, như Beethoven nói: “ Hãy truyền đạo đức cho con cái bạn, chỉ có đạo đức mới làm cho chúng sung sướng chớ không phải vàng bạc”. Thử nghĩ xem, một khi con cái thiếu tài, kém đức, không còn luân thường đạo nghĩa mà cha mẹ cứ khổ công ngày đêm lo làm giàu để tiền của lại cho chúng, thì chúng có giữ dược không? Đó chỉ tạo thêm cho chúng tính ỷ lại, lười biếng, hoang phí mà lại còn tạo thêm tội lỗi nữa một khi cha mẹ qua đời. Cũng vì cái tài sản đó khiến chúng trở nên bất hòa, tranh giành, thù ghét lẫn nhau, chia rẽ tình cốt nhục.
    Bàn về việc làm giàu để lại cho con cháu, chuyện kể như vầy: Sơ Quảng đời nhà Hán, làm quan, trí sĩ về hưu, được vua ban cho nhiều vàng bạc. Con cháu thấy thế, nhờ người lớn tuổi trong họ hàng đến nói với cụ nên lập nhiều cơ nghiệp. Một hôm nhân lúc thư nhàn, những người già cả đem câu chuyện làm giàu cho con cháu thưa lại với cụ, thì cụ nói rằng: “ Tuy ta già lão, há lại không nghĩ đến con cháu hay sao? Hiện tại ta cũng có ít ruộng nương, cửa nhà cũ của tiền nhân để lại. Con cháu ta mà chăm chỉ vào đấy thì cũng đủ ăn, đủ mặc bằng người được rồi. Nếu bây giờ ta lại làm giàu thêm cho chúng để cho thừa thải, dồi dào, thì là ta chỉ làm cho chúng lười biếng thêm ra thôi. Người giỏi mà sẳn có của nhiều thì kém mất chí hay, người ngu mà sẵn có của nhiều thì càng thêm tội lỗi. Vả chăng của cải mà chứa nhiều thì chỉ làm cho người ta oán. Ta đã không có gì giáo hóa được con cháu ta thì ta cũng không nên làm cho chúng có nhiều tội lỗi và để thiên hạ ai oán chúng cho thêm phiền. Những của cải ta đang có đây là ơn của vua trên hậu đãi người bầy tôi già lão, ta chỉ muốn cùng cả anh em, bà con, họ hàng, làng nước cùng hưởng chung cái ơn ấy để trọn tuổi trời, chẳng cũng là phải ư?”. Người trong họ nghe nói thế, ai nấy đều cảm phục ( theo Hán thư Sở Quảng truyện).
    Điều mà cha mẹ cần nghĩ đến là không cần để lại nhiều tiền của cho con cháu, chỉ là lo cho chúng đủ ăn, đủ mặc, giáo hóa chúng nên người biết làm ăn, biết lo nghĩ, biết tiến thủ mà thôi. Cái quan trọng là biết chi cùng cái có dư vào việc hữu ích cho tha nhân cùng hưởng từ trong họ hàng đến ra ngoài làng nước, tức là ta để lại cái đức vô hình và vô giá cho con cháu sau nầy. Người ăn thì còn, con ăn thì hết. Lo cho con cháu như vậy không phải là cách biết lo xa và lo sâu hay sao? Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Của dư cho mượn mới là,
    Hảo tâm bố thí ngọc tòa được lên.
    Chê nghèo giàu nọ đâu bền,
    Chi bằng bố đức lập nền từ bi.
    Hay:
    Khá thương những kẻ bần cùng,
    Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.
    Cũng như:
    Khuyên người hữu phước giàu sang,
    Mau mau làm phước làm doan cho rồi.

    Trái lại, nếu cha mẹ làm những việc thất đức, hậu quả xấu cũng không lường được. Họa ương không những cha mẹ gánh chịu trong đời mà còn cho con cháu sau nầy, cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.
    Ngài cũng cho biết:
    Bây giờ nạn ách còn vương,
    Cha làm con chịu nhiều đường chông gai.


    Tục ngữ có câu: “ Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” cũng cùng ý nghĩa như trên.
    Chúng ta nên sáng suốt nhận ra điều hiếu đạo trong kiếp sống hiện tại của bậc làm cha mẹ cũng như bổn phận làm con nối tiếp nhau từ kiếp này sang kiếp khác, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “ Còn đền ơn tổ tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tông đường” Rồi Đức Huỳnh Giáo Chủ dặn dò tiếp:

    Trả cho rồi nợ tiền khiên,
    Đến ngày hiệp mặt kiểng tiên vui vầy.
    Hay:
    Trả xong món nợ lầng khâng,
    Thoát vòng cương tỏa pháp thân nhẹ nhàng.

    Muốn được như vậy chúng ta phải tinh tấn tu hành cho đến ngày thành công viên mãn, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Rán tu đắc đạo cứu cửu huyền,
    Thoát chốn mê đồ đến cảnh tiên.
    Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,
    Cho ta hình vóc học cơ huyền.

    Làm như thế chúng ta có hai điều lợi lạc, vừa thành Đạo quả vừa báo đáp ơn sâu của tổ tiên, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ bảo:

    Nợ nần tiên tổ tạo gây nên,
    Con cháu ngày nay phải báo đền.
    Đành thế nhưng vừa lời với vốn,
    Lẽ gì chịu dạy trả ngông nghênh?

    Theo luật nhơn quả, ai ăn nấy no, ai làm nấy chịu. Tại sao chỗ cha mẹ làm bắt con cháu phải gánh chịu hậu quả. Điều nầy không có gì lạ cả. Vì sự liên quan nhân quả tiền kiếp với nhau. Con người khi giả từ kiếp sống nầy, tuy thân tứ đại tan rả, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại bất diệt, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất.

    Trải qua thời gian tồn tại có một cái thân trung ấm. Có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết nói thân trung ấm tồn tại cho đến khi nào tái sanh không xác định thời gian. Có thuyết nói thân trung ấm tồn tại có bảy ngày. Thuyết được nhiều người chấp nhận là thuyết “ Đại Tỳ Bà Sa luận”, cho rằng thân trung ấm tồn tại trong 49 ngày. Vì vậy mà có tục lệ trai đàn, làm công đức bố thí để siêu độ vong linh trong thời gian 49 ngày sau tang lễ. Cúng vong linh trong 49 ngày đã trở thành một truyền thống tín ngưởng Phật giáo trong dân gian.
    Căn cứ vào kinh luận, tất cả chúng sanh ở cõi dục giới và sắc giới, ngoài chúng sanh cực thiện hay cực ác ra, đều có thân trung ấm. Trong giai đoạn thân trung ấm, chúng không thuộc bất cứ cõi sống nào. Nhưng khi đã có nhân duyên thì chúng tái sinh, hoặc theo hình thức thai sinh hay hóa sinh.
    Tùy theo nghiệp lực của mỗi người phải tái sinh chậm hay mau. Nếu người có nghiệp chướng nặng nề, gây nhiều tội ác, lập tức đọa vào cảnh giới đau khổ nơi ba đường ác ( ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục). Còn ai có đủ nghiệp lành, có tu nhơn tích đức sẽ sinh về cảnh giới tốt đẹp an vui, như là Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Hung dữ ác nhơn về Địa ngục,
    Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên.

    Khi ấy thần thức lơ lửng trên không và thấy những cảnh giới mà nó ưu thích do nghiệp lực xui khiến và dẫn dắt. Nếu người ấy gây nhân bất thiện, gặp hai thân nam nữ giao hội, tạo ra sức hấp dẫn với nó. Chính đôi vợ chồng này cũng đã tạo ra nhiều tội lỗi, tự nhiên nó cảm thấy thích hợp bèn đi đến nhập vào thai bào của người nữ để cùng với gia đình nầy chịu chung quả xấu với nhau, phù hợp với câu “ Đồng thanh tương, ứng đồng khí tương cầu”. Như con phù du lại thích ánh sáng của bóng đèn, quyết chung vô đấy để rồi chịu chết khô. Nếu nó biết đây là ánh lửa thiêu đốt nó, thì nó không ngu dại gì mà nhảy vào. Đó cũng chính là cái nghiệp chiêu cảm, coi ánh sáng của đèn là chỗ sống lý tưởng của nó. Khi biết đó là lửa thì thân xác đã ra tro.
    Tất cả chúng sanh, một khi đã đi tái sinh đều có nhân duyên quả báo với nhau cả. Ta thử nghĩ lại xem, tại sao người mới sanh ra đời lại được gặp cha mẹ giàu có sung sướng, cuộc sống đầy đủ ấm no. Lại có kẻ mới sanh ra phải chịu cảnh khổ sở cơ hàn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc? Liên hệ nhân quả nghiệp báo giữa cha mẹ với con cái rất phù hợp và tương xứng. Người tạo nghiệp lành sẽ sinh vào nhà cha mẹ biết tu nhân tích đức để cùng nhau hưởng quả báo tốt đẹp. Còn người tạo nghiệp bất thiện, sanh vào gia đình có cha mẹ hung dữ để cùng nhau chịu quả báo xấu.
    Cha mẹ nào cũng muốn mình được ấm no, sung sướng, an lạc, con cháu mình được phú quý vinh hiển. Phương ngôn Tây có câu “ Muốn là được” (Vouloir c’est pouvoir), nhưng người ta lại “tri hành” không hợp nhất, chỉ biết muốn mà không làm, không chịu tìm biết nguyên do để đạt đến ước muốn đó. Muốn mình xinh đẹp, muốn giàu, sang, muốn con cháu nên danh nổi tiếng, rồi muốn sau khi chết được về cảnh giới an lành, ngay cả muốn về cỏi Phật nữa. Bao nhiêu kinh giảng đều khuyên họ nên gieo nhân lành, làm phước thiện, bố thí, ăn chay niệm Phật thì họ làm ngơ không làm “ Lời lành mắt lắp tai ngơ. Đua theo vật chất hẵng hờ đàng tiên”. Nhân tốt không gieo mà lúc nào cũng mong ước hưởng quả tốt. Lại như người có đất không chịu trồng cây, rồi lại muốn có cây mọc lên, có trái ngọt để hưởng. Thật là không tưởng!
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy bảo chúng ta một cách rõ ràng là con đường đưa đến quả vị Phật là phải:

    Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.

    Sự có mặt của cha mẹ và con cái hiện đời đều có sự liên hệ nhân quả tiền kiếp. Bởi vậy bổn phận của cha mẹ cũng như bổn phận của con cái là phải biết tu nhân tích đức. Tu là bổn phận chớ không phải là việc mơ hồ vô căn cứ, ta cần phải có trí tuệ để phân minh hai đường tà chánh, vì lẽ đó Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng ta “ Phận tu hành tai gác mặt lì. Chịu cay đắng tu hành mới giỏi”, cũng như:

    Tu hành đâu kể nhục vinh,
    Ta làm bổn phận ngạo khinh mặc đởi.

    Ngài cũng vạch đường chỉ lối cho chúng ta rán phụng hành:

    Vinh hoa cũng phải rán công phu,
    Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù.
    Kiếp trước ông cha làm đức cả,
    Ngày sau con cháu rán lo tu.


    ***​
    Võng dù sao chẳng rán mà tu
    Gặp đặng người xưa phước bổ bù
    Bởi trước giữ gìn nền đạo đức
    Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu

    Bồ Đề Đạt Ma Sư Tổ dạy trong “ Hạnh Tùy Duyên” nhu sau: “ chúng sanh vốn không có ngã, thảy do nghiệp chuyển thành, đồng nhận khổ vui đều do duyên sanh. Nếu người được quả báo thù thắng giàu sang, có tiếng tăm..., đó là do cái nhân trước kia ở đời quá khứ đã tạo mà cảm nên, nay mới có được, khi duyên hết cũng trả về không, có gì vui mừng? Hoặc được hoặc mất cũng chỉ tùy duyên, tâm không thêm bớt, gió mừng chẳng thèm động, thần thuận với đạo”.
    Câu chuyện sau đây làm rõ thêm ý nghĩa trên: Thời Đức Phật, có một nữ thí chủ tên Tỳ-Xá-Khư. Bà được gã về làm dâu cho một gia đình giàu sang có tiếng. Một hôm, bà đứng quạt hầu người cha chồng ngồi ăn món cháo thượng vị. Lúc đó có một vị Tỳ kheo vào khất thực. Tỳ-Xá-khư vội đứng qua một bên cho ông cha chồng nhìn thấy Trưởng lão, nhưng ông vẫn giả lơ như không thấy, cứ cúi xuống ăn. Tỳ-Xá-Khư liền thưa với Trưởng lão: “ Xin cứ đi vì cha chồng tôi đang ăn thức ăn thiu!”. Ông nầy nghe con dâu dám nói như thế bèn nổi giận bảo dẹp mâm cháo và ra lệnh đuổi Tỳ-Xá-Khư ra khỏi nhà. Không ai dám hé môi, vì gia nhân và tì nữ đều thuộc người của cô. Từ đó, cô liền thưa với cha chồng:
    - Thưa cha, lý do đó không đáng để con bị đuổi đi. Con không phải là cô gái tầm thường ở ngoài đường xó chợ được cha lượm về. Con gái nhà gia giáo, có cha mẹ đàng hoàng, không thể rời nhà chồng bởi lý do đó. Ngoài ra, cha con có sắp đặt cho con tám người bảo hộ, để khi có lỗi họ có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề. Xin cha cho mời tám người bảo hộ này đến phân xử.
    Tám vị ấy được mời đến, ông cha chồng bảo:
    - Địa vị của tôi như vầy, mà cô ta lại bảo tôi ăn cháo thiu. Các ông hãy buộc tội cô và đuổi ra khỏi nhà nầy.
    Các gia chủ bảo hộ kia hỏi:
    - Có phải thế không thưa cô?
    Tỳ-Xá-Khư dáp:
    - Lời tôi nói, nghĩa không đúng hẳn như thế. Một bửa nọ có một vị Tỳ kheo dừng chân trước cửa nhà. Cha chồng tôi đang dùng cháo ngon với mật, làm ngơ hoàn toàn không muốn nhìn đến Trưởng lão. Tôi thiết nghĩ ông không có tạo được phước đức mới hiện đời, chỉ hưởng phước đức cũ của đời trước. Do đó tôi nói với vị Tỳ kheo là ông đang ăn đồ cũ. Vậy tôi có lỗi gì?
    Các gia chủ bảo hộ đều đồng ý là Tỳ-Xá- Khứ nói đúng.
    Rõ ràng, hiện thời tuy có phước mà chỉ có lo hưởng không tạo thêm nhân mới giống như ăn cháo thiu ngày hôm qua chớ gì! Phước đó cũng vô thường, không còn mãi, hưởng hết họa sẽ tới. cổ đức có câu: “ Có phước không nên hưởng”. Trong hiện đời có biết bao người đang sống giàu sang, quyền thế, bỗng dưng tai nạn đến tiêu tan sự nghiệp đi đến tù tội…, đây là sự thật hãy nên nghiệm xét lại kỹ.
    Người đi trên đường đạo phải xem đó và tự cảnh tỉnh mình. Gặp khổ đau không buồn trách, gặp vui sướng không kiêu căng. Luôn nuôi dưỡng tâm lành, tạo nghiệp lành. Đốn cây lớn phải lo trồng cây nhỏ cũng cùng ý nghĩa với tre tàn măng mọc là vậy.

    2.Tìm chỗ kết hôn cho con cái

    Sinh tồn là truyền thống tự nhiên của con người. Con cái khi tuổi thanh xuân đến độ, đòi hỏi ở nơi cha mẹ về vấn đề thành lập gia thất, ngoại trừ những người thoát tục. Trong trường hợp đó cha mẹ không thể để mặc cho con trẻ. Cha mẹ phải ra công tìm hiểu tâm lý con cái, trai hay gái nào xứng đáng sánh đôi đem lại hạnh phúc lâu dài cho chúng. Khi hai bên đã ý hiệp tâm đồng bằng sự hiểu biết chân thật chứ không bằng sự lừa lọc, cám dỗ, mù quáng, áp bức, cha mẹ mới tùy theo hoàn cảnh, phong tục mà thành lập hôn lễ.
    Đây là lời khuyên của Đức Huỳnh Giáo Chủ cho các bậc làm cha mẹ khi con đến tuổi kết hôn:
    “ Bổn phận của cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan sát tường tận về đức tính đôi trai gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng vì như thế làm cho khốn khổ về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự do mà sự thiếu kinh nghiệm làm cho đời chúng phải hư hỏng.
    Nếu bỏ tục lễ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông gia hai bên không nên làm quá khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh đình tốn kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ”.
    Không có điều khoản nào trong giới luật Phật giáo bắt một người phải có vợ hay có chồng hoặc sống độc thân suốt đời. Trong “ Kim Cổ Kỳ Quan”, ông Nguyễn Văn Thới chỉ nói:
    Tu quốc vương có vợ có chồng,
    Có con có cái nối dòng Tiên bang.

    Cũng không có khoản nào nói người Phật tử phải sanh con hay không được sanh con hoặc hạn chế số con. Phật giáo cho cá nhân được tự do quyết định tất cả những vấn đề thuộc hôn nhân và cho rằng hôn nhân không phải là một bổn phận đạo giáo. Hôn nhân là một quy ước của xã hội đồng thuận theo một khế ước sống chung giữa hai người do con người tạo ra vì mục đích an lạc, hạnh phúc của con người.
    Từ xưa đến nay, hôn nhân vẫn được tổ chức tại nhà. Lễ thành hôn tổ chức tại chùa là điều rất mới lạ đối với đạo Phật ở Việt Nam. Có người cho rằng việc cử hành hôn lễ trước bàn thờ Phật là đi ngược lại với mục đích giải thoát của đạo Phật. Riêng trong giáo lý Phật giáo Hòa Hảo, người tín đồ không thấy nói về cử hành hôn lễ trước ngôi Tam Bảo và Đức Huỳnh Giáo Chủ có tự than:

    Tủi phận môn đồ quá tối tân,
    Tủi cuộc hôn nhơn bày trước Phật.

    Đạo Phật là tôn giáo hòa bình không kỳ thị chủng tộc và kỳ thị tôn giáo. Vì lẽ đó Phật giáo không bắt buộc tín đồ, trước khi kết hôn với người nào, phải thay đổi tín ngưỡng của họ. điều kiện hôn nhơn không phải là tín ngưỡng tôn giáo, mà là tâm đồng ý hiệp giữa hai bên, là hạnh phúc của đôi trẻ. Người tín đồ theo đạo Phật với ý thức tự giác và tự nguyện, tôn trọng tín ngưỡng và niềm tin của người khác, không bắt buộc người chung sống với mình phải từ bỏ tôn giáo của họ nếu không phát xuất từ tự giác và tự nguyện.
    Quan niệm “ đạo của ai nấy thờ” là quan niệm rất công bình và hợp lý cho những cuộc hôn nhơn khác tôn giáo, ngay cả những đứa con sau này khi chúng có đủ trí khôn để cho chúng tự do lựa chọn tôn giáo nào mà chúng tín ngưởng.
    Tôn giáo ra đời là để giáo dục con người hướng đến hạnh phúc trọn vẹn, chỉ tại con người bị bản ngã làm kẹt vào những quan niệm. Hai người khác đạo lấy nhau, nếu muốn có hạnh phúc thì phải vượt lên những quan niệm đó. Tuy khác truyền thống tôn giáo, khác tư tưởng mà con người sống với nhau đẹp đẽ, chắc chắn là xã hội không còn xung đột, hận thù, chiến tranh. Chúng ta sẽ sống an lạc, hạnh phúc hơn trong tinh thần tự do, cởi mở vì không chấp trước bất kỳ tư tưởng nào. Là Phật tử hay tín đồ của tôn giáo khác hãy giữ những giá trị truyền thống sẵn có và luôn luôn mở rộng đón nhận giá trị truyền thống của người bạn đời.


     
  4. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    CHƯƠNG III


    A. Cầu nguyện

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng thiêng liêng ban phước lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xã thân tu tỉnh”.
    Hay:
    Thiết tha thiện tín câu cầu nguyện,
    Vui đẹp dạ Thầy luống ước ao.
    Hay:
    Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
    Đặng bá tánh an nhàn tu niệm.

    Cầu nguyện, cầu xin hay ước nguyện được hiểu như đồng nghĩa, là một trạng thái tâm lý mong mỏi điều gì đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành tựu hay diễn ra theo ý nguyện người mong đợi.
    Trong thực tế, việc cầu nguyện trong các tôn giáo không thể thiếu được. Trong các tôn giáo độc thần tin vào một đấng thượng đế toàn quyền năng sáng tạo ra vũ trụ và là cha đẽ của các loài sinh vật. Theo đó cầu nguyện chính là khẩn khoản, năn nỉ đấng Thượng Đế, cầu xin Ngài hướng dẫn, bảo vệ, che chở: cầu xin Ngài ban cho sức khỏe và hạnh phúc ngay cả tha cho những lỗi lầm đã phạm.
    Nhờ kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật, người tu theo đạo Phật hiểu rằng vũ trụ là sự sống vô cùng vô tận và sự sống ấy là một. Do vũ trụ là một, như thế không thể có một ai hay vật gì ở ngoài sự sống để sáng tạo ra và cai quản sự sống. Nếu cho rằng có một “Thượng Đế” ở ngoài vũ trụ thì Ngài không thể nào tạo ra cuộc sống ở trong vũ trụ được vì không có sự liên quan giữa Ngài và sự sống của vũ trụ cả. Vũ trụ là một dòng hiện tượng tổng hợp liên hệ do duyên sinh, không tồn tại vĩnh viễn và luôn biến chuyển theo luật nhân quả, vô thỉ vô chung mà không cần một thần linh nào sáng tạo, sắp đặt, cai quản cả.
    Người tu theo đạo Phật không tin có Thượng Đế, vì nếu chấp nhận có
    Thượng Đế sáng tạo và cai quản thì vô hình trung họ đánh mất đi sự tự do và khả năng sáng tạo của mình, chứng tỏ họ bất lực trong việc kiến tạo cuộc sống cá nhân cũng như xã hội. Người tu theo đạo Phật chân chính là phải có trí tuệ, có chánh kiến, không mê tín, ỷ lại vào thần linh, không giao số phận mình cho thần linh câu thúc hay cầu xin sự khoan dung của thần linh.
    Theo Phật giáo, từ ngữ “cầu nguyện” có nhiều ý nghĩa. Từ buổi đầu, người tu theo đạo Phật đã không tin vào đấng Thượng Đế như thế, cho nên họ không cầu nguyện theo ý nghĩa đó. Người tu theo đạo Phật tin vào luật Nhơn quả nghiệp báo. Hạnh phúc hay khổ đau đều do kết quả tạo tác của ta. Thuận duyên hay nghịch cảnh đều sản sinh từ Thân, Khẩu, Ý của mỗi cá nhân. Luật Nhơn quả rất công minh, không ban ơn ai hay tha tội ai. Ác nghiệp chỉ có thể được bù đắp bằng cách làm các thiện nghiệp và các thiện nghiệp nầy sẽ vượt qua các ác nghiệp. Tội lỗi theo ý nghĩa của đạo Phật không phải là sự vi phạm hay không tuân theo những qui luật được một đấng Thượng Đế đặt ra một cách chuyên quyền độc đoán bắt buộc con người phải tuân theo. Hành động sai trái của Thân, khẩu, ý làm ô nhiễm nhân cách con người và ngăn chận sự tiến bộ nhân tính của con người. Nhân loại phải chịu trách nhiệm cho chính bản thân mình cho thiện nghiệp hay ác nghiệp, hạnh phúc hay khổ đau, chứ không ai khác.
    Theo đạo Phật, tùy theo mục tiêu của ước muốn, cầu nguyện trở thành một trạng thái tâm lý như mong muốn cho mình, gia đình mình, người thân mình hay một trạng thái tâm lý vị tha, mong cho người khác được điều lợi ích, an lạc, hạnh phúc. Hay nói cách khác ý nghĩa của cầu nguyện mang tính cách trung tính về phương diện đạo đức.
    Cầu nguyện phải xuất phát từ tấm lòng vô ngã, vị tha, từ tình thương không phân biệt giới tính, giai cấp xã hội, không phân biệt thân sơ, bạn thù, chỉ vì mang lại lợi ích, phúc lợi và niềm an vui cho mọi người là cầu nguyện hay ước muốn thiện và đạo đức. Ước muốn chấm dứt chiến tranh không còn cảnh sát hại sinh linh, thế giới đại đồng không còn phân biệt chủng tộc, giai cấp, có công ăn việc làm ổn định, không còn cảnh cướp giựt xâu xé lẫn nhau, mọi người thương yêu giúp đở lẫn nhau là những ước muốn cao thượng có giá trị đạo đức, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Cầu cho bốn biển bằng an,
    Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh mi
    ên.
    Hay:
    Cầu cho bá tánh sớm ưa tu hành.

    Làm đúng ý nghĩa của cầu nguyện là phải có tâm lành, làm các điều lành, tránh làm điều ác. Khi cầu tâm phải trong sạch, thanh tịnh, nhất tâm không loạn tưởng, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi,
    Phải làm tròn các việc vẹn toàn.
    Dân chớ nên làm bướng làm càn,
    Trong lúc ấy niệm cho lấy có.


    Người làm được như vậy thì mới ứng nghiệm, còn ngược lại chẳng lợi ích gì.
    Kinh Tăng Chi, Đức Phật nói: “ Nầy các vị, có năm điều sau đây không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được: 1- tuổi thọ; 2- sắc đẹp; 3- hạnh phúc; 4- danh tiếng; 5- sanh cõi trời.
    Muốn có sức khỏe phải ăn uống có điều độ, phải giữ gìn thân thể cho khỏe mạnh, nên luyện tập môn thể dục nào hợp với sức khỏe, không say đắm sắc dục, ngủ nghỉ thích hợp. Muốn có sắc đẹp phải giữ gìn sức khỏe, ăn uống kiêng cử, nghỉ ngơi hợp lý. Muốn có đời sống hạnh phúc, phải làm việc thiện, tuân thủ luật pháp, hành động lợi mình và lợi người. Muốn có danh tiếng, phải siêng năng học tập, chăm chỉ làm việc, sống có đạo đức, liêm sĩ, công bằng, thanh cao, rộng lượng, thường giúp đỡ người khác làm nhiều việc tốt. Muốn lên cõi Trời, phải lo tu nhơn, tích đức.

    B. Cầu an

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Tu cầu thuận gió hòa mưa,
    An hòa nhơn vật phước thừa trời ban.


    Trong mỗi người của chúng ta đều có chứa hạt giống từ bi trí tuệ, nhưng bên cạnh đó cũng có loại tâm bất thiện chen vào giống như hạt giống xấu ác. Hạt giống xấu này sẽ mọc lên nếu ta không canh chừng nó, cắt xén nó thì một ngày nào đó nó làm tiêu tan đi tất cả tâm thức tốt đẹp trong ta.
    Thế nên cần có một sức mạnh để chuyển hóa. Sự chuyển hóa ấy đôi khi cần đến những tác động bên ngoài, cũng như người bệnh cần thuốc điều trị. Cũng như người lạc lối cần có người dẫn đường sáng suốt.
    Chúng ta cũng cần lời kinh tiếng kệ của người thầy để thức tỉnh theo tháng ngày dong ruổi theo trần cảnh quên đường về an trú trong hạnh phúc chân thật. cầu an là một trong những pháp thực tập để nhận ra những nhiệm mầu sự chân thật trở về.
    Cầu an là mong muốn có đời sống an vui hạnh phúc, không bệnh tật, khổ não, ít gặp điều rủi ro bất trắc.
    Sống ở đời con người cần có những cái an như an thân ( khỏe mạnh không bệnh tật, không tai nạn rũi ro), an tâm ( trạng thái tinh thần thanh thản, không lo âu, không sợ hải, không bị áp lực), hoàn cảnh an (gia đình ấm no hạnh phúc, các mối quan hệ tốt đẹp, có nhiều thuận duyên).
    Muốn có các điều an như trên, chúng ta cần phải tu dưỡng thân, tâm, xây dựng đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng theo tinh thần luật nhân quả. Xây dựng đời sống an vui hạnh phúc không gì cố gắng tạo nhiều thiện nghiệp, không làm bất sinh thiện nghiệp.
    Ta nên hiểu rằng việc hiện tại không phải hoàn toàn do nghiệp nhân ở quá khứ quyết định, mà còn do nghiệp nhân ở hiện tại tạo nên như thái độ sống, những suy nghĩ, hành vi tiêu cực hay tích cực trong hiện tại, không tạo nghiệp nhân xấu, tạo nhiều nghiệp nhân thiện trong hiện tại là hành động sáng suốt để cải thiện đời sống bất như ý, xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình là cách cầu an có hiệu nghiệm.
    Hành động của thân, khẩu, ý đều là hành động thiện lành thì những nghiệp nhân đó khế hợp với bổn hoài chư Phật, tương ứng với tâm đại từ bi của chư Phật nên chiêu cảm quả báo tốt, gặp nhiều thuận duyên, thấy có linh ứng, có hiệu nghiệm, chớ thật ra không phải Phật và Bồ tát ban phước hay tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng ta. Đức Phật độ cho chúng ta là giúp cải thiện chính mình và từ đó hoàn cảnh thay đổi.
    Một khi ta phát khởi thiện tâm chính là tạo nghiệp nhân thiện nên có quả báo tốt, gặp nhiều điều thuận ý vừa lòng, sống an vui hạnh phúc. Hằng đi chùa cúng dường Tam Bảo, kính Phật, trọng Tăng là hành động gây nghiệp nhân thiện nên đưa đến quả báo tốt lành, chớ không ai ban phước cho ta.
    Kinh Phật dạy chúng ta làm phước, không hề có chuyện dạy xin phước. Trong đạo Phật có ch
    trương cầu nguyện chớ tuyệt đối không có cầu xin. Phật không trực tiếp ban phước cho ta bình an mà chỉ dạy phương cách rồi chúng ta tự thực tập hành trì để tạo phước đức và bình an.
    Nếu như cầu xin mà có hiệu quả, chẳng ai mà không cầu, cứ ngồi đó mà cầu là tự có tất cả.
    Có một vị Trời Ca-Di-Ni đến thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn, các người cao ngạo nói rằng: “ Nếu có người nào chết đi, họ có thể làm cho tự do sinh lên cõi Trời”. Đức Thế Tôn là đấng Pháp chủ của Trời và Người, con kính mong Ngài làm cho người chết được sinh lên cõi Trời.
    Đức Phật hỏi: “ Nầy Ca-Di-Ni, Ta hỏi ông tùy theo sự hiểu biết mà trả lời; nếu trong thôn ấp có người làm ác về thân, khẩu, ý. Thân làm ác như sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng nói ác như nói dối, nói lời thêu dệt, nói lời độc ác, nói hai chiều; ý nghĩ ác như tham lam, không cho mà cướp đi, sân hận thù hằn, suy nghĩ hành động tà vạy; người ấy khi chết, nếu có một người, hay một số người van xin, kêu gọi, cầu xin để người ấy được sinh lên cõi Trời, liệu có được không?
    Trời Ca-Di-Ni đáp: “ Không thể được, thưa Đức Thế Tôn”.
    Đức Phật khen: “ Đúng thế, nếu người ấy chết khi còn sống đã làm mười điều ác, mà khi chết lại được sinh lên cõi Trời, việc đó không hề có, hoàn toàn không thể xảy ra. Cũng như có người ôm tảng đá lớn ném vào trong hồ nước, nếu có một người hay một số người chắp tay cầu nguyện, van xin, mong cho tảng đá nổi lên mặt nước, như vậy tảng đá có nổi lên không?
    Trời Ca-Di-Ni trả lời: “ Không thể được, thưa Đức Thế Tôn”
    Ngài hỏi tiếp: “ Nếu có người tinh tấn siêng tu, làm mọi điều lành, thành tựu diệu pháp, nghĩa là không giết người hại vật, không lấy của người không cho, không dâm đãng., không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác mà chỉ nói lời hiền hòa và đúng sự thật; không tham lam, không giận dữ thù hằn, không tà kiến ngu si mà chỉ suy nghĩ hành động chân chính. Khi người ấy sa vào Địa ngục, liệu có được không?
    Trời Ca-Di-Ni đáp: “ Thưa Đức Thế Tôn, không thể được”.
    Ngài khen: “ Đúng thế, nếu một người đã đoạn trừ làm mười điều ác, chỉ làm điều lành, siêng tu diệu pháp; khi người ấy qua đời, nếu có một số người nguyền rủa, cầu xin cho người ấy đọa vào Địa ngục thì điều nầy không thể xảy ra. Ngược lại, người ấy sẽ được sinh lên cõi tốt, cũng như có người đổ dầu mỡ xuống nước, dầu mỡ tự nhiên nổi lên, không thể cầu nguyện, van xin mà dầu mỡ chìm xuống được.
    Sau khi nghe giảng, vị Trời phấn khởi, vui vẻ, cúi đầu lễ Phật rồi biến đi. ( trích truyện kể của Toàn Không).
    Tóm lại, một người muốn được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và an lạc nội tâm là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ, phát huy hạnh tội tha, sống an trụ trong chánh niệm và tỉnh thức trong hiện tại, không hoài vọng về quá khứ, không vọng tưởng về tương lai để khỏi lo âu sợ sệt. Hãy sống bình thản trong hiện tại, khắc phục mọi nghịch duyên. Được như vậy thì lúc nào cũng an, cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc, không cần cầu nguyện hay mong ước.
    Trái lại nếu sống buông thả, không làm điều thiện mà lại đi vào đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được.

    C. Cầu siêu

    Cầu siêu có nghĩa là cầu nguyện cho thần thức người quá vãng được siêu thoát khỏi cảnh khổ để đến một cảnh giới an lành cao hơn thường là cõi Cực Lạc hay Tịnh Độ.
    Hương linh có được siêu thoát hay không tùy vào các yếu tố như:
    - Năng lực gia trì hộ niệm của chư Tăng và đạo hữu. Các chư Tăng phải có công năng tu hành thanh tịnh, cùng sự nhứt tâm cầu nguyện của các đạo hữu, khai thị hương linh thức tỉnh nhận rõ Chánh pháp để thăng hoa.
    - Gia quyến có vai trò quan trọng trong việc trợ duyên cho hương linh siêu thoát để thể hiện qua việc dốc sức dốc lòng làm phước, gia tâm cầu nguyện để hồi hướng phước báo đó cho thân nhân của mình. Gia quyến không thể phó thác cho chư Tăng mà phải thể hiện bằng tâm ý, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy:


    Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông,
    Với bá tánh vạn dân vô sự.
    Hay:
    Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
    Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
    Hay:
    Mình làm chữ hiếu mới hay,
    Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
    Và noi gương:
    Mục Liên cứu mẹ bằng nay,
    Nhờ người hiếu hạnh tâm rày tư bi.


    - Sự thức tỉnh của hương linh là điều quan trọng. Nếu như hương linh bị vô minh che lấp, nghiệp chướng sâu dầy, tham ái nặng nề thì dù cho có được chư Tăng thành tâm hộ niệm, khai thị, gia quyến chu toàn hiếu sự, nhưng thần thức họ chưa chuyển hóa thì sự vãng sanh siêu thoát khó thành tựu.
    - Chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền Thánh Tăng với bi nguyện trải từ tâm, cứu vớt chúng sanh qua sông mê khổ với những ai biết hướng tâm tu học, quy y Tam Bảo, tích thiện trừ ác lúc còn sống. Để đến khi chết rồi dù thân quyến có tổ chức rình rang lễ cầu siêu thì cũng khó siêu theo như nguyện. Vì lẽ đó, nên Đức Huỳnh Giáo Chử chỉ dạy:


    Phải rán tu đặng mà chết,
    Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu.


    Sự tu học trong đời sống hàng ngày để gieo hạt giống giác ngộ, tích lũy phước báo… là cần thiết, làm nền tảng vững chắc cho vãng sinh giải thoát.
    Đến khi chết rồi, nền tảng cho siêu thoát là do sự thức tỉnh, giác ngộ của chính hương linh. Sự hộ niệm của chư tăng và thân quyến cũng chỉ là sự trợ duyên cho hương linh giác ngộ chớ không phải là yếu tố quyết định.
    Đối với việc cúng bái cầu siêu cho người thân qua đời nhất là tổ tiên, ông bà, cha mẹ là truyền thống có từ xa xưa như là cách báo hiếu, trước là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã khuất, sau là để nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm ơn bậc sanh thành.
    Tụng kinh cầu siêu có được siêu độ không? Đây là lời giải thích ghi trong bộ Giáo khoa Phật học cấp 2 do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp tạng Việt Nam ấn hành như sau:
    “…Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng Dạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Hoa từ đời nhà Đường. Điều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa khai Nguyên ( Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an. Việc làm nầy vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh nầy, số người chết cả chiến sĩ của hai bên và thường dân nhiều vô kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân.
    Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian.
    Cũng về việc tụng kinh cầu siêu, quan điểm của lão hòa thượng Tịnh Không, vị cao tăng Trung Hoa đương thời như sau:
    “Trong Phật pháp, nói Phật sự là giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui; những việc nầy đều gọi là Phật sự.
    Vậy còn hiện nay thì sao?
    Hiện nay thì thời gian tiếp xúc với kinh điển cơ hồ ít hơn, nhìn thấy trong cửa Phật phần nhiều đều là lấy kinh sám “ Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây là Phật sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “ Phật sự” là rất dễ sinh ra hiểu lầm. những việc siêu độ vong linh nầy ở trong Phật giáo xuất hiện rất trể…, rất trể. Thời xưa ở Ấn Độ chẳng có. Khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có. Vậy sự việc nầy xảy ra như thế nào?
    Năm trước, trong buổi Phật học giảng tọa tại trường Đại Học ở Đài Loan do lão Pháp sư Đạo An chủ trì, đã có một sinh viên nêu vấn đề nầy ra để hỏi lão pháp sư. Hôm đó tôi cũng có mặt nên cũng có nghe. Lão pháp sư nói rằng sự việc nầy có thể là bắt nguồn từ giữa niên hiệu Khai Nguyên triều đại nhà Đường. Vào thời gian đó, có loạn An Lộc Sơn tạo phản, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nhờ có danh tướng Quách Tử Nghi tài giỏi mới bình định được nội loạn.
    Khi an ninh được vãn hồi, nghĩ tới linh hồn chết thảm còn vất vưởng lang thang nơi đồng hoang cỏ cháy không ai thờ cúng, triều đình cho xây lại mỗi bãi chiến trường một ngôi chùa điều lấy tên niên hiệu Khai Nguyên để đặt làm tên, rồi thỉnh quý vị cao tăng từ khắp nơi về chùa Khai Nguyên nầy để tụng kinh cầu siêu độ cho các vong hồn. Từ đó, tại mỗi bãi chiến trường đều có một chùa Khai Nguyên. Nguồn gốc Khai Nguyên Tự như lão pháp sư Đạo An đã nói là do triều đình đề xướng, mở hội truy điệu, thỉnh những vi cao tăng đại đức tụng kinh cầu siêu độ.
    Từ đó về sau, trong dân gian, khi gia đình có người qua đời thì cũng thỉnh mời tăng ni đến tụng kinh cầu siêu. Như vậy đối với Phật pháp, đây chính là việc phụ thêm, chẳng phải là công việc chủ yếu của Phật môn, chẳng phải!
    Nhưng hiện nay thì nó lại đã trở thành chủ yếu mất rồi! Hiện nay tại rất nhiều đạo tràng, người ta lấy việc nầy làm công tác chủ yếu. Cho dù có giảng kinh thì thời gian làm Phật sự chính yếu nầy cũng rất ngắn, rất ít.
    Có những chùa một năm giảng kinh bốn lần, trong bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, mỗi mùa giảng một tuần, một năm giảng bốn tuần, chia cho bốn mùa. Cho nên Phật sự chính thức là giảng kinh thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho dân chúng thì lại đã biến thành việc phụ, còn việc bái sám, cầu siêu đã biến thành “Phật sự” chủ yếu mất rồi.
    Điều nầy chúng ta phải có nhận thức rõ ràng, vào thời trước, Phật sự là giảng kinh thuyết pháp. (dữ liệu từ TV. HOA SEN)
    Chúng ta không thể biết được việc cầu siêu như vậy thần thức của người quá vãng được siêu thoát về cỏi an lành hay không? Thật khó mà khẳn định. Chúng tôi xin trích một đoạn trong “Chuyện bên Thầy” có ghi lại chuyện người cha qua đời (có lẽ người nầy được tái sinh vào cảnh giới an lành) về báo mộng cho con gái.
    “…Thưa cô Hai, chúng cháu muốn biết nguyên do nào cô ở Bạc Liêu mà sớm gặp Đức Thầy (tức Đức Huỳnh Giáo Chủ) để quy y? Cô cười và nói: “Để Cô kể lại cho cháu nghe, kỳ diệu lắm cháu ơi! Đâu phải khi không mà cô được gặp Đức Thầy để quy y đâu. Cháu biết không, cô là dân Tây, đâu có dể tin Phật pháp mà tu. Một bửa nọ cô nằm mộng thấy cha cô về rầy cô và nói: Phật đã xuống thế mà sao con không chịu tu? Nè cha cho con biết, nếu cứ mãi mê danh lợi thì sau khổ đừng than trách, ăn năn cũng chẳng kịp nghe con. Phật xuống thế kỳ nầy là cơ hội tận diệt, nếu không tu thì vĩnh viễn chịu đọa nghe con”. Cô bị cha rầy quá tay, cô khóc nức nở và nói: “Thưa cha! Con biết Phật ở đâu mà tìm, tu làm sao mà tu?”. Cha cô nói: “Con theo cha sẽ gặp Phật”.
    Thế là cô đi theo cha đến một cảnh giới xinh đẹp.
    Nhứt là một hồ sen rất to, dưới hồ có nhiều hoa đua nở. Chính giữa có một đóa hoa sen thật lớn, có hào quang sáng rực, lại có một người tướng mạo xinh đẹp đứng trên đó, cha cô nói: “ Nầy con hãy nhìn cho kỹ. Vị đứng tại hoa sen lớn đó là vị Phật đã giáng thế tại Việt Nam rồi đó con. Con nhớ tìm cho được vị nầy mà quy y. Nhìn kỹ nghe con!”. Cô dạ, dạ và chăm chú nhìn từ đầu cho đến chân. Khi tĩnh giấc, cô rờ gối thì biết mình đã khóc ướt gối. Sau đó cô kể lại cho chồng cô nghe ( chồng cô là ông Võ Văn Giỏi làm Thông Ký đời Pháp thuộc) và xin đi tìm Phật”.
    Quả nhiên, theo lời dặn bảo của cha, cô Ký đi tìm sau ba ngày thì gặp Đức Thầy tại Tổ Đình, xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Sau đó tất cả những người trong gia đình của ông Võ Văn Giỏi đều quy y theo Đức Thầy. Trong thời gian thực dân Pháp lưu cư Đức Thầy xuống Bạc Liêu, Đức Thầy tạm trú trong nhà của ông Võ Văn Giỏi. ( Đây là chuyện có thật, không phải chuyện cổ tích, nếu hành giả nào muốn tìm hiểu thêm xin vui lòng nghiên cứu về những mẫu chuyện kể cũng như về giáo lý của Đức Thầy).
    Chắc chắn chúng ta không biết ông bà cha mẹ của chúng ta tái sanh vào cảnh giới nào. Cho nên cầu siêu đích thực phải là sự mong mỏi, sự thành tâm, thành ý và hành động hữu ích giúp hương linh lợi lạc trong quá trình tái sanh.
    Thiết lễ cầu siêu, cúng dường, tu phước, bố thí, tránh sát sanh và tạo việc làm phóng sanh. Những việc làm nầy xét trên phương diện thực tế thì chúng ta đã làm những việc tốt, đã gieo nhân lành, theo luật nhân quả thì chúng ta gặt hái được những quả tốt lành trong tương lai. Đối với người chết như ông bà cha mẹ với tất cả tấm lòng tha thiết mong cầu chuyển đổi tâm niệm bằng pháp ngữ, lời kinh, tiếng kệ có năng lực giúp hương linh giác ngộ, tỉnh thức và sinh tâm hoan hỉ, an lạc không còn khổ não.
    Những công đức, phước báu mà chúng ta làm cũng mang lại nhiều lợi ích cho hương linh. Điều này không biết có được theo ý nguyện không, nhưng hành động với tâm thành đã thể hiện thì thế nào cũng có cảm ứng. Việc cảm ứng nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nhân duyên giữa cha mẹ và con cái nữa.
    Khi người chết biết tùy hỉ những việc làm nhằm tạo phước lành của người thân mình và phát khởi lòng thành kính hướng về Tam Bảo thì họ chuyển hóa được phần nào nghiệp bất thiện và tăng trưởng phước báu cho tự thân, nhờ đó mà được tái sanh vào lạc cảnh. Trường hợp bà Thanh Đề thân mẫu của Tôn giả Mục Kiền Liên. Lúc sanh thời bà gian tham, bỏn xẻn, không kính Tam Bảo, tạo nhiều ác nghiệp, nên khi chết đi đọa làm ngạ quỉ, chịu đau khổ, đói khát. Tôn giả Mục Kiền Liên tổ chức trai đàn thỉnh Phật, cùng chư Tăng siêu độ cho bà. Nhờ công đức, cúng dường Tam Bảo của Mục Kiền Liên và phát tâm hoan hỉ của bà trước việc làm của Tôn giả mà bà thoát khỏi tội mang thân ngạ quỉ.
    Cũng như trường hợp của hoàng hậu, vợ của Lương Võ Đế, lúc sinh thời bà tạo nhiều nghiệp ác nên sau khi chết xin làm rắn. Lương Võ Đế thỉnh hòa thượng Chí Công và chư Tăng lập đàn tràng Lương Hoàng Sám giúp bà sám hối tội lỗi mà thoát khỏi kiếp rắn.
    Sức mạnh chủ yếu của việc cầu siêu là những việc làm khi chúng ta còn đang sống, vì vậy mỗi người khi còn sinh tiền nên tạo cho ta có những nghiệp nhân thiện, là hành trang duy nhứt ta mang theo sau khi lìa đời, nó quyết định đời sống kế tiếp của chúng ta. Việc cầu siêu sau khi chết là trợ duyên, chỉ khi nào hương linh người quá cố hoan hỷ nghe tiếng kệ lời kinh mà biết giác ngộ thức tỉnh thành kính hướng về Tam Bảo tín thọ giáo pháp chuyển hóa tự tâm.
    Cầu siêu cho những người thân của mình đồng thời cũng cầu cho tất cả những vong linh chưa siêu thoát là nghĩa cảm cao đẹp của người còn sống đối với người đã khuất, thể hiện mối liên hệ giữa người với người dù sống trong hai thế giới khác biệt. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy chúng ta nguyện cầu:

    “ Bá tánh vạn dân từ tâm bác ái giải thoát mê ly”

    Hay:
    “Cầu Phật Tổ, Phật Thầy, quan Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan Cựu Thần, chư vị Sơn Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ độ bá tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải thoát mê ly”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo công phu qua hai thời cúng lạy hàng ngày bài Nguyện Ngũ nguyện cầu. Nếu hành giả tinh tấn hành trì sẽ được nhiều lợi lạc cho Cửu Huyền Thất Tổ, cho cha mẹ còn sống hay đã qua đời, cho bá tánh vạn dân và cho người hành đạo.
    * Nam Mô nhứt nguyện cầu: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng thế giới bình an.
    * Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu Huyền Thất Tổ Tịnh độ siêu sanh.
    * Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây Phương.
    * Nam Mô tứ nguyện cầu: Bá tánh vạn dân từ tâm bác ái, giải thoát mê ly.
    * Nam Mô ngũ nguyện cầu: Phật Tổ, Phật Thầy từ bi xá tội đệ tử tiêu tai tịnh sự, trí tuệ thông minh, giai đắc đạo quả.
    Cầu nguyện dù tốt đẹp đến đâu nếu không có hành động hay ứng dụng cụ thể cũng trở nên vô ích. Đạo Phật không dạy ta sống với những ước muốn hay cầu nguyện suông, trái lại dạy ta phương pháp cụ thể để biến ước mơ chân chính cao đẹp thành hiện thực.
    Hành động là chính ước muốn là phụ, nên đạo Phật dạy chúng ta sống bằng thái độ tự tin vào việc hành thiện và đạo đức của bản thân đem lại hạnh phúc trong đời. Dùng trí tuệ để hiểu được đạo lý nhơn quả, nghĩa là hiểu rằng không có ai có quyền năng thưởng phạt trong cuộc sống của chúng ta, chính hành động thiện hay ác biểu lộ khổ đau hay hạnh phúc, cho nên hành giả tu theo Phật không phải mất thì giờ cầu nguyện cho cái nầy, cái nọ. Thử nghĩ xem, thần linh cũng không thể giúp được họ trong các hành vi bất thiện nếu có thì làm sao họ có thể giúp chúng ta. Thần linh hay Thượng đế nếu có cũng không sống ngoài qui luật nhơn quả tương duyên. Do đó hành giả phải sáng suốt, đừng vô minh trông vào một quyền năng huyển hoặc của thần linh hay Thượng đế. Hành giả phải ý thức rằng, một khi đã tạo nghiệp nhân ác, dù có van xin, chúng ta là người nhận cái quả khổ đau mà không ai có thể làm ngược lại qui luật bất biến này được.
    Để chứng minh thần linh không thể giúp ta khi ta hành bất thiện nghiệp qua câu nói của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong lúc dạy bảo ông Trần Văn Soái. Ngài nói: “ Tôi nói cho ông biết, ông Thần không tu ông Thần cũng chết, đừng nói người phàm. Đạo của tôi dạy chia làm sáu hạng mà không được hạng thứ sáu là tệ lắm!”. Đồng thời Ngài đếm trên đầu ngón tay và nói tiếp: “ Phật, Thánh, Tiên, Thần, Tướng, Dân”. Hạng thứ sáu mà Đức Thầy nói ở đây là hạng Dân tức là hạng chót đời
    Thượng Cổ, không được là dở!.
    Kinh Tương Ưng nói: “ Nếu ai làm mười nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được sanh thiên phú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Làm mười nghiệp ác sẽ rơi vào đọa xứ. Sự thể như có người ném tảng đá vào hồ nước, rồi nhiều người đến cầu khẩn van xin cho tảng đá được nổi lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá với sức nặng của nó không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, làm mười nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ.
    Giáo lý nhà Phật xác định rằng hành vi bất thiện là nguyên nhân gây ra mọi khổ đau mà người tạo ra phải gánh chịu đời hiện tại cũng như trong tương lai. Sức gia trì cầu nguyện trong trường hợp nầy không có giá trị đạo đức. Bởi lẽ, nếu cầu nguyện có kết quả thì chắc chắn rằng người có nhiều tiền của trên thế gian phải là những người siêu sanh trước nhất, được hết tội trước nhất, do họ tung tiền ra trong các buổi cầu nguyện tôn giáo, thế nên Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Nếu làm đám được về cực lạc,
    Thì giàu sang được trọn hai bề.
    Ỷ tước quyền làm ác ê hề,
    Khi bỏ xác nhiều tiền lo lót.
    Hay:
    Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
    Cúng với lạy khó trừ cho đặng.
    Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
    Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?

    Luật nhơn quả là vị thẩm phán tuyên án cho người làm điều ác phải nhận đau khổ, ban thưởng cho người hiền lương nhơn ái. Vị thẩm phán này không nhận hối lộ của thế gian tác động để đổi đen thành trắng như pháp luật của người đời. Vị thẩm phán nhơn quả rất công minh chánh trực, rất chính xác không lầm lẫn trong khi phán xét nghiệp báo của các hành vi thiện ác.
    Người hành đạo không những thể hiện tính đạo đức cho bản thân mà còn cho xã hội loài người cũng như các loài động vật. Mục tiêu rộng rãi như vậy phải xuất phát từ nhận thức giác ngộ cụ thể, hành động lợi tha cụ thể để mình và chúng sanh cùng từng bước hướng tới thành tựu đạo quả và thoát mọi khổ đau vĩnh viễn.
    Muốn thể hiện được tấm lòng bác ái vị tha, người hành đạo làm bất cứ việc thiện nào không phải cho mình mà còn cho người khác. Cho nên mục tiêu giác ngộ trọn vẹn của người hành đạo là sự phát nguyện hồi hướng công đức nầy cho tất cả chúng sanh để cùng nhau tu hành chóng thành đạo quả.

    D. Cúng tế

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “ Người đối với thú cầm sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật ( gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào “lý vật dưỡng nhơn” ( thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh Thần, Trời Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyển hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rũi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các súc vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.
    Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình, kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại nầy.
    Thế nên hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các sinh hoạt hàng ngày. Tóm lại không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cử hẳn”.
    Ngài cũng dạy người hành đạo phải có trí tuệ nhận ra điều nhơn quả báo ứng:

    Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
    Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
    Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
    Phải ăn năn phước điền tạo tác,
    Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời.
    Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
    Xuống phước rộng từ bi hỉ xả.
    Đấng Thần Minh công bình trực dạ,
    Đâu ăn lo đổi họa làm may.
    Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này,
    Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
    Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
    Quả bất lành chưa trả vay thêm.

    Trong bài “Tế chiến sĩ trận vong”, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết:

    Trên linh tọa hương trầm nghi ngút,
    Tấc lòng thành cầu chúc vong linh.

    Ngoài ra chúng ta không thấy có chỗ nào Ngài nói “giết vật đặng mà cúng tế”. vì “ hữu thành tất hữu thần”, nên:

    Lòng thành thắp một tuần hương,
    Vái hồn liệt sĩ bốn phương tựu về.
    Nơi làng vắng cam bề đơn giản,
    Lễ mọn nầy trước án bày ra.
    Hiển linh xin chứng gọi là…

    Như là lời chỉ dạy chúng ta của Ngài về việc cúng tế.

    Theo tục lệ của dân Việt Nam, vào ngày mùng 3 Tết, họ thường giết gà để cúng tế thần linh, nói là để ra mắt hay để khai trương cửa hàng đầu năm mới v.v…
    Ngài khuyên nên bỏ lối dị đoan mê tín đó, hầu giảm bớt tội căn:

    'Bỏ bớt dị đoan chẳng cúng gà'.

    Thời Đức Ph
    ật trụ thế, thường du hành hóa độ chúng sanh, thì tại thành Xá Vệ có Bà la môn Trường Thân tổ chức đại hội cúng tế. Lễ cúng tế nầy sẽ giết nhiều con vật để tế.
    Bà la môn Trường Thân nghe nói: “ Có Sa môn họ Cù Đàm, dòng dõi quý tộc, con vua Tịnh Phan, bỏ địa vị quyền uy, xa lìa gia đình giàu sang phú quý để đi học đạo và đã đắc bậc Chánh Đẳng Chánh Giác”. Và cũng nghe nói: “ Sa môn Cù Đàm đang du hành trong nhân gian vừa mới đến nước Xá Vệ, đang ngụ tại tịnh xá Cấp Cô Độc thuộc rừng Kỳ Đà”.
    Bà la môn Trường Thân liền nghĩ: “Tổ chức đại hội cúng tế nầy, ta nên đến hỏi Sa môn Cù Đàm để cho việc tổ chức không bị thiếu sót”.
    Suy nghĩ xong, ông cùng đoàn tùy tùng đến rừng Kỳ Đà với lòng ngưỡng mộ. Khi đến nơi họ xuống xe đi bộ đến trước Đức Phật cung kính vái chào, Bà la môn Trường Thân nói: “ Thưa Ngài Cù Đàm, tôi muốn tổ chức lễ cúng tế gồm 700 con vật gồm có trâu, heo và các con vật nhỏ khác. Tôi được nghe đến Cù Đàm là người thấu suốt đạo lý về tế tự, bởi vậy tôi đến đây thưa hỏi Ngài về cách tổ chức đại hội cúng tế, những gì cần phải làm, các loại súc vật nào cần phải có và số lượng súc vật là bao nhiêu?”.
    Sau khi nghe trình bày, Đức Phật bảo Bà la môn Trường Thân: “ Vì có đại hội cúng tế, người chỉ muốn thực hành tế lễ, bố thí, làm phước, mà lại sinh tội, bị đâm cắt bởi ba thứ đao kiếm, chuốc lấy quả báo dữ; ba thứ đao kiếm là gì? Là ý đao kiếm, là miệng đao kiếm và thân đao kiếm.
    Thế nào là ý đao kiếm sinh ra khổ?
    Người chủ tổ chức lễ suy nghĩ rằng: “ Cúng tế cần phải giết nhiều trâu, nhiều dê và nhiều con vật nhỏ bé khác, đó là ý đao kiếm sinh ra quả báo khổ”; người chủ đại hội làm các việc tế lễ, bố thí, cúng dường là những việc làm hợp đạo lý, nhưng thật ra lại sinh tội lỗi vì người ấy có ý nghĩ muốn giết các con vật.
    Thế nào là miệng đao kiếm sinh ra khổ?
    Người chủ tổ chức đại hội bảo: “ Hôm nay ta tổ chức tế lễ, các ông hãy giết bấy nhiêu trâu, bấy nhiêu dê và bấy nhiêu súc vật nhỏ, các ông không được làm sai khác”, đó gọi là từ miệng sinh ra đao kiếm và sinh ra quả báo khổ; người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã sai bảo người khác giết hại các con vật.
    Thế nào là thân đạo kiếm sinh ra khổ?
    Người tổ chức đại hội, tự tay mình sát hại sanh mạng các con vật, đó gọi là thân đao kiếm sinh ra quả báo khổ. Người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã tự tay mình giết hại súc vật.
    Ngài giảng tiếp: “ Những người nào tùy thời cúng lễ, bố thí, cúng dường, phụng sự ba thứ lửa, sẽ đem lại sự an lạc; ba thứ lữa ấy là gì? Một là lửa căn bản, hai là lửa gia cư, ba là lửa điền.
    Thế nào là lửa căn bản?
    Người nào có được tiền của do việc làm chính đáng, rồi đem một phần biếu cha mẹ, làm cho cha mẹ được an vui, đó là lửa căn bản.
    Thế nào là lửa gia cư?
    Người nào có tiền của do sự làm việc thu hoạch, hợp pháp, rồi đem cung cấp cho vợ con, anh em, quyến thuộc, người giúp việc, kẻ hầu hạ. Người ấy tùy lúc tùy thời mà chu cấp cho họ và đem lại sự an vui cho người thân thuộc họ hàng; vì người ấy sống trong gia đình cùng thân bằng quyến thuộc nên vui cùng vui, khổ cùng khổ, chia ngọt sẻ bùi, đó là lửa gia cư.
    Người nào làm việc siêng năng kiếm được tiền của do sự làm việc lao nhọc, thu hoạch hợp pháp; người ấy tùy thời cúng dường các Sa môn, Bà la môn biết khéo điều phục tham, sân, si, tùy thời bố thí cho kẻ nghèo cùng, đói khát, bệnh khổ. Cúng dường, bố thí như thế là kiến lập ruộng phước, hiện tạo an vui, vị lai được quả báo sinh lên cõi Trời, đó gọi là lửa phước điền.
    Nhưng người thiện nam trước khi tế lễ, cúng dường bố thí ba thứ lửa trên, hãy nên dập tắt ba thứ lửa khác; đó là lửa tham lam, lửa sân hận, và lửa tà kiến ngu si, vì sao? Nếu lửa tham lam không dứt, thì sẽ tự hại mình, hại người, cả hai đều bị hại; hiện tại đắc tội, đời sau đắc tội, do lòng tham lam sinh ra đủ thứ ưu phiền khổ não. Lửa sân hận, lửa tà kiến ngu si cũng giống như thế.
    Tóm lại, khi tổ chức đại hội tế lễ hay cúng giỗ không nên giết hại súc vật. Cúng giỗ hay tế lễ chỉ dùng các thứ như: hương nhan đèn, bông hoa, nước, trái cây, bánh kẹo và thức ăn không phải là súc vật, không phải là chúng sanh. Như vậy là làm đúng theo đạo lý cúng lễ và đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.
    Sau khi nghe những lời giảng giải, Bà la môn Trường Thân suy nghĩ rồi quay qua bảo người con trai lớn: “ Uất đa la, con hãy đến chỗ các con vật, tất cả đều buông thả hết, và con nói với chúng rằng: Bà la môn Trường Thân cho phép các ngươi, sắp bị hy sinh tánh mạng được tùy ý tự tại thênh thang ở núi đầm, ở rừng, ở đồng hoang, hay bất cứ nơi đâu để tự kiếm thức ăn lấy, cỏ tươi tốt, nước suối trong, bốn bề gió mát, hưởng lạc thú an vui thoải mái”.
    Rồi ông quay lại chắp tay nói: “ Thưa Đức Cù Đàm, con định lập đại hội tế lễ với đầy đủ bảy trăm con vật, nhưng nay con cho thả hết tất cả, để chúng được sống yên ổn, tự do đi lại. Thưa Đức Cù Đàm, con đã được Ngài cứu khỏi u mê tăm tối. Từ hôm nay cho đến hết đời, con xin quy y Ngài, quy y Pháp ( lời dạy), quy y Tăng đoàn, và được làm cư sĩ chánh Pháp của Ngài. Con sẽ tổ chức đại hội tế lễ đúng như lời Ngài đã chỉ dạy và cung thỉnh mời Ngài và Tăng đoàn đến dùng cơm chay vào trưa ngày mai tại tư thất của con trong thành Xá Vệ”.
    Đức Phật nhận lời mời, Bà la môn Trường Thân lễ chào rồi cùng đoàn tùy tùng ra về chuẩn bị lại cho buổi tế lễ.
    Chúng ta tự nhìn lại mình, có phải từ trước đến nay vì u mê tăm tối nên mỗi khi có tế lễ, cúng giỗ hay những ngày tết nhứt thường giết súc vật nhiều hơn lúc bình thường. Qua lời chỉ dạy của Đức Phật, chúng ta hãy nên suy nghĩ lại và áp dụng theo thì lợi lạc, phước báu không thể lường được.
    Phần đông người ta quan niệm sự cúng kiếng là để cho người quá vãng ăn như lúc còn sống, chớ không ngờ ai cũng là thân tứ đại, khi chết phải trả về cho tứ đại, thì làm sao mà ăn cho được. Thế mà người ta cứ lo sát sanh hại vật để cúng kiếng, làm cho vong nhơn phải chịu quả báo khổ đau mà không sao nói được.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng lưu ý và nhắc nhở chúng ta trong việc cúng kiếng tế lễ, Ngài bảo: “ Cúng ít, tội ít”, vì cúng ít là sát sanh ít. “ Cúng nhiều tội nhiều”, tội nhiều là vì sát sanh nhiều. Còn không cúng thì con người không biết ơn, không nhớ nguồn cội, nên tội lại nặng hơn. “ không cúng sa địa ngục”.
    Nếu chúng ta không thể ăn chay được, thì ít ra mỗi khi có tế lễ, giỗ tết, chúng ta không nên cúng bằng cách giết sinh vật để cúng. Chúng ta chỉ nên cúng bằng hương, hoa, quả và thức ăn chay, việc này sẽ dẫn người hưởng sự cúng giỗ, tế lễ theo đường lành.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng giảng giải cho chúng ta: “ Khi chết con người không bao giờ ăn được. Sở dĩ con cháu cúng giỗ là để tưởng nhớ đến công ơn bậc sanh thành dưỡng dục và nhớ ngày chia cách ngàn đời. Tưởng câu: “Sự vong như sự tồn vậy thôi. Nhưng nếu sát sanh súc vật nhiều thì linh hồn của người chết khó siêu thoát”.
    Việc ăn chay là tự giác, tự nguyện; nhưng nếu ta chưa làm được, đó là phần việc của cá nhân. Tuy nhiên, ta không nên cúng giỗ, tế lễ bằng thức ăn mặn; nếu cúng đồ mặn xong ta ăn, sự làm ấy là vô minh, có hại cho bậc tiền nhân mà ta cung kính lễ bái.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng ta nên cúng chay: “ Quảy đơm cúng tế lệ xưa nay. Sát vật trâu heo đứa mị bày. Kẻ chết cho ăn say khó hiểu. Người còn bạc đãi lạ lùng thay? Cháu con báo hiếu theo nhà phật. Cha mẹ qua đời thủ lễ chay. Trong sạch nghĩa nhân vầy mới đúng. Hồn linh siêu thoát nhẹ cao bay”.

    E. Hủ tục đốt vàng mã

    Hủ tục đốt giấy tiền vàng mã cần hủy bỏ, Đức Huỳnh Giáo Chủ giáo hóa như sau:

    Dân chúng chớ nên đốt giấy tiền,
    Bởi vì Diêm chúa chẳng tình riêng.
    Phán quan tả hữu không dùng hối
    Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền.

    * *
    Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
    Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.
    Giấy quần giấy áo không nên đốt,
    Nghĩa chuyện dối ma chẳng đáng làm.


    Sự đốt giấy tiền vàng mã là lối suy nghĩ theo mê tín dị đoan, vấn đề nầy cần có trí tuệ, không sợ hãi mới dứt bỏ được điều vô lý. Đốt vàng mã, quần áo giấy, nhà bằng giấy, đồ dùng bằng giấy, làm như vậy có ích gì. Họ nói là để cho người chết dùng. Nếu chúng ta tin Phật Pháp thì không có chuyện linh hồn còn vất vưởng đâu đó để hưởng. Việc nầy chỉ có thể dối ma quỉ mà thôi. Đây chỉ là sự tưởng tượng của một số người có tâm sợ hải, tin vào bói toán; cù ta có làm cũng chỉ bằng thừa phí tiền vô ích. Người có chánh kiến nhìn vào đánh giá người làm điều đó là vô minh, mê tín dị đoan nhảm nhí.
    Tục đốt vàng mã có từ lâu đời in vào tâm thức của con người Việt Nam. Có người cho rằng tục lệ đó là một trong những nét đẹp văn hóa của phong tục thờ cúng tổ tiên. Với cách suy nghĩ đó, người còn sống càng mua nhiều đồ vàng mã giúp cho người chết, để người quá vãng có nhiều tiện nghi trong thế giới vô hình nào đó. Đồ càng đắc tiền càng có nhiều lợi lạc và người còn sống cảm thấy được bình an trong tâm hồn. Họ không ngần ngại lấy tiền thật để đổi lấy tiền giả là những tờ giấy có màu xanh đỏ hay những vật dụng bằng giấy màu.
    Hiện nay cũng có nhiều vị cao tăng chân chánh kêu gọi dân chúng nên bỏ hủ tục mê tín dị đoan nầy. Có Ngài lên tiếng: “ Nhiều người lúc cha mẹ còn sống thì ngược đãi. Thế mà đến ngày lễ Vu Lan thì những người con ấy lại đốt vàng mã thật nhiều để báo hiếu cha mẹ. Hành vi ngược đãi cha mẹ luật pháp cũng không dung tha, Phật cũng không chấp nhận lễ của những đứa con bất hiếu đó. Phật dạy con cái phải thờ phụng cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ lúc già yếu. Không nên biến ngày lễ Vu Lan trở thành ngày mê tín dị đoan lảng phí”.
    Kinh Phật dạy con cái phải tận hiếu với cha mẹ khi các người còn sống. Chỉ sau khi chết một thời gian ngắn thần thức đi theo nghiệp thiện hay nghiệp ác để luân hồi vào kiếp sống mới. Thần thức đâu còn được rảnh rang ở trong cái nhà bằng giấy do nhà sản xuất vàng mã chế ra.
    Sự kiện đốt vàng mã chỉ là ảo tưởng cho những ai ăn ở bất hiếu với cha mẹ khi cha mẹ còn sống, rồi làm như là có hiếu hạnh khi cha mẹ qua đời.
    Chúng ta nên dùng trí tuệ và chánh kiến xét lại vấn đề lấy tiền thật đổi lấy những đồ vàng mã làm bằng giấy rồi đốt đi nhằm mục đích để ông bà cha mẹ, người thân nơi chốn u linh nào đó có đủ vật dụng tiêu dùng.
    Tục đốt vàng mã có tự bao giờ?
    Trích theo sử sách của người Trung Hoa, tục đốt vàng mã có từ thời nhà Hán. Nguyên do vì nhà vua muốn thực hành lời dạy của Đức Khổng Tử “ Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, nghĩa là thờ người chết như thờ người sống, thờ người mất như thờ người còn và cho rằng người mất nơi cõi âm vẫn có những nhu cầu như kẻ còn sống như tiền bạc, nhà cửa, thực phẩm v.v… nên khi nhà vua băng hà, phải bỏ tiền bạc thật vào trong áo quan để vua tiêu dùng. Sau đó quan bắt chước vua và rồi dân bắt chước quan. Ai cũng chôn tiền thật theo người chết. Bọn trộm cướp biết vậy nên đào trộm mồ của những người giàu có, như mộ vua Hán Văn Đế bi quân trộm khai quật lấy hết vàng bạc châu báu. Về sau từ quan đến dân thấy việc chôn tiền bạc thật quá tốn kém nên mới nẩy sinh ra dùng giấy cắt ra làm tiền giả để thay thế. Dần dà người dân bắt chước và trở thành tập tục. Đến năm Khai Nguyên thứ 26 ( 738 DL), đời Đường Huyền Tông, nhà vua ra sắc chỉ cho phép dùng tiền giấy thay cho tiền thật trong việc cúng tế cầu siêu do quan tế tự Vương Du phụ trách. Việc xử dụng vàng mã chính thức bắt đầu từ đây.
    Không bao lâu dân chúng chán bỏ vì thấy việc đốt vàng mã không hiệu nghiệm, họ đốt đủ thứ cần dùng để người quá cố tiêu dùng mà không thấy được báo mộng hay có một hiện tượng gì chứng tỏ người chết được hưởng dụng, nhất là đối với những người nghèo không đủ tiền mua sắm đồ mã nên họ bảo nhau không đốt nữa, thế là nghề làm đồ mã bị ế ẩm. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác của Trung Hoa kể lại rằng Vương Luân là dòng dõi của Vương Du, vì không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một, nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã, bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch chết giả, bằng cách để người bạn thân đó giả vờ đau ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương Luân loan tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm, bỏ vào quan tài chờ ngày an táng. Nhưng sự thật thì người bạn của Vương luân vẫn còn sống, tuy ở trong quan tài nhưng vẫn có lỗ trống dưới đáy để thở và đưa thức ăn vào. Đến ngày đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, Vương Luân đem giấy tiền vàng mã và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình nhân thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện cho người bạn thân. Sau đó ông ta đốt hết giấy tiền vàng mã và hình nhân thế mạng.
    Khi đốt xong thì tự nhiên quan tài rung động, ai nấy mục kích rõ rang, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra. Người bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất cảm tạ và thuật lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn ông ta trở về cõi trần, nên ông ta mới được sống lại.
    Mọi người đều tin là thật và tin tức được loan truyền rộng rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó lại được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ mã lại làm giàu một cách nhanh chóng và phổ biến sang các nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam. Sau nầy do sự cạnh tranh nghề nghiệp, nên người bạn thân đã tiết lộ mưu kế gian xảo của Vương Luân và vì thế ngày nay chúng ta mới biết lai lịch việc nầy.
    Tục lệ đốt vàng mã nầy ảnh hưởng sâu đậm vào nước ta, từ vua chúa đến thứ dân. Vụ đốt vàng mã lớn nhất ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là trong đám tang của Vua Khải Định, băng hà ngày 25 tháng 11 năm 1925, triều đình Huế đã làm nguyên cả ngôi điện Kiến Trung bằng giấy thật lớn và nhiều loại đồ dùng của vua như ngự liễn, long xa, tàng kiệu…để đốt theo vua.
    Trong tam tạng kinh điển của nhà Phật không có ghi việc đốt vàng mã, cho nên Phật giáo hoàn toàn bác bỏ tục lệ nầy. Quan niệm của Phật giáo về sống chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn trong chuổi dài sanh từ vô tận. Sinh rồi tử, tử rồi sinh cho đến một ngày nào đó giải thoát ở một cảnh giới bất sinh bất tử.
    Trong việc giáo hóa chúng sanh, Phật giáo cũng không nói có một nơi chốn nào đó dành riêng cho người đã chết để họ cũng sinh hoạt như người còn sống. Nhưng theo tín ngưởng của dân gian có một từ ngữ gọi là cõi âm hay âm phủ.
    Đốt vàng mã là chuyện hoang đường, không những hao tài tốn của mà còn làm mâu thuẩn về mặc tâm tư. Ai ai cũng muốn cầu nguyện, cầu siêu cho vong linh người thân mình sớm tái sanh vào một cảnh giới an lành như sanh lên cỏi trời, cỏi người hay cảnh tịnh độ Tây phương cực lạc, mà lại đi đốt giấy tiền vàng bạc giả bằng giấy cho người thêm của mình tiêu dùng dưới âm phủ trong tang lễ hay lễ giổ. Hành động nầy có phải chúng ta muốn cầu cho người thân ở mãi ở cảnh giới âm u tối tâm để xài tiền ma, gạo quỉ hay sao? Thật là mâu thuẩn!
    Có người cũng tự nghĩ đốt vàng mã như vậy, không biết người thân của mình có được tiêu dùng hay không rồi cảm thấy bất an. Vậy để có một cuộc sống an lạc cho mình và mong ước hương linh của người thân được thanh thản, giác ngộ, tỉnh thức hướng về cỏi an lành không có gì hay hơn trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thực hiện lời Phật dạy:

    Không làm điều xấu ác
    Siêng làm điều thiện lành
    Tự thanh tịnh tâm ý.

    Đức Phật không hề dạy chúng sanh đốt vàng mã để cúng gia tiên. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên hóa tăng ni cũng như đồ chúng chẳng nên đốt vàng mã để người thân quá vãng tiêu xài ở cõi âm. Ngài dạy:

    Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
    Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
    Xưa Thần Tú bày điều tà mị,
    Mà dắt dìu bá tánh đời Đường.
    Thấy chúng sanh lầm lạc đáng thương,
    Cõi Âm Phủ đâu ăn của hối.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ nhìn thấy chúng dân còn bị lầm lạc mê tín, Ngài vì lòng từ bi giác tỉnh mọi người nên nhận rõ: ở thế gian còn phải tôn trọng lẽ công bằng thì chốn âm phủ có lẽ nào dùng của hối lộ hay sao? Thế nên trong điều thứ sáu của Tám Điều Răn, Ngài dạy:
    “ Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật”.

    F. Tử vi bói toán

    Trong thời kỳ Đức Huỳnh Giáo Chủ mở Đạo dạy đời, có nhiều người đến nhờ Ngài đoán dùm vận mệnh hoặc việc gia đình. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên họ bỏ dị đoan. Ngài thuyết:

    Thiện tín tới đây chớ ngã lòng,
    Xác trần mê mệt nỗi long đong.
    Cậu, cô, chú, bác đừng coi bói,
    Theo lối dị đoan mất bạc đồng.
    Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không,
    Quyết chí nâng niu giống Lạc Hồng.
    Tìm cõi Đạo mầu trong Phật pháp,
    Cho đời hiểu rõ lý chơn không.

    Khoa bói toán căn cứ vào yếu tố như ngày, giờ, tháng, năm sanh của người xin coi bói để giải đoán tương lai đời người về vận mạng, tình duyên, gia đạo, chọn hướng nhà đất thích hợp, chọn tuổi để cưới hỏi, giải hóa sự sung khắc vợ chồng, ngay cả chọn ngày khai trương cửa hàng v.v…
    Nếu xét về tâm lý học, những người nầy thường là những người có vấn đề về gia đạo hay công danh sự nghiệp bất như ý hay cũng có thể đang lo toan điều gì. Họ tìm đến những người coi bói để tham vấn hầu dựa vào lời khuyên đó để làm theo. Họ là những người có tâm mong cầu và tâm sợ hải, thiếu niềm tin nơi chính mình mà lại tin vào việc bói toán hoặc tin vào một thần linh nào đó. Ngay cả những người tu Phật, nhưng còn bị vô minh, xem ông Phật như là một vị thần linh có thể ban phước, giáng họa. Họ cũng tìm đến một chùa nào đó có bày ra việc xin xăm cầu đảo để cầu xin một điều gì đó.
    Có ba hình thức bói toán thông dụng. Đó là bói bài, xem lá số tử vi, lên đồng nhập cốt. Bói bài là dựa vào dấu hiệu nơi những con bài do con người vẽ ra rồi giải đoán. Coi lá số tử vi dựa trên sự tương tác của các ngôi sao vào lúc người đó chào đời. Những ngôi sao nầy có một số đặc tính nhất định do con người đặt ra, xem như là vị thần linh. Bói qua việc lên đồng là để vong linh của một người chết nào đó nhập vào và làm trung gian truyền thông ban bảo các lời khuyên hướng dẫn cho những ai cần giúp đỡ.
    Hiện nay có nhiều loại sách báo về khoa tử vi bói toán bày bán ở các quày hàng hay các tiệm sách. Các lời tiên đoán hay giải đoán thường có tính chung chung vô thưởng vô phạt, nhưng những người tin tưởng thường có tâm lý suy đoán áp dụng cho trường hợp của mình mà đôi khi họ cảm thấy đúng.
    Việc ghi ngày tháng trên các lịch sách hoàn toàn không có cơ sở. Vì lợi ích kinh doanh, các nhà làm lịch sách tự đặt thêm cho ngày tốt xấu. Họ đặt ra ngày nầy nên làm việc nầy, ngày kia nên làm việc nọ, khiến cho người có lòng tin dễ tin theo. Người phương Tây có bao giờ lựa ngày tốt xấu để khai trương cửa hàng đâu, thế mà cửa hàng của họ vẫn thịnh vượng như thường. Họ đâu có thờ ông Địa hay ông Thần tài, nhưng họ làm ăn vẫn phát tài. Họ chỉ tính ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch để làm việc theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp.
    Vì mù quáng, khiến con người mất hết trí thông minh để phán đoán, rồi lâm vào tình trạng mê tín. Hậu quả của mê tín rất tai hại có thể làm cho gia đình ly tan, ví như người đàn bà thường hay ghen bóng ghen gió cho người chồng vì nghi ngờ có tình nhân mới, rồi nẩy ra ý định đi xem tử vi bói toán. Thầy bói thường dùng yếu tố tâm lý về người đến coi bói, nên nói trong lá số người chồng có số đào hoa, nên vội tin ngay không cần suy xét, không cần tìm hiểu hư thực ra sao. Thế là cơn giận dữ bắt đầu nhắm vào người tình không có thật của chồng. Chồng vợ cải vã nhau đưa đến bất an trong gia đạo do việc mê tín coi bói của người vợ.
    Đạo Phật là đạo giác ngộ giải thoát, nên tử vi, bói toán, đồng cốt không thấy nói trong giáo lý của Đức Phật. Đức Phật đã từng dạy mọi sự việc đều do tâm tạo, cho nên chỉ cần tâm an ổn thì chỗ nào cũng yên. Đức Phật cũng đã khuyên các đệ tử không nên xem bói toán, xem quẻ, xem sao, xem tướng số. Những điều nầy không ích lợi gì cho việc tu tập.
    Theo đạo Phật, mọi sự việc trên đời đều do luật nhơn quả chi phối, đau khổ hay sung sướng, giàu sang hay nghèo khổ đều do nhân thiện ác chúng ta đã gieo trồng từ nhiều đời sống trước, rồi đời nầy hay đời sau chịu quả báo. Cách sống hiện tại có chuyên cần hay chây lười cũng ảnh hưởng đến vận mạng của chúng ta trong hiện tại hay đời sau, tục ngữ có câu “ Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ sai sưa tối ngày”. Mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau là do nhân gieo đời trước khác nhau nên tiếp nhận hoàn cảnh khác nhau đời nầy.
    Sự di truyền cũng có ảnh hưỡng đến đời sống của một người suốt cuộc đời do từ nề nếp gia phong giáo dục. Ngoài ra trong họ hàng, anh em, thầy bạn, đồng nghiệp cũng có ảnh hưởng. Tuy nhiên, dầu cho nhân xấu ở đời trước dẫn tới quả hiện tại thế nào mà một người trong kiếp sống này biết tu nhân tích đức sống bằng trí tuệ, bằng chánh kiến thì vận mạng cũng sẽ biến đổi theo chiều hướng tốt.
    Phật giáo quan niệm không có đấng sáng tạo, rồi sai sử, thưởng phạt con người trong sự sống hay sự chết. Người theo đạo Phật không tin tưởng số mạng của con người không do định mệnh an bài. Tiến trình nhân và quả không do một nhân vật toàn năng nào điều khiển và định đoạt mà do hành động của thân, khẩu,ý của chúng ta hàng ngày. Ta phải chịu trách nhiệm của hành động ta làm dầu xấu hay tốt. Chúng ta làm chủ tạo ra nhân, thì chúng ta cũng làm chủ của thọ quả. Cho nên muốn hưởng quả tốt, chúng ta cần sáng suốt tạo nhân tăng trưởng theo đường hướng tốt thì tự nhiên sẽ có quả ngon đến cho chúng ta dễ dàng. Nếu chúng ta tin sâu vào lý nhơn quả ta sẽ không còn mê tín theo tử vi bói toán và xin xăm cầu đảo.
    Chuyện kể về chú Sa di trẻ ở cùng chùa với một vị trụ trì đã chứng quả A-la-hán. Vị trù biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh, không thể tránh khỏi, lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Trên đường về nhà, anh học trò thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy đe dọa cuốn đi. Chú Sa di động lòng thương bầy kiến đang nháo nhác, bèn nhảy xuống nước ra sức đắp lại chỗ bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, chú Sa di tiếp tục lên đường về thăm nhà và sau một tuần lễ chú trở lại chùa. Vị thầy trụ trì thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, bèn hỏi chú Sa di, tuần lễ vừa qua đã làm những gì. Sau một hồi nhớ lại, chú Sa di tường thuật cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến thoát chết. Vị trụ trì kết luận là do chú Sa di phát tâm từ bi rộng lớn cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lại vẫn sống an toàn vả tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.
    Không có gì là cố định hay gọi là định mệnh, vì tâm thức của chúng ta biến chuyển từng sát na, do đó nghiệp thức cũng như nghiệp quả cũng thay đổi theo từng sát sa. Nếu chúng ta tin vào tử vi bói toán, nghe theo lời của ông thầy bói những gì xảy ra trong tương lai tức là chúng ta tin vào muôn sự muôn vật trên đời nầy là thường chớ không phải vô thường. Cũng như nghĩ cái gì có mặt trên đời nầy đều được xếp đặt theo định mệnh an bài tức là chúng ta đã mù quáng phủ nhận luật nhơn quả và giáo pháp vô thường của Đức Phật dạy.
    Tóm lại, việc coi tử vi bói toán, việc xin xăm cầu đảo là một thứ mê tín; nó tạo cho con người trở nên yếu hèn, không tự tin nơi chính mình, đi ngược lại qui luật nhơn quả mà đạo Phật coi như là căn bản để chuyển hóa nghiệp lực của dòng sinh mệnh. Chúng ta là người tu theo đạo Phật mà lại chấp nhận mê tín được sao! Hãy tin sâu nhơn quả, tự tin nơi chính mình, “không làm điều ác, làm các việc thiện lành, giữ tâm ý thanh tịnh”, đó là chư Phật dạy.

    F. Cúng sao giải hạn


    Bài viết của cư sĩ Hoàng Liên Tâm về “ Cúng sao giải hạn” khá rõ ràng; chúng tôi xin giới thiệu đến quý độc giả để tường sự việc:
    Hàng năm cứ vào dịp đầu năm Âm lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa thường có lệ đi cúng chùa dâng số cầu an cúng sao giải hạn. Vì là ngày Rằm đầu năm nên các chùa ở trong nước cũng như hải ngoại thường tổ chức lễ rất trọng thể nhằm đáp ứng nhu cầu quần chúng Phật tử. Hầu như chùa nào cũng có chương trình cầu an đầu năm. Tuy nhiên vẫn còn một số chùa nhận ghi danh Phật tử cúng sao giải hạn vào ngày Rằm tháng Giêng.
    Đến thăm một ngôi chùa khá lớn và nổi tiếng tại Hà Nội vào dịp đầu năm vừa qua, chúng tôi cũng thấy chương trình cầu an đầu năm từ ngày mồng tám đến ngày Rằm, có cúng sao giải hạn. Lễ Phật xong, chúng tôi vào phòng khách thăm thầy trụ trì. Trong phòng cũng khá đông Phật tử đến nhờ thầy xem tuổi, xem sao hạn và ghi danh vào danh sách cần cúng sao giải hạn. Chúng tôi nghe thầy nói với một Phật tử: “ Phật tử năm nay sao Thái Bạch, vào hạn Khánh Tận, Thái Bạch là sạch cửa nhà, phải dùng tám ngọn đèn hay tám ngọn nến làm lễ hướng Tây, mỗi tháng cúng vào ngày Rằm, khấn đức Thái Bạch Tinh Quân”. Tới lượt Phật tử khác và cứ như thế, người vào người ra mang trong lòng nỗi buồn vui đầu năm theo những vì sao đã an bài cho đời mình trong năm.
    Tôi rời chùa mà lòng như không vui, tự hỏi ai đã đem tập tục cúng sao giải hạn vào nơi già lam, biến chốn thiền môn nghiêm tịnh thành nơi thờ cúng Thần Tiên, cầu hên xui may rủi cho con người và cũng thương thay cho những ai đặt lòng tin không đúng chỗ, trao phận mình cho người khác xử lý qua việc khấn sao xin giải hạn trừ xấu.
    Thật ra lễ Rằm Tháng Giêng còn gọi là lễ Thượng Nguyên, là lễ hội dân gian ở Việt Nam được du nhập từ nước láng giềng Trung Hoa Phương Bắc. Gọi Thượng Nguyên là cách phân chia theo Âm lịch: Thượng Nguyên ( Rằm tháng Giêng) Trung Nguyên ( Rằm tháng Bảy) và Hạ Nguyên ( Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt trăng. Theo một số sách Trung Hoa, như Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi sao phát sáng trên trời. Có sách nói là bảy sao, rồi sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín vì sao nầy hay còn gọi là Cửu Diệu và các sao phối trí theo các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũ hành. Theo sách nầy cho rằng thì hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi nôm na là sao chiếu mạng. Do đó có năm gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Hai sao La Hầu và Kế Đô là sao xấu, là loại ám hư tinh vì hai sao nầy chẳng thấy được mặt trời.
    Đó là theo tập tục dân gian vốn có từ đời xa xưa mông muội, khi mà con người cảm thấy quá bé nhỏ trước thiên nhiên, bị đủ loại bịnh hoạn mà chưa tìm ra thuốc chữa, cho là vì các vị Thần trừng phạt, nên sợ sệt trước mọi đủ loại Thần mà họ có thể tưởng tượng ra được, từ thần Sấm, thần Sét, thần Cây Đa, cây Đề, thần Hổ, thần Rắn, thần Núi, thần Sông (Hà Bá) v.v… Nhưng căn cứ vào kinh sách liễu nghĩa của nhà Phật, theo lời dạy trong Pháp Tứ Y: “ Y cứ theo kinh liễu nghĩa, chẳng y cứ theo kinh không liễu nghĩa”, thì chúng ta thấy không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Tuy vậy, vẫn có một số ít chùa ở những vùng địa dư còn chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống tín ngưỡng dân gian đa thần, thì các vị tu sĩ Phật giáo cũng đành phải, gọi là tùy duyên hóa độ, tùy theo niềm tin của đa số của quần chúng sơ cơ học đạo giải thoát, mà tổ chức các buổi lễ nhạc, bên cạnh những nghi thức thuần túy Phật Giáo, mục tiêu cũng vẫn là dùng phương tiện để hóa độ chúng sanh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác. Ngoài ra cũng có một số chùa ở chốn thị thành mặc dầu biết việc cúng sao giải hạn là không phù hợp với chánh pháp nhưng vẫn duy trì, hoặc do nhu cầu phát triển chùa cần sự trợ giúp của thí chủ, hoặc vì lo ngại Phật tử sẽ đi nơi khác hay theo thầy bùa, thầy cúng mà tội nghiệp cho họ phải xa dần Phật đạo.
    Tại sao chúng tôi nói là không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Bởi vì tất cả họa và phước mà con người có được đều do nhân quả của chính người ấy làm nên. Bảy ngôi sao, chín ngôi sao hay mười ngôi sao nói ở trên là do chính con người đặt tên và vẽ cho mỗi ngôi sao mang một đặc tính, chứ đức Phật không hề nói về chúng. Ngài dạy cho chúng ta về nhơn quả. Ngài dạy rằng không có quả nào từ trên trời rơi xuống hoặc dưới đất hiện lên, mà do các hành động qua thân, khẩu, ý của con người tạo ra. Con người tạo nhân tốt lành thì quả tốt lành nhất định đến. Thí dụ như chúng ta muốn có cam ngọt thì chúng ta phải chọn giống hay chiết cành từ cây cam ngọt, như cam Texas chẳng hạn. Theo vào đó chúng ta phải chăm sóc, bón phân, tưới nước đúng kỳ, thì thế nào chúng ta cũng sẽ hái được cam ngọt.
    Trong tương tự như vậy, mọi sự thành công hay thất bại trong đời của mỗi người không phải do ai ban phát cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ quả tốt. Nhà Phật có câu “ muốn biết thời quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta đang lãnh. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”. Tuy nhiên, nhơn quả không đơn thuần mà rất đa dạng, trùng trùng, chẳng chỉ do trực tiếp ở đời hiện tại mà lại có thể do ảnh hưởng từ nhiều đời trong quá khứ, ngoại trừ những người tu hành liễu đạo, tới được trạng thái “ Tâm không” thì “ Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không” ( Vĩnh Gia Huyền Giác).
    Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo quả xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng. Phật giáo dạy rằng bất luận việc gì xảy đến cho chúng ta, đều do một hay nhiều nguyên nhân, chớ không do ngẫu nhiên, thời vận hên xui hay số mạng an bài.
    Đối với Phật giáo, không có ngày nào xấu, mà cũng không có ngày nào tốt, mà cũng không có sao hạn nào xấu tốt. Nếu ta đi coi xăm, bói quẻ, coi sao, coi hạn, thầy nói ngày ấy tốt mà lại đi làm những chuyện không tốt lành,như ăn trộm, gây gổ, đánh nhau, giết người, chắc chắn chúng ta sẽ bị pháp luật trừng trị và ngày tốt do ông thầy nói ấy trở thành ngày xấu ngay. Như vậy ngày tốt, ngày xấu không có cơ sở, chỉ là do con người bày ra mà thôi. Lại thí dụ có hai đạo quân giao tranh, đều chọn ngày tốt và giờ hoàng đạo ra quân, vậy mà chỉ có một bên thắng, và cả hai bên dù thắng dù thua, cũng đều có tử sĩ và thương binh. Chọn ngày tốt mà việc giết người thì quả trổ ra sẽ có chết choc là vậy.
    Đối với việc cúng sao giải hạn, nếu chỉ mua sắm lễ vật mang lên chùa để xin thầy cúng sao La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch gì đó để giải hạn xấu giùm thì nghịch lại lý Nhân Quả. Nếu vị thầy cầu xin đức Thái Bạch Tinh Quân, đức La Hầu Tinh Quân…tha tội, giải hạn xấu nổi thì những người giàu có cứ tạo ác rồi sau đó xin thầy cúng sao giải hạn cho tai qua nạn khỏi, cho khỏi bị tù tội, tạo nhân ác mà hưởng được quả thiện, thì toàn bộ nền đạo lý xây dựng trên quan điểm về lý Nhân Quả mà nhà Phật rao giảng phải sụp đổ sao?
    Có người hỏi rằng, nếu chỉ tin vào quy luật Nhân Quả thì có nên cúng bái Cầu Siêu, Cầu An không?
    Xin thưa, cúng bái Cầu Siêu, Cầu An khác với cúng sao giải hạn.
    Trường hợp Cầu Siêu, đó là một hình thức tưởng niệm người đã qua đời, với tâm thành ước mong thần thức người quá vãng được sanh về nơi tốt đẹp. Chuyện lời cầu có được đáp ứng hay không thì chưa ai chứng minh bằng khoa học được. Nhưng lòng thương nhớ mà thân nhân dành cho người quá vãng nếu được biểu lộ bằng những buổi lễ trang nghiêm với niềm tin tưởng thành kính, chí tâm cầu nguyện cho người quá vãng, thì nếu như thần thức người quá vãng còn trong trạng thái trung ấm, sẽ có thể có cảm ứng tốt mà vơi đi nỗi buồn rầu, lo sợ, sân hận, có thể tạo được cơ hội cho nghiệp lành dẫn dắt mà tái sanh.
    Ngay như những buổi cúng giỗ, nếu gia đình người quá vãng có thể thiết lễ trên chùa, cùng nhau vì người quá vãng mà tụng một thời kinh, dùng một bửa cơm chay tịnh, thì ngoài biểu tượng của lòng hiếu thảo từ con cái hướng lên cha mẹ, hoặc tình thương mến đối với người thân nhân qua đời, cũng còn là một duyên lành của những người tham dự với nhà Phật khởi lên từ kỷ niệm đối với người quá vãng.
    Còn trường hợp lễ Cầu An thì chúng tôi thiết nghĩ, nếu có được kết quả tốt thì chính người bệnh phải cùng với thân nhân tham dự buổi lễ. Mà phải tham dự với tâm niệm chí thành. Người bệnh và tất cả thân nhân đều đồng tâm chí thành tụng niệm, thì ngay trong những giờ phút chí thành đó, tâm họ đã thanh tịnh. Nhà Phật quan niệm rằng tất cả Thân và Tâm đều vô thường cho nên khi Tâm chuyển thì nghiệp chuyển, nghiệp chuyển thì bệnh chuyển. Bệnh là do Thân, Khẩu, Ý Nghiệp xấu tạo nên.
    Có câu: “ Tâm được tịnh rồi, tội (nghiệp) liền tiêu”.
    Vậy muốn Cầu An cho có kết quả thì ngoài vị thầy, chính người bệnh và thân nhân phải cùng nhau hành trì để cho Tâm được tịnh. Sự kiện thân nhân nên cùng nhau tụng niệm là để cho người bệnh được tăng trưởng niềm tin khi thấy có bạn đồng tu, chứ nhân vật chính vẫn là người bệnh. Còn như chỉ đưa tiền cho vị thầy để nhờ thầy tụng niệm giùm, rồi xoa tay hoan hỉ về nhà chờ kết quả thì trái quy luật Nhân Quả. Vị thầy tụng niệm thì Tâm thầy tịnh, người bệnh không được ảnh hưởng, ngoại trừ chút hy vọng!
    Đức Phật là vị đạo sư, Ngài không làm chuyện bất công là ban phước hoặc giáng họa cho ai, đã dạy chúng ta rằng phải tạo nhân lành dể hưởng quả tốt trong Nhân Thừa. Rồi Ngài dạy chúng ta con đường để thắng tiến trong năm Thừa của nhà Phật, từ Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, rồi đi tới giải thoát khỏi luân hồi sanh tử.
    Quý vị tu sĩ trong đạo Phật là Trưởng Tử Như Lai, hiển nhiên là phải nối tiếp bước chân của Đức Phật mà soi chiếu Ánh Đạo Vàng cho Phật tử, dạy Phật tử những điều Phật dạy trong kinh. Quý vị tu sĩ Phật giáo không phải là những người môi giới giữa Thần Thánh và tín đồ như tu sĩ của một số tôn giáo khác, tự nhận là có thể cầu xin Thần Thánh bao ơn giáng họa được. Chúng ta cần dùng trí huệ để hiểu rõ con đường giải thoát của nhà Phật.
    Trong kinh Phật Giáo Nguyên Thủy ( kinh Trường Bộ), Đức Phật đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, những người đã thọ dụng sự cúng dường của tín thí Phật tử, không nên thực hành những tà hạnh như: “ chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem địa lý, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng, mờ… sắp đặt ngày lành để đưa (rước) dâu hay rễ về nhà, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước…”.
    Ngoài ra, cũng trong kinh Nguyên Thủy ( Giải Thoát Kinh), Đức Phật đã dạy về giáo pháp của chư Phật. Ngài dạy rằng: “Ai hành trì chánh pháp. Là cúng dường Đức Phật. Bằng cách cao quý nhất. Trong các sự cúng dường…”.
    Pháp mà ngài dạy có thể tóm lược trong ba điều, đã trở thành quen thuộc mới mọi người Phật tử:

    Không làm các việc ác
    Siêng làm các việc lành
    Thanh tịnh hóa tâm
    ý


    Như vậy nếu mỗi Phật tử đều hành trì ba điều Đức Phật dạy kể trên thì giờ nào, ngày nào, tháng nào hay năm nào cũng đều là giờ hoàng đạo, là ngày tốt, tháng tốt năm tốt cả; đâu cần phải đi nhờ thầy cúng sao giải hạn nữa. Và hành trì như thế mới là cách cúng dường cao quý nhất trong các cách cúng dường Đức Phật. ( Hết trích).

    G.Thầy cúng


    Trong giáo lý nhà Phật không có từ ngữ “ thầy cúng”, nhưng trong dân gian họ thường bày ra những điều huyển hoặc mê tín dị đoan, mướn mấy ông thầy cúng đám làm trò kỳ quái, đem kinh kệ đi tụng mướn để thọ hưởng tiền công của bá tánh, làm sai tông chỉ tu hành, đó là điều nên tội mà tăng chúng đâu có biết, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ nghiêm khắc phê phán:

    Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,
    Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền.
    Chốn Diêm Đình ghi tội liên miên,

    Mà tăng chúng nào đâu có rõ.
    Hay:
    Xá với phướng là trò kỳ quái,
    Cũng như:
    Xá phướng tăng sư tạo việc tồi.

    Xá hạc, xá ngựa, lầu kho, phướng số là những đồ vật của mấy ông nhưn bông, làm đám tạo ra để đốt khi có người đem tiền đến để nhờ làm lễ cầu siêu. Họ nói với tang chủ rằng người chết ở dưới âm phủ xài được và xá hạc, xá ngựa sẽ mang số tiền đến Trời Phật”. Điều dối dạt như vậy mà vẫn có người tin. Về điểm nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã từng khuyên bảo, nhưng chúng sanh vẫn chứng nào tật nấy, chẳng có chút gì tiến bộ, Ngài nói:

    Làm chay đám tạo nhiều xá mã,
    Bay về Tây nói những chuyện gì?
    Thấy chúng sanh làm chuyện quái kỳ,
    Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ.
    Lời chơn chánh hình như nói xỏ,
    Mà không không nào có biến đời.
    Thấy lạc lầm khuyên nhủ ít lời,
    Chớ nào có ngạo chi tăng chúng.

    Soạn giả Lê Ngọc Trụ giải thích từ “ thầy cúng” trong tự điển Việt Nam như sau “ tiếng gọi một cách mĩa mai những thầy chùa làm đám ăn tiền chứ không thiết gì đến kinh kệ, giáo lý nhà Phật”. Chúng ta có thể hiểu từ “thầy cúng”, ngoài các ông lợi dụng lớp áo người tu hành, lợi dụng kinh luân để tụng lấy tiền, còn có hạng người chuyên nghề cúng bái tà quỷ, thần thánh được kẻ có lòng mê tín mời đến nhà làm lễ. Ngoài hạng người trên còn có hạng người gọi là “ nhưn bông” là những người dọn sắc diện như nhà tu nhưng chỉ đi làm đám cầu siêu và tụng kinh mướn cho người ta làm hoen ố đạo Phật.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ mô tả việc làm của các thầy làm đám nầy coi như là chuyên nghiệp như sau:

    Kinh với Sám tụng nghe thảnh thót,
    Lũ nhưn bông tập luyện đã rành.
    Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh,
    Làm ăn rập đặng đòi cao giá.
    Tâm trần tục còn phân nhân ngã,
    Thì làm sao thoát khỏi luân hồi.
    Hay:
    Lập trai đàn ch
    ạy chọt lao xao,
    Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật.


    Mấy thầy nhưn bông bày ra các món đẩu đờn, kèn trống, chuông mõ, tụng tán v.v… để đi làm đám, lòng còn đầy tham sân, si, nhân, ngã, lừa người dối Phật, họ tự trói mình vào luân hồi sanh tử, mong gì cầu siêu cho ai được.
    Tăng chúng và nhưn bông còn bày trò hát Phật giống như hát bộ cũng mang râu, đội mão, vẽ mặt v.v…, dựa theo sử liệu Phật Giáo.
    Sau đây là câu chuyện, do ông Võ Quang Lệ ở xã Hòa Hảo thường thuật: Vào ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Mão (1939), tại An Hòa Tự làng Hòa Hảo, có cuộc trai đàn do ông Võ Quang Lệ là tang chủ. Ông đem tiền đến chùa, nhờ sư trụ trì là Yết Ma Thường tổ chức lễ cầu siêu cho thân phụ ông nhân ngày lễ làm tuần trăm ngày.
    Trong cuộc trai đàn ấy, dĩ nhiên là có tụng kinh, gõ mõ, có xá phướng lầu kho theo tục lệ của mấy thầy làm đám. Giờ cúng ngọ gần tới thì cũng chính nhằm dịp Đức Thầy vừa đến. Sau khi đi một vòng thăm “ đại hùng bảo điện”, Đức Thầy bước vào hậu đường, trong khi Yết ma Thường cùng ông Lệ đang săm soi sửa chữa lại mấy xá hạt, xá ngựa để chuẩn bị cho kịp giờ “đưa tiển về Trời”.
    Đã biết tin Đức Thầy bất thần ghé chùa và cũng biết ý Đức Thầy lúc nào cũng đả phá những điều dị đoan và lợi dụng, nên Yết ma Thường không vui. Ông muốn nhân dịp nầy “hạ uy tín” Đức Thầy để bù trừ điều Ngài không chấp nhận việc ông nầy “Làm chay đám tạo nhiều xá mã” và “Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền”; đồng thời cũng để thử xem oai linh của Đức Thầy, nên Yết ma Thường lén để dưới manh chiếu xếp lại, đặt trên chiếc trường kỷ đối diện ngay ông, một quyển kinh phổ môn, rồi chờ đợi.
    Khi Đức Thầy đến, Yết ma Thường giả bộ niềm nở mời Ngài ngồi ngay trên chiếc ghế ấy. Đức Thầy với cử chỉ hòa hưỡn và tự nhiên, trả lời ông Yết ma:
    - Được, ông cứ để tôi đứng đây nói chuyện. Đoạn, Ngài nhìn, ngay ông Lệ đang ngồi trên chiếc trường kỷ bên kia với Yết ma Thường, ứng khẩu một bài thi tứ tuyệt:

    “Cho hay Đạo cả thiệt vì tiền
    Đạo cả không tiền đạo ngửa nghiêng
    Có bạc sợ chi miền địa ngục
    Không tiền khó đến cảnh Tây Thiên'


    Nghe bài thi của Đức Thầy, ông Thường nóng mặt, còn ông Lệ như thoát cơn say. Khi Đức Thầy ra về, Yết ma Thường dở chiếu lấy quyển kinh lên cho ông Lệ xem và cả hai đều gật gù nghĩ ngợi.
    Câu chuyện trên đây là lời cảnh tỉnh cho những ai chưa chịu chừa bỏ những điều phi lý theo đường mê tín hoang đường không đem lại lợi ích nào cả.
    Nhận thấy có một số tăng chúng thời nay, đúng là họ phải rán lo trau giồi trí tuệ, khuyên dạy bá tánh ăn hiền ở lành, bỏ ác tùng thiện, hiếu thuận từ hòa hầu hồi hướng công đức cho Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng. Nhưng trái lại họ bày ra những cuộc trai đàn với nghi thức rườm rà đượm màu sắc mê tín, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên “Vậy hãy mau bỏ bớt dị đoan”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Thấy chúng sanh còn hỡi say mê
    Khùng chỉ rõ đường tà nẽo chánh
    Hay:
    Bỏ dị đoan mới thấy đạo mầu
    Bớt giả dối gặp người thượng cổ

    Ngài thấy sự lầm lạc như thế mà động lòng thương, nên ngài kêu gọi thiện tín mau tỉnh ngộ trở về chân lý.
    Việc hiếu thảo là do mình làm mới có hiệu quả, chớ ỷ có nhiều tiền của mướn tha nhân làm dùm chữ hiếu chỉ vô ích “Mình làm chữ hiếu mới hay. Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu. Muốn cho tội lỗi mòn tiêu. Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay”. Hãy tin sâu nhơn quả, làm lành hưởng phước, làm ác mang tai, không hề sai chạy chút nào. Xưa kia Đức Phật từng bảo: “Cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sinh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều, suy tư, tịnh ý; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn tư tưởng phải quấy, chớ không phải đem tài vật lễ mễ Phật Trời mà được”.
    Đây là lời chỉ dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ, chúng ta hãy nên suy nghiệm, dùng trí tuệ và chánh kiến minh xét cho rõ ràng, kẽo sa địa ngục uổng thân uổng kiếp:


    Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,
    Từ xưa nay có mấy ai thành?
    Phật từ bi độ tử độ sanh,
    Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
    Xá với phướng là trò kỳ quái,
    Làm trai đàn che miệng thế gian.
    Kẻ vinh hoa phú quý giàu sang,
    Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
    Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
    Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn.
    Thấy lạc lầm đây động lòng son,
    Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.
    Ở dương thế tạo nhiều cảnh khổ,
    Xuống huỳnh tuyền Địa ngục khảo hình.
    Tuy lưới Trời thưa rộng thinh thinh,
    Chớ chẳng lọt những người hung ác.
    Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
    Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm Đình.
    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.
    Tìm Cực Lạc, Đây rành đường ngõ,
    Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.
    Tận thế gian còn có bao lâu,
    Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.
    Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
    Mở lòng nhơn tiếp rước mới là.
    Làm hiền lành hơn tụng hơ hà,
    Hãy tưởng Phật hay hơn ó ré.


    H. Đồng bóng, đồng cốt

    Đồng nghĩa đen là trẻ con, tâm hồn chưa vẩn đục. Cốt là xương chỉ người cho thần linh mượn xác. Đồng cốt là những người ngồi đồng, là trung gian để thần linh mượn xác và phán truyền. Đồng bóng có nghĩa là bóng (thần linh) mượn hình đồng để tiếp xúc, khuyên dạy người thế gian.
    Khi lên đồng, vị thần linh xưng danh tánh biểu lộ sự phán dạy và có tính cách bất thường chợt vui, chợt buồn hay ra đi bất chợt. Nếu suy xét cho kỷ, ta thấy lời phán truyền của vị thần linh qua lời Đồng cốt có tính huyển hoặc, hư hư thực thực khó đánh giá mà đôi khi rất vô lý, thế mà có những người mê tín theo đồng bóng phụng hành.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ kêu gọi bá tánh hãy trở lại con đường chánh tín, dầu ai có nghe hay không thì cũng mặc tình. Việc Ngài truyền dạy chúng sanh là do sắc lịnh của Quan Thế Âm, Phật Tổ, Phật Thầy. Ngài thuyết:


    Dương gian làm huyễn nói càn,
    Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
    Hò reo giục trống nhiều câu,
    Sai đồng khiển quỷ nói lâu nực cười.
    Ta khuyên hết thảy các người,
    Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
    Đừng hò đừng réo làm chi,
    Nghinh ngang kêu múa có khi hại mình.
    Nghe không thì cũng mặc tình,
    Nói cho rõ rệt dân tin không là.
    Quan Âm Nam Hải Phật Đà,
    Cùng Thầy ra lịnh nên ta giáo truyền.
    Thánh Thần không phải thiếu tiền,
    Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.

    Các người phù thủy chữa trị bịnh nhân thì đọc thần chú, kêu gọi các bậc Thần Tiên mà sai khiến làm điều tà mị theo ý muốn, nên phạm tội lộng ngôn, phạm thượng hoặc cho sát sanh hại vật mà cúng tế tà quỷ, khiến chúng ăn quen, quanh quẩn theo phá xóm làng, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên: “Đừng theo lũ quỷ lũ ma. Cúng kiến nó mà nó phải ăn quen”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy: “Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng nó mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta”. (Điều răn cấm thứ 5). Hay: “Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay nguyền rủa vì Thần Thánh không can phạm đến ta”(Điều răn thứ 4).
    Dưới thời Pháp thuộc, dân trí còn thấp kém, thường hoang mang nên hay tin theo phù thủy, đồng bóng. Họ bày điều huyễn hoặc để lường gạt người dân quê vốn ít học, nhẹ dạ dễ tin theo. Nếu ai có bịnh rước họ đến bày binh bố trận nào là đờn kèn, trống phách sai đồng khiển tướng, tróc quỷ, trừ ma chỉ làm trò cười cho thiên hạ trong việc làm mê tín giả dối.
    Tóm lại đồng bóng là việc làm dối mị, chúng ta là người tu theo đạo Phật đã học hiểu được những tinh hoa của giáo pháp như lý nhơn quả, nghiệp báo, chánh kiến, giải thoát…nhất là nhận thức sâu sắc nhơn quả và nguy hại của việc theo đồng bóng thì không còn tin tưởng vào những lời huyễn hoặc mang danh thánh thần nữa.
    Sau đây là bài thơ trào phúng của thi sĩ Trần Thế Xương diễn tả cảnh lên Đồng:


    Khen ai khéo vẽ cảnh lên đồng,
    Một lúc lên luôn sáu bảy ông.
    Xác quỷ, ông dùng cây kiếm gỗ,
    Ra oai, bà giắt cái khăn hồng.
    Cô giương tay ấn tan tành núi,
    Cậu chỉ ngọn cờ cạn dốc sông.
    Đồng giỏi sao đồng không giúp nước.
    Hay là đồng sợ súng thần công?

     
  5. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    CHƯƠNG IV.

    TÀI SẢN CỦA NGƯỜI TU

    Trong “Lời Khuyên Bổn Đạo”, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên: “Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hành chơn chất…”.
    Đối với người xuất gia sống đời phạm hạnh thì tiền bạc, tài sản, không quan trọng; nhưng tiền bạc, tài sản là phương tiện cần thiết trong việc sinh sống của người cư sĩ. Đức Phật là bậc trí tuệ toàn giác, chẳng những không bảo người cư sĩ phải sống đời khổ hạnh, viễn ly tài sản vật chất mà Ngài còn dạy người cư sĩ phương cách tạo ra tiền bạc, tài sản một cách hợp pháp và cách xử dụng tiền bạc, tài sản thế nào để có ích cho mình và cho xã hội. Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật đã dạy gia chủ Anathapindika 5 lý do để tạo dựng tài sản, đó là làm giàu bằng sự phấn đấu không ngừng, bằng trí tuệ và công sức, bằng những hình thức lao động, bằng kinh doanh hợp pháp.
    Rõ ràng Phật giáo không bài trừ vấn đề kinh tế. Sự phát triển kinh tế phải song hành với việc phát triển tinh thần hay nói cách khác con người không thể chỉ dựa vào tinh thần mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế. Cho nên theo kinh Phật giải ra rằng con người có bốn mong cầu:
    -người bình thường cho sự giàu có về vật chất là mong cầu trước nhất của họ.
    -khi đủ tiền tài, mong muốn mình có tiếng tăm lừng lẩy.
    -đủ tiền tài danh vọng rồi, mong cầu cho được sức khỏe sống lâu.
    -được tiền tài, danh vọng, tuổi thọ rồi, lại mong cầu sau khi chết được sanh về cõi tốt hơn.
    Theo kinh Andha Sutta, bốn điều mong cầu trên của con người, cho thấy thế gian có ba hạng người:
    1- “Người mù”, đã không có con mắt về tiền tài, không biết giữ gìn nguồn tài chánh vốn có của mình cùng tạo dựng cho mình nguồn tài chánh mới, lại cũng không có con mắt về đạo đức nên không hề nghĩ và không hề biết tu tập trên phương diện đạo đức.
    2- “Người một mắt”, là người chỉ có con mắt về tiền tài mà không có con mắt về đạo đức, người ấy chỉ biết bảo vệ nguồn tài chánh vốn có và xây dựng nguồn tài chánh mới nhưng không hề biết tu dưỡng và xây dựng nền tảng đạo đức cho chính mình.
    3- “Người hai mắt”, là người vốn có con mắt về tài chánh lại đầy đủ con mắt về đạo đức, biết phát triển đồng nhất và đầy đủ về cả hai phương diện vật chất và tinh thần trong cuộc sống của mình.

    Người có hai mắt là người tiến trên đường đạo dễ dàng hơn. Còn người mù và người một mắt không thể nào là người có hạnh phúc được.

    Cũng trong kinh nầy, lại có hai hạng người nữa, đó là người đen tối và người quang minh:
    - người nghèo lại không có tín ngưỡng thì người ấy từ trong bóng tối bước vào đen tối. Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết về hạng người nầy như sau:

    Nghèo bạc vàng đạo đức cũng nghèo

    - nếu một người tuy nghèo nhưng có tín ngưỡng thì người ấy từ trong bóng tối bước ra ánh sáng. Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết về hạng người nầy như sau:

    Nghèo lương hiền biết niệm Di Đà
    Mà mai sau thoát khỏi tinh ma
    Lại được thấy cảnh Tiên nhàn hạ

    -nếu một người giàu có nhưng lại không có tín ngưỡng thì người ấy đã từ nơi ánh sáng bước vào đen tối. Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Giàu sang lắm kẻ vô nghì
    Nghĩ mình trên bực kể gì nghĩa nhân
    Chẳng kiêng chẳng kể Phật Thần
    Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang
    Hay:
    Phật Trời chẳng luận giàu nghèo
    Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên

    -một người giàu có lại đầy đủ về tín ngưỡng thì người ấy từ ánh sáng bước vào nơi ánh sáng quang minh hơn nữa. Điển hình là ông Cấp Cô Độc, như Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:
    Cấp Cô Độc là nhà bá hộ
    Còn đành lòng bố thí xả thân
    Chữ vinh hoa phú quý chẳng cần
    Miễn hiểu đạo hơn là châu báu

    Ánh sáng và bóng tối là hai trạng thái khác nhau cũng như sự khác nhau giữa người nghèo và người giàu. Tuy nhiên người nghèo cũng có thể bằng nổ lực của tự thân để từ trong bóng tối đi ra ánh sáng, nhưng sự nổ lực này so với người giàu thì khó khăn hơn, nhưng không phải là không đạt được ý nguyện như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Nghèo thời dùng đỡ cháo rau
    Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn

    Đức Phật cũng khẳng định nghèo hèn là một tai ương. Có lần Đức Phật hỏi các đệ tử: “Đối với người đời, nghèo hèn có phải là tai ương không?”. Đệ tử đáp: “ Thưa phải”. Đức Phật lại hỏi: “Nghèo hèn còn mang thêm nợ thì có phải là tai ương không?”. Đệ tử đáp: “Thưa phải”. Đức Phật lại hỏi: “Người đang mắc nợ lại vay thêm nợ nữa thì có phải là tai ương không?”. Đệ tử đáp: “Thưa phải”. Đức Phật nói: “Đến lúc đó chủ nợ đến đòi nợ, người ấy không trả nổi, bị chủ nợ làm nhục, như thế có phải là tai ương không?”. Đệ tử đáp: “Thưa phải”.

    Đức Phật dạy các Tỳ Kheo hậu quả của sự nghèo khổ như sau: “Sự nghèo khổ, nầy các Tỳ Kheo, là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; khi một người nghèo khổ không có sở hữu, sống túng thiếu, phải mắc nợ, phải chấp nhận tiền lời, khi thời hạn đến nếu không trả được tiền lời bị người ta hối thúc, bị theo sát gót, bị truy tìm và bị người ta bắt trói.
    Nầy các Tỳ Kheo, như vậy, nghèo khổ là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời. Mắc nợ cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời. Tiền lời cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời. Bị hối thúc, cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời. Bị theo sát gót, bị truy tìm cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời. Bị trói bắt cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời.
    Cũng vậy, nầy các Tỳ Kheo, ai không có lòng tin trong các thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp; người nầy, nầy các Tỳ Kheo, được gọi là các người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu trong Pháp và Luật của bậc Thánh”.
    Trong kinh điển Phật giáo có câu chuyện: Có người hỏi các tên trộm cướp, vì sao làm việc ấy. Họ nói rằng vì họ nghèo đói. Nhà vua nghe việc nầy phát lòng thương xót nên ra lệnh cấp cho họ tiền bạc và vật phẩm nên việc trộm cướp được tạm thời chấm dứt; nhưng một thời gian sau khi dùng hết số tiền tài vật được chu cấp, họ lại tiếp tục trộm cướp bởi vì họ không có cách nào duy trì cuộc sống ổn định của họ.
    Biểu hiện cụ thể của sự nghèo đói là không có lòng tin, không biết hổ thẹn, không biết sợ hãi, không siêng năng, thiếu hẳn trí tuệ.
    Trong một hoàn cảnh nhất định nào đó Đức Phật nhìn thấy có đủ nhu cầu tối thiểu về vật chất lại quan trọng hơn tín ngưỡng, như có một anh nông dân mất bò, đi tìm suốt ngày nhưng không thấy. Khi đi ngang qua nơi Phật đang thuyết pháp và y muốn nghe pháp. Đức Phật biết người nầy suốt ngày chưa ăn uống gì, nên Ngài gọi đệ tử chuẩn bị cơm canh cho anh ấy ăn trước rồi sau mới nghe pháp. Điều nầy chứng tỏ rằng Đức Phật biết rất rõ, khi con người đang bị đói khát thì không thể nói đến tín ngưỡng được. Cũng như trong hoàn cảnh nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Giúp người đói khó nhu mì
    Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay

    Cũng như trong dân gian có câu: “Có thực mới giựt được đạo” cùng ý nghĩa.

    Nghèo khó sinh ra bạo lực và tội phạm, kinh Digha Nikaya day: “Sự thiếu thốn về văn minh vật chất làm cho nghèo khổ phát sinh; từ trong nghèo khổ mà trộm cướp hoành hành. Hơn nữa giết người, bạo lực, phỉ báng, chưởi rủa, vọng tưởng, tà kiến, phi đạo đức và những dục vọng biến thái cũng từ đó mà phát sinh, thậm chí còn dẫn đến sự leo thang của tội ác, niềm tin tôn giáo bị phá vở và sự ổn định trật tự của xã hội không giữ được.
    Để hiểu rõ thực trạng như thế, hành giả đi trên đường đạo phải tự kiềm chế khắc phục mọi khó khăn trong cuộc sống, tinh tấn vững bước cho đến ngày thành công viên mãn. Đối với những người đã phát nguyện xã phú cầu bần, xả thân cầu đạo thì tiền bạc, tài sản đối với họ không quan trọng. Không ai chê cười người tu mà nghèo xơ xác cả. Tài sản và sự giàu có của người tu thuộc về tinh thần, suốt một đời phấn đấu để đạt được một gia tài chơn không mầu nhiệm, như lời khuyên dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Nghèo thời cũng rán cháo rau
    Chớ đừng gian xảo ngày sau thanh nhàn

    Khi Đức Phật còn trụ thế, xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp:
    - đẳng cấp giáo sĩ Bà la môn, lo công việc tôn giáo.
    - đẳng cấp Sát đế lỵ, lo công việc chính trị, quân sự.
    - đẳng cấp Phệ xá, lo công việc công thương.
    - đẳng cấp Thủ đà la, làm công việc thấp hèn như sát sinh v.v…

    Đức Phật tán thành cho cư sĩ làm công việc các ngành nghề trong phạm vi cho phép, nhất là công việc công thương là chính đáng, ngoài trừ công việc của đẳng cấp Thủ đà là Ngài không khuyến khích.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy chúng ta làm công việc nào cũng tùy theo sức lực và khả năng của mình để tạo ra của cải giúp cho đời sống vật chất cũng như tinh thần được an bình hạnh phúc, Ngài khuyên:

    Dầu nghề chi làm việc ngay đường
    Ta đừng nên theo kẻ bất lương
    Học ngón xảo để lừa đồng loại

    Nên biết rằng lao động có hai dạng là lao động bằng chân tay và lao động bằng trí óc. Khi Đức Phật còn tại thế, có người ngoại đạo từng chỉ trích Đức Phật không làm gì cả. Đức Phật trả lời:
    “Ta cũng giống như ông, cũng làm ruộng bằng hạt giống tín ngưỡng, nguồn nước khổ hạnh, lưỡi cày lý giải, mương nước khiêm tốn, nguồn phân thâm từ để tạo nên hạt giống trí tuệ. Công việc ấy với mục đích là làm lợi lạc quần sanh, tạo phúc muôn loài”.
    Con người ngoài cuộc sống vật chất cần có cuộc sống tinh thần cho nên lao động chân tay và lao động trí óc đều quan trọng như nhau trong cuộc sống không thể thiếu một được.
    Đức Phật dạy mục đích của lao động không chỉ nhằm sáng tạo ra vật chất mà còn nhằm phát triển tinh thần cho con người. Ngài hy vọng rằng thông qua lao động thân tâm và đạo đức của con người ngày thêm tiến bộ. Đức Lục Tổ Huệ Năng đã dạy “đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền, lao động cũng là một phương thức thiền”.

    I. Tài sản vật chất


    1- Kinh doanh vì lợi mình và lợi người.

    Đức Phật từng khuyến khích hàng cư sĩ phải cần kiệm lao động bằng hai bàn tay và khối óc để tạo ra nhiều của cải làm cho cá nhân và xã hội giàu có, thịnh vượng. Cách làm giàu không phải lúc nào , ở đâu cũng chân chính, thế nên người cư sĩ Phật tử phải vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn, làm giàu chân chính bằng nổ lực, cố gắng bằng trí tuệ và công sức, bằng phương thức lao động, kinh doanh hợp pháp. Mục đích cao cả của tài vật là làm ích lợi an vui, hạnh phúc cho cá nhân và tha nhân.
    Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại khu vườn ông Anathapindika. Có lần gia chủ Anathapindika đi đến, sau khi đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Đức Phật nói với gia chủ Anathapindika:
    Nầy Gia Chủ, có năm lý do gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?

    Ở đây, nầy Gia Chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ nhất để gầy dựng tài sản.

    Lại nữa, nầy Gia Chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Vị nầy làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.

    Nầy Gia Chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Các tai họa để trở thành trắng tay bị chặn đứng và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy. Đây là lý do thứ ba để gầy dựng tài sản.

    Lại nữa, nầy Gia Chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nổ lực tinh tấn… Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư thiên. Đây là lý do thứ tư để gây dựng tài sản.

    Nầy Gia Chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa môn, Bà la môn. Sự cúng dường tối thượng nầy đưa đến phước báo vô lượng ở cõi người, cõi trời. Đây là lý do thứ năm để gây dựng tài sản.

    Người cư sĩ con Phật ý thức làm giàu trước hết nhằm đem lại hạnh phúc cho tự thân, gia đình, nhân công, người phục vụ. Rồi cũng nghĩ đến đem tài sản của mình làm ra giúp cho bà con, thân hữu, bạn bè cùng tha nhân được an vui hạnh phúc. Điều quan trọng là biết cách bảo quản tài sản không lãng phí hoặc đầu tư vào những công việc không đem lại lợi ích cho con người. Người cư sĩ cũng không quên biết đem tài sản của mình làm ra để xây dựng công trình văn hóa nhớ về cội nguồn, cúng tế tổ tiên và bố thí cho các vong linh siêu mồ lạc mả đói khát. Người cư sĩ phải biết cúng dường các vị trưởng lão, người có đời sống đạo đức, phạm hạnh như Sa môn, nhằm xây dựng phước báu tốt đẹp cho tự thân trong đời nầy và đời sau.

    2. Kinh doanh không vì mục đích tội mình hại người.

    Kinh doanh, buôn bán là những nghề nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao, có nhiều cơ hội để thành công trở nên giàu có, nhưng cũng dễ dàng đưa đến thất bại. Sự cạnh tranh giá cả thị trường, dù rằng thương trường là chiến trường, nhưng xưa nay kinh doanh, buôn bán vẫn là nghề hấp dẫn “phi thương bất phú”, không lao vào kinh doanh thì khó giàu lên được.

    Một thời, Đức Phật gọi các Tỳ Kheo: “Nầy các Tỳ Kheo, có năm nghề buôn bán mà người cư sĩ không nên làm.
    Thế nào là năm?
    Buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, và buôn bán độc dược. Năm nghề nầy người cư sĩ không nên làm”.

    Không phải ai cũng dùng công sức và trí tuệ của mình để làm ăn chân chính, kinh doanh hợp pháp với hoài bảo đem lại sự hạnh phúc tự thân và góp phần cải thiện nâng cao đời sống xã hội. Có hạng người vô lương tâm, hằng nghĩ cách kiếm tiền nhanh chóng, chạy theo siêu lợi nhuận, làm ăn phi pháp, gây ra biết bao tai họa. Buôn vũ khí, lập đường dây buôn bán phụ nữ, buôn bán ma túy, băng nhóm tội phạm, đe dọa an ninh và sức khỏe của nhân loại.

    Người cư sĩ vâng lời răn dạy của Đức Phật, không nên và không được buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu và buôn bán độc dược.

    Tiền của phải tích góp một cách chính đáng, tuyệt đối không dùng bạo lực và thủ đoạn phi pháp để làm giàu và thủ đắc nguồn tài chính. Đức Phật từng dạy rằng: “Tiền của phi nghĩa dù có được dùng trong việc chính đáng như hiếu thảo với cha mẹ thì sau khi chết vẫn bị đọa vào địa ngục”.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy chúng ta làm ăn như:
    -bỏ sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, buôn rượu, bán thuốc phiện…
    -làm những nghề lương thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo.

    Ngài cũng khuyên tấn chúng ta: “Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy”.

    Việc buôn bán không có hành vi dối trá, hàng thật, giá thật, đó là đạo đức nghề nghiệp đáng có của nhà công thương. Chỉ có sự trung thực mới có thể làm to làm lâu dài như nhiều nhà buôn quảng cáo nghiệp vụ của mình có lâu hàng chục năm thậm chí có hàng trăm năm.

    Người cư sĩ phải có nghề nghiệp chân chính, nghĩa là nghề nghiệp làm lợi cho mình mà không hại cho người khác. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng do trình độ quản lý và năng lực cao thấp khác nhau, quan niệm lề lối kinh doanh khác nhau, quan hệ xã hội cũng bất đồng, cho nên rất có thể cửa hàng nầy, công ty nầy làm ăn có lãi, cửa hàng kia, công ty kia bị thua lỗ.

    Công việc làm ăn mua bán quan hệ với nhau căn bản là phải thành tín, không được dối lừa. Còn kết quả giữa kẻ mau, người bán ra sao không cần bận tâm, áy náy.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy chúng ta về thương nghiệp như sau:

    Việc bán buôn phải giữ ngang cân
    Chớ tập tánh lận lường tráo đấu
    Các công cuộc của người tánh xấu
    Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào.

    3. Thành đạt trong kinh doanh.

    Theo kinh Tăng Chi ghi: Một thời, Đức Phật trú ở Kosambi, vườn Ghosita; rồi Tôn giả Sariputta đi đến đảnh lễ và bạch Phật:
    Bạch Thế tôn, do nhân gì, duyên gì có người buôn bán thất bại, không thành đạt như ý muốn? Có người buôn bán thành tựu như ý muốn và thành tựu ngoài ý muốn?
    Nầy Sariputta, có hạng người đi đến vị Sa môn, hứa hẹn giúp đỡ nhưng không cho như đã hứa. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung đi đến chỗ nầy, dẫu có buôn bán gì cũng đi đến thất bại, không thành tựu như ý muốn.
    Như ở đây, nầy Sariputta, có hạng người đi đến vị Sa môn hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho như đã hứa. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến chỗ nầy, dẫu buôn bán gì cũng thành tựu như ý muốn.
    Ở đây, nầy Sariputta, có hạng người đi đến vị Sa môn hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho nhiều hơn như đã hứa. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, đi đến chỗ nầy, dẫu buôn bán gì cũng đạt được thành tựu ngoài ý muốn.

    Người cư sĩ ngoài việc tu học, còn có một nhiệm vụ rất quan trọng là lo việc sinh sống. Hàng cư sĩ không ít người làm nghề buôn bán, kinh doanh lương thiện. Tuy nhiên không phải ai cũng đều thành công dù làm hết lòng với công việc.

    Ở dây chúng tôi chỉ xét theo người làm ăn lương thiện, có người thì phát lên nhanh chóng, nhưng có người công việc cứ mãi trì trệ, thậm chí còn lỗ lã, cũng có khi đến phá sản.

    Về người thành công, họ lý giải rằng họ biết nhìn xa trông rộng, nắm bắt qui luật thị trường và có chút may mắn. Còn đối với doanh nhân làm ăn thất bại thì kiên nhẫn chờ cơ hội khác vì thấy mình cũng chẳng thua kém ai về khả năng thị trường nhưng mà nghĩ theo vận số “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

    Trong số những doanh nhân thành công hay thất bại hiện tại, ít có ai nghĩ đến thành công hay thất bại có liên hệ đến phước báu mà họ đã gieo trồng trong quá khứ. Điều nầy ngành kinh tế học không thể lý giải nổi mà chỉ ước đoán là cơ may trong thị trường.

    Khi nói đến phước báu thì người cư sĩ chớ vội tự mãn trong việc làm ăn khi mà “làm chơi ăn thiệt”, trái lai người “làm thiệt ăn chơi” thì chớ nên chán nản, bi quan. Trong kinh doanh, ngoài năng lực, nhạy bén, biết nắm lấy cơ hội thì may mắn vẫn là yếu tố quan trọng. May mắn theo nhà Phật chính là phước báu của mỗi người. Bởi vì : “Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức. Phước ấm no túc thực, túc y. Thấy người gặp lúc tai nguy. Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn”.
    Phước báu có được từ việc làm nhiều điều thiện, vun bồi qua nhiều đời. Sự tạo phước bằng cách trợ duyên cho người thành tựu giới đức có điều kiện tu tập là ảnh hưởng mạnh nhất. Vậy hãy xây dựng phước báu cho mình trong đời nầy hay đời sau bằng cách phát nguyện hộ trì người tu hành đúng như những gì mình đã phát nguyện.

    4. Giữ gìn tài sản

    Tài sản do mồ hôi, công lao khó nhọc làm ra, người cư sĩ phải hết sức trân quý nó, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và người.
    Đức Phật đã từng chỉ dạy chúng ta cách ngăn ngừa tiêu hao tài sản: “ Có bốn cửa nhập để tài sản được hưng hởi: không đắm say đàn bà, không đắm say rượu chè, không đắm say cờ bạc; bạn bè, thân hữu và giao du với người thiện. Ví như một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào và có bốn cửa nước chảy ra. Có người mở các cửa nước chảy vào và đóng các cửa nước chảy ra. Như vậy, nước hồ ấy ngày càng tăng trưởng, không có giảm thiểu”.
    Những ai đã từng vung tiền qua cửa sổ, để thỏa mãn cái thú đam mê, đến khi hồi tỉnh mới thấy được cái giá trị của sự góp nhặt, chắt chiu, cần kiệm. Luôn luôn quan sát tự thân, cẩn trọng với những đam mê bất chánh, giữ gìn cuộc sống được an vui hạnh phúc.

    5. Phung phí tài sản


    Những sự tiêu xài phung phí là nguyên nhân làm cho tài sản, tiền bạc không cánh mà bay khiến cho không ít người giàu lao đao và người nghèo thêm khốn đốn.
    Theo tuệ giác của Đức Phật, có sáu nguyên nhân phung phí tài sản bắt nguồn từ sự đam mê có khuynh hướng xấu của con người. Ngài dạy: “Đam mê rượu chè là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố phi thời là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà hí viện đình đám là nguyên nhân phung phí tài sản. Đam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du với bạn ác là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản”.
    Nhìn thực trạng của xã hội, thì lời dạy của Đức Phật rất xác thực không chỉ giới nhiều tiền mới phung phí mà ngay cả những người lao động thu nhập thấp cũng bị đam mê cuốn hút làm cho khánh kiệt.
    Hãy quán niệm về sự nghèo khổ của những người xung quanh, ta hãy nuôi dưỡng và phát khởi lòng từ bi chia xẻ và xử dụng tài sản một cách có ý nghĩa và hiệu quả thiết thực “Khá thương những kẻ bần cùng. Tâm lành dư của hãy dùng vào đây” là lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    6. Tài sản bị tan biến

    Tài sản và vật chất do con người tạo ra, dù có bảo quản kỷ càng đến mức nào cũng không thể trong may một bị một trong các ách nạn làm tiêu tan mà từ ngữ Phật học thường gọi là năm nhà cuốn trôi.

    6.1 Nhà lũ lụt.

    Chiến tranh, thiên tai, động đất, bão lụt thường xảy ra trên thế gian nầy. Đó là những nguyên nhân làm tiêu tan tài sản, của cải vật chất của con người mả có khi cả đời của một người lo tảo tần, vất vả, chắt chiu dành dụm được một số tài sản nào đó, rồi qua một cơn thiên tai hay chiến sự đã trở thành tay trắng.
    Sự may rũi còn mất tài sản ở trong tình huống của mỗi người không giống nhau, ta nên tự vấn. Xét cho cùng, chỉ có luật nhơn quả mới giải thích cụ thể. Như người có nhiều tội lỗi qua nhiều đời nhiều kiếp, như của cải vật chất không phải do sức lực, mồ hôi, hành vi chân chính của mình, mà dùng thủ đoạn lường gạt, cướp giựt, bóc lột người khác tạo nên. Vì vậy, đời nầy của cải vật chất tuy có nhiều nhưng phước lực không có nên chúng không tồn tại với ta lâu dài được, mà chúng đi theo các nghiệp nhân xấu của mình gây ra.
    Từ đó chúng ta nên tìm hiểu nhân nào dẫn đến giàu có, được nhiều của cải , hưởng phúc lạc thế gian mà không bị năm nhà cuốn trôi.
    Nhìn vào một trận thiên tai nào đó gây biết bao cảnh khổ đau cho con người; nhưng trong cùng một tình huống, có người bị mất mát nhiều, có người mất mát ít, có người vẫn an toàn, không hư hao gì cả, người bị mất của, kẻ bị mất mạng sống v.v…
    Ta nên tìm hiểu trong mất mát đau thương ấy tại sao có sự sai biệt như thế? Ta cũng không nên nói do Thiên số, không cưỡng lại được. Thiên số mà chúng ta muốn nói ở đây chính là luật nhơn quả đang vận hành theo chu kỳ nhân duyên tác động đến nhân xấu mà ta đã làm trong quá khứ “gieo nhân hái quả”. Hiểu được qui luật nầy, chúng ta có phương pháp chuyển hóa, thay đổi được có. Chúng ta không nên than trách cho số phận; chúng ta nên tạo tác những hành động thiện lành, tạo nhân tốt ngay từ bây giờ và dùng sự hiểu biết chân chánh cải tạo đời sống của mình cho được tốt đẹp hơn.
    Đây là những điều không nên nghĩ, không nên làm khi sống đời hiện tại như Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Thấy của người thèm khô nước miếng
    Tính làm sao lường gạt lấy đi
    Hoặc:
    Tham của tạm làm điều tàn nhẫn
    Ngài dạy:
    Vật ở trần như bọt nước làn mây
    Thân ta còn rày đó mai đây
    Của ấy cũng khi tan khi hợp
    Và:
    Giàu sang như nước trên nguồn
    Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ

    6.2 Nhà hỏa hoạn

    Hỏa hoạn thường do con người gây ra mà sự thiệt hại thật khủng khiếp khó lường. Chúng ta thấy có biết bao cảnh gia đình tiêu tan sự nghiệp cũng chỉ vì ngọn lửa vô tình, cả đời làm lụng vất vả tạo nhà, sắm sửa các thứ có giá trị trong nhà, nhưng chỉ một vài giờ hỏa hoạn là trắng tay. Tai họa do mình hoặc do người hàng xóm gây ra thảm cảnh cho nhiều gia đình cùng một lúc.
    Tai họa cũng có thể xảy ra do thiên tai như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ “Ách trời nạn nước thình lình” cho nên Ngài hằng khuyên dạy chúng sanh phải biết tích thiện trừ ác tạo nhiều công đức để được ơn trên gia hộ:
    Nước kia lửa nọ tưng bừng
    Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai
    Thời cũng tại không ai tu niệm
    Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang

    6.3 Nhà trộm cướp

    Nói nhà trộm cướp cho phù hợp với tiếng gọi năm nhà, chớ thật ra gọi nạn trộm cướp đúng hơn. Nạn trộm cướp thường xảy ra trong xã hội loài người do người nầy gây ra cho người kia. Nạn trộm cướp đâu đâu cũng có từ thành thị đến thôn quê.
    Nạn trộm cướp là của cải của một người nào đó có được do sự làm lụng tích lũy bị một người khác chiếm đoạt. Trộm là do hành động lén lút lấy của người chủ sở hữu. Cướp là dùng sức mạnh ép buộc người chủ sở hữu phải giao nạp tài sản hay dùng vũ lực tiêu diệt người chủ sở hữu để chiếm đoạt. Tuy hai hành động trộm, cướp khác nhau nhưng cùng một mục đích là chiếm đoạt của người. Hai hành động nầy đều vị phạm luật pháp, trái đạo lý làm người, trái lẽ thường tình trong đời sống con người nên bị xã hội lên án. Hành động sống ngoài vòng pháp luật nầy dầu bị trừng phạt không nới tay nhưng vẫn cứ xảy ra.
    Một đoạn văn sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ nói với kẻ bất lương vô Đạo. Ngài vừa lên án, vừa khuyên răn họ hãy trở lại con đường chân chính, ăn năn chừa lỗi:
    “Lớp người cặn bã của xã hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.
    Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi nầy đến cái lỗi khác, phạm tội nầy đến tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng những hành vi đen tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa”.
    Cũng có người sau khi bị trộm cướp lấy đi thì tìm lại được, có người thì không. Tại sao có trường hợp như thế? Theo tuệ giác của Đức Phật, mọi trường hợp xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có gì bổng dưng ngẩu nhiên mà xảy ra.
    Do lòng tham của con người vì hưởng thụ quá mức, sống lười biếng nên làm liều để tiêu xài.
    Do người có tài sản đã gieo nhân trộm cướp, lường gạt, bóc lột, làm những điều phi pháp giành lấy của người đem đến cho mình trong đời trước hay trong hiện đời dẫn đến quả báo, dẫn đến ngày nay bị trộm cướp.
    Nguyên nhân chính ở đây là “nhân nào của nấy”. Trong quá khứ do nhân tham lam, làm điều bất thiện, gây đau khổ cho người về phương diện vật chất. Cái nhân tham lam ấy dẫn đến ngày nay tài sản của mình bị người khác dòm ngó để ý. Kẻ gian phi tìm cách chiếm đoạt tài sản mình bằng nhiều hình thức tùy theo mức độ nhân xấu mình gieo tương ứng cho mức độ tài sản của mình bị trộm cướp.

    6.4 Nhà vua quan tịch thu

    Thời kỳ phong kiến vua chúa chủ trì cai trị thiên hạ, mọi quyền hành tập trung vào tay nhà vua. Do đó người nào phạm tội vua muốn xử thế nào cấp dưới đều thi hành, không được kháng biện. Vua là Thiên tử (con trời) thay trời trị vì muôn dân. Vua làm theo ý của vua, triều đình không ai dám ngăn cản. Vua trực tiếp xét xử quan lại hay dân chúng tham ô gian dối hay nghi ngờ làm tổn hại đến triều đình. Nhiều hình phạt được vua đặt ra như “tru di tam tộc” (giết sạch ba đời nội ngoại) hay tịch thu hết sạch tài sản rồi lưu đày đi nơi hoang vắng tự kiếm sống để trừ hậu họa. Ai là người mắc phải điều nói trên đều do nhân quả xấu từ đời trước mà ra. Thấu rõ điều nầy, chúng ta phải tích thiện trừ ác làm việc phước đức mới mong thoát khỏi bị nạn thế nầy.
    Ngày nay tuy không còn thời phong kiến nữa, nhưng luật pháp hiện hành cũng có các điều khoản nghiêm ngặt rất nặng như “án tử hình”, chung thân, tịch thu tài sản v.v… Cũng có người bị hàm oan vì cá nhân không phạm tội, nhưng vì tang chứng, vật chứng không thể chối cải, không thể thanh minh vì “tình ngay lý gian”. Trường hợp oan nghiệt như vậy là do quả báo nghiệp xấu người ấy đã gây tạo ra trong kiếp trước, nay hội đủ duyên thì trổ ra.
    Đó là trong một xã hội mà quyền hành cai trị bằng luật pháp, nhưng còn đối với một nước với một chế độ “phi luật pháp” hay nói cách khác đặt ra luật pháp chỉ là bình phong che đậy hành động bạo tàn mà người dân cam chịu cảnh “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Đó là vận nước, mọi người chỉ còn cầu nguyện và Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên tấn nhơn sanh:

    Nhơn sanh giữ phận chớ than
    Minh Vương xuất thế mới an dân lành
    Hay:
    Tu trì nguyện ước cầu may
    Thượng Ngươn hồi phục là ngày an cư

    6.5 Nhà con cái bất hiếu phá sản

    Là cha mẹ, ai cũng muốn cho con cái mình được sung túc, đầy đủ, ấm no. Vì thương con cái, lúc nào cũng dang tay đùm bọc, nên thậm chí đôi lúc làm những việc bất thiện để bảo hộ cho con.
    Nhiều ông cha, bà mẹ, vì muốn cho con được no đủ, ra sức làm lụng đầu tắt mặt tối ít có dịp dạy dỗ con cái. Lo kinh doanh làm giàu, lo tạo ra nhiều của cải để mặc cho con cái sống tự do phóng túng muốn làm gì thì làm, cung cấp tiền bạc cho con cái không cần biết đến nguyên do chúng muốn làm gì. Từ chỗ đó, con cái dựa dẫm vào cha mẹ, ỷ lại vào tài sản của cha mẹ, không biết lập thân, học hành đến nơi đến chốn, ăn chơi trác táng, sa đọa, kết bạn với kẻ xấu ác rồi rơi vào tình trạng hư hèn.
    Làm cha mẹ thì ai lại chẳng thương con. Nhưng chúng ta phải thương cho đúng cách để giúp chúng được trưởng thành. Chúng ta phải dạy con biết giá trị của cuộc sống bằng tinh thần tự lập, không ỷ lại vào gia đình, đặc biệt biết nhận thức đúng đắng về nhân quả nghiệp báo để tạo cho chúng có cuộc sống có giá trị, ý nghĩa và hạnh phúc.
    Là câu chuyện nhân gian sau đây: Trong một làng nọ có hai gia đình sống gần nhau. Xin gọi bằng gia đình ông Nghèo và gia đình ông Giàu.
    Ông Giàu là một điền chủ khá giả nhất trong làng. Bản thân ông Nghèo là người làm thuê mướn cho gia đình ông Giàu, nhưng có tật đam mê rượu chè, bài bạc nên tháng nào ông cũng thiếu nợ thêm của ông Giàu. Thế nên quanh năm suốt tháng làm mướn cho ông Giàu mà số nợ không vơi đi mà lại tăng thêm chồng chất. Rồi một ngày chiến tranh xảy ra mà cả hai gia đình đều nằm trong khu chiến sự. Rủi thay cả hai ông Nghèo và ông Giàu đều bị mất mạng.
    Sau khi chết, linh hồn hai ông đều xuống âm phủ chờ Diêm Vương phán xử. Để việc phán xử được công bằng, Diêm Vương ra lệnh thuộc hạ cung cấp hồ sơ đầy đủ về mọi hoạt động của hai ông trên trần gian.
    Ngày xét xử, Diêm Vương ra lệnh đưa hai vong hồn nầy đến để nghe phán xét:
    Ta thấy trên trần gian tên Nghèo tuy làm lụng vất vả quanh năm, nhưng phải tội đam mê cờ bạc, nghiện rượu, nên xuống đây vẫn còn mắc nợ của tên Giàu. Để thanh toán món nợ nầy, ta cho hai ngươi được đầu thai trở lại làm người trong một gia đình làm hai cha con với nhau. Vì tên Nghèo thiếu nợ tên Giàu nhiều, nên ta phán cho Giàu làm cha của Nghèo để bắt Nghèo nuôi nấng mà trả nợ.
    Nghe phán vậy, tên Giàu không chịu, van xin Diêm Vương xét lại. Nghe vậy, Diêm Vương phán lại, vậy thì ta cho ngươi về trần thế làm mẹ của tên Nghèo được không?
    Giàu cũng không chịu, Diêm Vương lại hỏi: Vậy ngươi muốn như thế nào?
    Giàu trả lời một câu chắc nịch: Dạ, thưa Diêm Vương, con muốn làm con của Nghèo.
    Nghe vậy, Diêm Vương hỏi tại sao muốn làm con của Nghèo?
    Thưa Ngài, làm con là sướng nhứt, lúc ấy con tha hồ đòi nợ, con đòi đủ thứ, đòi nợ công khai, đòi thứ gì Nghèo cũng phải chìu không dám trái ý.
    Câu chuyện hóm hỉnh trên đây là bài học lý thú về món nợ đời. Những người nợ nần với nhau mà chưa thanh toán trả cho nhau, kiếp sau dễ trở thành cha mẹ, con cái của nhau để đòi nợ và trả nợ với nhau. Muốn đòi được món nợ tiền khiên, có cách đầu thai làm con đòi nợ.
    Thế tình, cha mẹ nào cũng thương con, tình máu mũ luyến ái nên cha mẹ chẳng bao giờ bỏ con, chỉ có con bỏ cha mẹ mà thôi.
    Thử nhìn lại, người cùng gia đình, thân thuộc thương yêu nhau hay gây khổ đau cho nhau đều là oan gia trái chủ của nhau cả.
    Câu chuyện trên đây là bài học về khía cạnh của luật nhơn quả, chớ thật ra được sanh làm người trong một gia đình với nhau phần nhiều là do phước đức mà thành. Cha mẹ nào cũng thương con cái, nuôi nấng, dạy dỗ chu toàn từ thể chất đến tinh thần. Muốn cho con được khỏe mạnh, muốn cho con được thành đạt, hạnh phúc. Hơn nữa con cái nào cũng biết thương yêu, hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
    Rất ít gia đình có con cái bất hiếu, phá sản, không biết đạo lý làm người chẳng may lọt vào nhà thứ năm nầy. “Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu. Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan” là lời khuyên dạy hạng làm con của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    7. Sử dụng tài sản, tiền bạc đúng pháp

    Làm ra nhiều tiền của vốn rất khó khăn, nhưng biết sử dụng nó hợp lý hợp tình lại là điều không phải dễ. Một thời Đức Phật trú ở Savatthi. Rồi vua Pasenadi nước Kolasa đến Thế Tôn; sau khi đảnh lễ và ngồi một bên. Đức Phật bèn hỏi vua Pasenadi:
    “Thưa Đại Vương, Đại Vương đi từ đâu đến trong giữa trưa như thế nầy?”
    Vua Pasenadi bạch Đức Phật:
    “Ở đây, Bạch Thế Tôn, có triệu phú gia chủ ở Savatthi vừa mệnh vào nội thành. Bạch Thế Tôn, có đến tám triệu đồng tiền vàng, không nói đến tiền bằng bạc. Bạch Thế Tôn, vậy mà đồ ăn của triệu phú gia ấy lại chỉ bằng có cháo tấm chua ngày hôm qua để lại. Còn vải mặc chỉ mang vải gai may thành ba tấm. Còn xe thì đi xe nhỏ củ kỹ và hư nát có gắn tán che bằng lá”.
    Đức Phật giải thích: “Thật vậy, thưa Đại Vương! Một kẻ không phải Chân nhân, thưa Đại Vương, dầu cho có được tài sản lớn không đem lại an lạc cho mình, không đem lại an lạc cho cha mẹ, không đem lại an lạc cho vợ con, không đem lại an lạc cho các người phục vụ, cho các người làm công hoan hỷ, không đem lại an lạc cho bạn bè thân hữu, đối với vị Sa môn, Bà la môn, không thiết trí các sự cúng dường hướng thượng, có khả năng đưa lên thượng giới, đưa đến lạc quả, hướng đến Thiên giới. Các tài sản của người ấy nếu không thọ dụng chơn chánh, thời vua chúa sẽ cướp đoạt hay trộm cắp cướp đoạt, hay vị lửa đốt, hay bị nước cuốn trôi, hay bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. Sự việc là như vậy, thưa Đại Vương, các tài sản nếu không thọ dụng chơn chánh, đưa đến tổn giảm, không đưa đến thọ hưởng”.
    “Và bậc Chân nhân, thưa Đại Vương, có được tài sản lớn, đem lại an lành cho mình, đem lại an lạc cho cha mẹ, đem lại an lạc cho vợ con… Sự việc là như vậy, thưa Đại Vương, các tài sản nếu thọ dụng chơn chánh, sẽ đưa đến thọ hưởng, không đưa đến tổn giảm”.
    “Thọ dụng chơn chánh chính là sử dụng tiền bạc của mình làm ra có lợi ích cho mình và cho người khác.
    Đức Thế Tôn còn chỉ dạy phương thức thiết lập hạnh phúc trong tương lai bằng cách cúng dường chư vị Sa môn, cúng dường Tam Bảo là tô bồi ruộng phước tối thắng ở thế gian, cho nên dùng một phần tài sản dâng cúng Tam Bảo để trang nghiêm phước báu tự thân cũng là cách sử dụng đồng tiền có ý nghĩa.
    Không sử dụng đồng tiền làm phương tiện làm lợi ích cho đời sống cá nhân và cộng đồng thì tiền bạc ấy không có mấy giá trị, vì không biết thọ dụng chơn chánh. Cất giữ đồng tiền cho đầy rương đầy tủ không sinh thêm lợi ích cho mình và người, kết cuộc ra đi cũng hai tay trắng.
    Người cư sĩ lo làm ăn cần kiệm, kiếm tiền cần phải sử dụng tiền đúng pháp, đem lại lợi ích cho mình và người đời nầy và đời sau.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Giữ bo đến lúc phong ba
    Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân
    Hay:
    Chết rồi bỏ của bơ vơ
    Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời

    Câu chuyện về tai hại của sự bỏn xẻn: Một ngày kia, khi Đức Phật Thích Ca đi khất thực trong một xóm nọ, vào nhà của Đồ Đề nhưng không có chủ ở nhà. Một con chó đang ăn dĩa đồ ăn, bỗng thấy Phật thì sủa dữ lên. Phật quở rằng: “Đồ hạ tiện, đã sa sút mà còn làm dữ”. Ngài nói như thế, con chó riu ríu đi vô góc nhà nằm, với sắc mặt buồn rầu.
    Khi Đồ Đề về thấy mất con chó, hỏi người kế cận: Con chó tôi đâu, có thấy chăng?
    Khi nghe chủ lên tiếng, chó đi ra với vẽ mặt buồn rầu. Đồ Đề hỏi người bàn cận: Có ai vào nhà tôi làm gì mà con chó tôi buồn quá vậy?
    Người bàn cận nói: có Thích Ca khất thực vào đây, nhưng không có ông ở nhà rồi ra về.
    Đồ Đề vội vã đến hỏi Đức Phật Thích Ca rằng: Ngài nói con chó tôi thế nào mà nó buồn vậy?
    Đức Phật Thích Ca nói rằng: Tôi nói lẽ thật của nó, vì nó trước kia là cha của ngươi, trong một gia đình giàu, rất hà tiện, không làm sự phước đức bố thí chi, cứ mãi tiếc của nên khi chết đầu thai làm chó để giữ nhà cho ngươi đó vậy. Ngươi không tin, nói với nó, nó chỉ thêm vàng bạc cho.
    Đồ Đề lật đật về nói lại với chó rằng: Nầy chó! Người trước kia là cha ta trong gia đình, ta là con một, trọn quyền hưởng gia tài nầy, vậy nếu người còn cất của hãy chỉ cho ta.
    Con chó liền chạy xuống sàn, lấy cẳng quàu, Đồ Đề đào lên gặp nhiều vàng bạc!
    Như thế đó, chúng ta nhận thấy sự hà tiện tai hại, kết quả cho người đời như thế nào!

    Đối nghịch lại sự bỏn xẻn là sự bố thí và sau đây là câu chuyện kết quả của sự bố thí: Một hôm Đức Phật cùng Anan đến gần thành Xá Vệ, gặp một đám trẻ chơi với nhau làm trò cất nhà, cất kho, lấy cát làm lúa gạo. Đức Phật vừa đến, một trẻ em thấy, phát tâm tin tưởng Phật, nên gọi cát là cơm, đem cúng dường dâng lên cho Ngài một nhúm. Đức Phật mở thần thông thấy trẻ em ấy trọn lòng tin tưởng với căn đức lành, nên bảo Anan rằng: Đồ đệ cất nhúm cát nầy về phòng ta tô lên vách, rồi sau một trăm năm khi ta tịch diệt, thì mỗi hạt cát thành một ngôi chùa tháp. Anan ngạc nhiên bạch hỏi Phật, thì Ngài trả lời rằng: Sau nầy sẽ có vì vua ra đời tên A Dục với những quan đình thần trọn lòng tin tưởng ngôi Tam Bảo, sẽ cất tám mươi bốn ngàn ngôi chùa thờ cúng, tin tưởng xá lợi ta. Vua A Dục đó là kẻ cúng dường cát cho ta đó vậy, còn trong các đình thần tức là những trẻ chơi chung với em bé đó.
    Bằng một nhúm cát với thành tâm thật ý tin tưởng của đứa bé mà kết quả còn như thế. Nếu cư sĩ đi trên đường đạo, lo bồi đắp công quả, tài vật giúp kẻ đói nghèo, hằng cúng dường Tam Bảo thì phước đức sau nầy hạnh hưởng ân huệ vô cùng!
    Hiểu rõ điều hư lẽ thật, mà còn cứ bo bo giữ của tiền trong thời kỳ nguy khốn cũng có thể hại đến sanh mạng được “Chữ Tài của khổ riêng một kiếp. Bị trộm cướp nào ai có tiếp. Mà đời nay nó cứ mãi làm”. Như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết.

    Tánh ích kỷ, lòng chật hẹp, nhà Phật gọi là bỏn xẻn rích róng không bố thí trên việc làm lành làm phải đối với nhơn sanh,tức nhiên phải chịu sự kết quả đau khổ.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:

    Khuyên người có của giàu sang
    Mau mau làm phước làm doan cho rồi
    Để sau khó đứng khôn ngồi
    Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.

    II. Tài sản tinh thần


    Niềm mong ước lớn nhất của con người trong đời thường là được sống bình an, hạnh phúc. Thế nên trong cuộc sống ai cũng muốn tạo dựng cho mình một sự nghiệp hay ít ra cũng có được một nghề nghiệp hữu ích cho mình mong sao có được một chút của cải để dành để cho đời sống được an bình nội tại.
    Phật Giáo không phủ nhận niềm khát vọng đời thường đó. Tuy nhiên đạo Phật quan niệm rằng tài sản để dành ấy chỉ là phương tiện dự phần vào đời sống an lạc chớ không phải là mục đích tối hậu, là chân giá trị hạnh phúc ở đời. Đức Phật từng khuyến dạy pháp hữu vi vốn bị chi phối bởi luật vô thường, sự thật chúng vô ngã: “Cái nầy không phải là của ta, là ta, là tự ngã của ta”. Xét ra, tài sản mà tự thân tích lũy được dù giàu có đến mức độ nào cũng không đưa đến đời sống hạnh phúc, chân thật được. Vậy tài sản nào chúng ta cần tích lũy, cần giữ gìn như là của để dành?
    Câu chuyện về Ugga, vị đại thần của nước Kosala là câu trả lời. Vị đại thần nầy đã tán thán về sự giàu có vô tận của đại phú gia Migara Rohaneyyo với niềm phúc lạc vô biên trước Đức Phật, vị thầy cao quý của mình: “Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn, giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy, tài sản nhiều đến như vậy, bạch Thế Tôn là Migara Rohaneyyo”.
    Đức Thế Tôn ôn tồn hỏi: “Nầy Ugga, Migaga Rohaneyyo giàu có đến mức độ nào?”.
    Ugga bạch: “Bạch Thế Tôn, về vàng có đến trăm ngàn, còn nói chi về bạc!”.

    Đức Thế Tôn giảng dạy: “Nầy Ugga, đây có thể là tài sản chăng? Không phải ta nói đây là tài sản. Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi nước, lửa, vua chúa, trộm cướp, các kẻ thừa tự. Bảy tài sản nầy, Ugga, không bị bởi nước, lửa, vua chúa, trộm cướp, các kẻ thừa tự chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quí tài, văn tài, thí tài tuệ tài. Bảy loại tài sản nầy, nầy các Tỳ Kheo, không bị lửa, nước, vua chúa, trộm cướp,các kẻ thừa tự chi phối”.

    Rồi Đức Thế Tôn tán thán công hạnh thành tựu bảy tài sản cao quý mệnh danh là “Thất Thánh tài”:
    “Tín tài và giới tài
    Tàm tài và quý tài
    Văn tài và thí tài
    Tuệ tài là thứ bảy
    Ai có tài sản nầy
    Nữ nhơn hay nam nhơn
    Người ấy là đại phú
    Thiên nhơn giới khó thắng
    Do vậy tín và giới
    Tịnh tín và thấy pháp
    Bậc trí chuyên chú tâm
    Ức niệm lời Phật dạy”.

    Đức Phật đã xác lập người đại phú với những thành tựu mà giới nhân thiên khó thắng, đó là người thực hiện được “Thất Thánh tài”. Người đó cũng phải biết nắm giữ bảy pháp tài sản quý giá thực hành pháp mang lại. Nó quyết định cho đời sống hạnh phúc thật sự; đó cũng chính là con đường tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ.
    Khởi đầu Thất Thánh tài bằng sự thành tựu về lòng tịnh tín đối với Như Lai và đến kết thúc cuộc hành trình là đoạn tận khổ đau. Lần lược cụ thể hóa Thất Thánh tài như sau:

    1. Tín tài: “Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là tín tài”.
    Như Lai là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, giác ngộ hoàn toàn. Ngài hiện thân trong cõi đời nầy, nhờ công phu tu tập sáu năm khổ hạnh và tư duy thiền định với nổ lực phi thường. Ngài trở thành vị chứng ngộ với tuệ giác vô thường. Nếu như chúng sanh nào tự mình suy tư với pháp, thực hành pháp của Như Lai thì nhứt định sẽ được giải thoát, chứng quả Niết Bàn. Cho nên người tu tập muốn có đời sống hạnh phúc, an lạc, cần phải đạt được lòng tịnh tín đối với Như Lai.

    2. Giới tài: “Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, trộm cấp, tà dâm, nói dối, say sưa, gọi là giới tài”
    Mỗi bước đi của giới là mỗi bước ra khỏi vùng tâm tham, sân, si thường xuyên vây bủa tâm thức con người. Giới có công năng phá hủy tác nhân gây ra phiền não, làm sáng tỏ tuệ giác vô thượng. Đời sống đạo đức của tự thân biểu lộ bằng hành vi của thân, lời ái ngữ dịu dàng phát xuất từ khẩu, tâm ý thường nghĩ tốt đẹp hướng thiện được gạn lọc. Nếp sống bình an nội tại có được là nhờ có rào cản của giới để có lợi mình và lợi người.

    3. Tàm tài: “Ở đây, vị Thánh đệ tử có xấu hổ với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài”.
    Biết hổ thẹn những kết quả của pháp bất thiện đã đi qua, là một thái độ sống tự đánh giá lại chính mình, biết nhìn lại chính mình để đoạn tận, và viễn ly những tác nhân gây rối loạn tâm thức. Tâm thức được tẩy rửa các uế trược, ý thức điều chỉnh thân tâm thường xuyên sẽ làm nên sự thanh tịnh hoàn toàn.

    4. Quý tài: “Ở dây, vị Thánh đệ tử có sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, gọi là quý tài”.
    Sự thăng tiến thành tựu các pháp thiện chưa sanh, làm cho sanh, các pháp thiện sanh rồi, làm cho thăng hoa. Người thực tập đời sống an lạc phải có một tâm lý nhàm chán, yểm ly, sợ hãi các pháp bất thiện được phát sinh từ thân, khẩu, ý. Hạt giống an lành cũng từ đó nẩy mầm trong đời sống hiện tại.

    5. Văn tài: “Ở đây, Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quan sát, thành tựu chánh kiến, gọi là văn tài”.
    Nghe nhiều, suy tư nhiều về pháp, an trú trong pháp là tài sản cao quý do sự tích lũy về văn tài. Ta nên biết Văn-Tư-Tu là phương pháp học Phật làm phát hiện công đức trong đời sống.

    6. Thí tài: “Ở đây, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả bỏ, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài”.
    Thành tựu pháp nầy là thành tựu công đức vô giá mà người tu Phật thực thi. Người đời thường hay nắm giữ không muốn buông xả những gì mình có được. Hạt giống xan tham nẩy mầm sẵn trong tâm thức của mỗi người.
    Đối với người tu thì “ xả phú cầu bần” là một trong điều kiện cần để góp phần tích lũy, thăng hoa tài sản tinh thần. mở rộng vòng tay nối kết để chia xẻ sự ngọt ngào êm dịu cho mọi người.

    7. Tuệ tài: “Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh, đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài”.
    Mục đích tối hậu của người hành trì chánh pháp là không còn khổ đau, thay vào đó là hạnh phúc, an lạc hoàn toàn. Tuệ tài chánh là tài sản mà Đức Thế Tôn đã đạt được cũng như cho những ai biết theo đúng chánh pháp, rồi thiết lập được đời sống an lạc hạnh phúc ngay trong cõi đời này.
    Đức Thế Tôn dạy tiếp: “Nầy các Tỳ Kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản nầy, được gọi là không nghèo khổ”.
    Bảy tài sản cao quý trên đây, Đức Phật đã trao cho đại thần Ugga nước Kosala. Tài sản nầy không những cho Ugga mà Ngài còn muốn trao tặng cho những ai biết hướng đến đời sống cao thượng, là của để dành thiết thực nhất, có giá trị miên viễn không bị chi phối bởi bất cứ định luật gì giữa cuộc đời nầy.
    Người ta cứ ngỡ rằng càng tích lũy tài sản vật chất bao nhiêu là càng có của để dành bấy nhiêu ngõ hầu góp phần kiến tạo đời sống có hạnh phúc cho chính mình. Thật ra tài sản để dành của người tu chính là bảy món cao quý mà Đức Phật đã tận tay trao tặng cho chúng ta cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm rồi để giải thoát đau khổ. Chúng ta hãy trân trọng và thừa kế tài sản “Thất Thánh tài” nầy, chính là người thừa tự Pháp, thừa tự công danh của Như Lai.

    Giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo dạy chúng ta để có được tài sản tinh thần cao quý không ngoài “Thất Thánh tài” của Đức Phật dạy.’
    Ngài khuyên dạy muốn có của để dành thì phải:

    Giảng kinh đọc tụng đêm thanh
    Ấy là châu ngọc để dành ngày sau

    Tài sản tinh thần vốn dĩ đã được tạo hóa trao tặng đầy đủ cho mọi người. Hãy tìm lại những gì thánh thiện uyên nguyên đã lãng quên là cách làm giàu của người tu. Một khi đã tích lũy được tài sản nầy, mới thật sự là người giàu có , hạnh phúc bền vững trước mọi biến động đổi thay của cuộc đời nầy.
     
  6. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    CHƯƠNG V
    NHÂN CÁCH

    Đã sinh ra làm người tự nhiên vấn đề đạo đức đã khép chặt vào đời sống. Vấn đề đạo đức trở thành một vấn đề tối yếu cho mỗi con người, không thể vì lý do nầy hay vì lý do khác con người có thể đặt cho mình một giới hạn của đạo đức.
    Đạo đức đã làm thành một cột trụ để kiến tạo cuộc đời. Chúng ta không có quyền từ chối không chấp nhận đạo đức nữa. Ngày nào chúng ta còn đón nhận cuộc sống là ngày ấy còn chấp nhận giá trị luân lý cổ nhân.
    Muốn tu tập lấy mình phải nương cậy vào đạo đức. Muốn tu tập đạo đức phải nhờ vào lòng nhân. Nhân tức là người, ấy là lòng thương người. Còn “nghĩa” là cư xử cho thích nghi, nhưng đại để phải tôn trọng bậc “hiền”. Lòng thương kẻ gần người xa, tôn trọng bậc hiền nhiều hay ít tùy nơi kẻ cao người thấp; do đó mà sanh ra lễ vậy.
    Trên bình diện xử thế, đạo đức làm thành một cái gạch nối liền giữa người nầy và người khác, giữa gia đình nầy và gia đình khác. Đối với cá nhân, cuộc sống tinh thần có làm cho người khác kính trọng hay không đều do nhân cách mà ra.

    Chúng ta hãy nhìn vào đoạn văn sau đây trong sách Cảnh-hành-lục: “khéo thì nhọc, vụng thì rảnh; lành thì chê mềm yếu, dữ thì chê ngoan ngạnh; giàu thì mắc ganh gổ, nghèo thì bị khinh dễ; siêng năng thì nói là tham lam, mà cần kiệm thì nói là bỏn xẻn; ngó thoáng qua chưa phân biệt cho rõ thì cười rằng dại, mà thấy bí thuật rồi mới làm thì nói rằng gian xảo. Mấy việc trên đây phải tính làm sao cho xong! Làm người đã khó rồi, làm người cho xong thì lại càng khó hơn nữa! Làm người thật khó! Làm người thật khó!”.
    Ngẫm nghĩ đoạn văn nầy rất là chí lý. Lời nói nầy tự ngàn xưa cho đến nay không di dịch. Một nhà hiền triết khác nói: “ Khôn cũng chết, dại cũng chết; duy chỉ có biết thì sống!”.

    Con người có thành công hay không là do sự hiểu biết. Tuy nhiên trong xã hội không ít những người có trí mưu bản lĩnh mà vẫn bị thất bại có khi phải đi đến tử vong. Cho nên trong cuộc sống thì “cái biết” lại càng quan trọng; như trong binh pháp có câu “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Còn việc cư xử ở đời Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên “Ai biết tri việc phải cứ làm”. Lại cũng có câu “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên”. Cho nên lời khuyên của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất là cao diệu hợp với đạo Người.
    Sự thành công của một cá nhân chính là việc đối nhân xử thế, ứng xử sao cho hợp lẽ phải. Chúng tôi có một vài cảm nghĩ về nhân cách như sau:

    1- Chân thành.
    Trong việc xử thế, trước tiên phải thu phục được lòng người. Muốn đắc nhân tâm, ta phải thể hiện được lòng chân thành của ta. Lòng chân thành là sự phản ảnh trung thực trong đời sống. Lòng chân thành là sự thành thật của mình đối với mọi người trong xã hội.
    Muốn trở nên thành thật, mình phải biết phân biệt sự lành, sự phải; ngược lại mình không thể trở nên thành thật được.
    Sự thành thật tự nhiên vốn là đạo Trời, còn tự mình tu tập để trở nên thành thật, ấy là đạo Người. Trong nhân loại có một số ít Thánh nhân sanh ra là có sẵn cái bổn tánh thành thật thiên nhiên. Còn như toàn bộ loài người cần phải tự mình trau dồi cho tâm ý trở nên ngay thẳng.
    Do nơi tâm thành thật mà được minh mẫn, hiểu rõ đạo lý, đó là tánh thiên nhiên của Thánh nhân. Còn do sự hiểu rõ đạo lý mà trở nên thành thật, gọi là giáo, tức là kẻ bình thường cần phải học, hỏi, nghĩ, biện, làm mới hiểu đạo, rồi nhờ đó mà hóa ra chân thành. Cho nên ai hiểu rõ đạo lý thì trở nên thành thật. Còn ai tâm ý thành thật thì hiểu rõ đạo lý.
    Chân thành là phẩm chất đạo đức hàng đầu của con người. Có người thích trang trí vẻ bề ngoài bằng thành, nhưng trong lòng lại ức hiếp người bằng sự giả dối; bên ngoài đối xử với mọi người bằng sự chân thành nhưng trong lòng lại tự sắp xếp bằng sự xảo trá. “Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài. Trong tâm ý mưu mô đủ thế” đó là lời chê trách của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Những người như vậy, tuy nhất thời đạt được mục đích, nhưng cuối cùng không kéo dài được lâu, chỉ là một tiểu nhân, không phải là người tài giỏi danh tiếng. Có một câu nói: “Có thể lừa người, nhưng không thể gạt lòng; có thể gạt lòng nhưng không thể gạt Trời”. Cho nên bậc Thánh Nhân, anh hùng hào kiệt cho sự chân thành là đáng quý.
    Trong sinh hoạt hàng ngày, ta phải tiếp xúc mới nhiều thành phần trong xã hội; lòng chân thành sẽ làm cảm thông được với mọi người và người cũng đáp lại ta bằng sự thành thật. Dùng mưu kế để điều khiển người khác; người ta cũng dùng mưu kế để đối đãi với mình, đúng như gieo nhân nào gặt quả nấy chẳng sai.
    Sự chân thành thường thì kín đáo; kín đáo thì dài lâu; dài lâu sẽ được nghiệm chứng. Sự lừa dối có thể lừa được một chuyện; không thể lừa bịp được tất cả mọi chuyện. Có thể lừa được một người, nhưng không thể qua mặt được hết mọi người. Có thể dối trá trong một thời gian chớ không thể dối trá lâu dài. Lòng chân thành là phẩm chất tốt đẹp trong tâm tính con người; phát triển nó ra thì lo gì mà không thành công.
    Người thành thật thì không môi miếng bề ngoài; trong lòng nghĩ sao thì nói ra vậy; lời không văn hoa bóng bẩy, không chải chuốt ngọt ngào. Trái lại người miệng lưỡi khéo nói, lời lẽ bóng bẩy nghe êm tai; thường đối xử với mọi người bằng lời hoa mỹ bề ngoài, ít khi bằng sự chân thành, trung thực. Thế nên muốn xét người, xét việc đừng nhìn bề ngoài. Một người có tính tình tốt, năng làm điều thiện, không cần trau truốt, không cần biện bác về mình. Người dùng miệng lưỡi lanh lợi để biện bác, giải thích bào chửa cho việc làm của mình, thường không phải là người tốt.
    Muốn lập chí phải có thành ý xuất phát từ thiện tâm để làm chỗ tựa, ví như việc dời non lấp biển cũng có thể làm được; đấy là do nơi thành ý của bản thân, bỏ đi sự ích kỷ trong lòng, dốc hết sức mình khi làm bất cứ việc gì để mọi người đều hiểu rõ và không nghi ngờ. Đây là sự thành thật khi đối đãi với mọi người. Lấy thành làm căn bản, lấy cần cù làm thực tế thì cái kết quả tối thiểu cũng tránh được các lầm lỗi.
    Chân thành có thể đạt đến nhân đạo, rất quảng đại, nó là đức hạnh. Một người có lòng thành thật, bao giờ cũng tôn trọng chữ “thành” và chữ “tín”; nhất định sẽ được mọi người chung quanh ưu đãi bằng tất cả sự kín đáo.
    Lòng chân thành là đức tính thiện, giúp con người chu toàn được thiên chức làm người, nêu cao nhân cách. Do đó về phương diện xử thế, lòng chân thành là biểu hiện đầu tiên giữa người đối với người.
    Sống trong xã hội thường có sự cạnh tranh thì lòng chân thành là sự bảo toàn hơn hết. Con người có chân thành mới tạo được uy tín cá nhân và làm mọi người chung quanh khâm phục, cảm mến lâu dài.
    Đức Khổng Tử nói: “Tri chi vi chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” nghĩa là điều gì biết thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như vậy mới thật là biết.
    Trong kinh Pháp Cú có câu: “Người ngu biết mình ngu. Nhờ vậy thành trí. Người ngu tưởng có trí. Thật xứng gọi chí ngu” Cũng như nói: “Dại mà biết mình dại là bắt đầu khôn; mê mà biết mình mê là bắt đầu tỉnh”.
    Tóm lại muốn thành công trên đường đời, phải tạo cho mình lòng chân thành tuyệt đối, bền vững như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên bảo:

    Tánh ngay thẳng ta không dời đổi
    Dầu tan xương nát thịt chẳng màng

    Lòng chân thành cũng là điều kiện tối cần cho người đi trên đường đạo. Ngài khuyên dạy:

    Đời tận thế mà còn lần lựa
    Chẳng chịu mau cải dữ về lành
    Làm Phật nhi phải được lòng thành
    Thì mới đặng vãng sanh Cực Lạc

    2- Khiêm tốn.

    Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhúng nhường, không đánh giá cao bản thân, không khoe khoang, không tự kiêu, tự mãn; bao giờ cũng nêu cao tinh thần học hỏi, hoài bảo cá nhân là tiến mãi không ngừng.
    Người có tánh khiêm tốn thường cho mình là kém, còn phải học hỏi để tiến thêm nữa, coi sự thành công của mình là tầm thường không đáng để. Cho nên người sẽ có lợi, tự mãn sẽ chịu tổn thất.
    Khiêm tốn với mọi người để đạt được nhân đức. Tự kiềm chế mình để hợp với mọi người thì có thể tạo được phúc lớn. Vương dương Minh nói: “khuyết điểm lớn nhứt của mọi người hiện nay về cơ bản là chữ “ngạo”, mọi tội ác xuất phát từ chữ “ngạo” (kiêu ngạo, ngạo mạn); “ngạo” sẽ tự cao, tự đại, không muốn kém người khác. Vì vậy, là con mà kiêu ngạo thì sẽ không hiếu kính cha mẹ, là em mà kiêu ngạo thì không thể tôn trọng anh chị, là thần mà kiêu ngạo thì không thể là một trung thần”.
    Có nhiều hình thức về ngạo mạn mà chúng ta nên ngăn ngừa với tâm ý, như ngạo mạn vì có nhiều của cải, ngạo mạn vì học vấn cao, ngạo mạn vì bổng lộc nhiều, ngạo mạn bằng sắc đẹp, ngạo mạn bằng thái độ, ngạo mạn bằng lời nói; các thứ ngạo mạn vừa nêu đều không nên.
    Muốn đối phó với ngạo mạn phải dùng sự khiêm tốn. Con người có một chút khiêm tốn thì sẽ tăng thêm một chút khiêm nhường. Có một chút lễ độ thì giảm đi một chút ngông cuồng. Khiêm tốn, lễ độ thì nhất định sẽ được lòng người; khiêm tốn, nhúng nhường thì sẽ được người kính trọng. Không dùng trí tuệ của mình để đối với kẻ ngu si; không dùng sự tài hoa của mình để đối phó với sự vụng về của người khác; không dùng sở trường của mình để khống chế sở đoản của người khác.
    Đức Lão Tử nói: “Những thứ toàn vẹn nhất là không hoàn chỉnh, nhưng tác dụng của nó sẽ không bao giờ giảm sút; những thứ đầy đặn nhất dường như lại trống không, nhưng tác dụng của nó sẽ không mất đi; những thứ thẳng nhất dường như lại vụng về nhất; tài tranh luận tuyệt vời dường như lại không giỏi ăn nói; người thông minh dường như lại là người ngu xuẩn”. Lời răn dạy của Lão Tử, khiêm nhường là đáng quý, còn kiêu căng, hộm hỉnh không ai ưa, đừng tự khoe khoang tài đức. Người khoe mình nhìn xa hiểu rộng, không phải là bậc cao minh. Người khoe mình là phải, là khôn, không phải là bậc triết nhân đạt giả. Người khoe công của mình không đáng được xem là kẻ có công. Người khoe mình có nhiều tài đức, không biết khiêm nhường, ắt không phải là bậc hơn người.
    Là người sống trong xã hội, cần phải biết chân giá trị của việc mình làm, không nên ỷ vào tài năng hiện hữu mà coi thường những người chung quanh là tầm thường, là non kém. Con người có tính khiêm tốn thường thấy xa hiểu rộng, tránh được những thói xấu tầm thường là tự cao, tự đại.
    Chúng ta hãy noi gương khiêm tốn của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Như mọi người đều biết Ngài là vị Phật lâm phàm “Xưa nay không có mấy khi. Dương trần có Phật vậy thì xuống đây”, là một bậc Siêu Nhân “Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã. Bởi sự thường của bậc siêu nhân. Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn. Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”, là một vị Đại Bồ Tát hóa hiện. Chúng ta không ảo tưởng mà chính Ngài thố lộ:

    Tăng sĩ phải gắng vùi nơi hắc ám
    Nào ai biết tâm ta đời bác lãm
    Kiếp người chùm gởi bám vào cây
    Ở thế gian ai rõ kẻ chơn Thầy
    Dắt sanh chúng lìa nơi sông mê khổ

    Vậy mà trong khi Ngài đi hoằng truyền Chánh Pháp, dạy răn trần thế, Ngài còn biểu lộ đức tính khiêm tốn đối với vạn dân bá tánh:

    Xác ta vốn là người quê dốt
    Nên mở mang chưa được mấy rành
    Hay:
    Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca
    Lòng tự giác xả thân tầm Đạo
    Ta cũng chẳng hoàn toàn thông thạo
    Nhưng phân cùng bổn đạo xa gần
    Có một điều già trẻ ân cần
    Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo

    Bậc Đại Giác mà còn khiêm tốn như vậy, còn chúng ta là kẻ phàm nhân trên đường học đạo giải thoát thì tính khiêm tốn còn quan trọng đối với chúng ta biết dường nào!

    Tóm lại người khiêm tốn là người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến tích cá nhân mình, cũng như không chấp nhận tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm đối với mọi người.

    3- Vô Tư.

    Vô tư là không thiên tư với ai, không có lòng tư vị, không vì lợi ích riêng. Hành động vô tư là như thế nầy: trước khi nhận xét ai hoặc về một vấn đề gì, chúng ta phải thoát ra ngoài phạm vị nhỏ hẹp của mình, nhận xét một cách khách quan, vô tư tuyệt đối. Có làm được như thế, người ấy mới là một người lý tưởng.
    Tinh thần vô tư là chấp nhận lẽ phải, công bằng, liêm chính; giữ vai trò của kẻ bàng quanq, lấy công tâm nhận định sáng suốt, không thiên kiến. Làm người không ai toàn vẹn, chỉ ở trạng thái tương đối; vì thế cá nhân bao giờ cũng có lỗi lầm. Người tạo nên lỗi lầm, nhưng biết phục thiện chấp nhận việc mình làm sai, sẵn sàng đón nhận những lời phê bình của người khác bằng thái độ vô tư, không giận hờn trách móc, chính là người biết phục thiện.
    Sống trong cộng đồng xã hội, mỗi cá nhân phải nuôi dưỡng tinh thần vô tư giữa người nầy và người nọ, giữa mỗi người và tập thể. Chúng ta phải có trách nhiệm và thái độ vô tư đối với mọi người. Không thể vì quyền lợi nhỏ nhoi của mình mà xem thường đời sống tập thể, mà phải nêu cao tinh thần vô tư của mình đối với tập thể. Tinh thần vô tư giúp chúng ta gây thêm tình thân thiện với mọi người. Không gì cao đẹp cho bằng khi lầm lỗi mà biết vô tư tự nhận sai lầm đó và chấp nhận sửa sai.
    Tinh thần vô tư là một biểu hiện cho sự cầu tiến và sống hợp với lẽ phải. Trong nghệ thuật xử thế, không phải là chúng ta chỉ học được những điều hay qua kinh nghiệm sách vở mà chính là phải đem áp dụng vào thực tế, sống cho hợp với thời thế; sống thế nào cho vừa lòng mọi người, không làm mếch lòng với bất cứ ai, tạo cảm tình với mọi người xung quanh. Trường đời như là bải chiến trường vô tận; không có kẻ thắng trận hoàn toàn, cũng như không có ai đóng vai chiến bại, chỉ cần biết ít kinh nghiệm pha lẫn chút khôn ngoan tự nhiên của con người thì sẽ gặt hái thành công trong nghệ thuật xử thế.

    Là người đi trên đường đạo, việc sửa tánh răn lòng, phát huy tinh thần vô tư đối với muôn loài vạn vật là cần thiết. Có vô tư, có bình đẳng thì việc hành đạo mới thăng tiến. Luôn luôn nhìn vào tấm gương sáng của Đức Phật Thầy để soi rọi tự thân.
    Trong tình yêu nhân loại, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tuyên bố:
    Ta có tình yêu rất đượm nồng
    Yêu đời yêu lẫn cả non sông
    Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ
    Cũng như:
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh

    Qua giáo lý của Ngài, chúng ta còn thấy rõ nét của một vị Tôn Sư với tấm lòng vị tha bác ái cao cả mà nhân loại phải tôn kính:

    Giàu sang nghèo khó cũng người
    Nên ta thương hết dầu cười hay khen
    Hay:
    Nhân dân bá tánh cũng con lành
    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh


    4-Lòng Vị tha

    Vị tha là tinh thần quên mình, lấy lòng bác ái chuyên tâm làm việc vì mọi người. Trong việc xử thế người ta hay mắc phải một lỗi lầm là thường chỉ biết sống cho quyền lợi cá nhân mình mà quên đi kẻ khác.
    Lòng vị tha là điều kiện cần thiết để tạo được lòng tin yêu của mọi người chung quanh; tự coi nhỏ đi quyền lợi cá nhân để hòa vào đời sống cộng đồng.
    Trong đời, không phải chúng ta tạo được sự chiến thắng bằng tiền tài, bằng danh vọng thì gọi là lý tưởng. Tiền tài, danh vọng không mang lại vinh quang tinh thần; có khi còn làm ngược lại. Chính vì những thứ tầm thường đó đã làm cho con người hèn hạ hơn. Không phải ai cũng nhận xét con người qua hình thức bề ngoài như học rộng, quyền cao chức trọng, thừa tiền lắm của v.v. mà cho rằng mẫu người lý tưởng trong lãnh vực xử thế. Muốn nhận diện con người xứng đáng, chúng ta cần nhận thức con người qua phẩm cách tinh thần, những hành động mà người ấy đối xử với xã hội và mọi người chung quanh.
    Tinh thần vị tha là một tinh thần luôn đặt quyền lợi cá nhân sau mọi thứ quyền lợi chung cho tất mọi người; tinh thần vị tha xem thường lợi ích riêng tư mà chỉ lo nghĩ đến quyền lợi chính đáng chung.
    Người có lòng vị tha hướng đời sống của mình vào người khác và làm theo những gì mà đa số tập thể mong muốn. Người có tinh thần vị tha thích được phục vụ tận tình và làm vừa lòng người khác, họ coi đó là trách nhiệm, bổn phận phải làm. Khi những người chung quanh có gì đau khổ, người có lòng vị tha sẵn sàng đứng ra an ủi, giúp đỡ một cách thiết thực cốt mong sao tạo được cho những người chung quanh mình có được một sự an vui bình tâm trở lại.
    Người có lòng vị tha thường hay quên mình mà vì người khác nên thường đóng vai trò của người thua thiệt, nhưng họ vẫn an vui không cần đòi hỏi một thứ gì hơn, miễn là người sống chung quanh mình sung sướng là đã mãn nguyện.
    Tại sao chúng ta phải tạo cho mình một tinh thần vị tha? Trên đường đời dù thành công hay thất bại, người có lòng vị tha phải có tài cư xử tuyệt vời với tất cả mọi người dù khó tính đến đâu cũng cảm phục. Điều đó không phải là việc dễ làm; tuy nhiên không phải là không làm được. Ta hãy tự đóng vai trò của người thua thiệt trước, rồi sau hãy thành công; đó chính là tạo sự tin tưởng nơi mọi người và làm vui lòng họ, hợp với nghĩa câu “Thất bại là mẹ thành công”. Cái thành công hiện tại là kinh nghiệm của sự thất bại đã qua. Hay nói một cách khác trước khi thành một người hoàn toàn, trước phải đóng vai kẻ ngu khờ trước, như làm người mê trước, làm người tỉnh sau, là một người bản lĩnh hoàn toàn.
    Làm người có bản lĩnh cũng không khó, ta chỉ đóng vai trò người ngốc đúng lúc và chứng tỏ vai trò người khôn đúng thời. Nên một nhà hiền triết đã nói: “Khôn cũng chết, dại cũng chết; duy chỉ có biết thì sống”.
    Đức Lão Tử cũng nói: “Càng giúp người, mình lại được thêm nhiều. Càng cho người, mình lại càng có thêm cho mình”. Không tham lam, không muốn tích trữ thu thập cho mình, chỉ làm điều lợi ích cho thiên hạ, cho xã hội mà không có một chút lòng ích kỷ, tự tâm.
    Càng giúp đỡ người, càng phục vụ người bằng sự hiểu biết và sự sáng suốt của mình; càng cho những gì mình có mà người ta thiếu thì mình càng có được nhiều Đức.
    Cái khó khăn, cái tế nhị được người đời gọi là lòng vị tha là tinh thần biết quên mình và sống cho mọi người, là người làm vai trò hướng đạo thì sự thành công trên đường đời là điều tin chắc.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ “chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh khen chê?” chỉ “vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa”.
    Với tuệ giác, Ngài thấy: “Thấy nhơn sanh tuôn giọt máu đào. Lòng bác ái động tình rơi nước mắt” cũng như “Bể trần song cuộn lao xao”. Cho nên ngài quyết:

    Xông thuyền bát nhã lướt vào một phen
    Quản chi lực kém tài hèn
    Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu
    Soi từ đài các xá lều
    Cho người trụy lạc biết điều nghĩa nhân

    Ngài “Vì tình nhơn loại mới vấn vương”, nên không kể tấm thân lao khổ “Thân ta, Ta chẳng tiếc chi. Miễn cho bá tánh nạn gì cũng qua”. Ngài ví mình như:

    Ta đây dường thể như lươn
    Cứu dân bất luận nắng sương lấm đầu
    Sáu trăng Thầy tớ dãi dầu
    Quyết lòng truyền bá đạo mầu mà thôi
    Bồng Lai Điên dại có ngôi
    Tây Phương Cực Lạc khùng ngồi tòa Sen
    Cũng như:
    Tớ với Thầy nào quản thân lươn
    Muốn cứu thế sá chi bùn trịn
    Thương quá sức nên ta bịn rịn
    Quyết độ đời cho đến chung thân
    Nếu thế gian còn chốn mê tân
    Thì Ta chẳng an vui Cực Lạc

    Thật cao quý thay một bậc
    Đại Giác hành xử vai trò của Đại Bồ Tát quyết cứu nhân loại chúng sanh thoát ly cảnh khổ, tìm phương giải thoát, kiến cảnh Niết Bàn.

    5- Nhẫn nhịn

    Nhẫn nhịn là chịu dằn lòng xuống để tránh sự bực tức hay cải vã. Người biết nhẫn nhịn, chịu đựng mới có thể đảm đang được việc lớn, mới gánh vác được việc hệ trọng. Cho nên nhẫn nhịn là chìa khóa của sự thành công, là ngưỡng cửa cuộc đời.
    Đức Phật đã dạy “luôn luôn nhẫn nhịn tất cả” và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy “chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên. Thì đâu có mang câu thù oán”.
    Xem như một định luật thông thường, nhưng cũng rất tế nhị và khó khăn. Cuộc sống của con người càng trở nên phức tạp hầu như chịu ảnh hưởng của tiền tài, vật chất; cho nên việc sinh hoạt không đơn thuần mà mọi người đua nhau tranh cạnh vì quyền lợi cá nhân. Vì thế chúng ta không lấy gì làm lạ khi đời sống hiện tại khó ai nói được hai tiếng nhường nhịn một cách hoàn toàn.
    Thử nhìn lại cuộc sống ngày xưa và ngày nay của con người không giống nhau. Ngày xưa dù có phải tranh đấu, ganh đua để mưu sinh đến mức nào đi nữa thì con người vẫn sống bằng lý trí và tình cảm, nghĩa là dù cho phải đương đầu nhưng con người vẫn còn tôn trọng lễ nghĩa của nhau. Vì thế ngày xưa, coi nhường nhịn nhau như là một hình thức tha thứ, thông cảm cho nhau mà thôi. Trong sách “Bảo Huấn” có câu chuyện: Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như đi trong bụi rậm, áo vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại gỡ dần ra mà thôi. Cái gai gốc kia có biết gì mà đáng giận? Xử được như thế thì tâm mình không phiền não mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan được ngay. Cổ nhân có câu nói: “Ta nên coi những ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không, lỡ đâm phải ta, như gió lốc lỡ tạt phải ta, ta nghĩ cho cùng, có gì mà đáng giận”.
    Ba câu tự phản của Thầy Mạnh Tử, thật là cái phép để giữ thân, cái phương để nuôi tính vậy. (Ba câu tự phản là ba câu tự mình hỏi mình, xét lại mình đã thật là nhân hậu chưa, đã thật là lễ độ chưa, đã thật là khôn ngoan chưa).
    Vì nếu ta chỉ một mực thấy cái trái của người thì ngay như anh em, vợ, con, bạn bè, tôi tớ, cho đến con gà, con chó trong nhà, thật cũng có nhiều lúc đáng làm cho ta bực.
    Nếu ta việc gì cũng biết tự phản thì sự tức giận mười phần giảm ngay năm phần. Thật chẳng khác nào như người đang phải bệnh nóng sốt mà được uống thuốc giải nhiệt.

    Trái lại trong nếp sống hiện tại, con người coi thường mọi thứ lễ nghĩa trong lãnh vực xử thế; mà lúc nào cũng đặt quyền lợi cá nhân lên trên hết; không đặt vấn đề nhường nhịn nhau, thông cảm và tha thứ cho nhau ngay cả đến việc làm cho dung hòa cũng là một khó khăn lắm. Họ coi việc nhường nhịn nhau như là sự thua thiệt, một thất bại cá nhân và làm như thế là nhục nhã, mất mặt v.v.
    Nếu con người biết thông cảm cho nhau và nhường nhịn lẫn nhau thì cuộc đời không có gì là khó khăn, rối rấm. Cái kết quả sẽ thoát ra ngoài mọi tranh chấp, đau khổ, đưa con người đến cuộc sống an lạc.
    Nhìn trong khung cảnh nhỏ hẹp như gia đình chẳng hạn. Trong một mái nhà mà vợ chồng biết thương yêu nhau, luôn luôn tha thứ cho nhau, thông cảm, nhường nhịn lẫn nhau thì tin chắc rằng gia đình ấy là một gia đình hạnh phúc, an vui, sung sướng; đó là gia đình lý tưởng.
    Ra ngoài như quốc gia, xã hội, mọi người sống trong cộng đồng tập thể; người nọ biết nhường nhịn người kia thì làm gì có chuyện bất đồng, làm gì có chuyện lôi thôi, tranh chấp, làm gì có chuyện giết hại lẫn nhau! Dân tộc của quốc gia nầy biết tha thứ, nhường nhịn dân tộc kia thì làm gì có chuyện binh biến gây chiến tranh tàn phá!
    Xin xác định rằng, nhường nhịn không có nghĩa là đầu hàng, là thua thiệt mà nhường nhịn có nghĩa là sự thông cảm và tha thứ cho nhau. Nếu ai có mặc cảm cho rằng sự nhường nhịn là nhục nhã thì đó là hành động thiếu thiện chí, khiếm khuyết về giáo dục.
    Vậy điều kiện mà con người phải biết, muốn tạo lập cuộc đời có ý nghĩa cần phải ghi nhớ hai chữ “nhường nhịn” lẫn nhau. Chúng tôi xin nêu ra đây những lời khuyên về chữ “Nhẫn” của Đức Huỳnh Giáo Chủ, để chúng ta suy ngẫm và thiệt hành:

    Chữ thứ nhứt Nhẫn-Năng-Xử-Thế
    Là người hiền khó kiếm trong đời
    Lập thân danh tuần trải nơi nơi
    Chờ thời đại mới là khôn khéo
    Chữ Nhẫn-Giái trì tâm trong trẻo
    Khuyên dương trần giữ phận làm đầu
    Nhẫn-Hương-Lân cùng khắp đâu đâu
    Trên cùng dưới đều hòa ý hỉ
    Nhẫn-Phụ-Mẫu gọi trang hiền sĩ
    Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau
    Nhịn xóm chòm cô bác mới cao
    Nhẫn-Tâm nọ ngày ngày an lạc
    Nhịn tất cả những người tuổi tác
    Nhẫn-Tánh lành yên tịnh dài lâu
    Giữ một lòng hiền hậu mới mầu
    Quanh năm cũng bảo toàn thân thể
    Chữ Nhẫn-Đức kể ra luôn thể
    Thì trong đời vạn sự bình an
    Chữ Nhẫn-Thành báu quý hiển vang
    Khắp bá tánh được câu hòa nhã


    6- Lòng nhân đạo

    Lòng nhân đạo là biết thương người. Loài người là một sinh vật sống bằng tình cảm. Sự khác biệt giữa người và các thứ sinh vật khác chính là tình cảm. Con người mà không có được nếp sống tình cảm thì không còn là con người nữa. Nếu không có tình cảm, con người trở nên thô bạo, hung ác, tàn nhẫn vô cùng. Chính tình cảm đã giúp con người biết yêu thương nhau, rồi đi đến chỗ yêu rộng các loài.
    Đi từ tình thương yêu giữa cá nhân và cá nhân để rồi tạo lập một gia đình, mà những thành viên trong gia đình cùng nhau chia sớt nỗi vui buồn bên nhau.
    Rồi từ tình yêu thương trong gia đình sẽ dần dần đi vào phạm vi rộng lớn hơn trong thôn xóm; mọi người coi nhau như tình ruột thịt, cùng tương trợ lẫn nhau. Trong quê hương, xứ sở, đâu đâu chúng ta cũng thấy, ta và mọi người cùng chung một màu da, cùng chung một tiếng nói, cùng chung một phong tục, tập quán, tự nhiên chúng ta cảm nhận được mỗi người trong chúng ta tự coi nhau như người thân và đem lòng thương yêu giúp đỡ. Tình yêu ấy là tình yêu quê hương đất nước. Đó là tình yêu thương mà ai cũng có. Nhưng tình yêu thương là một cái gì trừu tượng, mơ hồ, mặc dù trong tâm hồn mỗi người đều biết, đều có song không làm sao diễn đạt hoàn toàn cho được. Nó chính là sự rụng động chân thành, sự xót xa, sự tưởng nhớ diệu vợi mênh mông.
    Như vậy lòng nhân đạo chính là sự hình thành từ lòng yêu thương. Nếu một người nào đó sống chỉ bằng hành động không chút tình cảm chỉ thể hiện sự hung tợn, bạc ác, thì thử hỏi người đó có lòng nhân đạo không? Tuyệt đối không bao giờ có!
    Chúng ta từng chứng kiến thế gian nầy đầy cảnh khổ, từ một ông lão ăn mày già nua, răng long, tóc bạc, đáng lý ra phải được sống trong sự ưu đãi của đám con cháu, thế mà giờ đây ông phải sống bằng lòng nhân đạo của kẻ khác, nhận sự bố thí của kẻ qua đường; rồi đến hình ảnh của một đứa trẻ, tuổi còn thơ ấu lại phải sống bằng cách nhặt từng mẫu bánh thừa của kẻ giàu sang ăn bỏ dở. Đời còn quá bé bỏng, chính là giai đoạn phải được nuôi nấng, dạy dỗ trong tình thương…Bằng những hình ảnh ấy với bao thảm trạng khiến mọi người thương xót và giúp đỡ, ấy chính là lòng nhân đạo vậy.
    Về phương diện xử thế, chúng ta cần phát huy lòng nhân đạo đối với mọi người sống chung quanh ta. Khi gặp cảnh khổ dù cảnh ấy không bắt buộc ta phải gánh chịu, nhưng chớ làm lơ xem như không đáng để ý đến mà trái lại ta nên tìm cách giúp đỡ họ.
    Cái quan trọng của thuật xử thế không phải là nhắm vào chinh phục lòng người mà thật sự phải biết làm sao đối xử vẹn toàn giữa người và người trong cộng đồng xã hội. Đắc nhân tâm đã là khó mà chinh phục được sự thương yêu của người đời lại càng khó hơn.
    Nếu chúng ta có tài chinh phục được người khác mà không biết giúp đỡ cho người thì cũng chẳng ra chi. Chủ đích của đời sống là làm sao mang tình thương gieo rắc khắp nơi để đổi lấy sự tin yêu của người đời; đó mới là ý nghĩa của cuộc đời vậy.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thắp lên ngọn đuốc sáng về lòng nhân đạo trong thời kỳ Pháp thuộc, khi mà xã hội Việt Nam bị phân hóa. Một lớp người được gọi là có học thì hướng ngoại chạy theo nền văn minh vật chất “cầu vinh thân phàm”. Một lớp người ít học hầu hết là nông dân chất phát chịu nhiều áp bức. Lòng nhân đạo đó thể hiện qua cuộc trao đổi giữa một lãnh tụ, ông Tạ Thu Thâu và Đức huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, với câu hỏi: “Tại sao hầu hết các tín đồ của giáo chủ là nông dân thiếu học?” Đức Huỳnh Giáo Chủ trả lời: “Trong xã hội có nhiều thành phần người. Quý ông đã lựa chọn giới có học mà thâu nhận vào đảng và quý ông bỏ rơi đám nông dân thiếu học. Quý ông bỏ họ, thì tôi phải cứu vớt họ, chớ không lẽ bỏ rơi luôn họ sao? Họ cũng là người Việt Nam, là chúng sanh, và tôi chắc họ sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc đấu tranh sắp tới. Chẳng khác nào quý ông đã lựa chọn chén kiểu, chén sứ, bỏ mảnh sành, nồi dất; thôi để cho tôi lo cho lớp người thất thế trong xã hội đó”. Thật là một sự giải thích giản dị, sâu sắc, đầy đủ với lòng từ bi bao la của Ngài.
    Tư tưởng của Đức Huỳnh Giáo Chủ trên đây là kim chỉ nam cho chúng ta về lòng nhân đạo không những cho con người mà còn cho cả muôn loài vạn vật khác nữa. Thực thi lòng nhân đạo là biết nuôi dưỡng lòng từ bi của người hành đạo.

    7. Lòng bao dung

    Lòng bao dung là rộng lòng thông cảm, thương yêu, độ lượng với mọi người. Trong đời sống, không ai có thể tự hào cho rằng cá nhân mình không bao giờ phạm lỗi lầm, vì “nhơn vô thập toàn”, không ai có thể là toàn vẹn hoàn toàn. Nếu con người không phạm lỗi thì nhất định đời sống của con người không có gì phải nói với nhau nữa. Chuyện đáng nói ở đây là khi đã lỗi lầm có được tha thứ và biết nhận lỗi hay không.
    Sự chung đụng trong trường đời với bao nhiêu điều phức tạp, ai ai cũng đều lo nghĩ đến quyền lợi cá nhân nhiều hơn là ích lợi chung của những người xung quanh. Đó chính là nguyên nhân làm cho con người càng dễ dàng tạo ra những lỗi lầm. Có người chỉ vì nghĩ đến quyền lợi nhỏ nào đó, đã vô tình tạo nên những lỗi lầm trọng đại đối với người sống chung quanh.
    Chúng ta thử nghĩ xem, trong những lỗi lầm ấy không phải hoàn toàn do con người cố tình gây nên, cũng có thể vì ảnh hưởng của xã hội, của cuộc sống bon chen mà con người không thể đóng vai một anh hùng hay một quân tử mãi được. Con người phải tự tìm cho mình lối thoát, phải dấn thân vào trường đời, mang theo niềm tin chiến thắng cả vật chất lẫn tinh thần về cho gia đình để theo kịp đà tiến của xã hội. Con người đấu tranh quyết liệt không nhường nhịn một ai, từ đó dẫn con người đến với mọi thủ đoạn hơn thua, sát phạt nhau, dùng mọi thủ đoạn hạ đối phương một cách không thương tiếc. Vì thế mà con người mang lỗi lầm với nhau.
    Dầu muốn hay không, trong tình hình như thế, con người hơn bao giờ hết cần sự khoan dung và tha thứ cho nhau, thông cảm lẫn nhau thì cuộc sống trong xã hội mới có cơ hội an bình. Lý tưởng của cuộc đời là sự thương yêu và tha thứ cho nhau.
    Từ đó tinh thần bao dung được thoát lộ một cách có giá trị nhằm hàn gắn lại mọi bất đồng để người người cùng xích lại gần nhau trong sự hiểu biết và thông cảm hầu tạo nên cuộc sống tốt đẹp.
    Mầm móng gây ra những lỗi lầm là do những thiên kiến, không chịu tìm lại gần nhau tìm phương thức hàn gắn. Chỉ có phát triển tình thân mật với nhau bằng cách cảm thông nhau sẵn sàng tha thứ.

    Bậc thánh hiền xử với người đời không có giây phút nào là rời bỏ được cách ôn hòa trung hậu. Cho nên mới có những câu:
    Phiếm ái chúng, nghĩa là rộng yêu tất cả loài người.
    Hòa nhi bất đồng, nghĩa là xử với người hòa hợp mà không a-dua phe đảng.
    Hòa nhi bất lưu, nghĩa là xử với người hòa nhã mà không a-dua quá trớn.
    Quần nhi bất đảng, nghĩa là liên hợp với mọi người cho nhân quần mà không vào bè kết đảng với ai cả.
    Chi nhi bất tị, nghĩa là công bình mà chẳng thiên tị (tị là không bằng lòng khi nhận thấy mình thiệt hơn người khác).
    Từ tường khải đễ, nghĩa là nhân đức, êm ái, vui vẻ, dễ dàng.
    Ái nhân, nghĩa là yêu loài người.
    Thân nhân, nghĩa là gần gủi dân và đi sát với dân, coi như an hem.
    Vạn vật nhất thể, nghĩa là coi muôn vật, muôn loài với mình như là một thể.
    Thiên hạ nhất gia trung quốc nhất nhân, nghĩa là coi cả thiên hạ như một nhà, coi cả nước như một người.
    Nếu làm người cứ vò võ một mình, tính nết khe khắt, lạnh nhạt, chẳng thân với ai thì thật là một hạng chướng ngại cho xã hội.

    Nói về vạn vật nhất thể, ông Trương Hoành Cừ người đời nhà Tống bên Trung Hoa, là một học giả nổi tiếng nói: “Trời là cha, đất là mẹ, chúng ta được cái khí trời đất mới thành ra người. Ta nghĩ thân ta thật là nhỏ nhoi mà được ở trong vòng trời đất to lớn bao la. Cái khí của trời đất tức là hình ảnh của ta, cái lý của trời đất tức là tính của ta.
    Người ta với muôn vật cùng sinh ở trong trời đất, vậy thì cái gì có hình đều là khí của trời đất, cái gì có tính đều là lý của trời đất. vậy người với người là đồng loại, thì ta coi nhau như anh em ruột cả. Trong vạn vật, giống hữu tri, giống vô tri so với người tuy khác, song cùng tự trời đất sinh ra, thì ta cũng coi như một bọn với tất cả.
    Phàm người trong trời đất đã là con trời hết, thì vua ta coi như người anh cả; đại thần ta coi như người giúp anh cả; cụ già ta kính, là cốt quý bậc tôn trưởng; trẻ em ta thương là cốt yêu đàn con trẻ ta; bậc thánh là anh em ta mà giống cha mẹ ta; bậc hiền là anh em ta mà giỏi hơn ta; còn những người ốm đau, tàn tật cô độc, góa bụa đều là anh em ta mà vất vả khổ sở, không biết nương tựa vào đâu đây”.
    Câu nói trên đây đã làm rõ nghĩa của vạn vật nhất thể nói lên tấm lòng bác ái vị tha. Dù trong nhân loại có chia ra nhiều hạng nhưng cũng là loài người cả, thì nên coi cả thiên hạ như một nhà, coi cả trong nước như một người, kính nhường, yêu thương nhau, giúp đỡ nhau là bổn phận của mỗi người. Các loại động vật, thực vật hữu tình hoặc vô tri đều là cùng ta ở trong trời đất, ta chẳng nên sát hại đời sống của chúng.

    Nói về sống, chết, Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Trên dương thế hữu hình tất hoại”, cái gì có hình sắc đều bị hoại diệt, cho nên, khi con người đã hết số rồi thì dầu cho “Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn. Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi”. Ai là người sống, đã có chút tư tưởng mà lại không muốn biết cái chết và tự hỏi chết rồi đi về đâu, có còn gì nữa không. Bởi lẽ nghi vấn, nên một hôm Thầy Tử Cống là người học giỏi muốn đem chuyện sống, chết ra hỏi thầy là Đức Khổng Tử.
    Thầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: “Người chết còn có biết gì không, hay không biết gì nữa?”
    Đức Khổng Tử nói: “Ta mà nói hẳn rằng “Người chết có biết” thì ta sợ những con hiếu, cháu thuận liều thân để chết theo cha mẹ, ông bà. Ta mà nói hẳn rằng “Người chết không biết gì”, thì ta lại e những con cháu bất hiếu bỏ xác cha mẹ, ông bà mà không chôn. Nhà ngươi muốn biết người chết có biết hay không biết, thong thả, đợi đến lúc chết thì tự nhiên chính mình biết. Sự biết ấy tưởng cũng không muộn gì cho lắm”.
    Đức Khổng Tử không đáp sự chết thế nào vì học thuyết của Ngài cốt ở sự thực, mắt thấy, tai nghe hàng ngày chớ không nói chuyện quá cao siêu. Cho nên có lúc hỏi mà Ngài gạt đi “Cái sống còn chưa biết, sao biết được cái chết”. Ngay trong câu hỏi nầy của Thầy Tử Cống, Ngài cũng gạt đi, Ngài chỉ nói câu ngắn gọn nhưng rất ý nhị, rất hay ở chỗ thực học, thực chứng.

    Bài thơ “Nhân sinh” của ông Dương Bá Hổ, một nho gia đời nhà Tống bên Trung Hoa, phát họa đời người chỉ là kiếp phù du giả tạm, phải sống cho ra sống!

    Sống bảy mươi năm đã mấy người!
    Trước thì tuổi trẻ, sau già lão
    Thì giờ quãng giữa được bao lâu?
    Lại còn viêm lương (1) cùng phiền não

    Hoa quá mùa xuân, hoa kém tươi;
    Trăng quá mùa thu, trăng kém sáng
    Hoa tươi trong sáng, ta ngâm nga
    Rượu năm, ba chén say chuếnh choáng(2)

    Tiền của càng nhiều, càng oán to
    Quan chức càng cao, càng nhọc xác,
    Quan to, tiền nhiều, lòng những lo,
    Chỉ tổ làm cho đầu chóng bạc

    Xuân đi, hạ lại, thu sang đông,
    Chóng như thoi đưa, như mây chảy
    Vừa tiễn buổi chiều, chuông chùa kêu
    Đã báo rạng đông gà gáy sáng.

    Ta thử tình xem người nhãn tiền
    Một năm đã thấy khuất vô số
    Lô nhô nắm đất cảnh đồng hoang
    Quá nữa không ai người tảo mộ

    (1) viêm lương: nồng nàn, lạnh nhạt, thói đời biến cải không nhất định.
    (2) chuếnh choáng: say ngã nghiêng, đứng ngồi không vững.


    Người xưa thường nói: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Đời người dầu cho có hạn trăm năm, nhưng mà sống được bảy mươi cũng là hiếm quý. Trong bảy mươi năm ấy, trừ hai giai đoạn, đầu tuổi chưa lớn khôn và giai đoạn cuối tuổi già hết khỏe, quãng giữa còn lại là ba mươi năm thì có là bao, mà lại gặp biết bao khổ đau phiền não. Rồi, nào là lợi danh tài sắc, chóng già lâm bịnh, khó giữ lâu được cái thân, chết rồi thiên hạ chóng quên, khó giữ lâu được mồ mả. Thói đời viêm lương, mà thời gian, không gian vô cùng vô hạn thì đời người có thấm vào đâu. Vậy mà con người cứ miệt mài theo đuổi cái sang giàu giả tạm ngắn ngủi để lụy đến tấm thân.
    Với Tuệ giác của bậc Đại Giác, Đức Huỳnh Giáo Chủ quán xét:

    Việc trải qua như mây gió cuốn
    Nhìn cuộc đời ngày tháng thoi đưa
    Trời sáng ra kế lại thấp trưa
    Năm cũ đó rồi qua năm mới
    Mười hai tháng mà còn mau tới
    Thì tuồng đời cũng chóng đổi thay
    Chữ phù vân phú quý nay mai
    Luân với chuyển dời qua đổi lại
    Cõi Ta Bà mấy ai tồn tại
    Sống dư trăm như tuổi lão Bành
    Hay:
    Mấy ai trăm tuổi ở đời
    Được như Bành Tổ mà rời lợi danh?

    Vậy chúng ta chỉ nên:

    Quyết lòng tìm kiếm cõi thanh
    Lánh nơi trần tục học hành đàng Tiên

    như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy.

    Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, cảnh đời biến đổi chẳng khác gì bức tranh vân cẩu. Vẫn biết thế nhưng con người vẫn mãi mê dục lạc, chìm đắm trong biển lợi danh, đến khi thức tỉnh qua cơn mê mới biết trần gian nầy chỉ là mộng huyễn thì tuổi già xế bóng mà lẽ vô thường không sót một ai.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ mở Đạo dạy đời với lòng từ bi thương xót chúng sanh, muốn cảnh tỉnh nhân loại thấy được:
    Hồng trần lao khổ xiết bao
    Khuyên trong lê thứ bước vào đường tu
    Vì:
    Thế trần tạm giã gạt đời ta
    rồi Ngài cũng thống trách:
    Sao đời không sớm tách dời cõi mê

    Lời bày tỏ tường tận của Ngài về một kiếp sống của con người để chúng ta suy gẫm:

    Phong lưu nào phải người ngoan
    Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn
    Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược
    Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang
    Tuổi già thân yếu đa sầu cảm
    Tóc bạc mình ve lắm rộn ràng
    Biết được trần gian là mộng huyễn
    Tử thần sửa soạn kéo vào quan
    *
    * *
    Kéo vào quan quách biết bao người
    Cảnh sống sum vầy phỏng mấy mươi?
    Lắm lúc đua chen vui lẫn giận
    Nhiều khi vùng vẫy khóc pha cười
    Tuồng đời chuốt ngót cho xong tiếng
    Cuộc thế trau giồi mượn tấc hơi
    Nín thở nằm ngay không cựa quậy
    Xót thương con trẻ khóc đôi lời
    *
    * *
    Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên
    Ma lớn chay to phí lắm tiền
    Tưởng vậy xác thân đa hạnh phúc
    Nào hay hồn phách lắm oan khiên
    Thiên đường siêu thoát thời thong thả
    Địa ngục trầm luân ắt đảo điên
    Nên chọn một nơi thanh tịnh ấy
    Rứt trần bất nhiễm mới là yên

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy, đời người dù cho có bươn chải tranh đấu thế nào đi nữa thì đến lúc lìa đời cũng chỉ là:
    Nhắm mắt cũng nắm hai tay
    Đâu đem tiền của đem rày hầu non
    Chỉ có tội phước hỡi còn
    Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài
    Phước nhiều tiên cảnh lên rày
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê
    Chừng ấy mới biết chỉn ghê
    Ăn năn chẳng kịp khó bề tín toan
    Ngày nay sớm đến Phật đàng
    Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn
    Tội tiêu phước hưởng trường tồn
    Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi
    Thấy đời khó nỗi yên ngồi
    Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao
    Nữ nam muốn rõ âm hao
    Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường

    Đời chỉ là giấc mộng dài mà Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều bày tỏ trong tác phẩm “Cung Oán Ngâm Khúc” như sau:

    Tuồng mộng ảo đã bày ra đấy
    Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
    Trăm năm còn có gì đâu
    Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng cho biết “…cuộc đời là giả tạm, nay rầy mai khác, thân thế luân lạc, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác…rồi đến người khác nữa”.
    Vạn vật trong thế gian, những gì thuộc về hình tướng như gia tài sự nghiệp, vợ đẹp con ngoan cho đến xác thân ta đều đi theo định “Thành, trụ, hoại, không”, chẳng có một vật nào còn giữ mãi mãi, chỉ giả tạm. Cổ nhân đã dạy:

    Thương bấy người đời không vẫn không
    Ruộng vườn nhà cửa có như không
    Vợ con cha mẹ lâu rồi chết
    Danh lợi giàu sang rốt cuộc không
    Trăm khéo trăm khôn đời giả tạm
    Ngàn mưu ngàn kế cũng hườn không
    Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp
    Nhắm mắt hai tay vẫn phủi không

    Trong kinh Kim Cang, Đức Phật dạy:
    Nhứt thiết hữu vi pháp
    Như mộng, huyễn, bào, ảnh
    Như lộ, diệc như điển
    Ưng tác nhự, thị quán
    Dịch văn nôm:
    Bao nhiêu những pháp nhận nhìn
    Ví như mộng, ảo, bọt, hình đó chi
    Cũng như hơi nước bay đi
    Cũng như chớp nhoáng trong khi mưa rào
    Thảy đều như vậy khác nào
    Các nhà học đạo xét vào cho minh.
     
  7. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    CHƯƠNG VI

    A. Luân Hồi

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:
    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão
    Mắc trong vòng sanh tử luân hồi

    Rồi Ngài khuyên dạy:
    Gây ra lắm nợ phong trần
    Luân hồi sáu nẽo khôn lầm bước ra

    Vậy luân hồi là gì? Luân hồi có nghĩa là sự chuyển tiếp, sự diễn tiến liên tục của những kiếp sống. sự chuyển sinh liên tục đó, thường được biểu thị bằng bánh xe và được gọi là bánh xe luân hồi.
    Bánh xe luân hồi là “một vòng tròn sinh sinh hóa hóa” của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn đó không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc. Bánh xe ấy cứ quay mãi trong vòng trầm luân khổ ải cho đến khi nào con người biết tu tập và đạt đến sự giải thoát. Đức Phật dạy: “Đêm dài đối với người mất ngũ. Đường xa đối với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng vậy, vòng luân hồi sẽ mãi tiếp nối với những kẻ ngu si không rõ chánh pháp”.
    Sau khi thành Đạo dưới cội cây bồ đề, một trong những tuyên ngôn đầu tiên của Ngài với nội dung giải thoát vòng luân hồi đã ghi trong tạng Kinh như sau:
    “Trong vòng sống chết vô tận, ta đi mãi không ngừng, từ bào thai nầy sang bào thai khác, như đuổi theo người chủ nhà. Chủ nhà! Ta đã nắm được ngươi rồi. Ngươi không cất nhà lại được. Cột kèo đã gãy hết. Mái, rường đã sụp đổ. Tâm lìa hết tạo tác. Tất cả đã diệt trừ xong”.
    Đức Phật đã xác định về luân hồi một cách cụ thể qua hình ảnh tái sinh, từ bào thai nầy đến bào thai khác. Tái sinh là sự trở lại một đời sống mới cao hơn hoặc thấp hơn hay như cũ như trong lục đạo (trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục) sau khi đã hết một chu kỳ sống hay còn gọi là thọ mạng.
    Ở đây, chúng tôi chỉ xét qua về chu kỳ sanh tử của một đời sống cụ thể qua bốn giai đoạn: sanh, già, bịnh, chết của một chúng sanh.
    Theo quan điểm Phật giáo, muôn loài chúng sanh đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Vô thường chính là sự biểu hiện của sinh, lão, bịnh, tử của kiếp sống. Một kiếp sống được giới hạn bởi hai mốc thời gian sinh và tử. Mà sinh và tử chỉ là sự bắt đầu và hoàn tất của một chu kỳ. Vậy thì khi thân xác hoại diệt, cái gì sẽ tiếp tục tái sinh, mở đầu kiếp sống mới?
    Đức Phật dạy trong kinh Trung Bộ: “Con người là chủ nhân của Nghiệp, là kẻ thừa tự Nghiệp, là quyến thuộc của Nghiệp. Nghiệp là khai tạng mà từ đó con người được sinh ra”.
    Qua lời dạy trên dây, chúng ta thấy Nghiệp luôn luôn có mặt cùng mới sự có mặt của con người. Khi chết, phần thân thể vật lý tan hoại nhưng Nghiệp vẫn còn tiếp tục trôi lăn theo dòng trầm luân của nó (thiện nghiệp hoặc ác nghiệp) và qua đó vòng luân hồi xoay chuyển.
    Nghiệp là gi? Nghiệp là hành động có tác ý phát động từ tâm không qua thân, khẩu, ý mà Nghiệp được hình thành. Nói đến Nghiệp là nói đến thiện, ác trong tương quan nhân quả; mà động cơ chính để kiến tạo Nghiệp là Tham, Sân, Si (thường tạo ác nghiệp) và ngược lại không Tham, không Sân, không Si (thường tọa thiện nghiệp).
    Chính tâm ý của mỗi người là cơ sở để tạo nên Nghiệp. Con người là kẻ quyết định cái Nghiệp của mình hay gọi là định nghiệp do mình tạo tác. Cũng chính con người là kẻ duy nhứt có thể giải thoát mọi nghiệp lực của mình ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.
    Về cơ bản có ba loại nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
    Về đặc điểm được phân thành bốn loại:
    - trọng nghiệp: nghiệp sát nhân
    - tập quán nghiệp: do thói quen hình thành
    - tích lũy nghiệp: do tích tụ từ cuộc sống hàng ngày
    - cận tử nghiệp: nghiệp lúc sắp chết


    Trong suốt vòng luân chuyển của sinh tử, tử sinh, từ đời sống nầy qua đời sống khác, nghiệp bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm của sự luân chuyển. Trong lãnh vực tái sanh, cận tử nghiệp là điều kiện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp. Nó là dòng nghiệp thức mạnh nhất thúc đẩy thần thức con người trước, trong hoặc sau khi chết tìm kiếm một sự tái sinh.
    Nếu còn sanh tiền, con người làm thiện hay ác đều so hành động của thân, miệng, ý. Hành động đó đều được lưu vào tàng thức, giống như những hạt giống được gieo vào và nằm yên trong đất. Đến khi sắp chết hoặc chết, các cơ năng trong thân người không còn hoạt động nữa mà chỉ có tâm thức hoạt động. Tuy nhiên tâm thức lúc đó không còn ở trạng thái định tĩnh, tự chủ, linh hoạt mà trái lại nó rơi vào trạng thái bất tỉnh, hôn mê, hoảng hốt và ngay lúc bây giờ, mọi tác động của con người (nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện) từ trong quá khứ là lúc còn sống sẽ tạo thành dòng nghiệp thức với ý thức cực mạnh để thôi thúc thần thức của con người đi tìm cảnh giới tái sinh.
    Các thói quen nhất là sự luyến ái, chấp thủ khi còn sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cận tử nghiệp. Do đó, nếu một người có một đời sống an lạc thì khi chết cũng an lạc. Nếu sống khổ đau thế nào do lòng Tham, Sân, Si, thì khi chết cũng khổ đau như thế. Sống vả chết là sự tiến trình giống như ngủ và thức. Con đường đi đến cửa tử thì ai cũng phải đi qua không có sự ngoại trừ, cho nên khi còn sống trên đời chúng ta phải biết hướng tâm đến với sự xả ly thanh tịnh, xóa bỏ mọi tham cầu và bám víu thì mới mong giải thoát. Cổ đức dạy rằng: “Thế gian như một con thuyền. Hãy đi trên đó chớ đừng vác mang”.
    Có hiểu biết về luân hồi thì chúng ta mới có cuộc sống an nhàn tự tại. Cái khổ đau của con người là tham muốn và nắm giữ các đối tượng “của tôi” và của “cái tôi thích, tôi yêu”. Chúng ta có thể tập buông bỏ từ từ những thứ mà tâm ý muốn nắm giữ nó để khi quỷ “vô thường” hỏi đến, chúng tan gay lập tức hướng tâm đến sự từ bỏ tất cả, không luyến ái, bình an trong chánh niệm; vì đó là điều kiện tối cần thiết cho tái sinh vào một đời sống tốt đẹp hơn và cao cả hơn. Muốn được như vậy, ngay từ bây giờ và ở đây chúng ta hãy thực tập tư duy về vô thường và vô ngã.


    B. Khó thay được làm người

    Dù là có phước được làm người, nhưng không phải ai cũng giống nhau mà có nhiều hạng người. Có người vô phước, có người thiếu phước, có người đủ phước. Cũng có người phước dư Đông Hải.
    Phước đức lớn nhất trên đời là sanh ra được làm người và được gặp Phật và tu học theo chánh pháp. Sanh ra được làm người đã khó mà được gặp Phật trong đời lại càng khó hơn, cho nên nhân duyên lớn mới được gặp.
    Trong Kinh Tương Ưng Bộ, có kể câu chuyện về Một thời Đức Phật trú ở Sesali, tại Trùng
    Các giảng đường, dạy các Tỳ Kheo:
    1- Nầy các Tỳ Kheo, ví như có người quăng một khúc gỗ, trên đó có một lỗ hổng vào biển lớn. Có một con rùa mù sống ở biển nầy, sau mỗi một trăm năm rùa mù nổi lên một lần.
    Nầy các Tỳ Kheo, các ông nghĩ sao, con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào cái lỗ hổng trong khúc gỗ được hay không?
    Bạch Đức Thế Tôn, sau một thời gian dài, họa may con rùa mù nầy có thể chui cổ vào lỗ được.
    Nầy các Tỳ Kheo, ta tuyên bố, con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui vào khúc gỗ có lỗ hổng ấy còn mau hơn kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ để được làm người trở lại. Vì sao? Vì rằng ở đấy không có pháp lành, chánh hành, thiện nghiệp phước nghiệp. Ở đấy, nầy các Tỳ Kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau và chỉ có người yếu bị ăn thịt. Vì sao? Vì không thấy được bốn Thánh đế. Thế nào là bốn? Thánh đế về khổ… Thánh đế về con đường diệt khổ.
    Do vậy, nầy các Tỳ Kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: “Đây là khổ”…một cố gắng cần phải làm để rõ biết: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”.
    2- Nầy các Tỳ Kheo,ví như quả đất nầy chỉ toàn một bãi nước và một người đến ném xuống một khúc cây có một lỗ hổng. Rồi gió phương Đông thổi nó trôi về phương tây; gió phương Tây thổi nó về phương Đông; gió phương Bắc thổi nó về phương Nam; gió phương Nam thổi nó trôi về phương Bắc. Tại đây, một con rùa mù cứ một trăm năm nổi lên một lần.
    Nầy các Tỳ Kheo, các ông nghĩ thế nào về con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào trong khúc cây có lỗ hổng không?
    Bạch Đức Thế Tôn, thật khó được vậy, con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào trong khúc cây có một lỗ hổng ấy!
    Thật khó được vậy, nầy các Tỳ Kheo, là được làm người! Thật khó được vậy, nầy các Tỳ Kheo, là Như Lai xuất hiện ở trên đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Thật khó được vậy, nầy các Tỳ Kheo, là Pháp và Luật nầy do Như Lai thuyết giảng chiếu sáng trên đời.
    Như nay, nầy các Tỳ Kheo, các ông đã được làm người và Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác lại thêm Pháp và luật được Như Lai thuyết giảng chói sáng ở đời.
    Do vậy, nầy các Tỳ Kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: “Đây là khổ…một cố gắng cần phải làm để rõ biết: Đây là con đường đưa đến khổ diệt”.
    Hình ảnh con rùa mù sống trong biển lớn, mỗi trăm năm nổi lên một lần chui đầu qua lỗ hổng của khúc gỗ lênh đênh trên biển cả, cho chúng ta thấy điều đó thật khó khăn, hiếm thấy trên đời. Nhưng Đức Phật khẳng định việc ấy còn dễ hơn một người đã bị vô minh che lấp khiến rơi vào đọa xứ (ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục) được sanh trở lại làm người. Cho nên được sinh làm người là điều rất khó.
    Hôm nay, chúng ta có phước được làm người dù không gặp được Phật. Tuy vậy, Tam Bảo vẫn thường trụ ở thế gian và dấu tích của Thế Tôn vẫn còn cho chúng ta chiêm ngưỡng, bái vọng. Điều quan trọng là giáo pháp của Ngài vẫn còn lưu truyền. Chúng ta được làm người lại được tu học theo Chánh pháp là một đại nhân duyên phước báu mà ta đang có.
    Chúng ta là những người con Phật phải hiểu và thực hành theo Chánh pháp, chính là ta đã có phước đức lớn. Tu tập theo giáo pháp, theo lời dạy của Đức Phật, Đức Thầy, tinh tấn, siêng năng không thối chuyển thì thành quả diệt khổ sẽ đến vì chúng ta đã có “con đường diệt khổ” rồi.

    C. VÔ MINH

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Bị vô minh vọng thưởng vạy tà
    Nên quay lộn Ta bà Cõi khổ

    Hay:
    Màn vô minh che mờ căn trí
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn

    Vô minh là gì? Vô là không, minh là sáng. Vô minh tức là không sáng. Vô minh là mê lầm, đen tối.
    Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Thấy các pháp không biết đúng như thật gọi là vô minh”. Mọi sự vật trên đời nầy mà không biết đúng như thật, biết một cách tưởng tượng, mơ hồ thì đó là vô minh hay “vô minh là không thấy, không biết đúng như thật”. Đó là lời giải thích trong Kinh A Hàm.
    Trong Kinh Viên Giác, dẫn lời Đức Phật, như có một vị Bồ Tát hỏi: “Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh?”. Đức Phật dạy: “Vô minh là đối với thân tứ đại duyên hợp, tưởng lầm là thật, là quý. Đối với tâm duyên theo bóng sáu trần cho đó tâm thật, đó là vô minh”. Như vậy, nếu ai còn thấy thân mình là thật, thấy tâm mình nghĩ tưởng việc nầy việc nọ là tâm thật, đó là vô minh.
    Chúng ta bị vô minh dẫn nên vòng sanh tử không dừng. Người tu theo Phật là không mong cầu bất cứ điều gì ngoại trừ tu cầu giải thoát, “Tu cầu thoát khỏi tử sanh. Nương theo Phật quốc, lời lành hằng nghe” như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy.
    Trong kinh Vô Minh có ghi lại những lời đối đáp giữa ngài Xá Lợi Phất và ngài Ma Ha Câu Hi La. Khi được ngài Ma Ha Câu Hi La hỏi về ý nghĩa của vô minh, ngài Xá Lợi Phất giải đáp rằng: “Vô minh tức là không biết. Không biết những gì? Sắc là vô thường mà không biết như thật sắc là vô thường; sắc là pháp ma sanh diệt, mà không biết sắc là pháp sanh diệt. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng thế. Nầy Ma Ha Câu Hi La! Đối với năm ấm (hay uẩn) nầy mà không thấy, không biết như thật, ngu si, mờ tối, không sánh tỏ, thì đó gọi là vô minh…”. Chúng ta vì mê muội chạy theo sắc tướng bên ngoài rồi cho đó là thật nên bám vúi chấp chặt vào chúng.
    Chuyện kể rằng có một ông vua nọ khóc than khổ sở sau khi bà hoàng hậu yêu quí của ông qua đời. Vì quá yêu thương bà hoàng hậu, ông ta cứ trách móc tất cả quần thần, dân chúng, cho đến chư Tăng rằng tại sao không ai cứu sống bà ta, mà trong khi đó ông ta luôn lo lắng cho quần thần, dân chúng và nhất là cúng dường Tam Bảo. Vì thế ông ta ra lịnh đốt phá chùa chiền, bắt Tăng Ni hoàn tục. Đang ngồi thiền trên núi, một vị sư đắc đạo quán chiếu thấy rõ cơn Pháp nạn đang xảy ra, nên buộc lòng phải xuống núi, vào kinh thành can gián nhà vua. Đến nơi vị thiền sư bèn hỏi nhà vua rằng Ngài có muốn đi gặp hoàng hậu chăng? Đương nhiên nhà vua trả lời muốn. Vị thiền sư bảo nhà vua nhắm mắt lại, rồi Ngài liền dùng thần thông hóa hiện mình và nhà vua làm hai con châu chấu đi trên một cánh đồng rộng lớn. Nơi đó, vị thiền sư chỉ cho nhà vua thấy một cặp châu chấu đang tình tứ với nhau trên bãi cỏ và con châu chấu cái chính là hoàng hậu mới vừa qua đời không lâu đã đổi thân xác. Nhà vua thấy vậy, bèn chạy đến ân cần hỏi han rằng: “Trẫm đây nầy! Trẫm ngày đêm nhớ đến ái khanh! Hãy mau theo trẫm về hoàng cung hưởng dục lạc!”. Con châu chấu cái nghe lời của con châu chấu lạ hoắc như thế nên quay quắt người bỏ chạy theo con châu chấu đực kia. Lúc đó, thấy nhà vua định chạy đuổi theo, vị thiền sư bèn ngăn lại và nói rằng sau khi đã thay hình đổi dạng thì làm gì mà bà hoàng hậu nhớ đến nhà vua được; vậy hãy trở về hoàng cung. Nghe lời vị thiền sư khuyên bảo, nhà vua nhắm mắt và trong chốt lát cả hai liền trở về hoàng cung, hiện lại thân người. Kể từ đó nhà vua hiểu được thế thái nhân tình, không còn khóc than vì bà hoàng hậu nữa và trở lại cuộc sống bình thường chăm lo cho dân chúng, bãi bỏ lệnh phá chùa, bắt tăng ni hoàn tục.
    Cũng trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Nầy hỡi các đệ tử! Khởi điểm của một cuộc hành trình xa xôi nầy thật không thể quan niệm được. Chúng sanh bị bao trùm kín mít trong màn vô minh. Bị dây ái dục trói buộc chặt chẻ không thể khám phá khởi điểm của cuộc luân chuyển triền miên, cuộc hành trình vô định”.
    Trong nhân gian, người ta thường gán ghép những biểu tượng xấu nhất cho con heo, mập như heo, ở dơ như heo, ăn cái gì lú như heo…”. Cho nên con heo biểu trưng cho vô minh. Trong truyện hư cấu “Tây Du Ký”, có một nhân vật là Trư Bát Giới suốt ngày tham ăn, tham ngủ, tham sắc, là biểu tượng cho tâm tham lam, ngu si. Cũng thế theo Phật giáo Tây Tạng, con heo biểu tượng cho vô minh.
    Tâm tình vọng động, háo thắng sản sinh từ vô minh. Đức Phật có kể lại câu chuyện về con heo rừng ngu si. Trong một khu rừng, có một con heo rừng kiêu căng, hống hách vì ỷ lại sức mạnh của mình. Một hôm muốn thách đấu với con sư tử chúa sơn lâm. Nhưng hôm đó con sư tử chúa vì ăn uống no nê nên không màng đến sự đánh đấm. Vậy mà con heo rừng kiêu căng vẫn thách đố, hẹn vài ngày sau trở lại tranh tài cùng sư tử và đương nhiên sư tử chấp thuận. Khi trở về hang thuật lại điều nầy với đàn heo rừng thì tất cả đều rung sợ, cho rằng con heo rừng kiêu căng, ngạo mạn nầy chắc muốn chết mới dám thách đố với sư tử. Bàn qua tán lại một hồi, một con heo rừng trong bầy hiến kế cho con heo rừng kiêu căng kia rằng từ hôm nay cho đến ngày tranh hùng với sư tử, ngươi nên trét lên mình bằng phân người thì con sư tử kia sẽ không dám đụng đến chân lông vì loài sư tử chỉ thích sạch sẽ. Con heo rừng kiêu căng kia y theo kế mà làm. Đến ngày tranh hùng, con heo kiêu căng với mình mẩy ướt đẫm phân người, nên con sư tử đành phải đứng xa mà nói rằng: “Nếu thân ngươi không tẫm đầy phân thì chắc chắn đã bị ta xé ra từng mảnh vụn rồi”. Con heo rừng kiêu căng thấy sư tử bỏ đi bèn tru rống thêm những lời kiêu hãnh: “À! Như vậy ta đã thắng chúa tể sơn lâm rồi! Thà sống dơ còn hơn chết sạch!”. Phản ảnh lại sự kiêu hảnh của con sư tử cũng là tâm thức si mê của chúng ta. Do si mê nên mới khởi tâm kiêu ngạo. Muốn diệt si mê, con người phải mở tánh giác như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Diệt si mê phải nương thuyền giác
    Muôn việc làm chính trực khôn ngoan
    Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn
    Làm ngu muội đọa thân một kiếp.

    Khi mê thì bị những tâm tình vọng động khống chế, khi giác ngộ thì chúng ta làm chủ nhân ông cuộc đời mình.
    Hình ảnh con heo không chỉ giới hạn trong biểu trưng cho tâm thức si mê, mà nó cũng biểu hiện cho lòng dũng cảm, cho trí tuệ, mà câu chuyện tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến “con heo rừng của người thợ mộc”. Chuyện kể rằng: Vua Ba Tư Nặc vì giận cháu mình là vua A Xà Thế đã giết cha (vua Tần Bà Sa La) và khiến cho hoàng hậu Vi Đề Hy (em gái của vua Ba Tư Nặc) buồn rồi bệnh chết, nên không cho ngôi làng Kasi (phần của hồi môn nhà vua cho em gái mình, hoàng hậu Vi Đề Hy). Vì vậy vua A Xà Thế cứ khởi binh đánh với vua A Xà Thế. Vua Ba Tư Nặc bèn hội ý với quần thần và được họ đề nghị nên thỉnh cầu chư tăng chỉ bảo thì mới mong thắng trận. Vua Ba Tư Nặc phái một cận thần đến tịnh xá Kỳ Viên thỉnh ý chư tăng. Tình cờ hôm đó, vừa đến tịnh xá, ông quan cận thần nầy nghe thấy có hai vị trưởng lão Utta và Tissa thức suốt đêm bàn về quốc sự. Trưởng lão Tissa nói với trưởng lão Utta rằng ông vua bụng bự Ba Tư Nặc vì không biết dùng chiến thuật nên bị thua hoài là phải. Trưởng lão Utta hỏi chiến thuật đó là gì? Trưởng lão Tissa nói rằng phải nên dùng chiến thuật đóng binh trên hai ngọn đồi rồi giả kế nghi binh để vua Xà Thế bị lọt vòng vây mà bắt sống. Quan cận thần nghe lời bàn của hai vị trưởng lão như thế, nên lẳng lặng trở về triều, trình bày kế đó. Vua Ba Tư Nặc y theo và quả nhiên bắt sống được vua A Xà Thế. Sau đó vua Ba Tư Nặc cho vua A Xà Thế ngôi làng đó làm của hồi môn. Trong hàng chư tăng có nhiều người biết được chuyện nầy nên đem ra bàn tán xôn xao tới tai của Đức Thế Tôn.
    Đức Thế Tôn dạy rằng không phải đây là lần đầu tiên mà Tissa bàn về chiến thuật thế gian. Đức Thế Tôn kể lại rằng thuở xưa có một người thợ mộc vào rừng thấy một con heo rừng con bị lọt xuống hố; vì thương loài vật nên đem con heo rừng nầy về nhà nuôi. Lớn lên, con heo rừng nầy rất lanh lợi, biết dùng sức mình kéo gỗ, đồ nghề giúp người thợ mộc. Lâu ngày, sợ kẻ săn bắn bắt con heo rừng nầy nên người thợ săn lại thả con heo về rừng. Con heo rừng nầy vào rừng sâu tìm chỗ sinh sống thích hợp. Nó tìm ra một nơi hang động xung quang có đầy đủ hoa trái, rồi ở lại trong hang đó. Một ngày kia, có một đàn heo rừng gầy ốm kéo đến làm bạn và kể cho nghe rằng sở dĩ chúng nó đói khát vì mạng sống của chúng luôn đe dọa bởi một con hổ ở gần đó. Nghe lời nầy, nó an ủi đàn heo rừng và lập kế hoạch bắt giết con hổ đó bằng cách cho đào cái lỗ lớn nhỏ xung quanh hang động, rồi chờ con hổ tới khiêu khích để nó bị lọt hố. Quả nhiên, không bao lâu, con hổ quen thói hung bạo, ăn quen tìm đến định bắt thịt mấy con heo rừng. Vừa nhảy đến vồ lấy thịt, con hổ đâu ngờ con heo rừng thông minh đã đào các hố để gài bẫy, nên nó lọt xuống hố, rồi bị cả đàn heo rừng ủi đất lấp hố chôn sống. Kể đến đây Đức Phật nói rằng thuở đó Ngài chính là vị thần cây chứng kiến cảnh con hổ bọ chôn sống, còn con heo rừng thông minh xưa kia, nay chính là trưởng lão Tissa.
    Qua câu chuyện nầy, chúng ta thấy loài vật cũng có tánh linh chớ không phải chúng hoàn toàn ngu muội mà người đời thường gán ghép nhất là loài heo; vì trong nhân gian thường hay nói người nào thiếu sáng suốt thì bị mắng là “ngu như heo”. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta phải tôn trọng sự sống của muôn loài chúng sanh vì ai ai kể cả loài vật cũng đều có Phật tánh, có tánh giác sáng suốt, dù bị vô minh vọng động dẫn chuyển đi trong sinh tử luân hồi, nhưng tính giác đó thường hằng không mất.
    Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy ngài Phú Nâu La rằng nếu hết mê thì sẽ ngộ. Đức Phật lấy ví dụ chàng Diễn Nhả Đạt Đa đang trong thành Thất La Phiệt ôm đầu chạy đi cùng làng mà nói rằng đã mất đầu (chuyện kể Diễn Nhã Đạt Đa nhìn vào gương thì thấy rõ đầu mình, nhưng khi rời khỏi kiếng thì không còn thấy đầu nữa nên hoảng hốt la lên mình đã bị mất đầu). Cũng vậy Đức Phật dạy rằng: “Nầy Phú Nâu La! Ông chỉ cần đi ngược dòng tương tục của ba thứ: Thế gian, nghiệp quả và chúng sanh. Ba duyên đó đã chặt đứt thì ba nhân chẳng có cơ sở để sanh. Bây giờ cái tánh điên cuồng của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. Hết tức là Bồ Đề. Cái chơn tâm trong sáng khắp cùng pháp giới xưa nay không do ai cho mà được, chẳng cần tu chứng nhọc nhằn vất vả lôi thôi! Ví như người có hạt như ý châu trong vạt áo mà không biết không hay, gần suốt cuộc đời tha phương cầu thực cùng khổ lang thang bỗng có người thiện hữu phát hiện, chỉ hạt châu cho; bây giờ người cùng khổ trở thành giàu có nhất đời; ngồi gẫm lại nửa đời lưu lạc tự hận cho số kiếp dại khờ. Thì ra viên như ý châu không phải từ ngoài do ai đem đến!”.
    Đức Phật có kể chuyện về một người vô minh: Có một anh thương buôn cưới một người vợ xinh đẹp. Họ sinh ra được một bé trai kháu khỉnh. Người vợ ngã bịnh rồi mất. Người chồng bất hạnh dồn tất cả tình thương vào đứa con. Đứa con trở thành nguồn vui và hạnh phúc của anh. Một hôm vì việc buôn bán nên anh phải rời khỏi nhà, có một bọn cướp kéo đến đốt phá và cướp sạch cả làng, bắt đứa con của anh mang đi, lúc ấy đứa bé mới lên năm tuổi. Khi trở về chứng kiến cảnh tang thương điêu tàn, anh thương gia đau khổ vô ngần. Trong lúc bươi bới những đống vật liệu còn cháy dở ngổn ngang ở nền nhà, anh thấy xác một đứa bé bị cháy nám đen. Ngỡ là xác của đứa con mình, anh quẩn trí, than khóc thảm thương không sao nguôi ngoai được. Sau đó anh đem xác của đứa bé đi hỏa táng rồi lấy một ít tro gói vào một mảnh lụa quý. Anh luôn đeo gói tro ấy vào người dù đang làm việc, đang ăn uống hay đang ngủ nghỉ. Thỉnh thoảng ngồi yên một mình nhớ lại đứa con yêu quý của mình và mỗi lần như thế anh lại khóc vì thương tiếc.
    Một thời gian sau, bỗng nhiên đứa bé trốn thoát được bọn cướp, tìm đường lần mò về tới làng. Đứa bé tìm được căn nhà mới của cha mình thì lúc ấy đã vào đêm tối, mừng quá đứa bé đập vào cửa liên hồi mong được gặp lại cha. Trong nhà người cha đang nằm khóc trên giường, gói tro đặt bên cạnh, liền cất tiếng hỏi:
    - Ai đấy?
    Đứa bé đáp lại:
    - Con đây, cha ơi, con của cha đây, mở cửa cho con vào!
    Trong lúc đang buồn và hoang mang, người cha ngỡ rằng có kẻ nào muốn trêu chọc, chế nhạo cảnh khổ đau của mình, liền giận dữ và hét to lên:
    - Hãy cút đi, hãy để yên cho ta!
    Và rồi anh ta lại tiếp tục khóc, đứa con vẫn tiếp tục đập cửa. Người cha quả quyết cho rằng đây không phải là con của mình vì con của mình nằm trong cái bọc lụa quý đang ở bên cạnh mình. Đứa bé thất vọng, đau khổ và bỏ đi. Từ đó hai cha con không còn gặp nhau nữa.
    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy vô minh không phải là sự thiếu hiểu biết, mà chính là sự hiểu biết sai lạc và lầm lẫn như người cha cứ đoan chắc rằng tro của con mình đang được gói trong bọc lụa quý. Sự hiểu biết lệch lạc, mơ hồ là vô minh là nguồn gốc dẫn đến đau khổ. Không hẳn khổ đau là do sự thiếu hiểu biết mà trên đời nầy không phải ít kẻ có trí thông minh lại hành động sai lầm không đem lợi lạc gì cho họ mà lại lâm vào cảnh long đong, vất vả do phải đối phó với những khó khăn. Cái gọi là thông minh sai lạc đó, kinh sách gọi là tà kiến.
    Dù cho hết sức thông minh cũng không sao tránh khỏi sự quyết đoán không chính xác một sự việc nào đó cho là đúng, nhưng thật sự việc đó đã sai rồi do vô minh chi phối. Sự quả quyết sai lầm đem đến sự khổ đau, nhưng người ta lại không ý thức được điều ấy như người cha bất lực và lầm lẫn kia trong câu chuyện nầy.
    Ta không nên đánh giá thấp vô minh xem như là cái gì ngu xuẩn, thiển cận, khờ khạo. vô minh thật ra nó cũng khôn ngoan, tinh ranh, nham hiểm, thâm độc, nó luôn tìm cách đánh lừa ta. Vô minh đủ sức sai khiến người cha trong câu chuyện quyết giữ cái bọc tro mà không còn nghe thấy tiếng kêu khóc của đứa con ở ngoài cửa. Vô minh không thụ động mà nó có sức chủ động tích cực bênh vực quan điểm của mình về một sự việc để đi đến tranh cải rồi xô xát với nhau. Trên bình diện rộng lớn trong lịch sử nhân loại, Hitler, Tần Thủy Hoàng không phải là những người thiếu thông minh, nhưng vì vô minh họ tự cho mình là đúng, nên đưa đến thảm họa cho thế giới mà hậu quả còn tồn tại đến ngày nay.
    Thực tế hình như mỗi người trong chúng ta vẫn còn ôm ấp cái “ngã” của mình, chấp chặt cái vô minh, mặc cho sự thật đang kêu gọi sự thức tỉnh của chúng ta. Lời dạy của Đức Phật, Đức Phật là bảo ta hãy diệt bỏ cái ngã để đón nhận sự thật, hãy sử dụng chánh kiến và trí tuệ của mình để loại trừ vô minh.


    D- KHỔ TRONG ĐỜI

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù
    Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng

    Rồi Ngài chỉ dạy:
    Trông chúng sanh nghĩ tận đuôi đầu
    Về Cực Lạc ấy là hết khổ

    Và Ngài cho biết:
    Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ
    Tịnh độ vui, Tịnh độ nhàn vui
    Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo.


    Khổ là gì?
    – Nghĩa theo lối phổ thông là quá khó khăn, thiếu thốn về vật chất hoặc bị giầy vò về tinh thần.
    – Nghĩa theo lối Phật học là khó chịu nổi, hoạn nạn, bệnh tật, suy nhược, những sự ưu não, bức bách thân tâm.
    Thực trạng khổ não thì không thể nào diễn tả cho cùng tận được. Kinh Nghiệp Báo sai biệt nói: “Chúng sanh chịu bức não trong cảnh luân hồi sinh tử, nếu đem xương họ mà chất đống lại thì còn quá hơn núi Tu Di muôn vạn dậm; nếu đem nước mắt của họ đã khóc vì chịu sự bức não ấy mà còn dồn lại thì còn quá hơn nước bến đại dương”. Con người từ khi sanh ra và lớn lên, sự có mặt của khổ là tất nhiên, không thích cũng phải chịu, mặc dù tâm lý không muốn đón nhận.
    Khổ đau trong đời sống con người thường thấy qua tám phương diện: khổ vì sanh; khổ vì già; khổ vì bịnh; khổ vì chết; khổ vì sống chung với người mình không ưa thích; khổ vì phải xa lìa người thân; khổ vì mong cầu không thành; khổ vì sự thịnh suy bất thường của thân ngũ uẩn.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo,
    Khổ Ta bà nhiếp lại tám phần.
    Bởi chúng sanh mang lấy xác thân,


    Sự thật về khổ đau nầy được Đức Phật nói cho năm vị đệ tử đầu tiên trong Kinh Chuyển Pháp Luân. Khi mở Đạo dạy đời, Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã thuyết và dạy chúng sanh hiểu rõ tám cái khổ của con người có mặt trên đời nầy “Có sanh ra khổ ải đâu chừa” và Ngài khuyên:


    Ôi! sang, hèn chẳng ai thong thả
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.
    Chẳng tu thân đặng dựa Phật đài,
    Cho thong thả hưởng mùi sen báu.


    (Chúng tôi trích phần thuyết giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ về tám nổi khổ của con người ở phần sau của quyển sách nầy).

    Đức Phật dạy: “Thế gian nầy thành từ đau khổ”. Vậy ta phải hiểu nếu ta thỏa mãn với cuộc sống thì đâu có chuyện gì cần giải quyết. Thực tế đời sống là một chuổi dài đương đầu hết vấn đề khó khăn nầy đến vấn đề khác cả vật chất lẫn tinh thần. Bất toại nguyện là nguyên nhân của phiền não. Khi ta giải quyết vấn đề nầy rồi thì phiền não sinh ra dưới dạng khác, rồi ta lại giải quyết, cứ thế không ngừng.
    Đức Phật nói về khổ là muốn cho chúng ta thấy rõ, rồi từ đó tìm nguyên nhân mà giải quyết chúng: “Nầy các vị Tỳ Kheo, Như Lai đã dạy các thầy sự thật về khổ, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ. Vì sao Như Lai dạy các thầy chân lý đó? Vì chúng thật có ích và cần thiết để đi đến đời sống lý tưởng, làm cho các thầy từ bỏ mọi dục lạc, giải thoát mọi say đắm, chấm dứt mọi khổ đau, đi đến thanh tịnh, giác ngộ, Niết Bàn”.
    Tham, Sân, Si là cội nguồi của khổ não “Sanh tử, luân hồi”.
    Tham còn gọi là tham ái là đói khát, thèm muốn. Các từ diễn tả một vài phương diện của tham ái như ái dục, tham lam, ước muốn, dục vọng, đam mê, tình yêu.
    Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ Kheo! Ta không thấy có cái gì trói buộc con người bằng tham ái trói buộc con người từ kiếp nầy qua kiếp khác. Quả thật vậy! sự trói buộc của tham ái làm chúng sanh đi lang thang vô tận”.
    Tham ái không những gồm khát vọng về vật chất mà ước muốn chinh phục người khác hay quốc gia khác, chấp vào tư tưởng, quan điểm và tín ngưỡng, đưa đến sự tàn phá thế giới.
    Con người phần nhiều tham đắm ái dục là thứ ngũ dục lạc (tham tiền của, tham danh vọng, tham sắc đẹp, tham ăn ngon mặc đẹp, tham ngủ nghỉ).
    Con người bám chặt vào khoái lạc và tìm kiếm nó nên con người trở thành nô lệ của các giác quan, không có gì làm thỏa mãn các giác quan và ý muốn. Đức Phật nhận thức điểm nầy và khuyến cáo chúng ta:


    Thú vui là sợi dây trói buộc,
    Hạnh phúc dẫn đến đau khổ.
    Kẻ trí nhận thức thú vui,
    Chỉ là móc câu cá.


    Đức Phật cũng thường vì lòng tham như rắn độc mà ngũ dục lạc chính là rắn độc. Hành giã đi trên đường tu giải thoát phải dùng móc câu mà móc nó ra đừng để cho nó ngự trị.
    Trong nhà Phật có kể câu chuyện: Một bửa nọ, Đức Phật cùng tôn giả An Nan trên đường đi. Ngang qua một bụi cây, thấy có một thỏi vàng, Đức Phật nói: Rắn độc đó; An-nan cũng thưa: Dạ, rắn độc to lắm, Bạch Thế Tôn! Cùng lúc đó có một anh nông dân nghe hai thầy trò Đức Phật nói trong bụi có rắn độc, cũng muốn tò mò xem thử hư thực. Đợi Đức Phật đi khỏi đó, anh liền chạy đến xem, nhưng rắn độc đâu không thấy mà chỉ thấy toàn là vàng. Anh ta lấy làm sung sướng tìm cách mang vàng về nhà lại còn chế nhạo: nghe đồn Sa môn Cù đàm (Đức Phật) có trí tuệ siêu phàm, nhưng lần nầy quả là ông ta ngu quá, vàng sờ sờ mà nói là rắn độc!
    Có được vàng, anh ta xây nhà cửa, tạo phương tiện… Dân trong làng thấy trước đây anh nông dân nầy nghèo đói, mà nay bỗng dưng giàu có, thì sanh nghi ngờ, nên đi báo quan. Đồng thời quan quân triều đình đang truy lùng tội phạm về việc mất vàng, thế là anh nông dân nầy bị ghép vào tội ăn cắp. Dù lý là anh không ăn cắp của ai, nhưng luật anh bị phạm vào tội được của mà không khai báo. Anh ta bị giam tù và tịch thu tài sản.
    Ở trong tù khổ quá. Giờ đây anh thức tỉnh thấy thấm thía và cảm kích được lời Phật dạy. Anh kêu lên: “Rắn độc, A nan! Rắn độc to lắm, Thế Tôn”. Mỗi ngày anh kêu lên nhiều lần như thế. Lính cai ngục lấy làm lạ hỏi. Anh kể lại đầu đuôi cớ sự. Chuyện thấu đến tai vua. Vua đem chuyện ra hỏi Đức Phật. Sau đó anh ta được tha tội.
    Anh nông dân kia vì lòng tham che lấp, nên thấy vàng là vàng, chớ không phải thấy vàng là rắn độc. Cho đến khi nằm trong tù khổ quá, mới thấy rõ vàng là rắn độc. Ngược lại, Phật là dứt hết lòng tham, nên khi thấy vàng, Ngài biết ngay vàng là rắn độc vì tâm Ngài tự tại chẳng màng đến chuyện bắt rắn làm gì. Anh nông dân kia, nếu như biết tự tại đừng bắt rắn hay ít ra biết cách bắt rắn độc đằng đầu chứ đừng bắt rắn đằng đuôi, thì đâu đến nổi bị rắn cắn đau như thế!
    Thế nên, chúng ta hãy nghiệm xét lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ thật là xác đáng:


    Tham tiền tài thường vướng nạn eo,

    Sân là tâm lý bực bội, tức giận hay thù hằn. Sân thường biểu lộ qua thân và miệng. Sắc mặt cau có, lời nói hung dữ, thô ác; chân đá đồ đạc, tay cầm gậy gộc đánh đập. Còn đối với tâm ý, sân nuôi dưỡng mối thù từ đời nầy qua đời khác. Sân bốc cháy như lửa dữ, thiêu đốt tất cả chỉ trong một niệm “Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng. Nổi lôi đình đâu có định chừng” như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết.
    Đức Phật, Đức Thầy thường vì lòng sân như lửa dữ, do đó các Ngài khuyên người tu hành không nên nuôi dưỡng tâm sân hận, dù chỉ trong chốt lát.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:


    Trong cơn giận kể gì nhân đạo
    Tỷ như con cọp dữ trên rừng
    Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng
    Phân từng mảnh mới là thỏa dạ

    Hay:
    Tánh sân nộ thường làm bạo ngược
    Nên loài người ở cõi thế gian
    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn

    Để rồi:
    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.

    Hậu quả hể ai nuôi dưỡng sân hận bao nhiêu thì chẳng những người đó tự làm khổ mình mà còn làm khổ cho người khác bấy nhiêu!
    Tham và sân là hai mặt cùng một tâm ý, như cái gì mà thuận với ta, làm cho ta yêu thích (là tham), còn cái gì không thuận với ta, làm ta bực bội (là sân).
    Trong nhà Phật có câu chuyện là có lần Đức Phật ngồi một mình dưới gốc cây trong rừng Anyana tại vườn Nai, có một chàng thanh niên đến hỏi: Nầy Sa môn Cù Đàm, ông đang buồn hay sao mà ngồi một mình như thế? Đức Phật nói: Ta mất gì mà ta buồn? Anh ta lại hỏi: Vậy chắc là ông vui lắm? Đức Phật nói: Ta được gì mà ta vui? Người nầy ngạc nhiên: người ta thường ngồi một mình là vì có tâm sự riêng hoặc buồn hoặc vui. Ông không buồn mà cũng không vui thì vì sao lại ngồi một mình? Đức Phật đáp: “Niềm vui chỉ đến với người có tâm buồn; nổi buồn chỉ đến người có tâm vui. Như Lai đã dứt hết tâm lý vui buồn, nên tuy Như Lai ngồi một mình mà tâm lý vẫn thường an, không dao động”.
    Đây là câu chuyện trào phúng về Tham Sân: có một bà già kia có tâm tham lam, bủn xỉn keo kiệt. Ai đem lợi đến thì vui, còn bảo bà giúp đở ai dù cho một hào cũng đừng hòng. Thấy thế, bác hàng xóm muốn dạy bà một bài học, nên nghĩ ra một cách: qua mượn của bà một cái nồi ba. Năn nỉ mãi bà mới cho mượn, nhưng dặn sớm mai phải đem qua trả gấp. Đem nồi về chẳng nấu nướng gì cả, bác ra chợ mua một cái nồi hai bỏ vào trong đó. Đến sáng mai gà chưa gáy, bác qua trả. Thấy có thêm cái nồi hai, bà hỏi. Bác nói: Chắc tại hồi hôm nó đẻ đó bà ạ! Bà nói: Thế mới phải chứ. Nồi của tôi là nồi đặc biệt mà. Lần khác có mượn gì, anh nhớ qua đây tôi cho mượn nhé!
    Một thời gian sau khá lâu, không thấy ông hàng xóm qua mượn nồi, bà cứ thúc dục mãi. Bửa nọ, bác qua mượn lại. Nhưng bà không cho mượn nồi ba, mà nồi năm, vì nghĩ chắc chắn nó sẽ đẻ cái nồi lớn hơn. Đem nồi về, bác vứt nó xuống sông rồi về nhà nằm ngủ.
    Đêm ấy bà cứ trằn trọc mãi, không ngủ được, trông cho trời mau sáng để có cái nồi bốn khi gà vừa gáy sáng. Bà đếm: canh một rồi canh hai rồi canh ba. Gà đã gáy ba hồi, bà nhìn qua hàng rào, vẫn chưa thấy bác qua trả. Trời đã sáng rồi, vẫn chưa thấy tăm dạng. Đồng hồ chỉ bảy giờ, tám giờ vẫn chưa thấy trả. Sốt ruột quá, bà qua đòi. Thấy bác còn đang ngủ, bà liền đánh thức. Bác nói: Tôi chán quá bà ơi! Bà hỏi: Bác chán cái gì? Bác thưa: Dạ, cái nồi của bà, nó đã chết rồi! Nghe thế, bà hoảng hốt: Nó chết ở đâu, sao bác nói tào lao vậy? Bác trả lời ra vẻ khổ sở: Dạ, tôi chôn nó rồi! Lúc ấy bà nổi tam bành lục tặc: Đừng có ma mị, sao nồi lại có thể chết được? Bác tặc lưỡi: Dạ, thì nồi có sinh thì phải có chết chứ sao? Bà tức quá không làm gì được. Trở về nhà, bà đem luôn cả nồi hai, nồi bar a đập nát. Vừa đập vừa nói: tại mầy mà ra cả, tại mầy đẻ cái nồi hai mà tao mất cái nồi năm! (theo chuyện kể trong Vô ngã là Niết bàn của HT Thích Thiện Siêu).
    Si cũng như Tham và Sân, chỉ khác đôi chút về tướng trạng. Tham và Sân thường lấy thân, miệng phát động, còn Si luôn có mặt trong toàn bộ Tam nghiệp thân, khẩu, ý. Nơi nào có sự hiện hữu của khổ là nơi đó có mặt của Si hay nói cách khác trong Tham có Si, mà trong Sân cũng có Si.
    Giáo sư Cao Huy Thuần kể câu chuyện về Si như sau: Một người đi du lịch từ xa về nhà, mang về một vật hiếm quí chưa hề biết đó là một tấm gương soi. Nhìn vào gương anh tưởng như thấy cha mình. Thương cha quá, anh trân trọng cất gương vào trong hộp quý, để nơi kín đáo. Thỉnh thoảng, anh lên lầu lấy kiếng ra thăm cha. Thăm xong thì nhớ, mặt buồn rười rượi. Bà vợ lấy làm lạ: sao chồng mình cứ mỗi lần lên lầu, đi xuống là mặt mày ủ dột như vậy. Bèn rình xem, thấy chồng mở hộp, cúi mặt xuống nhìn rất lâu. Bà vợ chờ khi chồng đi vắng, lên lầu, mở hộp, cúi mặt xuống nhìn và nổi tam bành lục tặc: Một người đàn bà; À ra thế! Đi xa, mang về một người đàn bà! Rồi tương tư, rồi buồn rười rượi! Tất nhiên là vợ chồng cãi lộn nhau, gây gỗ nhau. Vợ thì ghen. Chồng thì không hiểu tại sao vợ ghen: Đó là cha mình, làm sao vợ ghen được!
    Hai vợ chồng trong câu chuyện trên là những người vô minh, tâm trí tối đen “nhận ngụy làm chơn”, là kẻ mà Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên “Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn. Làm ngu muội đọa thân một kiếp”.
    “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”, mà câu chuyện ngụ ngôn sau đây khiến người ta phải suy ngẫm:
    Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà, còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cầy bừa từ sáng sớm tới chạng vạng tối mới về, con chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa.
    Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu nói: “Không có ai sung sướng bằng mầy, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!”.
    Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu: “Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc; sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa, tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè của họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá dến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?”
    Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảnh của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi: “Đúng là mầy cũng không sung sướng gì. Tao với mầy ở chung một nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mầy, mầy cho tao xin lỗi. Nghe mầy nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả”.
    Đang nói, con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cao, nó nhìn lên rồi than thở: “Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống như thế”.
    Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu mà nói: “Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn rình rập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hoại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ long, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có chi sung sướng cả”.
    Bầy cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình: “Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắn, mỗi lần sát hại chết đến cả bầy cả đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi an tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay của con người truy bắt”.
    Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột: “Hóa ra tụi mầy cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời nầy”.
    Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng, nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu khổ não nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném dĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên: “Sao tôi khổ đến thế nầy, không bằng con trâu, con chó nữa! Con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo, gạo tiền, làm quằn quặt suốt ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là bà hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!”.
    Nghe chủ nhà nói như thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng: “Hóa ra sống trên đời đâu có ai không khổ!”.
    Quán xét lại trong chúng ta, mỗi người đều có một hoàn cảnh sống, có thể vui, có thể khổ. Nhưng nhìn chung không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau ít nhiều trong nỗi khổ vui mà thôi. Khổ và vui đan xen như mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta không một ai thoát lọt. Người trẻ có cái khổ của người trẻ, người già có cái khổ của người già, người nghèo có cái khổ của người nghèo, người giàu có cái khổ của người giàu; dù trong hoàn cảnh nào cũng có cái bất như ý như khổ tâm hoặc khổ thân hay khổ cả hai. Không ai chưa từng lo âu, hối tiếc, mong muốn hoặc hy vọng điều gì. Có người nào không bao giờ buồn phiền, chán nản hay bất mãn điều gì? Chắc chắn một điều, mọi người không phải lúc nào cũng thoải mái về thể xác lẫn tâm hồn.
    Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng không thoát khỏi sự chi phối của định luật vô thường; mà hễ vô thường là khổ. Khổ tác động đến tất cả mọi người không phân biệt giai tầng trong xã hội, nên ở đời ta chớ nên than trách sao mình khổ hơn người khác, là kẻ bất hạnh hơn người khác như trường hợp con trâu trong câu chuyện ngụ ngôn kể trên. Dù cho hạng cùng đinh cho đến bậc đế vương cũng không thoát được bốn cái khổ là sanh, già, bịnh, chết. Biết vậy rồi, chúng ta tìm cho chúng ta phương cách sống, bớt tham đắm, thiểu dục tri túc, xả ly, sống trong tình thương yêu san sẻ…Muốn cuộc đời an vui không còn khổ nữa thì phải cố gắng tu: "Tu cầu Phật hóa tánh tình, lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao. Tu cầu cửa Phật đặng vào, gót sen thong thả xiết bao thanh nhàn” là lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    Ngày xưa Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã bỏ cung vàng điện ngọc xuất gia đi tu, vua Trần Nhân Tông cũng từ bỏ ngôi vua vào núi tu hành. Các ngài nhận thấy làm vua cũng không sung sướng như người ta tưởng. Làm vua cũng có cái khổ của ông vua cùng là cái khổ của chúng sanh phải chịu.
    Bài kệ sau đây nói lên đời là khổ và con đường đưa đến diệt khổ:


    Đường danh nẻo lợi lắm người trông
    Chen chúc làm chi giữa bụi hồng
    Kìa bóng nguyệt câu qua cửa sổ
    Nọ tranh vân cẩu có rồi không
    Lỡ cười, lỡ khóc trên sân khấu
    Khi nở, khi tàn mấy cụm bông
    Muốn kiếp phù sinh ra khỏi lụy
    Quyển kinh câu kệ chớ nài công

    Cái gì có hình sắc đều bị tiêu hoại không trường tồn “Hữu vi là pháp vô thường, sớm còn tối mất vô phương vững bền. Một mai sinh diệt đã không, Niết bàn an lạc thong dong tháng ngày”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên tấn chúng ta:


    Cảnh Niết bàn là nơi cứu cánh,
    Về chốn ni xa lánh hồng trần.

    Hay:
    Niết bàn tịch tịnh là đường vô sanh.

    Theo giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ về thuyết Tứ Diệu Đề, Ngài sơ giải như sau:


    Tứ Diệu Đề ai có mến ưa,
    Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa.
    Chữ Tập Đề nay đà mở cửa,
    Để đem vào khuôn khổ người hiền.
    Rán cực lòng một bước đầu tiên,
    Sau mới được làm nên Phật Thánh.
    Về Thượng Giái Cõi Tiên mới bảnh,
    Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa.
    Cõi hồng trần các việc mến ưa,
    Sự giả tạm ta nên rứt bỏ.
    Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,
    Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.
    Lòng dục tu thì phải thực hành,
    Chớ đừng có ham điều sung sướng.
    Đức Phật Tổ nào đâu hẹp lượng,
    Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.
    Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
    Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm.
    Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm,
    Trể thời kỳ khó gặp đặng Ta.


    Dù Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng ta tu mau kẽo trể, nhưng ta không phải một sớm một chiều mà thành đạt. Ngài cho biết “Đường đạo đức bước đi từng nấc”, vậy chúng ta phải tinh tấn, kiên trì “Dù gian lao dạ sắt chẳng sờn”, cứ bền lòng vững dạ “Chữ tu hãy rán miệt mài. Đừng kể vắn dài, đừng nệ mau lâu”. Ngài cũng khuyên “Chớ nản chí đường tu bỏ líp”, dù ít hay nhiều cũng đều có lợi lạc “khuyên người tu tỉnh ít nhiều cũng hay” miễn làm tròn bổn phận của người tu bình thường cũng giúp ích cho đường tu giải thoát “Tu nhơn hiền hậu cũng hay”
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:


    Khổ đà đi đến như tên,
    Rán lo tu niệm tìm nền vinh hoa.

    Mà nếu như:
    Không tu chừng khổ cũng ưng,
    Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay!
     
  8. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    CHƯƠNG VII

    1- Học Phật tại gia


    a/- Hạng tại gia

    Đức Huỳnh Giáo Chủ tuyên thuyết về hạng tại: “Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tính nữ chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì còn cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật Nhân Quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ thờ phượng Đức Phật, phát nguyện quy y, giữ gìn ít điều giới luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh răn lòng, ủng hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.
    Đây là hạng người học Phật tu nhân.
    Bàn xét trên, thấy rằng toàn thể trong đại chúng ta thuộc hạng tại gia cư sĩ, học Phật tu Nhân vậy”.

    b/- Thờ phượng

    Việc thờ phượng, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ Bi mới làm ra thờ phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế chúng ta không có ý hủy báng sự phượng thờ của các chùa chiền. Cách thờ phượng ấy tùy theo điều kiện của các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng về cư sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nhoáng bề ngoài. Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu hiện cho cự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhơn loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật.
    Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái bề ngoài. Còn người nào có cốt Phật trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.
    Ngoài sự thờ Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích.

    c/- Hành lễ

    “Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi".
    Tất cả các hành động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính toán một cách cẩn thận, đừng làm chuyện ngông cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần-Thánh, và đừng ỷ lại sự binh vực của Thầy mình. Luôn luôn lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy, nếu nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành động ngông cuồng không xuy xét cẩn thận để đến đổi thất bại đem đến sự khó khăn, khổ não rồi trách cứ kẻ mạnh không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng thương hại.
    Mỗi người hãy nên lấy trí thông minh nhận xét Đạo lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tiến hóa trên đường Đạo đức.
    Những điều sơ lược giải thích trên đây, mong rằng toàn thể trong Đạo suy gẫm kỹ càng và thực hiện để bài trừ sự mê tín ngông của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư tưởng thiện hòa của Phật đạo được phát triển mau chóng”. Trên đây là lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    d/- Điều kiện vào Đạo
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Người nào muốn quy y phải có hai người bổn đạo cũ, có đức hạnh tiến cử và bảo lảnh, đến Ban Trị Sự trong làng cho người làm đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể lệ về sự tu hành cho người quy y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ tiên rằng: Ngày--- tháng--- con chịu quy y theo Đạo. Sau đó người làm đầu (Hội Trưởng) cho cuốn sách nhỏ nầy (Quyển 6 Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn đạo). Chỗ nào không có Ban Trị Sự, hai người bổn đạo cũ phải dìu dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị Sự gần đó, không bắt buộc thề thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến cử hay được bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật lệ trong sự đạo đức dầu không xin thôi Đạo hay chưa bị bôi tên cũng bị trách nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.
    Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy”.
    Nếu quy mà cứ để y thì dù có trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng được thành. Bởi muốn cho tín đồ biết được ý nghĩa của chữ quy y mà nhứt tâm mà trau sửa, nên Ngài đã viết một đoạn khác như sau:
    “Nay đã tỉnh ngộ quy y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường sanh bất diệt các trò đã gặp nẽo, nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ quy y cho thấu đáo. Qui là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu.
    Vậy quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hàng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Trong đường tu, nương theo tam nghiệp, thì khổ não lắm. Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
    (đọc lại trong cuốn Khuyến Thiện).
    Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ".


    Đạo pháp thường hay dung với hòa,
    Xét người cho tột xét thân ta.
    Nếu người rõ phân vui lòng thứ,
    Ta thứ được người người thứ ta.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ tuyên thuyết trong việc tu hành:

    Chọn nơi nào đạo chánh phượng thờ,
    Thì sẽ được thân sau cao quý.
    Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý,
    Coi tại sao ta phải tu hành.

    Ngài nói rõ, thời kỳ nầy có rất nhiều mối Đạo ra đời, tà chánh lẫn lộn. “Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”. Ai muốn tu hành hãy dùng chánh kiến, trí sáng suốt của mình chọn lọc cho kỹ, xem nền Đạo nào thật sự là giải khổ cho chúng sanh nhằm mục đích giải thoát.
    Đức Phật đã xác định bằng bốn chân lý tuyệt đối “Sanh, Già, Bịnh, Chết” mà trên thế gian nầy không một sinh vật nào thoát khỏi. Cho nên hành giả muốn giải thoát bốn đại họa nầy, cần phải nghiên cứu sâu vào giáo lý Đạo Phật, coi tại sao ta phải tu và tu với phương pháp nào và được kết quả ra sao.
    Theo Nhị nguyên luận đối đãi, hễ có chân thì có huyển, có thiện thì có ác, có dài thì có ngắn, có trắng thì có đen…và có chánh thì có tà, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ nói “Tà với chánh còn đang trà trộn. Người muốn tu phải rán lọc lừa”. Ngài cũng chỉ bảo:

    Các Đạo tà mưu khéo âm thầm,
    Dân rán tránh kẻo lâm vào khổ.
    Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẩy khó mong sống sót.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết hiện nay có rất nhiều tà đạo ra đời, mỗi người hãy nhận định cho sáng suốt để xa lánh, kẻo bị lạc lầm theo chúng mà phải mang khổ về sau “Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn. Làm ngu muội đọa thân một kiếp”. Tà đạo xuất hiện nhiều nơi và dựng đặt nhiều lý thuyết để cám dỗ người tâm trí còn tối đen. Chúng còn bày vẽ, nào là luyện bùa trao phép, ơn trên nhập xác, phong tước đặt tên v.v… Nếu ai ham linh hoặc còn mến tríu lợi danh, chạy theo tập tành với chúng, chẳng khác nào loài chim bị sa vào bẩy, mong gì được thoát khổ. Cạm bẩy ở đây chỉ các đạo tà hay bọn giả tu, thường dùng đủ mưu chước khéo xảo, hoặc bùa phép linh thính để lừa gạt bá tánh tin theo một cách mù quáng, rốt cuộc cả thầy trò đều chuốc lấy tai hại.
    Xưa kia có một vị Tỳ Kheo xuất gia tu hành mà tánh hay lười biếng, không lo học hỏi kinh pháp, tâm ý buông lung, thường bị vi phạm giới luật, nên bị người trong Đạo trục xuất, dân chúng thấy vậy không ai cúng dường nữa. Tỳ Kheo nầy buồn thẹn, xách gói ra đi.
    Đi lang thang thì bỗng gặp một con quỉ cũng phạm luật, vị Tỳ Sa Môn Thiên Vương đuổi đi. Quỉ xuống trần tìm nơi nương tựa kiếm ăn. Quỉ và Tỳ Kheo nầy gặp nhau đón hỏi duyên do.
    Tỳ Kheo tỏ thiệt đầu đuôi. Quỉ an ủi Tỳ Kheo, bảo ông đừng lo, tôi có đủ pháp thần thông giúp ông lấy lại uy tín. Nhưng khi ông được người tặng vật thực chi, phải cúng vái tôi. Tỳ Kheo đồng ý, quỉ liền cõng Tỳ Kheo bay về chỗ cũ. Những người ở đây chỉ thấy Tỳ Kheo, chớ không thấy được quỉ, ngỡ rằng Tỳ Kheo đắc đạo đằng vân, bèn cùng nhau lễ bái thỉnh về chùa, lại còn trách người trong đạo xét đoán không công minh, nỡ đuổi oan một thầy tu đã chứng quả. Từ dạo ấy tiếng đồn vang dội, bá tánh cùng nhau đem lễ vật đến dâng cúng. Tỳ Kheo cũng nhớ lời hứa, mỗi món đều vái cúng cho quỉ trước.
    Một hôm nọ, quỉ đang cõng Tỳ Kheo du hành trên không để biểu diển lòe mắt thiên hạ, chẳng may gặp quan thuộc hạ của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, quỉ thất kinh ném Tỳ Kheo rồi đào tẩu. Tỳ Kheo bị rơi từ không trung xuống đất nát thây.
    Sau đây là câu chuyện xảy ra thật sự ngoài đời là vào năm 1940 có vụ việc Đạo Quốc cầm đầu phong trào Đạo Tưởng ở chùa Long Châu thuộc quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc. Y xưng là Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương nhưng y chủ trương theo tà thuyết như lên xác, tập luyện phép linh, bùa chú để nuôi mộng tranh đoạt lợi danh. Dân chúng ham linh mê tín theo y rèn tập hằng đêm. Chẳng bao lâu bị nhà đương cuộc bao vây, bắn chết một số, còn lại bao nhiêu đều bị bắt cho đi ngồi tù.
    Qua hai câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy rằng người muốn tu phải thận trọng trong việc lựa chọn mối đạo mà nương theo. Nếu không khéo sẽ rơi vào cạm bẩy của tà giáo mà nguy khốn cả thể xác lẫn tâm hồn.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thường dặn dò tín đồ:

    Ra đi dặn lại ít lời,
    Khuyên trong bổn đạo vậy thời rán nghe.
    Dầu ai tài pháp bày khoe,
    Ham linh, ham nghiệm sợ e mang nghèo.
    Lựa cho phải cột phải kèo,
    Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
    Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
    Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.

    Ngài còn khuyên dạy chúng ta:
    “Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo lý ấy như thế nào.
    Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thể nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài bác, nhạo chê hủy bán và cũng rất uổng cho cái công trình thành kính lễ bái của ta vậy.
    Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy gẫm phán đoán kỹ càng; chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.
    Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa, đạo đức”.
    Vậy chúng ta hãy “lấy tâm lấy trí xét soi” sự việc trên đời thì sẽ có nhiều lợi lạc.

    2- Chọn Minh Sư

    Ngày xưa muốn học đạo phải lặn lội đi tìm một vị thầy có kinh nghiệm tu trì mà còn phải có đức hạnh và có khả năng truyền dạy cho người sau. Xét ra thời đó chỉ có một cách đến thọ giáo với vị thầy ở chùa, vì ngoài chùa ra không có nơi nào có đủ kinh sách.
    Trái lại ngày nay, việc làm kinh sách không khó, ngoài chùa ra còn có thư viện, các nhà sách cũng như trên mạn mà ai cũng có thể tìm đọc và tự nghiên cứu học hỏi. Từ đó cũng có người cho rằng việc tìm thầy học đạo cũng không cần thiết lắm. Nhưng thử nghĩ, ngay việc học ngoài đời chúng ta cũng cần có thầy dạy. Ngoài việc nghiên cứu trong sách vở mà có thêm một ông thầy hoặc thiện hữu tri thức chỉ điểm thiết nghĩ cũng là hữu ích. Cho nên nói về học, dù trường đời hay trường đạo đều cần có thầy không phải là vô bổ. Sử sách xưa kia đặt để thứ tự giai tầng “Quân, Sư, Phụ”, vai trò của ông Thầy đứng sau ông vua mà đứng trước người cha. Học ngoài đời mà còn cần có ông thầy hướng dẫn huống chi là học đạo giải thoát!
    Tu tập theo đạo Phật, không những hiểu thấu đáo về giáo lý mà còn phải thiệt hành nữa, phải làm đúng nghĩa của từ ngữ “tu hành”, là không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ chúng sanh. Một ông thầy dạy giáo lý phải là cái gương để đệ tử noi theo. Nghe nhiều về ông thầy không bằng chỉ một lần nhìn thấy. Thấy gì? Thấy hành động cũng như đức độ của ông thầy.
    Người tu hành ban đầu rất cần sự hướng dẫn của một vị Thầy. Nếu theo một Thầy lành, ta sẽ trở nên lành; nếu theo một Thầy ác, ta sẽ trở nên ác. Do đó người tu hành phải sáng suốt lựa cho mình một vị Thầy xứng đáng tin tưởng. Nếu lựa chọn đúng thì sự tu hành gặp nhiều thiện duyên tiến triển. Nếu chọn lựa sai thì có thể thối thất đạo tâm, không muốn tu hành, nhiều khi sinh ra chán ghét luôn các ông Thầy khác.
    Việc đi tìm một vị minh sư học đạo, thì thân giáo tức hành động, nhân cách, giới phẩm, đức hạnh của vị thầy vẫn là yếu tố cũng không kém phần quan trọng nữa là động lực nào thúc đẩy ông ấy giảng dạy. Có phải việc giảng dạy của vị Thầy vì ước muốn danh tiếng hay lợi lạc vật chất. Một ông Thầy có học vị hay không có học vị không phải là yếu tố cần thiết. Đức Phật cũng như các đại đệ tử của Ngài đâu có bằng cấp cao. Ngài là một bậc Vô Thượng Sư, Đại Đạo Sư đã giác ngộ và dạy cho chúng ta nhận biết cái Chân Tâm Phật Tánh có sẵn nơi mình để mình tu và được giác ngộ như Ngài.
    Đức Phật đã để lại cho chúng ta không biết bao nhiêu là kinh sách, mỗi ý tưởng là một ánh sáng chói ngời, mỗi lời nói là một bài học quý giá. Những lời Ngài dạy đều biểu hiện đời sống của chính Ngài.
    Minh sư không tự cho mình là trung tâm, là có quyền lực mà lấy nguyên tắc chung là tiêu chuẩn Pháp của Phật giáo là pháp nhân duyên, pháp nhân quả. Nếu vị thầy nào mà đi ra ngoài lý nhân duyên và lý nhân quả thì không phải là minh sư. Nhân quả đòi hỏi chúng ta chịu trách nhiệm về hành động tạo tác của mình. Nhân duyên dạy ta hiểu duyên đến là tụ, hết duyên là tan, nên đừng khởi tâm chấp trước. Bằng ngược lại cứ giữ lấy ý kiến lầm lạc, nhỏ nhít nông cạn của mình mà chẳng rõ chánh pháp, chẳng biết lẽ phương tiện thì dầu cho có nhiều người tôn là Thánh cũng không khác gì ta Sư.
    Câu chuyện sau đây, Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ cho chúng ta hiểu biết thế nào là tà hay chánh:
    Trong thời gian Đức Huỳnh Giáo Chủ lưu trú nhà ông Võ Thạnh Mậu ở tại Xà No, làng Nhơn Nghĩa tỉnh Cần Thơ. Hai ông Hương quản Diệp ở xã Hòa Hảo và ông Út Trác ở xã Mỹ Hội Đông có đến viếng.
    Sau khi tỏ lời thăm hỏi và được Đức Thầy (Đức Huỳnh Giáo Chủ) thuyết giảng đạo đức, hai ông liền trình hỏi thêm một việc:
    “Bạch Thầy, hiện giờ ở Long Xuyên, có ông Đạo mới ra đời, họ trị bịnh cũng na ná như Thầy. Người ta tới lui rất đông đảo, nhưng không biết ông ấy là tà hay chánh, nhờ Thầy phân giải giùm để an hem tín đồ khỏi lầm lạc”.
    Đức Thầy không trả lời ngay ông đạo đó là tà hay chánh, mà Ngài chỉ cần viết, viết ra mấy dòng chữ như sau:
    “Từ đây sắp tới, bất luận ai ra đời độ thế, nếu còn ăn tiền bạc là tà. Còn dùng màu sắc là tà. Còn lên xuống xưng hô Thần Thánh là tà. Còn bỏ tóc xả để đầu đanh là tà”. ( Câu chuyện do ông út Trác ở Mỹ Hội Đông thuật lại).
    Trong lúc đó Đức Thầy không ám chỉ ai là tà mà nói chung tất cả. Ngài biết không phải chỉ có một người mà còn nhiều người khác nữa, ở nhiều nơi khác, nên Ngài chỉ cho toàn thể một ý thức căn bản để nhận rõ đâu là tà, đâu là chánh và có tin nghe Ngài cũng phải là chánh tín, chớ đừng tu mê tín.
    Ngài cho biết, xưa nay hể có Phật ra đời khai hóa nhân sinh thì luôn có tà ma ngoại đạo theo phá rối người tu Phật:

    Thời kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,
    Trời mở cửa Quỉ vương xuống thế.
    Nên ta mới ra tay cứu tế,
    Kẻo chúng sanh bịnh khổ quá chừng.
    Hoặc:
    “---Bởi đời nầy pháp môn bế mạc, Thánh đạo vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-Vương khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân…”.
    Điểm thứ nhứt Ngài nói: “Còn ăn tiền bạc là tà”. Xem bề ngoài hai ông đạo tà và chánh cung cách trông giống nhau khó phân biệt, nhưng bên trong của phái tà thì lợi dụng tiền bạc, còn phía chánh thật tâm độ dời bất vụ lợi.
    Để làm sáng tỏ, xin đọc đoạn giảng sau đây của Đức Thầy:

    Bây giờ bất luận người nào,
    Không dùng của thế sắc màu cũng không.
    Nói cho bổn đạo rõ lòng,
    ấy là chơn chánh mới hàng vinh vang.

    Điểm thứ nhì Ngài nói: “Còn dùng màu sắc là tà”. Một loại màu sắc sặc sở mà hạng người lên đồng bóng dùng khi lên xác làm bệnh và buộc người ta phải cung ứng các thứ đó. Một loại có hình tướng chỉ các ông đạo tu hành theo phái hữu vi ( đối lại với pháp vô vi), tức chạy theo âm thanh sắc tướng, như các thầy dưng bông, đi làm đám, tụng kinh mướn, không đúng chơn lý của đạo Phật. Nếu thấy nhà tu nào dùng hai loại màu sắc như trên đều không chơn chánh.
    Ngoài ra còn một loại sắc nữa là sắc đẹp ám chỉ phái nữ là cạm bẩy cho các ông đạo còn lợi dụng hoặc đắm mê nữ sắc.
    Điểm thứ ba Ngài nói: “Còn lên xuống xưng hô là tà”. Đây chỉ hạng thượng xác cởi đồng, là những người lên sắc tướng, cô hồn, bà bóng, thầy pháp, thầy phù thủy, làm bịnh bằng cách vô xác, coi bói, coi căn, cầu hồn, đoán số mạng, dùng bùa chú trù ếm, sát sanh cúng tế Quỉ Thần. Đức Thầy từng khuyên bảo:

    Bàn môn tài phép nào tường,
    Kêu Trời dậm Đất cũng thì dạ rân.
    Nói cho trần thế liệu toan,
    Chớ theo tả đạo mà tan xác hồn.
    Nó làm nhiều pháp nhiều môn,
    Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng sanh.
    Thành binh sái đậu cũng rành,
    Nều tin thì mắc tan tành về sau.
    Và:
    Dương gian làm huyễn nói càng,
    Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
    Hò reo giục trống nhiều câu,
    Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười.
    Ta khuyên hết thảy các người.
    Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
    Đửng hò đừng réo làm chi,
    Nghinh ngang kêu múa có khi hại mình.

    Điểm thứ tu Ngài nói: “Còn bỏ tóc xả để đầu đanh là tà”. Chỉ những thầy tu hay làm ra vẻ đạo mạo khác thường để lừa dối bá tánh. Họ lo trang điểm những tướng đạo bên ngoài, như bỏ tóc xả dài không bới, hoặc không chải gở lâu ngày tóc đanh lại giống hình cái mão, hoặc chơn đi không mang dép, bước nối gót đi chữ đinh, không ngó qua ngó lại. Họ thường tự xưng là đã luyện lâu năm, từ non nầy động nọ, vừa xuống núi để cứu thế độ dân, khiến bá tánh tưởng lầm các ông đạo ấy khổ hạnh cao, công phu luyện đạo không ai bằng, liền chạy theo rần rộ. Chẳng ngờ trong thâm tâm của các ông ấy vẫn còn ô nhiễm danh, lợi, tình như hàng thế tục.
    Qua bốn điểm Đức Thầy dạy là một quy định tất yếu cho tín đồ sau nầy lọc lừa tà chánh.
    Nhìn vào cung cách của một ông thầy dạy đạo, trước tiên mục kích qua thân giáo, thể hiện bằng hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh mà câu chuyện sau đây để chúng ta có cái nhìn về một nhà tu biết tự răn mình: Thuở xưa có một nhà sư sống ẩn dật tại một triền núi, được mọi người xem là đạo cao đức trọng.
    Một hôm nhà sư tiếp một bà lão cùng cậu con trai của bà.
    Bà lão thưa: “Bạch sư, thằng bé nầy mắc phải cái tật là ưa sưu tầm hoa kiểng. Nó đã làm cho tôi tốn hao không biết bao nhiêu là tiền của trong cái thời gạo quế củi châu nầy--- Xin sư làm ơn chữa trị hoặc răn dạy giùm kẻo tội nghiệp cho tôi cùng vợ con nó”.
    Nhà sư ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói: “Bà hãy dắt nó về, khoảng nửa tháng sau trở lại tôi sẽ giúp cho”.
    Bà lão y lời. Đến ngày hạn nhà sư chỉ thốt một câu đơn giản: “Đó là một thú vui hao tài tốn của, con hãy bỏ đi, để tiền mà thờ mẹ nuôi con”.
    Bà lão bất bình: “Tưởng thầy có phương cách chi, té ra chỉ có bao nhiêu lời nói đó. Thế sao thầy không làm ơn nói giùm ngay bữa trước mà còn hẹn đến hôm nay? Đường xá xa xôi biết là bao!
    Nhà sư mỉm cười: “Chẳng giấu gì bà--- tôi cũng mắc phải cái tật sưu tầm hoa kiểng như cậu nhà đây. Nửa tháng gia hạn là thời gian để tôi bỏ cái cố tật đó.
    Nay mọi việc đã xong tôi mới dám mở miệng khuyên can cậu em nầy.
    Chàng trai từ đó ăn ở rất vừa lòng mẹ.
    Lời bàn của sư cô Như Thủy:

    Trong một quyển kinh A hàm, Đức Phật đã giải thích vì sao Ngài được gọi là Như Lai “Như Lai là làm sao thì nói vậy, lời nói và việc làm đi đôi với nhau nên gọi là Như Lai”. Và chúng ta có thể gọi vị sư nầy là Như Lai theo nghĩa ấy.
    Người xưa có thể chỉ với một câu nói giản dị mà cảm hóa được lòng người là do thân giáo. Còn chúng ta, nói ra rả suốt ngày mà chẳng ai chịu nghe là vì miệng nói một đàng mà hành động một nẻo.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng”, để cho chúng sanh thấy rằng đời mạt pháp có một số người tự xưng là Minh Sư, Đạo Sư, Vô Thượng Sư, Đại Sư, Thiền Sư v.v…thường dùng môt số giáo lý của nhà Phật, lợi dụng uy tín của Đức Phật để thuyết giảng hầu lôi cuốn quần chúng, nhưng thực chất bên trong những điều giảng đó lại chứa đựng những tư tưởng đối nghịch với tư tưởng nhà Phật. Chúng ta là những người quyết tâm tu hành theo giáo lý giải thoát mà không hiểu giáo lý căn bản của nhà Phật thì rất dễ bị lạc đường.
    Các vị Sư là trưởng tử Như Lai, là những Đạo Sư có nhiệm vụ hoằng dương chánh pháp song song với việc tu tập bản thân. Chúng ta là những người tu Phật cũng vậy, cũng cần tu tập bản thân và giúp phương tiện cho các Đạo Sư trong công cuộc hoằng truyền và bảo vệ sự trong sán của đạo Phật.
    Câu chuyện ẩn dụ sau đây nói lên trách nhiệm của Đạo Sư, để nhắc nhở tầm quan trọng của sự dạy đạo:
    Có ông lang băm kia trong thời gian còn sống tại thế, do tài coi mạch chẩn đoán không ra bệnh, ông giết nhiều người quá. Khi chết xuống âm phủ, chiếu theo nội tạng, Diêm Vương ra bản án cho ông được định cư ở Địa Ngục tầng thứ 18. Vừa nghe Diêm Vương nói xong là ông ta đã thấy mình đứng ngay nơi Địa Ngục tầng thứ 18 rồi, đó là thần thông của Diêm Vương, khỏi tốn tiền mu axe chở tù, giảm việc sổ sách.
    Thấy mình chưa kịp cãi cọ, luật sư chưa kịp thu tiền, mà đã lọt vào tận đây, ông lang băm dặm chân đùng đùng để phản đối. Bỗng nhiên ông ta nghe văng vẳng từ phía dưới vọng lên:
    - Đứa nào ở trên đó mà ầm ĩ quá vậy, cho ta ngủ một chút chớ!
    Ông lang băm ngạc nhiên hỏi vọng xuống:
    - Ủa sao còn có ai dưới đó? Ta đã ở Địa Ngục tầng thứ 18 rồi mà, bộ còn có tầng thứ 19 nữa hay sao?
    - Đúng choc rồi đó, cha nội! Ta đang ở tầng thứ 19 đây nè.
    Ông lang băm ngạc nhiên thấy có kẻ dám qua mặt mình, bèn hỏi vọng xuống:
    - Nhà ngươi lúc sống làm nghề gì mà nay phải vào tầng thứ 19?
    Có tiếng nghẹn ngào tức tủi vọng lên:
    - Khi xưa ta làm đạo sư, dạy sai Chánh Pháp. Diêm Vương bảo tội ta nặng hơn tội lang băm giết người, vì lang băm chỉ giết một số người, rồi chết là hết gây họa. Còn ta vì dạy bậy, số học trò bậy của ta lại tiếp tục dạy bậy, học trò chúng nó lại tiếp tục dạy bậy, liên miên chẳng biết bao giờ mới chấm dứt, cho nên chẳng biết bao giờ ta mới hết tội, mới được tháo cũi xổ lồng, ra khỏi đáy địa ngục thứ 19, ---hu hu---

    Câu “Y pháp bất y nhân”, có nghĩa là nương theo giáo pháp chớ không nương vào thầy. Ý nghĩa câu nầy không phải là tuyệt đối như vậy; không có nghĩa là được pháp rồi thì không còn cần biết gì đến người thầy dạy. Học đạo không giống như học các ngành ngoài thế gian, học đạo phải có lòng tri ân tôn kính thầy nhưng không bám víu và thần tượng hóa ông thầy.
    Không phải không có những ngoại lệ, như một số trong chúng ta theo thầy không phải vì thực sự cầu pháp giải thoát mà vì tình cảm hay vì thầy là người nổi tiếng trên thế giới, đông đệ tử xuất gia hay tại gia, có chùa to, đất rộng v.v…
    Là người học đạo giác ngộ giải thoát, muốn có được đời sống an lạc, hạnh phúc, tiến bộ, chứng thành đạo quả thì phải hết sức cẩn trọng trong việc chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu, chớ để tánh hiếu kỳ dẫn dắt thì mới khỏi oan uổng công phu tu tập suốt cả đời.
    Giả sử vị Đạo Sư buộc đệ tử phải làm việc vô đạo đức hay nếu giáo lý ấy mâu thuẩn với Phật pháp thì người đệ tử ấy có thái độ ra sao?
    Đây là mẫu chuyện người học đạo phải biết dùng chánh kiến và trí tuệ để minh định:
    Xưa kia ở Ấn Độ có một vị thầy có nhiều đệ tử. Vị thầy thuộc đẳng cấp Bà la môn và rất nghèo. Ông dạy rằng khi những người Bà la môn trở nên nghèo khó thì có quyền được đi ăn cắp. Ông nói: “Là những người được Trời Brahma tức đấng sáng tạo của thế giới; đối với một người Bà la môn việc ăn cắp không xấu xa”. Cho nên một hôm ông yêu cầu họ đi ra ngoài ăn trộm. Trong số những đệ tử sắp đi ăn cắp, vị thầy Bà la môn nhận thấy một đệ tử im lặng cúi đầu xuống. Ông hỏi anh ta tại sao không đi. Người học trò nói: “Điều thầy dạy chúng con bây giờ trái nghịch với Pháp, vì vậy con không nghĩ rằng con có thể làm được điều đó”. Lời nói nầy làm vui lòng vị thầy người Bà la môn, ông nói: “Ta đã trắc nghiệm các con. Mặc dù các con đều là đệ tử của ta và trung thành với ta, nhưng sự khác biệt giữa các con là sự phán đoán. Ta là thầy của các con, nhưng các con phải xem xét lời chỉ dạy của ta, và bất kỳ lúc nào lời chỉ dạy chống trái với pháp thì các con chớ nên theo”.

    “Làm y theo giáo lý” là đề tài quanh chuyện bên Thầy (Đức huỳnh Giáo Chủ) như sau:
    Năm Ất Dậu 1945, Đức Thầy ngụ tại đường Miche, Sài Gòn. Thời gian ấy có đông an hem tín đồ ở miền Tây đi lên thăm Đức Thầy, được Đức Thầy cầm ở lại vài hôm. Anh em quá mừng, đồng bàn với nhau: Chẳng mấy khi mình gần gủi Đức Thầy, mình rình coi Đức Thầy cúng lạy theo nghi thức thế nào để về mình làm theo cho đúng.
    Chiều hôm ấy, khi Đức Thầy cúng lạy xong, Đức Thầy kêu anh em lại nói rằng:
    “Bà con ra đây coi tôi cúng lạy, đặng về cúng lạy cho trúng để thành Phật, phải không? Còn những người khác không thấy tôi cúng lại mà tu hành chơn chánh rồi không được đắc đạo hay sao?”.
    Khi mọi người nghe Đức Thầy rầy, nói trúng tâm ý của mình, anh em nầy hết sức sợ, van xin Đức Thầy thứ lỗi.
    Qua hôm sau, Đức Thầy cúng lạy, an hem cũng liếc xem như bửa trước. Đức Thầy cúng xong kêu anh em lại cho Thầy bảo. Mấy anh em lén xem lúc nãy lo sợ nét mặt tái mét, cúm rúm đến bên Thầy khoanh tay chờ nghe phán dạy. Đức Thầy đốt hương phát cho mỗi người một cây, Đức Thầy nói:
    “Thôi, bà con muốn làm y theo tôi, đứng xếp hàng đây, coi tôi làm sao thì làm y như vậy. Tôi nguyện sao thì cũng nguyện y như vậy”.
    Dặn xong, Đức Thầy cầm hương xá ba xá, kế Đức Thầy quỳ xuống chắp tay đưa lên trán. Anh em cũng xá và quỳ xuống theo. Đức Thầy đọc lớn tiếng: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.
    Lúc bấy giờ an hem đồng đạo ngơ ngác, nhìn qua lại với nhau, làm thinh không đọc theo. Đức Thầy xoay lại nhìn anh em đang quỳ, Thầy hỏi “Sao bà con không đọc theo tôi?” . Anh em đồng đạo nghe Đức Thầy hỏi, sợ Thầy rầy, liền đọc theo một rặp “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”. Đức Thầy mĩm cười đứng lên nhìn anh em, rồi hỏi:
    “Bà con biết tôi đọc bài gì không?”
    Các anh em đồng đạo thưa:
    “Bạch Thầy, chúng con không biết”
    Đức Thầy nói tiếp:
    “Ủa, không biết sao đọc theo? Tôi đọc bài nguyện bên đạo Cao Đài mà bà con cũng đọc theo. Như vậy đâu có làm y theo tôi đâu?”.
    Anh em nghe Đức Thầy rầy, sợ quá, liền thưa:
    “Bạch Thầy, Thầy dạy chúng con Thầy làm sao thì làm y như vậy, nên chúng con không dám cãi”.
    Với nét mặt nghiêm nghị, Đức Thầy nói:
    “Tôi bảo làm y là làm y theo giáo lý của tôi dạy, chớ nào bảo làm theo tôi. Nếu Đức Phật Thích Ca hiện xuống bảo các người làm sai chơn lý, các người có làm không?”.
    Anh em đồng thưa:
    “Bạch Thầy không”.
    Đức Thầy dịu vọng:
    “Ừ, vậy đó. Nếu sau nầy có ai giống tôi và xưng là tôi, bảo bà con làm gì, bà con cũng đừng vội tin, hãy xét kỹ lại lời nói ấy có đúng theo chơn lý hay không, được như vậy mới gọi là làm y, và không bị gọi là mê tín” (Thuật theo lời ông Lê Văn Phú tự Tho).
    Suốt thời gian hoằng dương chánh pháp, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tay bút sắt, tay gậy kim cang dìu nhơn loại lên đường thoát khổ. Ngài nói:

    Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
    Gậy kim cang đưa chúng lên đàng.
    Kíp nương theo trực chỉ Tây phang,
    Đến cực lạc tìm nơi an dưỡng.
    Và:
    Cũng nhận được tuần hoàn là khổ hải,
    Dốc tầm đường phóng giải cho thân tâm.
    Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm,
    Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới.

    Thế nên muốn ý thức cho tín đồ nương theo giáo lý của Ngài, vì đó là chơn lý, mà chơn lý thì không bao giờ bị hoại diệt. Nếu không bám sát chơn lý mà chỉ nương vào hình tướng và sự linh ứng, hoặc đi tìm Thầy Tổ qua hình thức bên ngoài thì dễ bị rơi vào tà đạo.
    Xưa có ông trưởng giả rất keo kiết, bình sanh ông không bao giờ bố thí cho ai. Một hôm Đức Phật hiện đến, với thân 32 tướng số, rất trang nghiêm. Khi đến diện kiến Đức Phật, ông sanh tâm kính mộ, liền rước Ngài vào Pháp tòa và thỉnh pháp. Đức Phật dạy: “Ông nên phát tâm làm 5 đại bố thí được không?”. Ông trưởng giả liền bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, đối với con một tiểu bố thí cũng không làm được, huống gì là 5 đại bố thí”. Đức Phật bảo: “Ta không bảo ông đem của tiền bố thí mà bảo ông nên giữ 5 giới cấm. Đó là ngũ đại bố thí”. Trưởng giả bạch: “Bạch Ngài, năm đại bố thí ấy như thế nào và lợi ích ra sao?” Đức Phật bảo: “Một là không sát sanh, vì sát sanh là vay nợ mạng, bởi cướp mạng sống của loài vật nên làm mất đi hạt giống từ bi, tương lai phải đầu sanh mà đền mạng, đền ác quả.
    Tiếp theo đó, Đức Phật thuyết luôn cả giới trộm cắp, tà dâm, ẩm tửu, vọng ngữ. Đức Phật giải thích từng giới và nói rõ tai hại của người phạm giới, lợi ích của người giới v.v…Trưởng giả nghe xong rất vui mừng, xin phát tâm giữ 5 điều giới cấm.
    Ít hôm sau Ma vương hóa hiện ra Phật, hiện đến nhà Trưởng giả. Trưởng giả mừng rỡ ra nghinh tiếp. Ma vương giả Phật nói: “Hôm trước ta bảo ông giữ 5 giới, đó là huyền pháp vậy thôi; nay mới là chánh pháp, tức là ông nên phá giới làm ngược lại với lời nói của ta ngày trước. Trưởng giả suy nghĩ: “Lời nói hôm nay là tà thuyết, ta không thể nghe theo”. Ma vương mấy phen lung lạc. Trưởng giả khăng khăng một lòng, quyết gìn giới cấm không chịu xả bỏ. Thấy không thể thuyết phục được, Ma vương liền hiện lại nguyên hình và ca ngợi trí tín của vị trưởng giả, tuy mới phát tâm mà rất sáng suốt vậy.
    Chúng ta hôm nay cũng thế, tuy Thầy Tổ đã vắng bóng nhưng kho tàng pháp bảo vẫn còn đây, ta cứ nương theo đó mà hành trì, không nên vội vã tìm Thầy, mà phải cố gắng làm y theo lời thánh huấn của Ngài, chắc sẽ được Ngài tìm ta mà ban thưởng ở tương lai, như câu “Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta!”.

    “Theo Thầy hay theo giáo lý” cũng là đề tài quanh những mẫu chuyện bên Thầy. Thời gian luân lưu đó đây để hóa chúng độ tha, những lời thuyết pháp vi diệu thậm thâm của Đức Thầy đã đánh thức biết bao triệu con tim trở về nguồn giác, khác nào ánh thái dương rọi tan đám sương mù. Họ hân hoan vì được nếm ân vị của suối Ma Ha, nên rất hăng say theo gót chân Thầy để có dịp được thêm thắm nhuần Pháp vũ.
    Một hôm sau buổi thuyết pháp, bỗng Ngài đưa quyển giảng lên hỏi lớn rằng:
    “Tất cả bổn đạo theo Thầy hay theo Giáo lý của Thầy?” Tất cả đồng loạt đưa tay lên và đồng thanh:
    “Con theo Thầy! Con theo Thầy!”
    Đức Thầy để quyển giảng xuống, nét mặt từ bi nhìn khắp các đệ tử bảo:
    “Bà con theo Thầy đến khi Thầy vắng mặt thì theo ai? Phải theo giáo lý của Thầy mới đúng chớ”
    Tất cả những người có mặt nơi đấy, vừa được nghe câu kim ngôn của Ngài như một tiếng chuông cảnh tỉnh, họ đều cúi đầu lãnh giáo ngọc ngữ của đấng cha lành. (Thuật theo lời của ông cựu Hội Trưởng quận Thốt Nốt).
    Chánh pháp là chơn lý, mà chơn lý là lẽ thật; lẽ thật thì làm sao mất được. Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri Ngài sẽ xa cách tín đồ. Thời gian xa cách đó là một trận thử thách gay go, nên tín đồ phải nắm chặt giáo lý siêu thượng của Ngài. Người tự xưng là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà không nắm vững giáo lý của Ngài sẽ dễ bị sai đường lạc lối dù người ấy có tâm thành với đạo. Có tâm mà thiếu trí nên khi Thầy Tổ vắng bóng dễ bị kẻ giả trá tà mị lợi dụng. Họ nhân cơ hội nầy mà xưng Trên, xưng Phật hoặc là xưng Thầy Tổ trở lại. Đức Thầy đã biết rõ nên báo trước cho ta điều nầy, Ngài nói:

    Các đạo tà mưu khéo âm thầm,
    Dân rán tránh kẽo lâm mà khổ.
    Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
    Dùng phép mầu lòe mắt chúng sanh.
    Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẩy khó mong sống sót.

    Ngài biết có thời gian dài Ngài vắng mặt, tà đạo sẽ lộng hành. Nếu không giữ chặt giáo lý của Ngài thì dễ bị ngoại đạo cám dỗ, nhứt là nghe linh ứng, hoặc xưng Thầy trở lại và mượn xác cậu kia cô nọ; họ cũng dựa theo giáo lý của Ngài rồi viết trại theo, khiến những người nhẹ dạ dễ tin, có tâm nhưng thiếu trí, tưởng là Thầy mình trở lại, thật là một sự đáng thương hại làm sao! Ta hãy bình tâm xét kỹ Đức Thầy là một vị Phật có sắc lệnh của hai vị Phật Tổ, lâm phàm. Dù Ngài vắng mặt, nhưng còn để lại cho ta một kho tàng Pháp bảo và đã dạy:

    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.

    Vậy trong mỗi chúng ta tự xét mình có làm y theo lời dạy của Ngài không? Nếu có thì lo gì không gặp Ngài. Có lần ở Sài Gòn, Đức Thầy gọi ông Lê Bá Thế mà dạy rằng: “ông hãy nói lại cho bổn đạo của Thầy biết, đừng một ai lo lắng cho Thầy, mà hãy tự lo cho chính mình. Hãy tu tâm luyện trí và cần xem quyển Khuyến Thiện của Thầy mà tu hành. Những người tu hành chơn chánh đúng theo lời dạy của Thầy thì về sau sẽ được Thầy cho người tìm đến, chớ bây giờ đừng ai đến để tìm Thầy”.
    Nếu ta theo sát giáo lý của Ngài thì dù cho có ở xa ngàn dậm nhưng ta cảm thấy như ở bên Tôn Sư của mình. Trái lại không nghe lời dạy của Ngài mà tìm kiếm thì càng xa Ngài rồi không tránh khỏi mưu khéo của tà đạo thì khổ não vô cùng.
    Đức Khổng Tử nói: “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” (Dân có thể khiến họ làm theo, chẳng thể khiến họ hiểu biết). Trong đại chúng thông thường hiểu càng ít thì càng chuyên tâm cứ theo phương pháp đơn giản của thầy dạy mà đi sâu vào một môn chuyên chú tu hành và thu được lợi lạc. Thế nên dù người có trình độ thấp thậm chí người không biết đọc chữ, đọc qua sách vở cũng không phải là không tiếp thu được Phật pháp, điển hình Lục Tổ Huệ Năng là người tiều phu đốn củi chưa hề đọc sách mà cuối cùng trở thành vị tổ thứ sáu trong lịch sử Thiền tông ở Trung Hoa.
    Học pháp là biết rõ cái lý để hiểu thấu cái gốc, học Phật là kiến tánh thành Phật.
    Người thượng đẳng thì chẳng cần giáo dục, chẳng cần văn hóa mà là sự thông suốt tất cả, họ có thể nắm được cái lý cơ bản để quán thông cái sự toàn thể chớ không phải từ trong sự nhận biết vạn sự vạn vật mà thấy cái lý thống nhứt.
    Người trung đẳng và hạ đẳng phải dựa vào tinh giáo, học hỏi minh sư mới có được chuẩn mực tu hành và phương hướng học tập, nếu không thì tu hành, luyện tập một cách mù quáng. Trước khi gặp được minh sư hoặc sau khi đã gặp minh sư, cần phải căn cứ vào kinh giáo mới có thể lựa chọn được minh sư thật hay giả. Thuận kinh giáo, hiểu rõ pháp nghĩa, đó là minh sư thật. Nếu đem điều mình ức đoán, điều cảm ứng, kinh nghiệm trong việc tu trì để tự do tùy tiện, giải thích kinh giáo và chê bai các tổ sư chính thống hay không tin Tam Bảo, thì đó là các tà sư chứ không phải là minh sư.

    Nếu ai chưa biết chọn minh sư như thế nào, trước hết nên học qua kinh giáo, rồi sau mới đi tìm minh sư giúp dỡ mình điều nghi vấn thắc mắc, đó mới là minh sư của mình.
    Nếu chưa biết gì về Phật pháp mà đi học hỏi minh sư thì thật là vô ích dễ bọ lầm lạc sai đường vì mình chẳng hiểu gì về lý nghĩa mà ông ta nói!
    Một khi đã hiểu kinh giáo, dù đi khắp thiên hạ mà chưa gặp minh sư cũng không sợ bị lạc đường, vì “đường đạo đức bước đi từng nấc”, ta nắm vững phương pháp, chỉ cần lần hồi bóc bỏ những điều vướng mắc trong lòng, màn vô minh dần dần tan biến, dù không được một lúc nhưng là cách an toàn.
     
  9. Thuma

    Thuma Member

    CHƯƠNG VIII
    ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

    Một hôm Đức Phật ở giữa dân chúng Koliya, có một số người đến Bạch Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là những người tại gia thọ hưởng đầy đủ các dục lạc, xin Đức Thế Tôn thuyết pháp cho những người như chúng con. Ngày thuyết như thế nào mà pháp ấy sẽ đem lại cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cũng đem lại hạnh phúc an lạc cho tương lai”.
    Đức Phật dạy rằng: Nầy các gia chủ chỉ có 5 điều đem lại hạnh phúc ngay trong hiện tại là:
    1- Điều thứ nhứt phải đầy đủ sự tháo vát. Phàm làm một nghề gì để sinh sống như làm ruộng, buôn bán, dạy học hay công nhân viên nhà nước v.v…thì phải chuyên cần, nghiên cứu tìm hiểu sâu trong lãnh vực nghề nghiệp của mình đang theo đuổi cho được tinh xảo để có thể dạy cho người khác làm.
    2- Điều thứ hai phải có sự phòng hộ. Bằng sức lực, bằng mồ hôi để thu nhập của cải một cách đúng pháp thì phải cố gắng giữ gìn phòng hộ của cải đó đừng để cho vua quan tịch thu trộm cướp lấy đi, bị lửa thiêu hủy, bị nước cuốn trôi, phải giáo dục con cái thừa tự, tránh hoang đàng hư hỏng tẩu tán đi.
    3- Điều thứ ba phải bảo vệ tài sản mình kiếm được. Thường là người con kế thừa của giòng họ trao truyền và giữ gìn tài sản của mình trong khi mình đang sống hay khi mình qua đời. Muốn tài sản được có người giữ gìn tốt, tất nhiên bổn phận làm cha mẹ phải giáo dục con cái mình lúc tuổi còn nhỏ. Giáo dục con cái bằng đủ cách như cho tiền con cái đúng phép, dạy dỗ nó bằng lẽ phải, chớ đừng để chúng nó đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm.
    4- Điều thứ tư phải gần gủi với người hiền thiện. Đầu trên xóm dưới có người hiền thiện, những người có lòng tin chánh đáng, có sự bố thí rộng rãi, có đức hạnh, thì ta nên gần gủi họ để học hỏi điều hay lẽ phải về đạo đức, luân thường đạo nghĩa mà sống theo.
    5- Điều thứ năm là phải sống thăng bằng điều hòa. Mỗi ngày ta nên tính xem làm được bao nhiêu tiền, chi ra bao nhiêu còn lại bao nhiêu. Nếu thu nhập ít oi mà chi ra hoang phí vô bổ thì đến một ngày nào đó sẽ bại lụn, chỉ làm cái bia cho thiên hạ chê cười là người chẳng biết phòng xa.
    Trái lại nếu thu nhập khá cao lại bỏn xẻn, keo kiệt, hà tiện không dám tiêu, không dám làm việc phải, chỉ là kẻ chết đói trên đống của cải mà thôi.
    Ngoài ra còn có bốn điều làm cho tài sản tiêu tán:
    - Đam mê cờ bạc, làm cho tài sản ra đi một cách êm ái.
    - Đam mê rượu chè, là cách đẩy tài sản ra khỏi nhà.
    - Đam mê sắc dục, là không muốn giữ gìn tài sản trong gia đình nữa.
    - Giao du với bạn xấu ác, đây là cách mời giặc về nhà để mang tài sản ra đi. Khi giao du với bạn ác mà mình không biết, cũng như trong gia đình chơi với bạn ác mà mình không biết để ngăn ngừa. Như thế là mở cửa cho tài sản ra đi.
    Bốn điều trên là những điều thông thường nhưng hết sức thâm thúy, những điều thông thường xảy ra hàng ngày nên không ai nghĩ tới, nhưng nó hết sức tai hại ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta nếu chúng ta không ý thức nhận ra nó. Nó có thể làm cho thân bại danh liệt, tán gia bại sản, gia đình đổ nát. Ngược lại nếu không đam mê cờ bạc, không đam mê sắc dục, không giao du bạn ác, không đam mê rượu chè thì của cải làm được sẽ bảo trì một cách vững vàng không bị mất mát.
    Đức Phật dạy những điều nói trên là những điều đem lại hạnh phúc an vui trong hiện tại. Nếu chúng ta thực hành những điều dạy đó, chắc chắn sẽ có được an vui hạnh phúc ngay.
    Đức Phật cũng nói pháp về hạnh phúc ở tương lai, nếu ta chịu áp dụng bất thối chuyển thì sẽ có nhiều lợi lạc.
    -Thứ nhứt là đầy dử lòng tin. Sống trong đời, con người có những ước muốn. Nghèo khổ mong muốn cho được giàu có, tiền của càng nhiều càng muốn sống lâu để tận hưởng, muốn có lòng từ bi nhưng lại chưa phát tâm bồ đề, muốn có trí tuệ sáng suốt nhưng còn mãi si mê, muốn được giải thoát nhưng chưa chịu buông xả. Những điều ao ước đó là con đường dẫn ta hướng đi lên cảnh giới rộng rãi an nhiên tự tại. Nếu muốn được như thế, điều cần nhứt là phải có lòng tin và lòng tin phải đặt đúng chỗ gọi là chánh tín. Như muốn học giỏi người học trò phải tin vào lời giảng dạy của ông thầy. Muốn mau lành bịnh phải tin vào đơn thuốc của ông thầy thuốc thì uống vào mới khỏi bịnh được. Cũng vậy muốn có lòng từ bi thì phải tin vào đấng từ bi viên mãn của Đức Phật là đấng sáng suốt và trí tuệ giác ngộ. Giờ chúng ta vô minh mà muốn được giác ngộ thì phải tin vào Đấng Giác ngộ thì mới giác ngộ được. Chúng ta muốn tự tại giải thoát thì phải tin vào Đấng Tự tại giải thoát thì mới giải thoát được. Đấng Tự tại giải thoát đó chính là Đức Phật.
    Tin vào Đức Phật một cách đúng đắn, tin vào lời dạy một cách đúng đắn, tin vào Tăng xuất gia tu hành theo Đạo Phật một cách đúng đắn. Đó là ba niềm tin quý báu đúng đắn của người tu hành tại gia là những người đang mong mỏi bước lên con đường giác ngộ giải thoát và từ bi của Đức Phật.
    Giác ngộ là đặc tính của Đạo Phật; thế nên người tu Phật khi hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận mới đem áp dụng thực hành, nếu còn lờ mờ mà tu tập là việc làm nông nỗi không đúng tinh thần Phật dạy. Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy:
    Ta yêu chúng viết ra Giảng Kệ
    Khuyên tăng đồ cùng các tín đồ
    Nghe cạn lời chớ có mờ hồ
    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo

    Giáo lý của Đức Phật là tự do và bình đẳng tuyệt đối vì theo Ngài con người có giải thoát được hay không, không phải ai khác mà chính sự trực nhận chân lý, chứ không phải một huyền năng bên ngoài ban thưởng cho sự vâng lời đó. Đức Phật xác định: “Các ngươi nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi”. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy Đạo, Ngài cũng chỉ cho chúng sanh biết: “Nay rừng bụi có người mở ngõ. Thì nương theo dấu thỏ đàn dê”.
    Trong việc tu thân xử kỷ, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng ‘Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự của con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy.
    Ta hãy đem đức tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành động theo y lời phán dạy của Phật.
    Nếu ta cứ đem đức tin thờ phượng tôn giáo bằng cách sai lầm thì rất có hại cho đời mạng ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê tín (mặc dầu đạo của ta thờ là một đạo rất chánh đáng).
    Vậy đồng thời với đức tin và Lòng Lành phải dể cho nó đi cặp luôn”.
    Lòng tin đã được tư duy, kiểm chứng dụa trên chánh kiến, suy xét tường tận mọi phương diện bởi chính mình, không từ người khác nói lại, không bằng sách vở, không bởi tục lệ. Cũng không vì ông cha đã theo làm như thế, mà vì thấy đúng hoàn toàn rồi mới tin; đó là lòng tin đúng đắn, dù ai có nói ngược xuôi cũng không lay chuyển.
    Thời Đức Phật còn tại thế, hầu hết các đệ tử của Đức Phật đều tin Ngài một cách tuyệt đối, tuy nhiên trong kinh sách cũng có nêu một trường hợp có một đệ tử của Đức phật không có lòng tin vững chắc, câu chuyện trích phỏng theo bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển một, trang 126 như sau:
    Bấy giờ trước đại chúng đông đảo Tỳ Kheo (Tăng) tại thành La duyệt vườn Ca Lan Đà, Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
    “Các Thầy có thấy pháp (suy nghĩ, nói năng, việc làm) của Đề Bà Đạt Đa (em con người chú của Đức Phật) là thanh tịnh chăng? Ngược lại Đề Bà Đạt Đa tọa ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Ta chẳng thấy Đề Bà Đạt Đa có một tí điều lành có thể kể ra được. Ví như có người rơi xuống cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm không còn chỗ nào sạch, người khác muốn cứu vớt lên, đứng ngó xem thấy người đó không còn có một chỗ nào sạch liền bỏ đi, nầy các Tỳ Kheo, tại sao như thế? Ví Đề Bà Đạt Đa một mực ngu si, tham đắm lợi dưỡng (đồ ăn, vật dụng v.v. của Thái tử A Xà Thế), tạo tội ngũ nghịch (tội ngũ nghịch gồm có: giết cha mẹ, muốn hại Phật, phá rối Tăng đoàn, giết Tăng Ni, có ta kiến như không tin nhân quả v.v…). Khi chết sẽ đọa địa ngục chịu tội nhiều kiếp (mỗi kiếp khoảng 16 triệu năm), nầy các Tỳ Kheo, đã sinh tâm ưa lợi dưỡng hãy lìa bỏ, nếu chưa sinh tâm dính mắc lợi dưỡng đừng cho sinh khởi”.
    Khi nghe Đức Phật nói như thế, một Tỳ Kheo đi đến gặp Tôn giả A Nan là Thị giả của Đức Phật, sau khi chào hỏi rồi nói:
    “Thưa Tôn giả, hôm nay trước đại chúng, Thế Tôn nói đã xem hết nguồn gốc của Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa, rồi sau đó thọ ký cho ông ta phải chịu tội nhiều kiếp vì không thể chửa trị đươc, lại có thể thọ ký việc nầy được ư?”
    Tôn giả A Nan trả lời: “Những lời nói của Thế Tôn không thể hư dối được”.
    Sau khi Tỳ Kheo ấy rời khỏi, Tôn giả A Nan đến chỗ Đức Phật, vái lạy rồi thưa:
    “Có một Tỳ Kheo đến chỗ con nói rằng: “Hôm nay trước đại chúng Thế Tôn nói đã xem hết nguồn gốc tạo tội cảu Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa, rồi sau đó thọ ký cho ông ta phải chịu tội nhiều kiếp vì không thể chữa trị được, lại có thể thọ ký việc nầy ư?”.


    Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Thầy đi bảo Tỳ Kheo ấy là Ta gọi”, Tỳ Khèo đó tu học chưa được bao lâu, lời Như Lai trọn không hư vô, tại sao lại nghi ngờ?
    Chẳng bao lâu, Tỳ Kheo ấy đến trước Đức Phật vái lạy xong Đức Phật bảo:
    “Nầy Tỳ Kheo, Thầy không tin lời Như Lai nói sao, Như Lai tuyệt đối không hư dối, nay Tỳ Kheo lại muốn tìm hư vọng của Như Lai sao?”.
    Tỳ Kheo ấy thưa: “Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa có đại thần lực, có đại oai đức, làm sao Thế Tôn thọ ký cho ông ta chịu tội nặng nhiều kiếp được?”.
    Đức Phật bảo: “Hãy giữ miệng của Thầy chớ để mãi mãi chịu khổ vô lượng”, rồi Đức Phật nói kệ trách cứ:

    Đạo Thiền thế tục không,
    Rút cục không giải thoát,
    Chẳng đến chỗ diệt tận,
    Trở lại đọa Địa ngục.

    Đức Phật nói tiếp:
    “Giả thử Ta thấy Đề Bà Đạt Đa có một chút pháp lành, Ta đã không thọ ký phải chịu tội nhiều kiếp, thế nên, nầy Tỳ Kheo si mê, sở dĩ như thế vì Đề Bà Đạt Đa ngu si tham đắm lợi dưỡng lại còn tạo điều nghịch ác, nầy các Tỳ Kheo, hãy học điều nầy”.
    Khi ấy, Tỳ Kheo ấy vái lạy Đức Phật rồi thưa: “Con tự hối lỗi, cúi mong Thế Tôn rủ lòng tha thứ, vì con u mê, tạo hạnh chẳng lành. Thế Tôn không nói thêm bớt mà con khởi nghi ngờ, cúi mong Thế Tôn nhận cho con sám hối, con sẽ không tái phạm nữa”.
    Đức Phật bảo: “Lành thay, Thầy biết hối lỗi về ý niệm sai của mình, Ta tha cho Thầy, chớ nên nghi ngờ đối với Như Lai. Nay ta nhận cho Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại nữa, rồi Đức Phật nói kệ chứng cho sự sám hối:
    Dù có làm tội nặng
    Hối lỗi rồi không phạm
    Người ấy giữ cấm giới
    Nhổ căn nguyên tội nầy.

    Trên đây, chúng ta thấy vị Tỳ Kheo kia không có lòng tin vững chắc đối bậc Đại Giác, Đại Sư của mình, nên đã tỏ ra nghi ngờ. Sau khi được Đức Phật giảng giải xác quyết đã làm tan mây si mê, nên Tỳ Kheo ấy đã hối lỗi và cầu xin Đức Phật nhận cho sự sám hối, và Đức Phật đã chấp thuận. Chúng ta được biết có trường hợp tượng tự, Tỳ Kheo tên Cù Ba Ly, vì vào phe với Đề Bà Đạt Đa mà đến tố cáo hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên làm việc ác. Đức Phật giải thích rằng hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không làm việc ác, nhưng Tỳ Kheo Cù Ba Ly không tin lời Ngài, do đó Đức Phật thọ ký Cù Ba Ly sẽ chịu quả báo về lời nói ác và sau một thời gian Tỳ Kheo nầy bị bệnh mụn nhọt đau đớn qua đời và bị đọa Địa ngục.
    Về vấn đề tin lời Phật nói, có lần Tôn giả Mục Kiền Liên trông thấy một người cao to như cái nhà lầu, khi đến thưa với Đức Phật, Ngài xác nhận là đúng, Ngài đã không nói vì sợ mọi người không tin, rồi Đức Phật nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”; tại sao không tin lời Phật sẽ khổ? Vì những điều Đức Phật nói ra đều là sự thật giúp chúng ta đi đến chân hạnh phúc, thí dụ: cư sĩ tại gia muốn kiếp sau được tái sanh làm người giàu sang sung sướng khỏe mạnh sống thọ phải thực hành năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nếu những ai tin lời Phật mà thực hành đầy đủ thì kiếp sau sẽ có kết quả, còn những ai không tin lời Ngài nói tức không thực hành mà còn phạm một vài điều trên, thì chắc chắn người ấy kiếp sau sẽ vào cảnh khổ vậy.
    Một trường hợp khác về lòng tin những lời bàn tán, tin đồn, lúc ấy người nghe nếu không có lòng tin vững chắc, sẽ gây sự nghi ngờ vô cùng tai hại; còn nếu có sự tin tưởng tuyệt đối rồi, dù có đồn đại thế nào, có người nói ra nói vào thế nào đi nữa cũng không làm thay đổi được lòng tin của mình. Một câu chuyện liên quan tới lòng tin vững chắc mà chúng ta nên biết cũng trong quyển một bộ Tăng Nhất A hàm, trang 154 như sau:
    Thời bấy giờ tại nước Xá Vệ, có một trưởng giả kia có một đứa con, ông rất thương yêu, nhưng đứa con lại bị chết bất ngờ, ông rất sầu khổ đâm ra phát cuồng đi lang thang khắp nơi, gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”.
    Một hôm ông đi lang thang lần tới đạo tràng Kỳ Hoàn có Đức Phật đang ngự tại đó, gặp Phật, ông ta cũng hỏi: “Sa Môn! Có thấy con tôi không?”. Đức Phật bảo: “Vì sao ông không vui?” Mặt mũi bơ phờ tâm trí rối loạn như thế. Trưởng giả trả lời: “Tôi như vầy vì con tôi chết, nó bỏ tôi, tôi nhớ nó, tôi buồn khổ, nay tôi hỏi Sa Môn có thấy con tôi không?”
    Đức Phật trả lời: “Đúng vậy, sinh già bệnh chết là thường ở đời, ái ân biệt ly khổ, đứa con vì vô thường và bỏ ông, há không nhớ nghỉ được sao?”. Ông ta nghe Đức Phật nói thế, không bằng lòng bèn bỏ đi.
    Đi đường gặp người ông liền nói: “Sa Môn Cù Đàm nói rằng: “Ái ân biệt ly liền có khoái lạc”, như vậy có đúng không?”. Người kia đáp: “Ái ân biệt ly mà vui cái gì?”
    Rồi Trưởng giả ấy đi lần đến thành Xá Vệ, gần chỗ đánh bạc, lại nghĩ rằng: “Các người đánh bạc đều thông minh, không việc gì chẳng biết, ta nên đến hỏi họ”, ông bèn đến vào chỗ ấy, trong khi mọi người đang tụ họp đông đảo đánh bạc, ông bèn cất tiếng to hỏi: “Sa Môn Cù Đàm bảo tôi rằng: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét gặp gỡ khổ, đây là khoái lạc, các ông nghĩ sao?” Mọi người đều nói: “Ân ái biệt ly, oán ghét gặp gỡ, có gì mà vui, có gì mà khoái lạc? Không đúng. Ông ta lại nghĩ: “Sao lìa ân ái lại có vui ư? Không đúng, không đúng”.
    Rồi ông đi vào thành Xá Vệ, đứng ở chỗ cửa thành hoàng cung la to lên rằng: “Sa Môn Cù Đàm bảo rằng: “Ân ai biệt ly, oán ghét hội họp là khoái lạc”. Bấy giờ, trong thành từ người nầy truyền qua người khác cho tới trong cung; ngay lúc đó, đại vương Ba Tư Nặc và phu nhân Mạt lợi đang ở trên lầu các, được tùy tùng bẩm lại sự việc như thế, Vua bảo Phu Nhân: “Sa Môn Cù Đàm thật có nói: “Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp đều là khoái lạc chăng?”, Phu Nhân nghĩ sao?”. Phu Nhân trả lời: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy lời nầy, nhưng nếu Ngài có dạy như thế cũng chẳng có gì là lời hư dối”. Vua bảo: “Ví như thầy dạy để tử” làm điều nầy, bỏ điều kia”, đệ tử đáp: “Xin vâng, đại sư”. Nay bà cũng thế, Sa Môn Cù Đàm nói lời như thế mà Bà vẫn đồng ý nói rằng “không có hư dối”, vậy Bà hãy đi mau, đừng ở trước mặt ta nữa”.
    Sau khi ấy, bà la môn Trúc Bác đến Kỳ Hoàn chỗ Đức Phật ngự, sau khi vái lạy, ông bạch lên Đức Phật những điều Phu Nhân Mạt lợi đã dặn bảo rằng: “Thưa Đức Thế Tôn, phu nhân Mạt Lợi cúi lạy Đức Thế Tôn và kính chúc Thế Tôn luôn mạnh khỏe, giáo hóa người mê muội không mệt mõi. Phu Nhơn trình lên Thế Tôn một việc mà người trong cung thành bàn luận điều Thế Tôn đã nói rằng: “Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp đều là khoái lạc”. Chẳng hay Thế Tôn có dạy như thế không? Xin Thế Tôn chỉ dạy để con về thưa lại với Phu Nhơn”.
    Đức Phật bảo bà la môn Trác Bác: “Trong thành Xá vệ có một trưởng giả bị chết mất một đứa con mà ông ta rất thương yêu, vì thế, ông ta đâm ra điên cuồng loạn trí, đi lang thang khắp nơi gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”. Vậy thì ông nên biết: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội tụ khổ, đều không có hoan lạc cả”.
    Ngày xưa trong thành có người mất mẹ già, có người mất cha già, có người mất anh chị em, hết thảy đều và thường, họ thấy sự vô thường nầy sinh ra cuồng loạn, chẳng biết phương hướng; cũng trong thành Xá Vệ, ngày xưa một Trưởng giả gả chồng cho con gái, hai vợ chồng con gái rất thương yêu hòa thuận, rủi người chồng làm ăn sa sút nghèo khó, ông bà Trưởng giả bàn luận định bắt con gái gả cho người khác, người chồng biết được việc ấy, nên nói với vợ “cả hai cùng chết”, rồi dùng dao bén đâm vợ và tự đâm vào bụng mình mà chết. Nầy Bà La Môn, xét vậy mà biết ân ái biệt ly, oán ghét hội tụ khổ, đây đều là buồn khổ chẳng thể nói hết được.
    Bà la môn Trúc Bát thưa: “Đúng vậy, Thế Tôn! Có các thứ khổ não nầy thật chẳng vui, Sa Môn Cù Đàm nói thật đúng như thế, con xin cảm tạ Thế Tôn, và xin kiếu từ”.
    Bà la môn liền đứng dậy vái chào, đi quanh Phật ba vòng, rồi đi đến chỗ Phu Nhơn Mạt Lợi, tâu trình đầy đủ những lời Đức Phật đã nói.
    Phu nhân liền đến chỗ vua Ba Tư Nặc thưa:
    “Thiếp có chỗ muốn hỏi, mong Đại Vương nghe rồi xin trả lời từng việc một, xin hỏi: “Đại vương có thương yêu vương tử Lưu Ly, vương tử Y La chăng?”
    Vua đáp: “Ta rất thương yêu các Vương Tử”.
    Phu Nhân hỏi: “Nếu các vương tử bị chết đi, Đại Vương có sầu khổ không?”
    Vua trả lời: “Đúng vậy, Ta sẽ rất buồn khổ”.
    Phu Nhân nói: “Như vậy ân ái biệt ly đều gây buồn khổ”.
    Phu Nhân lại hỏi: “Đại vương có nhớ phu nhân Tát La Đà dòng Sát Lợi không?”
    Vua đáp: “Rất nhớ”
    Phu Nhân lại hỏi: “Giả sử phu nhân Tát La Đà có sự biến đổi, Đại vương có lo không?”
    Vua trả lời: “Ta rất sầu lo”.
    Phu Nhân nói: “Hãy lấy thí dụ nầy mà biết ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội họp khổ, đều là buồn lo chẳng thể vui được”.
    Rồi Phu Nhân lại hỏi tiếp: “Đại vương có yêu quý nhân dân Ca Thi Câu Tát La không, giả thử trong nhân dân có biến đổi, Đại vương có lo buồn không?”
    Vua nói: “Ta rất yêu thương tất cả nhân dân, nếu có biến đổi thì mạng ta cũng chẳng còn, vì sao? Ta nhờ nhân dân mới được tồn tại, huống là chẳng lo buồn ư?”
    Phu nhân nói: “Lấy thí dụ mà biến ân ái biệt ly đều là lo buồn sầu khổ, không vui vẻ”.
    Bây giờ vua Ba Tư Nặc quỳ gối chắp tay hướng về phía đạo tràng Kỳ Hoàn mà nói: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ! Thế Tôn nói pháp nầy, không phải pháp trước đây người ta nói tin nhảm, nên đã có sự hiểu lầm đáng tiếc xảy ra!”.
    Bây giờ Đức Phật nghe (bằng Thiên nhĩ) phu nhân Mạt Lợi cùng vua Ba Tư Nặc bàn luận, liền bảo các Tỳ Kheo: “Phu Nhân Mạt Lợi rất thông minh, nếu Ta bàn luận, cũng lấy nghĩa như thế nói cho vua, giống như phu nhân đã nói không khác”.
    Xuyên qua câu chuyện, chúng ta thấy cùng là một sự việc nghe lời người đồn đãi, vua Ba Tư Nặc có ngay kết luận rằng lời Phật nói như thế là không phải, không thể chấp nhận được. Còn phu nhân Mạt Lợi lại khác, bà cho rằng nếu quả Đức Phật có nói như thế phải có lý do để nói, nên bà đã nói: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy lời ấy, nhưng nếu Ngài có dạy như thế cũng chẳng phải lời hư dối”, phu nhân đã đặt lòng tin tuyệt đối vào Đức Phật, vì sao? Vì từ bấy lâu bà đã học hỏi được rất nhiều lần Đức Phật thuyết pháp, bà đã học hỏi rất nhiều ở nơi Ngài, và không hề thấy một lời nói nào sai trái cả, nên bà đã có tín tâm kiên cố đối với Đức Phật, tức là lòng tin của bà đã có bằng chứng rõ ràng rồi, chứ không phải là lòng tin mù quáng không thể chứng minh khi bị vua chê bai, bà không phản ứng mà liền cử người đi gặp Đức Phật để hỏi cho rõ sự việc thực hư, khi đã biết chắc chắn sự việc rồi bà liền gặp vua, bà nói về nghĩa yêu thương chia ly khổ, oán ghét hội họp khổ không vui, để giải thích cho vua một cách khéo léo làm cho vua tỉnh ngộ, đó là việc làm của người trí tuệ vậy.
    (Các chuyện kể trích dẫn theo Toàn không).

    - thứ hai là đầy đủ giới đức. Giới đức chính là những điều răn dạy, để kềm chế thân tâm của chúng ta. Thân đừng làm ác, tâm đừng nghĩ bậy. Những người có sơ cơ tu Phật tại gia như chúng ta, Đức Phật có 5 điều răn dạy gọi là giới luật để chúng ta cố gắng giữ gìn thì tự nhiên có đức hạnh. Năm điều căn bản của giới tại gia tạo nên đạo đức là: 1- không sát sanh, 2- không trộm cắp, 3- không tà hạnh trong cái dục, 4- không nói dối, 5- không uống rượu.

    - thứ ba là đầy đủ sự bố thí. Có nhiều người quan niệm chỉ có mấy ông nhà giàu mới có đủ tiền của bố thí, chớ còn hạng chạy ăn từng bửa toát mồ hôi thì tiền của đâu mà bố thí.

    Thật ra bố thí là cách mở rộng lòng mình, chan hòa sự sống của mình cới người khác “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Khi biết thu vào thì phải biết cho ra. Cũng như hơi thở của chúng ta, khi hít vào thì cũng phải thở ra. Có cho ra rồi mới hít vào được. Nếu chúng tat ham hít vào chứa lại không cho ra thì chết ngay. Của cải của ta làm ra là để nuôi sống mà không khí cũng để nuôi sống. Không khí hít vào cũng chỉ vừa đủ nuôi sống mà thôi, nếu dư quá ngập tràn phổi cũng chết. Của cải cất giữ mãi mà không đưa ra, lâu ngày nó không mất cách nầy cũng mất cách khác.
    Mục tiêu tối hậu của Đạo Phật là đạt được sự giải thoát hoàn toàn, rốt ráo, triệt để. Muốn tới đích đó, người tu Phật phải tập buông bỏ dần những thói quen đã bị huân tập từ nhiều đời, cho rằng con người có một cái thân xác và cái đầu óc suy nghĩ miên man nầy.
    Kinh luận nào trong nhà Phật đều cũng có một mục tiêu thuyết phục người đời:
    Không làm điều xấu ác
    Siêng làm điều từ thiện
    Tự chấm dứt sự chạy nhảy liên miên của ý thức.

    Không làm điều ác, siêng làm điều lành là mục tiêu chung của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Duy chỉ có “tự tịnh kỳ ý”, tự chấm dứt sự chạy nhảy của ý thức còn gọi là “tâm viên ý mã” là cốt tủy của Đạo Phật. Đức Phật trực nhận rằng khi tâm ý ngưng bặt, không còn quay cuồng thì giác Tánh biểu lộ.
    “Tự tịnh kỳ ý” chính là để giải thoát kiếp người ra khỏi nhà tù tinh thần, vượt qua bức tường giam hãm họ trong vòng Tham Sân Si từ vô lượng kiếp, hội nhập lại Bản Thể Chân Thân.
    Tâm chúng sanh và tâm Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Nếu theo vọng niệm diên đảo thì ra sáu cõi phàm (Thiên, Nhơn, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh, Địa ngục). Sáu hạng chúng sanh ấy luân chuyển mãi, vui sướng ít, buồn rầu nhiều, chưa tỉnh ngộ, còn ham mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh. Nếu sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát thì sẽ đi vào bốn cõi thánh (Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật).
    Lẽ thường quan sát sẽ thấy thánh hay phàm đều do tâm uế trược hiện ra theo đường tội phước, thiện ác. Tâm thanh tịnh hiện lên bốn cõi Thánh tự tại quang minh, phước tướng dung mạo từ bi. Muốn biết ở cõi thánh hay phàm hãy nhìn lại tâm mình sẽ rõ.
    Người tu theo Đạo Phật phải hiểu lý nhơn quả thâm sâu. Sau khi gieo nhân, quả nào chín mùi thì tới trước. Đời nầy tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước, nên mình phải thọ lãnh. Còn nhân lành đời nầy gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu nhân quả thì sẽ không khởi tâm nghi. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sanh sinh tử triền miên, vì không biết chân tâm thường trụ, thể tánh tịnh sáng; so sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi”.
    Không muốn thọ bào trong sinh tử thì phải tịnh hóa vọng tưởng. Tịnh hóa vọng tưởng rồi thì luân hồi chấm dứt. Vì vậy tâm mê thì gọi là chúng sanh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sanh khác nhau ở chỗ mê và ngộ. Trong mỗi người ai cũng có cái tâm diệu minh. Phàm phu tuy có nhưng bị vô minh phiền não bao phủ giống như vàng còn nằm trong cát. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, giống như vàng đã được thanh lọc tinh khiết thành vàng ròng đại dụng vô cùng, nên được gọi là Thế Tôn, đấng giác ngộ viên mãn, vượt khỏi chướng ngại.
    Tu để đạt được sự giác ngộ trong kiếp sống là điều rất ít người thiệt hành được. Một phần vì ít có người đặt hết lòng tin mà quay lưng lại với cuộc đời, dấn bước lên đường. Một phần vì nghiệp chướng nặng nề, dù có những người cũng có quyết tâm tìm đường giải thoát, nhưng rồi lại bị những cái gọi là “thuận duyên đời, nghịch duyên đạo”, vị thị dục cám dỗ, đi lạc lối làm lỡ làng đường tu.
    Giáo lý nhà Phật qui ra thành năm bước đường tu tập hay là năm phương pháp đi đến giác ngộ, tùy theo căn cơ và trình độ của chúng sanh chọn phương pháp thích hợp để ứng dụng tu cho có kết quả. Con đường đến với Đạo Phật trước tiên là giác ngộ rồi sau mới tu tập. Nếu không hiểu mà tu là việc làm sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật phải sáng suốt chọn phương pháp tu; tin mà không hiểu là mù quáng, cho nên Đạo Phật từng dạy “đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin”. Sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người giác ngộ đến với Đạo Phật.
    1- NHÂN THỪA: Là bước đầu tiên, để chuyển hóa từ người xấu thành người tốt. Nhân thừa phải thọ Tam Quy và giữ gìn Năm Giới. Tam Quy Ngũ Giới là bờ bến của người đời, là diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam Quy là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Ngày nay đã tỉnh ngộ quy y cùng Phật pháp. Như vậy cửa trường sanh bất diệt của trò đã gặp nẽo, nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẽo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ quy y cho thấu đáo. Quy là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu.
    Vậy quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Phật tu theo cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nầy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chính đáng thì khá vâng lời. Cần nhất ở chỗ giữ giới luật hàng ngày”.
    Ngài cũng dạy:

    Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng
    Tam quy ngũ giái lòng hằng gìn theo

    Quy y Tam Bảo là bước đầu tiên của việc vào đạo, tin Phật. Phật giáo không bỏ bất cứ chúng sanh nào, do đó đối với việc quy y Tam Bảo cũng không có sự hạn lượng nhất định. Trong tục đạo trừ Địa ngục là nơi thọ khổ vô cùng vô tận không thể quy y Tam Bảo được. Các đường khác như Tiên, Người, Thần, Quỷ, Súc sanh chỉ cần phát tâm quy y, Phật giáo đều tiếp nhận cả. Cũng giống như học sinh đến tuổi đi học vào trường ghi danh đều được tiếp nhận không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, ngu đần hoặc thông minh.
    Vậy người trên thế gian nầy hãy quay về quy y với Tam Bảo bất kể là người đó đã tin theo Phật hay chuẩn bị để tin theo Phật hoặc người đứng ngoài cửa Phật dòm ngó quan sát; thử đến quy y Tam Bảo rồi họ sẽ thấy được lợi ích to lớn và sự tự do thật sự. Một khi đã quy y Tam Bảo rồi, trừ khi bị ma chướng che lấp chân tâm, nếu không thì chẳng bao giờ thối thất tâm mình với Tam Bảo.
    Tam bảo là gì? Tam Bảo là Phật Pháp Tăng có thể sinh ra vô lượng công đức và phát huy vô lượng diệu dụng. Thế gian gọi trân bảo châu báu giá trị bằng vàng bạc. Còn công đức và diệu dụng của Phật Pháp Tăng thì vượt ra ngoài thế gian và xuất thế gian cho nên càng quý hơn trân bảo nữa; vì sự hóa đạo của Tam Bảo có thể làm cho con người được bình an trong cuộc sống, có thể làm cho con người lìa khổ được vui, vậy Tam Bảo càng quý giá hơn trân bảo của thế gian nữa.
    Tam Quy là:
    - Quy y Phật: tức Phật bảo là chỉ người đã tu hành trí tuệ viên mãn thành Phật. Bởi vậy chư Phật quá khứ vị lai, hiện tại ba đời mười phương đều là đối tượng để chúng ta quy y tôn kính. Nhân vật lịch sử thế giới hiện nay, bậc được thành Phật chỉ có một Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo chủ cõi Ta Bà, nên bước đầu tiên ta phải quy y Phật.
    - Quy y Pháp: tức là Pháp bảo chỉ đạo lý và phương pháp tu hành. Phật bảo và Pháp bảo chúng ta đều biết là những điều do Thích Ca Mâu Ni nói ra vì thế được gọi là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp bảo được thấy hiện nay là ba tạng giáo điển kinh, luật, luận cùng với các chú giải, ngữ lục của các Tổ Sư, đó là chuẩn mực chỉ đạo chúng ta tu hành. Nay ta muốn quy y về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải quy y Pháp.
    - Quy y Tăng: tức là Tăng bảo là những người đang tu học Phật pháp và chỉ những người khác tu học Phật pháp đồng thời hộ trì chúng sanh tu học Phật pháp bao gồm Bồ Tát. La Hán cùng Tăng Ni phàm phu. Bồ Tát và La Hán là bậc Thánh Tăng chúng sanh không thấy được. Chỉ có phàm phu Tăng là người thuyết giảng kinh pháp cho đồ chúng lãnh hội để tu hành. Vì vậy ta quy y Tăng.
    Lợi ích của quy y Tam Bảo, như Kinh Ưu Bà Tắc nói: “Nếu người quy y Tam Bảo, thời trong tương lai sẽ được phước báu lớn không thể cùng tận, ví như có được của báu mà người trong nước vận chuyển trong bảy năm cũng không hết được, công đức của việc quy y Tam Bảo còn lớn hơn thế gấp ngàn vạn lần”.
    Kinh Triết Phù La Hán nói: “Xưa kia có một vị Thiên tử ở cung trời Đao Lợi khi phước trời đã hết, Thiên tử tự biết mình sẽ bị đầu thai loài heo; rất lấy làm lo sợ liền thỉnh cầu Thiên Vương cứu giúp. Thiên Vương không cứu được nên khuyên Thiên tử đến cầu cứu Đức Phật. Phật dạy Thiên tử quy y Tam Bảo, nên sau khi chết không đọa vào loài heo, mà còn được sanh làm người, gặp Xá Lợi Phất học đạo chứng đắc thành quả.
    Kinh Sát Cách Y Pháp Thiên tử thọ Tam Quy nói: “Xưa có một vị Thiên tử ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên, khi phước trời đã tận, còn bảy ngày nữa sẽ chết. Những sự hoan lạc, những thiên nữ đẹp không còn thân cận, những tướng mạo uy nghi đều đã thay đổi, mùi hôi bốc ra từ thân thể và Thiên tử cũng biết rằng sẽ bị đầu thai vào loài súc sanh. Thiên Vương biết được bèn dạy Thiên tử phát tâm quy y Tam Bảo, sau bảy ngày Thiên tử vãng sanh. Thiên Vương muốn biết Thiên tử sanh vào đâu, nhưng không thể quán chiếu thấy được, bèn đến hỏi Phật. Phật bèn dạy rằng: “Thiên tử nhờ công đức quy y Tam Bảo, đã được sanh lên cõi trời Đâu Suất”.
    Đức Phật cũng đã từng dạy, nếu quy y Tam Bảo thì được Tứ Đại thiên vương sai 36 vị thiện thần hộ trì; 36 vị thiện thần nầy còn có trăm ngàn vạn ức hà sa quyến thuộc cũng theo hộ trì người quy y Tam Bảo có thể cầu hiện thế bình an nhưng mục đích cuối cùng của việc quy y Tam Bảo vẫn là trở về và làm sống dậy tự tánh Tam Bảo trong mỗi người mới đúng là quy y Tam Bảo chân chánh vậy.
    Tam Quy không những là căn bản của các giới mà còn là căn bản quá trình tu tập hàng ngày, của tín đồ Phật giáo những lời kinh sớm tối đều có quy y.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo dạy tín đồ của Ngài công phu hai thời cúng lạy hàng ngày, Ngài thuyết:

    Xả thân tầm Đạo vô vi
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày
    Rồi Ngài dạy:
    Sớm chiều bình đẳng chớ lơi
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai

    Và:
    Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu
    Thì sẽ được Tòa Chương dựa kế.

    Thiệt hành sự cúng lạy của người cư sĩ tại gia bằng hai bài nguyện: một trước bàn thờ Ông Bà, một trước bàn thờ Phật.
    Thiết nghĩ chúng tôi muốn trình ra đây để tất cả thiện tín am tường.
    Nghi thức trước bàn thờ ông bà:
    Người tín đồ cầm hương xá 3 xá quỳ xuống chắp tay đưa lên thán, nguyện:

    Cúi kính dâng hương trước Cửu Huyền
    Cầu trên Thất tổ chứng lòng thiền
    Nay con tỉnh ngộ quy y Phật
    Chí dốc tu hành tạo phước duyên

    Cắm hương rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:

    Cúi đầu lạy tạ tổ tông
    Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc nhằn
    Rày con xin giữ Đạo hằng
    Tu cầu Tông tổ siêu thăng Phật đài
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày
    Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên
    Mong nhờ Đức Cả bề trên
    Độ con yên ổn vững bền cội tu.
    (lạy 4 lạy).

    Nghi thức trước bàn thờ Phật:
    Người tín đồ cầm hương xá 3 xá, quỳ xuống chắp tay đưa lên trán, đọc bài Quy y:

    Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (tam niệm)
    Nam Mô Thập Phương Phật
    Nam Mô Thập Phương Pháp
    Nam Mô Thập Phương Tăng
    Nam Mô Phật tổ Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo.

    Cắm hương lạy 4 lạy cũng được hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:

    Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi phổ độ chúng sanh A-Di-Đà Phật.
    Nam Mô nhứt nguyện cầu: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật Vương độ chúng, thế giới bình an.
    Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu huyền Thất tổ Tịnh độ siêu sanh.
    Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây phương.
    Nam Mô tứ nguyện cầu: Phật tổ, Phật Thầy từ bị xá tội đệ tử tiêu tai tịnh sự, trí huệ thông minh giai đắc đạo quả.

    Lạy 4 lạy rồi xá: 1 xá chính giữa niệm: Nam Mô A-Di-Đà Phật.
    1 xá bên trái niệm: Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
    1 xá bên mặt niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát.


    Nghi thức trước bàn thờ THÔNG THIÊN

    Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.
    Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Quy y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây phương ngủ nguyện (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).
    (Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).
    Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.


    NIỆM PHẬT

    Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngổi bán già thẳng lưng niệm: Nam Mô A-Di-Đà Phật.
    Hay niệm: Nam Mô Tây phương Cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A-Di-Đà Phật.

    (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).

    Nam Mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc.

    Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cúng lạy cầu nguyện qua hai thời công phu hàng ngày là căn bản là nguyên tắc. Ngoài hai thời lễ bái, người tín đồ có thể hành đạo qua nhiều thời không giới hạn. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:

    Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông
    Với bá tánh vạn dân vô sự

    Ngài cũng chỉ dạy:

    Quy y thì phải làm y
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời

    Quy y Tam Bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước đầu tiên theo Đức Phật dạy phải giữ gìn năm giới cấm. Do vậy mới có câu “Nếu không gìn năm giới thì đường sinh lên làm người trời cũng bị cắt đứt’.
    Giới là nền tảng quan trọng giúp tạo điều thiện, phế bỏ hạnh ác, là nguồi cội của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập thánh. Giới sinh Định, Định sinh Huệ. Nhờ giới Định Huệ mà thành Chánh Giác. Vì căn cơ và tâm tánh của chúng sanh không đồng, nên giới có từ cạn đến sâu, từ thô đến tế nhưng cứu cánh thì không khác.
    Năm Giới Cấm là: Cấm sát sanh, Cấm trộm cắp, Cấm tà dâm, Cấm dối trá và nói lời độc ác, Cấm uống rượu và những chất làm cho say sưa, mất lý trí. Năm giới cấm nầy là căn bản, bắt buộc người nhập môn tu Phật phải học và tuân giữ. Năm giới là cửa ngõ đưa đến thành tựu, cho nên phải học, phải hành, phải truyền bá. Người cư sĩ tại gia phải hành trì, vì năm giới nầy tạo nên vô lượng công đức. Cho nên người tu hành bước vào cửa Đạo phải quy y và thọ trì năm giới. Nền tảng nầy không thể thiếu được.
    Nếu chúng ta so sánh năm giới nầy với ngũ thường bên Nho giáo thì có những điểm tương đồng. Nghĩa là người nhân từ thì không giết hại. Người nghĩa khí thì không trộm cắp. Người có lễ nghĩa thì không tà dâm. Người trí thì không dùng chất say gây nghiện. Người tín thì không nói láo.
    Người tu theo Đạo Phật giữ tròn năm giới dù không muốn hoàn toàn cũng trở thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức, không cầu lễ nghĩa mà lễ nghĩa tự thành. Tâm trí trở nên sáng suốt. Có uy tín với mọi người và được trọng vọng, kính ái.

    1- Giới thứ nhứt không sát sanh.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.
    Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hiềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.
    Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết cha mẹ, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do kể trên. Đó là người đối với người.
    Người đối với thú cầm sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vò miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống; nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc, vì đứng vào bậc siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rũi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chữa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.
    Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loài vậy.
    Thế nên hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn”.
    Thầy Mạnh Tử nói: “Nghe tiếng vật kêu la chẳng nở ăn” đã thể hiện lòng từ bi của hàng Thánh Nhân. Hãy nhìn lại tự thân chúng ta là người tu theo Đạo Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu quả khổ vô biên về sau. Phật chế ra giới không sát sanh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Muốn hành Đạo Phật, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sanh. Giữ được giới nầy thì không còn bị luân hồi đền mạng. Nếu tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì chúng ta tự gây oán kết cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người chết thành dê. Dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo xoay dần, ác nghiệp dẫy đầy, chiêu quả xấu không có ngày dứt”. Giết người phải đền mạng, giết thú vật cũng phải đền mạng.
    Câu chuyện tiền thân của Đức Phật là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi dòng họ Thích Ca là dân làng chài và tiền thân của Đức Phật Thích Ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân làng chài bắt được con cá lớn sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Đức Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân của vua Lưu Ly. Khi sanh làm người, vua Tỳ Lưu Ly trả thù giết sạch dòng họ Thích Ca, còn Đức Phật cũng bị quả báo nhẹ là bị đau đầu. Chúng ta không thể không tin có quả báo, cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Luật Nhơn Quả thật là cao viễn
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai
    Cho nên chúng ta phải:
    Tích thiện thì thường có phước dư
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm

    Đạo Phật dạy chúng ta từ bi với loài người mà từ bi với cả loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bằng tuệ giác của Phật, Ngài nhìn tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả người nam là cha, tất cả người nữ là mẹ. Chúng sanh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển từng làm cha mẹ, quyến thuộc của nhau. Vậy giết hại chúng sanh cũng như giết hại cha mẹ”.
    Người đời không hiểu, không tin nhơn quả mặc tình giết hại lẫn nhau ăn tươi nuốt sống. Chính vì vậy Đức Phật mới chế ra giới cấm giết. Sao ta lại nở giết hại chúng sanh trong quá khứ từng là cha mẹ mà trong tương lai cũng có khả năng thành Phật.
    Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi lộc mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát. Nghiệp sát nếu dừng thì kiếp hoại sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành động đúng đạo lý.
    Phải tin sâu nhơn quả, phải hiểu nhơn quả như bóng với hình. Nếu tin sâu nhơn quả, dù chưa sửa đổi nhưng lòng lành đã có. Nên mỗi khi hành động đều có suy nghĩ thì tự nhiên hướng về thiện.
    Đạo Phật nói chúng sanh là bao gồm loài hữu tình và loài vô tình. Động vật là loài chúng sanh hữu tình, thực vật là loài chúng sanh vô tình. Chúng sanh có thể chia ra làm ba cấp: loại cao cấp là loài người, có đủ ba điều kiện như có tế bào sống, có phản ứng thần kinh, có tư tưởng và có trí nhớ. Loại cấp thấp là thực vật chỉ có tế bào sống, không có thần kinh và trí nhớ, cũng có phản ứng về sống chết, không có cảm ứng vui sướng, đau khổ, không có tư tưởng và trí nhớ, nên gọi là vô tình. Loại cấp trung là động vật, có một trí nhớ nào đó, nhưng không có khả năng tư duy. Có loại động vật hạ đẳng chỉ có phản ứng theo bản năng, không có tư tưởng và trí nhớ nhưng chúng có thần kinh tức là cảm giác đau khổ, biết sợ chết, vì vậy loài sâu kiến đều có bản năng tự nhiên biết trốn tránh khi có nguy cơ tử vong. Thực vật thì không như thế. Định nghĩa sát sinh giới hạn là các loài động vật biết sống chết, không phải là thực vật.
    Trong nghề ruộng rẫy khó tránh khỏi làm tổn hại đến côn trùng, nhưng vì cuộc sống của chúng ta. Không phải chỉ có cày cấy mà ngay cả đi đứng hoặc làm các loại công việc khác, chúng ta cũng vô tình giết hại côn trùng. Vì vậy chỉ có thường xuyên niệm Phật A-Di-Đà, nguyện cho các loài chúng sanh vô trí sau khi chết được chuyển sinh thiện đạo hoặc siêu sinh tịnh độ thì coi như không phạm tội sát sinh. Lẽ đương nhiên nếu cẩn thận, giảm bớt những cơ hội làm sát thương loài côn trùng thì đó là biểu hiện của lòng từ bi. Bằng như tự biết mình gây ra sát sinh mà trong lòng không hối hận thì tức là không có lòng từ bi.
    Trong bất cứ gian đoạn tu hành nào, người cư sĩ tại gia vẫn phải tin sâu nhơn quả, tránh tạo nghiệp ác, không làm tổn hại và gây đau khổ cho chúng sanh.
    Đôi khi vì vô tình chúng ta không nhận định sâu xa nên gây nghiệp ác, làm đau đớn chúng sanh cũng có Phật tánh, cũng có thân nhân, gia đình cha mẹ, con cái, cũng biết yêu thương như mình.
    Đức Phật dạy trong giới răn thứ nhứt là “không sát sanh”. Nếu chúng ta có thể giảm thiểu những ham muốn, buông xả bớt những thói quen làm cho chúng ta chìm đắm trong tư tưởng bất công với muôn loài vạn vật. Hãy cứu giúp chúng sanh mà không sát hại là chúng ta mạnh tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.
    Krishnamurti nói về mối giao cảm với muôn loài: “Dường như chẳng bao giờ chúng ta có chút cảm xúc nào hướng về muôn loài trên trái đất. Nếu như chúng ta thiết lập được mối giao hảo sâu xa bền chắc với thiên nhiên thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ giết con vật để được ngon miệng, chẳng bao giờ làm tổn thương, mổ xẻ con khỉ, con chó, những con vật trong phòng thí nghiệm, đang khi nó còn sống, vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm những cách khác để điều trị vết thương, để cứu mạng chúng ta. Nhưng điều trị tâm hồn thì lại hoàn toàn khác. Sự phục hồi sẽ tới từ từ nếu chúng ta sống hài hòa với thiên nhiên, với trái cam trên cành cây, với nhánh cỏ nhú lên từ kẻ nứt xi măng, và với những ngọn đồi nằm ẩn dưới những tầng mây bao phủ.
    Đây không phải là nói theo tình cảm tầm phào hoặc tưởng tượng lãng mạng mà là chuyện thực tế của mối giao hảo với muôn loài đang sống, đang chuyển động trên trái đất. Người ta sẽ giết hàng triệu con cá voi và sẽ còn giết nữa. tất cả những gì chúng ta lấy được từ sự tàn sát chúng thì chúng ta cũng có thể có được bằng những cách khác. Nhưng rõ ràng là chúng ta thích giết mọi loài, như con nai phóng vút qua, con linh dương kỳ diệu và con voi to kềnh. Chúng ta thích giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử loài người trên trái đất, sự giết choc nầy chưa bao giờ ngưng. Nếu chúng ta có thể, và chúng ta phải thiết lập mối tương quan giao hảo bền chặt thâm sâu với thiên nhiên, với cây cỏ, lùm bụi, hoa trái, với đám mây bay trên trời, từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn giết người vì bất cứ lý do nào nữa”.
    Nếu ai mưu hại mình, mình chống trả mãnh liệt để bảo vệ sinh mạng. Mình biết quý trọng sinh mạng mình thì mình cũng đừng chà đạp sinh mạng của người khác. Suy rộng ra các loài vật cũng biết quý trọng mạng chúng. Như khi một con bò hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản kháng, sự đau thương cùng cực của chúng, bằng những tiếng kêu gào, những cái giẫy giụa thoát chết! Hãy tôn trọng sự công bình, điều ta không muốn ai làm cho ta, thì cũng đừng làm cho người khác hay loài khác. Đức Phật dạy: “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng sợ chết. Vậy hãy lấy lòng mình mà suy lòng người, ghớ giết, chớ bảo giết!”.
    Một hôm, Tôn giả Lặc Xoa Na sáng sớm đến mời Tôn giả Mục Kiền Liên vào thành Vương Xá cùng đi khất thực. Trong khi đi đường, Tôn giả Mục Kiền Liên miệng mỉm cười, Tôn giả Lặc Xoa Na trông thấy liền hỏi: “Mỗi khi Thế Tôn và các đại đệ tử của Ngài mỉm cười, thì thường có duyên cớ, vừa rồi tôi thấy thầy mỉm cười, vậy thầy mỉm cười là do nhân duyên gì?
    Tôn giả Mục Kiền Liên đáp: “Câu hỏi chưa đúng lúc, chờ khất thực xong trở về chỗ Thế Tôn, thầy hãy hỏi, tôi sẽ trả lời”.
    Hai Tôn giả vào thành khất thực, họ ăn xong, rồi cùng đến chỗ Phật, vái lễ, và ngồi vào chỗ, Tôn giả Lặc Xoa Na trước Phật nói: “Sáng nay con cùng Tôn giả Mục Kiền Liên ra khỏi núi Kỳ- Đà-Quật để đến thành Vương Xá khất thực. Đang đi đến chỗ nọ, Tôn giả lại mỉm cười vo duyên cớ nên con hỏi Tôn giả “Thầy mỉm cười là do nhân duyên gì?”. Khi đó Tôn giả bảo con: “Thầy hỏi chưa đúng lúc, chờ khất thực xong trở về chỗ Thế Tôn, thầy hãy hỏi, tôi sẽ trả lời”, bây giờ trước mặt Đức Thế Tôn con xin hỏi lại Tôn giả: “Vì nhân duyên gì lúc đó thầy lại mỉm cười?”
    Tôn giả Mục Kiền Liên đáp: “Giữa đường tôi thấy một chúng sanh, thân to như cái nhà lầu đi trê hư không khóc lóc, đau đớn, kêu gào, buồn khổ; tôi đã khởi nghĩ chúng sanh nầy mang cái thân to lớn như thế mà còn khóc than buồn khổ thì thật là kỳ lạ, nên tôi mỉm cười”.
    Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
    “Lành thay! Lành thay! Trong chúng Thanh văn của Ta, người có thực nhãn, thực trí, thực nghĩa, thực pháp, quyết định thông suốt, thấy chúng sanh nầy. Ta thấy chúng sanh nầy mà không muốn nói ra, e người hoang mang không tin, vì sao? Như Lai đã nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”.
    Rồi Ngài nói tiếp:
    “Thời quá khứ, chúng sanh to lớn kia làm người đồ tể giết trâu bò. Do tội giết trâu bò, nên sau khi chết đi, người ấy liền bị đọa vào Địa Ngục, và chịu cực hình hàng trăm nghìn năm; khi ra khỏi Địa Ngục, tội báo còn dư, nên phải chịu cái thân to lớn như thế, và phải thọ sự đau đớn buồn khổ như vậy”.
    Tôn giả Mục Kiền Liên nói: “Thưa Thế Tôn, có lần con thấy một chúng sanh cũng to lớn, và toàn thân không có da bao bọc; chúng sanh ấy đi trong hư không, và bị các loài chim, chó đuổi theo cắn xé để ăn, chúng sanh ấy vừa trốn chạy vừa kêu la rất là thảm thiết”.
    Đức Phật bảo:
    “Chúng sanh ấy, vào thời quá khứ đã làm nghề giết và lột da dê, do tội ấy nên trải qua hàng trăm nghìn năm chúng sanh ấy bị đọa vào Địa Ngục chịu vô lượng khổ. Hết ở Địa Ngục rồi sau lại phải mang cái thân ấy là do tội báo kia còn sót lại mà phải tiếp tục chịu khổ”.
    Tôn giả Mục Kiền Liên lại nói tiếp: “Thưa Thế Tôn, có một lần khác, con thấy một chúng sanh cũng to lớn, khắp mình có lông nhọn tua tủa như gươm đao; các lông ấy tự nhiên phát cháy đốt thân thể, nên chúng sanh ấy đau đớn vừa chạy vừa kêu la thảm thiết, thật là tội nghiệp”.
    Đức Phật bảo:
    “Chúng sanh ấy, thời quá khứ làm nghề đồ tể giết heo, do tội ấy nên trăm nghìn năm đọa Địa Ngục chịu vô lượng khổ; tội báo còn sót lại, nên người ấy phải mang cái thân như thế và tiếp tục chịu khổ”.
    Đức Phật nói tiếp:
    “Tội về giết hại chúng sanh thì vô kể, nói sao cho hết. Các tội khác cũng thế, nhiều vô kể, và bị quả báo vô cùng khổ, nói sao cho hết được!”.
    Sau đây là lời bàn của Toàn Không về “Người khổng lồ trong hư không”:
    Đức Phật nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”; tại sao không tin lời Phật sẽ khổ? Vì những điều Đức Phật nói ra đều là sự thật, đều là những lời chỉ dẫn sâu xa giúp chúng sanh đi đến chân hạnh phúc; nếu những ai hiểu được tin được, thực hành theo lời Ngài dạy sẽ đạt được mục đích mong muốn và sẽ hết khổ. Còn những người không tin lời Ngài nên không thực hành theo mà còn làm ngược lại lời Ngài nói sẽ chịu khổ mãi mãi là lẽ dĩ nhiên. Thí dụ người tại gia cư sĩ hay những ai muốn kiếp sau được tái sinh làm người giàu sang sung sướng khỏe mạnh sống thọ phải thực hành năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nếu những ai tin lời Phật nói như thế mà thực hành đầy đủ thì kiếp sau sẽ có kết quả như ý muốn, còn những ai không tin lời Ngài nói tức không thực hành Năm Giới mà còn phạm năm điều trên thì chắc chắn rằng người ấy kiếp sau sẽ vào cảnh khổ không thể nào tránh khỏi.
    Trong suốt 49 năm, Đức Phật giảng dạy rất nhiều, cả một kho tàng quý giá, nhưng hỏi rằng trong nhân loại có bao nhiêu người biết đến Phật pháp; rồi trong số những người được biết và đọc Phật pháp có bao nhiêu người tin tưởng hoàn toàn các lời Ngài nói? Đức Phật đã nói những gì? Ngài nói rất nhiều, một vài điều tạm nêu ra đại loại như: Đời là vô thường, khổ không, vô ngã; xa lìa tham, sân, si, ái dục, làm lành tránh làm ác để có nghiệp tốt v.v… Nếu chúng ta tin lời Ngài nói và thực hành theo thì sẽ bớt khổ, tùy theo mức độ chúng ta làm được ít hay nhiều mà hưởng kết quả tương ứng.
    Về việc người khổng lồ trong không trung là như thế nào? Tại sao chúng ta không thấy? Sở dĩ Tôn giả Mục Kiền Liên thấy được người khổng lồ trong hư không là vì Ngài có thần thông, Ngài có Thiên Nhãn Thông nên thấy rõ ràng; vậy những người khổng lồ ấy ở đâu ra? Nếu chúng ta học Phật rồi phải hiểu rằng đây là cõi “Ngạ Quỷ”, thế giới Ma Quỷ, có vô số loại Ma Quỷ khác nhau.
    Cũng như cõi Súc Sanh, cõi Ngạ Quỷ có vô số loài Ma Quỷ to nhỏ khác nhau, có loại hiền lành nhưng cũng có loại hung dữ. Ma Quỷ sống quanh quẩn với loài người nhưng có thần thông biến hóa đi rất nhanh, nhìn và nghe rất xa, vô hình với mắt loài người. Ngạ Quỷ ăn bằng tiếp xúc (xúc thực), có dục và cũng có nói năng với nhau trong cùng loại v.v…
    Có những người vì một trường hợp đặc biệt nào đó, họ có thể tiếp xúc được với thế giới Ngạ Quỷ bằng nhìn thấy hình nghe tiếng nói và biết tin tức về việc nầy việc nọ v.v…, tại sao? Vì Ma Quỷ là vô hình, có thần thông, nên có thể biết và làm được một số việc; tuy nhiên, vấn đề nầy không giúp ích gì cho việc giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nên Đức Phật đã không cho đệ tử của Ngài đi vào lãnh vực nầy và Ngài thường ngăn cấm Phật tử làm nghề bùa ngải, đồng cốt, thờ ma xó v.v…
    Qua câu chuyện kể trên, chúng ta thấy rất rõ lời giáo hóa của Đức Huỳnh Giáo Chủ về nhân quả báo ứng thật là diệu lý:

    Tích thiện thì thường có phước dư
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm

    Bởi vô minh che mờ tâm trí, nên chúng sanh cứ vì miếng ngon thịt béo mà sát giết lẫn nhau, để rồi phải chịu sự luân chuyển lên xuống mà trả nợ nần, nên phải tiếp nối cái khổ triền miên theo bánh xe Lục Đạo. Đúng như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:
    Chuyển luân trong nhơn vật các loài
    Căn mờ ám làm điều dại dột.

    Đạo Phật là Đạo Từ Bi, Bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng từng phán dạy, sinh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhơn loại vậy.
    Câu chuyện về vấn đề “Câu cá giải trí có tạo nghiệp không?” trích trong “Phật Giáo Truyền Thống Tây Tạng”, tác giả Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 như sau:
    “Nói về nghiệp sát sinh thì, nếu chúng ta giết, dù chỉ con vật nhỏ nhít nhất, cũng tạo nên một ác nghiệp. Một vài nền triết học hay trường phái tư tưởng cho rằng nếu ta giết một chúng sanh như con cá, thì đây không phải là một ác nghiệp, và sẽ không có quả báo xấu nào cả. Họ nghĩ rằng một con cá thì không có tâm, nghĩa là không cảm thọ đau khổ. Nhưng nếu suy xét một cách cẩn thận, ta có thể xác định con cá có tâm hay không.
    Không cần phải nghiên cứu Pháp mới biết được một con cá có tâm hay không, mà chỉ cần quan sát ta cũng có thể hiểu được điều nầy. Chúng ta nên xem xét làm thế nào những người chài lưới cố bắt cá. Những ông chài đặt thực phẩm lên đầu lưỡi câu và ném lưỡi câu xuống nước. Khi một con cá trông thấy thức ăn, nó phát sinh tham ái mạnh mẽ muốn ăn miếng mồi ấy… Như thế, khi con cá nghĩ mình trông thấy một vật ăn được, là nó phải có một cái tâm. Con cá phát sinh ước muốn và tiến lại gần miếng mồi phải có một cái tâm. Nếu cá không có tâm, thì nó sẽ không bao giờ đến gần miếng mồi đầu lưỡi câu, vì nó sẽ không bao giờ phát sinh ước muốn ăn miếng mồi ấy. Từ thí dụ nầy chúng ta có thể hiểu rằng quả thực cá cũng có tâm.
    Cũng tương tự, nếu ta xem xét cái gì xảy ra khi con cá bị bắt, ta có thể quan sát thấy nó có một cái tâm hay không. Khi con cá mắc câu bị lôi lên khỏi mặt nước, thân thể nó chảy máu, và nó dẫy dụa cùng khắp. Lúc đó con cá vô cùng đau khổ. Do quan sát những hành vi của con cá và nỗi thống khổ của nó, ta có thể hiểu rằng cá có một cái tâm. Bởi thế, nếu ta giết một con cá, ta vẫn phải chịu ác nghiệp về sát.
    Nếu ta giết bất cứ một hữu tình (sentient being) nào, nghĩa là một sinh vật có tâm thức (mind), thì ta sẽ gây ra một ác nghiệp. Thực không cần thiết phải chấp nhận một giáo lý Phật về vấn đề nầy; mà đúng hơn ta nên nhìn tận mắt để xem những hữu tình như sâu bọ và súc vật có kinh nghiệm qua đau khổ hay không.
    Nếu ta gây đau khổ cho bất cứ một chúng sanh nào, ta sẽ tạo một ác nghiệp. Bởi thế, dù một chúng sinh lớn hay nhỏ, ta đều tránh làm tổn thương hay giết nó”.
    Đây là câu chuyện cá có biết đau hay không?” trích theo “Applied Animal Behaviour Science & Discovery News” Tâm Linh chuyển ngữ như sau:
    “Khi bạn câu được con cá hay đánh bắt được một mẻ lưới cá, có bao giờ bạn tự hỏi “ liệu cá có biết đau đớn như cảm giác biết đau trong nhận thức của con người hay không?”. Câu trả lời là có, theo một nghiên cứu mới cho biết như vậy.
    Một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng cá khi bị móc phải lưỡi câu hay bị ném lên bờ thường đau đớn, dẫy dụa, vật vã trước khi chết là phản ứng có tính cách phản xạ mà chúng không thực sự cảm thấy đau trong nhận thức, như cái đau của con người. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm bằng cách tiêm thuốc morphine, một loại thuốc giảm đau cho một nhóm cá, và tiêm một loại thuốc giả (placebo) cho một nhóm cá khác. Sau đó họ cho cả hai nhóm chịu dưới sức nóng gay gắt đến mức độ đau đớn nhưng không gây nguy hại đến sự sống của chúng, để quan sát xem chúng có những cảm giác như thế nào.
    Kết quả là cả hai nhóm đều có những phản ứng giống nhau, chúng dẫy dụa, quằn quại, máu đỏ chảy ra miệng và namg. Tuy nhiên khi trả về môi trường tự nhiên, “nhóm cá được tiêm thuốc morphine hoạt động một cách bình thường, như không có chuyện gì xảy ra. Trong khi đó, nhóm cá được tiêm thuốc giả đã có những hành động cảnh giác phòng thủ, những hành động biểu lộ sự thận trọng, nỗi sợ hãi và lo lắng”, ông Joseph Garner, phó giáo sư đại học Purdue University đã cho biết như vậy.
    Một thí nghiệm cho thấy rằng cá không những chỉ có cảm giác đau đớn mà còn có sự thay đổi về cách ứng xử sau đó, ông Janicke Nordgreen, một sinh viên tiến sĩ của trường đại học thú y Norwegian School of Veterinary Science nhận định sau đó. Cùng với những gì chúng ta biết từ các thí nghiệm được thực hiện bởi các các nhóm khác, điều nầy kết luận rằng loài cá có nhận thức đau đớn, sợ hãi và lo lắng, đồng thời có ý thức chuyển đổi cách ứng xử sau đó, ông nói thêm.
    Một nghiên cứu khác cho thấy tôm hùm và cua ( lobsters and crabs) cũng có những cảm giác đau đớn tương tự. Garner và Nordgreen công bố kết quả của họ trong tạp chí khoa học Applied Animal Behaviour Science.
    Nghiên cứu mới nầy đặt ra nhiều vấn đề đạo đức xã hội, nhất là ở những quốc gia có nền văn hóa ẩm thực biển. Trong các nhà hàng sang trọng cũng như bình dân, thỉnh thoảng chúng ta thấy người ta bỏ cá, tôm hùm hay cua đang còn sống vào một chảo dầu thật nóng hay nồi nước đang sôi, đậy nắp nồi lại để mặc cho chúng vẫy vùng trước độ nóng chết người, và chúng ta biết số phận của những con cá hay tôm cua sẽ ra sao. Sau đó chúng được biến thành món ăn ngon cho một số người. Có thể nói ngay rằng đó là một nền ẩm thực không mấy văn minh của loài người. Trước đây họ dựa vào các nghiên cứu được tài trợ từ các hiệp hội của kỹ nghệ đánh bắt cá cho rằng cá tôm cua không có cảm giác đau đớn, như là một biện minh cho hành động của mình. Kết quả nghiên cứu mới nói trên là bằng chứng tích cực của sự vô nhân đạo của ngành câu cá giải trí và công nghiệp đánh bắt cá. Liệu chúng ta có còn thích đi câu, đánh bắt tôm cá hay ăn uống theo lối hành hình chúng trong dầu sôi lửa đỏ như vừa kể không?
    Xin cầu chúc mọi loài chúng sanh đều được an lành”.

    Dưới đây là câu chuyện “Nước mắt chú trâu hay là Một chú trâu đã thay đổi cuộc sống của những người xẻ thịt” trích từ “Tin Tức Thế Giới Hàng Tuần” (Weekly World News) của tờ báo “People’s News” (Tin Tức Nhân Dân) của Trung Quốc xảy ra ở Hongkong do Tâm Minh chuyển ngữ.
    Báo nầy tường thuật rằng có một nhóm nhân công dắt một con trâu vào trong một lò sát sinh để sửa soạn giết thịt làm bíp-tết và hầm ra-gu.
    Khi họ đi tới trước cửa lò thời con vật thình lình đứng khựng lại, không chịu tiến bước thêm nữa. Chú trâu quỳ xuống bằng hai chân trước và tuôn rơi nước mắt. Tại sao vào lò sát sinh mà một con trâu lại có thể hay biết rằng nó sắp bị xẻ thịt. Điều nầy tỏ ra nó có vẻ nhậy cảm hơn nhiều con người.
    Tay đồ tể Shiu Tat Nin kể lại chuyện đó một cách hoàn toàn xúc động: “Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”, anh chàng kể tiếp: “Tôi vội vàng gọi một người tới coi và tất cả đều ngạc nhiên như tôi. Chúng tôi cùng xúm vào để người thì đẩy và người thì lôi kéo chú trâu đi nhưng nó không chịu nhúc nhích, nó chỉ ngồi đó và tiếp tục khóc!”
    Chủ lò sát sinh Billy Fong nói: “Con người luôn nghĩ rằng những con vật nầy không giống người, đâu biết khóc, nhưng chú trâu nầy quả thật đã khóc như một đứa trẻ nít!”.
    Vào lúc đó có ít nhất cả chục con người khỏe khoắn và vạm vỡ hiện diện nhưng tất cả đều mủi lòng khi thấy chú trâu khóc. Riêng những đồ tể thường có nhiệm vụ hàng ngày phải giết trâu bò trong lò sát sinh thời xúc cảm hơn nữa, họ cũng nhỏ lệ.
    Khi các tay đồ tể từ các lò sát sinh khác nghe thấy tin nầy họ cũng kéo nhau chạy tới xem. Tất cả đám đông đều rất ngạc nhiên vì những chuyện xảy ra trước mắt họ. Ba người đồ tể trong nhóm đó quá xúc động đến nỗi họ tuyên bố rằng kể từ lúc nầy mỗi khi họ phải làm thịt các sinh vật khác họ cũng sẽ không thể quên hình ảnh nước mắt của chú trâu nầy.
    Kết thúc sẽ giải quyết như thế nào? Thấy cả trâu lẫn người đều nhỏ lệ chúng ta biết rằng chú trâu sẽ không bị xẻ thịt nữa. Quả thật vậy, một số người bỏ tiền mặt ra mua chú trâu đó rồi gởi chú vào một ngôi chùa Phật giáo để nơi đó quý Tăng sẽ chăm sóc nó chu đáo hơn và chú trâu có thể an lành sống đến tận cuối đời!
    Một chuyện kỳ lạ khác lại xảy ra. Sau khi có quyết định trên chú trâu linh cảm rằng sinh mạng chú được bảo đảm, chú tự đứng dậy và đi theo họ. Shiu Tat Nin ngạc nhiên nói: “Tại sao một con trâu lại hiểu được những lời nói của con người? Dù bạn có tin hay không nhưng chuyện lạ lùng nầy quả có thật”.
    Hiển nhiên chú trâu nầy đã làm lay chuyển cuộc sống của những nhân công làm việc trong lò sát sinh!
    Chúng ta là những người tut heo đạo Phật, nhận thức được con vật cũng có tâm linh, cũng có những niềm vui nỗi buồn như con người. Trong câu chuyện “Bài diễn văn hay nhất thiên niên kỷ”, cũng nói lên được những tình cảm buồn vui, đau khổ, yêu thương chân thật của loài vật. Câu chuyện như sau:
    “Bài diễn văn của luật sư George Graham Vest tại một phiên tòa xét xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Safire của báo The New York Times (Nữu Ước thời báo) bình chọn là hay nhứt trong tất cả các diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 1,000 năm qua.
    Thưa quý ngài hội thẩm,
    Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới nầy có thể một ngày nào đó hóa ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rời ra có thể là một lũ vô ơn.
    Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi những hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ nầy, người bạn không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta..
    Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vập vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn bạo nầy. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta tán gia bại sản, thân tàn danh liệt, thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy vẫn còn bên nắm mộ ta –con chó cao thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết rồi!”.

    Lợi ích của sự không sát hại

    Không giết hại có những điều lợi sau đây:
    -Về phương diện cá nhân: người không sát nhân, hại vật, không làm đổ máu, không lóc da xẻ thịt, thì trong lòng không cắn rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng thơ thới, giấc ngủ an lành, gương mặt trong sáng lộ tính hiền hòa.
    -về phương diện xã hội: toàn thể chúng sanh trên thế giới giữ đúng giới thứ nhứt của Phật dạy, thì sẽ không còn chiến tranh, nghiệp quả luân hồi cũng được giải thoát. Và cũng như điều mong ước của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Cầu cho đời sóng lặn gió êm
    Đặng bá tánh an nhàn tu niệm

    Tổ xưa cũng có bài kệ dạy:

    Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp
    Thập phương hà xứ động đao binh
    Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện
    Thiên hạ hà sầu bất thái bình
    Dịch nghĩa:
    Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết
    Mười phương nào có nỗi đao binh
    Mỗi nhà mỗi chốn đều tu thiện
    Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

    Người cư sĩ tại gia vì còn phải làm công kia việc nọ, nên không sao tránh khỏi giới sát. Tuy nhiên chúng ta cần phải cẩn trọng giảm thiểu sát hại sinh vật càng tốt để giúp cho đường giải thoát chóng viên thành, nhất là đừng giết người và các con vật như trâu, bò, ngựa, dê, chó, mèo…
    Đối với các con vật khác, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu vì chúng ta phải đi từ từ cho đến khi nào không còn do ý trong việc sát sinh hại vật nữa.

    2- Giới thứ hai không được trộm cướp

    Trộm cướp là lấy những vật của người khác khi họ không cho phép, không có sự ưng thuận của người có vật đó, hay cưỡng ép bức bách người ta ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành.
    Có nhiều hình thức trộm cướp như ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người ta là ăn cướp, ỷ quyền thế làm tiền kẻ yếu là ăn cướp như câu “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, bắt chẹt người ta lúc túng thiếu cho vay nặng lãi, cầm bán giá rẽ mạt là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy tiền của người là trộm cắp. Mua cân già bán cân non, đong đo thiếu, lậu thuế, mượn của người mà không trả lại cũng là trộm cắp. Tóm lại bất cứ dưới hình thức nào do lòng tham muốn lấy của người đều là trộm cướp, như Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Thấy của người thèm khô nước miếng
    Tính làm sao lường gạt lấy đi
    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì
    Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa

    Người giàu có mà còn lường gạt lấy của người, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo thì tội ác rất nặng nề không sao tránh khỏi luật nhân quả, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:
    Tội chập chùng đâu biết ở mô
    Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
    Đối với người nghèo nàn túng thiếu, cũng không nên trộm cắp “Đừng quen thói cũ làm càn. Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ” là lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Đồng thời Ngài cũng thuyết dạy:

    Nghèo thời cũng rán cháo rau
    Chớ đừng gian xảo ngày sau thanh nhàn
    Và:
    Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược
    Lo vun trồng cõi phước về sau

    Hãy rán nghe lời dạy của Ngài sau đây:

    Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau
    Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn

    Đức Phật cấm không được trộm cướp vì những lý do sau đây:
    - tôn trọng sự công bằng trong quyền sở hữu: mọi người cùng có chung một tâm lý là không muốn ai lấy những gì thuộc về mình thì tại sao mình muốn chiếm đoạt của người khác? Làm như thế là nghịch lý trái lẽ công bằng. Một cộng đồng mà thiếu sự công bằng thì không thể tồn tại; một đất nước mà có sự bất bình đẳng trong giai cấp thì không thể có đời sống an cư lạc nghiệp.
    - tôn trọng sự bình đẳng: con người có mặt trên thế gian nầy đã được tạo hóa ban cho một nhân phẩm giống nhau cũng như Đức Phật đã từng dạy, mọi người đều có Phật tánh như nhau, thì không có lý do gì ta lại làm khổ người khác để ta được sung sướng. Những ai còn chất chứa điều tà vọng trong tâm hãy suy nghĩ lại mà sửa tánh răn lòng theo lời khuyên hóa của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Lấy của người sắm ăn sắm mặc
    Chẳng kể công nước mắt mồ hôi
    Phá lương dân dạ luống bồi hồi
    Ngày làm lụng đêm lo canh giữ

    - vì lòng từ bi: một khi đánh mất một vật gì hay tiền bạc, ta cảm thấy buồn khổ, vậy người khác cũng vậy. Vì lòng từ bi và biết chia xẻ nỗi khó khăn đến với mọi người, chúng ta không nên chiếm hữu của người khác bằng nhiều lý do khác nhau.
    - Tránh nghiệp quả: lấy tài vật của người khác là một hành động xấu; trong xã hội có tổ chức tôn trọng lẽ công bằng, thì trộm cướp bao giờ cũng bị trừng trị. Kẻ trộm cướp sống chui rút trong bóng tối “Trốn pháp luật tập tành đủ thứ. Nào đào tường khoét vách khuân đồ”. Khi bị sa lưới pháp luật phải bị trừng phạt. Phận mình đã chịu cực hình, rồi gia đình buồn rầu xấu hổ và mất hết hy vọng ở tương lai.
    - Kẻ trộm cướp dù có thoát lọt được luật pháp thế gian chì cũng không thoát khỏi luật nhơn quả nghiệp báo như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:

    Tội chập chồng đâu biết ở mô
    Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi
    Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi
    Vào thâm tâm những kẻ gian phi
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì
    Của phi nghĩa làm chi xong chuyện
    Luật nhân quả thật là cao viễn
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay
    Cứ bền chí có ngày thong thả.

    Cướp của người rồi cũng bị người cướp lại gây thù oán khổ đau. Đức Phật dạy trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Người tham luyến sắc tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một chút mật dính trên lưỡi dao thè lưỡi liếm, phải bị một cái họa đứt lưỡi”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dùng lời đại ý qua mấy câu răn bảo kẻ tham lam sớm tỉnh ngộ để khỏi mắc sai lầm rồi tự gieo mình vào đường tội lỗi, ăn năn kẻo muộn:

    Của thế trần như mật dính dao
    Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào
    Chừng đứt lưỡi mới là hối hận

    Vua Trần Nhân Tông có bài kệ cảnh tỉnh nhân sinh như sau:
    Tạc bích Xuyên tường ý bất hư
    Thiên ban bất kế, khổ vinh cầu
    Kim sanh cầu đắc tha nhơn vật
    Bất giác chung thiên thọ mã ngưu.
    Dịch nghĩa:
    Khoét vách xoi tường chí những đâu
    Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu
    Của người dầu có đời nay được
    Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết pháp về đạo tặc: Câu “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ nầy ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.
    Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi nầy rồi đến cái lỗi khác, phạm tội nầy rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dù không bị hình luật của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi đen tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì làm điều phi nghĩa”.

    Lợi ích của sự không trộm cướp:

    Người không giant ham thì đời sống an nhiên tự tại, đi đến đâu cũng được người khác tin cậy và được ủy thác trọng trách. Người không gian tham thì đời sau cũng hưởng được phước báu sang giàu, an vui, con cháu nhiều đời cũng hưởng được ân đức của ông bà cha mẹ, sống đời vinh hiển.
    Trong xã hội không có người giant ham thì nhà không cần gài cửa, của rơi không mất, toàn dân an cư lạc nghiệp sống đời thái bình thạnh trị. Thật sung sướng thay!
    Người ta khổ vì không có tiền của, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:
    Nghèo thì lo một nỗi nợ nần
    Lo đau đói liệu cơn nhà rách
    Buồn duyên số phận mình nhơ sạch
    Rầu gia đình chúng bạn khinh cười

    Người giàu có cũng đâu có gì sung sướng, Ngài nói:

    Giàu thì lo chen lấn với người
    Miễn cho được đầy rương đầy tủ
    Của dương thế góp tom bảo thủ
    Sợ gian phi trộm cướp rình mò
    Lo tước quyền cho được thơm tho
    Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.

    Thế nên Ngài cũng thống trách cho người trần thế:

    Ôi! Cả sang hèn chẳng ai thông thả
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say
    Chẳng tu thân đặng dựa Phật đài
    Cho thong thả hưởng mùi sen báu.

    Chúng ta là những người tin theo đạo Phật mà còn gian tham để làm gì? Chi cho bằng nghe lời khuyên của Đức Tôn Sư, sớm lo toan tìm về nơi an dưỡng thì thật là an ủi tâm hồn:

    Tham chi giã tạm của tiền
    Như chim vào lưới xích xiềng trói thân
    Trả xong món nợ lần khan
    Thoát vòng cương tỏa pháp thân nhẹ nhàng
    Tiêu diêu đạo đức luận bàn
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao!

    Câu “Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ” cũng là lời dạy của nho gia về đạo làm người.

    3- Giới thứ ba không được tà dâm.

    Tà dâm là nói sự dâm dục phi lễ phi phép, không đoan chánh. Khởi tâm dâm dục với vợ (hay chồng) người khác, lén lút chung chạ với người khác gọi là tà.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết pháp về tà dâm: “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.
    Lần sở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình cho đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ của Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế? Giàu ỷ của hiếp dân kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng bức đám dân hèn. Gian phu dâm phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
    Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết”.

    Vì những lý do sau đây, Phật cấm tà dâm:

    -bảo vệ hạnh phúc gia đình: không có gì đau khổ cho bằng khi mà một gia dình có người chồng hay người vợ có dạ riêng tư, tà vạy. Một khi lâm vào cảnh ấy, sự nghiệp tan tành, danh giá hoen ố, xóm làng chê bai, con cái xấu hổ bê tha, gia tộc không đoái hoài đến. Thế là hạnh phúc gia đình tan biến. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” là câu nói với ý nghĩa nói lên được tính chung thủy của hai vợ chồng. Nếu một trong hai người có tà dâm thì gia đình hay xào xáo thường cải vả vì nỗi ghen tương, có khi còn đánh đập gây ra án mạng. sự bất ổn đó đưa đến cảnh “ông ăn chả bà ăn nem”, người chồng có dã tâm dòm ngó người đàn bà khác, thì người vợ cũng trả thù bằng cách vạch rào sang nhà người. Chính hai vợ chồng nầy là kẻ phá gia cang của người khác mà hậu quả đầu tiên là gia dình họ tan rã trước.

    Đức Phật chế định ra giới cấm tà dâm với mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình và ngăn ngừa sự đổ vở gia đình mình và gia đình người khác.
    -tôn trọng sự công bằng: ai cũng muốn có một gia đình đầm ấm hạnh phúc, vợ con đoan chính thì không có lý do gì người nầy lại đi phá gia cang của người kia đưa vợ con hay chồng con họ vào đường dâm loạn.
    -tránh oán thù và quả báo xấu: trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bọ nạn cháy tay”. Người có tâm mê sắc dục, không sớm thì chầy cũng bị hại như tan nhà mất nước, thân bị hại bởi mũi súng ngọn gươm. Những hậu quả đen tối của đắm mê sắc dục ta thấy trong sử sách cũng như những thông tin hàng ngày xưa nay chỉ rõ.
    Trong oán thù, không có sự oán thù mảnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối về tình ái gây ra. Trong giáo lý của Đức Huỳnh Giáo chủ, Ngài đã chỉ dạy chúng ta về tai hại của ác tà dâm:

    Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần
    Làm đảo huyền tất cả quốc dân
    Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn
    Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng
    Từ xưa nay Trời đất đâu dung
    Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng
    Quan lấn thế dâm-ô dân khó.

    Lợi ích của sự không tà dâm

    Giữ giới cấm tà dâm sẽ có những lợi ích như sau:
    -về phương diện cá nhân: Kinh Thập Thiện nói: “Người thế gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau:
    *Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn.
    *Trọn đời được người kính trọng.
    *Không có phiền lụy quấy nhiễu.
    *Gia đình hạnh phúc trọn đời, không ai dám xâm phạm”.

    -về phương diện xã hội: trong xã hội mà không có người tà hạnh thì mọi gia đình đều được an vui hạnh phúc, không có sự thù hằn giữa vợ chồng nầy với vợ chồng khác, con cái không bị bỏ rơi bởi cha mẹ chúng tham dâm và xã hội sẽ trở nên cường thịnh.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy mọi người chớ chất chứa điều tà hạnh làm thương luân bại lý. Hãy cùng nhau biến đổi cõi Ta Bà đầy đau khổ, thù hằn nầy thành thế giới thanh tịnh, an vui. Ngài dạy:

    Trai liều lĩnh điều nầy nên bỏ
    Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn
    Gái lẵng lơ tiếng huyễn lời đờn
    Hoa có chủ đèo bồng tình mới
    Cất tiếng gọi nữ nam ơi hởi
    Bỏ những điều điếm nhục tông môn
    Đấng nam nhi học lấy điều khôn
    Lòng trung hiếu gìn câu đạo lý
    Hàng phụ nữ gương xưa nối chí
    Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền
    Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên
    Cho đẹp mặt Tổ tiên nòi giống
    Thờ Phật Đạo tỉnh cơn ác mộng
    Thoát mê đồ thường phóng quang minh
    Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh.

    4- Giới thứ tư không được nói dối.

    Con người có được tiếng nói trước hết là nhờ cái lưỡi; nói điều độc ác hay điều thiện lành cũng đều do cái lưỡi mà ra. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ cho chúng ta thấy:

    Xưa đức Thánh luận bàn cái lưỡi
    Ngài nói rằng các việc tại mầy
    Thuận với hòa hay ghét với rầy
    Cũng cái lưỡi làm thầy các việc

    Có bốn cách nói dối hay nói say sự thật:
    a/- Nói dối hay nói láo: là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải, điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe, trước mặt thì khen, sau lưng thì chê mạt, sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm. Nó gây những tác hại, thường làm cho người ta hiểu lầm, gây chia rẽ.

    b/- Nói thêu dệt: việc ít mà xít ra nhiều, là nguyên nhân gây ra sự ghen ghét, phiền não, thù hận. Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa, giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Kheo khoan tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị”. Và “Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều; ghét người thì kiếm chuyện dệt thêu;Thương viện lẽ thấp cao bào chữa; Đời bất công mấy ai xem sửa; Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tùng”.
    c/- Nói lưỡi hai chiều: đến bên nầy thì nói hùa theo nói xấu bên kia, qua bên kia thì ngược lại, tạo thêm sự oán thù, hiểu lầm giữa hai bên, ngăn cách sự hòa hợp. “Với người nầy dùng lời tha thiết, Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”, và Ngài nói tiếp “Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng thiệt nầy đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cải vã, gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn kết, tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm khích”.
    d/- Nói lời hung ác: nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi mắng người khác làm cho người ta buồn rầu, xấu hổ, sợ hải… Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ bày hành động và thái độ nơi ác khẩu như sau:
    Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng
    Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng xăng
    Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu
    Hăm đánh giết những người hèn yếu
    Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng
    Trong gia đình chửa rủa liên miên
    Hết Dương thế kêu sang Thần Thánh
    Chẳng kiêng nễ Phật Trời thượng cảnh
    Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày
    Đời ám u tội trạng thảm thay.

    Vì sao Đức Phật chế ra giới không nói sai sự thật:

    1- Tôn trọng sự thật: Đức Phật đã tìm ra chân lý tức là đã tìm ra sự thật cho nên Đạo Phật luôn luôn tôn trọng sự thật. Người tu Phật nói sai sự thật sẽ bị trở ngại đường đạo; con đường đi tìm sự giác ngộ, sự thật.
    2- Vì lòng từ bi: Đạo Phật là đạo Từ Bi, nếu ta nói sai sự thật sẽ làm cho người khác đau khổ, trái với giáo lý nhà Phật. Một khi lòng từ bi không còn nữa, thì sự tu hành còn là giả dối, lừa bịp người và tất nhiên không bao giờ có kết quả tốt.
    3- Xây dựng trung tín: Từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại vì “nhơn vô tín bất lập” và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:
    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ
    Nói với ai chớ có sai lời.
    4- Tránh nghiệp báo xấu: “Họa tùng khẩu xuất”, người nói lời độc ác, hậu quả sẽ gây ra tai họa cho chính mình. Đức Phật dạy: “Phù sỉ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm do kỳ ác ngôn”, phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ trảm chém mình là do lời nói ác. Lời nói xấu ác dùng để hại người rồi thì thế nào người cũng hại lại mình “ác lai ác báo” là thế. Để tránh nghiệp dữ, ta không nên dối trá, điêu ngoa và Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công
    Mà ăn ở nói năng chơn chất.

    Lợi ích của không nói sai sự thật: Nếu ta không nói sai sự thật, mọi người sẽ tin tưởng ta, dành cho ta sự kính phục từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội; sẽ được những người chung quanh, đoàn thể tin cậy và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy:
    Nói với ai cũng phải lựa điều
    Đừng tráo chác cho người khinh dễ

    Nói dối là một tai họa cho mình và cho xã hội. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp nên nói dối. Nói sai sự thật vì lòng từ bi để cứu mạng chúng sanh, chẳng hạn như người đi săn hỏi ta có thấy thú ở đâu không; ta trả lời là không, bằng như ta nói có, họ sẽ lùng giết hại. Vậy ta nói sai sự thật trong trường hợp nầy thì không phạm tội.
    Lưỡi là một bộ phận của con người dùng để nếm các thức ăn và để nói chuyện. Lời nói là nguồn cội của sự chân thật hay điêu ngoa xảo trá. Cho nên mọi việc hư nên, tốt xấu gì đều do nơi lời nói mà ra cả. Một vài mẫu chuyện về cái lưỡi (lời nói):
    *Lời nói của người Phương Đông:
    -Vua nước Tần đi chơi thuyền. Các quan đi hầu đông đủ cả.
    Vua hỏi: “Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con là Loan Phường trốn chạy ra nước ngoài. Có ai biết Loan Phường bây giờ ở đâu không?”.
    Các quan im lặng, không ai nói gì cả.
    Người lái thuyền tên là Thanh Quyên buông tay chèo đứng dậy thưa rằng: “Nhà vua hỏi Loan Phường làm gì?”.
    Vua nói: “Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù cho nên ta mới hỏi”.
    Thanh quyên nói: “Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân thì dù có con nhà họ Loan mà làm gì được nhà vua. Nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan; ngoài mất lòng dân, thì ngay những người ngồi trong thuyền nầy ai cũng là con nhà họ Loan cả.
    Vua khen: “Người nói phải lắm”.
    Rồi sáng hôm sau, cho đòi Thanh Quyên đến, ban cho một vạn mẫu ruộng.
    Thanh quyên chối từ không nhận.
    Vua nói: “Lấy một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà ngươi còn thiệt mà quả nhân còn lợi nhiều, nhà ngươi cứ lấy.
    Ấy người đời xưa quý lời nói phải như thế đấy.

    - Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập Bì rằng: “Ngươi nghe người ta quả nhân là thế nào?”
    Thập Bì thưa: “Thần nghe người ta cho nhà vua là nhân từ và hay gia ơn lắm”
    Vua vui mừng hớn hở nói rằng: “Như thế thì cái công đức của quả nhân được đến thế nào?”
    Thập Bì nói: “Cái công đức ấy rồi đến mất nước!”
    Vua ngạc nhiên hỏi: “Nhân từ và hay gia ơn là làm việc thiện, mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào?”
    Thập Bì thưa: “Vua mà nhân từ, thì ái ngại việc trừng phạt; vua hay gia ơn, thì chỉ thích ban thưởng. Tính đã ái ngại thì kẻ có tội cũng không trị; tính hay ban ơn thì kẻ không có công lao cũng được thưởng. Đến kẻ có tội cũng không phạt, kẻ không có công lao cũng được thưởng thì mất nước cũng không có gì lạ”.
    Cho nên phàm ở đời, nên cứ cầm cân giữ mực thăng bằng phải chăng có lý lại có tình, có ân lại có uy thế mới là đạo trung dung được.

    *Lời nói của người Phương Tây:
    Tích truyện kể, Erope, một triết gia ở Hy Lạp, sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Lúc ông còn làm nô lệ, một hôm chủ bảo ông ra chợ mua thức ăn nào ngon nhất. Ông bèn mua toàn lưỡi heo, đem về làm các thức ăn, chủ lấy làm lạ hỏi lý do. Ông đáp: “Lưỡi là cái chìa khóa của tất cả các lý lẽ. Nhờ nó mà con người được địa vị cao sang, nhiều kẻ khác kính nể”.
    Ít hôm sau, người chủ muốn thử ý, bèn sai ông đi mua món nào xấu, dở nhất về nấu ăn, ông cũng mua toàn lưỡi heo. Người chủ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao nay cũng mua lưỡi heo nữa?”.
    Ông đáp: “Nếu nói về cái quý thí không gì quý hơn lưỡi, nhưng tìm cái xấu thì cũng không gì xấu hơn nó. Chính cái lưỡi đã khiến con người ưa tranh biện, gây chia rẽ, vu cáo, nói những lời bất nghĩa, bất nhân”. Tài hùng biện của Erope khiến người chủ phải chịu thua.

    5- Giới thứ năm không được uống rượu.

    Trước khi đi vào giới cấm uống rượu của Đức Phật, có câu chuyện đưa đến nguyên do có điều luật cấm uống rượu. Một bửa nọ Tỳ Kheo Sagata trổ công lực thâu nhiếp con mãng xà hung độc. Dân chúng vây quanh reo hò phấn khởi. Họ mang rượu thiết đãi, bày tỏ lòng cảm phục và tán thưởng vị Tỳ kheo tài giỏi. Vị ấy uống say mèm và nằm lăng ở cổng thành. Người ta khiêng vị ấy đến gặp Đức Gotama. Khi nằm xuống trước Đức Gotama, vị ấy quay chân xỉa vô Đức Gotama. Thường ngày trong tỉnh táo, Sagata không bao giờ tỏ thái độ vô lễ như thế. Nhân đó, Đức Gotama hỏi chư Tỳ Kheo:
    “Có phải trước kia, vị Tỳ Kheo nầy từng cư xử đáng chê trách như vị ấy đã làm hôm nay?”.
    Chư Tỳ Kheo trả lời: “Thưa, vị ấy không như vậy”.
    “Đó là kết quả của rượu”.
    Rồi Đức Gotama giải thích cho mọi người nghe rằng bất cứ ai uống rượu sẽ đều có thể tạo ra hành vi cư xử đáng chê trách như Sagata, tự hạ nhân cách mình và kẻ khác.
    Chính do nguyên nhân nầy mà điều luật cấm Tỳ Kheo uống rượu được ban hành hiệu lực. Rượu dù lên men hay chưng cất đều dẫn đến say sưa làm tan đi hạt giống trí tuệ và làm hư hại hệ thần kinh. Hàng tại gia cư sĩ được khuyên không nên uống rượu hay đem rượu đãi đằng khách khứa.
    “Y thị nên bỏ thói quen ẩm tửu, Khi biết tửu nhập biến con người thành kẻ điên loạn, hàng tại gia cư sĩ chọn nếp sống đạo hạnh không nên chuốc rượu mời người cũng như không thuận nhận rượu người mời”.
    “Quả thật kẻ ngu uống rượu thường làm những điều càn quấy, bị người trêu chọc. Y thị nên bỏ thú vui của những kẻ ngu, tránh điều càn quấy, rồ dại, bị ảo giác dối lừa”.
    Đức Gotama lưu ý một số nhà tu hành, uống rượu say sưa làm mất hết nhuệ khí, lờ đờ. Từ đó họ quen dần với mùi rượu rồi trở nên nghiện ngập khó kiêng cử. Ngài cũng khuyên cư sĩ tại gia thuận hành lời giảng dạy của Ngài: “Khi biết chất say dẫn đến điên loạn, y không nên dễ dãi cho phép mình uống rượu. Bởi lẽ rượu vào, kẻ ngu phạm lỗi lầm, lại còn lôi kéo kẻ khác nghiện ngập say xỉn. Y phải tránh vi phạm lỗi lầm, không nên để mình mắc vào trạng thái điên loạn, tốn kém vô ích, vui thú ngớ ngẩn”.
     
  10. Thuma

    Thuma Member

    CHƯƠNG VIII
    ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

    Một hôm Đức Phật ở giữa dân chúng Koliya, có một số người đến Bạch Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là những người tại gia thọ hưởng đầy đủ các dục lạc, xin Đức Thế Tôn thuyết pháp cho những người như chúng con. Ngày thuyết như thế nào mà pháp ấy sẽ đem lại cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cũng đem lại hạnh phúc an lạc cho tương lai”.
    Đức Phật dạy rằng: Nầy các gia chủ chỉ có 5 điều đem lại hạnh phúc ngay trong hiện tại là:
    1- Điều thứ nhứt phải đầy đủ sự tháo vát. Phàm làm một nghề gì để sinh sống như làm ruộng, buôn bán, dạy học hay công nhân viên nhà nước v.v…thì phải chuyên cần, nghiên cứu tìm hiểu sâu trong lãnh vực nghề nghiệp của mình đang theo đuổi cho được tinh xảo để có thể dạy cho người khác làm.
    2- Điều thứ hai phải có sự phòng hộ. Bằng sức lực, bằng mồ hôi để thu nhập của cải một cách đúng pháp thì phải cố gắng giữ gìn phòng hộ của cải đó đừng để cho vua quan tịch thu trộm cướp lấy đi, bị lửa thiêu hủy, bị nước cuốn trôi, phải giáo dục con cái thừa tự, tránh hoang đàng hư hỏng tẩu tán đi.
    3- Điều thứ ba phải bảo vệ tài sản mình kiếm được. Thường là người con kế thừa của giòng họ trao truyền và giữ gìn tài sản của mình trong khi mình đang sống hay khi mình qua đời. Muốn tài sản được có người giữ gìn tốt, tất nhiên bổn phận làm cha mẹ phải giáo dục con cái mình lúc tuổi còn nhỏ. Giáo dục con cái bằng đủ cách như cho tiền con cái đúng phép, dạy dỗ nó bằng lẽ phải, chớ đừng để chúng nó đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm.
    4- Điều thứ tư phải gần gủi với người hiền thiện. Đầu trên xóm dưới có người hiền thiện, những người có lòng tin chánh đáng, có sự bố thí rộng rãi, có đức hạnh, thì ta nên gần gủi họ để học hỏi điều hay lẽ phải về đạo đức, luân thường đạo nghĩa mà sống theo.
    5- Điều thứ năm là phải sống thăng bằng điều hòa. Mỗi ngày ta nên tính xem làm được bao nhiêu tiền, chi ra bao nhiêu còn lại bao nhiêu. Nếu thu nhập ít oi mà chi ra hoang phí vô bổ thì đến một ngày nào đó sẽ bại lụn, chỉ làm cái bia cho thiên hạ chê cười là người chẳng biết phòng xa.
    Trái lại nếu thu nhập khá cao lại bỏn xẻn, keo kiệt, hà tiện không dám tiêu, không dám làm việc phải, chỉ là kẻ chết đói trên đống của cải mà thôi.
    Ngoài ra còn có bốn điều làm cho tài sản tiêu tán:
    - Đam mê cờ bạc, làm cho tài sản ra đi một cách êm ái.
    - Đam mê rượu chè, là cách đẩy tài sản ra khỏi nhà.
    - Đam mê sắc dục, là không muốn giữ gìn tài sản trong gia đình nữa.
    - Giao du với bạn xấu ác, đây là cách mời giặc về nhà để mang tài sản ra đi. Khi giao du với bạn ác mà mình không biết, cũng như trong gia đình chơi với bạn ác mà mình không biết để ngăn ngừa. Như thế là mở cửa cho tài sản ra đi.
    Bốn điều trên là những điều thông thường nhưng hết sức thâm thúy, những điều thông thường xảy ra hàng ngày nên không ai nghĩ tới, nhưng nó hết sức tai hại ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta nếu chúng ta không ý thức nhận ra nó. Nó có thể làm cho thân bại danh liệt, tán gia bại sản, gia đình đổ nát. Ngược lại nếu không đam mê cờ bạc, không đam mê sắc dục, không giao du bạn ác, không đam mê rượu chè thì của cải làm được sẽ bảo trì một cách vững vàng không bị mất mát.
    Đức Phật dạy những điều nói trên là những điều đem lại hạnh phúc an vui trong hiện tại. Nếu chúng ta thực hành những điều dạy đó, chắc chắn sẽ có được an vui hạnh phúc ngay.
    Đức Phật cũng nói pháp về hạnh phúc ở tương lai, nếu ta chịu áp dụng bất thối chuyển thì sẽ có nhiều lợi lạc.
    -Thứ nhứt là đầy dử lòng tin. Sống trong đời, con người có những ước muốn. Nghèo khổ mong muốn cho được giàu có, tiền của càng nhiều càng muốn sống lâu để tận hưởng, muốn có lòng từ bi nhưng lại chưa phát tâm bồ đề, muốn có trí tuệ sáng suốt nhưng còn mãi si mê, muốn được giải thoát nhưng chưa chịu buông xả. Những điều ao ước đó là con đường dẫn ta hướng đi lên cảnh giới rộng rãi an nhiên tự tại. Nếu muốn được như thế, điều cần nhứt là phải có lòng tin và lòng tin phải đặt đúng chỗ gọi là chánh tín. Như muốn học giỏi người học trò phải tin vào lời giảng dạy của ông thầy. Muốn mau lành bịnh phải tin vào đơn thuốc của ông thầy thuốc thì uống vào mới khỏi bịnh được. Cũng vậy muốn có lòng từ bi thì phải tin vào đấng từ bi viên mãn của Đức Phật là đấng sáng suốt và trí tuệ giác ngộ. Giờ chúng ta vô minh mà muốn được giác ngộ thì phải tin vào Đấng Giác ngộ thì mới giác ngộ được. Chúng ta muốn tự tại giải thoát thì phải tin vào Đấng Tự tại giải thoát thì mới giải thoát được. Đấng Tự tại giải thoát đó chính là Đức Phật.
    Tin vào Đức Phật một cách đúng đắn, tin vào lời dạy một cách đúng đắn, tin vào Tăng xuất gia tu hành theo Đạo Phật một cách đúng đắn. Đó là ba niềm tin quý báu đúng đắn của người tu hành tại gia là những người đang mong mỏi bước lên con đường giác ngộ giải thoát và từ bi của Đức Phật.
    Giác ngộ là đặc tính của Đạo Phật; thế nên người tu Phật khi hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận mới đem áp dụng thực hành, nếu còn lờ mờ mà tu tập là việc làm nông nỗi không đúng tinh thần Phật dạy. Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy:

    Ta yêu chúng viết ra Giảng Kệ,
    Khuyên tăng đồ cùng các tín đồ.
    Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,
    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.

    Giáo lý của Đức Phật là tự do và bình đẳng tuyệt đối vì theo Ngài con người có giải thoát được hay không, không phải ai khác mà chính sự trực nhận chân lý, chứ không phải một huyền năng bên ngoài ban thưởng cho sự vâng lời đó. Đức Phật xác định: “Các ngươi nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi”. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy Đạo, Ngài cũng chỉ cho chúng sanh biết: “Nay rừng bụi có người mở ngõ. Thì nương theo dấu thỏ đàn dê”.
    Trong việc tu thân xử kỷ, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng ‘Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự của con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy.
    Ta hãy đem đức tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành động theo y lời phán dạy của Phật.
    Nếu ta cứ đem đức tin thờ phượng tôn giáo bằng cách sai lầm thì rất có hại cho đời mạng ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê tín (mặc dầu đạo của ta thờ là một đạo rất chánh đáng).
    Vậy đồng thời với đức tin và Lòng Lành phải dể cho nó đi cặp luôn”.
    Lòng tin đã được tư duy, kiểm chứng dụa trên chánh kiến, suy xét tường tận mọi phương diện bởi chính mình, không từ người khác nói lại, không bằng sách vở, không bởi tục lệ. Cũng không vì ông cha đã theo làm như thế, mà vì thấy đúng hoàn toàn rồi mới tin; đó là lòng tin đúng đắn, dù ai có nói ngược xuôi cũng không lay chuyển.
    Thời Đức Phật còn tại thế, hầu hết các đệ tử của Đức Phật đều tin Ngài một cách tuyệt đối, tuy nhiên trong kinh sách cũng có nêu một trường hợp có một đệ tử của Đức phật không có lòng tin vững chắc, câu chuyện trích phỏng theo bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển một, trang 126 như sau:
    Bấy giờ trước đại chúng đông đảo Tỳ Kheo (Tăng) tại thành La duyệt vườn Ca Lan Đà, Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
    “Các Thầy có thấy pháp (suy nghĩ, nói năng, việc làm) của Đề Bà Đạt Đa (em con người chú của Đức Phật) là thanh tịnh chăng? Ngược lại Đề Bà Đạt Đa tọa ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Ta chẳng thấy Đề Bà Đạt Đa có một tí điều lành có thể kể ra được. Ví như có người rơi xuống cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm không còn chỗ nào sạch, người khác muốn cứu vớt lên, đứng ngó xem thấy người đó không còn có một chỗ nào sạch liền bỏ đi, nầy các Tỳ Kheo, tại sao như thế? Ví Đề Bà Đạt Đa một mực ngu si, tham đắm lợi dưỡng (đồ ăn, vật dụng v.v. của Thái tử A Xà Thế), tạo tội ngũ nghịch (tội ngũ nghịch gồm có: giết cha mẹ, muốn hại Phật, phá rối Tăng đoàn, giết Tăng Ni, có ta kiến như không tin nhân quả v.v…). Khi chết sẽ đọa địa ngục chịu tội nhiều kiếp (mỗi kiếp khoảng 16 triệu năm), nầy các Tỳ Kheo, đã sinh tâm ưa lợi dưỡng hãy lìa bỏ, nếu chưa sinh tâm dính mắc lợi dưỡng đừng cho sinh khởi”.
    Khi nghe Đức Phật nói như thế, một Tỳ Kheo đi đến gặp Tôn giả A Nan là Thị giả của Đức Phật, sau khi chào hỏi rồi nói:
    “Thưa Tôn giả, hôm nay trước đại chúng, Thế Tôn nói đã xem hết nguồn gốc của Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa, rồi sau đó thọ ký cho ông ta phải chịu tội nhiều kiếp vì không thể chửa trị đươc, lại có thể thọ ký việc nầy được ư?”
    Tôn giả A Nan trả lời: “Những lời nói của Thế Tôn không thể hư dối được”.
    Sau khi Tỳ Kheo ấy rời khỏi, Tôn giả A Nan đến chỗ Đức Phật, vái lạy rồi thưa:
    “Có một Tỳ Kheo đến chỗ con nói rằng: “Hôm nay trước đại chúng Thế Tôn nói đã xem hết nguồn gốc tạo tội cảu Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa, rồi sau đó thọ ký cho ông ta phải chịu tội nhiều kiếp vì không thể chữa trị được, lại có thể thọ ký việc nầy ư?”.

    Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Thầy đi bảo Tỳ Kheo ấy là Ta gọi”, Tỳ Khèo đó tu học chưa được bao lâu, lời Như Lai trọn không hư vô, tại sao lại nghi ngờ?
    Chẳng bao lâu, Tỳ Kheo ấy đến trước Đức Phật vái lạy xong Đức Phật bảo:
    “Nầy Tỳ Kheo, Thầy không tin lời Như Lai nói sao, Như Lai tuyệt đối không hư dối, nay Tỳ Kheo lại muốn tìm hư vọng của Như Lai sao?”.
    Tỳ Kheo ấy thưa: “Tỳ Kheo Đề Bà Đạt Đa có đại thần lực, có đại oai đức, làm sao Thế Tôn thọ ký cho ông ta chịu tội nặng nhiều kiếp được?”.
    Đức Phật bảo: “Hãy giữ miệng của Thầy chớ để mãi mãi chịu khổ vô lượng”, rồi Đức Phật nói kệ trách cứ:

    Đạo Thiền thế tục không,
    Rút cục không giải thoát,
    Chẳng đến chỗ diệt tận,
    Trở lại đọa Địa ngục.


    Đức Phật nói tiếp:
    “Giả thử Ta thấy Đề Bà Đạt Đa có một chút pháp lành, Ta đã không thọ ký phải chịu tội nhiều kiếp, thế nên, nầy Tỳ Kheo si mê, sở dĩ như thế vì Đề Bà Đạt Đa ngu si tham đắm lợi dưỡng lại còn tạo điều nghịch ác, nầy các Tỳ Kheo, hãy học điều nầy”.
    Khi ấy, Tỳ Kheo ấy vái lạy Đức Phật rồi thưa: “Con tự hối lỗi, cúi mong Thế Tôn rủ lòng tha thứ, vì con u mê, tạo hạnh chẳng lành. Thế Tôn không nói thêm bớt mà con khởi nghi ngờ, cúi mong Thế Tôn nhận cho con sám hối, con sẽ không tái phạm nữa”.
    Đức Phật bảo: “Lành thay, Thầy biết hối lỗi về ý niệm sai của mình, Ta tha cho Thầy, chớ nên nghi ngờ đối với Như Lai. Nay ta nhận cho Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại nữa, rồi Đức Phật nói kệ chứng cho sự sám hối:

    Dù có làm tội nặng
    Hối lỗi rồi không phạm
    Người ấy giữ cấm giới
    Nhổ căn nguyên tội nầy.


    Trên đây, chúng ta thấy vị Tỳ Kheo kia không có lòng tin vững chắc đối bậc Đại Giác, Đại Sư của mình, nên đã tỏ ra nghi ngờ. Sau khi được Đức Phật giảng giải xác quyết đã làm tan mây si mê, nên Tỳ Kheo ấy đã hối lỗi và cầu xin Đức Phật nhận cho sự sám hối, và Đức Phật đã chấp thuận. Chúng ta được biết có trường hợp tượng tự, Tỳ Kheo tên Cù Ba Ly, vì vào phe với Đề Bà Đạt Đa mà đến tố cáo hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên làm việc ác. Đức Phật giải thích rằng hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không làm việc ác, nhưng Tỳ Kheo Cù Ba Ly không tin lời Ngài, do đó Đức Phật thọ ký Cù Ba Ly sẽ chịu quả báo về lời nói ác và sau một thời gian Tỳ Kheo nầy bị bệnh mụn nhọt đau đớn qua đời và bị đọa Địa ngục.
    Về vấn đề tin lời Phật nói, có lần Tôn giả Mục Kiền Liên trông thấy một người cao to như cái nhà lầu, khi đến thưa với Đức Phật, Ngài xác nhận là đúng, Ngài đã không nói vì sợ mọi người không tin, rồi Đức Phật nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”; tại sao không tin lời Phật sẽ khổ? Vì những điều Đức Phật nói ra đều là sự thật giúp chúng ta đi đến chân hạnh phúc, thí dụ: cư sĩ tại gia muốn kiếp sau được tái sanh làm người giàu sang sung sướng khỏe mạnh sống thọ phải thực hành năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nếu những ai tin lời Phật mà thực hành đầy đủ thì kiếp sau sẽ có kết quả, còn những ai không tin lời Ngài nói tức không thực hành mà còn phạm một vài điều trên, thì chắc chắn người ấy kiếp sau sẽ vào cảnh khổ vậy.
    Một trường hợp khác về lòng tin những lời bàn tán, tin đồn, lúc ấy người nghe nếu không có lòng tin vững chắc, sẽ gây sự nghi ngờ vô cùng tai hại; còn nếu có sự tin tưởng tuyệt đối rồi, dù có đồn đại thế nào, có người nói ra nói vào thế nào đi nữa cũng không làm thay đổi được lòng tin của mình. Một câu chuyện liên quan tới lòng tin vững chắc mà chúng ta nên biết cũng trong quyển một bộ Tăng Nhất A hàm, trang 154 như sau:
    Thời bấy giờ tại nước Xá Vệ, có một trưởng giả kia có một đứa con, ông rất thương yêu, nhưng đứa con lại bị chết bất ngờ, ông rất sầu khổ đâm ra phát cuồng đi lang thang khắp nơi, gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”.
    Một hôm ông đi lang thang lần tới đạo tràng Kỳ Hoàn có Đức Phật đang ngự tại đó, gặp Phật, ông ta cũng hỏi: “Sa Môn! Có thấy con tôi không?”. Đức Phật bảo: “Vì sao ông không vui?” Mặt mũi bơ phờ tâm trí rối loạn như thế. Trưởng giả trả lời: “Tôi như vầy vì con tôi chết, nó bỏ tôi, tôi nhớ nó, tôi buồn khổ, nay tôi hỏi Sa Môn có thấy con tôi không?”
    Đức Phật trả lời: “Đúng vậy, sinh già bệnh chết là thường ở đời, ái ân biệt ly khổ, đứa con vì vô thường và bỏ ông, há không nhớ nghỉ được sao?”. Ông ta nghe Đức Phật nói thế, không bằng lòng bèn bỏ đi.
    Đi đường gặp người ông liền nói: “Sa Môn Cù Đàm nói rằng: “Ái ân biệt ly liền có khoái lạc”, như vậy có đúng không?”. Người kia đáp: “Ái ân biệt ly mà vui cái gì?”
    Rồi Trưởng giả ấy đi lần đến thành Xá Vệ, gần chỗ đánh bạc, lại nghĩ rằng: “Các người đánh bạc đều thông minh, không việc gì chẳng biết, ta nên đến hỏi họ”, ông bèn đến vào chỗ ấy, trong khi mọi người đang tụ họp đông đảo đánh bạc, ông bèn cất tiếng to hỏi: “Sa Môn Cù Đàm bảo tôi rằng: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét gặp gỡ khổ, đây là khoái lạc, các ông nghĩ sao?” Mọi người đều nói: “Ân ái biệt ly, oán ghét gặp gỡ, có gì mà vui, có gì mà khoái lạc? Không đúng. Ông ta lại nghĩ: “Sao lìa ân ái lại có vui ư? Không đúng, không đúng”.
    Rồi ông đi vào thành Xá Vệ, đứng ở chỗ cửa thành hoàng cung la to lên rằng: “Sa Môn Cù Đàm bảo rằng: “Ân ai biệt ly, oán ghét hội họp là khoái lạc”. Bấy giờ, trong thành từ người nầy truyền qua người khác cho tới trong cung; ngay lúc đó, đại vương Ba Tư Nặc và phu nhân Mạt lợi đang ở trên lầu các, được tùy tùng bẩm lại sự việc như thế, Vua bảo Phu Nhân: “Sa Môn Cù Đàm thật có nói: “Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp đều là khoái lạc chăng?”, Phu Nhân nghĩ sao?”. Phu Nhân trả lời: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy lời nầy, nhưng nếu Ngài có dạy như thế cũng chẳng có gì là lời hư dối”. Vua bảo: “Ví như thầy dạy để tử” làm điều nầy, bỏ điều kia”, đệ tử đáp: “Xin vâng, đại sư”. Nay bà cũng thế, Sa Môn Cù Đàm nói lời như thế mà Bà vẫn đồng ý nói rằng “không có hư dối”, vậy Bà hãy đi mau, đừng ở trước mặt ta nữa”.
    Sau khi ấy, bà la môn Trúc Bác đến Kỳ Hoàn chỗ Đức Phật ngự, sau khi vái lạy, ông bạch lên Đức Phật những điều Phu Nhân Mạt lợi đã dặn bảo rằng: “Thưa Đức Thế Tôn, phu nhân Mạt Lợi cúi lạy Đức Thế Tôn và kính chúc Thế Tôn luôn mạnh khỏe, giáo hóa người mê muội không mệt mõi. Phu Nhơn trình lên Thế Tôn một việc mà người trong cung thành bàn luận điều Thế Tôn đã nói rằng: “Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp đều là khoái lạc”. Chẳng hay Thế Tôn có dạy như thế không? Xin Thế Tôn chỉ dạy để con về thưa lại với Phu Nhơn”.
    Đức Phật bảo bà la môn Trác Bác: “Trong thành Xá vệ có một trưởng giả bị chết mất một đứa con mà ông ta rất thương yêu, vì thế, ông ta đâm ra điên cuồng loạn trí, đi lang thang khắp nơi gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”. Vậy thì ông nên biết: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội tụ khổ, đều không có hoan lạc cả”.
    Ngày xưa trong thành có người mất mẹ già, có người mất cha già, có người mất anh chị em, hết thảy đều và thường, họ thấy sự vô thường nầy sinh ra cuồng loạn, chẳng biết phương hướng; cũng trong thành Xá Vệ, ngày xưa một Trưởng giả gả chồng cho con gái, hai vợ chồng con gái rất thương yêu hòa thuận, rủi người chồng làm ăn sa sút nghèo khó, ông bà Trưởng giả bàn luận định bắt con gái gả cho người khác, người chồng biết được việc ấy, nên nói với vợ “cả hai cùng chết”, rồi dùng dao bén đâm vợ và tự đâm vào bụng mình mà chết. Nầy Bà La Môn, xét vậy mà biết ân ái biệt ly, oán ghét hội tụ khổ, đây đều là buồn khổ chẳng thể nói hết được.
    Bà la môn Trúc Bát thưa: “Đúng vậy, Thế Tôn! Có các thứ khổ não nầy thật chẳng vui, Sa Môn Cù Đàm nói thật đúng như thế, con xin cảm tạ Thế Tôn, và xin kiếu từ”.
    Bà la môn liền đứng dậy vái chào, đi quanh Phật ba vòng, rồi đi đến chỗ Phu Nhơn Mạt Lợi, tâu trình đầy đủ những lời Đức Phật đã nói.
    Phu nhân liền đến chỗ vua Ba Tư Nặc thưa:
    “Thiếp có chỗ muốn hỏi, mong Đại Vương nghe rồi xin trả lời từng việc một, xin hỏi: “Đại vương có thương yêu vương tử Lưu Ly, vương tử Y La chăng?”
    Vua đáp: “Ta rất thương yêu các Vương Tử”.
    Phu Nhân hỏi: “Nếu các vương tử bị chết đi, Đại Vương có sầu khổ không?”
    Vua trả lời: “Đúng vậy, Ta sẽ rất buồn khổ”.
    Phu Nhân nói: “Như vậy ân ái biệt ly đều gây buồn khổ”.
    Phu Nhân lại hỏi: “Đại vương có nhớ phu nhân Tát La Đà dòng Sát Lợi không?”
    Vua đáp: “Rất nhớ”
    Phu Nhân lại hỏi: “Giả sử phu nhân Tát La Đà có sự biến đổi, Đại vương có lo không?”
    Vua trả lời: “Ta rất sầu lo”.
    Phu Nhân nói: “Hãy lấy thí dụ nầy mà biết ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội họp khổ, đều là buồn lo chẳng thể vui được”.
    Rồi Phu Nhân lại hỏi tiếp: “Đại vương có yêu quý nhân dân Ca Thi Câu Tát La không, giả thử trong nhân dân có biến đổi, Đại vương có lo buồn không?”
    Vua nói: “Ta rất yêu thương tất cả nhân dân, nếu có biến đổi thì mạng ta cũng chẳng còn, vì sao? Ta nhờ nhân dân mới được tồn tại, huống là chẳng lo buồn ư?”
    Phu nhân nói: “Lấy thí dụ mà biến ân ái biệt ly đều là lo buồn sầu khổ, không vui vẻ”.
    Bây giờ vua Ba Tư Nặc quỳ gối chắp tay hướng về phía đạo tràng Kỳ Hoàn mà nói: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ! Thế Tôn nói pháp nầy, không phải pháp trước đây người ta nói tin nhảm, nên đã có sự hiểu lầm đáng tiếc xảy ra!”.
    Bây giờ Đức Phật nghe (bằng Thiên nhĩ) phu nhân Mạt Lợi cùng vua Ba Tư Nặc bàn luận, liền bảo các Tỳ Kheo: “Phu Nhân Mạt Lợi rất thông minh, nếu Ta bàn luận, cũng lấy nghĩa như thế nói cho vua, giống như phu nhân đã nói không khác”.
    Xuyên qua câu chuyện, chúng ta thấy cùng là một sự việc nghe lời người đồn đãi, vua Ba Tư Nặc có ngay kết luận rằng lời Phật nói như thế là không phải, không thể chấp nhận được. Còn phu nhân Mạt Lợi lại khác, bà cho rằng nếu quả Đức Phật có nói như thế phải có lý do để nói, nên bà đã nói: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy lời ấy, nhưng nếu Ngài có dạy như thế cũng chẳng phải lời hư dối”, phu nhân đã đặt lòng tin tuyệt đối vào Đức Phật, vì sao? Vì từ bấy lâu bà đã học hỏi được rất nhiều lần Đức Phật thuyết pháp, bà đã học hỏi rất nhiều ở nơi Ngài, và không hề thấy một lời nói nào sai trái cả, nên bà đã có tín tâm kiên cố đối với Đức Phật, tức là lòng tin của bà đã có bằng chứng rõ ràng rồi, chứ không phải là lòng tin mù quáng không thể chứng minh khi bị vua chê bai, bà không phản ứng mà liền cử người đi gặp Đức Phật để hỏi cho rõ sự việc thực hư, khi đã biết chắc chắn sự việc rồi bà liền gặp vua, bà nói về nghĩa yêu thương chia ly khổ, oán ghét hội họp khổ không vui, để giải thích cho vua một cách khéo léo làm cho vua tỉnh ngộ, đó là việc làm của người trí tuệ vậy.
    (Các chuyện kể trích dẫn theo Toàn không).

    - Thứ hai là đầy đủ giới đức. Giới đức chính là những điều răn dạy, để kềm chế thân tâm của chúng ta. Thân đừng làm ác, tâm đừng nghĩ bậy. Những người có sơ cơ tu Phật tại gia như chúng ta, Đức Phật có 5 điều răn dạy gọi là giới luật để chúng ta cố gắng giữ gìn thì tự nhiên có đức hạnh. Năm điều căn bản của giới tại gia tạo nên đạo đức là: 1- không sát sanh, 2- không trộm cắp, 3- không tà hạnh trong cái dục, 4- không nói dối, 5- không uống rượu.

    - Thứ ba là đầy đủ sự bố thí. Có nhiều người quan niệm chỉ có mấy ông nhà giàu mới có đủ tiền của bố thí, chớ còn hạng chạy ăn từng bửa toát mồ hôi thì tiền của đâu mà bố thí.

    Thật ra bố thí là cách mở rộng lòng mình, chan hòa sự sống của mình cới người khác “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Khi biết thu vào thì phải biết cho ra. Cũng như hơi thở của chúng ta, khi hít vào thì cũng phải thở ra. Có cho ra rồi mới hít vào được. Nếu chúng tat ham hít vào chứa lại không cho ra thì chết ngay. Của cải của ta làm ra là để nuôi sống mà không khí cũng để nuôi sống. Không khí hít vào cũng chỉ vừa đủ nuôi sống mà thôi, nếu dư quá ngập tràn phổi cũng chết. Của cải cất giữ mãi mà không đưa ra, lâu ngày nó không mất cách nầy cũng mất cách khác.
    Mục tiêu tối hậu của Đạo Phật là đạt được sự giải thoát hoàn toàn, rốt ráo, triệt để. Muốn tới đích đó, người tu Phật phải tập buông bỏ dần những thói quen đã bị huân tập từ nhiều đời, cho rằng con người có một cái thân xác và cái đầu óc suy nghĩ miên man nầy.
    Kinh luận nào trong nhà Phật đều cũng có một mục tiêu thuyết phục người đời:
    Không làm điều xấu ác
    Siêng làm điều từ thiện
    Tự chấm dứt sự chạy nhảy liên miên của ý thức.
    Không làm điều ác, siêng làm điều lành là mục tiêu chung của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Duy chỉ có “tự tịnh kỳ ý”, tự chấm dứt sự chạy nhảy của ý thức còn gọi là “tâm viên ý mã” là cốt tủy của Đạo Phật. Đức Phật trực nhận rằng khi tâm ý ngưng bặt, không còn quay cuồng thì giác Tánh biểu lộ.
    “Tự tịnh kỳ ý” chính là để giải thoát kiếp người ra khỏi nhà tù tinh thần, vượt qua bức tường giam hãm họ trong vòng Tham Sân Si từ vô lượng kiếp, hội nhập lại Bản Thể Chân Thân.
    Tâm chúng sanh và tâm Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Nếu theo vọng niệm diên đảo thì ra sáu cõi phàm (Thiên, Nhơn, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh, Địa ngục). Sáu hạng chúng sanh ấy luân chuyển mãi, vui sướng ít, buồn rầu nhiều, chưa tỉnh ngộ, còn ham mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh. Nếu sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát thì sẽ đi vào bốn cõi thánh (Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật).
    Lẽ thường quan sát sẽ thấy thánh hay phàm đều do tâm uế trược hiện ra theo đường tội phước, thiện ác. Tâm thanh tịnh hiện lên bốn cõi Thánh tự tại quang minh, phước tướng dung mạo từ bi. Muốn biết ở cõi thánh hay phàm hãy nhìn lại tâm mình sẽ rõ.
    Người tu theo Đạo Phật phải hiểu lý nhơn quả thâm sâu. Sau khi gieo nhân, quả nào chín mùi thì tới trước. Đời nầy tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước, nên mình phải thọ lãnh. Còn nhân lành đời nầy gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu nhân quả thì sẽ không khởi tâm nghi. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sanh sinh tử triền miên, vì không biết chân tâm thường trụ, thể tánh tịnh sáng; so sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi”.
    Không muốn thọ bào trong sinh tử thì phải tịnh hóa vọng tưởng. Tịnh hóa vọng tưởng rồi thì luân hồi chấm dứt. Vì vậy tâm mê thì gọi là chúng sanh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sanh khác nhau ở chỗ mê và ngộ. Trong mỗi người ai cũng có cái tâm diệu minh. Phàm phu tuy có nhưng bị vô minh phiền não bao phủ giống như vàng còn nằm trong cát. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, giống như vàng đã được thanh lọc tinh khiết thành vàng ròng đại dụng vô cùng, nên được gọi là Thế Tôn, đấng giác ngộ viên mãn, vượt khỏi chướng ngại.
    Tu để đạt được sự giác ngộ trong kiếp sống là điều rất ít người thiệt hành được. Một phần vì ít có người đặt hết lòng tin mà quay lưng lại với cuộc đời, dấn bước lên đường. Một phần vì nghiệp chướng nặng nề, dù có những người cũng có quyết tâm tìm đường giải thoát, nhưng rồi lại bị những cái gọi là “thuận duyên đời, nghịch duyên đạo”, vị thị dục cám dỗ, đi lạc lối làm lỡ làng đường tu.
    Giáo lý nhà Phật qui ra thành năm bước đường tu tập hay là năm phương pháp đi đến giác ngộ, tùy theo căn cơ và trình độ của chúng sanh chọn phương pháp thích hợp để ứng dụng tu cho có kết quả. Con đường đến với Đạo Phật trước tiên là giác ngộ rồi sau mới tu tập. Nếu không hiểu mà tu là việc làm sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật phải sáng suốt chọn phương pháp tu; tin mà không hiểu là mù quáng, cho nên Đạo Phật từng dạy “đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin”. Sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người giác ngộ đến với Đạo Phật.

    1- NHÂN THỪA:
    Là bước đầu tiên, để chuyển hóa từ người xấu thành người tốt. Nhân thừa phải thọ Tam Quy và giữ gìn Năm Giới. Tam Quy Ngũ Giới là bờ bến của người đời, là diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam Quy là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Ngày nay đã tỉnh ngộ quy y cùng Phật pháp. Như vậy cửa trường sanh bất diệt của trò đã gặp nẽo, nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẽo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ quy y cho thấu đáo. Quy là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu.
    Vậy quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Phật tu theo cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nầy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chính đáng thì khá vâng lời. Cần nhất ở chỗ giữ giới luật hàng ngày”.
    Ngài cũng dạy:

    Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng,
    Tam quy ngũ giái lòng hằng gìn theo.

    Quy y Tam Bảo là bước đầu tiên của việc vào đạo, tin Phật. Phật giáo không bỏ bất cứ chúng sanh nào, do đó đối với việc quy y Tam Bảo cũng không có sự hạn lượng nhất định. Trong tục đạo trừ Địa ngục là nơi thọ khổ vô cùng vô tận không thể quy y Tam Bảo được. Các đường khác như Tiên, Người, Thần, Quỷ, Súc sanh chỉ cần phát tâm quy y, Phật giáo đều tiếp nhận cả. Cũng giống như học sinh đến tuổi đi học vào trường ghi danh đều được tiếp nhận không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, ngu đần hoặc thông minh.
    Vậy người trên thế gian nầy hãy quay về quy y với Tam Bảo bất kể là người đó đã tin theo Phật hay chuẩn bị để tin theo Phật hoặc người đứng ngoài cửa Phật dòm ngó quan sát; thử đến quy y Tam Bảo rồi họ sẽ thấy được lợi ích to lớn và sự tự do thật sự. Một khi đã quy y Tam Bảo rồi, trừ khi bị ma chướng che lấp chân tâm, nếu không thì chẳng bao giờ thối thất tâm mình với Tam Bảo.
    Tam bảo là gì? Tam Bảo là Phật Pháp Tăng có thể sinh ra vô lượng công đức và phát huy vô lượng diệu dụng. Thế gian gọi trân bảo châu báu giá trị bằng vàng bạc. Còn công đức và diệu dụng của Phật Pháp Tăng thì vượt ra ngoài thế gian và xuất thế gian cho nên càng quý hơn trân bảo nữa; vì sự hóa đạo của Tam Bảo có thể làm cho con người được bình an trong cuộc sống, có thể làm cho con người lìa khổ được vui, vậy Tam Bảo càng quý giá hơn trân bảo của thế gian nữa.
    Tam Quy là:
    - Quy y Phật: tức Phật bảo là chỉ người đã tu hành trí tuệ viên mãn thành Phật. Bởi vậy chư Phật quá khứ vị lai, hiện tại ba đời mười phương đều là đối tượng để chúng ta quy y tôn kính. Nhân vật lịch sử thế giới hiện nay, bậc được thành Phật chỉ có một Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo chủ cõi Ta Bà, nên bước đầu tiên ta phải quy y Phật.
    - Quy y Pháp: tức là Pháp bảo chỉ đạo lý và phương pháp tu hành. Phật bảo và Pháp bảo chúng ta đều biết là những điều do Thích Ca Mâu Ni nói ra vì thế được gọi là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp bảo được thấy hiện nay là ba tạng giáo điển kinh, luật, luận cùng với các chú giải, ngữ lục của các Tổ Sư, đó là chuẩn mực chỉ đạo chúng ta tu hành. Nay ta muốn quy y về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải quy y Pháp.
    - Quy y Tăng: tức là Tăng bảo là những người đang tu học Phật pháp và chỉ những người khác tu học Phật pháp đồng thời hộ trì chúng sanh tu học Phật pháp bao gồm Bồ Tát. La Hán cùng Tăng Ni phàm phu. Bồ Tát và La Hán là bậc Thánh Tăng chúng sanh không thấy được. Chỉ có phàm phu Tăng là người thuyết giảng kinh pháp cho đồ chúng lãnh hội để tu hành. Vì vậy ta quy y Tăng.
    Lợi ích của quy y Tam Bảo, như Kinh Ưu Bà Tắc nói: “Nếu người quy y Tam Bảo, thời trong tương lai sẽ được phước báu lớn không thể cùng tận, ví như có được của báu mà người trong nước vận chuyển trong bảy năm cũng không hết được, công đức của việc quy y Tam Bảo còn lớn hơn thế gấp ngàn vạn lần”.
    Kinh Triết Phù La Hán nói: “Xưa kia có một vị Thiên tử ở cung trời Đao Lợi khi phước trời đã hết, Thiên tử tự biết mình sẽ bị đầu thai loài heo; rất lấy làm lo sợ liền thỉnh cầu Thiên Vương cứu giúp. Thiên Vương không cứu được nên khuyên Thiên tử đến cầu cứu Đức Phật. Phật dạy Thiên tử quy y Tam Bảo, nên sau khi chết không đọa vào loài heo, mà còn được sanh làm người, gặp Xá Lợi Phất học đạo chứng đắc thành quả.
    Kinh Sát Cách Y Pháp Thiên tử thọ Tam Quy nói: “Xưa có một vị Thiên tử ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên, khi phước trời đã tận, còn bảy ngày nữa sẽ chết. Những sự hoan lạc, những thiên nữ đẹp không còn thân cận, những tướng mạo uy nghi đều đã thay đổi, mùi hôi bốc ra từ thân thể và Thiên tử cũng biết rằng sẽ bị đầu thai vào loài súc sanh. Thiên Vương biết được bèn dạy Thiên tử phát tâm quy y Tam Bảo, sau bảy ngày Thiên tử vãng sanh. Thiên Vương muốn biết Thiên tử sanh vào đâu, nhưng không thể quán chiếu thấy được, bèn đến hỏi Phật. Phật bèn dạy rằng: “Thiên tử nhờ công đức quy y Tam Bảo, đã được sanh lên cõi trời Đâu Suất”.
    Đức Phật cũng đã từng dạy, nếu quy y Tam Bảo thì được Tứ Đại thiên vương sai 36 vị thiện thần hộ trì; 36 vị thiện thần nầy còn có trăm ngàn vạn ức hà sa quyến thuộc cũng theo hộ trì người quy y Tam Bảo có thể cầu hiện thế bình an nhưng mục đích cuối cùng của việc quy y Tam Bảo vẫn là trở về và làm sống dậy tự tánh Tam Bảo trong mỗi người mới đúng là quy y Tam Bảo chân chánh vậy.
    Tam Quy không những là căn bản của các giới mà còn là căn bản quá trình tu tập hàng ngày, của tín đồ Phật giáo những lời kinh sớm tối đều có quy y.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo dạy tín đồ của Ngài công phu hai thời cúng lạy hàng ngày, Ngài thuyết:


    Xả thân tầm Đạo vô vi,
    Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày.
    Rồi Ngài dạy:
    Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.
    Và:
    Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được Tòa Chương dựa kế.

    Thiệt hành sự cúng lạy của người cư sĩ tại gia bằng hai bài nguyện: một trước bàn thờ Ông Bà, một trước bàn thờ Phật.
    Thiết nghĩ chúng tôi muốn trình ra đây để tất cả thiện tín am tường.
    Nghi thức trước bàn thờ ông bà:
    Người tín đồ cầm hương xá 3 xá quỳ xuống chắp tay đưa lên thán, nguyện:


    Cúi kính dâng hương trước Cửu Huyền,
    Cầu trên Thất tổ chứng lòng thiền.
    Nay con tỉnh ngộ quy y Phật,
    Chí dốc tu hành tạo phước duyên.

    Cắm hương rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:

    Cúi đầu lạy tạ tổ tông,
    Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc nhằn.
    Rày con xin giữ Đạo hằng,
    Tu cầu Tông tổ siêu thăng Phật đài.
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
    Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên.
    Mong nhờ Đức Cả bề trên,
    Độ con yên ổn vững bền cội tu.
    (lạy 4 lạy).

    Nghi thức trước bàn thờ Phật:
    Người tín đồ cầm hương xá 3 xá, quỳ xuống chắp tay đưa lên trán, đọc bài Quy y:


    Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (
    tam niệm)
    Nam Mô Thập Phương Phật
    Nam Mô Thập Phương Pháp
    Nam Mô Thập Phương Tăng
    Nam Mô Phật tổ Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo.


    Cắm hương lạy 4 lạy cũng được hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:


    Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi phổ độ chúng sanh A-Di-Đà Phật.
    Nam Mô nhứt nguyện cầu: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật Vương độ chúng, thế giới bình an.
    Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu huyền Thất tổ Tịnh độ siêu sanh.
    Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây phương.
    Nam Mô tứ nguyện cầu: Phật tổ, Phật Thầy từ bị xá tội đệ tử tiêu tai tịnh sự, trí huệ thông minh giai đắc đạo quả.

    Lạy 4 lạy rồi xá: 1 xá chính giữa niệm: Nam Mô A-Di-Đà Phật.
    1 xá bên trái niệm: Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
    1 xá bên mặt niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Nghi thức trước bàn thờ THÔNG THIÊN


    Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.
    Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Quy y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây phương ngủ nguyện (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).
    (Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).
    Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.

    NIỆM PHẬT

    Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngổi bán già thẳng lưng niệm: Nam Mô A-Di-Đà Phật.
    Hay niệm: Nam Mô Tây phương Cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A-Di-Đà Phật.

    (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).

    Nam Mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc.

    Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cúng lạy cầu nguyện qua hai thời công phu hàng ngày là căn bản là nguyên tắc. Ngoài hai thời lễ bái, người tín đồ có thể hành đạo qua nhiều thời không giới hạn. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:


    Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông,
    Với bá tánh vạn dân vô sự.

    Ngài cũng chỉ dạy:


    Quy y thì phải làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời.

    Quy y Tam Bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước đầu tiên theo Đức Phật dạy phải giữ gìn năm giới cấm. Do vậy mới có câu “Nếu không gìn năm giới thì đường sinh lên làm người trời cũng bị cắt đứt’.
    Giới là nền tảng quan trọng giúp tạo điều thiện, phế bỏ hạnh ác, là nguồi cội của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập thánh. Giới sinh Định, Định sinh Huệ. Nhờ giới Định Huệ mà thành Chánh Giác. Vì căn cơ và tâm tánh của chúng sanh không đồng, nên giới có từ cạn đến sâu, từ thô đến tế nhưng cứu cánh thì không khác.
    Năm Giới Cấm là: Cấm sát sanh, Cấm trộm cắp, Cấm tà dâm, Cấm dối trá và nói lời độc ác, Cấm uống rượu và những chất làm cho say sưa, mất lý trí. Năm giới cấm nầy là căn bản, bắt buộc người nhập môn tu Phật phải học và tuân giữ. Năm giới là cửa ngõ đưa đến thành tựu, cho nên phải học, phải hành, phải truyền bá. Người cư sĩ tại gia phải hành trì, vì năm giới nầy tạo nên vô lượng công đức. Cho nên người tu hành bước vào cửa Đạo phải quy y và thọ trì năm giới. Nền tảng nầy không thể thiếu được.
    Nếu chúng ta so sánh năm giới nầy với ngũ thường bên Nho giáo thì có những điểm tương đồng. Nghĩa là người nhân từ thì không giết hại. Người nghĩa khí thì không trộm cắp. Người có lễ nghĩa thì không tà dâm. Người trí thì không dùng chất say gây nghiện. Người tín thì không nói láo.
    Người tu theo Đạo Phật giữ tròn năm giới dù không muốn hoàn toàn cũng trở thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức, không cầu lễ nghĩa mà lễ nghĩa tự thành. Tâm trí trở nên sáng suốt. Có uy tín với mọi người và được trọng vọng, kính ái.

    1- Giới thứ nhứt không sát sanh.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.
    Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hiềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.
    Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết cha mẹ, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do kể trên. Đó là người đối với người.
    Người đối với thú cầm sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vò miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống; nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc, vì đứng vào bậc siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rũi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chữa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.
    Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loài vậy.
    Thế nên hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn”.
    Thầy Mạnh Tử nói: “Nghe tiếng vật kêu la chẳng nở ăn” đã thể hiện lòng từ bi của hàng Thánh Nhân. Hãy nhìn lại tự thân chúng ta là người tu theo Đạo Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu quả khổ vô biên về sau. Phật chế ra giới không sát sanh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Muốn hành Đạo Phật, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sanh. Giữ được giới nầy thì không còn bị luân hồi đền mạng. Nếu tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì chúng ta tự gây oán kết cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người chết thành dê. Dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo xoay dần, ác nghiệp dẫy đầy, chiêu quả xấu không có ngày dứt”. Giết người phải đền mạng, giết thú vật cũng phải đền mạng.
    Câu chuyện tiền thân của Đức Phật là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi dòng họ Thích Ca là dân làng chài và tiền thân của Đức Phật Thích Ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân làng chài bắt được con cá lớn sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Đức Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân của vua Lưu Ly. Khi sanh làm người, vua Tỳ Lưu Ly trả thù giết sạch dòng họ Thích Ca, còn Đức Phật cũng bị quả báo nhẹ là bị đau đầu. Chúng ta không thể không tin có quả báo, cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Luật Nhơn Quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
    Cho nên chúng ta phải:
    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.

    Đạo Phật dạy chúng ta từ bi với loài người mà từ bi với cả loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bằng tuệ giác của Phật, Ngài nhìn tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả người nam là cha, tất cả người nữ là mẹ. Chúng sanh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển từng làm cha mẹ, quyến thuộc của nhau. Vậy giết hại chúng sanh cũng như giết hại cha mẹ”.
    Người đời không hiểu, không tin nhơn quả mặc tình giết hại lẫn nhau ăn tươi nuốt sống. Chính vì vậy Đức Phật mới chế ra giới cấm giết. Sao ta lại nở giết hại chúng sanh trong quá khứ từng là cha mẹ mà trong tương lai cũng có khả năng thành Phật.
    Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi lộc mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát. Nghiệp sát nếu dừng thì kiếp hoại sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành động đúng đạo lý.
    Phải tin sâu nhơn quả, phải hiểu nhơn quả như bóng với hình. Nếu tin sâu nhơn quả, dù chưa sửa đổi nhưng lòng lành đã có. Nên mỗi khi hành động đều có suy nghĩ thì tự nhiên hướng về thiện.
    Đạo Phật nói chúng sanh là bao gồm loài hữu tình và loài vô tình. Động vật là loài chúng sanh hữu tình, thực vật là loài chúng sanh vô tình. Chúng sanh có thể chia ra làm ba cấp: loại cao cấp là loài người, có đủ ba điều kiện như có tế bào sống, có phản ứng thần kinh, có tư tưởng và có trí nhớ. Loại cấp thấp là thực vật chỉ có tế bào sống, không có thần kinh và trí nhớ, cũng có phản ứng về sống chết, không có cảm ứng vui sướng, đau khổ, không có tư tưởng và trí nhớ, nên gọi là vô tình. Loại cấp trung là động vật, có một trí nhớ nào đó, nhưng không có khả năng tư duy. Có loại động vật hạ đẳng chỉ có phản ứng theo bản năng, không có tư tưởng và trí nhớ nhưng chúng có thần kinh tức là cảm giác đau khổ, biết sợ chết, vì vậy loài sâu kiến đều có bản năng tự nhiên biết trốn tránh khi có nguy cơ tử vong. Thực vật thì không như thế. Định nghĩa sát sinh giới hạn là các loài động vật biết sống chết, không phải là thực vật.
    Trong nghề ruộng rẫy khó tránh khỏi làm tổn hại đến côn trùng, nhưng vì cuộc sống của chúng ta. Không phải chỉ có cày cấy mà ngay cả đi đứng hoặc làm các loại công việc khác, chúng ta cũng vô tình giết hại côn trùng. Vì vậy chỉ có thường xuyên niệm Phật A-Di-Đà, nguyện cho các loài chúng sanh vô trí sau khi chết được chuyển sinh thiện đạo hoặc siêu sinh tịnh độ thì coi như không phạm tội sát sinh. Lẽ đương nhiên nếu cẩn thận, giảm bớt những cơ hội làm sát thương loài côn trùng thì đó là biểu hiện của lòng từ bi. Bằng như tự biết mình gây ra sát sinh mà trong lòng không hối hận thì tức là không có lòng từ bi.
    Trong bất cứ gian đoạn tu hành nào, người cư sĩ tại gia vẫn phải tin sâu nhơn quả, tránh tạo nghiệp ác, không làm tổn hại và gây đau khổ cho chúng sanh.
    Đôi khi vì vô tình chúng ta không nhận định sâu xa nên gây nghiệp ác, làm đau đớn chúng sanh cũng có Phật tánh, cũng có thân nhân, gia đình cha mẹ, con cái, cũng biết yêu thương như mình.
    Đức Phật dạy trong giới răn thứ nhứt là “không sát sanh”. Nếu chúng ta có thể giảm thiểu những ham muốn, buông xả bớt những thói quen làm cho chúng ta chìm đắm trong tư tưởng bất công với muôn loài vạn vật. Hãy cứu giúp chúng sanh mà không sát hại là chúng ta mạnh tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.
    Krishnamurti nói về mối giao cảm với muôn loài: “Dường như chẳng bao giờ chúng ta có chút cảm xúc nào hướng về muôn loài trên trái đất. Nếu như chúng ta thiết lập được mối giao hảo sâu xa bền chắc với thiên nhiên thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ giết con vật để được ngon miệng, chẳng bao giờ làm tổn thương, mổ xẻ con khỉ, con chó, những con vật trong phòng thí nghiệm, đang khi nó còn sống, vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm những cách khác để điều trị vết thương, để cứu mạng chúng ta. Nhưng điều trị tâm hồn thì lại hoàn toàn khác. Sự phục hồi sẽ tới từ từ nếu chúng ta sống hài hòa với thiên nhiên, với trái cam trên cành cây, với nhánh cỏ nhú lên từ kẻ nứt xi măng, và với những ngọn đồi nằm ẩn dưới những tầng mây bao phủ.
    Đây không phải là nói theo tình cảm tầm phào hoặc tưởng tượng lãng mạng mà là chuyện thực tế của mối giao hảo với muôn loài đang sống, đang chuyển động trên trái đất. Người ta sẽ giết hàng triệu con cá voi và sẽ còn giết nữa. tất cả những gì chúng ta lấy được từ sự tàn sát chúng thì chúng ta cũng có thể có được bằng những cách khác. Nhưng rõ ràng là chúng ta thích giết mọi loài, như con nai phóng vút qua, con linh dương kỳ diệu và con voi to kềnh. Chúng ta thích giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử loài người trên trái đất, sự giết choc nầy chưa bao giờ ngưng. Nếu chúng ta có thể, và chúng ta phải thiết lập mối tương quan giao hảo bền chặt thâm sâu với thiên nhiên, với cây cỏ, lùm bụi, hoa trái, với đám mây bay trên trời, từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn giết người vì bất cứ lý do nào nữa”.
    Nếu ai mưu hại mình, mình chống trả mãnh liệt để bảo vệ sinh mạng. Mình biết quý trọng sinh mạng mình thì mình cũng đừng chà đạp sinh mạng của người khác. Suy rộng ra các loài vật cũng biết quý trọng mạng chúng. Như khi một con bò hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản kháng, sự đau thương cùng cực của chúng, bằng những tiếng kêu gào, những cái giẫy giụa thoát chết! Hãy tôn trọng sự công bình, điều ta không muốn ai làm cho ta, thì cũng đừng làm cho người khác hay loài khác. Đức Phật dạy: “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng sợ chết. Vậy hãy lấy lòng mình mà suy lòng người, ghớ giết, chớ bảo giết!”.
    Một hôm, Tôn giả Lặc Xoa Na sáng sớm đến mời Tôn giả Mục Kiền Liên vào thành Vương Xá cùng đi khất thực. Trong khi đi đường, Tôn giả Mục Kiền Liên miệng mỉm cười, Tôn giả Lặc Xoa Na trông thấy liền hỏi: “Mỗi khi Thế Tôn và các đại đệ tử của Ngài mỉm cười, thì thường có duyên cớ, vừa rồi tôi thấy thầy mỉm cười, vậy thầy mỉm cười là do nhân duyên gì?
    Tôn giả Mục Kiền Liên đáp: “Câu hỏi chưa đúng lúc, chờ khất thực xong trở về chỗ Thế Tôn, thầy hãy hỏi, tôi sẽ trả lời”.
    Hai Tôn giả vào thành khất thực, họ ăn xong, rồi cùng đến chỗ Phật, vái lễ, và ngồi vào chỗ, Tôn giả Lặc Xoa Na trước Phật nói: “Sáng nay con cùng Tôn giả Mục Kiền Liên ra khỏi núi Kỳ- Đà-Quật để đến thành Vương Xá khất thực. Đang đi đến chỗ nọ, Tôn giả lại mỉm cười vo duyên cớ nên con hỏi Tôn giả “Thầy mỉm cười là do nhân duyên gì?”. Khi đó Tôn giả bảo con: “Thầy hỏi chưa đúng lúc, chờ khất thực xong trở về chỗ Thế Tôn, thầy hãy hỏi, tôi sẽ trả lời”, bây giờ trước mặt Đức Thế Tôn con xin hỏi lại Tôn giả: “Vì nhân duyên gì lúc đó thầy lại mỉm cười?”
    Tôn giả Mục Kiền Liên đáp: “Giữa đường tôi thấy một chúng sanh, thân to như cái nhà lầu đi trê hư không khóc lóc, đau đớn, kêu gào, buồn khổ; tôi đã khởi nghĩ chúng sanh nầy mang cái thân to lớn như thế mà còn khóc than buồn khổ thì thật là kỳ lạ, nên tôi mỉm cười”.
    Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
    “Lành thay! Lành thay! Trong chúng Thanh văn của Ta, người có thực nhãn, thực trí, thực nghĩa, thực pháp, quyết định thông suốt, thấy chúng sanh nầy. Ta thấy chúng sanh nầy mà không muốn nói ra, e người hoang mang không tin, vì sao? Như Lai đã nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”.
    Rồi Ngài nói tiếp:
    “Thời quá khứ, chúng sanh to lớn kia làm người đồ tể giết trâu bò. Do tội giết trâu bò, nên sau khi chết đi, người ấy liền bị đọa vào Địa Ngục, và chịu cực hình hàng trăm nghìn năm; khi ra khỏi Địa Ngục, tội báo còn dư, nên phải chịu cái thân to lớn như thế, và phải thọ sự đau đớn buồn khổ như vậy”.
    Tôn giả Mục Kiền Liên nói: “Thưa Thế Tôn, có lần con thấy một chúng sanh cũng to lớn, và toàn thân không có da bao bọc; chúng sanh ấy đi trong hư không, và bị các loài chim, chó đuổi theo cắn xé để ăn, chúng sanh ấy vừa trốn chạy vừa kêu la rất là thảm thiết”.
    Đức Phật bảo:
    “Chúng sanh ấy, vào thời quá khứ đã làm nghề giết và lột da dê, do tội ấy nên trải qua hàng trăm nghìn năm chúng sanh ấy bị đọa vào Địa Ngục chịu vô lượng khổ. Hết ở Địa Ngục rồi sau lại phải mang cái thân ấy là do tội báo kia còn sót lại mà phải tiếp tục chịu khổ”.
    Tôn giả Mục Kiền Liên lại nói tiếp: “Thưa Thế Tôn, có một lần khác, con thấy một chúng sanh cũng to lớn, khắp mình có lông nhọn tua tủa như gươm đao; các lông ấy tự nhiên phát cháy đốt thân thể, nên chúng sanh ấy đau đớn vừa chạy vừa kêu la thảm thiết, thật là tội nghiệp”.
    Đức Phật bảo:
    “Chúng sanh ấy, thời quá khứ làm nghề đồ tể giết heo, do tội ấy nên trăm nghìn năm đọa Địa Ngục chịu vô lượng khổ; tội báo còn sót lại, nên người ấy phải mang cái thân như thế và tiếp tục chịu khổ”.
    Đức Phật nói tiếp:
    “Tội về giết hại chúng sanh thì vô kể, nói sao cho hết. Các tội khác cũng thế, nhiều vô kể, và bị quả báo vô cùng khổ, nói sao cho hết được!”.
    Sau đây là lời bàn của Toàn Không về “Người khổng lồ trong hư không”:
    Đức Phật nói: “Những kẻ không tin lời Như Lai là những kẻ ngu si, mãi mãi thọ khổ”; tại sao không tin lời Phật sẽ khổ? Vì những điều Đức Phật nói ra đều là sự thật, đều là những lời chỉ dẫn sâu xa giúp chúng sanh đi đến chân hạnh phúc; nếu những ai hiểu được tin được, thực hành theo lời Ngài dạy sẽ đạt được mục đích mong muốn và sẽ hết khổ. Còn những người không tin lời Ngài nên không thực hành theo mà còn làm ngược lại lời Ngài nói sẽ chịu khổ mãi mãi là lẽ dĩ nhiên. Thí dụ người tại gia cư sĩ hay những ai muốn kiếp sau được tái sinh làm người giàu sang sung sướng khỏe mạnh sống thọ phải thực hành năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nếu những ai tin lời Phật nói như thế mà thực hành đầy đủ thì kiếp sau sẽ có kết quả như ý muốn, còn những ai không tin lời Ngài nói tức không thực hành Năm Giới mà còn phạm năm điều trên thì chắc chắn rằng người ấy kiếp sau sẽ vào cảnh khổ không thể nào tránh khỏi.
    Trong suốt 49 năm, Đức Phật giảng dạy rất nhiều, cả một kho tàng quý giá, nhưng hỏi rằng trong nhân loại có bao nhiêu người biết đến Phật pháp; rồi trong số những người được biết và đọc Phật pháp có bao nhiêu người tin tưởng hoàn toàn các lời Ngài nói? Đức Phật đã nói những gì? Ngài nói rất nhiều, một vài điều tạm nêu ra đại loại như: Đời là vô thường, khổ không, vô ngã; xa lìa tham, sân, si, ái dục, làm lành tránh làm ác để có nghiệp tốt v.v… Nếu chúng ta tin lời Ngài nói và thực hành theo thì sẽ bớt khổ, tùy theo mức độ chúng ta làm được ít hay nhiều mà hưởng kết quả tương ứng.
    Về việc người khổng lồ trong không trung là như thế nào? Tại sao chúng ta không thấy? Sở dĩ Tôn giả Mục Kiền Liên thấy được người khổng lồ trong hư không là vì Ngài có thần thông, Ngài có Thiên Nhãn Thông nên thấy rõ ràng; vậy những người khổng lồ ấy ở đâu ra? Nếu chúng ta học Phật rồi phải hiểu rằng đây là cõi “Ngạ Quỷ”, thế giới Ma Quỷ, có vô số loại Ma Quỷ khác nhau.
    Cũng như cõi Súc Sanh, cõi Ngạ Quỷ có vô số loài Ma Quỷ to nhỏ khác nhau, có loại hiền lành nhưng cũng có loại hung dữ. Ma Quỷ sống quanh quẩn với loài người nhưng có thần thông biến hóa đi rất nhanh, nhìn và nghe rất xa, vô hình với mắt loài người. Ngạ Quỷ ăn bằng tiếp xúc (xúc thực), có dục và cũng có nói năng với nhau trong cùng loại v.v…
    Có những người vì một trường hợp đặc biệt nào đó, họ có thể tiếp xúc được với thế giới Ngạ Quỷ bằng nhìn thấy hình nghe tiếng nói và biết tin tức về việc nầy việc nọ v.v…, tại sao? Vì Ma Quỷ là vô hình, có thần thông, nên có thể biết và làm được một số việc; tuy nhiên, vấn đề nầy không giúp ích gì cho việc giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nên Đức Phật đã không cho đệ tử của Ngài đi vào lãnh vực nầy và Ngài thường ngăn cấm Phật tử làm nghề bùa ngải, đồng cốt, thờ ma xó v.v…
    Qua câu chuyện kể trên, chúng ta thấy rất rõ lời giáo hóa của Đức Huỳnh Giáo Chủ về nhân quả báo ứng thật là diệu lý:


    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.

    Bởi vô minh che mờ tâm trí, nên chúng sanh cứ vì miếng ngon thịt béo mà sát giết lẫn nhau, để rồi phải chịu sự luân chuyển lên xuống mà trả nợ nần, nên phải tiếp nối cái khổ triền miên theo bánh xe Lục Đạo. Đúng như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:


    Chuyển luân trong nhơn vật các loài,
    Căn mờ ám làm điều dại dột.

    Đạo Phật là Đạo Từ Bi, Bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng từng phán dạy, sinh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhơn loại vậy.
    Câu chuyện về vấn đề “Câu cá giải trí có tạo nghiệp không?” trích trong “Phật Giáo Truyền Thống Tây Tạng”, tác giả Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 như sau:
    “Nói về nghiệp sát sinh thì, nếu chúng ta giết, dù chỉ con vật nhỏ nhít nhất, cũng tạo nên một ác nghiệp. Một vài nền triết học hay trường phái tư tưởng cho rằng nếu ta giết một chúng sanh như con cá, thì đây không phải là một ác nghiệp, và sẽ không có quả báo xấu nào cả. Họ nghĩ rằng một con cá thì không có tâm, nghĩa là không cảm thọ đau khổ. Nhưng nếu suy xét một cách cẩn thận, ta có thể xác định con cá có tâm hay không.
    Không cần phải nghiên cứu Pháp mới biết được một con cá có tâm hay không, mà chỉ cần quan sát ta cũng có thể hiểu được điều nầy. Chúng ta nên xem xét làm thế nào những người chài lưới cố bắt cá. Những ông chài đặt thực phẩm lên đầu lưỡi câu và ném lưỡi câu xuống nước. Khi một con cá trông thấy thức ăn, nó phát sinh tham ái mạnh mẽ muốn ăn miếng mồi ấy… Như thế, khi con cá nghĩ mình trông thấy một vật ăn được, là nó phải có một cái tâm. Con cá phát sinh ước muốn và tiến lại gần miếng mồi phải có một cái tâm. Nếu cá không có tâm, thì nó sẽ không bao giờ đến gần miếng mồi đầu lưỡi câu, vì nó sẽ không bao giờ phát sinh ước muốn ăn miếng mồi ấy. Từ thí dụ nầy chúng ta có thể hiểu rằng quả thực cá cũng có tâm.
    Cũng tương tự, nếu ta xem xét cái gì xảy ra khi con cá bị bắt, ta có thể quan sát thấy nó có một cái tâm hay không. Khi con cá mắc câu bị lôi lên khỏi mặt nước, thân thể nó chảy máu, và nó dẫy dụa cùng khắp. Lúc đó con cá vô cùng đau khổ. Do quan sát những hành vi của con cá và nỗi thống khổ của nó, ta có thể hiểu rằng cá có một cái tâm. Bởi thế, nếu ta giết một con cá, ta vẫn phải chịu ác nghiệp về sát.
    Nếu ta giết bất cứ một hữu tình (sentient being) nào, nghĩa là một sinh vật có tâm thức (mind), thì ta sẽ gây ra một ác nghiệp. Thực không cần thiết phải chấp nhận một giáo lý Phật về vấn đề nầy; mà đúng hơn ta nên nhìn tận mắt để xem những hữu tình như sâu bọ và súc vật có kinh nghiệm qua đau khổ hay không.
    Nếu ta gây đau khổ cho bất cứ một chúng sanh nào, ta sẽ tạo một ác nghiệp. Bởi thế, dù một chúng sinh lớn hay nhỏ, ta đều tránh làm tổn thương hay giết nó”.
    Đây là câu chuyện cá có biết đau hay không?” trích theo “Applied Animal Behaviour Science & Discovery News” Tâm Linh chuyển ngữ như sau:
    “Khi bạn câu được con cá hay đánh bắt được một mẻ lưới cá, có bao giờ bạn tự hỏi “ liệu cá có biết đau đớn như cảm giác biết đau trong nhận thức của con người hay không?”. Câu trả lời là có, theo một nghiên cứu mới cho biết như vậy.
    Một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng cá khi bị móc phải lưỡi câu hay bị ném lên bờ thường đau đớn, dẫy dụa, vật vã trước khi chết là phản ứng có tính cách phản xạ mà chúng không thực sự cảm thấy đau trong nhận thức, như cái đau của con người. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm bằng cách tiêm thuốc morphine, một loại thuốc giảm đau cho một nhóm cá, và tiêm một loại thuốc giả (placebo) cho một nhóm cá khác. Sau đó họ cho cả hai nhóm chịu dưới sức nóng gay gắt đến mức độ đau đớn nhưng không gây nguy hại đến sự sống của chúng, để quan sát xem chúng có những cảm giác như thế nào.
    Kết quả là cả hai nhóm đều có những phản ứng giống nhau, chúng dẫy dụa, quằn quại, máu đỏ chảy ra miệng và namg. Tuy nhiên khi trả về môi trường tự nhiên, “nhóm cá được tiêm thuốc morphine hoạt động một cách bình thường, như không có chuyện gì xảy ra. Trong khi đó, nhóm cá được tiêm thuốc giả đã có những hành động cảnh giác phòng thủ, những hành động biểu lộ sự thận trọng, nỗi sợ hãi và lo lắng”, ông Joseph Garner, phó giáo sư đại học Purdue University đã cho biết như vậy.
    Một thí nghiệm cho thấy rằng cá không những chỉ có cảm giác đau đớn mà còn có sự thay đổi về cách ứng xử sau đó, ông Janicke Nordgreen, một sinh viên tiến sĩ của trường đại học thú y Norwegian School of Veterinary Science nhận định sau đó. Cùng với những gì chúng ta biết từ các thí nghiệm được thực hiện bởi các các nhóm khác, điều nầy kết luận rằng loài cá có nhận thức đau đớn, sợ hãi và lo lắng, đồng thời có ý thức chuyển đổi cách ứng xử sau đó, ông nói thêm.
    Một nghiên cứu khác cho thấy tôm hùm và cua ( lobsters and crabs) cũng có những cảm giác đau đớn tương tự. Garner và Nordgreen công bố kết quả của họ trong tạp chí khoa học Applied Animal Behaviour Science.
    Nghiên cứu mới nầy đặt ra nhiều vấn đề đạo đức xã hội, nhất là ở những quốc gia có nền văn hóa ẩm thực biển. Trong các nhà hàng sang trọng cũng như bình dân, thỉnh thoảng chúng ta thấy người ta bỏ cá, tôm hùm hay cua đang còn sống vào một chảo dầu thật nóng hay nồi nước đang sôi, đậy nắp nồi lại để mặc cho chúng vẫy vùng trước độ nóng chết người, và chúng ta biết số phận của những con cá hay tôm cua sẽ ra sao. Sau đó chúng được biến thành món ăn ngon cho một số người. Có thể nói ngay rằng đó là một nền ẩm thực không mấy văn minh của loài người. Trước đây họ dựa vào các nghiên cứu được tài trợ từ các hiệp hội của kỹ nghệ đánh bắt cá cho rằng cá tôm cua không có cảm giác đau đớn, như là một biện minh cho hành động của mình. Kết quả nghiên cứu mới nói trên là bằng chứng tích cực của sự vô nhân đạo của ngành câu cá giải trí và công nghiệp đánh bắt cá. Liệu chúng ta có còn thích đi câu, đánh bắt tôm cá hay ăn uống theo lối hành hình chúng trong dầu sôi lửa đỏ như vừa kể không?
    Xin cầu chúc mọi loài chúng sanh đều được an lành”.

    Dưới đây là câu chuyện “Nước mắt chú trâu hay là Một chú trâu đã thay đổi cuộc sống của những người xẻ thịt” trích từ “Tin Tức Thế Giới Hàng Tuần” (Weekly World News) của tờ báo “People’s News” (Tin Tức Nhân Dân) của Trung Quốc xảy ra ở Hongkong do Tâm Minh chuyển ngữ.
    Báo nầy tường thuật rằng có một nhóm nhân công dắt một con trâu vào trong một lò sát sinh để sửa soạn giết thịt làm bíp-tết và hầm ra-gu.
    Khi họ đi tới trước cửa lò thời con vật thình lình đứng khựng lại, không chịu tiến bước thêm nữa. Chú trâu quỳ xuống bằng hai chân trước và tuôn rơi nước mắt. Tại sao vào lò sát sinh mà một con trâu lại có thể hay biết rằng nó sắp bị xẻ thịt. Điều nầy tỏ ra nó có vẻ nhậy cảm hơn nhiều con người.
    Tay đồ tể Shiu Tat Nin kể lại chuyện đó một cách hoàn toàn xúc động: “Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”, anh chàng kể tiếp: “Tôi vội vàng gọi một người tới coi và tất cả đều ngạc nhiên như tôi. Chúng tôi cùng xúm vào để người thì đẩy và người thì lôi kéo chú trâu đi nhưng nó không chịu nhúc nhích, nó chỉ ngồi đó và tiếp tục khóc!”
    Chủ lò sát sinh Billy Fong nói: “Con người luôn nghĩ rằng những con vật nầy không giống người, đâu biết khóc, nhưng chú trâu nầy quả thật đã khóc như một đứa trẻ nít!”.
    Vào lúc đó có ít nhất cả chục con người khỏe khoắn và vạm vỡ hiện diện nhưng tất cả đều mủi lòng khi thấy chú trâu khóc. Riêng những đồ tể thường có nhiệm vụ hàng ngày phải giết trâu bò trong lò sát sinh thời xúc cảm hơn nữa, họ cũng nhỏ lệ.
    Khi các tay đồ tể từ các lò sát sinh khác nghe thấy tin nầy họ cũng kéo nhau chạy tới xem. Tất cả đám đông đều rất ngạc nhiên vì những chuyện xảy ra trước mắt họ. Ba người đồ tể trong nhóm đó quá xúc động đến nỗi họ tuyên bố rằng kể từ lúc nầy mỗi khi họ phải làm thịt các sinh vật khác họ cũng sẽ không thể quên hình ảnh nước mắt của chú trâu nầy.
    Kết thúc sẽ giải quyết như thế nào? Thấy cả trâu lẫn người đều nhỏ lệ chúng ta biết rằng chú trâu sẽ không bị xẻ thịt nữa. Quả thật vậy, một số người bỏ tiền mặt ra mua chú trâu đó rồi gởi chú vào một ngôi chùa Phật giáo để nơi đó quý Tăng sẽ chăm sóc nó chu đáo hơn và chú trâu có thể an lành sống đến tận cuối đời!
    Một chuyện kỳ lạ khác lại xảy ra. Sau khi có quyết định trên chú trâu linh cảm rằng sinh mạng chú được bảo đảm, chú tự đứng dậy và đi theo họ. Shiu Tat Nin ngạc nhiên nói: “Tại sao một con trâu lại hiểu được những lời nói của con người? Dù bạn có tin hay không nhưng chuyện lạ lùng nầy quả có thật”.
    Hiển nhiên chú trâu nầy đã làm lay chuyển cuộc sống của những nhân công làm việc trong lò sát sinh!
    Chúng ta là những người tut heo đạo Phật, nhận thức được con vật cũng có tâm linh, cũng có những niềm vui nỗi buồn như con người. Trong câu chuyện “Bài diễn văn hay nhất thiên niên kỷ”, cũng nói lên được những tình cảm buồn vui, đau khổ, yêu thương chân thật của loài vật. Câu chuyện như sau:
    “Bài diễn văn của luật sư George Graham Vest tại một phiên tòa xét xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Safire của báo The New York Times (Nữu Ước thời báo) bình chọn là hay nhứt trong tất cả các diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 1,000 năm qua.
    Thưa quý ngài hội thẩm,
    Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới nầy có thể một ngày nào đó hóa ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rời ra có thể là một lũ vô ơn.
    Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi những hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ nầy, người bạn không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta..
    Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vập vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn bạo nầy. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta tán gia bại sản, thân tàn danh liệt, thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy vẫn còn bên nắm mộ ta –con chó cao thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết rồi!”.

    Lợi ích của sự không sát hại.

    Không giết hại có những điều lợi sau đây:
    -Về phương diện cá nhân: người không sát nhân, hại vật, không làm đổ máu, không lóc da xẻ thịt, thì trong lòng không cắn rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng thơ thới, giấc ngủ an lành, gương mặt trong sáng lộ tính hiền hòa.
    -về phương diện xã hội: toàn thể chúng sanh trên thế giới giữ đúng giới thứ nhứt của Phật dạy, thì sẽ không còn chiến tranh, nghiệp quả luân hồi cũng được giải thoát. Và cũng như điều mong ước của Đức Huỳnh Giáo Chủ:



    Cầu cho đời sóng lặn gió êm
    Đặng bá tánh an nhàn tu niệm


    Tổ xưa cũng có bài kệ dạy:

    Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp
    Thập phương hà xứ động đao binh
    Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện
    Thiên hạ hà sầu bất thái bình

    Dịch nghĩa:
    Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết
    Mười phương nào có nỗi đao binh
    Mỗi nhà mỗi chốn đều tu thiện
    Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.


    Người cư sĩ tại gia vì còn phải làm công kia việc nọ, nên không sao tránh khỏi giới sát. Tuy nhiên chúng ta cần phải cẩn trọng giảm thiểu sát hại sinh vật càng tốt để giúp cho đường giải thoát chóng viên thành, nhất là đừng giết người và các con vật như trâu, bò, ngựa, dê, chó, mèo…
    Đối với các con vật khác, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu vì chúng ta phải đi từ từ cho đến khi nào không còn do ý trong việc sát sinh hại vật nữa.

    2- Giới thứ hai không được trộm cướp

    Trộm cướp là lấy những vật của người khác khi họ không cho phép, không có sự ưng thuận của người có vật đó, hay cưỡng ép bức bách người ta ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành.
    Có nhiều hình thức trộm cướp như ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người ta là ăn cướp, ỷ quyền thế làm tiền kẻ yếu là ăn cướp như câu “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, bắt chẹt người ta lúc túng thiếu cho vay nặng lãi, cầm bán giá rẽ mạt là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy tiền của người là trộm cắp. Mua cân già bán cân non, đong đo thiếu, lậu thuế, mượn của người mà không trả lại cũng là trộm cắp. Tóm lại bất cứ dưới hình thức nào do lòng tham muốn lấy của người đều là trộm cướp, như Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:


    Thấy của người thèm khô nước miếng,
    Tính làm sao lường gạt lấy đi.
    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
    Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.

    Người giàu có mà còn lường gạt lấy của người, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo thì tội ác rất nặng nề không sao tránh khỏi luật nhân quả, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Tội chập chùng đâu biết ở mô,
    Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.


    Đối với người nghèo nàn túng thiếu, cũng không nên trộm cắp “Đừng quen thói cũ làm càn. Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ” là lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Đồng thời Ngài cũng thuyết dạy:

    Nghèo thời cũng rán cháo rau,
    Chớ đừng gian xảo ngày sau thanh nhàn.

    Và:
    Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
    Lo vun trồng cõi phước về sau.


    Hãy rán nghe lời dạy của Ngài sau đây:

    Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
    Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn.


    Đức Phật cấm không được trộm cướp vì những lý do sau đây:
    - tôn trọng sự công bằng trong quyền sở hữu: mọi người cùng có chung một tâm lý là không muốn ai lấy những gì thuộc về mình thì tại sao mình muốn chiếm đoạt của người khác? Làm như thế là nghịch lý trái lẽ công bằng. Một cộng đồng mà thiếu sự công bằng thì không thể tồn tại; một đất nước mà có sự bất bình đẳng trong giai cấp thì không thể có đời sống an cư lạc nghiệp.
    - tôn trọng sự bình đẳng: con người có mặt trên thế gian nầy đã được tạo hóa ban cho một nhân phẩm giống nhau cũng như Đức Phật đã từng dạy, mọi người đều có Phật tánh như nhau, thì không có lý do gì ta lại làm khổ người khác để ta được sung sướng. Những ai còn chất chứa điều tà vọng trong tâm hãy suy nghĩ lại mà sửa tánh răn lòng theo lời khuyên hóa của Đức Huỳnh Giáo Chủ:


    Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
    Chẳng kể công nước mắt mồ hôi.
    Phá lương dân dạ luống bồi hồi,
    Ngày làm lụng đêm lo canh giữ.


    - Vì lòng từ bi: một khi đánh mất một vật gì hay tiền bạc, ta cảm thấy buồn khổ, vậy người khác cũng vậy. Vì lòng từ bi và biết chia xẻ nỗi khó khăn đến với mọi người, chúng ta không nên chiếm hữu của người khác bằng nhiều lý do khác nhau.
    - Tránh nghiệp quả: lấy tài vật của người khác là một hành động xấu; trong xã hội có tổ chức tôn trọng lẽ công bằng, thì trộm cướp bao giờ cũng bị trừng trị. Kẻ trộm cướp sống chui rút trong bóng tối “Trốn pháp luật tập tành đủ thứ. Nào đào tường khoét vách khuân đồ”. Khi bị sa lưới pháp luật phải bị trừng phạt. Phận mình đã chịu cực hình, rồi gia đình buồn rầu xấu hổ và mất hết hy vọng ở tương lai.
    - Kẻ trộm cướp dù có thoát lọt được luật pháp thế gian chì cũng không thoát khỏi luật nhơn quả nghiệp báo như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:

    Tội chập chồng đâu biết ở mô,
    Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
    Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi,
    Vào thâm tâm những kẻ gian phi.
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
    Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
    Luật nhân quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
    Cứ bền chí có ngày thong thả.


    Cướp của người rồi cũng bị người cướp lại gây thù oán khổ đau. Đức Phật dạy trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Người tham luyến sắc tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một chút mật dính trên lưỡi dao thè lưỡi liếm, phải bị một cái họa đứt lưỡi”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dùng lời đại ý qua mấy câu răn bảo kẻ tham lam sớm tỉnh ngộ để khỏi mắc sai lầm rồi tự gieo mình vào đường tội lỗi, ăn năn kẻo muộn:


    Của thế trần như mật dính dao,
    Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào.
    Chừng đứt lưỡi mới là hối hận!


    Vua Trần Nhân Tông có bài kệ cảnh tỉnh nhân sinh như sau:

    Tạc bích Xuyên tường ý bất hư
    Thiên ban bất kế, khổ vinh cầu
    Kim sanh cầu đắc tha nhơn vật
    Bất giác chung thiên thọ mã ngưu.
    Dịch nghĩa:
    Khoét vách xoi tường chí những đâu
    Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu
    Của người dầu có đời nay được
    Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu

    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết pháp về đạo tặc: Câu “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ nầy ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.
    Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi nầy rồi đến cái lỗi khác, phạm tội nầy rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dù không bị hình luật của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi đen tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì làm điều phi nghĩa”.

    Lợi ích của sự không trộm cướp:

    Người không giant ham thì đời sống an nhiên tự tại, đi đến đâu cũng được người khác tin cậy và được ủy thác trọng trách. Người không gian tham thì đời sau cũng hưởng được phước báu sang giàu, an vui, con cháu nhiều đời cũng hưởng được ân đức của ông bà cha mẹ, sống đời vinh hiển.
    Trong xã hội không có người giant ham thì nhà không cần gài cửa, của rơi không mất, toàn dân an cư lạc nghiệp sống đời thái bình thạnh trị. Thật sung sướng thay!
    Người ta khổ vì không có tiền của, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:


    Nghèo thì lo một nỗi nợ nần,
    Lo đau đói liệu cơn nhà rách.
    Buồn duyên số phận mình nhơ sạch,
    Rầu gia đình chúng bạn khinh cười.


    Người giàu có cũng đâu có gì sung sướng, Ngài nói:

    Giàu thì lo chen lấn với người,
    Miễn cho được đầy rương đầy tủ.
    Của dương thế góp tom bảo thủ,
    Sợ gian phi trộm cướp rình mò.
    Lo tước quyền cho được thơm tho,
    Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.


    Thế nên Ngài cũng thống trách cho người trần thế:

    Ôi! Cả sang hèn chẳng ai thông thả,
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.
    Chẳng tu thân đặng dựa Phật đài,
    Cho thong thả hưởng mùi sen báu.


    Chúng ta là những người tin theo đạo Phật mà còn gian tham để làm gì? Chi cho bằng nghe lời khuyên của Đức Tôn Sư, sớm lo toan tìm về nơi an dưỡng thì thật là an ủi tâm hồn:


    Tham chi giã tạm của tiền,
    Như chim vào lưới xích xiềng trói thân.
    Trả xong món nợ lần than,
    Thoát vòng cương tỏa pháp thân nhẹ nhàng.
    Tiêu diêu đạo đức luận bàn,
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao!


    Câu “Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ” cũng là lời dạy của nho gia về đạo làm người.


    3- Giới thứ ba không được tà dâm.

    Tà dâm là nói sự dâm dục phi lễ phi phép, không đoan chánh. Khởi tâm dâm dục với vợ (hay chồng) người khác, lén lút chung chạ với người khác gọi là tà.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết pháp về tà dâm: “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.
    Lần sở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình cho đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ của Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế? Giàu ỷ của hiếp dân kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng bức đám dân hèn. Gian phu dâm phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
    Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết”.

    Vì những lý do sau đây, Phật cấm tà dâm:

    - Bảo vệ hạnh phúc gia đình: không có gì đau khổ cho bằng khi mà một gia dình có người chồng hay người vợ có dạ riêng tư, tà vạy. Một khi lâm vào cảnh ấy, sự nghiệp tan tành, danh giá hoen ố, xóm làng chê bai, con cái xấu hổ bê tha, gia tộc không đoái hoài đến. Thế là hạnh phúc gia đình tan biến. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” là câu nói với ý nghĩa nói lên được tính chung thủy của hai vợ chồng. Nếu một trong hai người có tà dâm thì gia đình hay xào xáo thường cải vả vì nỗi ghen tương, có khi còn đánh đập gây ra án mạng. sự bất ổn đó đưa đến cảnh “ông ăn chả bà ăn nem”, người chồng có dã tâm dòm ngó người đàn bà khác, thì người vợ cũng trả thù bằng cách vạch rào sang nhà người. Chính hai vợ chồng nầy là kẻ phá gia cang của người khác mà hậu quả đầu tiên là gia dình họ tan rã trước.

    Đức Phật chế định ra giới cấm tà dâm với mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình và ngăn ngừa sự đổ vở gia đình mình và gia đình người khác.
    - Tôn trọng sự công bằng: ai cũng muốn có một gia đình đầm ấm hạnh phúc, vợ con đoan chính thì không có lý do gì người nầy lại đi phá gia cang của người kia đưa vợ con hay chồng con họ vào đường dâm loạn.
    - Tránh oán thù và quả báo xấu: trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bọ nạn cháy tay”. Người có tâm mê sắc dục, không sớm thì chầy cũng bị hại như tan nhà mất nước, thân bị hại bởi mũi súng ngọn gươm. Những hậu quả đen tối của đắm mê sắc dục ta thấy trong sử sách cũng như những thông tin hàng ngày xưa nay chỉ rõ.
    Trong oán thù, không có sự oán thù mảnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối về tình ái gây ra. Trong giáo lý của Đức Huỳnh Giáo chủ, Ngài đã chỉ dạy chúng ta về tai hại của ác tà dâm:


    Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần.
    Làm đảo huyền tất cả quốc dân,
    Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn.
    Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
    Từ xưa nay Trời đất đâu dung.
    Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
    Quan lấn thế dâm-ô dân khó.


    Lợi ích của sự không tà dâm.

    Giữ giới cấm tà dâm sẽ có những lợi ích như sau:
    - Về phương diện cá nhân: Kinh Thập Thiện nói: “Người thế gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau:
    *Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn.
    *Trọn đời được người kính trọng.
    *Không có phiền lụy quấy nhiễu.
    *Gia đình hạnh phúc trọn đời, không ai dám xâm phạm”.

    - Về phương diện xã hội: trong xã hội mà không có người tà hạnh thì mọi gia đình đều được an vui hạnh phúc, không có sự thù hằn giữa vợ chồng nầy với vợ chồng khác, con cái không bị bỏ rơi bởi cha mẹ chúng tham dâm và xã hội sẽ trở nên cường thịnh.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy mọi người chớ chất chứa điều tà hạnh làm thương luân bại lý. Hãy cùng nhau biến đổi cõi Ta Bà đầy đau khổ, thù hằn nầy thành thế giới thanh tịnh, an vui. Ngài dạy:

    Trai liều lĩnh điều nầy nên bỏ,
    Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
    Gái lẵng lơ tiếng huyễn lời đờn,
    Hoa có chủ đèo bồng tình mới.
    Cất tiếng gọi nữ nam ơi hởi,
    Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
    Đấng nam nhi học lấy điều khôn,
    Lòng trung hiếu gìn câu đạo lý.
    Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,
    Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
    Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
    Cho đẹp mặt Tổ tiên nòi giống.
    Thờ Phật Đạo tỉnh cơn ác mộng,
    Thoát mê đồ thường phóng quang minh.
    Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh.


    4- Giới thứ tư không được nói dối.

    Con người có được tiếng nói trước hết là nhờ cái lưỡi; nói điều độc ác hay điều thiện lành cũng đều do cái lưỡi mà ra. Cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ cho chúng ta thấy:


    Xưa đức Thánh luận bàn cái lưỡi,
    Ngài nói rằng các việc tại mầy.
    Thuận với hòa hay ghét với rầy,
    Cũng cái lưỡi làm thầy các việc.


    Có bốn cách nói dối hay nói say sự thật:

    a/- Nói dối hay nói láo:
    là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải, điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe, trước mặt thì khen, sau lưng thì chê mạt, sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm. Nó gây những tác hại, thường làm cho người ta hiểu lầm, gây chia rẽ.

    b/- Nói thêu dệt: việc ít mà xít ra nhiều, là nguyên nhân gây ra sự ghen ghét, phiền não, thù hận. Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết: “Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa, giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Kheo khoan tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị”. Và “Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều; ghét người thì kiếm chuyện dệt thêu;Thương viện lẽ thấp cao bào chữa; Đời bất công mấy ai xem sửa; Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tùng”.

    c/- Nói lưỡi hai chiều:
    đến bên nầy thì nói hùa theo nói xấu bên kia, qua bên kia thì ngược lại, tạo thêm sự oán thù, hiểu lầm giữa hai bên, ngăn cách sự hòa hợp. “Với người nầy dùng lời tha thiết, Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”, và Ngài nói tiếp “Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng thiệt nầy đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cải vã, gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn kết, tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm khích”.
    d/- Nói lời hung ác: nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi mắng người khác làm cho người ta buồn rầu, xấu hổ, sợ hải… Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ bày hành động và thái độ nơi ác khẩu như sau:


    Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng,
    Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng xăng.
    Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu,
    Hăm đánh giết những người hèn yếu.
    Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng,
    Trong gia đình chửa rủa liên miên.
    Hết Dương thế kêu sang Thần Thánh,
    Chẳng kiêng nễ Phật Trời thượng cảnh.
    Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày,
    Đời ám u tội trạng thảm thay.


     
  11. Thuma

    Thuma Member

    Vì sao Đức Phật chế ra giới không nói sai sự thật:

    1- Tôn trọng sự thật: Đức Phật đã tìm ra chân lý tức là đã tìm ra sự thật cho nên Đạo Phật luôn luôn tôn trọng sự thật. Người tu Phật nói sai sự thật sẽ bị trở ngại đường đạo; con đường đi tìm sự giác ngộ, sự thật.

    2- Vì lòng từ bi:
    Đạo Phật là đạo Từ Bi, nếu ta nói sai sự thật sẽ làm cho người khác đau khổ, trái với giáo lý nhà Phật. Một khi lòng từ bi không còn nữa, thì sự tu hành còn là giả dối, lừa bịp người và tất nhiên không bao giờ có kết quả tốt.

    3- Xây dựng trung tín:
    Từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại vì “nhơn vô tín bất lập” và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:
    Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ
    Nói với ai chớ có sai lời.

    4- Tránh nghiệp báo xấu
    : “Họa tùng khẩu xuất”, người nói lời độc ác, hậu quả sẽ gây ra tai họa cho chính mình. Đức Phật dạy: “Phù sỉ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm do kỳ ác ngôn”, phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ trảm chém mình là do lời nói ác. Lời nói xấu ác dùng để hại người rồi thì thế nào người cũng hại lại mình “ác lai ác báo” là thế. Để tránh nghiệp dữ, ta không nên dối trá, điêu ngoa và Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

    Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
    Mà ăn ở nói năng chơn chất.

    Lợi ích của không nói sai sự thật: Nếu ta không nói sai sự thật, mọi người sẽ tin tưởng ta, dành cho ta sự kính phục từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội; sẽ được những người chung quanh, đoàn thể tin cậy và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy:

    Nói với ai cũng phải lựa điều,
    Đừng tráo chác cho người khinh dễ.

    Nói dối là một tai họa cho mình và cho xã hội. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp nên nói dối. Nói sai sự thật vì lòng từ bi để cứu mạng chúng sanh, chẳng hạn như người đi săn hỏi ta có thấy thú ở đâu không; ta trả lời là không, bằng như ta nói có, họ sẽ lùng giết hại. Vậy ta nói sai sự thật trong trường hợp nầy thì không phạm tội.
    Lưỡi là một bộ phận của con người dùng để nếm các thức ăn và để nói chuyện. Lời nói là nguồn cội của sự chân thật hay điêu ngoa xảo trá. Cho nên mọi việc hư nên, tốt xấu gì đều do nơi lời nói mà ra cả. Một vài mẫu chuyện về cái lưỡi (lời nói):

    *Lời nói của người Phương Đông:

    -Vua nước Tần đi chơi thuyền. Các quan đi hầu đông đủ cả.
    Vua hỏi: “Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con là Loan Phường trốn chạy ra nước ngoài. Có ai biết Loan Phường bây giờ ở đâu không?”.
    Các quan im lặng, không ai nói gì cả.
    Người lái thuyền tên là Thanh Quyên buông tay chèo đứng dậy thưa rằng: “Nhà vua hỏi Loan Phường làm gì?”.
    Vua nói: “Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù cho nên ta mới hỏi”.
    Thanh quyên nói: “Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân thì dù có con nhà họ Loan mà làm gì được nhà vua. Nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan; ngoài mất lòng dân, thì ngay những người ngồi trong thuyền nầy ai cũng là con nhà họ Loan cả.
    Vua khen: “Người nói phải lắm”.
    Rồi sáng hôm sau, cho đòi Thanh Quyên đến, ban cho một vạn mẫu ruộng.
    Thanh quyên chối từ không nhận.
    Vua nói: “Lấy một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà ngươi còn thiệt mà quả nhân còn lợi nhiều, nhà ngươi cứ lấy.
    Ấy người đời xưa quý lời nói phải như thế đấy.

    - Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập Bì rằng: “Ngươi nghe người ta quả nhân là thế nào?”
    Thập Bì thưa: “Thần nghe người ta cho nhà vua là nhân từ và hay gia ơn lắm”
    Vua vui mừng hớn hở nói rằng: “Như thế thì cái công đức của quả nhân được đến thế nào?”
    Thập Bì nói: “Cái công đức ấy rồi đến mất nước!”
    Vua ngạc nhiên hỏi: “Nhân từ và hay gia ơn là làm việc thiện, mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào?”
    Thập Bì thưa: “Vua mà nhân từ, thì ái ngại việc trừng phạt; vua hay gia ơn, thì chỉ thích ban thưởng. Tính đã ái ngại thì kẻ có tội cũng không trị; tính hay ban ơn thì kẻ không có công lao cũng được thưởng. Đến kẻ có tội cũng không phạt, kẻ không có công lao cũng được thưởng thì mất nước cũng không có gì lạ”.
    Cho nên phàm ở đời, nên cứ cầm cân giữ mực thăng bằng phải chăng có lý lại có tình, có ân lại có uy thế mới là đạo trung dung được.

    *Lời nói của người Phương Tây:

    Tích truyện kể, Erope, một triết gia ở Hy Lạp, sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Lúc ông còn làm nô lệ, một hôm chủ bảo ông ra chợ mua thức ăn nào ngon nhất. Ông bèn mua toàn lưỡi heo, đem về làm các thức ăn, chủ lấy làm lạ hỏi lý do. Ông đáp: “Lưỡi là cái chìa khóa của tất cả các lý lẽ. Nhờ nó mà con người được địa vị cao sang, nhiều kẻ khác kính nể”.
    Ít hôm sau, người chủ muốn thử ý, bèn sai ông đi mua món nào xấu, dở nhất về nấu ăn, ông cũng mua toàn lưỡi heo. Người chủ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao nay cũng mua lưỡi heo nữa?”.
    Ông đáp: “Nếu nói về cái quý thí không gì quý hơn lưỡi, nhưng tìm cái xấu thì cũng không gì xấu hơn nó. Chính cái lưỡi đã khiến con người ưa tranh biện, gây chia rẽ, vu cáo, nói những lời bất nghĩa, bất nhân”. Tài hùng biện của Erope khiến người chủ phải chịu thua.

    5- Giới thứ năm không được uống rượu.
    Trước khi đi vào giới cấm uống rượu của Đức Phật, có câu chuyện đưa đến nguyên do có điều luật cấm uống rượu. Một bửa nọ Tỳ Kheo Sagata trổ công lực thâu nhiếp con mãng xà hung độc. Dân chúng vây quanh reo hò phấn khởi. Họ mang rượu thiết đãi, bày tỏ lòng cảm phục và tán thưởng vị Tỳ kheo tài giỏi. Vị ấy uống say mèm và nằm lăng ở cổng thành. Người ta khiêng vị ấy đến gặp Đức Gotama. Khi nằm xuống trước Đức Gotama, vị ấy quay chân xỉa vô Đức Gotama. Thường ngày trong tỉnh táo, Sagata không bao giờ tỏ thái độ vô lễ như thế. Nhân đó, Đức Gotama hỏi chư Tỳ Kheo:
    “Có phải trước kia, vị Tỳ Kheo nầy từng cư xử đáng chê trách như vị ấy đã làm hôm nay?”.
    Chư Tỳ Kheo trả lời: “Thưa, vị ấy không như vậy”.
    “Đó là kết quả của rượu”.
    Rồi Đức Gotama giải thích cho mọi người nghe rằng bất cứ ai uống rượu sẽ đều có thể tạo ra hành vi cư xử đáng chê trách như Sagata, tự hạ nhân cách mình và kẻ khác.
    Chính do nguyên nhân nầy mà điều luật cấm Tỳ Kheo uống rượu được ban hành hiệu lực. Rượu dù lên men hay chưng cất đều dẫn đến say sưa làm tan đi hạt giống trí tuệ và làm hư hại hệ thần kinh. Hàng tại gia cư sĩ được khuyên không nên uống rượu hay đem rượu đãi đằng khách khứa.
    “Y thị nên bỏ thói quen ẩm tửu, Khi biết tửu nhập biến con người thành kẻ điên loạn, hàng tại gia cư sĩ chọn nếp sống đạo hạnh không nên chuốc rượu mời người cũng như không thuận nhận rượu người mời”.
    “Quả thật kẻ ngu uống rượu thường làm những điều càn quấy, bị người trêu chọc. Y thị nên bỏ thú vui của những kẻ ngu, tránh điều càn quấy, rồ dại, bị ảo giác dối lừa”.
    Đức Gotama lưu ý một số nhà tu hành, uống rượu say sưa làm mất hết nhuệ khí, lờ đờ. Từ đó họ quen dần với mùi rượu rồi trở nên nghiện ngập khó kiêng cử. Ngài cũng khuyên cư sĩ tại gia thuận hành lời giảng dạy của Ngài: “Khi biết chất say dẫn đến điên loạn, y không nên dễ dãi cho phép mình uống rượu. Bởi lẽ rượu vào, kẻ ngu phạm lỗi lầm, lại còn lôi kéo kẻ khác nghiện ngập say xỉn. Y phải tránh vi phạm lỗi lầm, không nên để mình mắc vào trạng thái điên loạn, tốn kém vô ích, vui thú ngớ ngẩn”.

    Lý do Đức Phật cấm uống rượu

    Giới luật của người xuất gia dạy rằng: “thà uống nước đồng sôi, chứ không được phạm đến rượu”, thậm chí “Không được ngửi hơi rượu, không được dừng lại ở quán rượu, cũng không được cho người khác uống rượu”. Vì sao?

    1- Nuôi dưỡng hạt giống trí tuệ:
    về phương diện trí tuệ, Đức Phật dạy: “rượu còn độc hơn cả những loại độc dược mạnh nhất thế gian, độc dược làm mất mạng một đời còn rượu làm mất trí tuệ nhiều kiếp”. Đạo Phật tôn trọng trí tuệ của con người “duy tuệ thị nghiệp”, cho nên những gì nguy hại đến trí tuệ của con người đều bị cấm chế. Người mà tâm trí tán loạn mê mờ thì làm sao có tri giác để phán xét mọi việc tốt đẹp. Để bảo vệ hạt giống trí tuệ quý báu, Đức Phật cấm uống rượu.

    2- Ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi:
    về phương diện nhân cách, trong kinh nói: “Người phạm giới rượu rồi thì tất cả các giới khác đều có khả năng phạm, không còn khả năng phòng hộ giói nữa”. Tu Phật là chuyển phàm cách thành Thánh cách. Rượu uống vào thì căn trí buông lung, những phiền não trong tâm nổi dậy, tham sân si mặc tình phóng túng, đâu còn an lạc nữa để hướng đến giải thoát.
    Nói đến tác hại của rượu, một số câu chuyện sau đây để chứng minh điều đó.

    a/- Câu chuyện về vị hoàng tử bị những tên bợm nhậu lôi kéo thành con nghiện. Bọn nầy bày tiệc rượu gần con đường hoàng tử đi công vụ ngang qua và hô to: “Ô hô, mong sao hoàng tử đáng yêu sống lâu trăm tuổi; Vì nhờ công đức ngài, chúng ta có thể tiếp tục vui hưởng lâu dài”.
    Về đến tư dinh, do lòng hiếu kỳ thôi thúc, hoàng tử sai người đi mua rượu, uống thử cho biết mùi vị ra sao. Lần đầu hoàng tử uống một mình, nhâm nhi từng chút. Những người khác cảm thấy kích thích và bắt đầu nhập cuộc. Chẳng bao lâu, mỗi lần tụ tập vui vầy, tiệc rượu bày biện tốn kém từ 200 đến 300 tiền vàng.
    Họ kêu gọi ca nhi và các tay nhạc công phục vụ đàn địch, múa hát làm cao hứng trong lúc uống rượu. Ngày nầy sang ngày khác, hoàng tử cứ tiêu thêm tiền. Thời gian sau, hoàng tử buộc phải bán của cải để mua rượu cho mình và những người đối ẩm. Khi tửu lượng gia tăng cũng là lúc hoàng tử lâm cảnh khánh tiệt, tàn sản kết sù tiêu tán, tư dinh cũng không còn, cuối cùng, hoàng tử phải sống lang thang đầu đường xó chợ.

    b/- Câu chuyện khác liên quan đến khoảng 500 phụ nữ, tất cả đều là quyến thuộc của bà Visakha, đã uống rượu trong một buổi tiệc lễ và sau đó cùng đi nghe Pháp. Những phụ nữ nầy tập họp tại nơi công cộng cùng quần chúng nghe Đức Gotama giảng đạo. Nhưng khi bị thấm chất say, họ bắt đầu nghiêu ngao ca hát, nhẩy múa, một số người cào nhàu, gây gổ với nhau. Điều nầy chứng minh cho thấy cả phụ nữ khi uống rượu say xỉn, họ không còn cảm giác hổ thẹn hay e ngại, mất hết tính tự chủ giữ gìn ý tứ.

    c/- Rượu chính nó không phải là tội lỗi, nhưng có thể là nhân cho những tội lỗi khác sanh ra. Khi đã uống rượu vào say sưa, thì tội nào cũng có thể phạm được. Dẫn chứng câu chuyện sau đây:
    Có một anh nông phu kia đang cày ruộng giữa đồng, bổng thấy hiện ra trước mặt mình một hung thần to lớn, kỳ dị, hăm dọa giết anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần bảo: “Nếu ngươi làm được một trong ba việc nầy thì ta tha chết cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi, hoặc uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi.
    Anh nông phu suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Xin ngài cho con được uống lít rượu”.
    Ác thần nghe xong, có vẻ hài lòng, rồi biến mất.
    Trưa hôm ấy, anh nông phu về nhà, thấy lít rượu mà người cha mua để đãi khách vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng chụp lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo, nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma mem đã thấm, anh ta không còn lý trí biết phải trái, giựt gậy của cha, đánh ông một cây chết tốt! Bà mẹ thấy vậy ôm con la làng. Anh ta chưa hả cơn giận, đánh mẹ túi bụi. Làng xóm chạy lại bắt anh dẫn lên quan vì tội giết cha đánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết uống rượu là tội nặng nhất trong ba điều mà hung thần đã bắt anh làm.
    Những hành động gây ra tội lỗi đều từ nguyên do uống rượu say xỉn. Sau đây là 10 tai hại của rượu mà trong kinh đã nói đến: 1- của cải rơi mất, 2- Tri tuệ kém dần, 3- Tăng trưởng lòng giết hại, 4- Hủy hoại sự nghiệp, 5- Thân hay bệnh tật, 6- Dễ nổi sân nhuế, 7- Thân tâm nhiều khổ, 8- Phước đức tiêu mòn, 9- Giảm tuổi thọ, 10- Mạng chung đọa vào 3 đường ác.
    Xét về tính chất, rượu không phải là tội ác. Trong một số trường hợp, nó được xem như một loại thuốc chữa bệnh. Nếu rượu được biến chế thành một dược chất cần thiết và được xử dụng theo toa thuốc chỉ dẫn xác thực, nó sẽ vô hiệu hóa tác hại “say xỉn, điên loạn”. Giới không được uống rượu nhma82 mục đích ngăn chặn nguy cơ gây ra tội ác, cho nên có lúc Phật cũng có “mở” : “nếu xử dụng rượu với nhu cầu chữa bệnh theo lời bác sĩ thì vẫn được phép”.
    Trong Tám Điều Răn Cấm cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ có nói trong điều thú nhứt: “Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm….”. Về uống rượu, Ngài nói “Phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi”.

    Lợi Ích Không uống rượu.

    - Về cá nhân: vun trồng được hạt giống trí tuệ, giữ gìn sức khỏe, tránh bệnh tật, tâm trí tỉnh táo.
    - Về phương diện xã hội: gia đình yên vui, con cái ít bệnh tật, xã hội an hòa, nòi giống hùng cường.

    ***
    Riêng với tín đồ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, ngoài hành trì Năm Giới (Ngũ giới Cấm) còn phải thuận hành theo “Tám Điều Răn Cấm” của Đức Tôn Sư Huỳnh Giáo Chủ:

    Điều thứ nhứt:
    Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.

    Điều thứ nhì:
    Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

    Điều thứ ba:
    Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài mà đành quên nhơn nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

    Điều thứ tư:
    Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền rủa vì Thần Thánh không can phạm đến ta.

    Điều thứ năm:
    Ta chẳng nên ăn thịt trâu,chó, bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.

    Điều thứ sáu:
    Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật.

    Điều thứ bảy:
    Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.

    Điều thứ tám:
    Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh.
    Tất cả thiện nam tín nữ trong Tôn giáo nhà Phật lúc rãnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ những tục lệ chơn chánh, bỏ tất cả những dị đoan mê tín thái quá mà làm cho đạo đức suy đồi.

    Đạo pháp thường hay dung với hòa,
    Xét người cho tột xét thân ta.
    Nếu người rõ phân vui lòng thứ,
    Ta thứ được người, người thứ ta.

    KẾT LUẬN:

    Giới trong nhà Phật chính là “Phòng phi chi ác” nghĩa là ngăn ngừa những hành động phi pháp, ngăn chặn những hành động độc ác. Một khi đã phát nguyện giữ giới thì phải giữ cho trung kiên, bất thối chuyển, đừng có một bước tiến tới, hai bước thối lùi, dùng dằng như thế mãi thì con đường giải thoát còn xa, không bao giờ đến đâu cả.
    Giới là một trong ba tu học: Giới, Định, Tuệ, con đường dẫn tới Niết bàn an lạc.
    Giới là giềng mối để thiết lập con người, gia đình và xã hội toàn thiện.
    Đức Phật dạy: Sau khi Phật nhập Niết Bàn, chư tăng lấy giới luật làm Thầy. Do đó, Giới hết sức quan trọng, chúng ta cần phải giữ gìn để được lợi ích cho bản thân và xã hội.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy: “Điều cần nhứt là giữ gìn các luật hàng ngày”. Giới luật là điều căn bản của các hạng, tu hành không luận kẻ xuất gia hay cư sĩ, thiện tín hay tăng ni. Tuy có kẻ giữ giới nhiều, người thọ giới ít, chung qui mỗi người đều phải giữ giới, chính đó là hàng rào để ngăn chận các điều tội lỗi.

    - THIÊN THỪA: là bước tu tập cao hơn, phải thực hành Thập Thiên Nghiệp Đạo kinh là mười nghiệp lành.
    “Nghiệp”, nghĩa là tạo tác hành động. Nghiệp có thể chia ra làm hai tính cách: nghiệp dữ và nghiệp lành. Lành, theo đạo Phật có nghĩa là lợi ích cho chúng sanh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sanh trong hiện tại cũng như trong tương lai.
    Nghiệp có nhiều, nhưng tựu trung người ta chia làm mười loại nghiệp lành và mười loại nghiệp dữ. những nghiệp ấy do ba chỗ phát ra: Thân (hành động) Khẩu ( lời nói) và ý (tưởng nghĩ).
    -những nghiệp dữ chia ra như sau:
    * Nghiệp dữ về thân có ba là: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm.
    * Nghiệp dữ về khẩu có bốn là: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
    * Nghiệp dữ về ý có ba là: Tham lam, sân hận, mê si.
    Tất cả có mười nghiệp dữ.

    -Những nghiệp lành chia ra như sau:
    * Về thân có ba: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
    * Về khẩu có bốn: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác.
    * Về ý có ba: không tham lam, không sân hận, không si mê.
    Tất cả có mười nghiệp lành. Mười nghiệp lành nầy đối trị với mười nghiệp dữ, có công năng đưa hành giả tiến bước về cõi thanh tịnh.
    Đức Phật thuyết kinh Thập Thiện Nghiệp ở cung Ta Kiệt La Long Vương. Trong pháp hội nầy Phật gọi Ta Kiệt La Long Vương dạy rằng: “Tâm chúng sanh sai khác nên tạo nghiệp chẳng đồng; do nghiệp ấy, chúng sanh bị luân hồi theo sáu đường. Nầy, Long Vương! Người có thấy đại chúng trong hội nầy và và tất cả chúng sanh khác thân hình và sắc tướng đều chẳng giống nhau chăng? Thân hình và sắc tướng khác nhau như vậy là do thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp hoặc lành hoặc dữ gây ra. Người có trí tuệ rõ biết lý nhân quả như vậy nên tu thiện nghiệp, bởi có tu thiện nghiệp mới cảm được thân tướng tốt đẹp, quốc độ trang nghiêm.
    Long Vương! Ngươi thử xem thân tướng của Như Lai và các vị Bồ Tát có đủ các tướng tốt, hào quang sáng chói như thế, đều do tu thiện nghiệp mà được. Còn chúng sanh hình sắc hoặc xấu hoặc tốt, hoặc lớn hoặc nhỏ, mỗi người đều do tự tâm tạo nghiệp chẳng lành gây ra. Bởi vậy, nếu các ngươi biết thiện nghiệp và dạy bảo mọi người hiểu lý nhân quả mà tu thiện nghiệp, thời nhất định sẽ khỏi các quả báo xấu xa, được thân tướng tốt đẹp, quốc độ trang nghiêm như chư Phật, chư Bồ Tát.
    Long Vương! Ngươi phải biết Bồ Tát có một pháp có thể dứt tất cả sự khổ não trong các đường dữ là Bồ Tát luôn luôn quan sát tu tập thiện pháp, làm các thiện pháp, niệm niệm tăng trưởng, không một niệm ác xen lẫn, bởi vậy các ác pháp bị dứt hẳn, các thiện pháp được viên mãn”.

    Ý nghĩa mười pháp lành


    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật ấy gồm vào một chữ Đạo, đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân”, và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.
    Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”.

    1- Không sát sanh: nghĩa là không giết hại mọi loài, không tự mình giết hại, không sai người khác giết hại, khi thấy người khác giết hại mà không sinh lòng vui mừng. Người tu Phật không sanh tâm sát sanh mà còn tìm cách cứu sống chúng sanh, chẳng hạn như mua chim, mua cá thả chúng sống đời tự do khỏi bị cảnh cá châu, chim lòng, có khác chi con người bị giam hảm trong ngục tù. Chúng sanh nào cũng muốn sống và sợ chết. Không có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết cũng như không có ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng.
    Con người muốn sống, muốn tự do thì các loài hữu tình khác cũng vậy; cho nên không có lý do gì chúng ta lấy mạng sống của loài vật khác để nuôi sống chúng ta. Vì vậy không sát sanh mà lại phóng sanh, là nghiệp lành hàng đầu trong Thập Thiện Nghiệp.
    Không sát sanh thì đời sống hiện tại sẽ mở rộng lòng từ bi, chính là nhân tu hành thành tựu Phật quả. Kinh Thập Thiện Nghiệp nói:
    - Tất cả chúng sanh đều kính mến
    - Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sanh
    - Trừ sạch thói quen sân hận
    - Thân được khỏe mạnh
    - Tuổi thọ lâu dài
    - Thường có được Thần gia hộ
    - Giấc ngủ được an lành không có ác mộng
    - Giải trừ oán nghiệp
    - Sau khi thọ mạng, thường được sanh Thiên Giới.

    2- Không trộm cướp:
    nghĩa là không lấy bất cứ cái gì không thuộc quyền sở hữu của mình cũng như của người ta không cho mình. Dùng sức mạnh cưỡng hiếp người ta để lấy của thì gọi là ăn cướp, còn dùng những phương tiện thiên xảo để lường gạt người, chiếm đoạt của người vật lớn vật nhỏ thì gọi là trộm cắp. theo lẽ thường, mình không muốn ai cướp đoạt của cỉa tài sản của mình thì mình cũng đừng lấy của ai bằng mọi cách. Việc gì mình chẳng muốn ai làm khổ cho mình thì mình cũng đừng làm khổ cho người. Một xã hội được tồn tại phải tôn trọng lẽ công bằng nầy.
    Không gian tham trộm cướp mà còn đem tiền của làm hạnh bố thí giúp đỡ cho chúng sanh được an vui, thì theo kinh Thập Thiện Nghiệp được những pháp lành như sau:
    - Tiền của có dư không bị cướp mất
    - Không bị chính quyền tịch thu, không bị nước cuốn trôi, không bị lửa cháy, không bị con cái phá sản
    - Được người tin cậy
    - Được yên ổn không lo sợ luật pháp, không sợ thù oán
    - Khi mạng chung được sanh cõi lành.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy:


    Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi,
    Vào thâm tâm những kẻ gian phi.
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
    Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
    Luật nhơn quả thật là cao viễn,
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
    Cứ bền chí có ngày thong thả.

    3- Không tà dâm: nghĩa là không dâm đãng, trụy lạc. Người tu Phật phải tiết dục, thanh tịnh để trở nên người thanh khiết. Tà dục là nhân quả của sanh tử luân hồi. Tu sĩ xuất gia phải đoạn trừ dâm dục ở thân cũng như ở tâm. Tại gia cư sĩ không được tà dâm, chỉ sống một vợ một chồng, trong sạch từ thể xác lẫn tinh thần, không lang chạ để bảo toàn hạnh phúc gia đình.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy: “Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết”.
    Kinh Thập Thiện Nghiệp nói không tà dục sẽ được các điều lợi:
    - Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) vẹn toàn
    - Đoạn trừ phiền não
    - Không ai xâm phạm vợ chồng con cái
    - Được tiếng tốt.

    4- Không nói dối:
    nghĩa là nghĩ sao nói vậy, không nói sai sự thật, không thấy nói thấy; thấy nói không thấy; nghe nói không nghe; không nghe nói nghe; biết nói không biết; không biết nói biết. Người tu hành tránh không được nói dối, như dối rằng mình đã chứng Thánh quả, hay đắc đạo để người khác kính phục, sùng bái mình, thì mắc tội đại vọng ngữ bị đọa vào ba đường ác.
    Đức Huỳnh Giáo chủ dạy: “Phải giữ cho lời nói mình được thành thật chánh đáng, được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ khác”.
    Vì sợ hãi mà nói dối cũng nên tránh vì thói quen che dấu tội lỗi không chịu sửa chữa.
    Chỉ có trường hợp ngoại lệ nói dối để cứu mạng người hay vật mới không phạm tội.

    5- Không nói thêu dệt:
    là không nói thêm bớt, chuyện có nói không chuyện không nói có “Hãy gìn lòng chớ khá dệt thêu. Nói xiên xỏ cũng không no béo”. Không trau chuốt lời nói, dùng lời văn hoa để lung lạc mê hoặc người làm chuyện sái quấy “Tiếng luận đàm ngay ngắn tỏ tường. Nói những điều đức hạnh hiền lương. Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi. Việc trao trác ấy là nguồn cội. lời xảo ngôn do đó mà ra”. Kẻ nói thêu dệt thường bị người đời chê cười, khinh bỉ và tránh xa.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo trác với người, bỏ tiếng xảo ngôn và phải dùng lời chơn chất”.

    6- Không nói lưỡi hai chiều:
    không đến bên nầy nói xấu bên kia, đến bên kia nói xấu bên nầy, làm cho hai bên thù hằn nhau “Với người nầy dùng lời tha thiết. Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy: “Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành thật, chánh đáng được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt thị của kẻ khác”.

    7- Không nói lời hung ác:
    là không nói lời tục tằn hung dữ làm cho người khác khó chịu.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm dịu thanh bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác đức; phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng”. Và Ngài cũng khuyến dạy:


    Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,
    Mà kêu réo Đông, Tây, Nam, Bắc?
    Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
    Những đàn bà khe khắc cháu con.
    Kể từ nay phải giữ cho tròn,
    Không chừa dứt ắt mang tai ách.
    Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
    Tích thiện thì thường có phước dư,
    Bằng tích ác họa ương đeo đắm.


    Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không nói lời hung ác mà lại nói lời ôn hòa, được những công đức như sau:
    - Nói lời nào cũng khôn khéo đúng lý và lợi ích.
    - Nói điều gì, ai cũng nghe theo và tin cậy.
    - Nói lời nào cũng không ai chỉ trích mà còn được mến yêu.

    8- Không tham lam: được hiểu như là lòng dục của con người bao gồm ngũ dục (tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghĩ). Người không tham muốn những thứ ấy là người biết thiểu dục tri túc (muốn ít, biết đủ), có đời sống giản dị thanh cao.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ” và Ngài cũng dạy: “Hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham lam, lo vun trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy”. Và Ngài cũng dạy:


    Lúc tận số nằm trơ một xác,
    Gẫm kim tiền bội bạc bất tài.
    Không làm cho ta được sống dai,
    Lại chẳng bước tiễn dưa một bước.
    Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
    Lo vun trồng cội phước về sau.
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.
    Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
    Thân ta còn rày đó mai đây,
    Của ấy cũng khi tan khi hợp.

    Kinh Thập Thiện Nghiệp dạy, người không ham muốn thì được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây:
    - Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, vì nhân các căn đều đầy đủ.
    - Của cải không mất mát hay bị cướp giựt
    - Phúc đức tự tại
    - Những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, dù mình không mong ước.

    9- Không sân hận: không nóng nảy, giữ sự bình tỉnh nhu hòa trước cảnh trái ý nghịch lòng. Lòng giận hờn là cửa ngõ của các tội ác. Kinh Phật có câu: “Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Diệt được nó tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thông thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỡ. Hãy nhẫn nhịn chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nãy sinh ra những điều hiềm khích”.
    Ngài cũng dạy:

    Diệt được nó tâm thần thong thả,
    Ta thường nên tập tành khoan dung.
    Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
    Nay ta đã quy y cầu đạo,
    Gây gổ là trái thuyết từ bi.


    Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người nào không tức giận thì được tám món tâm pháp, vui mừng như sau:
    - Không tâm khổ não
    - Không tâm giận hờn
    - Không tâm tranh giành
    - Tâm nhu hòa ngay thẳng
    - Tâm từ bi như tâm Phật
    - Thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh
    - Thân tướng trang nghiêm, chúng sanh tôn kính
    - Có đức nhẫn nhục, được sinh cõi Phạn Thiên.

    10- Không si mê: là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rõ đúng sai, không cố chấp theo sự hiểu biết của mình, không tin những thuyết không hợp chân lý, không mê tín dị đoan. Người không si mê là người có trí tuệ, tin nhân quả, trừ vô minh, tinh tấn trên đường giải thoát.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Hãy xóa bỏ các điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo đức, lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyển, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ bất diệt, bất sanh”.
    Ngài cũng dạy:


    Diệt mê si phải nương thuyền giác,
    Muôn việc làm chính trực khôn ngoan.
    Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
    Làm ngu muội uổng thay một kiếp.


    Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không si mê thì thành tựu được mười pháp công đức như:

    - Được ý vui chơn thiện và bạn chơn thiện
    - Tin sâu nhơn quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác.
    - Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo
    - Tâm sanh ngay thẳng có chánh kiến
    - Sanh lên cõi lành, khỏi bị đọa vào ba đường ác
    - Phước huệ thường tăng lên mãi
    - Dứt hẳn đường tà, lo tu theo chánh đạo
    - Không lòng chấp ngã, lìa bỏ ác nghiệp
    - Chỉ xét việc theo chánh kiến
    - Khỏi bị nạn dữ.

    Hành được mười điều thiện chúng ta có được lợi ích sau đây:
    1/- Cải tạo bản thân: Vì do nghiệp lực thúc đẩy, chi phối đưa con người đến đau khổ, nếu bản thân chúng ta biết áp dụng điều lành tránh xa điều ác thì đời nầy an vui, đời sau sanh vào cõi lành. Một người biết tu theo Thập Thiện Nghiệp đạo là người đó tự mình làm cho nhân cách đạo đức của mình được chuyển hóa.
    2/- Cải tạo hoàn cảnh: Bất cừ công việc nào trong đời đều do hành động của mình tạo tác chứ không do ai khác. Người thực hành mười điều thiện sẽ cảm hóa được người chung quanh. Chính mình ăn hiền ở lành sẽ được mọi người yêu mến, không có cuộc tranh đua, hóa giải những tị hiềm, tọa sự an lạc cho mọi người.
    3/- Chánh nhân thiên giới: Tu Thập Thiện là gieo nhân tốt để kiếp sau sanh lên Thiên giới hưởng phước lạc đầy đủ.
    4/- Căn bản Phật quả: Ba đời chư Phật mười phương đều trải qua công hạnh tu tập mười thiện nghiệp làm căn bản. Mười thiện nghiệp nầy có công năng ngăn ngừa các hành vi độc ác, làm cho ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thanh tịnh là cửa ngõ đưa con người thoát ly sanh tử chứng quả Niết Bàn.

    ***
    Đây là lời trần thuyết của Đức Huỳnh Giáo Chủ về tu Thập Thiện để diệt trừ Thập Ác hầu được nhiều lợi lạc:


    Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lòng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.
    Trồng cây lành vị quả thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
    Dầu ai có cười ta khờ khật,
    Cũng đừng phiền xao lãng chơn tâm.
    Mong tiếng kêu thấu đến Tòng lâm,
    Cùng thiện tín bá gia hưởng ứng.
    Muốn Phật Giáo từ đây bền vững,
    Đừng riêng lo lợi dưỡng một mình.
    Nếu xuất gia thì phải hy sinh,
    Cả vật chất tinh thần lo đạo.
    Chớ giả dối mà mang sắc áo,
    Mượn bồ đề chuổi hột lòe người.
    Làm cho dân khinh dễ ngạo cười,
    Tội lỗi ấy luật nào dung thứ.
    Tu còn ham chay to đám bự,
    Đặng thế gian dưng cúng bạc tiền.
    Dối rằng lo tu bổ chùa chiền,
    Mà làm của xài riêng cho thỏa.
    Bảo lảm sao dân không sa ngã,
    Nghe lời rù Tông nọ phái kia.
    Cả tăng đồ trong nước chia lìa,
    Riêng pháp bảo, riêng chùa, riêng Phật.
    Trong bá tành sầu thành chất ngất,
    Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào.
    Lòng mến yêu chẳng nệ công lao,
    Mượn bút mực đôi lời trần thuyết.
    Tùy thiện tín hiểu Ta giả thiệt,
    Làm hay không chẳng dám ép nài.
    Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát.


    - THANH VĂN THỪA
    Là pháp nền tảng giáo lý đạo Phật, nó đưa hành giả từ phàm đến Thánh. Giáo lý nầy dạy về Tứ Diệu Đề cũng gọi là Trí Thánh Đế hay Tứ Chân Đế, độ người nghe Pháp mà tu học cho đến thành tựu Đạo quả. Cho nên không lãnh hội được ý nghĩa của Tứ Diệu Đề là còn vô minh. Bốn chân lý cao quý nầy do Đức Phật nói ra, gồm:

    KHỔ ĐẾ: là chân lý nói về sự khổ của kiếp người. Khổ Đế được thể hiện nơi con người qua 8 loại khổ như: sanh già, bịnh, chết, khổ ái biệt ly, khổ cầu bất dắc, khổ oán tắng hội, khổ ưu sầu.
    Sơ giải về 8 loại khổ:

    1- Sanh khổ
    :
    phần nầy bao gồm khổ trong lúc sanh và khổ trong đời sống. Người sanh và kẻ được sanh ra đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là bắt đầu biếng ăn mất ngủ, dả dượi, bần thần hay buồn nôn. Thai mỗi ngày mỗi lớn, mẹ bắt đầu mệt mõi, nặng nề, đi đứng làm lụng chậm chạp. Sự đau đớn của người mẹ không sao kể xiết khi gần sanh. Sau khi sanh con ra người mẹ còn phải chịu sự dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém. Nếu chẳng may bị nghịch thai người mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn nhiều nữa, có khi phải chịu tật suốt đời.
    Còn đứa con, từ khi có thai cho đến chào đời cũng phải chịu nhiều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày trong bụng mẹ tối tăm chật hẹp chẳng khác nào ở chốn ngục tù. Mẹ đói cơm khát nước, con trong bào thai lỏng bỏng phập phều, mẹ ăn no thì con bị ép bị đè khó bề cựa quậy. Đến ngày sanh sản, thân con phải chèn qua chỗ chật hẹp như vách đá, nên khi thoát ra được liền cất tiếng khóc vang, đúng như câu thơ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều:

    Thảo nào lúc mới chôn nhau,
    Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

    Và Đức Huỳnh Giáo Chủ tóm lược về sanh khổ bằng hai câu:
    Khi ra đời đau đớn vô ngần,
    Cất tiếng khóc nếm mùi dương thế.

    Khi ra đời, được làm người, đời sống có nhiều khổ sở cả vật chất lẫn tinh thần.
    Nhu cầu về vật chất như ăn uống, quần áo, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu nầy con người cần phải cần lao, tốn bao mồ hôi nước mắt mới kiếm được chén cơm, manh áo, nhà ở. Có người vất vả suốt đời làm lụng mà vẫn không tạo được một ngôi nhà nho nhỏ. Mọi nhu cầu vật chất mà thiếu thốn cũng cảm thấy khổ rồi, đừng nói chi đến cảnh màn trời chiếu đất đói lạnh không chỗ nương ngụ.
    Về phương diện tinh thần nào bị người phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, người nầy khinh bỉ v.v..

    2- Già khổ:
    từ khi chào đời cho đến thành nhân, dồi dào thế lực, tinh thần trẻ trung như đóa hoa đang khoe hương sắc. Rồi chẳng bao lâu lại bị thời gian cướp đi, giờ đây chỉ còn là mộng tưởng. Tuổi xuân sắc đã đổi lại sự già nua, mắt mờ, tai điếc, gối mõi, lưng cong, đi đứng khó khăn, nằm ngồi chậm chạp, ăn uống đổ tháo. Đó là khổ về thể xác.
    Còn về tinh thần thì khổ tâm, khổ trí mà người xưa thường nói “Đa thọ, đa nhục”, tuổi già nhiều nhục. Càng già thân thể suy yếu, trí tuệ lu mờ, quên trước nhớ sau, hành động lẫn lộn như kẻ ngây dại, ăn dơ, uống bẩn, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ!
    Vì vậy, Đức Phật cho sự già là khổ, không sai.

    3- Bệnh khổ: có nhiều nguyên nhân sanh ra bệnh tật: do thời tiết như gió mưa, nóng lạnh bất thường khiến tạng phủ xoay chuyển không kịp mà sanh bịnh. Do ăn uống thiếu chừng mực, thiếu vệ sinh hoặc ăn những món không hạp cơ thể mà sanh ra đau yếu. Ngoài hai trường hợp trên còn có nguyên nhân sanh bệnh nữa là phiền não do nghiệp quả (tham, sân, si) mà sanh bịnh.
    “Già nua là cảnh điêu tàn. Cây già, cây cỗi, người già người suy”, đó là lẽ vô thường của vạn vật. Bệnh tật hành hạ thân xác con người từ cái đau nhẹ như nhức đầu, xổ mũi, đau răng… cho đến nặng như phong cùi, lao phế… đều làm cho con người rên xiết, khổ sở vô cùng, nhất là những bệnh trầm kha nan y lại càng hành hạ xác thân bội phần, cầu chết cũng không được, cầu sống cũng không xong, oan oan ương ương, thật là thảm khổ. Tâm trí lo sợ bấn loạn, thân quyến bân khuân, thuốc thang chạy chữa đủ cách, đứng ngồi không yên, quên ăn, mất ngủ, bỏ bê công ăn việc làm. Thật đúng là bệnh khổ.

    4- Tử khổ: phàm sanh ra đời hể cái gì có hình tướng đều phải hư hoại. Thế nên con người đã có sinh ra tất theo định luật “thành trụ hoại diệt”, già bịnh rồi chết không ai thoát lọt được.
    Người bịnh khi hấp hối bị hành xác, thế mới biết cái chết đáng sợ, mắt họ trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn loạn rồi tai hết nghe, mắt hết thấy, dần dần lịm đi để giả biệt cõi đời ảo mộng nầy. Tất cả vật sở hữu đều bỏ lại, chỉ mang theo cái nghiệp nhân tội phước đã tạo ra lúc sanh tiền. Thật không có gì đau khổ cho bằng lúc chia ly nầy! Đó là tử khổ.

    5- Cầu bất đắc khổ
    :
    Con người sống ở đời hể càng hy vọng nhiều thì càng dễ bị thất vọng. Hạt giống tham lam đã có sẵn trong người, nào là muốn nhà cao cửa rộng, tiền của cho nhiều, uy quyền quan chức cho cao, vợ đẹp, hầu xinh…
    Ngược lại, nếu sự mong muốn ấy không đạt thành, thì con người xốn xang, u buồn dả dượi, tâm lý quây cuồng, không lúc nào an tịnh. Thật là sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Đó là cái khổ cầu bất đắc.

    6- Ái biệt ly khổ: là nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà phải chia lìa. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.
    Sanh ly khổ: ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu rất mực nên muốn sống mãi mãi bên nhau, nhưng không thể toại nguyện như bỗng nhiên bị hoàn cảnh bắt buộc hay vì một tai họa thình lình xảy đến làm cho mỗi người bơ vơ ở mỗi nơi, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột thắt từng cơn, thật đao lòng xót dạ! Thì ra cuộc đời là một trường “bi hoan ly hợp”, đau khổ triền miên, ít khi nào được an vui thư thái. Đó là cái khổ của “sanh ly”.
    Tử biệt khổ: dù xa cách nhau nhưng người còn sống thì có ngày gặp lại, chớ chết rồi thì bao thuở được xum vầy. Đến lúc có một người ra đi vĩnh viễn, kẻ còn ở lại không ai là không khổ đau, ôm mối sầu ưu tuyệt vọng. Cái khổ nầy dầu cho kẻ cao sang tài trí cũng chung chịu như người hạ tiện. Đó là cái khổ
    “tử biệt”.

    7- Oan tắng hội khổ: con người, hể thương yêu nhau thì không ai muốn chia ly; mà nếu như trong cảnh oán ghét nhau thì không ai muốn gặp gỡ. Nhưng cảnh ngộ thật oái oăm, khi mong muốn được hội ngộ lại chia ly; muốn đừng trông thấy dạng lại sống chung đụng hàng ngày; muốn tránh xa lại càng thường gặp. Nỗi khổ nầy xảy ra như là truyền thống của nhân loại. Đó là ý nghĩa của “oan tắng hội khổ”. Kinh Đại Niết Bàn nói: “Sao gọi là “oan tắng hội”? Đó là cái khổ mà con người buộc lòng phải chung cùng, gần gủi với nhau; với người và hoàn cảnh mình không ưa thích”.

    8- Sầu lo ngại khổ: là những nỗi khổ về sự buồn rầu lo sợ; cái khổ nầy trong kinh ghi “ngũ ấm xí thạnh khổ. Thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ uẩn hay ngũ ấm (sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm). Với thân ngũ uẩn ấy con người phải chịu biết bao nhiêu điều khổ. Một khi có sự xung đột mâu thuẩn giữa các ấm ấy thì cái thân ấy chịu những cái khổ như:
    - Luật vô thường chi phối từ trẻ đến già, từ mạnh khỏe đến đau yếu rồi đến chết, con người luôn luôn lo sợ buồn phiền.
    - Nghèo không đủ ăn, đủ mặc, bửa đói, bửa no, rách rưới lang thang. Thêm nỗi bị người khinh khi, tủi nhục cho phận mình bạc phước.
    - Giàu cũng không có mấy ai được thong thả. Dù dư ăn, dư để nhưng muốn tính làm sao cho có thêm lên “Biết sao đầy được túi tham. Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.
    - Giàu có lại còn muốn được quyền ăn trên ngồi trước. Còn một nỗi lo sợ trộm cướp rình mò, lo người thiếu nợ không trả.
    Xét ra dù giàu, nghèo, cao sang hay hạ tiện đều có chung một nỗi lo sợ như nhau gọi là ưu sầu lo ngại”.
    Tám điều khổ sơ giải trên đây, chúng sanh trong cỏi Ta Bà dù người sang, hèn, ngu, trí, trẻ, già đều chung chịu chớ không một ai được thung dung thong thả.

    TẬP ĐỀ:
    Muốn dứt quả khổ sanh tử, Phật dạy phải đoạn trừ tập nhân. Tập nhân là sự huân tập những thói quen lâu đời lâu kiếp trong mỗi chúng sanh. Đó là nguyên nhân tạo thành sanh tử luân hồi đưa đến nỗi thống khổ trần gian.
    Nguyên nhân nào tạo thành sanh tử? Chính là phiền não. Phiền não có rất nhiều nhưng không ngoài sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến; mà phiền nào chính là gốc từ tam độc (Tham, Sân, Si) mà ra; chỗ phát hiện của nó là Thân, Miệng và Ý là tập nhân sanh các phiền não, là Tập Đề.
    Nguồn gốc của tam độc từ si mê mà có. Bởi vì si mê nên mới chấp ngã; mà cũng vì chấp ngã nên phiền não theo đó mà sinh. Chấp thân nầy là thật, nên tìm cách bảo vệ cho thân. Nếu việc gì làm cho thân thõa mãn thì ưa thích, trái lại thì giận ghét. Tất cả phiền não khổ đau theo đó mà khởi.

    DIỆT ĐỀ:
    Muốn đoạn trừ tập nhân sinh tử, Phật dạy phải dứt vô minh, tức là diệt trừ tâm si mê chấp ngã; khi tâm si mê chấp ngã hết, thì tham, sân và các phiền não khác theo đó mà dứt. Hành giả dứt được tập nhân sanh tử, là hướng đến Diệt Đế. Diệt Đế là chân lý cao thượng về sự chấm dứt khổ đau, là Niết Bàn.
    Từ ngữ không thể giải thích được trạng thái cực lạc của Niết Bàn. Sự chứng nghiệm của Niết Bàn không thể diễn tả qua lời nói được. Niết Bàn là pháp siêu thế, tuyệt đối, không điều kiện. Chứng nghiệm được Niết Bàn chỉ có bậc thiện trí giác ngộ mới hiểu được. Cũng như người nếm một chút mật thì không thể diễn tả được chất ngọt của mật cho người chưa từng nếm qua.
    Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ Kheo! giáo pháp Niết Bàn mà ta lĩnh hội vô cùng thâm sâu, khó hiểu, an lành tối thượng, vượt ra ngoài lý luận thông thường. Thế gian chìm đắm trong ái dục rất khó hiểu được hạnh phúc Niết Bàn”.
    Đức Phật giảng Chân Lý Thứ Ba (Diệt Đế) như sau: “Nầy chư vị! Sự chấm dứt khổ là Diệt Đế, là đoạn tuyệt, khước từ, giải thoát và không ôm giữ tham ái”. Như vậy Niết Bàn có nghĩa là sự chấm dứt tham ái.
    Về tham ái, Đức Phật giải thích rõ: “Nầy Radha! Sự chấm dứt tham ái là Niết Bàn. Khi trả lời cho một vị trời, Ngài dạy: “Từ bỏ tham ái là Niết Bàn”. Ngài Xá Lợi Phất cũng dạy: “Chế ngự và từ bỏ ái dục năm uẩn là chấm dứt đau khổ”. Vị A La Hán giác ngộ Niết Bàn là người hoàn toàn không còn tham ái.
    Đức Phật dạy: “Có hai hạng Niết Bàn là Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn.
    Khi một vị A La Hán là bậc ứng cúng đã diệt trừ ô nhiễm, đã giác ngộ chân lý, đã hoàn toàn đầy đủ trí tuệ, diệt trừ tham ái để giải thoát, mà bậc A La Hán đó còn mang thân ngũ uẩn, người còn cảm thọ hạnh phúc và đau khổ trên thể xác, đó gọi là Hữu Dư Niết Bàn.
    Khi một vị A La Hán là bậc ứng cúng đã diệt trừ ô nhiễm, đã giác ngộ chân lý, đã hoàn toàn đầy đủ trí tuệ, diệt trừ tham ái để giải thoát, mà bậc A La Hán đó đã xả bỏ thân ngũ uẩn, không còn cảm thọ, tái sanh, đó gọi là Vô Dư Niết Bàn”.
    Qua lời Phật dạy trên đây, chúng ta hiểu bậc A La Hán là người đã diệt được tam độc tham, sân, si hoàn toàn. Vì Ngài đã giác ngộ, chấm dứt tiến trình sanh tử, không còn tái sanh theo dòng nghiệp lực. Ngài đã vượt lên đời sống thế tục dù còn sống trong thế gian. Ngài không bị ảnh hưởng của tam độc nên không còn tạo nghiệp, không bận tâm đến quá khứ, hiện tại hay vị lai. Tâm Ngài an nhiên, không sầu não, chỉ an lạc.
    Muốn biết trạng thái chứng ngộ của Niết Bàn, hành giả hãy quán chiếu đầy đủ trí tuệ bát nhã, sẽ cảm nhận được chân lý nầy qua kinh nghiệm bản thân trong đời nầy. Hạnh phúc Niết Bàn tùy thuộc vào sự chứng ngộ cá nhân. Một mình, ta phải tinh tấn, cố gắng thực hành các pháp đoạn trừ ô nhiễm Tham, Sân, Si, mới chứng nghiệm được hạnh phúc Niết Bàn.

    ĐẠO ĐẾ:
    là con đường dẫn đến ly dục, ái tận, Niết Bàn. Con đường ấy đúng với chánh pháp và hợp với chân lý, có khả năng đưa chúng sanh ra khỏi sanh tử. Đó là con đường Bát Chánh Đạo, tức con đường tám chánh, hướng dẫn quả giải thoát.
    Đức Phật đã thuyết Tứ Diệu Đế tại vườn Lộc Uyển cho năm bạn đồng tu là nhóm Kiều Trần Như nghe và họ giác ngộ, nên đều chứng quả A la hán. Thế nên Bát Chánh Đạo được xem như là pháp tu căn bản của đạo Phật. Có lần các Tỳ Kheo hỏi Đức Phật, đời sau nầy lấy chi làm bằng chứng để biết phân biệt đâu là tà đâu là chánh. Đức Phật đáp: “Nơi nào có Bát Chánh Đạo, là Chánh Đạo; nơi nào không có Bát Chánh Đạo là Tà Đạo”. Đến thời kỳ Hạ Ngươn mạt kiếp nầy, vì có nhiều mối đạo ra đời mà người tu hành khó biết vì “Tà với chánh còn đang trà trộn. Người muốn tu hãy sớm lọc lừa”, cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên bổn đạo “Chọn nơi nào Đạo Chánh phượng thờ. Thì sẽ được thân sau cao quý” và Ngài quyết nói ra:


    Kinh với sấm chúng dân thường thấy,
    Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy.
    Là Chơn Truyền của Đức Thích Ca,
    Người tu hành cần phải tìm ra.

    Hay:
    Câu Bát Chánh rán mài chạm dạ,
    Tứ mục điều người khá hành y.

    Hay:
    Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,
    Xa thẳm Tứ Đề tiếng giục ông.

    Con đường Thánh đạo gồm có 8 chi: Chánh kiến, Chánh Tư Duy, Chánh nghiệp, Chánh tinh tấn, Chánh mạng, Chánh ngữ, Chánh Niệm, Chánh Định.
    Sơ lược nội dung Bát Chánh Đạo như sau:

    1- CHÁNH KIẾN
    :
    Chánh là ngay thẳng; kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến là nhận thức đúng theo sự thật không còn mê lầm vọng chấp.
    Con người thường bị bản ngã lôi cuốn nên việc xét đoán bị sai chạy ít nhiều sự thật. Mục chánh kiến dạy hành giả phải đem hết trí năng ra phán đoán mọi việc dù của người hay việc của ta, phải phán đoán cho tường tận, tránh cho ta lâm vào tà kiến xem xét lầm lạc.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Mục chánh kiến còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm mầu của tôn giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự sai mê trở về với đạo lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành đạo”.
    - Hiểu biết chân chánh: hiểu mọi sự vật trên đời đều do duyên sanh, không trường tồn và đi theo định luật “thành, trụ, hoại, diệt”. Hiểu biết rõ về nhân quả, nghiệp báo để hành động chân chánh. Nhận thức rõ Khổ, Vô thường, Vô ngã của vạn pháp. Nhận thức rõ tất cả chúng sanh đều có cùng một bản thể thanh tịnh, là chân tâm Phật tánh.
    - Hiểu biết không chân chánh: chấp có một Thượng Đế tạo ra muôn loài vạn vật, không tin lý nhân quả. Phủ nhận mọi vật có từ nhân duyên sanh. Có thành kiến cho rằng không có sự bình đẳng giữa người và muôn vật. Không tin vào quả vị giải thoát như người chết trở lại người, thú chết trở lại thú, thánh nhân chết trở lại thánh nhân. Do sự chấp ấy mà họ quan niệm người có tu và người không tu cũng như nhau, họ không sợ tội ác cũng không thích làm việc thiện.

    2- CHÁNH TƯ DUY: l
    à suy nghĩ chân chánh, suy nghĩ đúng lẽ phải, không vì lợi mình mà hại người.
    - Suy nghĩ chân chánh: suy nghĩ đến nỗi đau khổ của mình và chúng sanh gốc từ vô minh gây ra tội lỗi. Suy nghĩ cho tinh tường để biết mà tu tập hầu giải thoát cho mình và chúng sanh. “Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu”. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên dạy: “ Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm cái chân lý. Chân lý ấy là cái Đạo của mình đến với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế hãy đặt tư tưởng của mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt. Hãy tin tưởng Phật trời và cầu nguyện đấng thiêng liêng ban phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xã thân tu tỉnh”.
    Bằng những ý tưởng đạo đức, người hành đạo phải có tâm từ, bi, hỷ, xả hoặc trì danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Được như vậy, tâm trí ta bình tỉnh sáng suốt mà tiến thẳng theo con đường chân lý giải thoát.
    - Suy nghĩ không chân chánh: suy nghĩ đến các lợi dưỡng, bị các thị dục cám dỗ, “ngũ dục lạc” làm quay cuồng, không thoát lý ra được. Rồi nghĩ đến cách bày mưu tính kế lợi mình, hại người. Nghĩ đến việc dùng tà thuật dựa vào lòng tin của con người để mê hoặc.

    3- CHÁNH NGHIỆP: là làm những việc chân chánh, siêng làm điều thiện, không làm việc xấu ác.
    Dù kẻ xuất gia hay cư sĩ tại gia đều tu theo mục chánh nghiệp. Ngoài việc tham thiền nhập định, trì tụng kinh hành, viết sách hay công quả cho nhà Thiền, người xuất gia không làm bất cứ nghề nào tạo nghiệp ác cả.
    Kẻ tại gia cư sĩ, còn phải lo sinh kế trong cuộc sống nên có làm nghề nầy nghề nọ, không sao tránh khỏi bị chi phối, nhưng khác hẳn kẻ gian tà, chẳng có làm chi xảo trá bất nhân lợi mình hại người.
    - Hành động chân chánh: hành động theo lẽ phải, tôn trọng quyền sống chung với mọi người. Hành động tránh ba điều ác: sát sanh, đạo tặc, tà dâm. Hành động không làm tổn hại đến nghề nghiệp, tài sản, danh giá của kẻ khác. Hành động chân chánh có lương tâm, biết giữ gìn tánh hạnh, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay”.
    - Hành động không chân chánh: hành động không giữ giới hạnh, sát hại vô số các sinh vật hoặc đánh đập người khác gây ra nhiều tội lỗi. Hành động vì lợi mình mà hại người như nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay nặng lãi v.v…

    4- CHÁNH TINH TẤN
    : có nghĩa là tín ngưỡng chân chính, trong sạch, mạnh mẽ lướt tới, siêng năng, dũng mãnh, chuyên cần thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng Phật đã dạy. Hăng say làm việc chánh đáng dù ai có quyền lực áp bức hay bị vô thần cám dỗ cũng không thể lay chuyển được lòng mình, vững tiến trên con đường chánh đạo, đạt quả Niết Bàn và rộng độ quần sanh.
    - Chuyên cần chân chánh: giữ đức tin mạnh mẽ, quyết tâm loại bỏ những việc ác đã sanh, ngăn ngừa việc ác chưa sanh. Luôn luôn làm việc thiện lành. Chuyên cần trau giồi phước đức và trí tuệ.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên dạy: “…Nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy: Người bỏ hết các sự buồn rầu, các điều tà vạy, dẹp lục căn lục trần và rán làm cho tinh thần cho được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ: yên tịnh, hỉ lạc, nghiêm trang, quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết Bàn có tế độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi quả báo”.
    - Chuyên cần không chân chánh: là người say mê ngũ dục lạc,không tiết chế bản thân, còn làm cho tổn hại đến người khác.

    5- CHÁNH MẠNG: có nghĩa là sanh mạng hay đời sống chân chánh trong sạch. Đời sống chân chánh là sống bằng các nghề nghiệp lương thiện, chính đáng, không bóc lột, không gây khổ đau cho chúng sanh.
    - Đời sống chơn chánh: sống bằng khả năng và tài năng chân chánh trong sạch, không lừa dối gạt người. Sống thanh cao không mê tín. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối; bỏ hết đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất sanh bất diệt; thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn." Hay:


    Cho hồn linh cai quản châu thân.
    Lấy chơn nhơn dẹp tánh phàm trần,
    Mới có thể mong về Cực Lạc.


    - Đời sống không chơn chánh: là do bồi dưỡng thân xác trí tuệ càng ngày càng mờ ám, ngu đần. Sống luồn cúi nương tựa ăn bám vào kẻ khác. Dùng miệng lưỡi giao dịch thân thiện làm não loạn tâm trí mọi người.

    6- CHÁNH NGỮ: là lời nói chân thật không hư dối, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của kẻ khác.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Hãy tập lời nói mình cho chân chánh, đúng với sự thật, hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ, cọc cằn, phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới, bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức hạnh và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và điều hợp với tinh thần đạo đức”.
    - Lời nói chân thật: là nói ngay thẳng, thành thật không thiên vị, hòa nhã “Nói những điều đức hạnh hiền lương. Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi”. Lời nói mang tính chất khuyến tu, mở bày ánh sáng giác ngộ tự tâm mỗi chúng sanh.
    - Lời nói không chân thật: lời nói gây chia rẽ không đúng sự thật, làm cho bất hòa với nhau, gọi là lưỡng thiệt. Lơì nói để hại người, xuyên tạc, thiên vị, dua nịnh, nói láo, gọi là vọng ngữ. Lời nói mắng nhiếc, nguyền rủa, thô tục gọi là ác khẩu.

    7- CHÁNH NIỆM: là ghi nhớ sự chân chánh, nhứt tâm suy nghĩ về Chánh Đạo, nó có hiệu năng đối trị tà niệm. Nhớ nghĩ đến tư tưởng và công việc tốt lành, chân chánh; không tạo cơ hội cho tâm trí nổi lên những tư tưởng xấu ác.
    Đức huỳnh Giáo Chủ dạy: “Để thoát chỗ luân hồi bỏ cuộc đời lầm than hoạn nạn, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy ta mới bỏ được các sự xúc động, các mối dục tình tránh điều lụy khổ do nó gây ra”.
    Trong mục Chánh Niệm, chúng ta suy xét thấy có ức niệm và quán niệm. Ức niệm là nhớ nghĩ những chuyện đã qua trong quá khứ. Quán niệm là quan sát cảnh hiện tại để bắt đầu theo lời Phật dạy cho tương lai.
    - Ức niệm chân chính: “Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa”. Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích đệ tử phải hy sinh gắng gổ làm trọn vẹn Tứ Ân mới là tròn câu hiếu nghĩa. Thường nhớ lại những lỗi lầm trước để tự sám hối, không để tái phạm trong hiện tại và tương lai.
    - Ức niệm không chân chính: như nhớ lại oán hận trong quá khứ mưu tìm cách trả thù. Nhớ lại những danh, lợi, tình, uy quyền, phú quý…dù chỉ là hạnh phúc mong manh giả tạm.
    - Quán niệm chân chính: như quán từ bi, thấy nỗi khổ của chúng sanh, đem lòng thương xót, tìm phương tiện giúp đỡ họ. Thấy sự mê lầm của mình và người, gắng chí thực hành những lời của Đức Phật, Đức Thầy dạy bảo để chấm dứt sự mê lầm. Dùng trí tuệ để quán niệm về vũ trụ. Về vô thường, vô ngã của vạn vật, nhìn thực tướng của các pháp để vững tiến trên đường giải thoát.
    - Quán niệm không chân chánh: như trí vẩn vơ nhớ đến dục lạc. Nghĩ ra những kế sách sát hại lẫn nhau. Mưu cầu làm lợi cho mình mà gây thiệt hại cho kẻ khác. Nghĩ ra trò mánh mung lừa đảo để lường gạt người.

    8- CHÁNH ĐỊNH:
    suy nghĩ chân chính. Chánh định là con đường giải thoát rốt ráo của hành giả tu tập Bát Chánh Đạo.
    Đức huỳnh Giáo Chủ dạy: “Con người thường hay có những ý định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên… nghĩa là những ý định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân thế luân lạc, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão,cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác…rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân Loại không thiếu sót một ai. Thế mà họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bã lợi danh, mùi phú quý, đi theo những vật vụn, tiểu ti, eo hẹp.
    Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du trần thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn hết khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự chánh định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẽo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết các sự phàm trần, lần bước đến cõi giải thoát”.
    Chánh định là tu tập để đạt được sự tĩnh lặng của tâm mà trong Phật học gọi là Thiền Định, là chấm dứt dòng ý thức trôi chảy liên miên. Đồng thời tập trung tư tưởng vào việc chánh đáng đúng chân lý lợi mình và lợi người. hành giả tu tập trong giai đoạn nầy chứng được cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh như Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết : " Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
    Con đường tu tập Bát Chánh Đạo, cũng là con đường tu tập Giới- Định- Huệ:
    - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng là tu tập Giới Vô lậu học.
    - Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định là tu tập Định Vô lậu học.
    - Chánh kiến, Chánh tư duy là tu tập Tuệ vô lậu học.

    Bát Chánh Đạo có những công năng:
    - Người tu tự cải thiện được hành vi bất chánh và tạo được đời sống thiện mỹ.
    - Nếu mọi người đều thực hành Bát Chánh Đạo thì tạo được một thế giới hoàn mỹ.
    - Bát Chánh Đạo là nền tảng của giác ngộ giải thoát.

    Lợi ích của tu tập Bát Chánh Đạo:
    - Dòm thấy đúng sự thật, không bị mê hoặc bởi tà giáo.
    - Tư tưởng chơn chánh không bị sa vào lỗi lầm.
    - Việc làm chánh đáng ngay thẳng có ích lợi cho mình và không làm tổn hại cho người khác.
    - Siêng năng chơn chánh thu thập được nhiều kết quả tốt.
    - Đời sống chơn chánh không bị chê bai, khinh rẽ, được mọi người kính trọng.
    - Lời nói chơn thật lợi mình, lợi người.
    - Nhớ nghĩ chơn chánh.
    - Thiền định chơn chánh, trí huệ phát khai, Phật quả viên thành.

    Bát Chánh Đạo là phương pháp tu tập cho người xuất gia lẫn cư sĩ tại gia trong mọi hoàn cảnh đều thực hiện được. Tu tập Bát Chánh Đạo cũng chính là tu tập ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý, đem lại nhiều lợi lạc cho hành giả trên bước đường giác ngộ giải thoát.

    Trong khi chuyển Pháp luân ở Thành Ba La Nai, Đức Phật có dạy bốn chân lý mầu nhiệm gọi là Tứ Diệu Đế, hay Tứ Chân Đế hay Tứ Thánh Đế gồm:
    1- Khổ đế: các sự khổ trong đời (bát khổ)
    2- Tập đế: nguồn gốc sự khổ (vô minh phiền não)
    3- Diệt đế: phương pháp trừ khổ để hưởng quả Niết Bàn
    4- Đạo đế: đường đạo để trừ khổ ( Bát Chánh Đạo)

    Trong quyển “Giác mê tâm kệ”, Đức huỳnh Giáo Chủ lược giải Tứ Diệu Đế hay Tứ Diệu Đề gồm có:
    1- Tập đề: tập sửa mình theo đúng Chánh pháp của Đạo.
    2- Diệt đề: diệt trừ phiền não và lòng ham muốn vật chất, lợi danh…
    3- Đạo đề: thực hành theo con đường Bát Chánh Đạo để giác ngộ giảithoát.
    4-Khổ đề: chịu khó tu hành cho kỳ được các qui điều gíao pháp dạỵ
    Tứ Diệu Đế của Đức Phật và Tứ Diệu Đề của Đức Huỳnh Giáo Chủ giảng dạy, có thay đổi thứ tự và phương cách là vì trong thời Chánh pháp, Đức Phật phương tiện cho chúng sanh biết các nỗi khổ hiện tại là do chúng sanh tạo nghiệp phiền não vô minh ở quá khứ. Muốn khỏi các quả khổ ở vị lai phải diệt trừ các phiền não vô minh hiện tại bằng cách hành đúng theo Bát Chánh Đạo, tất nhiên các nỗi khổ sau nầy sẽ sạch là vào cõi Niết Bàn tự tại.
    Đời Hạ Ngươn mạt pháp, Đức Huỳnh Giáo Chủ phương tiện cho chúng sanh biết là hiện tại ta tập làm các nhân lành, tiêu trừ ác nghiệp, thực hành Bát Chánh, chịu khổ cực tu hành đừng thối chí, tất sẽ tỏ ngộ Đạo mầu, ra ngoài vòng sanh tử đến cõi Niết Bàn.
    Hai cách giảng giải Tứ Diệu Đề của Đức Phật và Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ khác nhau ở phương tiện cho thích hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh, chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau.

    - DUYÊN GIÁC THỪA.

    Hành giả tu tập theo phương pháp quán chiếu Thập Nhị Nhân Duyên là mười hai giai đoạn liên hệ với nhau mà sinh khởi trong vòng sinh mệnh. Trong kinh Tương Ưng Bộ II, Đức Phật đã thuyết minh về mười hai nhân duyên như sau:

    “Do vô minh, có hành sinh; do hành có thức sinh; do thức có danh sắc sinh; do danh sắc có lục nhập sinh; do lục nhập có xúc sinh; do xúc có ái sinh; do ái có thủ sinh; do thủ có hữu sinh; do hữu có sinh sinh; do sinh sinh có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bổ khổ uẩn sinh. Đây gọi là duyên khởi”.
    Mười hai nhân duyên hay giáo lý Duyên khởi, là một giáo lý vô cùng tinh tế, bởi con người đã quen với nếp sống tư duy hữu ngã từ vô thỉ. Hành giả phải có nhận thức đúng đắn và quan sát thường xuyên về giáo lý nầy. Thực tập mười hai nhân duyên theo chiều “đoạn diệt”, chắc chắn từng bước mang đến cho hành giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc hiện tại. Như lời Đức Phật dạy: “Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật”. Thấy Phật là thấy được thực tại tối hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc bị giới hạn bởi vô minh, tham ái và chấp thủ.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết dạy về “Môn Hoàn Diệt” như sau: “Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn giận, chẳng dạ ghét ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ, gây mối thiện duyên, lần lần trí huệ mở mang, cõi lòng sáng suốt thì màn vô minh sẽ bị diệt mất.
    Vô minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh sắc diệt; danh sắc diệt thì lục nhập diệt; lục nhập diệt thì xúc động diệt; xúc động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo thủ diệt; bảo thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải thoát vậy”.

    Ý nghĩa mười hai nhân duyên.

    1- Vô minh: sự mê mờ của tâm thức từ hồi vô thỉ, nên mới có dòng sanh tử.
    2- Hành: là tác động từ thân hành, miệng hành và ý hành.
    3- Thức: tri giác của con người thông qua các cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ thức) lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và ý ( ý thức).
    4- Danh sắc: danh là phần tâm lý, sắc là phần vật lý. Sự hình thành khởi đầu của con người.
    5- Lục nhập: sáu giác quan gọi là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đối tượng của chúng là 6 trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Chính là các cơ quan và chức năng của con người.
    6- Xúc: là động chạm. Xúc là sự gặp gỡ giao thoa giữa căn, trần và thức.
    7- Thọ: là sự lãnh nhận mọi cảm giác.
    8- Ái: là sự ưa thích còn gọi là ái dục.
    9- Thủ: là nắm giữ lấy còn gọi là chấp thủ, bám chặt vào một đối tượng.
    10- Hữu: là có sự hiện diện của thân người.
    11- Sinh: được sinh ra.
    12- Lão tử: có được kiếp người rồi thì sau đó có ngày già đi rồi sẽ chết.
    Đời người là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề có một ngã từ độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ nhân ông của cuộc đời mình, bởi giáo lý mười hai nhân duyên cho thấy sự thật mà không có một đấng sáng tạo ra hay một vị nào khác làm chủ vòng luân chuyển, duy chỉ có những diễn tiến tùy thuộc vào điều kiện.
    Nếu không tự thanh tịnh được tâm ý để tự giải thoát khỏi luân hồi thì vòng quay mười hai nhân duyên sẽ tiếp tục, do vô minh đem lại từ kiếp trước sẽ duyên hành v.v…

    - BỒ TÁT THỪA
    Hành giả tu theo Bồ Tát Thừa cũng nhằm mục đích giải thoát, nhưng so với Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa thì có khác.
    Mục tiêu của hành giả tu theo Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa là đạt được cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh nội tâm.
    Còn hành giả tu theo Bồ Tát Thừa nhận thức rằng bản thân mình và chúng sanh cùng đồng Thể Tánh ( Chân Tâm, Phật Tánh), cho nên hành giả Bồ Tát Thừa lập hạnh nguyện tu hành để giác ngộ, nhưng không an trú nơi Niết Bàn tịch tịnh mà vì Nguyện Lực trở lại thế gian để cứu độ tất cả chúng sanh như lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”.
    Bồ Tát Thừa đi trên con đường Lục Độ Ba La Mật hay Lục Đáo bỉ ngạn là từ ngữ do Trung Hoa dịch từ tiếng Phạn. Nguyên văn Phạn ngữ là Sadparamit. Sad là sáu. Paramit dịch âm là Ba la mật. Chữ Paramit dịch theo ý là Độ, có nghĩa là vượt qua, chính nghĩa là “Đáo bỉ ngạn”, tiếng Việt là bờ bên kia.
    Trong kinh A Hàm và kinh Trung Bộ có ghi như sau:
    “Nầy các Tỳ Kheo, ví như có người đi trên một đoạn đường dài đến một vùng sông rộng lớn, bờ bên nầy nguy hiểm, bất an; bờ bên kia yên ổn bình an, nhưng không có cầu bắt ngang cũng như không có thuyền bè để vượt qua từ bờ bên nầy tới bờ bên kia. Chỉ có một cách người đó muốn qua bờ bên kia là phải thâu nhặt cỏ, cây, nhánh kết lại thành chiếc bè và nhờ chiếc bè nầy, người đó tinh tấn dùng tay chân làm lực đẩy bè vượt qua đến bờ bên kia một cách an toàn. Khi đến bờ bên kia rồi, người đó suy nghĩ: “Chiếc bè nầy lợi ích nhiều cho ta để vượt qua an toàn; nay ta hãy đội nó lên đầu hay vác nó trên vai đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỳ Kheo, các ông nghĩ thế nào? Chư Tỳ Kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng sở dụng của chiếc bè không?
    - Bạch Thế Tôn, không đúng!
    Chư Tỳ Kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Tại đây, Chư Tỳ Kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: “Chiếc bè nầy lợi ích nhiều cho ta, nhờ nó mà ta qua được bờ bên kia an toàn. Nay ta bỏ lại chiếc bè nầy trên khô hay nhận chìm xuống nước, rồi ta đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỳ Kheo, người đó làm đúng sở nguyện của chiếc bè. Cũng vậy, Ta thuyết pháp cũng như chiếc bè nầy làm phương tiện vượt qua sông, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ Kheo, các ông nên hiểu ví dụ cái bè nầy! Chánh pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp.
    Đọc câu chuyện nầy, có mấy điểm chúng ta cần chú ý:
    *Bờ nầy và bờ kia: Bờ nầy ví cho thế giới Ta Bà mà chúng ta đang sống. Thế giới mà con người còn chất chứa đầy phiền não bởi tham lam, sân hận và mê si. Đối lại với bờ bên kia là cảnh Niết Bàn, cảnh giới của người đã giác ngộ và giải thoát như chư Phật, chư Bồ Tát là những người không còn tham, sân, si, dứt mọi khổ đau, phiền não, sống với bản tâm thanh tịnh, an nhiên tự tại. Đức Phật đã mượn sự cách biệt của hai bờ sông để ví cho sự dị biệt giữa hai cuộc sống của chúng ta và người đã giác ngộ, giải thoát.
    *Dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia: Ý nghĩa đề cao tinh thần phấn đấu và ca ngợi tính tự chủ của cá nhân không có thái độ ỷ lại nương tựa vào người khác.Đức Phật xác định Ngài có thần thông, nhưng Ngài cũng không có quyền giảm tội khổ cho con người đã gây nghiệp ác, cũng không ban bố cho ai có hạnh phúc. Ngài cũng từng dạy chúng sanh rằng tự tác tự thọ, tự mình gieo nhân thì thọ quả, không ai thay thế được. Chúng ta gọi Ngài là bậc cứu độ chúng sanh, nhưng chúng ta phải hiểu rằng Ngài chỉ là bậc Đạo Sư hay Pháp Vương, là người chỉ cho ta hai con đường đau khổ và hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường nào để chúng ta đi là trách nhiệm của chúng ta chứ không phải trách nhiệm của Đức Phật. Giáo pháp mà Đức Phật đã giảng dạy là những phương thuốc trị bệnh khổ của chúng sanh, nhưng chúng ta có thiệt hành lời dạy đó hay không là quyền của chúng ta.
    * Chiếc bè: là ngụ ý giáo pháp đã được Đức Phật giảng dạy suốt 49 năm nằm trong Tam Tạng Kinh Điển. Ý nghĩa rằng, người muốn qua sông phải dùng thuyền bè. Nếu không có thuyền bè làm phương tiện thì khó có thể qua bờ bên kia. Cũng vậy, người muốn đến cảnh giới Niết Bàn của Chư Phật phải lấy giáo pháp làm bước tiến tu thì mới thành tựu mục đích. Chiếc bè là phương tiện qua sông cũng như giáo pháp của Đức Phật là phương tiện đưa chúng sanh qua bờ giác ngạn, giải thoát.
    * Đội chiếc bè hay vác nó trên vai: biểu thị thái độ cố chấp của người vô trí. Cái gì không còn giá trị nữa lại không chịu buông bỏ, cứ bám giữ lấy rồi sinh ra khổ đau, không lợi ích gì. Cũng như qua sông rồi chiếc bè trở thành vô dụng, không nên có thái độ tri ơn, rồi trả ơn bằng cách đội chiếc bè trên đầu hay trên vai. Cách trả ơn như vậy không hợp lý đối với ý nghĩa của chiếc bè. Chúng ta là người đi trên đường đạo nên có tư tưởng cởi mở không nên cố chấp.
    * Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua sông, không phải để nắm giữ lấy: mang ý nghĩa giáo pháp của Đức Phật chỉ là phương tiện. Cái phương tiện đó là cách giáo dục mà Ngài mượn ngôn ngữ của thế gian để gởi vào trong đó ý nghĩa đích thực mà Ngài muốn trao truyền cho chúng ta. Cái không còn có giá trị thì nên bỏ là thái độ cần thiết và sáng suốt. Như câu “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự tức đồng Ma thuyết”, y vào hình thức chữ nghĩa của kinh giải thích nhưng lại không hiểu tinh thần giáo dục của Phật thì cách giải thích đó thật oan cho Đức Phật. Ngược lại không căn cứ vào kinh điển để diễn giải ý nghĩa lời Phật muốn dạy, lại tự mình suy diễn nói là Ma thuyết chớ không phải Phật dạy.
    * Chánh pháp còn bỏ đi huống chi là phi pháp: câu nầy hiểu theo tinh thần Xả trong đạo Phật là lấy trí tuệ làm điểm tựa để quyết định vấn đề, nên Xả hay không nên Xả, không phải do vô minh quyết định. Ở đây khái niệm Xả của Đức Phật giảng dạy mang ý nghĩa khi sự kiện không còn giá trị mới xả bỏ, không phải cái gì vẫn còn giá trị cũng xả cũng bỏ. Hành động như vậy là xả bỏ theo vô minh, không phải ý nghĩa Xả chân chính trong đạo Phật. Có người còn lập luận rằng còn chấp trước là còn khổ đau, không thể giải thoát được, không thể thành Phật được, rồi tỏ thái độ ngông cuồng đến độ Phật pháp cũng xả bỏ, nghe qua thì có lý, nhưng xét kỷ nó không có liên hệ gì đến khái niệm xả trong cách tu tập trong đạo Phật. Ta nên hiểu câu “Như ý tác lý, phi lý tác ý” như thế nào? “Như ý tác lý” có nghĩa là suy tư của con người phù hợp với đạo lý của đối tượng mà con người suy tư, ý thức và thực tế phải phù hợp với nhau. Đó là nhận thức của con người có trí tuệ, của người giác ngộ. “Phi lý tác ý” là sự suy tư không đúng, nghĩa là cách suy tư của mình không phù hợp với thực tế. Thực tế như thế nầy lại nghĩ như thế khác. Sự khác biệt giũa suy tư và thức tế là nguyên nhân dẫn đến đau khổ.
    Thực tế cho chúng ta biết rằng cái thân ngũ uẩn là không thường còn, nhưng muốn trở thành bậc Thánh Hiền cũng phải nhờ thân ngũ uẩn. Nếu nói xả bỏ thân nầy, đói không cho ăn, khát không cho uống, lạnh không cho quần áo mặc thì lấy gì làm phương tiện tu tập. Chữ Xả trong đạo Phật là khuyên chúng ta xả bỏ những gì liên hệ đến trí tuệ, như xả bỏ tâm tham lam, tâm sân hận, tâm mê si. Đức Phật dạy chúng ta xả bỏ là loại bỏ những gì xuất phát từ tâm. Như miệng nói xả nhưng tâm cố bám giữ, nó không phải là cái Xả trong đạo Phật. Có một điều chúng ta cần phải hiểu, khi chúng ta chưa giác ngộ mà nói xả bỏ Kinh Luật, chẳng khác nào người chưa qua sông mà đòi bỏ thuyền bè.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Chúng sanh mê nên đem pháp thuyết.
    Đắc đạo rồi pháp bất khả dùng,
    Cũng cùng ý nghĩa như trên.

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dẫn dắt chúng sanh tu hành theo tinh thần Bồ Tát Đạo, là nhập thế cứu độ chúng sanh. Ngài cũng cho chúng ta biết:

    Từ ngàn xưa Phật pháp gài then,
    Nên ít kẻ tu hành đắt Đạo.


    Cho nên trong thời mạt pháp nầy, như Ngài nói:

    Đạo mở cửa bày câu minh mục,
    Nước Ma Ha tưới tắt lòng phàm.

    Và Ngài còn nói:
    Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
    Gậy Kim cang đưa chúng lên đàng.

    Hay:
    Nay rừng bụi có người mở ngõ,
    Thì nương theo dấu thỏ đàng dê.


    Cũng như Ngài nói lòng bác ái của Ngài chứa đựng trong toàn bộ giáo lý của Ngài:


    Lời Thầy dạy thật là cặn kẽ,
    Bao nhiêu tình bác ái góp tom.

    Như vậy tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã quy y, đã tiếp thu học hỏi nhuần nhuyễn giáo lý của Đức Tôn Sư thì phải thể hiện tinh thần nhập thế đúng với nghĩa của “giúp thế độ đời”, “gây mối thiện duyên” để “lần lần trí tuệ mở mang, cõi lòng sáng suốt”.
    Tinh thần nhập thế thiết thực chính là bố thí, pháp đầu tiên của Bồ Tát Đạo trong “Lục Độ Ba La mật” như Ngài khuyên:

    Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
    Bố thí trì chay giữ giới mà.
    Phật đạo trau dồi tâm tánh lại,
    Giác thuyền chuyên chở lúc can qua.

    1- BỐ THÍ: là pháp thứ nhứt của Lục Độ. Bố thí là cho, giúp đỡ kẻ khác, còn mang ý nghĩa của Xả. Công năng của Bố thí như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.

    Bố thì được chia ra làm ba loại: Tài thí, Pháp thí, và Vô úy thí.
    -Tài thí: là dùng tiền tài, vật chất để giúp người khác như thiếu ăn thì cho thức ăn, thiếu mặc thì cho quần áo, gặp cơn phong hàn thì cho chăn mền đắp, đau yếu cho thuốc uống; đó là cách thể hiện lòng từ bi, gần gũi họ và có cơ hội dạy Phật pháp cho họ, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ bảo:

    Giúp người đói khó nhu mì,
    Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.


    Ngài cũng kêu gọi hết thảy mọi người thể hiện tình tương thân tương trợ, như Ngài khuyên:


    Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
    Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm.
    Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm,
    Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.
    Chẳng làm phước để làm hung dữ,
    Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.


    Công năng của tài thí như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Chết rồi bỏ của bơ vơ,
    Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời.
    Xác phàm có mấy lăm hơi,
    Hỏi vay có một mà lời năm ba.
    Của dư cho mượn mới là,
    Hảo tâm bố thí Ngọc tòa được lên.
    Chê nghèo, giàu nọ đâu bền,
    Chi bằng bố đức lập nền từ bi.
    Con hiền khá sớm hồi qui,
    Nghe lời Phật dạy kịp kỳ bớ dân.


    - Pháp thí: là dùng Phật pháp, đạo lý giác ngộ, giải thoát giảng dạy chúng sanh, khiến họ hiểu Phật pháp, giảm bớt đau khổ, tăng trưởng hạnh phúc để lo tu hành, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên ta như sau:

    Phật Tiên Thánh lòng nhơn hà hải,
    Những ước ao thế giới hòa bình.
    Nên khuyên đời truyền bá sử kinh,
    Cho sanh chúng sửa mình trong sạch.

    Hay:
    Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
    Với tín nữ, thiện nam Phật Giáo.
    Nên cố gắng trau thân gìn Đạo,
    Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành.
    Làm cho đời hiểu rõ thinh danh,
    Công đức Phật từ bi vô lượng.
    Đồng dẹp bớt âm thanh sắc tướng,
    Lo chấn hưng Phật pháp mới là.

    Công năng của Pháp thí như lời Đức Huỳnh Giáo chủ thuyết:

    Ai làm phước in ra mà thí,
    Thì được nhiều hạnh phúc sau nầy.

    Vì:
    Kẻ xa xôi có lòng ái mộ,
    Xem kệ nầy tu tỉnh tại nhà.
    Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,
    Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc.


    Việc biên chép và ấn tống kinh pháp nhằm truyền trao giáo lý từ bi và trí tuệ đến mọi người là việc làm phước thiện được khuyến khích và ca ngợi. Việc làm nầy có nhiều lợi lạc cho người làm phước thật mầu nhiệm, giúp cho mình và người đều hướng thiện, tạo phước báu vô lượng.
    Truyện tích kể rằng: “Vào đời Đường, tại kinh đô có một người tên là Phan Quả. Lúc trẻ, tánh tình hiền lành, lớn lên nhờ có chút võ nghệ nên xin một chỗ làm tại huyện đường và thường giao du với một số bạn trẻ đồng niên rồi từ từ nhiễm thói hư tật xấu.
    Một ngày nọ, thấy một con dê lạc đàn đang ăn cỏ ở chỗ đất hoang, Phan Quả cùng bạn bè vây bắt con dê đem về nhà. Dọc đường dê sợ hãi cất tiếng kêu vang, bọn chúng sợ chủ dê nghe, Phan Quả hoảng quá bèn dùng dao cắt lưỡi dê, rồi tự cho mình là người có mưu trí hơn người, xử gọn gàng, độc đáo.
    Đem dê về nhà, Phan Quả cùng bạn bè giết dê bày tiệc nhậu nhẹt với nhau. Coi như mọi việc đã qua, cho đến một năm sau, Phan Quả đột nhiên phát hiện lưỡi mình dần dần teo lại, nói năng ngượng nghiệu. Phan Quả biết mình mắc phải bịnh kỳ quái do ác nghiệp gây ra nên xin huyện đường cho nghỉ việc.
    Quan huyện lúc bầy giờ là Trinh Dư Khánh nghi ngờ Quả có điều gì dối trá nên cho người khám nghiệm thì quả thực lưỡi teo lại còn nhỏ như hạt đậu. Quan huyện bèn hỏi căn nguyên, Phan Quả dùng bút mực tả lại đầu đuôi câu chuyện. Quan huyện biết vậy, liền bảo thuộc hạ của mình làm phước, chép kinh Pháp Hoa. Phan Quả phát tâm kính tín, giữ gìn trai giới, siêng năng tu phước, chép kinh. Sau một năm, lưỡi của y dần dần bình phục lai như trước.
    Phan Quả vui mừng khôn tả, vội vàng đến quan huyện trình bày tất cả sự việc và quan huyện cũng vô cùng hoan hỉ liền thăng chức cho Quả”.
    Chép kinh pháp cũng là một hình thức công phu. Muốn chép kinh trước hết phải đọc kinh, sau đó mới nắn nót lời kinh, rồi viết chữ kinh phải ngay thẳng, rõ ràng. Muốn làm được như vậy, người chép kinh phải có toàn tâm toàn ý mới công việc. Khi tâm ý tập trung vào lời kinh, người chép kinh ngộ ra ý kinh thâm diệu so với việc đọc tụng hàng ngày khó có thể nhận ra, như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ xét thấy:


    Rừng kinh kệ ít người hay chữ.
    Quá mắc mỏ bởi chưng Phạn ngữ,
    Nên người đời khó kiếm cho ra.
    Mõ chuông bày đọc tụng ó la,
    Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý.


    Nhờ công phu chép kinh pháp mà làm cho thân tâm trở nên an lạc, nhẹ nhàng và từ đó chuyển hóa được ba nghiệp thân, khẩu, ý, làm nền tảng cho phát triển phước báu.
    Sống ở đời “nhơn vô thập toàn”, cho nên không tránh khỏi lỗi lầm. Có những lỗi lầm từ kiếp trước dẫn đến quả báo hiện tiền và có những lỗi lầm đang kết trái ở tương lai. Chúng ta biết rằng “nhân nào quả nấy”, cho nên muốn cải thiện điều xấu ác đã làm chỉ có cách tích cực làm thêm nhiều điều thiện lành. Trước mắt ta thấy điều lành biểu lộ qua công việc biên chép kinh hay in kinh.
    Câu chuyện sám hối của Phan Quả là một điển hình. Hắn đã tạo nghiệp ác và quả báo hiện tiền. May mắn gặp được thiện trí thức chỉ điểm cho cách tu tập, biên chép kinh Pháp Hoa mà dạt được nghiệp chướng bệnh tật nan y rồi được thăng chức.
    Do công năng của việc biên chép kinh như thế, nếu như ai có đủ phước duyên ấn tống kinh pháp thì nên thực hành tự tay biên chép một bộ kinh nào đó để làm kỷ niệm trong đời và cũng để cảm nhận được sự chuyển hóa mầu nhiệm của công đức chép kinh hay ấn tống kinh.
    -Vô úy thí: là làm cho chúng sanh không sợ hãi, gần gũi chúng sanh bằng cách đem tính mạng ra đỡ hay bảo vệ cho người được an vui. Vô úy thí là đừng làm những việc gì không có ích cho chúng sanh hoặc những việc mà họ không kham nỗi, trong đó có cả việc quyên góp hoặc nói những gì mà họ không muốn nghe. Nếu chúng ta là những người vì Đạo pháp, đưa Phật pháp đến mọi người và mọi người đã hiểu Phật pháp thì những nhu cầu vật chất để làm phương tiện hoằng dương chánh pháp sẽ đến một cách dễ dàng. Chỉ e rằng Phật pháp chưa đến mà nhu cầu quá nhiều sẽ làm chết hạt giống Bồ Đề trong lòng mọi người.
    Bố thí được đặt trên cơ sở của người biết giác ngộ, cho nên của bố thí cũng nhằm vào làm cho người được bố thí bớt khổ. Theo tinh thần Phật giáo, lấy tâm bình đẳng, không phân biệt để bố thí:
    Giúp đời đừng đợi trả ơn
    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng.
    Ngoài ba loại bố thí nêu trên, còn một loại bố thí nữa đó là BỐ THÍ TÙY DUYÊN. Sau đây là toàn câu chuyện kể:
    “Có một gia đình muốn mở tiệc nhân ngày sinh nhật của đứa con, nhưng nhà quá nghèo không biết xoay sở sao cho đủ phương tiện đãi khách.
    Còn khoảng một tháng nữa là tới ngày sinh nhựt, nhà có nuôi một con bò sữa, nên gia đình muốn bữa tiệc hôm ấy phải có món sữa bò tươi. Thế là hai vợ chồng đồng ý với nhau từ nay cho đến ngày sinh nhựt con, không vắt sữa hàng ngày nữa, mà để dành đến ngày sinh nhựt con vắt luôn một thể.
    Đến ngày sinh nhựt, hai vợ chồng vui mừng tin chắc rằng gia đình sẽ vắt được rất nhiều sữa đãi khách. Nào ngờ, cả hai vợ chồng cố vắt mãi, nhưng chẳng được giọt sữa nào. Hai vợ chồng buồn bã, hởi ôi! Xem như trận nầy mình mất “cả chì lẫn chài”, uổng công cả tháng trời để dành, mà nay con bò không cho lấy một giọt sữa. Và cũng từ đây, con bò bị tắt sữa luôn, không có khả năng sản xuất sữa được nữa, vì lâu ngày không vắt sữa.
    Cây chuyện trên đã cho ta một kinh nghiệm sống trong cuộc đời. Với quan niệm chờ cho có nhiều tiền rồi mới thực hành hạnh bố thí không khác gì chuyện để dành sữa ở con bò, không có cơ hội có sữa. Nếu ta muốn thực hành bố thí mà nghĩ như vậy thì suốt đời, suốt kiếp ta không giúp gì được cho ai, vả lại, nó sẽ làm lép đi hạt giống từ bi trong ta. Bố thí có nhiều cách, nếu không có tiền của, thấy người khác bố thí, cúng dường ta sanh tâm hoan hỉ, vui theo thì ta và người bố thí đều có phước báu bằng nhau.
    Ngày xưa có một vị Tỳ kheo nghe nói như vậy, mới thắc mắc hỏi Đức Phật: Người bố thí cúng dường có phước là lẽ đương nhiên, còn người tùy hỉ vui theo tại sao có phước ngang bằng? Đức Phật đưa ra một ví dụ như có người đang đốt ngọn đèn, rồi có hàng trăm người đem đèn tới mồi theo. Ta thấy ngọn đèn kia vẫn cháy sáng không mất, và hàng trăm ngọn đèn khác cũng được cháy lên tỏa sáng khắp nơi.
    Cũng vậy, người cúng dường được phước giàu sang trong hiện tại và mai sau là lẽ đương nhiên rồi. Còn người tùy hỉ khi thấy người khác thực hành bố thí, cúng dường, không sanh tâm tật đố, ganh ghét được phước không nóng giận, bởi nóng giận dễ dẫn đến hận thù, rồi tìm cách trả đũa không có ngày dứt. Do không ganh ghét, tật đố, oán giận nên người ấy sống được an lành, hạnh phúc. Vì thế Đức Phật nói hai người phước báu bằng nhau là như vậy.
    Bố thí có hai dạng: Bố thí trong sạch và bố thí không trong sạch.
    Bố thí vì cầu danh muốn ai cũng biết đến mình, thấy mình là trung tâm của vũ trụ, mình hơn người không ai bằng.
    Hoặc vì ganh ghét mà bố thí, bố thí cho bỏ ghét, hoặc bố thí vì muốn dụ dỗ người ta mê hoặc lòng người, bố thí để chứng tỏ mình là người giàu có hơn người hay bố thí để lấy lòng cấp trên. Nói tóm lại tất cả hành vi bố thí vì tư lợi cá nhân, vì tâm xấu xa, ích kỷ, vì tâm muốn hơn người được gọi chung là bố thí không trong sạch.
    Còn các hành động bố thí:
    - Vì thương người mà cho
    - Vì bổn phận mà cho
    - Vì hy sinh mà cho
    - Vì giác ngộ mà cho

    Thực hành bố thí như trên là vì lợi ích cho người được gọi là bố thí trong sạch, ta vì tâm từ bi, vì lòng thương người mà bố thí, không có tâm mong cầu người biết ơn hay đền ơn đáp nghĩa. Người bố thí cúng dường với tâm bình đẳng không phân biệt thân sơ, tùy duyên cúng dường giúp đỡ không tính toán lợi hại thì mới được phước báu không thể nghĩ bàn.
    Tóm lại, người bố thí cúng dường với tâm bình đẳng, không phân biệt thân sơ và tùy duyên mà bố thí cúng dường thì người đó được gọi là người đại bố thí hay đại thí chủ”.

    2- TRÌ GIỚI: là pháp thứ hai của Lục Độ.
    Tinh thần giữ giới luật của nhà Phật rất giản dị, vì người tu tập chỉ cần tuân thủ câu “chư ác mạc tác” nghĩa là không làm nên bất cứ việc ác nào là đủ nghĩa của giữ gìn giới luật. Tất cả những việc làm từ hành vi đến lời nói xuất phát từ Tham, Sân,Si đều gọi là ác. Vì chúng sanh căn cơ trình độ còn kém cỏi không phân biệt được thiện ác, nên Đức Phật mới phương tiện qui định thành giới điều để họ căn cứ vào đó mà trì giới. Nếu không có những qui định cụ thể họ không biết phải làm sao. Mỗi khi Đức Phật chế định ra giới điều nào, đều tùy vào hoàn cảnh không gian và thời gian khác nhau, xã hội khác nhau, con người khác nhau.
    Giới điều của nhà Phật nhằm mục đích giúp con người tu tập đến chỗ giác ngộ, giải thoát. Giới luật của nhà Phật không phải cột trói con người không cho làm điều gì, mà có xu hướng dẫn con người đến giải thoát. Nếu ai hiểu được tinh thần giáo dục của Đức Phật thì bất cứ hành vi nào trong khi đi, đứng, nằm, ngồi đều không ra ngoài giới luật. Trái lại, người không hiểu tinh thần giáo dục của Đức Phật dù cho có trói tay chân không cho cử động hay nhốt trong lồng sắt, người ấy vẫn phạm giới của nhà Phật, là Mê Si.
    Hàng cư sĩ tại gia cần tuân thủ “Năm Điều Giới Luật” của nhà Phật để tu hành giải thoát, như không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống chất làm say.
    Còn người tín đồ đạo Phật Giáo Hòa Hảo cũng là hàng tại gia cư sĩ, ngoài việc tuân thủ “Năm Điều Giới Luật” còn phải giữ những điều “Răn Cấm” của Đức Huỳnh Giáo Chủ chế định (trình bày ở phần Giới Luật).
     
  12. Hhuynh

    Hhuynh Administrator


    3- NHẪN NHỤC: là pháp thứ ba của Lục Độ.
    Nhẫn có nghĩa kham nhẫn, nhẫn nại chịu đựng. Người có trí tuệ khi gặp nghịch duyên như bị nhục mạ vẫn nhẫn chịu không lòng giận hờn, ngược lại có lòng thương hại kẻ nhục mạ mình. Người có lòng kham nhẫn là người làm việc gì cũng dễ thành công, không chán nản, không bỏ cuộc. Người tu học theo đạo Phật cần phát huy đức tính nầy. Tính kham nhẫn là phấn đấu làm người tốt, việc tốt, chớ không phải nhẫn nhục làm việc bất thiện. Làm việc phi pháp, không chịu lắng nghe, không nhận khuyết điểm, tiếp tục việc làm bất thiện, mặc cho người chê trách. Thái độ như thế không phải là tự nhẫn nhục trong tinh thần Ba la mật của đạo Phật.
    Trong kinh Hoa Nghiêm có ghi “Nhứt niệm tâm sân khởi, bá vạn chướng môn khai”, một niệm sân hận nổi lên thì trăm muôn cửa nghiệp chướng đều mở rộng.
    Nho giáo cũng có câu “Nhứt tinh chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi sơn, bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức”, một đóm lửa con có thể đốt cháy muôn khu rừng núi, nửa câu nói quấy làm mất cả đức hạnh bình sanh của mình.
    Các bậc Thánh cũng khuyên người đời nhẫn nhịn “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận, nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu”, nhịn, nhịn, nhịn, thì bao nhiêu oan trái đều dứt, dung, dung, dung, thì bao nhiêu tai họa đều tiêu.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy người tu hành về đức Nhẫn qua bài thi bằng Việt Hán với tiêu đề “Bát Nhẫn”

    Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
    Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ yên.
    Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ,
    Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
    Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.
    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.

    Để làm sáng tỏ ý nghĩa bài thi “Bát Nhẫn”, chúng tôi xin nêu ra phần diễn ý của Đức Huỳnh Giáo Chủ, khi Ngài viết quyển “Giác Mê Tâm Kệ”, để cho mọi người thông đạt được đạo Nhẫn:

    Rồi hành luôn Bát Nhẫn mới là,
    Thì muôn việc đều an bá tuế.
    Chữ thứ nhứt Nhẫn Năng Xử Thế,
    Là người hiền khó kiếm trong đời.
    Lập thân danh tuần trải nơi nơi,
    Chờ thời đại mới là khôn khéo.
    Chữ Nhẫn Giái trì tâm trong trẻo,
    Khuyên dương trần giữ phận làm đầu.
    Nhẫn Hương Lân cùng khắp đâu đâu,
    Trên cùng dưới đều hòa ý hỉ.
    Nhẫn Phụ Mẫu gọi trang hiền sĩ,
    Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau.
    Nhịn xóm chòm cô bác mới cao,
    Nhẫn tâm nọ ngày ngày an lạc.
    Nhịn tất cả những người tuổi tác,
    Nhẫn tánh lành yên tịnh dài lâu.
    Giữ một lòng hiền hậu mới mầu,
    Quanh năm cũng bảo toàn thân thể.
    Chữ Nhẫn Đức kể ra luôn thể,
    Thì trong đời vạn sự bình an.
    Chữ Nhẫn Thành báu quí hiển vang,
    Khắp bá tánh được câu hòa nhã.

    Trong giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài thường nhắc nhở chúng ta đừng quên chữ “Nhẫn” trong cách hành xử việc đời hay việc đạo:

    Sân si phỏng có đều thêm bận,
    Nhẫn nhịn ắc không chuyện kéo dài.
    Hay:
    Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
    Đợi cho người hết giận ta khuyên.
    Chữ Nhẫn hòa ta để đầu tiên,
    Thì đâu có mang câu thù oán.
    Việc hung ác hể vừa thấp thoáng,
    Chữ từ bi ta diệt nó liền.
    Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
    Thì thù oán tiêu tan mất hết.
    Hay:
    Rán nhẫn trăm phần dù khó nhẫn,
    Dạ thưa quan chức phận làm dân.

    Làm dân bá Nhẫn thị lương hiền,
    Chữ Nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên.
    Gương trước Hớn, Tần, Hàn Tín nhẫn.
    Đã không khổ lụy khỏi ưu phiền.
    Hay:
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
    Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
    Nay ta đã qui y cầu Đạo,
    Gây gỗ là trái thuyết từ bi.
    Hay:
    Theo học Đạo mặc ai mai mỉa,
    Ta cũng đừng gây gỗ với người.

    Trong Kinh lời dạy cuối cùng của Đức Phật, Ngài để lại lời dặn dò cho các đệ tử trước giờ phút ra đi: “Nầy các đệ tử, nếu có ai xúc phạm, thương tổn thân thể các vị, các vị nên kềm chế tâm mình, đừng để lửa sân hận thiêu đốt. Lại phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, đừng buông lời ác độc để trả đủa ai. Tâm sân hận nổi dậy sẽ làm băng hoại đạo nghiệp, cháy hết công đức tu tập. Đức tính kham nhẫn thì giữ giới và khổ hạnh, không có gì sánh bằng. Thực hành đức nhẫn mới xứng đáng là bậc Thượng Nhơn có sức mạnh. Người nào chưa có thể chịu đựng sự nhục mạ một cách hoan hỉ, như uống nước cam lồ, thì chưa thể xứng danh là người vào Đạo có trí. Sự sân hận sẽ thiêu hủy tất cả pháp lành, nó nguy hiểm hơn lửa dữ. Các vị phải canh phòng cẩn mật, đừng cho sân hận xâm nhập. Trong các loại giặc cướp công đức thì sân hận là nguy hiểm nhứt. Người thế gian sống thọ hưởng dục lạc, thiếu phương pháp chế ngự, nếu có sân hận thì có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo loại bỏ mọi thú vui của đời mà không loại bỏ được sân hận thì thật là đáng trách, cũng giống như bầu trời quang đãng mà có sấm sét nổi lên là điều không thích hợp”.

    4- TINH TẤN: là pháp thứ tự của Lục Độ.
    Tinh là chuyên ròng, không xen tạp; Tấn là siêng năng tiến tới. Việc tu học và hành đạo của người tu là phải tinh chuyên và cần mẫn. Mỗi người tu là tu cho chính bản thân, âm thầm trong tâm, chớ không phải kheo khoang cho người khác thấy. Nếu chỗ đông đảo ta làm như tinh tấn tu hành, oai nghi, phép tắc; khi không có ai lại chểnh mảng trong công phu, đó là chấp tướng, như thế chưa phải thật sự tinh tấn. Tinh tấn là điều kiện cần thiết để hổ trợ cho người tu hành. Trong cuộc đời của mỗi người có nhiều thành công cũng như thất bại. Thành công ta không nên sanh tâm ngã mạn, lúc thất bại không thối chí ngã lòng, cho nên việc tu cũng vậy dù mau hay chậm ta cũng có sự tiến bộ.
    Tinh tấn phải thường xuyên, như ta thấy nước chảy làm mòn tảng đá. Cũng vậy, dòng nước tinh tấn sẽ làm tiêu đi cục đá vô minh. Chúng ta cũng không nên có lúc quá siêng năng, nhưng có lúc bê trễ thì sự tu hành khó đạt được kết quả mong muốn. Chúng ta cũng không có gì đặc biệt tỏ vẻ khác đời, chỉ cần sống đời đạo hạnh bình thường, không lười biếng trong công phu tu tập, đều đặn ngày nầy qua ngày khác là đi đúng theo nẻo đạo.
    Tinh tấn cần có sự hổ trợ của ý chí và nghị lực mạnh mẽ. Trên đường tu học cũng không phải mọi người đều cư xử tốt đẹp, mọi việc thuận chiều như ý. Khi mới phát tâm tu, nghị còn kém, ít bị ma vương quấy nhiễu. Nhưng khi đường tu tiến lên thì ngũ dục lôi cuốn, nghịch duyên càng kéo tới liên miên. Nếu không có ý chí mạnh mẽ, nghị lực vững vàng, người ta khó vượt qua chướng ngại đó.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ luận giải và khuyên chúng ta trong mục Tinh Tấn như sau:
    “Phái vô- thần- luận thường cho rằng thân xác tức con người. Thân còn tức người còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo, luân hồi; cũng chẳng có tội phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh khóe gian hùng, bao nhiêu ngón điêu ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược ngang đều đem ra dùng cả thảy”.
    “Vì vậy mục Chánh tinh tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh thoát nơi khổ hải của Đức Thế Tôn, phải nhớ rằng sanh linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế trước hết phải tìm phương pháp tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự buồn rầu các điều tà vạy, dẹp lục căn, lục trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tính cho thiện mỹ: yên tịnh, hỉ lạc, nghiêm trang, quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết Bàn đặng có tế độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi quả báo”.
    Và Ngài cũng viết tiếp như:

    Chánh Tinh Tấn dầu thành hay bại,
    Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
    Dầu cho ai phá rối đức tin,
    Ta cũng cứ một đàng đi tới.

    Trong kinh Di Giáo, Đức Phật cũng dạy: “Nầy các đệ tử, ban ngày thì nỗ lực tu tập pháp lành, cuối đêm cũng không luống bỏ. Giữa đêm tụng niệm tu trì. Đừng vì chuyện ngủ, nghỉ mà để cuộc đời trôi qua vô ích. Hãy tâm niệm rằng ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, để tự tinh tấn độ mình, khắc phục sự lười biếng, ngủ nghỉ. Giặc phiền não luôn luôn rình rập giết các vị, còn nguy hiểm hơn kẻ thù, làm sao các vị có thể mặc tình ngủ nghỉ mà không cảnh giác! Phiền não ngủ trong tâm người cũng như rắn độc nằm trong nhà, phải dùng móc sắc giới hạnh mà lôi kéo nó ra gấp. Rắn độc ra rồi ta mới an tâm ngủ nghỉ. Rắn độc chưa ra mà ta mãi mê ngủ nghỉ thì thật là người không biết hổ thẹn”.
    Đức Phật cũng dạy tiếp: “Nầy các đệ tử, nỗ lực tinh tấn thì không việc gì khó khăn! Thế nên các vị phải siêng năng tinh tấn như giọt nước thường nhỏ có thể xuyên thủng đá. Người tu hành mà biếng nhác thì khác nào như người cọ cây lấy lửa, cây chưa kịp nóng đã nghỉ, dầu tha thiết được lửa, lửa cũng không vì thế mà có được. Hãy siêng năng tinh tấn không dừng”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên chúng ta hãy dũng mãnh tiến bước trên con đường tu tập chớ thối chí ngã lòng:

    Rèn lòng giữ dạ sắt đinh,
    Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh thơi.

    Vì:
    Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa,
    Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng

    Hay:
    Ai thương ai ghét mặc tình,
    Phận mình cứ giữ tâm mình chon ngay


    Để rồi nhắm thẳng một đường đi tới:

    Bước tới hùng ca bước tới hoài,
    Đạo đời hủy báng mặc tình ai.


    5- THIỀN ĐỊNH:
    là pháp thứ năm của Lục Độ.
    Nội dung của thiền định là an định nội tâm không cuồng quay theo trần cảnh. Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Lục Tổ Huệ Năng giải thích nghĩa thiền định như sau: “Ngoài không chấp dính vào cảnh là Thiền, trong không loạn động tức là Định. Nếu chấp cảnh tâm biến loạn, lìa cảnh tâm được thanh tịnh; chỉ vì thấy cảnh liền chấp theo cảnh nên sanh loạn động. Nếu chúng ta thấy cảnh mà tâm không loạn động mới thiệt là chân định. Ngoài không chấp cảnh tức Thiền, trong không loạn là Định. Ngoài thiền trong định gọi là thiền định”.
    Thiền định không nhất thiết phải ngồi, mà ở bất cứ mỗi lúc mỗi nơi. Trong cuộc sống văn minh khoa học tiến bộ, tiện nghi vật chất tranh đua làm cho con người căng thẳng thần kinh, càng làm mất đi sự an định cho sức khỏe tinh thần. Bệnh tật do tinh thần kéo theo bệnh về thể chất, nên thiền định là phương thuốc có thể điều trị được những bệnh về thân và tâm.
    Thiền định giữ tâm người bình thản trước phong ba bão táp của cuộc sống. Những tình huống xảy ra hàng ngày ví như tám ngọn gió mà từ ngữ trong nhà Phật gọi là “Bát Phong”: Lợi (thu được tài sản), Suy (hao tài tốn của), Hủy (bị hủy báng), Dự (được ca tụng), Xưng (được khen tặng), Cơ (bị chê bai), Khổ (làm buồn khổ), Lạc (được vui vẻ). Tám ngọn gió nầy thổi qua để thử thách người tu hành không lay chuyển thì cơ may sẽ đạt Đạo.
    Thiền định cũng là phương tiện để trí huệ phát sinh. Không có thiền định thì không có trí huệ, không có trí huệ thì không phá vỡ được màng vô minh để Phật tính hiển lộ.
    Thiền định giúp con người có trí nhớ tốt, bình tỉnh trước mọi việc, giúp con người có sức khỏe tốt, không nóng giận, giữ hạnh phúc gia đình. Thế nên chúng ta cần tu tập thiền định. Đức Huỳnh Giáo Chủ luận giải về thiền định như sau:
    “Con người thường hay có những ý định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên…nghĩa là những ý định hoàn toàn nhỏ nhen thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy, mai khác, thân thể lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác… rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bã lợi danh, mùi phú quí, đi theo những vật vụn tiểu ti, eo hẹp.
    Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp sống phù du của trần thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền Định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn hết khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta đã dùng sự chánh định dẹp bỏ các phiền não buồn rầu, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màn sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết phàm trần, lần bước đi đến cõi giải thoát”.
    Trong kinh Di Giáo, Đức Phật cũng dạy: “Nầy các đệ tử, nhiếp được tâm ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng thái sinh diệt, biến chuyển của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất, cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy”.

    6- TRÍ TUỆ:
    là pháp thứ sáu của Lục Độ.
    Đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, nên tất cả những người con Phật đều xem sự giác ngộ là sự nghiệp hết cả cuộc đời. Dù tu theo pháp môn nào cũng đặt trí tuệ lên hàng đầu. Nếu gọi đầy đủ là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Trong pháp Bảo Đàn Kinh, Đức Lục Tổ Huệ Năng giảng như sau:
    “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn, người Trung Hoa dịch: Đại trí huệ đáo bỉ ngạn, nghĩa là trí tuệ lớn, đến bờ bên kia, tức bờ giác. Việc tu do tâm hành chớ chẳng do miệng nói. Miệng nói mà tâm không hành thì như mộng ảo, như biến hóa, như sương mù, điện chớp. Miệng niệm tâm hành thì lòng và miệng hợp nhau. Chơn tánh mình là Phật, lìa tánh không có Phật”.
    “Chơn tánh của mình có khả năng dung chứa tất cả cảnh vật nên gọi rộng lớn. Các cõi đều ở trong chơn tánh con người. Không chứa chấp trong lòng việc ác, điều lành của người khác, không giữ bỏ, không nhiễu mắc, vẫn bình lặng như không trung rộng bao la, đó gọi là Ma Ha”.
    “Sao gọi là Bát Nhã? Đó là tiếng Trung Hoa, có nghĩa là trí huệ sáng suốt. Tất cả nơi chốn, bất cứ thời gian, các niệm tưởng không mê, thường hành sáng suốt, đó là hạnh Bát Nhã. Một niệm tưởng hôn muội là Bát Nhã dứt, một niệm tưởng sáng suốt Bát Nhã liền sanh”.
    “Bát Nhã không hình tướng, tâm sáng suốt là Bát Nhã. Nếu rõ hiểu như thế tức là trí Bát Nhã”.
    “Sao gọi là Ba La Mật? Đó là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch: đáo bỉ ngạn tức bờ bến bên kia, tức là giải thoát, lìa sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt nổi lên, như nước dậy sóng là bờ bên nầy. Lìa cảnh sanh diệt dứt, nước lưu thông, là đến bờ bên kia, tức lìa sanh diệt, gọi là Ba La Mật”.
    “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tối cao, tối thượng, là đệ nhứt, không trụ, không đến, không tới lui, ba đời chư Phật nương đây tu hành. Nên dùng đại trí huệ chiếu sanh ngũ uẩn và các phiền não trần lao, biến ba độc: Tham, Sân, Si thành Giới, Định, Tuệ, tu hành như vậy nhứt định viên thành Phật quả”.
    Trí tuệ là hiểu biết nhận thức được sự thật về bản thân và cuộc đời. Với trí tuệ, với cái thấy đưa lại sự chấm dứt của mọi sầu đau làm phát sinh niềm an lạc.
    Đức Phật nói: “Có tỉnh thức và chú tâm ta mới có khả năng quán chiếu về thực tánh của tâm ta và của hoàn cảnh, có quán chiếu ta mới có tuệ. Tuệ tức là sự hiểu biết”.
    “Một khi có sự hiểu biết, ta có thể thương yêu và tha thứ. Cuộc đời sẽ bớt khổ rất nhiều khi ta có hiểu biết. Nếu không có hiểu biết ta không thể thương yêu và tha thứ, cho nên con đường giải thoát là con đường thực hiện sự hiểu biết. Hiểu biết là trí tuệ, là Bát Nhã”.
    “Mà trí tuệ chỉ có thể do quán chiếu đem lại. Vì vậy con đường duy nhứt đưa đến giải thoát là Giới, Định, Huệ”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng khuyên chúng ta tỉnh cơn ảo mộng, phải tự tánh giác ngộ, tìm đường giải thoát:

    Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh,
    Tìm đường Trí Huệ lánh thân ra.

    Lánh thân ta khỏi chỗ mang tai,
    Tầm nẽo cao siêu đến Phật đài.
    Bến giác Thần Tiên mau chực sẵn,
    Bể mê trần tục phải cao bay.

    Hay:
    Thế trần tạm giả gạt đời ta,
    Lướt nẻo sông mê khỏi ái hà.
    Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
    Sắc không, không sắc chớ lìa xa.
    Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra.
    Lóng lánh gương xưa lời Phật dạy,
    Hồng trần ái dục giết tài hoa.

    Hay:
    Nếu đã tỉnh tâm tầm lẽ thẳng,
    Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay.


    Trong kinh Di Giáo, Đức Phật dạy: “Nầy các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo lý của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt dứt dây phiền não. Vì thế các vị cần trau dồi tuệ giác “Văn, Tư , Tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật”.
    Lục Độ Ba La Mật là một pháp tu. Người tu trên đường Bồ Tát Đạo, thiệt hành theo hạnh Bồ Tát, nghĩa là phải có trí, từ, bi, nguyện; trên thì cầu Phật đạo để đạt giác ngộ, dưới cầu hóa độ chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Trì giới, Tinh Tấn, Thiền định là ba việc làm của người tu để có trí tuệ, thấu hiểu bình đẳng tánh với muôn loài vạn vật. Đồng nguyện cầu noi gương theo đường lối tu hành của Đức Phật và chư vị Bồ Tát như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:

    Tu cầu trăm ho hiền lương,
    Đồng thanh niệm Phật tai ương chẳng còn.

    Hay:
    Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
    Đồng bay về Cực Lạc một đàng.


    ***
    Ngày xưa, khi Đức Phật nói pháp, Ngài thường nhìn thính chúng, rồi định lượng xem nói pháp nào cho phù hợp để mọi người có thể lãnh hội. Do đó người nghe pháp được nhiều lợi lạc.
    Ngày nay, kinh sách in ra rất nhiều cũng như có chương trình phát thanh. Người viết hay nói ra dưới cái nhìn chung chung cho tất cả mọi người, không thể chọn được độc giả hay thính giả. Vì lẽ đó, độc giả cũng như thính giả phải tự chọn pháp môn nào thích hợp với căn cơ của mình.
    Tu giải thoát không chỉ có con đường thoát tục “cắt ái ly gia”, tìm nơi vắng vẻ, cách ly cộng đồng xã hội để mau thành chánh quả.
    Người biết sống tỉnh thức thuận theo lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Đường đạo đức bước đi từng nấc”, nhận ra rất xác thực; muốn lên cao phải qua những bậc thấp. Con đường tu tập đến mức cao tột là bằng những bước gần gũi, thiết thực với đời sống hàng ngày hơn. Con đường Bồ Tát Đạo là ngưỡng cửa cho hành giả bước vào có tấm lòng vị tha qua những bước hành đạo.
    Nhà Phật tin tưởng rằng có nhiều vị Bồ Tát đã thành Đạo; nhưng vì các vị lập nguyện Đại Bi, nên các vị ấy lại có mặt trong thế giới tương đối nầy; làm đủ mọi ngành nghề, có khi tái sanh vào các tôn giáo khác, như trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài có nói rõ trong bài sứ mạng của Ngài, do chính tay Ngài viết “--- trải qua bao kiếp trong địa cầu lăn lộn mấy phen, tùy cơ pháp chuyển kiếp luân hồi ở nơi hải ngoại để thu thập những điều đạo học kinh nghiệm huyền thâm---" hoặc trong những hoàn cảnh khó khăn để hóa độ giúp đỡ chúng sanh “--- những kiếp gần đây, may mắn gặp minh sư, cơ truyền Phật pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đã quảng đại từ bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ”.
    Đại Bồ Tát, Đức Tôn Sư Huỳnh Giáo Chủ tái sanh lâm phàm để hoằng truyền chánh pháp của Đức Phật Thích Ca. Ngài khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, đem giáo lý nhà Phật giáo hóa và cứu độ chúng sanh. Ngài cho biết vì thương trăm họ vạn dân đến hồi tai họa, nên Ngài đành bỏ cảnh thơm tho mùi sen báu, xuống trần cứu khổ cứu nạn:

    Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.
    Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
    Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.


    Ngài xuống trần cũng theo lệnh của Đức Phật Tổ Thích Ca, phổ truyền chánh pháp khắp thế giới:

    Ta thừa vưng lệnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp.
    Tùy phong hóa dân phù hợp,
    Chắp bút thần tả ít bổn kinh.
    Bởi luật trời mở rộng thinh thinh,
    Tri phong vũ bất kỳ chuyển kiếp..


    Ngài cho biết với thệ nguyện “Thệ quyết một lòng chẳng bỏ ngơ, Có sông có núi cùng cây cỏ, Độ tận chúng sanh khỏi dạy khờ” cho nên “Dù gian lao cực khổ chẳng sờn, Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”.
    Ngài tự ví như:
    Thân ta dường thể như lươn,
    Cứu dân bất luận nắng sương lấm đầu.

    Hay:
    Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
    Muốn cứu thế xá chi bùn trịn.


    Dầu cho cảnh đời có muôn ngàn khó khăn, nhưng Ngài không quản ngại:

    Bể trần sóng cuộn lao xao,
    Xông thuyền bát nhã lướt vào một phen.
    Quản chi lực kém tài hèn,
    Dù trời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.


    Một điều chúng ta cần hiểu cho tường tận, chớ có mơ hồ về sứ mạng của Đức Tôn Sư Huỳnh Giáo Chủ; dù hiện tại Ngài tạm vắng bóng vì nhiệm vị thiêng liêng; nhưng mà lời thệ nguyện của Ngài vẫn chưa phai lợt. Chúng ta phải hiểu, nhớ và hành những lời dạy của Ngài, là kim chỉ nam cho chúng ta trên bước đường giải thoát. Như Ngài cho biết: “Ta là kẻ vô hình hữu ảnh, Ẩn xác phàm gìn Đạo Thích Ca” và Ngài khuyên kẻ tu hành kiên tâm bền chí bất thối chuyển:

    Dù ai có cười ta khờ khật,
    Cũng đừng phiền xao lãng chơn tâm.


    Chúng ta phải nhớ điều nầy, sứ mạng của Ngài chưa phải là xong, kể từ khi Ngài xa vắng bổn đạo:

    Phần Sĩ-Tăng tay trống miệng kèn,
    Giác thiện tín chấn hưng nền Phật giáo.
    Nếu chừng nào khai thông đại Đạo,
    Đuốc từ bi rọi khắp cả nhơn gian.
    Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,
    Tăng Sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.


    Cho nên Ngài luôn nhắc nhở chúng ta “Chớ nản chí đường tu bỏ líp” và “Ta dù có cách thôn hương, Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm”. Chúng ta cũng đừng quên lời Ngài nhắn nhủ:

    Ít lâu Ta cũng trở về,
    Khuyên cùng bổn đạo chớ đừng lãng xao.


    Rán tinh tấn, chuyên cần làm hết các việc từ thiện thì sẽ gặp lại Ngài:
    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.

    Đức Phật, Đức Thầy cũng có những lời kinh dạy cho người tại gia tu Phật. Là cư sĩ tại gia, vừa sinh sống trong gia đình với cha mẹ, con cái, vừa thực hành giáo lý bằng phương cách hành Bát Chánh Đạo, vừa làm ăn trong các ngành nghề lương thiện để có một đời sống lành mạnh, sung túc. Dành một chút ít tiền của làm ra cho vào những việc phước thiện như ấn tống kinh sách (chánh pháp) để hoằng truyền, hộ trì chánh pháp là pháp thí. Cúng dường tam bảo, giúp đỡ mọi người là tài thí.
    Theo quan điểm của khoa cơ thể và sinh lý học thì cấu trúc của con người không phải để ăn thịt động vật theo các lý do sau đây:
    1- Răng hàm con người giống như loài động vật ăn rau cỏ, thuộc loại bằng, dùng để nhai nghiền thức ăn, không giống như loài động vật ăn thịt có răng nhọn và bén dùng để cắt xẻ thịt. Có một số người cho rằng sự tồn tại của răng nanh chứng tỏ rằng chúng ta thích hợp với việc ăn thịt. Những con khỉ đột và giống khỉ đầu chó là loài động vật không ăn thịt, răng nanh của chúng được dùng như khí giới để tự vệ, không phải để ăn thịt.
    2- Bàn tay của con người khác với bàn tay (chân) của loài động vật ăn thịt có những móng nhọn vuốt, sắc bén (dùng để chụp mồi bắt thịt).
    3- Dung dịch acid trong dạ dày con người và loài động ăn rau cỏ có nồng độ thấp, thích ứng với việc tiêu hóa các thức ăn rau quả; không giống như loài động vật ăn thịt có nồng độ acid rất cao (độ pH thấp) thích ứng cho sự tiêu hóa nhanh chất thịt.
    4- Hệ thống ruột của con người và loài động vật ăn rau quả rất dài nhằm thích hợp với sự tiêu hóa hoàn toàn loại thực phẩm rau đậu. Trái lại, loài động vật ăn thịt như cọp và sư tử có đường ruột rất ngắn cho phép bài tiết nhanh chóng những chất thải sẽ không được bài tiết ra ngoài nhanh chóng do đường ruột rất dài, vì thế sẽ gây nên nhiều chứng bệnh liên quan đến bộ phận tiêu hóa như ung thư biểu bì, ung thư ruột, thường thấy rất phổ thông trong số những người không ăn chay.
    5- Những người ăn chay và loài động vật ăn rau quả ra mồ hôi làm mát cơ thể, không giống như loài động vật ăn thịt phải thở mạnh (thở hổn hển) để làm mát cơ thể.
    6- Loài người uống từng hớp nước, không giống như loài thú ăn thịt liếm nước bằng lưỡi.
    7- Những người ăn chay và loài động vật ăn rau quả đáp ứng được nhu cầu Vitamin C từ nguồn dinh dưỡng chay. Tất cả loài động vật ăn thịt tự tạo ra Vitamin C cho chúng.
    8- Con người giống như loài động vật ăn rau quả có bàn tay nắm lại được và xử dụng khéo léo không giống như loài ăn thịt, không có bàn tay khéo léo.
    9- Loài động vật ăn thịt thường bài tiết ra ngoài các chất thải rất hôi thối, so với loài động vật ăn rau quả, các chất thải ít hôi thối hơn.
    10- Những người ăn chay và loài động vật ăn rau cỏ không nuốt chửng thức ăn, khác với loài ăn thịt nuốt gọn thực phẩm.
    11- Phần lớn những người ăn chay thích ngọt, không giống như loài động vật ăn thịt ưa thích ăn thực phẩm chất béo.
    12- Loài người có bộ óc lớn hơn, có khả năng hành động một cách hợp lý, trong khi đó loài động vật ăn thịt tỏ ra ít khả năng cư xử thích ứng.
    13- Những người ăn chay thường ít bị ung thư đường ruột, buồng trứng và tinh hoàn so sánh với người ăn thịt. Họ cũng ít bị các chứng bịnh kinh niên khác như cao áp huyết, tiểu đường, sạn mật, mập phì và các chứng tâm thần như nghiện rượu…
    14- Bệnh tim mạch là chứng bệnh gây chết người nhiều nhất ở Tích Lan và các quốc gia đã và đang phát triển, không mấy phổ thông trong số những người ăn chay, vì thực phẩm chay không có chất cholesterol, trái với thịt có nhiều cholesterol. Chế độ dinh dưỡng chay thường có loại chất béo không bão hòa giúp hạ lượng cholesterol, trái với chất béo bão hòa chứa trong thịt thường làm gia tăng lượng cholesterol trong máu. Theo sự hiểu biết thông thường thì lượng cholesterol cao gây nguy hiểm đến chứng bịnh tim mạch.
    15- Tiêu thụ thực phẩm rau, quả, ngữ cốc và hạt đậu chứa đầy đủ chất đạm, chất béo, chất khoáng, chất carbohydrates, fibre và vitamins cần thiết, là điều ưu tiên của chúng ta nhằm bảo vệ lâu dài sức khỏe và sống đời an vui cùng ngăn ngừa các căn bệnh kinh niên như bệnh tim, cao áp huyết, đột quỵ, tiểu đường và ung thư, thường hay xảy ra nơi những người ăn thịt.
    Vì thế con người được tạo ra là để trở thành người ăn các loại thực phẩm có nguồn từ thực vật.
    (Nguyên tác bằng Anh ngữ: Is man created to eat meat? By Dr. D. P. Atukorale, MD).

    ***
    Chữ “ăn mặn” xuất xứ từ chữ “ăn mạng” mà ra. Sau nầy “ăn mạng” người ta quen nói riết thành ra ăn mặn cho dễ nghe. Thật ra ăn mặn tức là ăn mạng, nghĩa là ăn mạng con nầy, con kia, như thịt cá, đồ biển v. v… Nhà Phật khuyên đừng nên ăn mặn; chúng ta nên hiểu là đừng nên ăn mạng, chứ không phải là đừng nên ăn vị mặn.
    Trong kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Ăn thịt có thể tăng lòng ham muốn, người ăn thịt có tánh tham… Với bản năng bảo vệ và quý trọng thân mạng, không có sự khác biệt giữa người và súc vật… Mỗi chúng sanh đều tự mình sợ chết, làm sao có thể ăn thịt chúng sanh khác? Muốn ăn thịt, trước tiên phải nghĩ đến sự đau khổ của thân thể, rồi nghĩ đến sự đau khổ của mọi chúng sanh thì không thể ăn thịt”.
    “Nầy Đại Huệ, ở đời vị lai sẽ có một số người vô minh nói rằng nhiều giới luật Phật Giáo cho phép ăn thịt. Họ rất thích mùi vị thịt do thói quen ăn thịt trong quá khứ, họ nói những lời đó chỉ đơn giản theo quan điểm của họ. Nhưng thật ra Phật (Bậc khai ngộ) và Thánh không bao giờ nói thịt là thức ăn”.
    “Hiện nay trong kinh Lăng Già nầy, ta nói, vào mọi lúc, mọi loại thịt không được ăn, không ngoại lệ. Nầy Đại Huệ, ta cấm ăn thịt không phải chỉ một lúc, ý ta nói là trong hiện tại lẫn vị lai, ăn thịt bị cấm”.
    “Người ăn thịt có vô số tội lỗi, như vậy người ăn chay có vô lượng công đức”.
    Trong kinh Đại Niết Bàn, Tôn Giả Ca Diếp hỏi Đức Phật rằng: “Sao hồi trước Ngài cho phép Tỳ Kheo ăn “ba loại tịnh nhục” hoặc ngay cả “chín loại tịnh nhục?”. Đức Phật trả lời: “Ta định chế như thế vì sự cần thiết vào lúc đó, và để dẫn độ dần dần cho tới khi họ thật sự bỏ được thịt”.
    Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “Ai cũng sợ hình phạt, ai cũng sợ chết. Lấy lòng mình mà suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết”.
    “Người sát hại sinh linh, đâu gọi là Hiền thánh. Không hại mọi hữu tình, mới gọi là Hiền thánh”.

    Chuyện Bên Thầy, dẫn chứng câu chuyện “Tu tiến chớ tu lùi” nói về ăn chay: “Lúc Đức Thầy ở Sài Gòn có hai bà Huỳnh thị Cưởng và em thứ tư là Huỳnh thị Lịnh ở Tòng Sơn. Sau khi được quy y với Đức Thầy, hai bà về nhà cố gắng lo tu thân hành thiện. Hàng ngày thường xem Sấm Giảng của Đức Thầy là quyển kinh nhật tụng, khi đọc đến câu:

    Chay bốn bửa ấy là quy tắc,
    Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng sanh.

    Thì hai bà bàn tán với nhau. Bà Hai nói với Bà Tư:
    - Dì Tư à! Thầy bảo “Chay bốn bửa ấy là quy tắc”, mà mình ăn chay sáu ngày, lại ăn thêm mỗi năm ba tháng nữa, sợ e trái lời Thầy, có lỗi.
    Bà Tư nói:
    - À! Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng từ khi chưa quy y mình ăn theo truyền thống của cha mẹ theo Thiền Lâm, bây giờ đã quy y theo Đức Thầy thì phải ăn lại bốn ngày, chứ ăn dư sợ có lỗi quá chị.
    Hai bà ngẫm nghĩ rồi nói:
    - Muốn biết rõ hơn, chị em mình nên đi lên Sài Gòn, trước thăm Đức Thầy, sau nhờ Thầy dạy cho mình biết, coi nên để y hay sửa lại.
    Bàn tán xong, vài ngày sau hai bà đến Sài Gòn. Khi ra mắt Đức Thầy, bà Tư lẹ miệng bạch:
    -Bạch Thầy, chị em con lên thăm Thầy và nhờ Thầy dạy cho chúng con biết một việc. Nguyên trước kia chưa quy y với Thầy, chị em con ăn chay theo Thiền Lâm, một tháng sáu ngày, với ba tháng Tam Ngươn. Nay Thầy dạy ăn bốn ngày, vậy bây giờ chúng con ăn bớt lại hay là ăn luôn, nhờ Thầy chỉ dạy.
    Nét mặt từ bi, Đức Thầy mĩm cười bảo:
    - Thuở nhỏ cô đi học lớp mấy trước nhứt?
    - Dạ Bạch Thầy, đầu tiên con học lớp Năm
    Đức Thầy hỏi:
    - Rồi sau cô học lớp mấy?
    Bà Tư Bạch Thầy:
    - Năm sau con học lớp Tư.
    Đức Thầy dạy:
    - Ờ! Mới thì học lớp Năm, sau lớp Tư, rồi đến lớp Ba, Nhì, Nhứt. Nên nhớ là càng học càng lên, chớ không ai học xuống bao giờ. Sự tu cũng vậy, các cô ăn mỗi tháng sáu ngày, một năm ba tháng là tốt lắm, cớ sao đổi ăn bớt lại? Sở dĩ Thầy dạy chay bốn bửa là nguyên tắc đầu tiên của người sơ học, phải tùy trình độ của họ mà cho họ tập sự theo điều kiện tối thiểu. Rồi khi trình độ giác ngộ khá thêm sẽ từ từ tiến, chớ chẳng lẽ ở một chỗ hoài sao? Nên nhớ tu là phải tu lên chớ đừng tu xuống nhé! (Thuật theo lời của cô tu sĩ Lý Mỹ Phước, con gái bà hai Huỳnh Thị Cưỡng).
    Một hôm, ông Cò Tàu Hảo trong câu chuyện đàm luận đạo đức với Đức Thầy, ông nói:
    - Tôi thấy pháp môn của Ngài dạy tu giải thoát, còn bên Tam Kỳ người ta dạy tu Tiên nhưng ăn chay trường rất nhiều, còn Ngài dạy có bốn ngày sao giải thoát được?
    Đức Thầy trả lời:
    - Mình là người Đạo Phật rồi, sở dĩ tôi dạy tín đồ tôi ăn chay bốn ngày đó là quy tắc, tối thiểu là bốn ngày, rồi tự họ nhận thức cho rõ ràng sẽ tiến lên chứng bốn bực Thinh Văn, Viên Giác, Bồ Tát, Phật, vô số tính đếm. Còn nếu tôi bắt người ta ăn chay trường thì người ta làm không nỗi vì họ chưa nhận thức rõ từ chỗ bốn bửa, rồi họ nhận thức được từ từ tiến lên, cái đó mới là kết quả, còn bắt buộc sẽ không có kết quả ông ạ!

    Qua câu chuyện trên, ta thấy các đấng cứu thế bao giò cũng tùy duyên hóa độ, cũng như đấng cha lành lúc nào cũng phải biết rõ cố tật của con thơ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày xưa khi hóa độ đệ tử, trước tiên Ngài cũng dạy cho hàng đệ tử tại gia ăn chay mỗi tháng có hai ngày là mùng một và ngày Rằm. Khi trình độ giác ngộ của họ tiến hóa, thì lòng từ bi cũng theo đó mà phát sinh và từ từ ăn sáu hoặc mười ngày, hoặc trường chay. Đó là diệu dụng của bậc Đại Giác thường hành tới phương diện giác tha về điểm nầy.
    Chúng ta có phước duyên được gặp chân lý siêu mầu của Thầy Tổ, nên cố gắng tu tiến chớ tu lùi.

    B- NHỮNG LÝ DO KHUYÊN ĂN CHAY

    1/- Ăn mặn ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe. Theo thống kê cho biết tỉ lệ người ăn mặn bị bịnh nhiều hơn so với người ăn chay. Ngày nay người ta thường dùng hóa chất truyền vào cơ thể của con vật cho chúng mau tăng trọng lượng và tăng sản lượng. Chúng ta ăn thịt những con vật đó chẳng khác nào ta ăn độc tố hóa chất. Trong môi trường chăn nuôi không tốt cũng như cũng như con vật bị giết thường tiết ra độc tố mang nhiều chứng bịnh; như thời gian gần đây dịch cúm heo, cúm gà mà khi con người ăn thịt những con vật đó cũng sẽ bị bịnh hoặc cơ thể chứa những chất độc. Cá bị nhiễm chất chì, độc tố trong nước. Chim bị ảnh hưởng khí thải cũng như chất độc trong không khí. Nhiều thông tin gần đây cho chúng ta thấy cá chết nổi lên mặt nước, chim chết nhiều rơi xuống mặt đất.
    2/- Đức Phật là bậc Đại Trí Huệ biết rõ mọi thứ trong vũ trụ nên cho chúng ta biết về luật Nhơn Quả của vũ trụ để sống cho đúng theo lý nhơn quả. Đức Phật khám phá ra luật Nhơn Quả của vũ trụ chớ không phải Ngài chế ra. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến nhơn quả trong ăn thịt mà thôi. Trong kinh Phật dạy: “Người chết tái sinh làm dê; dê chết tái sinh làm người”. Do nhơn quả, mình ăn mạng con nào đó thì nữa nó cũng ăn mạng mình lại hoặc nó khiến mình mang bịnh tật. Những tai họa chiến tranh, giặc cướp, lụt lội, hạn hán, tật bịnh liên miên đều do sát sinh mà ra. Những con vật mà mình ăn thịt chúng, mình tạo oan gia trái chủ với chúng; chúng theo mình khiến mình bị bịnh nầy bịnh nọ. Khi cơ thể mình yếu hoặc lúc sắp lâm chung, chúng nó có cơ hội trả thù làm cho mình đau đớn vô cùng. Sắp lâm chung mà đau đớn dễ nổi sân thì dễ rơi vào đường tái sanh xấu. Cũng có thể chúng sẽ báo oán mình ở những kiếp sau, làm mình phải trầm luân trong nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như làm con báo oán, làm kẻ thù hại mình, làm cho mình phải khổ sở trong cuộc sống. Thế nên mình không nên ăn thịt để tránh quả báo giết hại đồng thời tạo oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp.
    3/- Không ăm thịt là tôn trọng sự sống của muôn loài. Chúng ta đừng nghĩ con vật vô tri, vô giác. Nó cũng ham sống sợ chết như con người. Để ý một chút, khi chúng ta bắt con vật nào, chúng cũng biết dẫy dụa tìm cách thoát khỏi, cũng như chúng cũng biết tỏ vẻ buồn hoặc chảy nước mắt khi ta sắp giết chúng. Hoặc khi chúng ta đánh đập con vật nào, chúng cũng biết kêu la, không khác gì con người. Chúng ta nên đối diện với lương tâm khi chứng kiến cảnh đánh đập hay giết hại con vật. Đừng nghĩ người ăn thịt con vật và người giết con vật không có gì liên quan với nhau. Nếu không có người ăn thịt thì không có người giết con vật. Con vật cũng có tình cảm, biết vui, buồn, chúng cũng có cha mẹ, anh em như con người, chỉ có điều dưới hình dạng khác. Con vật cũng biết buồn khổ, khi cha mẹ hay đồng loại của nó bị giết. Vì những lý do đó, chúng ta không nên ăn thịt.
    4/- Đức Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn. Ngài thấy chúng sanh, sanh tử luân hồi, thay hình đổi dạng, có khi sanh vào cõi trời, người, atula; có khi làm ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Trong quá trình sinh tử luân hồi, chúng ta có không biết bao nhiêu cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc từ đời nầy sang đời khác. Khi sanh tử luân hồi cũng mang nhiều thân hình khác nhau, có khi sanh lại làm người, có khi sanh lại làm súc sinh… Đâu ai biết được thịt con vật mình ăn lại chính là cha mẹ, chồng vợ, anh em, con cái, quyến thuộc của mình nhiều kiếp trước. Vì lý lẽ đó, chúng ta ăn thịt chẳng khác nào chúng ta ăn người trong gia đình mình, cũng như quyến thuộc mình trong quá khứ.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc nhở chúng ta phận làm người phải biết thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau trong cơn túng khó:

    Làng gần chí những tỉnh xa,
    Lúc xưa thì cũng ruột rà với nhau.
    Ngày nay tốt phước giàu sang,
    Xin thương kẻ khó giúp hào một khi.


    Với cùng ý nghĩa thương người thì cũng thương loài vật.

    5/- Không ăn thịt, phải ăn chay để trưởng dưỡng tâm từ bi. Dù cho chúng ta là người theo đạo Phật hay không theo đạo Phật cũng cần phải trưởng dưỡng tâm từ bi. Theo nhà Phật, Từ là ban vui, Bi là cứu khổ. Nếu chúng ta ăn chay không ăn thịt, có nghĩa là chúng ta đang ban vui, cứu khổ cho những con vật. Ta ban vui cho con vật là không làm cho nó sợ, bắt giữ chúng nó. Cứu khổ là không đánh dập, hành hạ, giết hại chúng nó.
    Chúng ta đừng vì lợi riêng của mình hay của nhiều người mà bắt giữ con vật, giết hại chúng nó để phục vụ chúng ta một cách không công bằng. Chúng ta cũng đừng vì ăn miếng thịt mà tiếp tay cho người khác giết những con vật, làm cho chúng phải đau đớn khổ sở, kêu la. Chỉ có dừng lại việc ăn thịt loài vật thì tâm từ bi chúng ta mới mở rộng, chúng ta mới từ bi được với những chúng sanh khác cho dù thân hay sơ khắp mọi nơi. Tâm từ bi là nét đẹp của con người luôn hướng thiện.
    Cổ nhân có câu: “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”, nghĩa là mình mang họa cũng do miệng mình nói lời xấu ác, bệnh xuất phát cũng tại do miệng ăn đồ ăn có chứa độc tố. Mình không ăn thịt, nhiều khi đó là thuốc hay để trị bịnh. Còn mình ăn nhiều thịt, độc tố vô nhiều trong cơ thể, sau một thời gian bị sanh bịnh, rồi uống thuốc vào, nhưng thuốc cũng là con dao hai lưỡi, thuốc trị bịnh nầy xong, bị phản ứng phụ của thuốc lại sanh ra bịnh khác.
    Để biện hộ cho việc ăn thịt của mình, có người dựa vào câu “vật dưỡng nhơn”. Câu nầy nghe ra thật vô lý mà có người tin theo không chịu tìm hiểu sâu xa. Giả như có một người nào đó đi vào rừng gặp hổ, báo… hay lặn xuống biển gặp cá mập, sấu… mà mạnh dạn nói câu “nhơn dưỡng vật”, rồi tự đưa thân xác mình cho chúng ăn tươi nuốt sống không? Sở dĩ chúng nó không ăn thịt mình được là vì mình có trí khôn. Con người dùng trí khôn hoặc dùng sức mạnh hay dùng mưu trí tìm cách bắt giết chúng để ăn thịt, chớ có bao giờ chúng nó nằm yên để mình giết nó đâu.
    Lại cũng có người biện hộ cho hành động ăn thịt của mình không liên quan gì đến vấn đề giết con vật. Tôi ăn thịt chớ tôi đâu có giết hại con vật. Người giết hại đổ lỗi cho người ăn, nếu anh không ăn thì tôi đâu có giết. Người không sát sanh mà ăn thịt, dù không trực tiếp nhưng cũng gián tiếp trong sát sanh nên cũng bị tội. Giả như mình không ăn thịt thì không có người sát sanh để bán thịt. Vậy người ăn thịt là tòng phạm, kẻ giết là chánh phạm. Nếu cân phân giữa hai người nầy đều có tội như nhau.
    Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Nếu không ai ăn thịt, sẽ không ai giết hại chúng sanh làm thực phẩm. Sát sanh là vì người mua, do đó người mua cũng giống như người giết. Do đó ăn thịt có thể ngăn trở Thánh Đạo”.

    ***
    Hiện nay việc ăn chay không chỉ có mặt trong cộng đồng Phật Giáo mà còn có mặt ở khắp mọi nơi không phân biệt tôn giáo và sắc tộc. Lý do ăn chay nầy vì muốn tôn trọng sự sống, không gây tổn thương đến mạng sống của loài vật hữu tình và làm giảm bớt đi những nỗi thống khổ đau đớn, chết chóc mà con người với trí khôn đã gây ra cho chúng.
    Ở Hoa Kỳ có tổ chức bảo vệ súc vật PETA, mục đích của hội là bảo vệ loài vật tránh sự ngược đãi, bạo hành của con người. Các thành viên của hội nầy tình nguyện ủng hộ tiền của, nhân lực và tự nguyện ăn chay vì lý tưởng của tổ chức. Họ cảm nhận được nỗi khổ đau của con vật, không thể nào ăn thịt chúng khi thấy chúng giẫy dụa trên các dây chuyền xẻ thịt biến chế thực phẩm.
    Dr. Jerome Bernard Pellet, bác sĩ người Pháp, chuyên đi thuyết trình kêu gọi mọi người ăn chay. Khi được hỏi “Ông là một bác sĩ, vậy vì lý do gì mà ông ăn chay?”.
    Ông trịnh trọng trả lời như sau: “Ông, bà biết không, gia đình cha mẹ tôi làm nghề chăn nuôi súc vật để giết lấy thịt. Tôi đã thấy quá nhiều máu chảy và sự đau đớn. Tôi không còn ăn thịt được nữa”.
    Một trường hợp khác, thi hào Pháp Alphonse de Lamartine thế kỷ 19, ăn chay từ khi còn nhỏ, một hôm “--- theo mẹ đi ngang một lò sát sinh, ông thấy máu chảy lênh láng ra đến tận đường đi, mùi tử khí và mùi máu hôi tanh không chịu nỗi. Khi về đến nhà, ông xin mẹ được ăn chay” (Đi nghe buổi thuyết trình về ăn chay của bác sĩ Jerome Bernard Pellet của Hoang Phong).
    Như vậy, có một tầng lớp ăn chay vì lòng từ bi của họ đối với loài vật hữu tình. Họ tin tưởng vào vật cũng có quyền sống và được đối xử như con người. Loài vật không phải là thức ăn cho con người. Loài vật cũng có bản năng ham sống sợ chết như con người. Một khi làm chúng bị tổn thương hay bị giết hại, chúng sinh khởi sợ hãi, phẫn nộ, oán hận, chống trả, có khác chi loài người giết hại lẫn nhau, đôi bên sẽ gây oán kết thù rồi mưu hại lẫn nhau đời đời kiếp kiếp chừng nào mới thôi.


    CHƯƠNG X

    TỊNH DỘ


    Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.
    Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
    Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.


    Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ


    Vào thời Chánh pháp tức là thời kỳ Đức Phật mới nhập Niết Bàn, chúng sanh nhờ phước dầy, nghiệp chướng nhẹ cho nên tu theo pháp môn nào cũng đến được đạo quả. Sang thời kỳ Tượng pháp tức sau khi Đức Phật nhập diệt một ngàn năm; vì thời gian cách Phật hơi xa, nhơn tâm đi xuống mang nhiều nỗi bận tâm, nghĩ ngợi và lo lắng nhiều càng thêm phức tạp; số người tu hành thành tựu rất ít. Đến thời kỳ mạt pháp, nhơn tâm càng suy đốn nhiễu tạp, phong hóa đồi bại. Hoàn cảnh và lòng người như thế cho nên người phát tâm tu hành chân chính hạn hữu thì nói chi đến việc chứng quả. Cho nên khi ra đời dạy Đạo, Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo than:

    Cả ngàn năm nhơn tâm xao xuyến,
    Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.



    Lại nữa pháp môn nào cũng đòi hỏi sự cố gắng mà người tu hành “mãi còn tư lự tình tang” nên kết quả thu lượm được lại càng ít oi, vì:

    Bởi chữ tu liền với chữ hành,
    Hành bất chánh người đời mới nói.


    Như Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: “... Thiên Tào đà xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ Ngươn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vị chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên Đình ân xá bớt tội căn để kíp đến Long Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái bình…” và Ngài cũng tự thuyết: “Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân; vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, Ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh. Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ ngày ra trợ thế…”.
    Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rõ trong Kinh Đại Tập: “Vào thời mạt pháp, ức ức người tu, nếu người tự lực nương vào giới định huệ để tu hành thì ít ai trừ sạch được phiền não nghiệp hoặc chướng được thành quả. Chỉ có người nương theo pháp môn niệm Phật và nương vào sức thị nguyện của Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Tây Phương thì có thể vượt thoát sanh tử”.
    Trong tác phẩm “Khuyên người đời tu niệm”, Đức Huỳnh Giáo Chủ tường thuật việc Ngài hóa hiện ra đui cùi, buôn bán, khi già, lúc trẻ dạo khắp “lục châu” để thử lòng trăm họ, giác tỉnh mọi người, gọi họ về đường ngay nẻo Đạo, Ngài nói:
    i
    Có người tu niệm đáng thương,
    Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh.



    Pháp môn Tịnh Độ là phương tiện đứng đầu trong các phương tiện, là vô thượng liễu nghĩa trong tất cả các pháp liễu nghĩa, viên đốn đến cùng cực trong các pháp viên đốn.
    Đại sư Ngữu Ích nói: “Chư Phật vì thương xót chúng sanh mê mờ nên theo căn cơ mà giáo hóa, tuy nẽo về không hai, phương tiện có nhiều môn. Song trong tất cả các phương tiện, nếu tìm pháp môn vắn tắt, rất viên đốn thì chẳng gì bằng niệm phật cầu sanh Tịnh Độ”.
    Đại sư Ân Quang, Tổ thứ 13 Tông Tịnh Độ cũng từng nói: “Chín cõi chúng sanh nếu lìa pháp môn niệm Phật thì ở trên không do đâu để trọn thành Phật đạo, còn mười phương chư Phật mà bỏ pháp môn niệm Phật thì ở dưới nương vào đâu để độ khắp chúng sanh?”
    Pháp môn Tịnh Độ có công năng như vậy, nên mười phương chư Phật đều khen ngợi, chín cõi đồng về, ngàn kinh đều xiễn bày và muôn luận đều tuyên vậy.
    Nguyên do Đức Phật thuyết kinh A Di Đà:
    - Có một hôm dung nhan của Đức Phật khác lạ, Tôn Giả A- Nan mới hỏi có nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn hoan hỉ vậy? Đức Phật nói có pháp môn niệm Phật A Di Đà rất thích hợp cho chúng sanh, đặt biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ của chúng sanh bị giới hạn đi nhiều và bất cứ ai cũng có thể trì niệm được. Đó là nguyên do thứ nhứt.
    Đức Bổn Sư Mâu Ni đã vận dụng trí tuệ vô biên và từ bi vô lượng đề ra pháp môn Tịnh Độ, tức là pháp môn niệm Phật rất giản tiện và có hiệu lực rất lớn, giúp được người tu Phật không phí thì giờ, khỏi bỏ công việc và vẫn thành tựu đạo quả chắc chắn. Hể ai có tu là có chứng, bất luận là tại gia cư sĩ hay tăng sĩ xuất gia không bỏ sót một ai. Một điều xác thực, hàng tại gia cư sĩ, ngoài pháp môn niệm Phật nầy ra tưởng cũng khó thành công đối với các pháp môn khác. Càng khó thành công thì lại dễ sanh thối chuyển rồi mất hẳn tín tâm, thật tai hại. Vì vậy có thể nói rằng pháp môn duy nhứt cho hàng tu tại gia là pháp môn Tịnh Độ hay pháp môn niệm Phật.
    - Vua Tần Bà Sa La và hoàng hậu Vi Đề Hy có sanh một vị hoàng tử tên là A Xà Thế; người con ngỗ nghịch nầy không bao giờ nghe lời chỉ dạy của phụ vương và mẫu hậu mà lại nghe lời Đề Bà Đạt Đa, về nhà bắt giam vua cha vô cớ. Hay tin, hoàng hậu Vi Đề Hy rất đau khổ mới xin những người cai ngục vào thăm vua. Bà phải dấu đồ ăn trong mình đem cho nhà vua để no lòng. Cứ thế ngày tháng trôi qua, đến một ngày A Xà Thế phát giác việc làm của mẹ và ra tay hạ ngục mẹ mình.
    Trong ngục tối của thành Vương Xá dưới chân núi Linh Thứu, mỗi đêm bà đều hướng lên Linh Sơn để cầu nguyện với Đức Phật: “Làm sao Thế Tôn cho con sống trong một thế giới nào không có những đứa con ngỗ nghịch”. Đức Phật ở trên núi Linh Thứu mới phóng quang cho bà thấy cả mười phương thế giới. Từ đó bà mới chọn cảnh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có Phật A Di Đà đáng kính đáng về. Xin mở ngoặc, ở đây do nhân duyên cảm nhận, thực ra mười phương Phật, phương nào cũng cực lạc cả, cõi Phật nào cũng nên về cả. Bà phát nguyện khi xả báo thân nầy sẽ về cõi Phật A Di Đà. Đó là nguyên do thứ hai.
    Trong kinh nói rằng, Đức Phật Di Đà luôn luôn chờ đợi để tiếp đón chúng sanh lên chín phẩm sen vàng, phần còn lại là ở nơi chúng sanh có muốn về cõi Phật hay không.
    Trong giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài cũng xác định cho chúng ta biết có cõi Tây Phương cực lạc, có Phật A Di Đà chờ đón chúng sanh:

    A Di Đà nhìn xem khắp cõi,
    Đặng trông chờ mong mỏi chúng sanh.
    Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành,
    Đặng tìm kiếm những người hiền đức.
    Kẻ tâm trí mau mau tỉnh thức,
    Kiếm Đạo mầu đặng có hưởng nhờ.

    Hay:
    Ở Tây Phương chư Phật ngóng trông,
    Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật.

    Hay:
    Ao sen báu Tây Phương đua nở,
    Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.



    Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Thầy dạy: “Trong đời vị lai, khi kinh đạo mất hết, ta dùng lòng từ bi, đặc biệt lưu lại kinh nầy tồn tại trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp được kinh nầy, đều có thể độ thoát ly như ý sở nguyện”.
    Sau khi các Tông phái khác suy tàn, duy chỉ có một Tông Tịnh Độ là còn tồn tại để nối dài pháp vận, cứu độ chúng sanh mà thôi. Với một trí huệ sâu xa vi diệu như Đức Phật, vì sao Ngài không lưu lại pháp môn khác mà chỉ riêng lưu pháp môn Tịnh Độ. Ngài cho biết rằng với chúng sanh cuối đời mạt pháp chỉ có pháp môn ấy là có thể độ thoát sanh tử mà thôi. Vậy đừng mơ hồ về pháp môn Tịnh Độ mà hãy tin rằng pháp tu thích ứng bậc nhất cho người đời nầy cũng như đời sau. Đó là con thuyền từ, là thuyền bát nhã đưa chúng sanh lên bờ giải thoát trong đời mạt pháp.
    Giáo nghĩa Tịnh Độ là y cứ theo ba bộ kinh và một bộ luận làm cơ sở để hành trì, Đức Phật thuyết Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và bộ luận Tịnh Độ vãng sanh của Bồ Tát Thế Nhân.
    Với lòng từ bi vô hạn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài quán xét căn cơ của chúng sanh ở cõi Ta Bà mà ban cho pháp môn Tịnh Độ hay pháp môn Niệm Phật thù thắng nầy.
    Theo lời thuyết của Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo về lời dạy của Đức Phật Thích Ca:

    Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
    Các chúng sanh đều có như Ta.
    Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
    Nên quay lộn Ta Bà cõi khổ.
    Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Độ,
    Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
    Nếu như ai cố chí làm lành,
    Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc .
    Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
    Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc Sanh.
    Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,
    Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
    Xét cõi trần sống khổ giạt trôi,
    Vô lượng thứ ở trong thế giới.

    Và Ngài cũng cho biết:

    Lời Phật thuyết, Ta xin nhắc lại,
    Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ.
    Có bao người xét cho tột chỗ,
    Tịnh Độ vui, Tịnh Độ nhàn vui.
    Cảnh thanh minh sen báu nực mùi,
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
    Về phần Ta rất yêu mến Đạo,
    Chẳng nệ chi trí siển tài sơ.
    Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
    Cho thiện tín rỗi nhàn xem xét,
    Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
    Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
    Thường trau dồi chí hướng cao thanh,
    Cho khỏi thẹn con lành Phật Giáo.


    Trong tất cả các pháp hội khi Đức Phật còn tại thế; tất cả các bộ kinh Ngài thuyết đều do có người hỏi. Đặc biệt bộ kinh A Di Đà, Ngài vô vấn tự thuyết (không ai hỏi mà Ngài tự nói ra).
    Ngài nói cho Tôn Giả Xá Lợi Phất biết rằng: “Từ đây hướng về phía Tây trải qua 100.000 Ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc; nước Cực Lạc ấy có Phật hiệu là A Di Đà đang thuyết pháp”. Nội dung của kinh A Di Đà, Ngài giới thiệu vị Giáo chủ và y báo trang nghiêm cõi Cực Lạc, khuyên chúng sanh phát nguyện sanh về thế giới ấy bằng phương pháp trì danh hiệu Phật A Di Đà, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư Phật để làm tăng tiến niềm tin cho người niệm Phật.
    “Xá Lợi Phất, vì sao cõi đó có tên Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc có bảy lớp dậu rào, bảy lớp mành lưới, bày lớp hàng cây, đều bằng bốn chất báu, bao vòng khắp nơi, vì thế nên cõi nước đó tên là Cực Lạc”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc đó có ao bảy chất báu, trong ao tràn đầy tám nước công đức, đáy ao thuần bằng cát vàng trải làm mặt đất. Những lối đi bốn bên bờ ao là vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Trên đó có lầu các, cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, trân châu, mã não. Trong ao, có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc vàng ánh sáng vàng, hoa sắc đỏ ánh sáng đỏ, hoa sắc trắng ánh sáng trắng, hương thơm vị diệu tinh khiết”.
    “Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Phật đó thường trổi nhạc trời, mặt đất bằng vàng, ngày đêm sáu thời có mưa hoa Mạn Đà La. Chúng sanh trong cõi đó, thường mỗi sáng sớm, lấy vạt áo đựng những hoa kỳ diệu đó, cúng dường mười vạn ức Phật ở các phương khác. Đến giờ ăn, liền trở về nước của mình, ăn cơm rồi kinh hành”.
    “Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế”.
    “Lại còn nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước đó thường có nhiều giống chim kỳ diệu, đủ các màu sắc: chim Bạch Hạt, Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Công Mạng. Các loài chim đó ngày đêm sáu thời hót ca thanh âm hòa nhã. Trong thanh âm đó diễn nói các pháp: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như thế. Chúng sanh trong cõi đó nghe thanh âm ấy, tất cả đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.
    “Xá Lợi Phất, chớ nghĩ những giống chim nầy thật do tội báo mà sanh ra. Vì sao vậy? Vì cõi nước Phật đó không có ba đường ác”.
    “Xá Lợi Phất, trong cõi nước Phật đó thường không có cái tên ác đạo, huống gì có ác đạo thật. Các giống chim ấy là do Phật A Di Đà muốn tuyên lưu tiếng pháp mà biến ra như vậy”.
    “Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Phật đó có gió nhẹ thổi các hàng cây báu và các mành lưới báu, phát ra âm thanh huyền diệu, như trăm nghìn thứ nhạc cùng lúc hòa chung. Nghe âm thanh đó, mọi người đều tự nhiên khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.
    “Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế”.
    “Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?”
    “Xá Lợi Phất, đức Phật đó có hào quang sáng chói vô lượng, chiếu soi các cõi nước mười phương không chỗ nào chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, đức Phật đó và người dân cõi đó sống lâu vô cùng nên có tên là A Di Đà”.
    “Xá Lợi Phất, đức Phật A Di Đà thành Phật cho đến nay đã được mười kiếp”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, đức Phật đó có vô số hàng Thinh Văn đệ tử, đều là bậc A La Hán, nhiều không thể tính đếm mà biết được. Các vị Bồ Tát cũng đông như thế”.
    “Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế”.
    “Lại nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc đó, chúng sanh được sanh về, đều là bậc chẳng thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị một đời thành Phật, số đó rất đông, nhiều không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể nói là vô số”.
    “Xá Lợi Phất, chúng sanh nào nghe được điều nầy, thì nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi nước đó. Vì sao vậy? Vì được cũng các bậc Thượng thiện nhân như thế tụ hội một nơi”.
    “Xá Lợi Phất, chẳng thể có chút ít căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi nước đó”. “Xá Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe nói đến Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, tâm chuyên nhất chẳng loạn. Người đó lúc lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Người đó khi chết, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”.
    “Xá Lợi Phất, ta thấy lợi ích nên nói lời nầy. Nếu có chúng sanh nào nghe được điều nầy, thì phải phát nguyện sanh về cõi nước đó”.
    “Xá Lợi Phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức chẳng thể nghỉ bàn của Phật A Di Đà, thì ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm, nhiều vô số các Đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: “Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói chân thật: “Các chúng sanh phải tin kinh nầy là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: “Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật độ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: “Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: “Chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tri Vương, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: “Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm”.
    “Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi “Kinh tất cả các đức Phật hộ niệm?”
    “Xá Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe được kinh nầy mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của các đức Phật, thì những người con trai lành, người con gái lành đó đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
    “Cho nên, Xá Lợi Phất, các người đều phải tin nhận lời của ta và các đức Phật nói”.
    “Xá Lợi Phất, nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi nước Phật A Di Đà, thì các người đó đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở cõi nước đó, hoặc đã sanh về, hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về”.
    “Cho nên, Xá Lợi Phất, những người con trai lành, những người con gái lành, nếu có lòng tin thì phải phát nguyện sanh về cõi nước đó”.
    “Xá Lợi Phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, thì các đức Phật đó cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà lời nói nầy: “Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm những việc rất khó, ít có ở cõi Ta Bà ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói pháp mà tất cả thế gian khó tin”.
    “Xá Lợi Phất, phải biết rằng, ta ở đời ngũ trược ác thế, làm những việc khó nầy, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì tất cả thế gian mà nói pháp khó tin nầy, đó là rất khó”.
    Đức Phật nói kinh nầy xong, ngài Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo, tất cả thế gian: Trời, Người, A Tu La, nghe lời Phật nói, vui mừng tin nhận, đảnh lễ rồi lui ra.
    Nội dung kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giới thiệu vị giáo chủ và y báo trang nghiêm cõi Cực Lạc, khuyên chúng sanh phát nguyện về thế giới ấy bằng phương pháp trì danh hiệu Phật A Di Đà, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư Phật để làm tăng tiến niềm tin cho người niệm Phật.
    Pháp môn Tịnh Độ cho thượng, trung, hạ căn đều có thể hành trì, tứ sinh, lục đạo đều được siêu thoát, lợi ích của nó thật không thể nghĩ bàn (Tứ sinh là bốn cách sinh ra. Các chúng sanh, nếu có sanh ra thì đều do bốn cách nầy:
    1- Noãn sinh, từ trong trứng mà nở ra và lớn lên, như chim…
    2- Thai sinh, từ trong bào thai sinh ra và lớn lên, như người, ngựa, lừa, dê…
    3- Thấp sinh, từ chỗ ướt mà sinh ra, như rắn, cá…
    4- Hóa sinh, tự nhiên mà ra, sanh ra do sức mạnh của cái nghiệp, như những hồn sinh lên cõi Trời hoặc đi đọa ở Địa Ngục, Ngạ Quỷ, hoặc những vật cỡi lốt đổi hình, như loài bướm bởi sâu mà hóa sinh ra.
    Tất cả chúng sanh trong Tam Giới Lục Đạo đều sanh ra bằng bốn cách ấy. Dẫu cho sanh bằng cách nào, cũng là khổ não, vì có sanh thì có già, có bệnh, có chết. Bốn cách sanh hóa của chúng sanh tức là cái vòng luân hồi khổ não, còn gọi là Tứ Sanh khổ luân.
    Lục Đạo là sáu đường, sáu nẽo, sáu chốn luân hồi. Theo Đạo Phật, chúng sanh tùy theo căn quả thiện hay ác của mình mà chuyển vào trong lục đạo luân hồi: 1- Thiên (tiên), 2- A Tu La (thần), 3- Nhơn (người), 4- Địa ngục, 5- Ngạ quỷ (ma đói), 6- Súc sanh (thú vật). Ba đường trên thì vui sướng, dễ chịu, nên gọi là ba đường lành (Tam thiện đạo). Ba đường dưới thì cực khổ, nguy nan, gọi là ba đường dữ (Tam ác đạo).
    Người ta không bao giờ lọt khỏi Lục đạo, khi thì đầu thai làm người, khi có công đức được làm Thần, làm Tiên; rồi khi có phạm tội, làm ác bèn sa xuống Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Muốn thoát khỏi Lục Đạo luân hồi, phải tu đạo Phật cho đắc những quả: Duyên giác, La hán, Bồ tát và Phật, chừng đó sẽ được tự tại, khỏi bị nghiệp quả lôi cuốn).
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cho chúng ta biết để tinh tấn tu hành:

    Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật
    Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh
    Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành
    Được cứu cánh về nơi an dưỡng
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.


    Đức Phật Thích Ca đã chỉ cho chúng ta các thứ trang nghiêm chánh báo và y báo của cõi Tây Phương để làm phát khởi lòng tín ngưỡng của chúng sanh và đồng thời khuyến cáo chúng sanh hãy nên phát nguyện, nguyện cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. (Trong Từ Điển Phật Học, tác giả Đoàn Trung còn giải thích chữ “Chánh báo” và “Y báo” như sau: Chánh báo là quả báo chánh cũng còn gọi là chánh quả. Con người sanh ra, đều do nơi nghiệp nhơn đời trước của mình, nó cảm ứng mà sanh ra quả báo. Có hai thứ quả báo:
    1- Chánh báo hay chánh quả là cái thân thể ngũ uẩn của mình: tốt hoặc xấu, yểu hoặc thọ, thông minh hay ngu muội.
    2- Y báo hay y quả tức là quả báo phụ thuộc, như nhà cửa, làng xóm, đất nước, xã hội nơi đó mình sanh ra, đó là Y báo.
    Phật giáng sinh nơi cõi thế giái tịnh hay trược, cũng chịu lấy hai quả báo: Chánh báo là cái thân 32 tướng chánh và 80 tướng tùy; y báo là cõi thế (như Y báo của Phật Thích Ca là cõi Ta Bà, y báo của Phật A Di Đà là cõi Cực Lạc thế giái).
    Kinh A Di Đà nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Khi chúng sanh nghe nói đến cõi Cực Lạc hãy nên phát nguyện sanh về nước ấy. Vì sao? Vì được ở cùng chư Thiện tri thức”.
    Tông Tịnh Độ kiến lập trên nền tảng lý Nhơn quả, vì có tạo nhân mới hưởng quả. Điều hiển nhiên, nếu muốn về sau được làm Thánh chúng nơi cõi Cực Lạc, thì ngay bây giờ người tu hành phải sửa soạn cho tự thân mình có cung cách của bậc Thánh. Muốn được vậy hành giả phải thường xuyên chuyển hóa ba nghiệp thân, khẩu, ý hướng đến tâm thanh tịnh. Ví như người học trò muốn đỗ đạt, phải học hành tiến bộ theo thứ lớp. Người niệm Phật cầu vãng sanh cũng thế, nay cứ sống trong sự buông thả, không chịu tinh tấn tu học mà cứ mãi van xin và tin rằng ngày mai Phật sẽ cứu độ; niềm tin ấy trái với lý nhơn quả hoàn toàn không phù hợp với giáo lý nhà Phật.
    Người niệm Phật muốn vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, ngoài năng lực độ trì và tiếp dẫn của Phật, cần phải tự lực tu tập để có được chánh nhân Tịnh Độ. Người tu theo Phật muốn được vãng sanh Tịnh Độ phải hội đủ ba điều kiện như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành (tu thập thiện). Hai là thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu nhơn quả, đọc tụng kinh Đại Thừa, khuyên người khác đồng tu”. Ba điều trên đây gọi là chánh nhân Tịnh Độ.
    Muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chúng ta hãy nhớ lời Phật dạy trong kinh “Phát tâm Bồ Đề. Nghiêm trì tịnh giới”.
    Thế nào là phát Tâm Bồ Đề? Tức phát tâm trên mong cầu quả vị Phật, dưới nguyện hóa độ các loài chúng sanh. Người đời nay niệm Phật tuy là số đông nhưng được vãng sanh rất ít. Không phải họ không tinh tấn, miệng suốt ngày niệm “A Di Đà Phật” không ngừng, tại sao không được vãng sanh, vì họ không có Bồ đề tâm, không phù hợp với tiêu chuẩn vãng sanh. Tuy họ làm được “Nhất hướng chuyên niệm”, nhưng phát tâm Bồ Đề hầu như họ chưa làm được chỉnh. Từ chỗ đó, với cái nhìn của bậc Đại Giác, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên tấn chúng sanh:
    Rán tu cho quỷ khiếp thần khâm
    Được tâm phát Bồ Đề vững chắc
    Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt
    Thường nhớ câu Đại Lực, Đại Hùng


    Tâm Bồ Đề là tâm muốn độ chúng sanh “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”; nếu chúng ta còn ganh ghét một chúng sanh, còn thù oán chúng sanh đó thì đường về Tây Phương Cực Lạc còn xa. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã từng dạy chúng ta hãy thể hiện tâm mong cầu “bá tánh vạn dân từ tâm bác ái giải thoát mê ly” và cho tất cả chúng sanh đồng tu, đồng về Cực Lạc:
    Ước trăm họ nhẹ mình có cánh
    Đồng bay về Cực Lạc một đàng


    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy, sống trên đời chúng ta phải có lòng thành thật “Làm Phật Nhi phải được lòng thành, Thì mới đặng vãng sanh Cực Lạc”, có tấm lòng bao dung độ lượng “hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận”, và thương yêu lẫn nhau thì đường Đạo mới thành tựu. “Ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức; nếu ai giữ đặng trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”. Ấy là điều Ngài muốn khuyên tấn chúng ta đừng quên phát Bồ Đề tâm. Người tu theo Phật nếu không phát Bồ Đề tâm, dẫu có tinh tấn tu trì thực hành các hạnh lành cũng là nhọc công vô ích. Trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Quên mất tâm Bồ Đề, dẫu tu các hạnh lành, cũng đều là nghiệp ma”. Vì vậy hành giả muốn được vãng sanh phải phát tâm Bồ Đề; đây là điểm quan trọng không thể thiếu đối với người tu theo Phật nói chung và Tịnh Độ nói riêng.
    Người tu học cần phát Bồ Đề tâm, đem tất cả công đức hồi hướng cho tất cả chúng sanh nguyện vãng sanh Cực Lạc quốc, đó là ý nghĩa tu học chân chính.
    Tông phái nào của đạo Phật cũng không thể ly khai giới luật, vì giới luật là nền tảng của Đạo, là thọ mạng của Phật pháp. Định, Huệ không phát sanh được nếu không có Giới. Giới, Định, Huệ là ba thành phần chủ yếu; nếu không phát sinh thì pháp thân huệ mạng biết nương vào đâu để thành tựu đạo quả. Đại sư Thái Hư nói: “Luật là nền tảng của Tam Thừa. Tịnh Độ là mái che chung tam thừa”. Người tu hành phải nghiêm trì giới luật; có như vậy câu niệm Phật mới hiển lộ công năng mầu nhiệm; như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật
    Đến lâm chung quả lành đâu mất
    Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ
    Việc tu thân thiện tín hẫng hờ
    Chừng họa đến e cho khó tránh
    Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa


    Ngẫu Ích Đại Sư nói: “Lấy Tín Nguyện trì danh làm tông yếu hành”. Do Tín sinh Nguyện, do Nguyện sinh Hành. Hành tức là trì danh diệu hành. Không Tín không đủ khởi Nguyện, không Nguyện không đủ đưa đến Hành. Nếu hành giả còn hoài nghi cõi Tây Phương Tịnh Độ có thật không hay tự mình niệm Phật có vãng sanh không, thì hành giã không bao giờ khởi lên Nguyện chân thật. Nếu có Tín, Nguyện, sẽ dẫn khởi được diệu hành trì danh niệm Phật. Trì danh niệm Phật không phải là chuyện tu thông thường mà là cực kỳ di diệu, thâm sâu, công đức nan tư nghì. Cho nên nhờ diệu hành như vậy hành giả mới có thể thực hiện nguyện độ chúng sanh. Chỉ có pháp môn trì danh niệm Phật mới làm viên mãn đầy đủ những đại nguyện mà chính mình tự phát và chứng thực niềm Tin của chính mình; chứng thực pháp môn Tịnh Độ niệm Phật trì danh tức đắc được thắng hạnh của vãng sanh.
    Yếu nghĩa hàng đầu của pháp môn Tịnh Độ là Tín. Những điều người nghe, biết được tính chân thật bất hư của người nói, tin tưởng sự chân thật những gì họ nói, không hề hoài nghi, là do nơi Tín. Phật giáo lấy Tín làm điều kiện nhập môn, nhưng muốn phát sinh tín tâm hướng về Phật pháp tuyệt đối không phải là chuyện dễ.
    Trí tuệ của chúng ta không đủ, không những không khả năng “tín”, mà tín rồi còn phát sinh ngộ giải, rồi đôi khi bị “quỷ dắt đường cong”. Thế nên Đức Thế Tôn từ bi khai thị ra điều không cần “cầu giải”, tự mình có thể thâm giải phương tiện pháp môn tuyệt đối ổn thỏa không sai lầm. Do vậy trong Kinh, Đức Phật nói: “Vị thử thế gian thuyết, thử nan hành chi pháp, thị vi thậm nan” tức là vì thế gian nầy mà nói pháp môn khó hành thì rất khó.
    Người học Đạo cần có cái trí để hiểu sâu. Tìm học để thấu suốt diệu nghĩa của chánh pháp. Trí tuệ có được do sự lắng nghe, tìm học, suy luận về những nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh điển.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm, ngu muội).
    Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tự tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”.

     
  13. Hhuynh

    Hhuynh Administrator

    Thế nào là TÍN- NGUYỆN- HÀNH?
    Hành giả cầu sanh cõi Tịnh Độ, phải có đủ ba đức tính sau đây:

    I.- TÍN: là đức tin, là cánh cửa quan trọng để vào Đạo, là nguồn cội của mọi công đức. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tin là mẹ các công đức. Tin có thể thành tựu quả bồ đề”. Tất cả công đức vô lậu đều nương nơi tín mà lập và do tín mà thành. Hành giả niệm Phật, ngoài đức tin tuyệt đối với Tam Bảo với trí tuệ Bát Nhã sáng suốt kiên định không ngờ vực, gia thêm lòng tin kiên cố vào pháp môn niệm Phật. Lòng tin nầy được dựng lập trên ba điểm:

    1- Tin tưởng Đức Phật Thích Ca là bậc sáng suốt từ bi cứu khổ mọi loài. Ngài đã thân chứng cảnh giới Tịnh Độ; những lời dạy của Ngài về cảnh giới Cực Lạc và khuyên chúng sanh phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ của Phật A Di Đà là có thật. Tin vào lý Nhơn Quả. Hể gieo nhân gì thì gặp quả đó. Nếu không có nhân thì không có quả. Trồng nhân tốt thì được quả tốt. Trồng nhân xấu thì được quả xấu. Làm việc thiện thì được quả thiện. Làm việc ác thì bị quả ác. Nhân và quả tiếp nối với nhau, trong nhân có quả; trong quả có nhân. Đó là chân lý bất biến. Tin vào luân hồi. Luân hồi là bánh xe quay vòng và liên tục, tác động lên mọi người và mọi loài, dựa trên lý nhơn quả mà chuyển tiếp. Theo định luật luân hồi, khi chết không có nghĩa là đoạn diệt mất hẳn tất cả (đó là chấp đoạn), cũng không có nghĩa là linh hồn vẫn thường còn để đầu thai trở lại làm người (đó là lối chấp thường), mà chúng ta chịu sự chi phối trên lý Nhơn Quả và Nghiệp Báo để chuyển tiếp đến một trong sáu cõi luân hồi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A tu la, Người, Trời, còn gọi là Lục Đạo). Tin vào Nghiệp báo. Nghiệp được tạo ra từ những biểu hiện qua hành động (thân nghiệp), qua lời nói (khẩu nghiệp), qua ý nghĩ (ý nghiệp). Nghiệp báo cũng dựa trên định luật Nhơn Quả nghĩa là hành động xấu tạo ra thân nghiệp xấu một lời nói ác tạo ra khẩu nghiệp ác; một ý tưởng tà vạy tạo ra ý nghiệp xấu. Sự báo ứng của Nghiệp sẽ ngay trong kiếp hiện tại gọi là hiện nghiệp, hoặc ở kiếp lai sinh nào đó tùy theo cái sức của nghiệp đó nặng hay nhẹ, tùy theo cái phước đã được tích lũy từ nhiều kiếp trước của người gây ra nghiệp, sẽ đến chậm hay mau, còn gọi là hậu nghiệp.

    2- Tin Đức Phật A Di Đà với bốn mươi tám đại nguyện tiếp độ chúng sanh, nếu ai có tâm mong cầu về thế giới của Ngài thì người ấy sẽ được Phật tiếp độ. Chúng sanh đều có tánh Phật “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, cho nên phải chí thành tin tưởng và trì niệm bất luận thời khắc, để đến ngày từ biệt cõi đời thì thần thức nầy hướng về cõi Tịnh Độ.

    3- Tin vào tự tánh thanh tịnh, vào khả năng giác ngộ sẵn có của mình; nếu hiện đời nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, mai hậu quyết chắc được vãng sanh cõi Tịnh Độ.

    4- Tin có Đấng Cứu Thế ra đời để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ hoại diệt. Hành giả tu theo đạo Phật đều có cái nhìn trung thực về hoàn cảnh của đất nước Việt Nam thời kỳ pháp thuộc. Xét vào đời thì “Dân mảng còn mê giấc mộng tràng”, về Đạo thì tạo nhiều cảnh giả “Xá phướng tăng sư tạo việc tồi” và việc tu hành thì “Tu hành dương thế cậy đồng tiền, Phật giáo vì tiền phải ngửa nghiêng”. Đạo pháp đã đến hồi suy bại, con người ngoan ngạnh, nhân loại có nguy cơ diệt vong “Vì thời cơ đã đến, lý Thiên Đình hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan”, nên mới xuất hiện một vị cứu tinh cho nhân loại “Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian” và kêu gọi “Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo, Tầm đấng hiền từ cứu thế gian”.
    Nhìn lại dòng lịch sử cận đại gần ba phần tư thế kỷ tính đến nay, trong nhân gian không còn xa lạ ở miền Nam nước Việt đã xuất hiện một vị Cổ Phật lâm phàm “Xưa nay không có mấy khi, Dương trần có Phật vậy thì xuống đây”, hóa hiện bằng hành tung một Đại Bồ Tát, là vị Minh Sư, cũng là vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, người đời thường gọi Ngài là Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn tín đồ gọi Ngài với tấm lòng tôn kính là Đức Thầy.

    Như Ngài thố lộ:
    Tây Phương trở gót quá xa đàng
    Thương xót Nam Kỳ lại An Giang

    Hay:
    Nào Ta có nói bướng càn
    Về An Giang Tỉnh rõ ràng ai hay
    Từ đây Nam Bắc chuyển quay
    Khi đây khi đó ra tài khuyên dân


    Ngài xác định sự có mặt của Ngài ở cõi Ta Bà như là một người khách từ phương xa đến:
    Kể đến lúc băng ngàn đất khách
    Đem thân nầy cắt mạch sầu đông
    Dầu ai trao đổi lạc nồng
    Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao.


    Vậy thử nghĩ Ngài không ở cõi Ta Bà, vậy thì Ngài từ cõi nào đến? Hành giã hãy nghe lời trần thuyết của Ngài:

    Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn
    Khắp hạ giái thuyền khai đạo pháp
    Tùy phong hóa dân sanh phù hạp
    Chấp bút thần tả ít bổn kinh
    Bởi luật trời mở rộng thinh thinh
    Tri phong võ bất kỳ chuyển kiếp.

    Hay:
    Xuống dương gian thân Điên nào nệ
    Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai.

    Hay:
    Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế
    Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam
    Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm
    Mượn tay gã, tờ hoa Thần hạ bút
    Khuyên bá tánh tầm Tiên rời tục
    Chỉ máy Trời bày tỏ việc về sau
    Gái cùng trai già trẻ bước vào
    Đường trí huệ quy y gìn Đạo pháp
    Thần cũng chẳng say mê chùa tháp
    Chẳng tham tiền, tham vật, món chi chi
    Hơn năm dư quyết chí duy trì
    Truyền sanh chúng phải kính thờ Trời, Phật

    Một điều rõ ràng hơn nữa, hành giả nên tin rằng Ngài ở cõi Tây Phương Tịnh Độ:

    Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc
    Đức Di Đà truyền mở Đạo lành
    Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh
    Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy
    Nên khổ lao Khùng không có nại
    Miễn cho đời hiểu đặng Đạo mầu
    Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu
    Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ


    Vậy bình tâm suy nghĩ, cõi Tây Phương Tịnh Độ là có thật, vì có vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo hóa hiện từ cõi ấy, hiểu rành đường đi nước bước chỉ cho chúng ta khỏi bị lạc đường:


    Tìm Cực Lạc, Đây rành đường ngõ
    Hãy mau mau tu tỉnh mời mầu

    Không chỉ thuộc đường về miền Cực Lạc mà còn dạy chúng ta phương pháp chuẩn bị tư tưởng cho cuộc hành trình về đó:
    Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh
    Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh.


    Một niềm tin chắc nịch có cõi Tây Phương Cực Lạc, lại có vị Minh Sư từ cõi ấy xuống dạy đường lối tu hành, dẫn dắt chúng sanh về nơi an dưỡng theo tâm nguyện của hành giả. Sao chúng ta còn chần chờ gì nữa, chưa chịu học theo Ngài, không chịu làm đệ tử của Ngài:


    Ma ha thoàn nhỏ dọn rồi đa
    Bước xuống đi qua bến giác mà
    Sao hỡi còn chờ Ta réo mãi
    Dân tình xem giảng cứ ngâm nga

    Và nên nhớ:
    Ngâm nga hiểu nghĩa đáng kim ngà
    Huyền bí nhiều lời chỉ thiệt xa
    Bổn đạo rán tìm cho cặn kẽ
    Lòng hiền Phật độ khỏi tinh ma.


    Vậy hãy “Mau chân bước đến Long Hoa Hội. Chầu Phật hòa vui cõi Đại Đồng”. Và:

    Tu kíp kíp nếu không quá trể
    Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng


    Tóm lại Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền
    Danh ngôn chép để rạch đàng Tiên
    Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn
    Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên


    Cho nên hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ chắc chắn được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

    II. NGUYỆN: trong mọi việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng không có chí nguyện thì không có gì thành tựu được cả. Một học giả đã nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Người không có chí nguyện như "thuyền không lái, như ngựa không cương”. Từ việc đời cho đến việc Đạo, muốn thành công, điều cốt yếu là lập chí nguyện cho vững vàng.
    Tâm nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, theo Thiên Thai Trí Giả đại sư có hai điều yểm ly và hân nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa. Người tu hành phải quán niệm sâu sắc, sắc thân nầy vốn là hư vọng chỉ là tổ hợp của năm uẩn chứa đựng đầy đau khổ và bất tịnh. Thường xuyên quán sát như thế, hành giả sanh tâm nhàm chán đối với thân xác và mọi thú vui dục lạc, không còn sanh tâm đắm nhiễm. Tâm chán bỏ thế giới Ta Bà càng lớn thì chí nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc càng mạnh. Người niệm Phật chỉ có một ước nguyện bất thối chuyển thoát khỏi Ta Bà, nguyện thác sanh về Cực Lạc ngày mai chính là hân nguyện. Phải có tấm lòng thiết tha, không giờ phút nào xao lãng ý muốn được gần Phật A Di Đà, như người xa cha mẹ mong được ngày đoàn tụ. Trong Di Đà sớ sao có dạy: “Trông về Cực Lạc như nhớ cố hương, ngưỡng mến Đức Từ Tôn như cha mẹ”.
    Sức nguyện lực không thể nghĩ bàn. Các thứ trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc đều do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà thành tựu. Có niềm tin, cần phải phát nguyện. Đại sư Tinh Am dạy: “Cửa chính yếu vào đạo là lấy sự phát tâm làm trước, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm đầu, nguyện có lập thì chúng sanh mới độ, tâm có phát thì Phật đạo mới thành”. Xem ra việc phát nguyện rất quan trọng đối với việc tu hành. Bồ Tát Phổ Hiền còn phát kệ thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại; tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sanh nước Cực Lạc”. Lời thệ nguyện nầy cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh Độ.
    Chư vị thiền đức đã từng nhắc nhở chúng ta rằng, hiện chúng ta đang sống là một cảnh chiêm bao lớn. Trong giấc chiêm bao lớn nầy, sống chết là giấc chiêm bao nhỏ, khi giác ngộ rồi thì đại địa vô thốn thổ (cả trời đất bao la nầy không còn gì nữa). Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:


    Sông với núi trước kia mắt ngó
    Khi chết rồi thấy nó đặng nào
    Ai biết đường thì sớm tẩu đào
    Kiếm Đạo lý mà nhờ mà nhõi


    Vì chúng ta chưa ngộ nên cho tất cả mọi chuyện chung quanh đều là thật cả. Phải phát tâm mong muốn hết lòng, cầu về gặp cho được mẹ hiền (Đức Phật A Di Đà) đã chờ ta từ vô lượng kiếp tới nay.

    3. HÀNH: đã lập chí nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện. Tín, Nguyện đầy đủ, nhưng thiếu phần hành, người tu Tịnh Độ cũng khó thành tựu; vì vậy cần chú trọng về phần hành trì. Đại sư Ngẫu Ích đã dạy: “Được vãng sanh đều do ở tín và nguyện; phẩm vị cao hay thấp là bởi chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”.
    Hành giả niệm câu “Namo Amitabla Budda hay Nam Mô A Di Đà Phật”, nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức.
    Namo dịch âm từ tiếng Phạn; Trung Hoa dịch Nam Vô, người Việt Nam đọc Nam Mô, nghĩa là quy mạng, nương về ở đây.
    Amitabla là Vô Lượng Thọ (mạng sống lâu không thể lường), Vô Lượng Quang (sáng suốt vô cùng tận), Vô Lượng Công Đức (Ngài tu không biết bao nhiêu kiếp nên công đức không thể nào lường được).
    Buddha là Phật hay Phật Đà (là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn; người nào có đủ ba hạnh đều gọi là Phật cả).
    Trong mỗi chúng ta có sẵn những đức tính vừa nêu trên, nhưng nhiều đời nhiều kiếp nó đã bị bụi trần vô minh che lấp nên không thấy được. Đức Phật dạy ta pháp môn niệm Phật nhằm hướng dẫn ta trở về con đường nầy. Sự trở về nầy phải gồm đủ tha lực và tự lực. Tha lực là nhờ Đức Phật A Di Đà trợ duyên tốt, nhưng trước tiên là tự lực chính của mỗi người cần phải đầu tư thật nhiều cố gắng thì mới có thể về được cõi Phật, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Nguyện mười phương chư Phật đáo lai
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát.


    Ý nghĩa niệm Phật là đem tâm thanh tịnh tưởng nhớ đến danh hiệu, công đức mầu nhiệm, thân tướng trang nghiêm của chư Phật. Niệm là nhớ nghĩ, buộc tâm vào đối tượng chánh pháp, thường tỉnh giác, không rong ruổi theo niệm trần.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Ta niệm danh hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:
    1- Đức từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não;
    2- Đức bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng;
    3- Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã;
    4- Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lỗi lầm, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh, tài sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.
    Vậy ta nên niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao ta đắc được bốn đức ấy.
    Ta cũng nên bố thí, nhẫn nhục, trì giới (để độ tham, sân, si).
    Còn phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của mình, vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt; vì cái vọng niệm về thế gian ấy mà không cho cõi lòng an lạc; phiền não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nảy sanh ra được?
    Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai.
    Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp)”.
    Niệm Phật là an trụ vào câu Phật hiệu với tâm thanh tịnh sẽ tạo thành một năng lực mầu nhiệm, quét sạch mọi vọng tưởng điên đão, khơi dậy tự tánh Di Đà bên trong mỗi chúng sanh, quyết dứt trừ vọng tưởng, cảnh giới an vui thanh tịnh nhiệm mầu sẽ hiển lộ.
    Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào trong tâm tưởng của chúng sanh, cho nên tâm các người nhớ nghĩ Phật thì tâm ấy là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tâm ấy là Phật. Biến chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh, vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng sâu, sắc thân của Phật kia”.
    Hành là hành chuyên cả 2 mặt Thiện nghiệp và Tịnh nghiệp. Phải nổ lực gieo trồng những nghiệp lành, nắm vững các thiện pháp, tránh làm những điều ác, thực hành hạnh bố thí, bao dung tha thứ, thường xuyên sám hối tu sửa thân tâm, không hại người hại vật, không báo thù người, giữ gìn giới luật, tinh tấn trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Dùng câu Phật hiệu A Di Đà để diệt trừ mọi nghiệp chướng “Niệm chữ Di Đà tan nghiệp chướng”, tâm tưởng ngày đêm hướng về các cõi lành, điều lành, hồi hướng công đức về Cực Lạc và chúng sanh muôn loài (không làm điều ác, làm hết các việc thiện lành, giữ tâm thanh tịnh).

    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:
    Muốn tu hành thì phải cần chuyên
    Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi

    Hay:
    Niệm Di Đà rán niệm cho rành
    Thì mới được sống coi Tiên Thánh


    Tại sao chúng ta chỉ niệm Phật A Di Đà? Biết rằng chư Phật đều đồng một thể tánh chân như bình đẳng. Nay ta niệm Phật A Di Đà tức là niệm tất cả chư Phật. Như trong một phòng rộng treo nhiều tấm gương trong ấy mà nếu như chúng ta bước vào phòng ấy thì mọi tấm gương đều phản chiếu hình ảnh của ta.
    Mười phương chư Phật mà tại sao chúng ta chỉ cầu về Tây Phương Cực Lạc? Quả thật là cõi Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cõi nào cũng được, nhưng có lý do chúng ta cầu về Tây Phương Phật:
    - Cảnh giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là cảnh giới nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu, chúng ta biết rõ hơn cả. Như chúng ta muốn đi đến một địa phương nào đó mà có người biết rõ mọi sinh hoạt của địa phương đó cùng là đường đi nước bước đến đó thì bao giờ chúng ta cũng có ý niệm tin tưởng và an tâm hơn là một nơi mà chúng ta còn xa lạ không rõ biết gì cả.
    - Chúng ta chuyên niệm một cảnh giới nhất định thì tâm ta dễ tập trung, nếu hôm nay niệm cảnh giới nầy, ngày mai niệm cảnh giới khác thì tâm ta dễ tán loạn. Tu pháp môn Tịnh Độ, cốt nhất là niệm Phật “nhất tâm bất loạn”.

    Ngoài ra cũng có người chưa rõ thông đường lối tu hành theo pháp môn Tịnh Độ, nên còn nghi vấn sao Đức Phật A Di Đà không tiếp dẫn hết tất cả chúng sanh?
    Với 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, Ngài không bỏ sót một chúng sanh nào, nhưng chủ yếu là họ có chịu tu theo pháp môn Niệm Phật hay không mà thôi. Nếu chúng sanh đó có Tín- Nguyện- Hành đầy đủ thì Phật A Di Đà chắc chắn giúp vãng sanh Cực Lạc, điều đó có nghĩa là chúng sanh đó phải có duyên với Ngài “Hữu phần thì cũng hữu duyên, Sửa tâm hiền đức cõi Tiên cũng gần”. Nếu không có duyên với Ngài thì Ngài không độ giúp được “Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa”. Đây hãy nghe lời trần thuyết của Đức Huỳnh Giáo Chủ:


    Ta yêu đời than thở chẳng cùng
    Mà bá tánh chẳng theo học hỏi
    A Di Đà nhìn xem khắp cõi
    Đặng trông chờ mong mõi chúng sanh
    Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành
    Đặng tìm kiếm những người hiền đức
    Kẻ tâm trí mau mau tỉnh thức
    Kiếm Đạo mầu đặng có hưởng nhờ
    Chốn hồng trần nhiều cảnh nhuốc nhơ
    Rán hiểu rõ huyền cơ mà tránh.


    Nếu người ta không muốn về cõi Cực Lạc thì không thể bắt ép người ta được “Tu không tu cũng không mời thỉnh, Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê; Thương lê dân còn mảng say mê; Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng”. Người đó không nguyện vãng sanh Cực Lạc thì làm sao đưa người đó về Cực Lạc được. Họ còn mê đắm cõi Ta Bà và họ không muốn vãng sanh “Đời còn mê muội biết chừng nào thôi”, nên Đức huỳnh Giáo Chủ khuyên hóa:

    Đời Ngươn Hạ nhiều người hung dữ
    Nên xảy ra lắm sự tai ương
    Đức Di Đà xem thấy xót thương
    Sai chư Phật xuống miền dương thế
    Tu kíp kíp nếu không quá trể
    Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng
    Cứu lương hiền chẳng cứu người hung
    Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt

    Hay:
    Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương
    Làm sao cứu những người hung ác.


    Những người có trí huệ, thấy khổ người ta tìm cách thoát khổ, chớ không phải thấy khổ mà vui trong khổ. Chúng ta nương theo người trí huệ, tu theo pháp môn Tịnh Độ để dứt cuộc luân hồi, hằng nguyện cầu kiếp nầy là kiếp chót của mình trong sanh tử luân hồi.
    Chúng ta đừng nghĩ ngợi đợi kiếp sau mình sẽ gặp Phật Pháp rồi mình tu hành thoát khỏi sanh tử luân hồi sau. Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng mong chúng sanh quày đầu hướng thiện “Ai mà xét đến ăn năn, Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm” và “Kiếm con hiền đức dắt về; Về nơi cửa Phật Tây Phương an nhàn”. Ngài không ngớt kêu gọi:


    Mau mau kíp kíp chuyên cần
    Chúng sanh còn có lập thân hội nầy
    Tuần hoàn Thiên Địa đổi xây
    Cảm thương trần họ lòng Đây chẳng sờn
    Cũng còn kẻ ghét người hờn
    Vì không rõ hiểu sạ dươn của Thầy.

    Hay:
    Lần thứ chót gọi lời kêu thúc
    Thầy nhắc cho bổn đạo rõ lòng


    Theo nhà Phật, đây là đời Mạt Pháp và sau thời Mạt Pháp nầy qua rồi, Phật Pháp bị diệt thời gian rất lâu thì mới có Phật ra đời. Nếu chúng ta đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ để rồi tiếp tục sanh tử luân hồi khổ não, như Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:

    Kỳ xả tội nay còn một lúc
    Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ
    Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ
    Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy


    Nếu kiếp nầy không được vãng sanh, dù cho kiếp lai sinh có ở cõi Người đi chăng nữa; lúc đó tà đạo, người ác, việc ác xuất hiện lẫy lừng trong xã hội. Gặp thời kỳ không gặp Phật Pháp thì làm sao chúng ta tu để thoát khỏi sanh tử luân hồi; tới lúc đó, vì người không tu dễ rơi vào Tam Ác đạo của Lục Đạo luân hồi. Vậy thì:

    Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ
    Đến tội rồi mới hối muộn màng
    Chi cho bằng ta sớm lo toan
    Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật
    Đến lâm chung quả lành đâu mất
    Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ
    Việc tu thân thiện tín hẫng hờ
    Chừng họa đến e cho khó tránh


    như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy.

    Trì danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Trì đây có nghĩa nên niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hàng ngày bất luận thời khắc thùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy niệm Phật:
    Niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hay niệm “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A Di Đà Phật”.
    (Niệm Phật nhiều hay ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).
    Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc.
    Ngài cũng dạy:

    Nam mô miệng niệm hàng ngày
    Lánh lời dua mị học rày kệ kinh
    Trau tâm luyện tánh cho minh
    Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn.


    Quan trọng của pháp môn Niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh là nhân tố quyết định cho thành tựu cảnh giới nhứt tâm. Tổ Sư Ấn Quang dạy: “Khi hành giả đề khởi câu niệm Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật hiệu, không chạy theo vọng trần và nhiếp tâm liên tục, hành giả sẽ tiến sâu vào cảnh giới chánh định”. Nhất tâm sẽ làm cơ sở cho tuệ giác bừng sáng,theo Đại Sư Liễu Nhất “Khi tâm chuyên chú vào câu Phật hiệu, quên cả thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian, thời gian, đến lúc vọng hoặc tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có chứng được niệm Phật tam muội”.
    Kinh niệm Phật Ba La Mật nói: “Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ”. Thế nên chúng ta tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có Tín, Nguyện và trì danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” là đủ. Và kinh nầy cũng dạy: “Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ đẳng Tam muội của Đức Phật A Di Đà, được Phật tiếp dẫn về Tịnh Độ Tây Phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử”.
    Tóm lại điều kiện tiên quyết để vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, không có gì khó khăn “Tu với tỉnh biết làm chẳng khó. Nếu lặng tâm tỏ ngộ Đạo mầu”, cũng không có gì bó buộc lắm, mà trái lại bất cứ người nào dù sang, hèn, nghèo, giàu, trí thức hay thiếu học đều có thể tu hành để về đó được. chỉ cần điều kiện: có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững vàng, thực hành theo đúng chí nguyện, nghĩa là có ba yếu tố Tín, Nguyện, Hành là có thể lên đường đi đến cõi Cực Lạc. Cuộc hành trình nầy có thể chậm, có thể mau, có thể khó khăn, có thể dễ dàng, nhưng ai có đủ ba đức tính ấy thì thế nào cũng đi đến đích ấy. Như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:

    Niệm chữ A Di dẹp lòng sầu
    Rán trì kinh kệ hoặc mau lâu
    Cũng có ngày kia ta giải thoát
    Giải thoát thì ta rõ Đạo mầu

    Hay:
    Tây Phương Cực Lạc Phật hằng hà
    Ta rán bền lòng Phật chẳng xa.


    Chúng ta thật sự có tin Đới nghiệp vãng sanh không? Đới nghiệp vãng sanh là mang theo Nghiệp (nghiệp thiện hay nghiệp ác) nhưng vẫn được vãng sanh.
    Qua hỏi, đáp giữa Đức Huỳnh Giáo Chủ và Ông Phan Châu Bá (Long Xuyên). Ông Phan Châu Bá hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ bằng bài thi thất ngôn tứ cú:

    Tang bồng nợ ấy trả sao xong?
    Chí dốc từ bi cổi tấc lòng
    Nhơn đạo còn mang chưa xử trọn
    Nghĩ sao giải thoát nợ tang bồng?


    Đức Huỳnh Giáo Chủ đáp lại:

    Đành rằng nợ thế trả chưa xong
    Mà biết ăn năn sửa lấy lòng
    Niệm chữ Di Đà tan nghiệp chướng
    Thuyền từ Thầy rước tại non Bồng

    *
    * *
    Non Bồng Tiên Phật xót nhân sinh
    Trí huệ trau giồi khán kệ kinh
    An phận hơn bề danh lợi tạm
    Tề gia trung hiếu vẹn thân mình.


    Qua đây, chúng ta nên tin chắc chắn lời nói của Đức Huỳnh Giáo Chủ xác định có Đới Nghiệp vãng sanh.
    Chúng ta tin có Phật A Di Đà, chúng ta quyết tâm thực hiện chí nguyện, thì mặc dù cõi Cực Lạc cách xa mười muôn ức cõi, khi lâm chung, chúng ta sẽ được Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra để tiếp độ chúng ta về cõi ấy.

    Pháp Môn Niệm Phật Dễ Tu Và Chắc Chắn Có Kết Quả

    Trong đạo Phật, có nhiều pháp môn để tu, nhưng tựu trung pháp môn niệm Phật là dễ tu hơn cả. Các pháp môn khác Cổ Đức ví như con mọt đục ống tre từng mắc mới ra được, còn pháp môn niệm Phật như con mọt đục ngang ống tre mà ra. Hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp sau kết quả mau chóng hơn phương pháp trước.
    Cổ Đức dạy: “Người tu Thiền mà không tu Tịnh Độ (niệm Phật) thì mười người lầm hết chín. Người tu Tịnh Độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vãng sanh (nếu nhất tâm). Niệm Phật có cả tham Thiền, như cọp đã có sức mạnh, lại còn mọc thêm sừng”. Có nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa. Còn người không tu Thiền, mà cũng không tu Tịnh Độ, thì như nằm giường sắt nóng và ôm trụ đồng; người không tu môn nào mà cứ tạo điều ác, thì phải đọa vào địa ngục, chịu hình phạt khổ sở, như Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:


    Diêm phù chơn Chúa chọn người tu
    Hành phạt ác hung chốn cừa tù
    Tiếp nghinh những kẻ lòng nhơn đức
    Hỡi bớ dương trần hãy rán tu.

    Và:
    Đức Diêm Chúa yêu người hiền thảo
    Trọng những ai biết niệm Di Đà.


    Vì lợi ích của việc tu hành “Tu hành sau được đức ân, Nhờ trời ban bố cho gần Phật Tiên”, nên Ngài dạy khuyến tu:
    Tu cho qua cửa Diêm phù
    Khỏi sa Địa ngục ngao du Thiên đài

    Và:
    Bá gia phải rán làm lành
    Niệm phật cho rành đặng thấy Thần Tiên


    Một phen để mất thân người rồi, khó mà trở lại người được:

    Dương trần tội ác liên miên
    Sau xuống huỳnh tuyền Địa ngục khó ra.



    Lợi Ích Của Niệm Phật Trong Đời Sống Hiện Tại.


    Niệm Phật có nhiều lợi ích, không chỉ có lợi ích chính là đời sau được vãng sanh về các cõi lành như cõi Phật, cõi Tiên, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực.

    1- Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh.


    Niệm chúng sanh là tưởng nhớ đến các điều xấu như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… Do những điều nhớ ấy mà ý nghĩ, lời nói, việc làm đều vương mang tội lỗi. Nếu chúng ta niệm Phật thì tâm trí không còn nghĩ đến những điều xấu xa, thân, khẩu không tạo nghiệp ác, là ta đã diệt được niệm chúng sanh, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu
    Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ
    Mau trở lại đừng theo tà quỉ
    Tham, Sân, Si chớ để trong lòng
    Phải giữ lòng cho được sạch trong
    Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.


    Một giờ, một ngày, một tháng, một năm, một đời niệm Phật, thì suốt cả thời gian từ ngắn đến dài đó tránh được niệm chúng sanh, tránh được điều ác và làm được việc lành. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy: “Niệm Phật là để trừ các vọng niệm của chúng sanh, vì trong tâm trí của chung sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt; vì cái vọng niệm về việc thế trần ấy mà không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy phương pháp niệm Phật:


    Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà
    Thì hiền lương quên mất điều tà
    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng

    Và:
    Niệm Phật thì dẹp được lòng tà
    Nhớ từ bi hai chữ ngâm nga
    Dầu làm lụng cũng là trì chí
    Chờ Thiên Địa châu nhi phục thỉ.


    2- Niệm Phật sẽ trừ được tâm phiền não.

    Trong lúc buồn phiền khổ đau… nếu chúng ta niệm Phật thì buồn phiền khổ đau tiêu tan. Vì một khi chúng ta nghĩ tưởng đến Phật A Di Đà, đến cảnh giới của Ngài, thì không còn bận tâm nghĩ đến những nỗi niềm riêng tư của ta nữa. Cho nên nói niệm Phật đổi niệm phiền não là như vậy. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Chữ Nam Mô dẹp được lòng sầu
    Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh

    Và:
    Được thảnh thơi nhờ chữ Nam Mô
    Khuyên bổn đạo rán mà trì chí


    Vậy niệm Phật tăng thì niệm phiền não giảm. Sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực làm tiêu tan phiền não nghiệp chướng. Nếu người không tin có nước Tây Phương Cực Lạc, có Phật A Di Đà mà niệm Phật cũng vẫn có lợi ích nhiều, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Nam Mô sáu chữ Di Đà
    Từ bi tế độ vậy mà chúng sanh
    Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh
    Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi
    Trì tâm thì quá ít oi
    Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào
    Rạch tim đem để Nó vào
    Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi
    Để sau đến việc tả tơi
    Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành
    Ngày nay chim đã gặp cành
    Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa
    Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa
    Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng
    Gẫm trong thế sự trần hoàn
    Người hung người ác tà gian cũng nhiều
    Thương đời Ta mới đánh liều
    Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay
    Muốn tu còn đợi chiều mai
    Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư.

    3- Niệm Phật được thần linh bảo hộ và Phật vãng lai cứu nàn.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Ai mà tu tỉnh chuyên cần
    Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho

    Hay:
    Chữ Lục Tự trì tâm bất viễn
    Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.

    Hoặc:
    Lúc Tam Tạng Tây phương quyết đáo
    Bị loài yêu làm bạo mấy phen
    Đức từ bi phải lộ trắng đen
    Lôi Âm tự cũng đi đến chốn
    Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn
    Thấy Đường tăng thơm thịt muốn ăn
    Nhờ môn đồ Bát Giái, Sa Tăng
    Với Đại Thánh Tề Thiên cứu vớt
    Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt
    Thì nạn tai cũng thoát như không.


    Và một lòng quyết tin tưởng:

    Tây Phương tuy ở cõi xa
    Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.


    Chúng ta đã trót sinh ra ở cõi đời nầy, ai lại không biết có thân là khổ, dù cho có vui chỉ như trong giấc mộng, mà cái khổ luôn đeo đuổi như hai bánh xe lăn theo sau chân con bò. Vì vậy chúng ta cần chuyên niệm Phật làm lành, để sớm được giải thoát. “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật; Cô phần đa thị thiếu niên nhơn”. Chớ để đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa thiếu chi mồ của hàng thiếu niên. Trong giờ phút còn mạnh khỏe chớ quên niệm Phật. Nào ai biết Quỉ Vô Thường có chờ đợi chúng ta đến ngày mai chăng!

    GIẢI NGHĨA CHỮ LỤC TỰ DI ĐÀ.

    Di Đà lục tự sáu câu
    Giải ra sáu nghĩa sửa tâm tu hành
    Bấy lâu chẳng biết cho rành
    Nay Thầy chỉ rõ lý chơn đặng tường
    Di Đà hãy niệm cho thường
    Đó là sáu báu rán đem vào lòng
    Tìm đâu sáu nghĩa cho xong
    Đặng mà sửa tánh trừ tâm nơi mình
    Nhớ ghi sáu chữ cho minh
    Niệm thì tầm nghĩa đặng thì làm theo
    Trước trừ sáu quỉ đùm đeo
    Sau là trừ khử thất tình vấn vương
    Chữ NAM giải nghĩa cho tròn
    Niệm thì diệt hỏa ở tâm vậy mà
    Thường thường tánh nóng của ta
    Phải mau vụt tắt lần lần bỏ đi
    Chữ MÔ cũng rán làm y
    Tâm không thanh tịnh đừng gây nợ trần
    Rán mà trau sửa ân cần
    Tâm không của Phật, có là quỷ ma
    Niệm thì tầm nghĩa cho ra
    Không gây không tạo đó là chữ MÔ
    NAM MÔ diệt hỏa hư vô
    Tâm phàm dứt bỏ theo lòng Hoàng Thiên
    Chữ A phải giữ cho nguyên
    Khí tinh nơi thận giữ cho đủ đầy
    Nghĩa đừng dâm dục tạo gây
    Đông con nhiều vợ hao mòn thân ta
    Chữ DI phải giữ đó mà
    Ba báu tinh khí với thần đừng hao
    Muốn gìn ba báu làm sao
    Ta bỏ hờn giận ghét ghen phải chừa
    Ân cần tu luyện sớm trưa
    Chớ ham danh vị giàu nghèo lo chi
    Nếu ai giữ đặng cho y
    Thì là khỏi bịnh trường sanh tới già
    Lại thêm cái nghĩa chữ ĐÀ
    Tấm lòng sáng suốt phá mê cuộc trần
    Rán mà trau sửa ân cần
    Tâm phàm dứt bỏ độc sâu phải chừa
    Ân cần dồi luyện sớm trưa
    Thì là trúng nghĩa khỏi sai với lầm
    Chữ PHẬT là tịnh là tâm
    Hãy đem trí não mà tầm cho xa
    Đó là Phật chẳng có xa
    Tâm cho bình định cõi Tiên đặng về
    Niệm thì phải phá tánh mê
    Tâm đừng vọng quấy gìn lòng từ bi
    Niệm thì rán nhớ làm y
    Của Thầy, sư vải đặng mà làm theo
    Niệm Phật chẳng luận giàu nghèo
    Không tốn tiền bạc mà sao thanh nhàn
    Niệm Phật chẳng tốn tiền ngàn
    Thì sau mới đặng tòa vàng an thân
    Niệm Phật sớm tối ân cần
    Ngày đêm siêng niệm khỏi trong luân hồi
    Niệm Phật muôn việc thôi thôi
    Chớ ham sự thế cực lòng khổ thân
    Niệm Phật gặp hội Long Vân
    Rán mà siêng niệm có ngày siêu sanh
    Niệm Phật đừng có đua tranh
    Theo đời văn vật hao mòn thân ta
    Niệm Phật khỏi đọa yêu ma
    Khuyên trần rán niệm nơi tâm cho thường
    Niệm Phật khỏi đọa vấn vương
    Thường thường xét lỗi của ta hằng ngày
    Niệm Phật nợ thế đừng vay
    Nợ trần rán trả có ngày thảnh thơi
    Trả rồi sau đặng vui chơi
    Hiệp cùng Tiên Phật tớ Thầy âu ca

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


    Đặc điểm của pháp môn niệm Phật là tự lực và tha lực. Tự lực là nổ lực chính mình tu hành trì danh hiệu Phật. Còn tha lực là nhờ Phật lực giúp mình vãng sanh Cực Lạc .

    CÔNG ĐỨC CÂU NIỆM PHẬT

    Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ tiêu diệt tội trọng trong đường sanh tử 80 vạn ức kiếp”. Trì danh hiệu Phật A Di Đà được rất nhiều công đức và trừ được nhiều vọng tưởng. Trì danh hiệu Phật làm thân, khẩu,ý của mình từ từ trở nên thanh tịnh, như thế mình hạn chế được hoặc, không tạo ra Tội và Nghiệp.
    Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, có câu chuyện: “Vào thời đại xa xưa, tại nước A Thâu Sa của xứ Thiên Trúc (vào thời cổ Thiên Trúc có 16 nước lớn), có một người dòng Bà La Môn ( không rõ tên họ), người nầy bản tánh chân thật, nhưng vô trí lại có tâm nhiễm ái, nên đối với vợ yêu thương hết mực, tình vợ chồng không biết nhàm chán. Người vợ sinh trưởng trong một gia đình kính tin Tam Bảo. Cô nầy là người chẳng những sùng kính ngôi Tam Bảo, lại rất am tường Phật lý. Về việc tu hành, cô chuyên về pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật, trường chay. Cô thuê thợ làm một chiếc trống thuần hoàng kim. Mỗi ngày cô qui định hai thời khóa niệm Phật sớm và tối. Vì trong lúc ban ngày phải bận việc gia đình, trong thời gian nầy cô niệm Phật cũng chỉ nhiếp tâm thầm niệm mà thôi. Mỗi khi niệm Phật thì cô gỏ trống thay thế cho mõ.
    Như trên đã nói, chồng cô quá đần độn lại quá yêu vợ không rời, nên lúc cô vợ đang cúng, đánh trống niệm Phật, mà anh nắm tay lôi cô bảo đi ngủ; cô ôn tồn đáp: “Không được anh ơi! Nếu muốn em cùng đi ngủ thì mỗi tối đồng với em đánh trống niệm Phật cho xong mới cùng nhau đi ngủ”. Anh chàng vì thương vợ nên sẵn sàng ưng thuận, có những lúc đang niệm Phật, anh ta thúc hối đi ngủ thì cô vợ vẫn từ hòa nói, chưa đủ anh ơi! Niệm thiếu mang tội chết! Từ đây anh chàng Bà La Môn nầy cùng vợ niệm Phật không sót một đêm; trải qua thời gian ba năm, anh bị trọng bệnh rồi qua đời, nhưng vì tim vẫn còn nóng, nên không nhập liệm. Trải qua năm ngày anh sống lại. Giờ đây, trước mặt vợ, anh khóc một cách thảm thiết dường như buồn tủi một việc gì! Cô vợ anh hỏi lý do, anh nói: “Em ơi! Giờ đây anh không có một niệm muốn gần em nữa! Chỉ có tâm niệm lo tu và siêng niệm Phật để được về Tây Phương Tịnh Độ mà thôi! Vì sau khi chết, bị ngục tốt dẫn vào Hoạch Than địa ngục (chỗ hành phạt tội nhân bằng cách nấu trong vạc dầu sôi); lúc ấy anh thấy tất cả tội nhân đang bị nấu trong vạc dầu, trồi lên chìm xuống, giống như nấu đậu, có tội nhân la khóc thảm thiết, trườn qua miệng chảo muốn chạy ra, liền bị ngục tốt dùng gậy đánh đập trúng vào chảo dầu đang nấu nghe tiếng “cảng cảng” và lại bị bắt quăng vào chảo lại, lúc đó, anh vô cùng kinh hồn khiếp vía sợ hãi, bổng nhiên nhớ lại khi cùng em đánh trống vàng niệm Phật, hai tay chắp lại chí thành niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì chảo dầu sôi tức khắc biến thành một ao nước mát có hoa sen đầy trong ấy, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên tòa sen và thấy họ vui tươi không la khóc. Tất cả đều sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Ngục tốt tức khắc tâu với Đức Diêm Chúa, Ngài liền đến chỗ chảo dầu sôi đã biến thành ao sen, vui mừng vô hạn và truyền lịnh phóng thích anh về dương thế đồng thời dạy bảo anh sau nầy khi về dương thế phải siêng năng niệm Phật, đừng gần vợ nữa. Vì thế, giờ đây anh không muốn gần em. Anh cũng muốn nói cho em được rõ, Diêm Chúa chẳng những vui vẻ truyền lệnh phóng thích anh về, mà Ngài còn nói:


    Trên dưới Trời không ai bằng Phật
    Đức từ bi Ngài cứu khắp quần sanh
    Có những chúng sanh tạo nhiều ác tội
    Đọa vào Dịa ngục chịu khổ cực hình
    Chỉ nghe một câu A Di Đà Phật
    Dầu sôi lửa dữ tức khắc biến thành
    Ao nước thanh lương (mát mẻ)
    Tây Phương Cực Lạc, Đức Từ Bi ấy
    Hết sức cao cả, con không thể gì
    Dùng lời diễn tả, chỉ có chí thành
    Tánh mạng nương về nơi Đấng Lưỡng Túc

    (Phước đức, Trí huệ).

    Đọc qua truyện nầy, có vài điểm nên lưu tâm: Hành động của cô Phật tử (vợ anh Bà La Môn) và niệm Phật ba năm mà bị đọa Địa ngục.
    - Cô Phật tử đã biết khéo léo, biết cách xử sự có lý có tình. Đang lúc niệm Phật mà bị chồng quấy rầy như vậy, nếu như người nào khác sẽ nổi sân si la mắng vì không tôn trọng giờ hành đạo niệm Phật mà còn hối thúc đi ngủ. Cô dùng lời lẽ từ hòa thuyết phục ông chồng vô trí làm theo ý của cô. Hành động khôn ngoan có trí lại hiền từ của cô, chúng ta nên tán thán!
    - Niệm Phật ba năm mà bị đọa. Mới nghe qua ai ai cũng có tâm nghi ngờ đối với lời vàng ngọc khuyến tu của chư Phật, chư Bồ Tát. Trong Kinh, Đức Thế Tôn có dạy rõ: “Niệm Phật một câu A Di Đà Phật, sẽ tiêu diệt tội trọng trong đường sanh tử 80 vạn ức kiếp”. Chỉ một câu thôi mà có hiệu lực dường ấy thì tại sao anh Bà La Môn kia mỗi đêm cùng vợ niệm Phật đều suốt ba năm mà bị đọa? Như vậy chúng ta đã biết tất cả pháp, thì tâm đứng đầu, tâm làm chủ, nếu dùng tâm ấy mà tạo nghiệp thì như bóng theo hình không sai chạy. Nhưng anh Bà La Môn nầy cũng niệm Phật bằng cách đọc Thánh hiệu mà thôi, trong tâm tưởng hoàn toàn không có niệm. Vì sao? Dù anh suốt ba năm niệm Phật theo vợ, nhưng trong tâm bao giờ cũng nghĩ chỉ chìu theo ý vợ một chút để được thỏa mãn dục tính của mình. Suốt ba năm, anh Bà La Môn không có một phút thành tâm niệm Phật, miệng chỉ đọc Thánh hiệu theo sự bắt buộc như lời hứa của vợ (cô vợ Phật tử bảo anh nếu muốn đi ngủ phải cùng niệm Phật với em cho đủ). Do sự đọc Thánh hiệu bắt buộc suốt ba năm, nó huân tập vào tàng thức hạt giống niệm Phật nằm mãi trong tâm như hạt kim cương không bao giờ hư hoại, nên khi gặp duyên thì hạt giống sẵn có ấy phát ra rất mạnh mẽ mà theo Duy Thức Học của Phật dạy gọi là chủng tử khởi hiện hành. Khi anh Bà La Môn bị ngục thất dẫn vào chỗ hành phạt tội nhân bằng nước dầu sôi; anh thấy bao tội nhân đang bị hành hình vô cùng khiếp sợ, lại nghe tiếng đánh đập tội nhân, cây côn trúng vào chảo dầu kêu lên lảng cảng thì trong tâm thức anh tức khắc nhớ lại tiếng gỏ trống vàng niệm Phật với vợ khi ở dương thế, liền thành kính chấp tay lại niệm Nam Mô A Di Đà Phật thật lớn; chảo dầu đang sôi sùng sục, tức khắc biến thành ao nước mát mẻ đầy cả hoa sen, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên ấy.
    Với một câu niệm Phật của anh Bà La Môn lúc nầy có công năng
    tiêu tội trọng vô lượng vô biên kiếp, vì câu niệm Phật lúc nầy của anh chẳng những chí thành mà tất cả tâm lực đều dồn hết vào đó nên mới được kết quả to lớn như vậy. Giống như căn nhà bỏ trống hàng vạn năm mà nay có ngọn đèn soi vào thì tất cả tối tăm đều tan biến.
    Từ chỗ nầy, chúng ta thấy rõ công đức niệm danh hiệu Phật A Di Đà của anh Bà La Môn không mất mà trong Kinh Phật dạy niệm Phật dù không chí thành cũng là nhân xa sẽ được giải thoát trong vô lượng kiếp về sau.
    Tại sao chỉ do câu niệm Phật của anh Bà La Môn mà tất cả tội nhân đều được giải thoát. Điều nầy Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn dẫn dụ: “Trăm ngàn vạn ức người, khi kiếm vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu và những thứ quý báu cùng loại, nên ra biển. Giả sử bị trận cuồng phong thổi tạt thuyền sa vào đảo quốc La Sát. Nếu trong số người ấy có một người trì niệm danh hiệu Quan Âm Đại Sĩ thì những người kia cũng vẫn thoát được họa La Sát”. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng đã từng dạy chúng sanh: “Chữ Lục Tự trì tâm bất viễn; Thì lâm nguy có kẻ cứu mình” và “Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt; Thì nạn tai cũng thoát như không”, cũng như “Ai mà tu tỉnh chuyên cần; Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho”.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết:


    Chốn âm ty ngưu đầu mã diện
    Đang trông chờ tới số bắt hồn
    Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn
    Chờ mãn phước ra tay bẻ họng

    Và:
    Ngục môn đầy quỉ vô thường
    Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng


    Các bậc Thần Thánh, ngày đêm luôn luôn tuần du xem xét điều tội phước của nhân gian để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra thấy điều ác của chúng sanh quá nhiều, còn việc nhơn hiền, thì quá ít, nên các Ngài hội cộng đồng phán xử, quyết định cho chư tướng xuống trần răn phạt kẻ hung ác:

    Các chư Thần tuần vãng năm canh
    Về Thượng Giái tâu qua Thượng Đế
    Sổ tội ác thì vô số kể
    Còn làm nhơn thì quá ít oi
    Hội cộng đồng xem xét hẳn hòi
    Sai chư tướng xuống răn trần thế.

    Con người sống trong thề gian, nếu ai làm điều hung ác thì khi nhắm mắt lìa đời, linh hồn bị nghiệp lực hút vào địa ngục chịu sự khảo hình khốc liệt. Lưới trời tuy thưa nhưng một mảy lông cũng không lọt. Thế mà con người cứ miệt mài vào đường tội ác; khi vô thường đến thì trước công án Diêm Vương, dù điểm nhỏ tội cũng không chối cãi được:

    Ở dương thế tạo nhiều cảnh khổ
    Xuống huỳnh tuyền địa ngục khảo hình
    Tuy lưới Trời thưa rộng thinh thinh
    Chớ chẳng lọt những người hung ác
    Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác
    Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm Đình
    Sổ sách kia tội phước đinh ninh
    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ

    Chúng sanh trong cõi trần, dù già, trẻ, trí, ngu, cũng phải chịu cảnh chết đi rồi sanh trở lại. Cứ như thế lên xuống mãi trong sáu đường luân hồi thống khổ.
    Trong kiếp sống, có người không tin Phật Pháp, không tin Luân Hồi, không tin Nhơn Quả, nên cứ mãi gây tội ác. Rồi đến khi tử thần kêu tên, bị đọa vào cảnh giới Địa ngục phải chịu nhiều sự hình phạt đau đớn muôn phần, chừng đó dù có muốn hối lỗi cũng đã muộn không sao tránh khỏi:

    Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão
    Mắc trong vòng sanh tử luân hồi
    Xuống Diêm Đình thấy tội hỡi ôi!
    Đó mới biết có nơi Địa Ngục.

    Đối với tất cả tội nhân, Đức Diêm Chúa đều có từ tâm với họ, nên mỗi khi ngục tốt bắt người dẫn đến, Ngài liền truyền lịnh bảo Tào quân đem bộ sổ ra xem, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    Cuốn sổ bình sanh công với tội
    Chờ nơi thẩm phán sẽ cung khai


    Căn cứ vào lời khai của mỗi tội nhân phù hợp với trong ấy; gặp những người nào khi còn trên dương thế tu nhiều phước đức, có tâm tin kính Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, làm lành thì các Ngài vui mừng vô cùng, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ:


    Đức Diêm Chúa yêu người hiền thảo
    Trọng những ai biết niệm Di Đà


    Trái lại, gặp tội nhân nào tạo nhiều tội ác thì các Ngài quở trách:

    Hành phạt ác hung chốn cửa tù

    Lời quở trách của Đức Diêm Vương theo các kinh sách có ghi như sau:
    “Các ngươi may mắn đã được thân người mà chẳng lo tu, khác nào như người đã đến núi báu (núi có vàng ngọc) mà về tay không. Hôm nay đến đây phải chịu cực hình là do các ngươi tạo nhiều tội ác. Tự mình tạo tội thì tự thọ khổ, đâu có người nào đem khổ đến cho. Giờ đây các ngươi kêu la than khóc mong cầu việc gì, Ta đâu cứu được, Ta cũng không thể chịu thay các ngươi!”.
    Đức Diêm Chúa rất trọng Phật Pháp và rất thương kính người tu hành, niệm Phật, ăn chay, làm lành. Có câu chuyện kể như sau: “Đời nhà Đường bên Trung Hoa, có Phật tử tên Phòng Chữ tu hành tinh tấn, thành kính Tam Bảo. Một hôm bỗng nhiên bị bạo tử dù không hề bị bệnh hoạn chi. Xuống Diêm Đình yết kiến Diêm Vương và được Diêm Vương tiếp đãi sùng hậu.
    Ngài phán rằng: Căn cứ trong sổ bộ ghi tội phước, Trẩm thấy khanh có làm một việc công đức rất lớn, đó là khuyên một người cao niên niệm Phật. Người ấy đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Nhờ công đức ấy, khanh nương vào chắc chắn cũng được vãng sanh. Trẫm mời khanh đến đây để được gặp mặt nhau lần cuối cùng và cũng có vài lời tán thán công đức to lớn ấy vì người vãng sanh kia sẽ được thành Phật độ vô lượng chúng sanh”.
    Phòng Chữ sau khi nghe Diêm Vương ân cần tán dương công đức mình làm, vui mừng nói: “Kính Diêm Chúa, con chân thành vạn tạ ơn Ngài đã chiếu cố gọi con đến đây và có vài lời dạy bảo quý hóa, con vô cùng cảm kích; nhưng tâu Diêm Chúa, trước kia con có phát hai điều thiện nguyện: một là trì tụng một vạn quyển kinh Kim Cang, hai là đi Ngũ Hành Sơn chiêm bái Đức Đại Bi Quán Thế Âm Đại Sĩ, vì vậy con chưa muốn vãng sanh Cực Lạc trong lúc nầy”.
    Nghe Phòng Chữ nói, Đức Diêm Chúa phán: “Quý hóa thay! Nhưng khanh nên biết hai thiện nguyện ấy hoàn toàn không bằng sớm được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, vì khanh được về cõi nước của Đức Phật A Di Dà, chẳng những khỏi hẳn tất cả mọi thống khổ trong sanh tử và sự tu hành đủ thắng duyên hơn ở cõi Ta Bà vạn ức lần. Lại được diện kiến Đức Giáo Chủ cõi Cực Lạc, Đại Thánh Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hầu bên cạnh. Ngoài ra khanh được làm bạn với Chư Thượng Thiện Nhân ở Lạc Bang. Nếu khanh còn ở lại cõi Ta Bà nầy để đi chiêm bái, chẳng qua chỉ là Thánh tích của Quán Thế Âm Đại Sĩ mà thôi. Những lời vừa bày tỏ và khuyên tấn đối với khanh đều là y theo Thánh giáo, chớ không phải nơi ý kiến riêng của Trẫm, mong khanh nên nghĩ kỷ lại”.
    Diêm Vương cạn lời huấn dụ như vậy mà Phòng Chữ không vâng theo, nên Ngài cũng tùy thuận mà bảo ngục tốt dẫn trở về dương thế.
    Người tu hành niệm Phật, ăn chay, làm lành được nhiều phước đức mà sau cùng lại được vãng sanh Cực Lạc. Thế nên Cổ Đức có bài kệ thuyết minh về công đức khuyên người tu pháp môn Tịnh Độ như sau:

    Nếu ai có thể khuyên được hai người
    Tu hành niệm Phật như thế tức là
    Bằng mình tự tu rất là tinh tấn
    Nếu khuyên cho được mười người trở lên
    Thì phước đức ấy vô biên vô lượng
    Nếu mà khuyên được trăm người ngàn người
    Làm được như vậy là Bồ Tát
    Lại tiến lên thêm cho đến vô vạn
    Như vậy tức là Phật A Di Đà.


    Câu chuyện kể về Vua Diêm Vương khuyên bà già bảy mươi tuổi niệm Phật: Ở huyện Kim Đàn (Trung Hoa) có một bà lão chết xuống âm phủ, nhưng chưa hết số phải trở lại nhân gian. Trước khi bái biệt Diêm Vương để trở về dương thế, Diêm Vương khuyên bảo bà lão: Bà đã cao niên rồi, khi trở về dương thế lo tu phước sẽ sanh được cảnh giới an vui. Ngài lại hỏi bà niệm kinh được không? Bà lão nầy đáp: Thưa Đại Vương! Con không biết chữ tụng kinh không được. Diêm Vương bảo không sao! Bà tụng kinh không được, chỉ thành tâm niệm Phật A Di Đà cho nhiều, đến kỳ mãn số sẽ về Tây Phương Cực Lạc, không còn trở lại chốn nầy. Sau khi bà lão sống lại, bà thường nói với những người quen biết rằng: Tôi vô phước từ trước đến nay không ai chỉ dạy tu hành tụng kinh niệm Phật, nhân chết xuống âm phủ, Diêm Vương dạy tôi niệm Phật, do đó tôi biết đạo Phật là trên hết. Đức Diêm Chúa mà còn khuyên tôi niệm Phật thì đâu còn nghi ngờ gì nữa. Từ nay tôi nguyện gát bỏ tất cả mọi việc, đói no chẳng màng, chuyên tâm niệm Phật. Bà thọ tới 120 tuổi mà không mang bệnh tật.

    Câu chuyện kể về việc thấy người sát sanh, niệm Phật được phước . Ở tại Nhiêu Châu (Trung Hoa) có người tên Trịnh Lâm phục vụ trong quân ngũ, chết xuống âm phủ vì bắt lầm nên được tha về dương thế. Trước khi bái biệt Diêm Vương, Ngài có mấy lời khuyên nhắc Trịnh Lâm rằng: Anh về dương thế gắng sức làm lành, kiếp người ngắn ngủi như bóng câu qua cửa sổ, như sương mai đầu cỏ, như ngọn đèn leo lét trước gió.
    Việc lành thì vô lượng, mà công đức niệm Phật là lớn nhất. Vậy Trẫm khuyên anh nên cố gắng niệm Phật cho nhiều, khi hết số được sanh về Tây Phương Cực Lạc không còn trở lại Diêm Đài nữa. Một điều cần lưu tâm, bất luận lúc nào anh thấy người sát sanh thì anh cứ chí thành niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện cho chúng sanh bị giết về Cực Lạc; dù cho chúng nó không được sanh về Cực Lạc thì cũng được thác sanh cảnh giới lành, anh được phước rất lớn. Chuyện nầy thấy rõ có ba điều lợi: thứ nhứt đem công đức ấy tiến bạt, tiến vong, thứ hai là được phước, thứ ba là được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ đã dạy chúng ta trong kiếp sống của con người dầu có tạo ra nhiều tiền của, danh vọng, vợ đẹp, hầu xinh, nhưng khi nhắm mắt cũng chẳng mang theo được. Duy chỉ có nghiệp thiện hay nghiệp ác đeo sát bên ta như hình với bóng, có sức mạnh dẫn dắt chúng ta đến cõi Diêm Đài để được phán xét công minh. Vua Diêm Vương căn cứ vào nghiệp tội phước của con người mà quyết định. Hễ ai tạo nhiều phước đức thì được siêu sanh lên cõi Phật, cõi Tiên; bằng gây nghiệp ác sẽ bị đọa vào cảnh giới thấp hèn chịu muôn ngàn thống khổ. Đến lúc đó dù có ăn năn những hành động tội ác trong quá khứ hay muốn tìm phương cãi sửa cũng không còn kịp nữa.
    Bây giờ chúng ta sớm giác tỉnh, nương theo con đường Đạo pháp của Tổ Thầy đã vạch, làm lành, lánh dữ, niệm Phật cho tội quả tiêu mòn,tăng thêm phước hạnh; nhờ thế chư Phật mới nhủ lòng từ bi tiếp độ linh hồn chúng ta về miền Cực Lạc, không còn bị luân chuyển trong sáu đường luân hồi sanh tử nữa. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:


    Nhắm mắt cũng nắm hai tay
    Đâu đem tiền của đem rày hầu non
    Chỉ có tội phước hởi còn
    Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài
    Phước nhiều tiên cảnh lên rày
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê
    Chừng ấy mới biết chỉnh ghê
    Ăn năn chẳng kịp khó bề tính toan
    Ngày nay sớm đến Phật đàng
    Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn
    Tội tiêu phước hưởng trường tồn
    Không còn mắc nẽo dại khôn luân hồi.

    Niệm Phật là pháp môn thù thắng cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp.
    Niệm Phật là pháp môn duy nhất giúp chúng ta sanh về giới Cực Lạc.
    Niệm Phật là phương pháp vi diệu giúp chúng sanh mau thành tựu giác ngộ.
    Niệm Phật là pháp tu thiết thực cho mọi người theo khả năng và trình độ vận dụng tu tập đều có lợi lạc.
    Lục Tự Di Đà vô biệt niệm
    Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương
    (Sáu chữ Di Đà thường xuyên niệm
    Tương lai quyết định vãng Tây Phương).



    Rất mong quí vị đạo hữu tại gia nhận thức tròn đầy công hiệu viên dung của pháp tu Tịnh Độ, cùng nhau niệm Phật, đến một ngày kia cùng gặp nhau trên ao thất bảo của Đức Phật A Di Đà. “Ước trăm họ nhẹ mình có cánh; Đồng bay về Cực Lạc một đàng” như lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng mong.

    NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


    NIÊN NHÂM THÌN 2012
    PHAN-THANH-NHÀN

    ***
    PHỤ CHÚ

    Tám nỗi “KHỔ” của chúng sanh.

    Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo:
    Khổ Ta Bà nhiếp lại tám phần
    Bởi chúng sanh mang lấy xác thân
    Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc
    Vào bụng mẹ chung quanh bao bọc
    Có khác nào ở chốn ngục tù
    Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu
    Lúc mẹ đói giường treo lỏng bỏng
    Ta kể sơ những điều bi thống
    Mẹ no cơm chật chội khó khăn
    Khi ra đời đau đớn vô ngần
    Cất tiếng khóc nếm mùi dương thế
    Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể
    Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân
    Hết tráng cường đến lúc mòn thân
    Răng lần rụng lưng cong gối mỏi
    Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi
    Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng?
    Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng
    Đeo hành phạt xác thân ô uế
    Bởi thời thế chuyển xong biến thể
    Thêm uống ăn chẳng được điều hòa
    Là nguyên nhân căn bệnh phát ra
    Thân trằn trọc hôn mê nhức nhối
    Cơn bịnh hoạn càng không tánh nổi
    Còn mang thêm tật nọ tật kia
    Rồi từ đây đến lúc chia lìa
    Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải
    Trên dương thế hữu hình tắc hoại
    Có sanh ra khổ hải đâu chừa
    Trải bao phen giải gió dầm mưa
    Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát
    Gần hấp hối tâm thần xao xác
    Trí vẩn vơ kinh sợ vô cùng
    Rồi mòn lần đến lúc lâm chung
    Già cõi tạm theo đường tội phước
    Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước
    Mà cũng không thoát luật tuần hườn
    Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn
    Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi
    Đoạn thứ năm nghĩ suy tìm tỏi
    Cầu Chẳng Thành những việc thích ham
    Người trên đời ai cũng lòng tham
    Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của
    Nào vợ đẹp, hầu xinh là lụa
    Không được thì bực tức ưu phiền
    Cả tâm thần điêu đứng đảo điên
    Vậy có phải khổ hay là chẳng?
    Đoạn thứ sáu Biệt- Ly cay đắng
    Người mình thương bỗng lại chia lìa
    Khi khóc than nước mắt đầm đìa
    Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót
    Ở thế gian mấy ai thoát lọt
    Nợ gia đình đeo đắm căn duyên
    Cơn nguy nghèo thân thể truân chuyên
    Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi
    Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân ái
    Đến xong đời để lại sầu ưu
    Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu
    Cũng chung chịu như người tăm tối
    Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng- Hội
    Hể thương nhau tất có ghét nhau
    Thường tranh đua tiếng thấp lời cao
    Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán
    Muốn tránh xa đừng trông tăm dạng
    Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm
    Làm cho người đau đớn âm thầm
    Khổ như thế diễn ra mãi mãi
    Đoạn thứ tám Ưu –Sầu lo ngại
    Cuộc tan thương dâu bể cảnh trần
    Nghèo thì lo một nỗi nợ nần
    Lo đau đói liệu cơn nhà rách
    Buồn duyên số phận mình nhơ sạch
    Rầu gia đình chúng bạn khinh cười
    Giàu thì lo chen lấn với người
    Miễn cho được đầy rương đầy tủ
    Của dương thế góp tom bảo thủ
    Sợ gian phi trộm cướp rình mò
    Lo tước quyền cho được thơm tho
    Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả
    Ôi! Cả sang hèn chẳng ai thong thả
    Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say
    Chẳng tu thân đặng dựa Phật Đài
    Cho thong thả hưởng mùi sen báu

    (Trích trong Sấm Giảng “KHUYẾN THIỆN” của
    Đức HUỲNH GIÁO CHỦ).

    HỒI HƯỚNG

    Nguyện hồi hướng công đức
    nầy đến Cửu Huyền Thất Tổ,
    đến tất cả chúng sanh. Trên
    báo bốn Trọng Ân. Dưới cứu
    ba đường khổ. Nếu ai nghe thấy
    tất phát Bồ Đề Tâm. Đến khi thọ
    mạng hết, đồng sanh về nước
    Cực Lạc.


    HẾT

    Ấn Tống Miễn Phí
     

Chia sẻ trang này