Nhận Thức PHẬT GIÁO HÒA HẢO (Nguyễn văn Hầu)

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi TTT, 20/1/15.

  1. TTT

    TTT Member


    Nhận Thức
    PHẬT GIÁO HÒA HẢO

    C
    ủa Nguyễn văn Hầu

    TỰA

    Tìm hiểu một nghi vấn văn học, nhà văn phải làm việc thật nhiều, thật kỹ, phải xem xét từ thời đại văn học, tác giả, hoàn cảnh sáng tác, tác phẩm, cùng nhiều chi tiết phụ cận khác mới hy vọng làm sáng được vấn đề.
    Xác nhận một tài liệu lịch sử, sử gia cũng phải bỏ mất nhiều công, phải sưu tầm, tra cứu, so sánh, kiểm chứng, nhiên hậu tài liệu lịch sử đó mới có giá trị đáng được mọi người chấp nhận.
    Việc làm văn học, làm lịch sử như vừa phác qua, đã là khó, thì việc tìm hiểu một tôn giáo, nghiên cứu tất cả những gì dù sơ lược để có thể vừa tạm đủ biết qua tôn giáo đó, lại càng là một điều khó hơn.
    Phật Giáo Hòa Hảo ngày nay, dù muốn hay không, vẫn đóng một vai quan trọng trong xã hội Việt và đã có một địa vị tôn giáo trong sự hiện diện giữa các tôn giáo trên thế gian. Huống chi tong mấy năm qua, với những cuộc phỏng vấn lớn, hoặc để mở tầm hiểu biết cho các độc giả báo chí muốn nhìn rõ P.G.H.H. hoặc để làm những luận án trong các cuộc đệ trình các bản văn thi cử... thì sự đặt vấn đề nhận thức P.G.H.H. chắc không phải là không có ích.
    Cho nên dù biết rằng khó, chúng tôi vẫn gắng gỗ.
    Từ huyết thống, sinh hoạt gia đình, nhân cách, thần cách Đức Huỳnh Giáo Chủ cho đến các phẩm Sấm Kinh do Ngài viết , các diễn tiến của Đạo do Ngài điều hành, cộng với hoàn cảnh của một xã hội...lòng tin của người tín đồ... chúng tôi đều gắng gổ biết qua.
    Tuy nhiên, vấn đề quá bao la và phức tạp, lại thêm việc tìm Đạo xưa nay đã có lối vạch rồi “Đạo chỉ tại tâm đắc, nếu dùng lời giảng Đạo, chỉ kẹt Đạo trong lời”. Hai yếu tố nầy đã đủ khiến tôi hiểu rằng: Chúng tôi không nói hết được những gì mình muốn nói.
    Vậy mục tiêu cần đạt đến là mặt trăng của Phật Tổ, là con thỏ của Trang Chu, thì ngón tay chỉ trăng, cái dò săn thỏ chỉ là những phương tiện để hiểu được Đạo mà thôi.
    Chúng tôi không dám mộng ước gì hơn là những dòng chữ trong sách nầy chỉ là một phương tiện nhỏ nhoi để đưa độc giả đến chỗ hiểu được phần nào cái Đạo.
    Xin hãy quên đi tất cả, những gì coi là phương tiện...
    Bồ Đề trang, ngày Đại Lễ Mậu Thân (1968)
    NGUYỄN VĂN HẦU


    Chương I: Nguồn gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Nguyên Thỉ)

    Non sông rực rỡ chói ngời

    Mảnh gương Phật Đạo soi đời cổ kim
    (1).
    Người tu Phật, chắc không mấy ai không hiểu là “học đạo chỉ cần biết được đường về, không cần gì phải hỏi đến tổ tông”. Nhưng chắc ai cũng đồng ý rằng nếu biết được tổ tông rồi nương theo đó mà tìm thấy con đường về, thì còn chi quý hóa hơn nữa!
    Một nữ văn hào Pháp, bà De Stael, cho rằng: “Người ta quay lại quá khứ xa được bao nhiêu, thì có thể tiến xa về tương lai được bấy nhiêu”. Chúng ta cũng đồng ý mà nhận rằng có hiểu được cách sống và cách lập giáo chủ chư Tổ, chư Sư để nương đó mà tu hành thì công phu tu trì mới thêm nhiều kết quả.
    Chính vì thế mà muốn rõ được chuyện nay, chúng ta phải ôn cố chuyện xưa, cũng như muốn thông rành nguồn cội P.G.H.H. ta phải quay về hơn trăm năm trước, khi Đức Phật Thầy sáng lập tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương.

    ***
    Chú Thích
    (1) Tất cả những câu thơ văn trích dẫn đặt dưới tiêu đề mỗi chương, đều là của Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác
    (2) Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, phần An Giang tỉnh, thì Tây An cổ tự lập ra năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) do một viên Tổng Đốc An Giang. Như thế là khi Đức Phật Thầy tới núi Sam thì chùa nầy đã có
    (3) Ông Hồ Hữu Tường trong quyển Phi Lạc Sang Tàu, đổi lại ba chữ Nguyên, Mạng, Trạng, thành Nguyễn, Đạo Trọng và cho rằng bài thơ nầy xuất xứ do Đế Thuấn truyền lại cho Lưu Bá Ôn. Điều nầy chắc chắn ông Hồ Hữu Tường đã lầm.
    (4) Đức Phật Thầy sanh năm Đinh Mão (1807) tịch năm Bính Thìn (1856) thọ 50 tuổi.
    (5) Xem tiểu sử đầy đủ trong Đức Phật Thầy Tây An của Vương Kim-Đào Hưng và Thất Sơn Mầu Nhiệm của Dật Sĩ-Nguyễn Văn Hầu.
    Phật Thầy Và Danh Từ Bửu Sơn Kỳ Hương
    Năm Kỷ Dậu (1849), Đức Phật Thầy Tây An (Chính danh Đoàn Minh Huyên) sau khi chu du nhiều nơi. Ngài trở về nguyên quán Tòng Sơn (Sa Đét) đúng vào lúc nhân dân đang lâm vào cảnh nguy khốn: bệnh dịch tả bạo hành.
    Phật Thầy đem huyền diệu phi phàm mà trị cho vạn dân, đồng thời khuyến cáo cho mọi người nên ý thức thời hạ nguơn mạt pháp mà quay về với gốc lãnh đạo cũ. Ấy là nền Phật Giáo cổ truyền.
    Nhờ cảm lòng từ bi đã cứu cho khỏi bệnh hoặc thoát chết, và nhờ cách hướng dẫn giản dị dễ cảm thông, nên nhân dân miền Hậu Giang không mấy lúc mà theo về qui y đông đảo.

    Theo dõi con đường chu du độ thế của Phật Thầy, người ta thấy Ngài từ Tòng Sơn (SaĐéc), vào Trà Bư (Lấp Vò), lên Xẻo Môn (Long Điền) và sang Long Kiến (Long Xuyên). Rồi vì một pháp nạn (người ta cáo Phật Thầy là gian đạo sĩ, thu hút một số đông tín đồ chực cơ làm loạn), nên Ngài bị nhà cầm quyền đưa từ Long Kiến về Châu Đốc. Đi tới đâu, Phật Thầy cảm hóa người ta đến đó, nên sau cùng, chánh quyền triều Tự Đức buông thả Ngài, để cho Ngài tự do truyền giáo.

    Từ đó Ngài ở tại Núi Sam, lấy chùa Tây An làm nơi thuyết giáo, và không bao lâu, số tín đồ của Ngài rải rác có mặt khắp cả miền Tây Nam Việt và một số người từ các tỉnh miền Đông, nghe danh và cảm đức, tìm đến quy y hành đạo (2)
    Phật Thầy chánh thức lấy tên tông phái của mình là Bửu Sơn Kỳ Hương và cấp cho mỗi tín đồ một lông phái có triện son mang bốn chữ “Báu Linh” ấy.

    Một bài thơ của Phật Thầy, có bốn chữ khoán thủ đề danh cho tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, được truyền tụng mãi đến ngày nay với sự ẩn khúc nhiêu khê, có thể đọc theo chiều dọc ngang (tung hoành độc) đều có ý nghĩa (3).
    Đây là chiều ngang của bài “Tứ Bửu Linh Tự” :
    Bửu Ngọc Quán Minh Thiên Việt Nguyên
    Sơn Trung Sư Mạng Địa Nam Tiền
    Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc
    Hương Xuất Trình Sanh Tạo Nghiệp Yên

    Và đây, chiều dọc :
    Bửu Sơn Kỳ Hương
    Ngọc Trung Niên Xuất
    Quán Sư Trạng Trình
    Minh Mạng Tái Sanh
    Thiên Địa Tàn Tạo
    Việt Nam Phục Nghiệp
    Nguyên Tiền Quốc Yên

    Bài thơ có nhiều cao từ ẩn ngữ, cần phải dùng lối chiết tự đảo cú mới khám phá nổi ý nghĩa huyền thâm. Riêng về bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương là một danh từ ghép vừa đúng đặt tên cho một môn phái, vừa ý thức cho mọi người một kỷ nguyên mới trong Phật Giáo với dụng nghĩa là do Núi Báu ấy (B.S.) mà sau nầy non sông sẽ rạng rỡ, mùi thơm lạ (K.H.) sẽ bay khắp mười phương, mở một thời kỳ Long Hoa Đại Hội.

    Suốt một thời gian bảy năm, từ năm 1849 đến 1856, nghĩa là khi bắt đầu hóa độ cho đến khi viên tịch (4), Ngài truyền bá một cách tu vô cùng giản dị, thích hợp với hạng người nông dân hiền lành, chất phác ở đây. Ấy là pháp môn học Phật tu Nhân với những phương pháp quy nguyên chân truyền của Phật Tổ và canh tân Phật Đạo (5).
    Giáo Lý Học Phật Tu Nhân Về học Phật, Phật Thầy đã dạy các môn nhân noi theo gương Đức Phật Tổ cùng chư Phật mà tu hành. Điều quan hệ là phải làm lành tránh ác chớ không cần khổ hạnh hoặc ly thế gian.
    Ngài nói trong kinh Giác Mê :
    Đi đâu cho khó nhiều đàng
    Kìa non Bửu Tự nọ ngàn Ma Ha
    Kiềng nào kiềng chẳng có hoa
    Non nào non chẳng có tòa thiên thai

    Đồng thời với việc làm phước, người tín đồ B.S.K.H. phải nỗ lực giúp đời bằng mọi phương tiện và chỉ cần lặng giữ tâm mình. Bởi vì:
    Lọc lừa thì đặng nước trong
    Ma Phật trong lòng nào phải tìm đâu!
    Hạnh tu đại khái chỉ cần như vậy, rồi cứ chuyên trì niệm Phật cho nhất tâm bất loạn là ngộ đạo rồi. Ngài hằng khuyên dạy các môn nhân đệ tử :
    Đêm ngày tưởng Phật Như Lai
    Lòng ta dốc quyết hoài hoài đừng quên
    Hoặc
    Giữ lòng niệm Phật Di Đà
    Chừng lên sơn lành thấy mà thời hay

    Hỡi người niệm Phật cho bền
    Mai sau cũng đặng gần bên Phật Thầy
    Ngài đã vạch một con đường tắt để mọi người dễ dàng tiến bước. Người theo đạo Ngài không cần phải ly gia cắt ái mà cần tích cực làm việc giúp đời để đền đáp tứ đại trọng ân, cho tròn nhân đạo. Đó là công việc tu Nhân. Ngài dạy :
    Loài cầm thú còn hay biết ổ
    Huống chi người nỡ bỏ tứ ân
    Mà muốn vẹn tứ ân, người tu Phật phải biết ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào nhân loại.
    Vì chủ trương như thế nên sau khi mở mang cơ sở tu học tại núi Sam, Đức Phật Thầy cho tín đồ khai phá rừng hoang, thành lập nhiều làng mạc quanh vùng Thất Sơn, như ở Thới Sơn, ờ Láng Linh và dựng những cơ sở gọi là Trại Ruộng để cho các tín đồ vừa có chỗ tu học, vừa khuếch trương nông nghiệp.

    Cũng chính vì mục đích tu Nhân mà Đức Phật Thầy dạy các môn nhân cứ tự do để tóc để râu, không thờ cốt Phật, chỉ thượng lên giữa nhà một trang thờ Tam Bảo với tấm Trần Điều, tiêu biểu cho tinh thần vô vi.

    Hầu hết tín đồ của Ngài là hạng tại gia cư sĩ . Các đại đệ tử của Ngài như ông Đạo Thành (Trần văn Thành), ông Đạo Xuyến (Nguyễn văn Xuyến), ông Đạo Ngoạn (Đặng văn Ngoạn) v.v... đều không được phép xuất gia. Điển hình là ông Đạo Ngoạn và ông Đạo Xuyến là hai bậc hiền thủ đã có ý lìa đời, đã được Đức Phật Thầy quán sát căn cơ và dạy trở về nguyên quán lấy vợ để sanh con nối nghiệp.

    Cách tu nầy như đã nói, là con đường tu tắt. Nhưng con đường tắt thường không phải là con đường dễ đi. Bởi một lẽ rất giản dị là tắt thì chóng đến, nhưng lắm khi trong nẻo tắt có nhiều núi sông gai gốc.

    Sở dĩ Đức Phật Thầy hướng dẫn các môn nhân tu theo pháp môn ấy là vì tuy khó giữ khó hành, mà nếu người tu nhất quyết tinh tiến thời rất dễ và rất mau đến nơi đến chốn (6).

    Tính cách nhập thế và xuất thế cũng được tùy duyên dung hội trong pháp môn nầy.
    ***
    Chú Thích
    (6) Xem Bửu Sơn Kỳ Hương của Vương Kim, Long Hoa xuất bản, 1966
    Ảnh Hưởng Trong Dân Chúng
    Nhờ có cách truyền giáo giản dị, gần với nếp sống của lương dân, họ là những người từng phen chịu khổ qua bao nhiêu lần chiến tranh dữ dội với quân Xiêm (1833), loạn Lê Văn Khôi (1833), loạn Lâm Sâm (1841)... cho nên ảnh hưởng của phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy khai sáng dễ lan rộng sâu xa. Người ta răm rắp tuân hành giáo lý của Ngài như người chiến sĩ tuân theo một quân vụ lệnh:
    Bữa cháu rau đã an phận khó
    Còn hơn người bán chó treo dê
    Khát thời uống nước Tào Khê
    Đói ăn Ma phạn, tối về canh tân

    Thật vậy, Đức Phật Thầy đã thấy trước cái viễn đồ của dân tộc Việt Nam nên đã đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng cho cuộc sống: Phải tu phải học phải gắng gổ lo đời chớ không được tách lìa cõi thế. Ngài cũng đã suy ra rằng trong các giáo điều của Đức Thế Tôn trải mấy ngàn năm có nhiều chổ bị sai thù do người sau xuyên tạc và có chổ không còn hợp thời nữa, nên mới chủ trương chỉnh lại Phật Pháp.
    Ảnh hưởng của phái Bửu Sơn Kỳ Hương với nhân dân ở đây, nếu đem so với dòng đạo Mormons ở Mỹ Châu vào cùng một thế kỷ trước, khi nhóm tôn giáo nầy cũng chủ trương khai thác các địa điểm hoang vu miền Illinois và vùng Lac Salé, thì tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương phải có ảnh hưởng sâu xa hơn vậy. (7)
    Học giả Lê Văn Siêu, khi nhìn qua giáo lý của Đức Phật Thầy với nhỡn quan Xã Hội Học, đã xét rằng: một miền đồng bằng phì nhiêu có dân cư trù mật như miền Hậu Giang, nếu không có giáo lý Học Phật Tu Nhân của Phật Thầy hóa độ, tất có thể khiến đám dân tứ chiến quần cư nầy biến ở đây thành một nơi điếm đàng trụy lạc. Bởi cái sức trù phú, sang mãn của nó, nếu không được hướng dẫn bằng một học thuyết tâm linh giản dị trên tư tưởng tự do, chắc chắn sẽ đưa tới lạc lỏng, đổ vỡ(8).
    Nhận xét đó đáng cho chúng ta suy nghĩ.
    ***
    Chú thích
    (7) GH.Bousquet Les Mormons, Presses universitaires, 1949
    (8) Lê Văn Siêu: Giáo Lý học Phật tu Nhân của Phật Thầy Tây An, Đuốc Từ Bi số 3 tháng 4-1965.

    Chương II: Nguồn Gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Hiện Duyên)

    Theo đòi gương phẩm Thích Ca

    Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu

    Theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật Giáo Hòa Hảo không xuất hiện do Đức Phật Thầy trực tiếp kế truyền mà còn trải qua những sự nối tiếp của chư Tổ Sư.

    Một điểm đặc biệt là sự nối tiếp nầy do tâm đắc hoặc cách cảm bằng trực giác giữa liệt vị Tổ Sư chớ hết thảy đều không hề là sư môn trao truyền cho đệ tử.

    Chúng ta lần lượt dõi theo sự tiến triển của các vị hoằng Đạo trước khi Phật Giáo Hòa Hảo nhận lãnh sứ mạng.
    Các Vị Hoằng Đạo Sau Đức Phật Thầy ừ khi Đức Phật Thầy viên tịch về sau, có nhiều vị kế tiếp đứng ra truyền giáo theo những pháp môn và nghi thức của Ngài. Chúng tôi muốn nhắc tới Đức Phật Trùm, (phát tích tại núi Tà Lơn),tên Việt là Đặng Văn Lược (còn gọi là đạo đèn). Đức Bổn Sư (giáo truyền tại núi Tượng) và ông Sư Vãi Bán Khoai (hóa hiện tại Vĩnh Tế).

    Đức Phật Trùm gốc người Miên, tên thật là Ta Paul, quê ở sốc Lương Phi. Năm 1868, sau một cơn đau nặng chết đi sống lại. Ngài hoát nhiên tỏ ngộ, giảng đạo toàn bằng tiếng Việt. Trong một bổn giảng còn lưu truyền. Ngài có tự nhận:
    Tuy rằng hồn xác của Mên
    Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời
    Và nhân Ngài thường nói: “Ta là Trùm của Phật sai xuống giảng dân” , cho nên người đương thời gọi Ngài là Đức Phật Trùm.

    Ngài có những phương pháp trị bịnh lạ lùng và đem lại kết quả tốt cho nhân dân, nên người ta ngưỡng mộ rất đông.
    Khoảng 1870, Ngài bị quân Pháp tình nghi qui tụ quần chúng để dấy loạn, nên bắt đày ra hải ngoại. Sau đó một thời gian họ trả tự do cho Ngài. Ngài lại tiếp tục giáo đạo cho đến năm Ất Hợi (1873) thì tịch. Kể từ khi hóa hiện cho đến lúc nhập diệt, cũng như Đức Phật Thầy, Ngài có sứ mạng độ đời chỉ trong bảy năm.

    Sau Đức Phật Trùm là Đức Bổn Sư. Ngài chính danh là Ngô Lợi, sanh năm Canh Dần (1830) mở đạo năm Mậu Dần (1878) và tịch năm Canh Dần (1890). Thọ 61 tuổi và độ đời được 12 năm.

    Đức Bổn Sư cũng tự tâm tỏ ngộ như Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm. Ngài cứu bịnh dạy đời và lập ra tông phái Hiếu Nghĩa tại núi Tượng. Tín đồ của Ngài cũng để tóc để râu, cũng tại gia tu niệm như phái Bửu Sơn Kỳ Hương trước kia và Ngài cũng bị Pháp khủng bố như Đức Phật Trùm, nhưng họ không làm hại Ngài được. (1)

    Khi Đức Bổn Sư viên tịch chừng 12 năm, vào khoảng năm Nhâm Dần (1902), tại kinh Vĩnh Tế người ta thấy xuất hiện một vị chân tu hình vóc mảnh mai, chèo thuyền đi bán khoai mà miệng luôn luôn khuyên đời tu niệm.

    Vị ấy hằng xưng là sư và vóc hình có hồi trông như bà vãi, cho nên người người gọi là Sư Vãi. Chỉ trong hai năm, Ông Sư Vãi Bán Khoai sau khi truyền lại cho đời quyển Sám Giảng Người Đời thì không còn ai thấy tâm hơi của Ông ở đâu nữa.

    Ngoài công việc khuyên đời tu tỉnh, trong Sám Giảng nói trên còn nhiều đoạn tiên tri sự biến thiên hãi hùng cho nhân loại trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp.

    Khi rõ ra thì chuyện đã rồi, không một ai được qui y với Ông Sư Vãi. Người ta chỉ truyền tụng với nhau những câu kinh của người vắng bóng:
    Nào khi Sư Vãi Bán Khoai
    Trong kinh Vĩnh Tế ai ai cũng lầm
    Mặt cân tôi chẳng biết cầm
    Quê mùa già cả âm thầm biết chi!

    Ngoài cách giáo truyền đồng nhất là những lời Sám Kệ hô ứng với nhau, có một điều ám hợp lạ lùng giữa Đức Phật Thầy, Đức Phật Trùm và ông Sư Vãi đáng chú ý là:
    1) Đức Phật Thầy hóa hiện trong bảy năm và Đức Phật Trùm cũng độ đời trong thời gian đúng y như thế.
    2) Đức Phật Thầy tịch 12 năm thì Đức Phật Trùm xuất hiện, còn Đức Bổn Sư thì giáo đạo cũng trong khoảng thời gian 12 năm (2)
    3) Đức Bổn Sư sanh năm Dần, mở đạo năm Dần và tịch cũng năm Dần, thì Ông Sư Vãi cũng hoá hiện trên kinh Vĩnh Tế trong năm có mang địa chỉ ấy.
    4) Đức Bổn Sư tịch 12 năm thì Ông Sư Vãi xuất hiện, giống như khoảng cách giữa Đức Phật Thầy và Đức Phật Trùm.

    Tài liệu nầy bắt buộc chúng ta phải suy nghĩ thềm về sự chuyển kiếp của các Ngài mà nhiều người đã đề cập.
    ***
    Chú Thích
    (1) Giáo sư G.Coulet trong quyển Les sociétés secrètes en terre d’Anam (1962) đã để ý ngờ rằng mỗi ông đạo ở miền Thất Sơn đều là một hội kín. Sự thật không đúng hẳn như thế.
    (2) Trong cuốn Đức Phật Thầy Tây An cũng như cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm, những năm sanh và tịch của Đức Bổn Sư đều sai. Xin xem bài đính chính của tác giả đăng trên tạo chí Giác Tiến, số 13 xuất bản năm 1957
    Đức Giáo Chủ Xuất Hiện
    Sau 39 năm kể từ khi Ông Sư Vãi vắng bóng thì Đức Huỳnh Giáo Chủ hoằng khai đại đạo.
    Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), Ngài được 21 tuổi, đứng ra khai sáng Phật Giáo Hòa Hảo.

    Danh từ Phật Giáo đã nói lên một cách sáng tỏ rằng Đạo Ngài là đạo Phật, nguyên lai từ Đức Thích Ca; còn hai tiếng Hòa Hảo là địa danh nơi Ngài sanh trưởng, ngẫu nhiên bao hàm một ý nghĩa từ bi, vả lại Ngài cũng thường ký biệt danh Hòa Hảo, cho nên tôn giáo của Ngài mới mang danh từ Phật Giáo Hòa Hảo.

    Cũng y như trường hợp của Đức Phật Thầy, Đức Phật Trùm và Đức Bổn Sư, Đức Giáo Chủ tự nhiên tỏ ngộ. Ngài chửa bịnh, thuyết pháp và viết kinh để phổ truyền mối đạo. Nếu đem so với công việc của các vị trước kia từ Đức Phật Thầy trở xuống, công việc của Ngài – vì hoành cảnh và thời cơ khác nhau – đã tiến bộ vượt bực.

    Ngài đã cứu được rất đông người đau bịnh ngặt, thuyết pháp rất nhiều chỗ, và nhất là sáng tác kinh kệ rất dồi dào để rồi thu hút hằng triệu tín đồ trong một thời gian ngắn ngoài tầm tưởng tượng.

    Ôn lại thời gian từ năm 1939 đến 1947, đạo Phật Giáo Hòa Hảo đã trải qua biết mấy độ thăng trầm, và Đức Giáo Chủ đã vì quá thương xót chúng sanh mà phải gánh chịu vô vàn gian nan chua xót (3)
    Muốn lập Đạo có câu thành bại
    Sự truân chuyên của khách thiền môn
    Khắp sáu châu nức tiếng người đồn
    Ta chịu khổ khổ cho bá tánh.

    Bởi đức hy sinh vô cùng và lòng từ bi vô lượng đó mà Đức Giáo Chủ đã nắm được thành công lớn giữa một thời đại nhiễu nhương, dẫy đầy những mâu thuẩn lớn, để rồi trên triển vọng, người ta thấy chắc chắn trăm phần trăm. Ngài sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề lớn.
    ***
    Chú Thích
    (3) Xem chương 18, Sự bành trướng và tiềm lực tự tồn của P.G.H.H.
    Bửu Sơn Kỳ Hương Và Phật Giáo Hòa Hảo Chỉ Là Một
    Nhìn qua quá trình diễn tiến từ năm Kỷ Dậu (1849) tức năm Đức Phật Thầy sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương cho đến nay Mậu Thân (1968), mà Phật Giáo Hòa Hảo đang có sứ mạng kế tục, ta thấy mối đạo nầy đã thọ được 119 tuổi tròn.

    Với pháp môn hành đạo giống nhau, với nghi thức thờ phượng đồng nhứt, với sự biến chuyển sắc thân của các vị Giáo Chủ, có nhiều quan hệ mật thiết đã cho phép chúng ta hùng biện kết luận rằng Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo chỉ là một.

    Mặc dù những giáo điều của Đức Giáo Chủ hiện nay có tế nhị, khoa học và phong phú hơn xưa (những tinh ba Phật, Lão, Nho và tư tưởng riêng của Ngài), dù những danh xưng và những nghi thức thờ cúng có biến thái đôi chút (từ Trần Điều đổi lại Trần Dà va B.S.K.H. thay ra P.G.H.H.) nhưng đó cũng chỉ là một thức lệ canh tân, một nhu cầu tiến bộ để làm phương tiện độ rỗi chớ trên nồng cốt, không có chi là sai thù dị biệt.

    Huống chi, nhìn vào bài Tứ Bửu Linh Tự của Đức Phật Thầy, rồi đọc đến những bài thơ khoán thủ hoặc ẩn tứ sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ, chúng ta sẽ không còn thấy gì sai biệt.

    Chúng tôi xin dẫn hai bài khoán thủ, một Nôm và một Hán :
    Bửu Ngọc vãng lai rõ đạo mầu
    Sơn tầm hạnh Thích nẻo cao sâu
    Kỳ giã thức tâm tìm đạo lý
    Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu
    Bửu Ngọc mai danh ẩn nhục tráng
    Sơn đài hồ hải luyện tứ phang
    Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục
    Hương giải thao tồi thị Bảo giang.
    Và mộ bài ẩn từ, ngoài bốn chữ Báu Linh được ghép vào, còn chỉ luôn cả hệ tộc của Đức Giáo Chủ:
    Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn
    Tự giác âm thầm kiến tiên bang
    Bửu ngọc Sơn trung Kỳ Hương chí
    Tứ Hải bất hòa khởi liên giang.

    Để chấm dứt đoạn nầy, chúng tôi xin trích thêm mấy câu xác nhận sau đây trong chỗ liên hệ giữa Đức Phật Thầy và Đức Huỳnh Giáo Chủ, để không còn một ai mang chút nghi ngờ gì nữa:
    Lời của người di tịch núi Sam
    Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc
    Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần
    Ấy vì thương trăm họ vạn dân
    Nên chẳng kể tấm thân lao khổ

    Hoặc là:
    Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy
    Chớ chẳng phải của người lảng trí

    Ảnh Hưởng Trong Đại Chúng

    Chỉ trong một phần tư thế kỷ sinh hoạt, đạo P.G.H.H. đã có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân Việt Nam và gây được tiếng vang lớn lao trên trường quốc tế . Điều đó khiến cho nhiều bậc thức giả suy nghĩ và họ đã đặt lên những câu hỏi trước chúng tôi trong những ngày gần đây.
    Để giải đáp thắc mắc ấy, chúng ta nhận được một cách rõ ràng rằng trước hết Đức Giáo Chủ đã nhận thức được thời cơ, đã nắm vững được mối mặc khải của lý thiên đình. Kế đó Ngài đã biết nắm lấy nông dân trên một miền đất phì nhiêu là Hậu Giang để làm căn cứ và xuất phát điểm. Và sau cùng, Ngài đã hướng được đa số nhân dân quay về một mối. Thế là các điều kiện Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa Ngài đều có đủ trong tay.

    Thêm vào đó, Ngài có một căn bản giáo lý vững chắc: đem Tứ Ân dạy người tu tròn nhân đạo, lấy Tịnh Độ đưa tín đồ đến chỗ giải thoát trần lao. Ngài còn có tư tưởng chánh trị tiến bộ trên căn bản Quốc Gia Dân Tộc để đưa người ta đến một nền Dân Chủ Xã Hội công bằng (4)

    Những điều kiện khai quát dẫn trên, là duyên do chính yếu để làm cho P.G.H.H. bành trướng trên hai phương diện thực chất và ảnh hưởng.

    Trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hiện nay, chỉ có các tỉnh miền Hậu Giang là an ninh vững chắc nhứt là nhờ đâu, nếu không công bằng và thẳng thắn mà nhận rằng do ảnh hưởng của P.G.H.H.?
    Ảnh hưởng đó, trong tương lai, sẽ còn bành trướng một cách khó mà tưởng tượng, bởi một lẽ khá dễ hiểu là giáo lý của Ngài rất thích hợp với đời sống thực tế của toàn thể chúng sanh.

    ***
    Chú thích
    (4) Xem chương IX. Tinh Thần Cách Mạng Quốc Gia trong P.G.H.H.
    Chương III : Đức Giáo Chủ Và Công Đức Truyền Giáo
    "Phương pháp của Ta tuỳ trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam, trên thì nói Phật pháp cho kẻ có lòng mộ đạo quy căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh, cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của Chư vị với Trăm Quan..." (ĐHGC)
    Sau khi đậu cấp bằng Tiểu Học (Certificat d’études élémentaires) tại Tân Châu, Đức Giáo Chủ vì đau yếu liên miên, đã phải thôi học. Với sự khá giả của gia đình. Ngài có thể có đủ điều kiện học đến cấp cao, nhưng vì sự bệnh hoạn nói trên, khiến Ngài không tiếp tục được.

    Năm 15 tuổi, nhiều cơn sốt rét dữ dội phát sanh, làm cho Đức Giáo Chủ ẻo lả xanh xao, mất ăn mất ngủ. Chứng bịnh nầy còn thỉnh thoảng biến sanh nhiều hiện tượng khác làm cho thân hình Ngài trở nên tiều tụy, da dẻ xanh gầy.
    Đau lòng bì bịnh của con , Đức Ông và Đức Bà (thân phụ và thân mẫu của Đứcc Giáo Chủ) hết lòng lo phương cứu chữa. Nhưng bịnh vẫn hoàn bịnh.

    Trong mấy năm từ năm 15 đến 21 tuổi, Đức Giáo Chủ mắc phải chứng bịnh trầm kha mà không một lương y ở vườn, ở chợ hay một tu sĩ ở núi, ở am nào trị được. Thì ra đó là cơ hội mà các đấng Thiêng Liêng dọn sửa phần xác thịt để Đức Giáo Chủ tiếp nhận những điển quang tinh anh mạnh mẽ sau nầy.

    Kịp đến ngày 18 tháng 5 năm Kỹ Mão (1939), một ngày đáng ghi nhớ trong lịch sử cách mạng và đạo giáo nước nhà, một cuộc lễ vô cùng tôn nghiêm được cử hành tại Tổ Đình P.G.H.H. để cho Đức Giáo Chủ “Đền Linh Khứu sơn trung thọ mạng”.

    Bấy giờ, Đức Giáo Chủ được 21 tuổi. Mặc dù còn bịnh hoạn dây dưa, gương mặt Ngài trông vẫn đẹp đẻ khôi ngô và trí tuệ. Ngài trở nên dị thường tỏ ngộ. Bắt đầu từ đó, Ngài chữa bịnh, thuyết pháp và sáng tác Thi Văn Kệ Giảng (1).
    ***
    (1) Xem Tiểu sử của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong Thất Sơn Mầu Nhiệm, Liên chính xuất bản 1955.

    Chữa Bịnh Để Truyền Giáo Tại sao Đức Giáo Chủ lại đứng ra trị bịnh? Tại sao Ngài không hề nghiên cứu Đông y cũng như chẳng có học Lỗ ban, phù thủy, thế mà dám khán sắc đầu thang hoặc trừ tà ếm quỉ? Ngài đã chữa trị cách nào và có đạt được kết quả gì không? Đó là những thắc mắc trong buổi đầu giáo đạo của Ngài mà nhiều người đã nêu lên mong cầu giải đáp.

    Sự thât, trong một bài tự thuật viết ngày 18 tháng 5 năm Canh Thìn (1940) Đức Giáo Chủ có cho biết rõ rằng Ngài đã “dùng huyền diệu của Tiên Gia độ bịnh, cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh, mà cảm lòng từ bi của Chư Vị với Trăm Quan”...

    Ngài là bậc Đại Giác, “sanh nhi trí chi”, cho nên việc chữa trị, như Ngài nói, là dùng huyền diệu của Tiên Gia sẳn có trong tay đâu cần học hỏi. Việc làm đó có mục đích hẳn hòi là dẫn dắt bịnh nhân đến chỗ cảm lòng từ mà quy y, học Phật.

    Còn việc Ngài chữa trị có kết quả thế nào, thì thật ra có biết bao nhiêu trường hợp hiển nhiên.
    Từ tháng 5 năm 1939, nhiều bịnh tà, bịnh điên nan y, đã được đưa đến tận làng Hòa Hảo và được chữa khỏi, không khác nào Đức Chúa Giêsu hay Phật Thầy Tây An thuở trước đã chữa khỏi cho muôn vạn dân lành. Vì vậy, mà số người đến xin trị bịnh càng lúc càng đông. Kẻ ở xa xôi tận miền Trung hoặc Sài Gòn, Chợ Lớn cũng như người ở gần hũi miệt Sa Đéc, Cần Thơ đua nhau đến nhờ Ngài cứu chữa.

    Phương pháp của Đức Giáo Chủ rất đơn giản. Tùy theo triệu chứng của bịnh nhân, Ngài khi thì nước lã, giấy vàng, lúc thì đưa bông trang, lá bưởi... Một điều đáng để ý là mỗi khi trị bịnh cho người nào là Ngài khuyên họ nên niệm Phật, bởi vì:
    Thành lòng nước lã nên hồ
    Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban
    Số người được cứu sống kể sao cho xiết. Nay chỉ xin nhắc lại vài trường hợp đặc biệt mà hiện ở miền Hậu Giang phần đông đều biết rõ sự thật.

    Còn ai lạ gì gia quyến ông Hương chủ Hùng ở xã Hưng Nhơn. Ông Hùng rất đau khổ bởi 31 người trong thân tộc ông đều chết yểu vì “bịnh trùng”. Bịnh nầy, theo “dị đoan” thì tin rằng hồn ma về nhập xác bà con phá khuấy làm cho đau ốm dây dưa đến khi kiệt sức thì bắt hồn. Hết người nầy đến người khác, chết liên tiếp đến khi tuyệt tự mới thôi, cho nên bịnh đó mới được mệnh danh là “trùng”. Những tay phù thủy lão luyện ở miền Châu Đốc, Long Xuyên như Sư cụ Đức Minh (Núi Cấm), thầy Sành (Hiệp Xương) đều phải bỏ tay bất lực.

    Để làm chấn động mấy miền lân cận, Đức Giáo Chủ quyết định chữa cho con gái ông chủ Hùng hiện đang mắc phải chứng bịnh hiểm nghèo kia. Phương pháp lại cũng vô cùng giản dị. Ngài chỉ dùng một vành thúng giạ, quấn vải đỏ giả như hình Càn Khôn Quyện, rồi cho người mang đến tận nhà bịnh nhân tròng vào cổ mà bảo đi theo. Một điều lạ lùng là cô gái nầy từ khi mắc bịnh, không một thầy nào điều khiển nổi, cô luôn luôn chống cự, chưởi bới đánh đập nữa, vậy mà khi có lịnh của Đức Giáo Chủ bảo đi theo thức thì cô đi riu ríu không hề có một cử chỉ ương ngạnh nào.

    Đức Giáo Chủ chỉ dùng dây chuối làm bùa đeo, lấy nước lã đem cho uống, thế mà cô lành hẳn bịnh. Ngài còn cho lịnh về nhà ông chủ Hùng dẹp bỏ trang thờ bà Phạm Thị Hiền, một nữ chúa trùng của gánh họ nầy, trước kia “bất cứ ai nói động tới thì ngã lăn bất tỉnh”. Thế rồi từ ấy đến nay trên 20 năm, cô gái đó cũng như cả gia quyến ông Hùng, không còn ai mắc chứng bịnh nan y kia nữa.

    Trên đây là bịnh tà, giờ xin đơn cử chứng bịnh dư ruột.

    Bà Chung Bá Khánh là một tín đồ ở Bạc Liêu đau bịnh dư ruột, Bác sĩ Cao Triều Lợi bảo phải lên Sài Gòn ngay để kịp mổ mới sống được. Khi đến Sài Gòn, bà nằm nhà thương Saint Paul, mấy bác sĩ ở đây đều công nhận là bịnh dư ruột và không làm sao khác hơn là phải mổ. Người ta tiêm thuốc cho khoẻ đặng bữa sau giải phẩu.

    Lúc ấy Đức Giáo Chủ đang ở trong vòng kiềm tỏa của quân Nhật tại Sài Gòn. Hay được tin, Ngài phái người đến thăm bà Khánh và gởi cho một trái cam, dặn rằng ăn hết trái cam nầy thì hết bịnh. Thần diệu thay, bữa sau cái quầng đỏ nơi bụng hôm qua tiêu mất. Thế là bịnh nhân khỏi mổ và lành mạnh như thường trong khi các bác sĩ bóp trán nghĩ suy, không rõ tại sao lại có việc kỳ đời như thế!

    Còn biết bao bịnh chứng khác mà Đức Giáo Chủ đã trị lành. Nào bịnh tê liệt, bịnh thổ tả, bịnh ghẽ lở, bịnh câm, bịnh lao, bịnh suyển... cũng với những phương pháp đơn giản như trên: Tin tưởng Phật Trời, uống giấy vàng, nước lã...

    Chắc có độc giả sẽ băn khoăn tự hỏi: Tại sao Đức Giáo Chủ không dùng toàn huyền diệu của Tiên Gia để trị bịnh, như lối trị cho bà Chung Bá Khánh, mà lại lập đàn, bố trận như một phù thủy trong khi chữa bịnh cho con gái ông Chủ Hùng? Điều đó rất dễ hiểu, một là Ngài muốn dĩ huyễn độ chân, xoay đức tin của bịnh nhân từ chỗ khiếp sợ tà ma sang sự kỉnh tin Trời Phật. Hai là làm cho thực dân Pháp lầm tưởng Ngài như một phù thủy tầm thường mà không vội làm khó dễ lôi thôi trong khi mối Đạo Lành chưa kịp khai thông phổ độ.

    Nhờ sự cứu bịnh đó của Ngài, Đức Giáo Chủ trong một thời gian ngắn khoảng một năm (1939-1940) đã thu hút được một số đông quay về ngưỡng mộ.

    Thế mới hay Ngài đã thực hành phương pháp dự định trước kia là “dùng huyền diệu của Tiên Gia độ bịnh cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của Chư Vị với Trăm Quan”. Người ta đã cảm đức và ghi ân, nên đã rùng rùng quy y Phật pháp.

    Thuyết Pháp Để Truyền Giáo Sau ngày “chịu lịnh Tây Phương thọ ký”, tức 18-5 Kỷ Mão, Đức Giáo Chủ ít trầm mặc và nói nhiều hơn xưa, gặp ai Ngài nói nấy. Ngài nói về sắc diện, tính tình và tương lai của người đối thoại, để gần cuối câu chuyện, Ngài khuyên làm lành, lánh dữ và nên tin Phật, xem Kinh.

    Ngài luôn luôn khiêm tốn trong cử chỉ, văn từ và rất mực bình dân, nhũn nhặn với bất cứ người thân sơ, cao thấp. Riêng đối với hạng người quyền thế, Đức Giáo Chủ không hề có cử chỉ khúm núm hoặc dùng những tiếng “bẩm” tiếng “ngài” như thời lệ.

    Biết bao người có khuynh hướng Cộng Sản đến chất vấn Đức Giáo Chủ, họ lấy làm khâm phục vì Ngài đã nói thấu ruột gan, và còn giải thích, biện luận rõ ràng để đánh đổ cái học thuyết Mác Lê mà người ta đang theo ấy.

    Thế là trong số thập phương thiện tín tới viếng Đức Thầy, ngoài những người xin bùa, thỉnh thuốc, từ ấy lại có thêm nhiều người đến để hoặc nghe Ngài giảng giải giáo lý nhiệm mầu, hoặc dọ sức thử tài xem coi sở kiến của Ngài có áp phục được họ chăng.

    Trong số những tay cự phách của làng nho, cùng những tay quyền quý tân học đang làm việc cho Pháp đến với Ngài, ta có thể kể Chủ Quận Tân Châu Nguyễn Văn Lễ, Chủ Quận Chợ Mới Lê Tấn Nẫm, y sĩ Nguyễn Kỳ Trân, thi sĩ Huỳnh Hiệp Hòa, Hương cả Đào Thành Đô và nho gia Phan Văn Cơ... Những vị nầy sau một lần gặp Đức Giáo Chủ thì đều phục tài kính đức.

    Chúng tôi xin dẫn một giai thoại về chuyện ông Nguyễn Kỳ Trân thử tài Đức Giáo Chủ để bạn đọc đồng lãm.

    Ông nầy ở Định Yên (Long Xuyên) là một bực thâm nho đầy lòng ái quốc, ông thấy nước nhà đang bị xâm lăng mà Đức Giáo Chủ lại ra đời với công việc cứu bịnh và truyền giáo thì không bằng lòng. Theo ông, tôn giáo sẽ làm nhụt chí phấn đấu của quần chúng, và cứu nước mới quan trọng chớ cứu bịnh chẳng cần thiết trong lúc quốc vận tiêu trầm, cho nên ông làm sẳn một bài thi mang tới chất vấn Đức Thầy.

    Ông vốn biết Đức Giáo Chủ không học chữ nho, nên làm thơ bằng Hán văn, cũng như biết rõ Ngài chuyên chữa bịnh và truyền đạo nên lập tâm hỏi về công cuộc cách mạng để Ngài khó mong giải đáp. Nguyên văn bài thơ như sau:
    Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên
    Vị tri đại đức giáng hà Tiên?
    Hi Di ngũ quý kim yên tại?
    Thái Thượng tam vương cổ bất truyền
    Độc Nhãn sa đà tàng Bắc địa
    Liên My chân mạng ẩn Nam thiên!
    Phòng ngư sinh vỹ đương kim nhựt
    Dẫn lãnh minh lương trứ Tổ Tiên!

    Đại ý bài thơ:
    Giặc mạnh lăng loàn đã mấy chục năm, vậy chưa tường Ngài là vị Tiên chi xuống trần? Chớ trong hiện tại, những bậc tài danh, tiên trưởng như Trần Đoàn, Lão Quán v.v... đều ẩn khuất cả rồi nơi đất Bắc hoặc trời Nam, có còn đâu! Chỉ thấy nơi thực tại, con cá phóng đuôi đỏ (ám chỉ lá cờ tam sắc của Pháp) phất phới cùng khắp non sông ta. Vậy nếu Ngài quả là bậc anh triết, xin hãy đả nó bằng một cây roi thần!

    Xem xong bài thơ viết bằng chữ Hán giữa lúc có đông nghẹt quần chúng, Đức Giáo Chủ tức thời đáp họa, không chút suy nghĩ đắn đo. Bài họa chép dưới đây :
    Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên
    Sơn trung hồi giả bí danh tiên
    Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại
    Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền
    Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa
    Xích my hải hội luật trừng thiên
    Dị phí minh đế đồ tôn nhựt
    Thạnh khí đào thính giác kỷ tiên !

    Đại ý, Đức Giáo Chủ trả lời từ câu bài trên và nói qua danh hiệu của Ngài. Trong hai câu kết, Ngài bảo ; Thời kỳ của minh chủ chưa tới, chờ khi ngày giờ đến thì chẳng những có một cây roi, mà sẽ có đến không biết bao nhiêu cây roi mang ra trừ địch.

    Ông Diệm – tức nhũ danh của Nguyễn Kỳ Trân – xem qua bài thơ, tự nhiên thán phục và xin Ngài cho làm đệ tử. Một chuyện khác xảy ra giữa Đức Giáo Chủ và Hương cả Đào Thành Đô năm 1940, mang một tính chất thử thách khác hơn cách thử thách của Nguyễn Kỳ Trân.

    Hương cả Đô là người có tính khí cương trực, ghét đồng bóng dị đoan, ông nghe đồn Đức Giáo Chủ có tài tiên tri và thuyết Pháp nói thông tâm lý của hàng thính giả, nên đích thân dò xét. Hương cả Đô chuyên chú để ý từ cử chỉ một của Đức Giáo Chủ, ông thấy Ngài luôn luôn ngồi trên một chiếc ghế trong số tám chiếc ghế cùng một kiểu, đặt quanh một cái bàn dài trong nhà, nên thừa dịp Đức Giáo Chủ đi ra đường, ông đứng dậy giả vờ dẹp lại mấy chiếc ghế cho ngay hàng rồi nhanh tay, đổi cái ghế của Đức Giáo Chủ ngồi và đặt thay vào đó một chiếc khác, cũng y hệt như chiếc ghế kia, không có dấu hiệu gì dị biệt. Xong, ông đi theo sát Đức Giáo Chủ để phòng có ai trông thấy mách lẽo.
    Ông kiếm chuyện vờ hỏi Đức Giáo Chủ: Bạch Thầy, người xưa phải dùng nhiều tôi lương đống mới trị yên trăm họ, tại sao Thầy lại viết :
    Như đời xưa có gã Tử Phòng
    Xem thời cơ người đã rõ thông
    Dùng tôi thiểu mà an bá tánh

    Đức Giáo Chủ bình thản như không biết có chuyện gì khác lạ, lanh lẹ đáp lời ông Cả: Tôi nói láy đó. Tôi thiểu là tiêu thổi đó mà! Tử phòng chỉ thổi tiêu mà thành công, ông biết chớ ! Một chặp sau, Đức Giáo Chủ và Hương cả Đô vào nhà, Ngài đi ngay lại cái ghế cũ vừa nhìn ông Cả Đô nói cười vui vẻ, vừa nhắc đổi lại cái ghế ngồi một cách tự nhiên và ngồi lên nói chuyện. Hương cà Đô trình ra sự thật để cáo lỗi và xin được thu nhận vào hàng tín đồ. Từ ấy ông hết dạ theo Thầy và về sau, vì chí khí bất khuất, ông bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo và gởi xương luôn ngoài ấy. (2)
    Còn một trường hợp khá đặc biệt nữa, có tính chất biện luận, chúng tôi xin dẫn thêm cho tạm được coi là có phần đầy đủ.

    Một hôm, khi Đức Giáo Chủ thuyết Pháp, có hai ông khách vào nhà, dáng điệu có vẻ trí thức, cử chỉ lịch thiệp, nhanh nhẹn. Sau khi nói xong thời Pháp, Đức Giáo Chủ ôn tồn hỏi :

    Xin hai Ông cho biết phương danh và đến tôi có việc chi?
    Một trong hai ông khách lạ đáp:
    Chúng tôi là người mộ đạo, chuyên nghiên cứu về các đạo trên thế gian, nên đến đây xin được thăm hỏi. Kính xin Thầy cho chúng tôi biết Thầy tu theo đạo nào?
    Đức Giáo Chủ đáp: Tôi đạo Phật.
    Ông khách tiếp : Thầy thọ giáo với ai và học những kinh nào trong Tam Tạng kinh điển? Và tài học của Thầy đến bực nào?
    Tôi không thọ giáo với ai, cũng không học kinh luật nào hết. Còn về sức học ngoài đời, tôi chỉ học đến bậc tiểu học.
    Ông khách hỏi thêm: Thầy không thọ giáo với ai, không học kinh luật nào, tài học chữ cũng không cao, làm sao Thầy truyền giáo và phổ thông đạo đức được?
    Đáp: Tôi là hạng đã tiến hóa, tôi đây có tâm Phật, nói đến đây Đức Giáo Chủ để bàn tay mặt lên trước ngực, đoạn đưa ra và tiếp : Toàn thể chúng sanh đều có Phật tánh, sáng suốt là Phật, mê muội là chúng sanh.
    Nói xong, Đức Giáo Chủ hỏi lại hai ông khách:
    Hai ông hỏi tôi học kinh luật nào, vậy xin cho biết Đức Thích Ca Mâu Ni xưa đã học với ai, nếu không phải Ngài là bậc tiến hóa sáng suốt tự tìm đạo để hiến cho trần thế?
    Thính giả đến mỗi lúc mỗi đông, tất cả đều im lặng, lắng tai theo dõi cuộc đối đáp. Ông khách thứ hai nảy giờ ngồi yên, bây giờ hỏi :
    -Thầy truyền đạo để dạy dỗ chúng sanh làm lành lánh dữ, nhưng nếu chúng sanh không nghe theo Thầy, làm điều tội, thì Thầy có làm như Đức Chúa Giê Su không? Dạy chúng sanh không nghe theo Ngài, cứ làm điều tội lỗi, nên phải chịu gia hình nơi thánh giá để thế tội cho chúng sanh.
    Đức Thầy hỏi vặn ông khách: Đức Giê Su ở ngôi vị, cấp bực nào?
    Đáp : Ngài sáng lập tôn giáo độc thần, chủ trương thờ có bậc Chí Tôn là Chúa Trời, do chúa Giê Su khởi xướng.
    Hỏi : Nếu Ngài là Chí Tôn, tha tội chúng sanh do Ngài, làm tội chúng sanh cũng bởi Ngài, thì Ngài chịu gia hình nơi thánh giá thế tội cho chúng sanh, là chịu tội với ai?
    Hai ông khách không đáp, còn Đức Giáo Chủ thì tiếp tục giảng kinh (3)
    Có nhiều trường hợp như trên được người ta đưa ra trong suốt thời gian Ngài thuyết giáo, nhưng Ngài đã áp phục được hoàn toàn và nhờ thế Đạo mỗi ngày một thêm bành trướng.
    Ngài đã thuyết pháp chẳng những suốt ngày mà thâm cả về đêm. Thính giả tụ hợp để nghe đông ngoài mức tưởng tượng, mãi cho đến ngày 12 tháng 4 năm Canh Thìn (1940) thực dân Pháp sợ Ngài khởi xướng một cuộc cách mạng nên cho lịnh dời Ngài đi Sa Đéc. Ngài đã bình thản ngân nga:
    Cơn dông tố mịt mù bụi cát
    Chẳng nao lòng của Đấng Từ Bi
    Vì thiên đình chưa mở hội thi
    Nên Lão phải phiêu lưu độ chúng

    Và có hồi phấn khởi:
    Càng đi càng biết nhiều nơi
    Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông

    Với một giọng thanh tao êm dịu, khi bổng lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu lúc giản dị, Đức Giáo Chủ giảng giải cho quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành. Ngài thuyết pháp không vấp không ngưng, thật đáng xem là:
    Miệng nhích môi đầy văn tao nhã
    Hạ bút thần thơ đã đề khai

    Một ký giả ở Sàigòn, ông Hiền Sĩ, khi viết về Đức Giáo Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài hùng biện của Ngài bằng câu : “thao thao bất tuyệt” và kết luận rằng Ngài đã “chiếm giải quán quân về phương diện diễn thuyết”.

    Lại nữa, lời văn của Đức Giáo Chủ có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách lạ thường, nên thính giả nhiều khi mũi lòng rơi lụy, liền phát tâm tu hành theo Đạo. Ai đã từng dõi gót theo Ngài trong cuộc khuyến nông năm 1945, trong vòng 2 tháng với không biết bao nhiêu lý luận khác nhau, đều phải công nhận Ngài là bậc “mồm sông bút sấm”. Những cuộc thuyết pháp kể trên, nếu cộng với 107 lần chu du khuyến nông thuyết pháp trên gần khắp miền Nam năm 1945, chúng ta có thể nói Ngài đã trải qua trên một ngàn lần khuyến thuyết quan trọng với hàng ngàn đề tài khác biệt.

    Thật quả đã kết quả thực sự như lời Đức Giáo Chủ ước ao :“Nên phương pháp của ta tuy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam (...) nói Phật Pháp cho kẻ có lòng mộ đạo quy cần, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ”...

    Nhờ những cuộc thuyết pháp như trên, người mộ đạo quy căn, ngày càng đông đảo.
    *****
    (1) Nguyễn Văn Hầu: chí sĩ Nguyễn quang diêu, Xây dựng xuất bản, 1964, trang 8i)

    Biên Kinh Để Truyền Giáo Nhưng công đức vĩ đại nhất của Đức Giáo Chủ trong việc truyền giáo là việc viết ra Kệ Giảng. Nhờ Kệ Giảng đó mới được phổ truyền một cách sâu rộng chủ trương canh tân phương pháp tu Phật của Ngài và nhờ đó mà hằng triệu người ngộ đạo và quay về với chân tính, tự tâm.

    Những tác phẩm của Đức Giáo Chủ viết ra, phần nhiều thuộc thể văn vần. Ngài viết, dầu tản văn hay vận văn, điều đáng để ý là khi cầm bút thì cứ viết thẳng một mạch, không dùng giấy nháp. Người ta có thể nói rằng Ngài viết mau lẹ và dễ dàng hơn ông Aleyone Krishnamurti khi viết cuốn “Aux Pieds du Maitre” vậy.
    Có thể kể những tác phẩm trường thiên sau đây của Đức Giáo Chủ :
    1.Sám Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm (tức quyển nhứt, văn lục bát, dài 910 câu, xuất bản lần đầu năm 1939). Ngài viết xong trước Đệ Nhị thế chiến, tại làng Hòa Hảo. Sám Giảng nầy khởi đầu bằng câu :
    Hạ nguơn nay đã hết đời
    Và chấm dứt bởi câu:
    Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên
    Nội dung, Đức Giáo Chủ đánh thức quần chúng bằng cách tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân loại sẽ phải trải qua trong thời đại nhiễu nhương. Chẳng hạn, Ngài nói trước các năm từ xảy ra cho đến khi chấm dứt đệ nhị thế chiến :
    Mèo kêu bá tánh lao xao
    Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉn ghê
    Con Ngựa lại đá con Dê
    Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao
    Khỉ kia cũng bị xáo xào
    Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng
    Người ta đã thấy đúng trăm phần trăm những năm từ khởi đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (Mèo kêu, 1939) cho đến khi hai quả bom nguyên tử của Đồng Minh bỏ xuống nước Nhựt để chấm dứt chiến cuộc (Gà gáy, 1945) không sai một mảy.
    Cảnh giết chóc ghê tởm của chiến tranh tuy ngưng từ năm Gà gáy, nhưng theo Đức Giáo Chủ, nó sẽ còn tái diễn tại Việt Nam và sẽ lan diễn khắp nơi :
    Đời còn chẳng có mấy năm
    Khắp trong các nước thây nằm bằng non
    Cha thì chẳng thấy mặt con
    Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia
    Trong tác phẩm nầy, Đức Giáo Chủ cũng tường thuật việc Ngài hóa hiện ra người đui cùi, buôn bán, khi già lúc trẻ dạo khắp “lục châu” để thử lòng trăm họ, giác tỉnh mọi người, gọi họ theo về đường ngay nẻo Đạo.
    2.Kệ Dân Của Người Khùng (tức quyển nhì, văn thất ngôn, trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939). Ngài viết tại làng Hòa Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão, Kệ nầy khởi đầu bằng câu :
    Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế
    Và chấm dứt bởi câu :
    Ta ra sức dắt dìu bá tánh
    Cũng như trong quyển nhứt, ở đây Đức Giáo Chủ vừa tiên tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân vừa khuyên mọi người làm lành lánh dữ. Chẳng hạn như
    Đến chừng đó bốn phương có giặc
    Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha
    Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha
    Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa
    Trung với hiếu ta nên trau sửa
    Hiền với lương bổn đạo rèn lòng
    Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông
    Với bá tánh vạn dân vô sự
    Rồi Ngài không ngần ngại đánh đổ những mê tín dị đoan, những âm thanh sắc tướng, những sự dối tu, lòe đời.
    Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ
    Mà xưa nay có mấy ai thành !
    ----
    Làm hiền lành hơn tụng hơ hà
    Hãy tưởng Phật hay hơn ô ré
    ----
    Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi
    Chớ có đốt tốn tiền vô lý
    ----
    Tu vô vi chẳng cúng chè xôi
    Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót
    3. Sám Giảng (tức quyển ba, văn lục bát, dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm1939)
    Ngài cũng viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão, khởi đầu bằng câu :
    Ngồi trên đảnh núi liên đài
    Và chấm dứt bởi câu :
    Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan
    Trong quyển nầy Đức Giáo Chủ dạy tu nhân đạo. Ngài viết :
    Tu cầu cha mẹ thảnh thơi
    Quốc vương thủy thổ chiều mơi phản hồi
    Tu đền nợ thế cho rồi
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen
    Đối với hạng thanh niên nam nữ, thường dễ bị văn minh vật chất hoặc dục vọng lôi cuốn đến bờ trụy lạc, Ngài kêu gọi :
    Nghiêm đường chịu lịnh cho an
    Loạn luân cang kỷ hổ mang tiếng đời
    Hoặc là :
    Nghe lời cha mẹ cân phân
    Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy
    Và Ngài cũng cực lực đã phá những hủ tục, vài xích những xa hoa đàng điếm, chẳng hạn:
    Chết rồi cũng bớt cóc ken
    Trống kèn lễ nhạc tế xen ích gì !
    Đàn như thầy lễ cũng kỳ
    Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng?
    Hay là :
    Văn minh sửa mặt sửa mày
    Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.

    Chương IV: Đức Giáo Chủ v à Sứ Mạng Thiêng Liêng

    “Ta thừa vưng sắc lệnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giới truyền khai Đạo Pháp.”
    Tôn giáo tuy không phải là sản phẩm của xã hội nhưng không thể không tùy thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Có thể nói hoàn cảnh xã hội là điều kiện thiết yếu của sự xuất hiện và phát triển của một tôn giáo.(Nếu không công nhận như vay65thi2 không thể giải thích được tại sao các tôn giáo lớn chỉ xuất hiện vào khoảng 2.000 đến 3000 năm nay, chớ không xuất hiện vào những thời trước). Như vậy, nếu khi hoàn cảnh xã hội đổi thay thì hoàn cảnh xã hội có thay đổi theo không? Tất nhiên là phải có để thích ứng với hoàn cảnh mới.

    Thần cách của Đức Giáo Chủ

    Nhìn vào lịch sử của các tôn giáo, ta thấy không có một tôn giáo nào giữ được nguyên vẹn hình thái buổi ban đầu mà có thể bền vững trước những diễn tiến của lịch sử. Những cuộc cải cách lớn lao, những sự canh tân về giáo lý, tín điều, dù nhiều dù ít trong các tôn giáo điều nhắm đáp ứng nhu cầu tình thế. Nói như một nhà xã hội học hiện đại thì “một tôn giáo, bao giờ còn tồn tại là còn cải tiến”. Phật giáo là Brahma giáo được canh cải, Thiên Chúa giáo là Guida giáo được cải cách (1)…Đó là trường hợp của những công cuộc cải cách to tát mà kết quả là sự thành hình của một tôn giáo mới. Ngoài ra trong mỗi tôn giáo lớn đều có nhiều chi phái xuất hiện tùy thời và tùy cảnh, nhằm cải tiến tôn giáo của mình. Và cứ mỗi khi có sự cải tiến như thế là có một giáo phài mới xuất hiện. Người chủ xướng công cuộc cải tiến trong trường hợp này sẽ được các tín đồ sung bái và sẽ nghiễm nhiên trở thành vị sáng lập của giáo phái, nghĩa là ẽ được tôn sung như một giáo chủ.
    Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nỗ lực cải cách đều thành tựu. Sự thành tựu này tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất là tư cách của người chủ xướng. Riêng về Phật giáo Hòa Hảo, thì như mọi người điều biết, đó là một chi phái của Phật giáo, nhằm canh tân phương pháp tu hành cho tôn giáo này. Công cuộc canh tân đóđã thành tựu to tát khiến có thể xem PGHH như một tôn giáo riêng, mà vị sang lập là đức Huỳnh giáo chủ. Và như đã thấy trên, yếu tố then chốt đưa đến thành tựu nầy là tư cách của Đức Giáo Chủ, hay nói đúng hơn là thần cách cùa Ngài. Vậy thần cách của Đức Giáo Chủ được thể hiện như thế nào trong “cuộc đời con người” của Ngài, và Sứ Mạng thiêng liêng của Ngài ở trần gian nầy là gì?.

    Năm Kỷ mão, “Hạ ngươn đã hết”, sắp có những biến cố lớn lao, cuộc đời tiến dần vào vực thẩm của tang thương ly loạn, Cảnh đói khổ, bệnh hoạn, chết choc… những thảm họa ấy của chiến tranh đã gần kề nhưng con người vẫn mê muội đắm chìm trong vật dục. Thượng đế đã chết từ lâu, từ khi sự sùng tín khoa học thay cho tín ngưỡng trong tâm hồn con người, và con người cũng sẽ cùng chung một số phận. Nhân loại đã đào một cái hố sâu để sắp sửa tự chôn mình mà không biết.

    Không thể yên vui nơi cõi Phật trong lúc “bá tánh sầu thành chất ngất”, Đức Thầy quyết định xuống thế cứu vớt chúng sanh bằng cách thức tỉnh, khuyến khích họ tu Nhân học Phật. Ngài “tá hiệu Khùng Điên” gắng công truyền đạo khắp nơi, và trong bước đầu không trách được sự chê cười khinh khi của nhiều người mà cuộc đời văn minh vật chất đã tạo nên ở họ nhiều kiêu hãnh.
    Khắp trong bá tánh trần hoàn
    Cùng hết xóm làng đều bỉ người Điên
    Trường hợp nầy không riêng cho Đức Thầy mà, qua lịch sử các tôn giáo, cho cả những vị sang lập các tôn giáo khác, Jesus, Thích Ca, Khổng Tử… đều bị người đời chế nhạo. Tuy nhiên có điều mà ai ai cũng phải công nhận là “họ không phải là người thường như bao nhiêu người khác”, và cái khác thường ấy chắc chắn không phải vì Điên, vì Khùng. Renan đã nói một câu chí lý: “Người điên không bao giờ thành công. Từ xưa đến giờ chưa có một sự loạn trí nào cho phép người ta có những hoạt động ảnh hưởng sâu xa đến bước tiến của nhân loại.” Những vị sáng lập các tôn giáo nói trên đã gây được ảnh hưởng sâu rộng trong nhân loại. Họ có hàng triệu và hang triệu tín đồ sùng bái. Họ đã thành công và những thành công của họ là những thành công vĩ đại. Như Đức Giáo Chủ đã nói :
    Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy
    Chớ chẳng phải của người lãng trí
    Mọi ý hướng cắt nghĩa sự thành công to tát đó bằng những nguyên nhân tâm lý, sinh lý, xã hội… đều thất bại. Không thể giản lược một sự kiện tôn giáo vào một sự kiện nào khác. Những lối phân tích, suy luận theo tinh thần khoa học nhằm cắt nghĩa sự kiện thiêng liêng như sự kiện tôn giáo không đem lại một giải đáp nào thỏa đáng ; lý trí của con người phải thú nhận sự bất lực khi bước vào lãnh vực tôn nghiêm nầy. Rốt cuộc mầu nhiệm và huyền bí vẫn dẫy đầy chung quanh con người, cuộc đời và hành động của các vị giáo chủ

    “Trong cuộc đời của những thiên tài, những bậc thánh thiện có cái gì không thể dùng trí thức để phân tích cắt nghĩa được. Cái đó tức là tính cách thiên tài và thánh thiện”. (2)
    Về trường hợp của Đức Giáo Chủ ta thấy : Hơn cả một bậc thiên tài, hơn cả một đấng thánh thiện, ờ nơi Ngài có cái gì thiêng liêng, mầu nhiệm của Đấng Cứu Thế.
    Ai cũng biết Ngài chỉ học qua bậc tiểu học, sau đó Ngài bị đau ốm luôn phảI bỏ dở việc học hành. Cho đến năm 1939, lúc ấy đã được hai mươi mốt tuổi. Ngài bắt đầu truyền giáo. Như vậy không có gì chứng tỏ rằng Ngài có học lực cao, khung cảnh sống rất giới hạn cho nên nếu Ngài là người thường thì kiến thức của Ngài cũng chỉ có được trong giới hạn đó mà thôi.
    Hoàn cảnh gia đình , giáo dục, xã hội không thể tạo được những kiến thức sâu xa về tôn giáo, triết lý, những tư tưởng cao siêu, những hành động phi phàm mà mọi người phải kính nể bái phục. Có thể nói Ngài hơn cả những bậc sanh nhi tri chi, và sự kiện đó chỉ có thể giải thích được bằng những mầu nhiệm, những huyền diệu trong lãnh vực tôn giáo. Ngài không phải chỉ là người thông minh, không phải chỉ là hạng thiên tài theo nghĩa thông thường. Ngài là một vị Phật.
    Ta chịu lịnh Tây Phương thọ kỳ
    Nên Phật Tiên phảI xuống hồng trần.
    “Bởi đời nầy pháp môn bế mạc. Thành đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma vương khuấy rối” cho nên “Chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vị chơn tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền…” Ngài là một trong các vị cứu đời ấy. Sứ mạng thiêng liêng của Ngài , Ngài đã mặc khảI cho chúng ta qua nhiều vần thơ, lời Sấm, câu Kệ giảng.

    Bản chất đại giác, đại bi và quyền năng của Đức Giáo Chủ
    Nói đến Phật tức là nói đến sự giác ngộ, sự minh trí, sự thấu suốt chân lý. Chân lý đó thu tóm trong Tứ Diệu Đế : Khổ, Tập, Diệt, Đạo .. đã được Đức Thích Ca khai thị sau khi ngộ đạo. “Đời là bể khổ, sự hiện hữu là điều xấu, tất cả mọi sự việc trền đời đều chỉ là sắc không, đều chỉ là giả tướng trong vòng sinh diệt của cõi vô thường. Nhưng sở dĩ con người còn lấy giả tướng làm thật, còn quyến luyến cõi vô thường ấy là vì đã bị vô minh, mê muội bởi vật dục che lấp”. Phật là đấng đã diệt được dục, diệt được vô minh , “đã thoát khỏi mọi tin tưởng sai lầm, thấu triệt cái vô hạn, không còn bị ràng buộc vào bất cứ cái gì, mọI mưu toan đều đã tránh xa, mọi ước vọng đã bị từ bỏ”. Đức Giáo Chủ cũng thế, Ngài đã :
    Mài gươm trí cho tinh cho khiết
    Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không
    Để đến chỗ :
    Vô pháp tướng mới là thiệt tướng
    Sự thông suốt của một vị Phật không phải chỉ được thể hiện trong sự nhận thức chân lý đó để tìm con đường giải thoát mà còn được thể hiện trong sự thấu rõ và tiên tri việc vị lai. Biết rõ thời cơ , báo trước cho tín đồ mọi việc sẽ xảy đến để tránh tai họa gớm ghê, đó cũng là cái huyền diệu của nhà Phật. Đức Giáo Chủ, ngay từ khi khởi đầu mở đạo, đã tiên tri những biến cố lớn lao của Đệ Nhị thế chiến cùng tất cả những thảm họa của nó.
    Trong lúc mọi người đang hướng về khoa học, đặt cả tin tưởng vào nền văn minh cơ giới thì Ngài đã thấy và nói lên tất cả những hậu quả mà nền văn minh Tây phương sẽ đem lại cho loài người. Kiểm điểm các sự việc, người ta thấy những câu Sấm của Ngài không sai một mảy khi đốI chiếu vớI thế cuộc từ năm 1939 đến 1945, tức là từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt Đệ Nhị thế chiến. Còn nhiều việc quan trọng khác mà Ngài đã biết trước và không quên nói với các tín đồ than tín của Ngài rõ. Chẳng hạn, hơn một lần Ngài báo trước sự vắng mặt của Ngài trong một khoảng thời gian trên cõi đời nầy, cũng như sự trở lại của Ngài trong tương lai. Đó là những sự kiện hiển nhiên trong địa hạt tôn giáo, đã nói lên cái trí diệu thâm của một vị Phật.
    Nói đến Phật cũng là nói đến long từ bi vô lượng đối với chúng sanh. Lòng từ bi ấy không phải như tình thương theo nghĩa thông thường của con người đối với gia đình, bạn bè, hay cái “trắc ẩn chi tâm” đối với đồng loại. Bắt nguồn từ nhận thức cuộc đời là bể khổ và mọi sự sống đều mang mầm đau khổ, long từ bi của nhà Phật bắt buộc phải thương yêu tất cả mọI sanh vật cùng cảnh khổ đau và mong muốn vén màn vô minh để tất cả được giác ngộ và giải thoát. Bởi thế nên lòng từ bi đòi hỏi phải thương yêu tất cả ngay đến kẻ thù vì họ cũng là những kẻ bị che mờ bởi vật dục. Chủ trương của nhà Phật không phải chỉ là sự tự giác mà còn phải giác tha để đi đến chỗ giác hạnh viên mãn. Tâm từ bi vô lượng đó chúng ta dễ dàng nhận thấy ở nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ :
    Ai phú quí vào đài ra các
    Ta Điên Khùng thương hết thế trần
    Bởi :
    Nhìn xem trần nước mắt rưng rưng
    Cảnh áo não kể sao cho xiết
    Cho nên Ngài mới quyết :
    Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện
    Tìm con lành dắt lại Phật đường
    Thương dân hiền giáo đạo Nam phương
    Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ
    Cũng chỉ vì :
    Thương hại bầy lê dân đứt ruột
    Thảm vợ con đói rách đùm đeo
    Mà Ngài đã phải hy sinh vô bờ bến :
    Thân ta ta chẳng tiếc chi
    Miễn cho bá tánh nạn gì cũng qua
    Đặc biệt đối với những kẻ đau khổ nhất trên đời nầy . Ngài khuyên chúng ta chẳng bao giờ nên khinh khi mà trái lại phải biết thương xót họ :
    Hãy thương xót những người tàn tật
    Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười
    Tình thương bao la ấy, cái tâm từ bi vô lượng ấy vượt ra ngoài và lên trên long nhân thường thấy ở người đời . Đó chỉ có thể là tấm long quảng đại của Phật.
    Sau nữa, nói đến Phật là nói đến uy quyền thiêng liêng thể hiện qua những hành động và cử chỉ phi thường ở trên cõi đời mà ta thường xem như là những phép lạ. Đối với những bộ óc quen làm việc theo khoa học thì phép lạ chỉ là chướng ngại vật hơn là những phương tiện đưa đến đức tin, nhưng chúng ta cũng có thể nói rằng những kẻ sung bái khoa học đã có một lỗI lầm to lớn vì đã không biết giới hạn trong phạm vi khoa học, để đừng xâm phạm đến lãnh vực tôn nghiêm của tôn giáo. Hãy đi vào tôn giáo với thái độ tôn giáo, với đức tin, vì tôn giáo là thế giới của mầu nhiệm, không thể đạt được bằng lý trí mà chỉ có thể biết được bằng mặc khải.
    Trở lại vấn đề phép lạ nói trên, ta thấy Đức Thầy đã có nhiều hành động phi thường trong khi thực hiện sứ mạng thiêng liêng của Ngài.
    Trước hết là ở nơi Ngài có cái quyền lực nhiệm mầu giúp Ngài thành công dễ dàng trong việc khắc phục nhiều người trí thức, biến họ thành những tín đồ trung kiên trong nhiều trường hợp rất đặc biệt. Nếu không có quyền lực đó thì làm thế nào có thể sai khiến một số đông tín đồ vốn có nhiều anh hùng tính? Và nếu không có quyền lực đó thì làm sao một lờI phán ra của Ngài có thể khiến hang vạn vạn tín đồ sẳn sang tìm cái chết vì Ngài hoặc vì Đạo pháp? Đây không phải là uy quyền thường được thiết lập theo thứ bậc xã hội, mà là một thứ uy quyền thiêng liêng có trong thần cách của một vị Phật.
    Thứ đến là những thành công lạ lùng của Ngài trong việc trị bịnh cho dân chúng. “Từ tháng 5 năm 1939, nhiều bệnh tà, bệnh điên, nan y, đã được đưa đến tận làng Hòa Hảo và được chữa khỏi, không khác nào Đức Chúa Giê-su hay Phật Thầy Tây An thuở trước đã chữa khỏi cho muôn vạn dân lành…” (3) Số người được cứu sống kể sao cho xiết mặc dầu phương pháp chữa trị của Ngài rất đơn giản gần như không có gì cả.

    Sứ mạng thiêng liêng của Đức Giáo Chủ

    Tất cả các vị giáo chủ xưa nay đều cho thấy vị trí của họ trong mối tương quan vớI Thượng Đế cũng như sứ mạng thiêng liêng của họ ở thế gian nầy. Mohamet là Thiên Sứ, là chứng nhân của Allah, Jesus là Đức Chúa Trời nhập thế với sứ mạng cứu đời…Tất nhiên vị trí và sứ mạng thiêng liêng đó chúng ta chỉ có thể biết được khi nào chính vị giáo chủ ấy mặc khải cho ta.
    Nhưng tại sao người ta tin ở sự mặc khải đó ? Câu trả lời chính xác thật sự không có nhưng cứ theo lý mà nói thì sự tin chắc như thế phải tựa trên những bằng cớ hiển nhiên đối với người tin. Bằng cớ rõ ràng nhất là sự ăn khớp giữa lời nói và hành động của vị Giáo Chủ. Về trường hợp của Đức Thầy thì Ngài đã cho chúng ta biết rằng Ngài là một vị Phật cứu thế. Lời nói của Ngài được chứng minh bằng Trí sang suốt, Tâm từ bi và những việc làm mầu nhiệm của Ngài trong suốt thời gian Ngài có mặt như vừa thấy trên đây. Nhưng còn sứ mạng thiêng liêng của Ngài thì như thế nào ?
    Nói một cách tổng quát thì sứ mạng của các vị giáo chủ là mặc khảI chân lý và tìm đường cứu độ chúng sanh. Mỗi tôn giáo có một chân lý và đường lối giài thoát riêng. Đối với Phật Giáo Hòa Hảo thì chân lý và con đường giải thoát ấy đã được Đức Thích Ca tỏ ngộ và giảng dạy. Đức Huỳnh Giáo Chủ đem truyền bá và giảng dạy lại. Thành ra sứ mạng của Ngài là sứ mạng “vun quén Đạo Mầu” khi “nền đạo gặp lúc truân chuyên” như Ngài đã nói :
    Nay nhằm buổi phong trào tân tấn
    Đua chen theo vật chất văn minh
    Nên ít người khảo xét kệ kinh
    Dược dắt chúng hữu tình thoát khổ
    Thêm còn bị lắm phen going tố
    Lời tà sư ngoại đạo gieo vào
    Cho nhơn sanh trong dạ núng nao
    Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
    ….
    Thêm thời nầy thế kỷ hai mươi
    Cố xô sệp thần quyền cho hết
    Người nhẹ dạ nghe qua mê mết
    Rằng nên dùng sức mạnh cạnh tranh
    Được lợi quyền lại được vang danh
    Bài xích kẻ tu hành tác phước
    Làn sóng ấy nhiều người đón rước
    Dục dân tâm sôi nổi tràn trề
    Cổ tục nhà phỉ bang khinh chê
    Cho tôn giáo là mùi thuốc phiện
    Nền văn minh vật chất đã đem lại một kiêu hãnh sai lầm cho loài người. Người ta quá tin ở sức mạnh vạn năng của khoa học, sùng tín khoa học như một tôn giáo. Từ đó người ta đi đến chỗ đả phá tín ngưỡng tôn giáo làm thay đổi tất cả nếp sống đạo lý tốt đẹp của con người từ xưa. Không tin Trời Phật, chỉ tin ở khoa học; phủ nhận tinh thần linh thiêng, chỉ biết có thể xác; cuộc sống vì thế chỉ còn là một trường cạnh tranh độc ác vô nhân đạo. Thế rồi cuộc đời vốn xấu xa càng them nhiều xấu xa tồi tệ, con người vốn đã khổ đau càng thêm khổ sở đớn đau.
    Trong hoàn cảnh đó :
    Dầu ai có bền gan sắt đá
    Cũng động lòng trước cảnh ngữa nghiêng
    Đạo diệu mầu gặp lúc truân chuyên
    Phận môn đệ phải lo vun quén
    Bởi “Hạ ngươn nay đã hết đời” nên mới đưa đến cảnh “phong ba biến chuyển đổi dời gia cang”. Nói một cách cụ thể hơn thì hậu quả của sự sung tín khoa học của văn minh cơ giới là thảm họa của trận đệ nhị thế chiến mà Đức Thầy đã báo trước:
    Năm mèo Kỷ mão rõ ràng
    Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi
    Và rõ ràng hơn nữa:
    “Cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan. Ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên… nhưng vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa “ cho nên Ngài mới hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh.

    Tuy nói rằng Ngài giảng dạy, vun quén Đạo của Đức Thích Ca, nhưng thật sự ta cũng thấy Ngài đã khai mở cho ta một sự thật, một huyền diệu và tìm giải pháp cứu rỗi chúng sanh. Sự thật đó là cảnh “pháp môn bế mạc, thành đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm ma vương khuấy rối”. Huyền diệu đó là “máy diệu huyền chuyển lập hội Long Hoa… định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”.
    Còn giải pháp thoát khổ, là học Phật tu Nhân mà Đức Thầy đã đem hết tâm trí ra công hoằng hóa.
    Sứ mạng đó Đức Giáo Chủ đã hoàn thành chưa? Hiểu theo nghĩa tuyệt đối thì trong lịch sử các tôn giáo chưa có vị giáo chủ nào hoàn thành được sứ mạng của mình. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa tương đối thì Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng như các vị giáo chủ khác đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đó. Trong thời gian rất ngắn, số tín đồ của Ngài đã có đến mấy triệu. So vớI các vị giáo chủ khác, sự thành công của Ngài thật không kém phần vĩ đại (4).
    ___
    G. Van Der Lecuw: La religion dans son essence et ses manifestations tr. 597
    Daniel Rops: Jesus en son temps tr. 247
    Xem chương : Đức Giáo Chủ và công đức truyền giáo
    Theo tiểu luận của Th Le6mi. Đuốc Từ Bi số 16-17, tháng 6 và 7 năm 1966

    Chương V: Đức Giáo Chủ Trong Việc Thi Hành Sứ Mạng

    Thầy Khùng trò lại hóa Điên
    Khùng Điên mấy tháng tình riêng ai ngờ
    Người chưa quen với Phật Giáo Hòa Hảo lần đầu tiên đọc những Sấm Giảng Thi Văn, có thề thấy khó chịu với những ý tưởng lập đi lập lại, những hình ảnh quá thông thường, những câu những chữ rất bình dân, cũng như một vài mâu thuẩn tưởng không thể giải quyết được.
    Nhưng đối với một tín đồ P.G.H.H. hay đối với những người đã chịu khó tìm hiểu thì sự thể lại trái hẳn. Chẳng những cảm giác khó chịu đầu tiên không còn mà ngược lại người ta còn có thể ghi nhận ở đây một nghệ thuật sắc bén, một thành công lạ lùng.
    Chúng tôi không dám nghĩ đến “thiên tài” của một nhà văn trong trường hợp của Đức Thầy. Ngài là một đấng thiêng liêng, thành ra nói đến “tài” hay “thiên tài” đi nữa, cũng e sợ làm giảm phần nào thần cách của một vị Giáo chủ. Ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày một vài nhận định về những kỳ diệu trong việc thi hành sứ mạng của Ngài qua các tác phẩm của Ngài mà thôi.

    Từ Khùng Điên đến Tiên Phật

    Ngay trong năm Kỷ Mão, liền sau khi mở đạo, Đức Giáo Chủ đã viết ra 4 quyển Sấm Giảng và Kệ dưới hình thức những tác phẩm văn vần trường thiên, mỗi quyển dài trong khoảng từ trên 600 câu đến trên 900 câu.
    Trong các quyển I và II, tức các quyển “Sấm giảng khuyên người đời tu niệm” và “Kệ dân của Người Khùng”. Đức Giáo Chủ xuất hiện như một kẻ “Khùng, Điên”. Ngài tự xưng như thế trong các câu văn và luôn luôn những chữ “Điên nầy”, “Khùng nầy” được lập đi lập lại như với một dụng ý nhấn mạnh ở những tiếng đó.
    Mặc khác, ý tưởng và lời nói dường như cũng phù hợp với tính cách của một người điên thật sự. Nói lẩn thẩn, hay nói nhiều việc lạ thường, bằng một giọng điệu , một ngôn ngữ kỳ dị (tất nhiên là đối với những người mới gặp gỡ, mới nghe thấy lần đầu tiên). Người thường ở trong cuộc đời nầy không thể không cho rằng đó là lời nói của người Khùng Điên được. Đó cũng là dụng ý của Đức Thầy.
    Đức Thầy không Điên Khùng nhưng muốn làm một kẻ Điên Khùng, xuất hiện như một kẻ Khùng Điên; dụng ý đó có nghĩa đặc biệt gì? Chắc nhiều người đã nghĩ ngay đến lý do chính trị vì họ có thể căn cứ trên chính lời nói của Đức Thầy. Trong “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm”, ngài viết :
    Việc đời nói chẳng có cùng
    Đến sau mới biết đây dùng kế hay
    Bây giờ mắc việc Tà Tây
    Nên mới làm vầy cho khỏi ngại nghi.
    Và sau nầy trong một bài nói về sứ mạng của mình, Đức Giáo Chủ lại bảo :
    “Đến trung tuần tháng tám ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy Thiên Cơ… Vẫn biết đời Lang Sa thống trị, phép nước nghiêm hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hiềm khích”…
    Những điều nói trên đây khiến người ta phải nghĩ đến tình hình chánh trị khó khăn lúc bấy giờ. Sự nghi ngờ, lo sợ, theo dõi, cũng như những biện pháp gắt gao của chánh quyền thực dân đối với người dân Việt hồi đó tất nhiên phải có. Vậy cho rằng việc tá hiệu Khùng Điên của Đức Thầy có một dụng ý chánh trị thì cũng đúng một phần nào, nhưng nếu chỉ nhìn thấy có lý do chánh trị không thôi thì chưa đủ. Sự cắt nghĩa bằng lý do chánh trị nếu không sai lạc thì cũng làm nghèo nàn ý nghĩa cao siêu của tôn giáo. Đức Thầy không phải chỉ là một Nguyễn Khuyến dưới lốt của bà “mẹ mốc” đem “tấm hồng nhan bôi lấm xóa nhòa”, để che mắt tục, hầu giữ vẹn tiết trinh, mong tìm chồng con muôn dậm xa xôi (1). Dụng ý của Đức Thầy khác hẳn, dụng ý đó chỉ có thể giải thích được bằng lý do tôn giáo mà thôi, lý do chánh trị chỉ là lý do phụ.
    Nhưng thế nào là lý do tôn giáo ?
    Chúng ta ai cũng biết : Đức Giáo Chủ chỉ có thể hoàn thành sứ mạng thiêng liêng của Ngài khi nào những lời dạy của Ngài được nhiều người nghe, hiểu, tin và làm theo. Muốn như thế trước hết phải chứng tỏ ngôi vị đặc biệt của Ngài đối với Phật và đối với thế gian để gieo một niềm tin vững chắc trong lòng người. Sự tá hiệu Khùng Điên là để đi đến chỗ xác nhận ngôi vị Phật vậy. Bởi vì mượn lốt Điên Khùng hay bịnh tật nghèo hèn để gần gũi dân chúng, đem tâm trí cứu độ chúng sanh không phải là một điều mớI lạ trong xã hội Á Đông. Tế Điên bên Trung Hoa, Sư Vãi Bán Khoai ở Việt Nam… đã từng gây nhiều tin tưởng trong dân chúng. Đức Thầy trong bước đầu giảng đạo cũng theo đường lối đó.
    Điền nầy nối chí theo Khùng
    Như thể dây đùn đặng cứu bá gia
    Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, người ta bắt đầu ý thức rằng “Điên, Khùng” ấy là của Phật của Trời chứ không phải điên khùng thật sự của người dưới thế. Cho nên từ tác phẩm thứ ba và thứ tư, tức “Sấm Giảng” và “Giác Mê Tâm Kệ” trở đi , danh từ Điên Khùng không còn được Đức Thầy dung để xưng hô nữa. Bấy giờ Ngài chỉ xưng “Ta” mà thôi . Nên trong hai quyển trước Ngài mở đầu :
    Năm mèo Kỷ Mão rõ ràng
    Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi
    Ngồi buồn Điên tõ một khi

    Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế
    Thì trong hai quyển sau Ngài lại nói :
    Kể từ Tiên cảnh ta về
    Non bồng Ta ở dựa kề mấy năm

    Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện…
    …Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa
    Điều nên nhớ là 4 quyển Sấm Kệ trên đây được viết ngay sau khi Đức Thầy mở đạo, từ trung tuần tháng 8 năm Kỷ Mão. Khoảng cách giữa hai quyển đầu và hai quyển sau không có bao lâu, vậy mà cách xưng hô đã khác hẳn. Từ một kẻ “Khùng, Điên” bị người đời khinh rẽ đến một vị Phật được thiên hạ sung bái tôn lên hang giáo chủ trong khoảng khắc, thật là một kỳ diệu quả đúng như Ngài đã nói :
    Đến sau mới biết đây dùng kế hay
    Tại sao ? Ở đây có một điểm tâm lý cần giải thích. Hiểu rõ điểm tâm lý đó là thấy rõ kỹ thuật kỳ diệu. Hãy thử tưởng tượng như ta đang đứng trước Đức Thầy và đối thoại với Ngài. Giả sử như đây là lần đầu tiên gặp gỡ, ta chưa biết gì về Ngài, chưa biết Ngài là ai, là hạng nào ở trên đời nầy. Lúc ấy Ngài đến với ta như bao nhiêu người khác trong thân xác con người. Ta chờ đợi ở Ngài những ý tưởng, những lời nói mà trong thâm tâm ta dự đoán là sẽ thông thường như ở bao nhiêu người khác nhưng bất ngờ, qua một vài câu trao đổi, ta thấy có cái gì khác lạ ở nơi người đối thoại. Ta sẽ rất ngạc nhiên trước những ý tưởng, những lời nói khác thường của Người. Sau cái ngạc nhiên ta sẽ thắc mắc băn khoăn tự hỏi: con người lạ lùng ấy là ai? Là ngườì gì?. Có phải là một người điên không, hay là một đấng thiêng liêng nào?
    Không để ta kịp suy nghĩ, Người đã vội nói: “Ta đây là một kẻ Điên Khùng”. Nhưng sự tự nhận là Điên Khùng của Người không làm cho ta hết thắc mắc, trái lại ta càng thấy băn khoăn hơn. Ta lại nghĩ: Người điên thật sự có bao giờ tự biết mình điên không? Người Điên thật sự thường nói và làm nhiều việc lạ lùng khác thường; nhưng cái lạ lùng khác thường đó ở dưới mức thông thường, đầu đuôi bất nhất và không bao giờ đi đến một thành công, một kết quả nào. Người tự nhận là Điên Khùng trước mặt ta đây lại khác. Điên mà có ý thức về cái Điên của mình đã là một việc không thể có, đến những hành động, cử chỉ, lời nói lạ lùng nhưng rất khôn ngoan sâu xa kia lại càng không thể có ờ người Điên thật sự được.
    Tất cả như có cái gì huyền bí, siêu phàm ở nơi người nầy khiến ta bắt đầu sợ hãi lẫn kính nể. Đồng thời ta như ý thức được cái kém cõi ở nơi ta và cái cao cả ở nơi người. Ta chỉ còn chờ một mặc khải, một lời xác nhận của người để chấm dứt những âu lo và hoài nghi còn sót lại để bắt đầu một niềm tin vững chắc. Người không để ta chờ đợi lâu, lời xác nhận mà ta đang mong đợi liền khi đó :
    Điên nầy điên của thần tiên
    Hoặc là :
    Bồng Lai Điên Dại có ngôi
    Tây phương cực lạc Khùng ngồi tòa sen
    Nỗi băn khoăn chấm dứt, tâm trạng bình an trở lại với ta cùng một lúc với sự hy vọng tin tưởng mãnh liệt. Trong bình an, ta lặng lẽ cúi đầu …

    Từ những sự kiện quan sát đến lời khuyên tu hành

    Tương truyền rằng khi Đức Thích Ca Mâu Ni giác ngộ rồi, Ngài đã phải băn khoăn không biết có nên truyền lại cho người khác nền Đạo của Ngài không? Tâm trạng ấy kéo dài một thời gian cho đến lúc Ngài nhìn ao sen trước mặt và một sự so sánh nảy ra trong trí. Có những cánh sen đã vượt khỏi mặt nước để đón lấy ánh sáng, cũng như có những người ở trên đời nầy , vốn thuộc hạng đại trí, không cần có một sự hướng dẫn nào, tự họ có thể giác ngộ tìm thấy chân lý. Lẽ dĩ nhiên là số người nầy rất ít. Có những cánh sen khác chỉ đến gần kề ánh sáng mà thôi , cũng như hầu hết chúng sanh ở trên đời , họ cần có người thức tỉnh dìu dắt mới tới chỗ giác ngộ được. Họ lại là phần đông. Sau hết có những cánh sen là đà dưới đất còn cách ánh sáng rất xa, cũng như một số ít người có cuộc đời quá hèn hạ đen tối ở trên đời nầy. Hạng người thứ ba nầy cũng chỉ chiếm một tỷ số rất nhỏ. Sự so sánh đó khiến Đức Thế Tôn quyết định truyền đạo. Ngài nghĩ đến số đông kia, xót thương họ và quyết ra công cứu vớt họ, đưa họ vào ánh sáng.
    Câu chuyện trên đây cho thấy rằng nhà truyền giáo bao giờ cũng thấy rõ đối tượng mà mình nhắm vào. Đức Giáo Chủ cũng thế, Ngài biết rõ đối tượng, và cũng như Đức Thích Ca thuở xưa. Ngài nhắm vào đại đa số dân chúng, hạng người đã gần như chưa đến được ánh sáng. Sứ mạng của Ngài là cứu vớt họ khỏi đắm chìm trong bể khổ. Nhưng hoàn thành được một sứ mạng cao cả thiêng liêng như thế đâu có phải là một việc dễ dàng dù là đối với Phật Thánh đi nữa. Làm thế nào để cho người ta tin tưởng, nghe, hiểu và làm theo?
    Trước hết phải chứng tỏ ngôi vị của mình để gây một niềm tin vững vàng ở nơi chúng sanh như ta đã thấy ở phần trên khi nói về sự tá hiệu Khùng Điên của Đức Thầy trong bước đầu giảng đạo. Sự tin tưởng đã có, bây giờ phải làm thế nào để cho người ta nghe, nghĩa là phải làm sao để thức tỉnh họ bởi vì phần đông sống ở đời bị lôi cuốn, chìm đắm trong đời, không có ý thức gì về cuộc sống đó.
    Nếp sống xã hội, cuộc đời vật chất đã biến con người thành những bộ máy. Người ta nghĩ, nói, làm một cách tự nhiên vô ý thức. Rất ít người thắc mắc, tra hỏi về ý nghĩa của những hành động của mình cũng như ít người suy nghĩ về giá trị thật sự của những hành động đó. Thành ra nghĩ kỹ ta thấy con người lúc nào cũng như mê ngủ, như say sưa trong cuộc sống ở trần gian. Bao lâu người ta còn lấy đời sống vật chất, đời sống xã hội nầy làm cứu cánh thì bấy lâu người ta còn chìm đắm trong trạng thái vô minh, mê muội, lầm lẫn cái chân với cái giả. Ngay cả trong hoàn cảnh giới hạn (Situations limites) như chiến tranh, cái chết… con người vẫn mơ màng chưa chịu thức tỉnh .
    Vậy phải làm thế nào, dùng cách gì để gọi họ giậy? Những lời khuyên tu hành suông sẽ chẳng làm cho ai nghe; mà lối giảng đạo hay giảng luân lý xa xôi cũng chẳng làm cho ai thèm để ý. Phải có những tiếng sấm nổ vào tai, những cái đấm thật mạnh vào thân thể, nghĩa là phải có những sự kiện đập mạnh vào ý thức họ mới có thể làm cho họ tỉnh say, tỉnh ngủ. Phải lột trần tất cả sự thật về tâm lý của họ đem phơi bày trước mắt họ để họ trông thấy và nhận thức rõ ràng cái xấu xa tội lỗi ở trong đó. Phải có những hình ảnh ghê gớm cụ thể của chiến tranh, của bệnh tật, nghèo đói, chết chóc, đặt trước mặt họ để gây ở họ một tâm trạng âu lo sợ sệt. (Vì con người tôn giáo thiết yếu phải là một con người lo sợ; chỉ khi nào con người cảm thấy được thân phận hèn kém, bắp bênh của mình , và cảm thấy được sức mạnh siêu nhiên để hạ mình khấn nguyện trông cậy vào sức mạnh siêu nhiên đó, thì mới thật sự có tôn giáo)
    Quyển “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” là những tiếng sấm sét, những cái đấm cần thiết nói trên; và chính những bước gian truân trên đường giảng đạo được Đức Thầy tường thuật trong tác phẩm là những sự kiện có công dụng đập mạnh vào ý thức của người dân, giật mạnh họ để đem họ ra khỏi cơn mê.
    Họ sẽ tìm thấy chính họ, hoặc những người chung quanh họ ở trong đó với tất cả những tham lam, xấu xa, hèn mọn, tội lỗi, tất cả cái tâm lý rất thực và rất sống động của họ. Họ sẽ nhận ra những hành động, những cử chỉ vô ý thức của con người đó, để bị bắt buộc phải suy nghĩ về những việc làm vô ý thức như vậy, nhất là cách đối xử của người đời đối với một đấng thiêng liêng dưới bộ áo của một người quê mùa chất phác… Họ sẽ giật mình lo sợ và sau cơn mê dài họ bắt đầu tỉnh dậy. Sự thức tỉnh đó là khởi điểm của con đường tu hành giải thoát. Cho nên đọc quyển Sấm Giảng đầu tiên nầy ta không nên lấy làm lạ tại sao Đức Thầy đã phải dài dòng kể lại những bước gian truân trên đường giảng đạo của Ngài.
    Nào những ai đã từng :
    Xúm lại đôi co
    Chê lão đưa đò mà biết việc chi
    Nào những kẻ :
    Chẳng chịu ngang cân
    Bỏ thêm bỏ bớt mấy lần không thôi
    Những ai đã :
    Xúm nhau trêu ghẹo để cười gái tơ
    Những ai đã :
    Thấy kẻ đui cùi chẳng muốn ngó ngang
    Những người đó giờ đây khi đọc Sấm Giảng nghĩ lại việc làm của mình chắc chẳng khỏi giật mình lo sợ. Họ bị bắt buộc phải thức tỉnh. Những người khác dù không có làm những việc đó, nhưng khi đọc những đoạn trên, cũng phải nhận ra sự thật tội lỗi xấu xa của đồng loại. Họ bị bắt buộc phải để ý.
    Còn có những cảnh nào sống động hơn những cảnh sau đây trong Sấm Giảng ?
    Chợ nầy thiên hạ bộn bề
    Kẻ nhún người trề chê mấm chẳng ngon
    Bạn hàng tiếng nói quá dòn
    Giá nầy chẳng bán còn chờ chuyện chi?
    Bưng thời kẻ níu người trì
    Ở đây không bán chị thì đi đâu?
    Dứt lời rồi lại cầu mâu
    Mắng “con đĩ chó khéo hầu làm khôn.


    Nói ra thêm thảm thêm thê
    Ông Lãnh dựa kề giả bán trầu cau
    Bạn hàng xúm lại lao xao
    Ông bán giá nào nói thử nghe coi?
    Trầu thời kẻ móc người moi
    Còn cao bẻ giấu thấy lòi tánh tham
    Thấy giá bán rẽ nó ham
    Bị thêm quê dốt nói làm thẳng tay.

    Tất cả tâm lý rất thực rất sống của người đời đã được lột trần ra đó. Và còn biết bao nhiêu “scene) khác tương tự như vậy trong tác phẩm nầy. Cho nên người dân khi đọc qua Sấm Giảng, trong ngôn ngữ thông thường quen thuộc của họ,m sẽ tìm thấy hình ảnh của chính họ cũng như của người chung quanh họ trong đó.
    Bên cạnh sự thật đáng buồn đó là những hình ảnh của đau khổ bịnh tật, của chiến tranh tàn khốc mà Đức Thầy đã báo trước cho mọi người biết :
    Chiến tranh thế giới bắt đầu :
    Lúc nầy thế giới bi ai
    Và sẽ diễn tiến như sau :
    Mèo kêu bá tánh lao xao
    Đến chừng rồng rắn máu đào chỉnh ghê
    Con ngựa lại đá con dê
    Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao

    Với tất cả những thảm họa đau thương của nó :
    Từ đây sắp đến thảm thê
    Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng
    Thêm vào đó cảnh bệnh tật ốm đau :
    Từ đây hay ốm hay đau
    Vậy mà bá tánh vẫn chưa chịu thức tỉnh sao? Người đời còn tham lam ích kỷ ed9e63 làm gì khi chiến tranh, đau ốm, cái chết đã gần kề. Bá tánh phải biết rằng khi mình gieo một cái nhân xấu thì tất nhiên sẽ gặt lấy những quả xấu.
    Mưu sâu thì họa cũng thâm
    Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê
    Hùm beo tây tượng bộn bề
    Lại thêm ác thú mãng xà rít to

    Cuộc sống của ta không phải chỉ có ở kiếp hiện tại nầy. Chết chưa phải là hết mà là bắt đầu kiếp khác. Vậy nên phải nghĩ đến sự lâu dài,đến kiếp sau. Phải biết sợ và tránh cảnh:
    Xác thân cọp xé beo quào
    Còn người tàn bạo máu đào tuôn rơi
    Phải thấy những đau khổ triền mien đó để tìm phương giải thoát. Phải tìm lấy Giáo Lý của Đức Phật, phải sớm tu hành để hưởng phước về sau.
    Tóm lại, như đã trình bày trên đây, ta thấy với những sự kiện quan sát trong đời sống hằng ngày của người dân. Đức Giáo Chủ đã gây ở họ ý thức về cuộc đời tạm bợ đau khổ của cõi vô thường để thức tỉnh họ, dìu dắt, đưa họ vào con đường đầy ánh sáng của đạo lý. Cho nên nhà truyền giáo, cũng như người dạy học, bao giờ cũng phải biết rõ đối tượng và nắm vững phương pháp mới có thể thành công một cách vẽ vang được.

    Từ những nét thông thường đến những điểm cao siêu trong Giáo Lý và những hình ảnh cụ thể đến những tưởng trừu tượng.
    Sự thức tỉnh của chúng sanh, như đã nói trên, chỉ mới là khởi điểm của con đường giải thoát. Con đường đó phải được tiếp tục. Người ta đã thấy rõ sự cần thiết của tu hành, nhưng chưa biết phải tu hành theo đường lối nào và bằng cách nào? Đạo Phật đã được biết từ lâu, nhưng giáo lý của nhà Phật thì ít ai biết rõ. Nhiều người đã lợi dụng Phật Giáo, đã mượn chùa chiền để làm lợi riêng, khiến cho Đạo Phật càng ngày càng suy. Lại thêm làn sóng văn minh, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, làm cho tôn giáo tín ngưỡng càng lung lay suy sụp.
    Trong tình cảnh đó sự truyền mở đạo của Đức Thầy cũng khó khăn như phải khởi sự từ con số không. Muốn cho chúng sanh hiểu được và có thể thực hành được những điều mình truyền dạy thì việc cần thiết đầu tiên là không nên bắt đầu bằng những điểm cao siêu khó hiểu khó làm. Trái lại khởi sự từ những nét thông thường nhất: đó là tránh những cái xấu, dẹp tánh tham, xa tội lỗi; hãy thương người nhất là đối với những kẻ tàn tật nghèo đói, bố thí giúp đở họ. Nói chung là phải biết làm lành lánh dữ, phải biết thành tâm khẩn nguyện với Phật: phải tin tưởng chân thành và đến với Phật bằng tấm lòng thành đó chớ không phải bằng những chè xôi, tiền của hay nghi lễ linh đình phiền phức…
    Bao giờ chúng sanh quen dần với những nét chánh trên đây, mới bắt đầu đi tới những điểm cao siêu hơn như Tứ Đế, Bát Chánh, Tam Nghiệp… Bởi vậy ta đừng ngạc nhiên khi thấy tại sao Đức Thầy không đề cập tới những điểm then chốt trong Giáo Lý nhà Phật ngay trong những Sấm Kệ đầu tiên của Ngài, mà chỉ nói đến trong các tác phẩm sau nầy mà thôi.
    Những nét thông thường đó lại cũng phải được diễn tả bằng ngôn ngữ thích hợp với người bình dân. Bởi thế Đức Thầy đã bảo :
    Quyết dạy trần nên nói lời thường
    Nhiều nơi đã nói về vấn đề nầy, tưởng không cần lập lại. Ở đây chúng tôi chỉ xin thêm một điểm là ngoài việc xử dụng ngôn ngữ thông thường, Đức Thầy còn dung phương pháp gợi ý, dẫn khởi (Suggerer) bằng những hình ảnh cụ thể, những biểu tượng (symboles) để giúp cho người đời hiểu được dễ dàng. Ngài không khai triển giáo lý bằng suy luận (raison discursive), bằng những ý tưởng trừu tượng, vì như thế sẽ làm cho rắc rối khó hiểu them chớ chẳng ích gì. Chúng ta đừng quên đối tượng mà Ngài nhắm không phải là một ít người có học thức, thông minh, sáng suốt, mà là hầu hết chúng sanh, tức đại đa số những cánh sen gần kề nhưng chưa đến ánh sang.
    Tất cả những điểm trình bày trên đây cho thấy những kỳ diệu trong việc thi hành sứ mạng của Đức Giáo Chủ. Những điểm đó cũng có thể giải đáp được những thắc mắc về chỗ tại sao “có những ý lập đi lập lại, những hình ảnh quá thông thường, những lời lẽ rất bình dân” mà người đọc lần đầu tiên có thể tìm thấy trong Sấm Giảng Thi Văn P.G.H.H. (1)
    (1) Theo tiểu luận của Th Le1mi, Đuốc Từ Bi số 19,20 tháng 9-10-1966

    Chương VI: Sự Canh Tân và Quy Nguyên Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo

    Chấn hưng Phật Giáo học đường
    Dưới trên hòa thuận chọn đường quy nguyên
    Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo Phật, không thể nào nói khác hơn. Bởi người khai sáng mối Đạo nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhiều lần xác định :
    Đạo vô vi của Phật ân cần
    Nối theo chí Thích Ca ngày trước
    Hoặc là :
    Nhìn Phật Giáo mà tìm cái lý
    Coi tại sao ta phải tu hành
    Nhưng đó là một đạo Phật đã được vị Giáo Chủ trong hiện tại làm một cuộc chỉnh Pháp lớn lao. Đã bác bỏ tất cả những thần khải tôn giáo nặng mang cuồng tín, mê vọng, mà dựng lại một nền Đạo có lý trí, vững chắc trong suy tư và giản dị trên hành động.
    Tuy nhiên, muốn hiểu rõ cuộc chỉnh pháp ấy, trước phải trở về cái đáy uyên nguyên của Đạo Phật.

    Cần hiểu rõ Đạo Phật Nhiều người ở đây từng nói tới đạo Phật, cũng như đã nói tới Cao Đài Giáo, Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo. Nhân loại trên thế gian hầu hết nghe qua danh từ Phật Giáo như được nghe danh hiệu của các tôn giáo lớn. Nhưng có lẽ đa số chỉ hiểu Đạo Phật là mối Đạo do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập với một mớ giáo điều đượm mùi tôn giáo, thần học hoặc huyền học.

    Một số người hời hợt, dễ tin, có tâm nhưng thiếu trí, cũng cứ tưởng theo đạo Phật là để chuyên thờ cúng, lễ bái, cầu an, cầu phước và Giáo Tổ của đạo nầy đã chủ trương chấp nhận những nghi thức có tính chất thần hóa và thần kỳ kia.
    Người ta chưa chịu khó để lòng tìm hiểu đạo Phật, nên mới nhìn Đạo qua một nhỡn kính có pha màu như vậy. Thật ra, đạo Phật là một Đạo căn cứ trên nền tảng duy lý, thực tế và chính xác. Không có một sự lập lòe huyền hoặc nào bộc hiện được trong các cuộc thuyết Pháp thật sự của Đức Như Lai.
    Bởi vậy văn minh trí thức, văn minh khoa học của thế giới càng lên cao chừng nào, đạo Phật càng được số người có học tin tưởng, kê cứu. Trong khi nhiều tôn giáo chỉ dựa trên mê tín, trên huyền thoại để tìm đất sống lần lượt bị mất ảnh hưởng trước phong trào tiến bộ khoa học, thì đạo Phật được người ta tin cậy hơn.
    Ta không thể so sánh Đức Phật Thích Ca và những giáo lý thực tế nhưng rất uyên súc của Ngài với các nền đạo học khác. Bởi vì Ngài là một vị Giáo Tổ duy nhứt thời xưa đã mạnh dạn tố giác mọi mê tín ngông cuồng. Ngài đánh thức lương tâm con người giữa đêm sâu mịt mùng nhưng rồi bảo mọi người “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”Ngài không hề buộc một ai tin theo, nghe theo Ngài trong khi họ chưa hiểu rõ Ngài là ai. Đạo Ngài là gì !.
    Trong một cuộc thuyết pháp trước đại đa thính chúng, Đức Gautama đã dạy :”Hãy tự mình làm ngọn đèn soi sáng cho mình, hãy tự mình làm chỗ nương cậy cho tự chính mình. Hãy nắm chặt ngọn đèn sự thật. Hãy nương cậy chắc vào một sự thật, đừng nương cậy điều gì ngoài sự thật”.
    Ngài cũng không bao giờ tự xưng mình là Phật Thành để bắt người ta suy tôn. Nhưng thế nhân đã thấy rõ mọi thể hiện đặc biệt nơi Ngài và đã trịnh trọng xem Ngài là Phật, là đấng Giác Ngộ, là bậc Chí Tôn. Cũng như Ngài không khi nào khuyến dụ mọi người họp quần sau lưng Ngài cho đông đảo đề làm thành mối đạo với ước vọng được thế lực hơn ai. Ngài đã long trọng tuyên bố rằng :”Ta chỉ có thể chỉ con đường cho ai nấy theo”, nhưng con đường sáng đó, một lối về quang đảng cho những tâm hồn thiện nguyện đó là gì, nếu không mệnh danh nó là Đạo?.
    Cho nên người tu Phật hay không tu Phật mà muốn hiểu đạo Phật, điều cần nhất là phải ý thức điểm tiên quyết nầy.

    Mục đích cứu cánh của Phật Hướng nhắm rốt ráo của Phật là cắt đứt mọi khổ đau để mang đến cho mọi người một chân hạnh phúc. Đó là một lối sống, một con đường thực hành, không phải những lý thuyết vu vơ vô ích. Ngài nói với các đệ tử :
    Nầy các tỳ kheo! Đừng nên nghĩ vơ vẫn rằng thế giới nầy hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù cho thế giới nầy là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng thì điều mà chúng ta phải nhận sự hiện hữu ở đời nầy, là những khổ đau: sinh, lão, bệnh, tử”.
    Chính vì quyết nhận các khổ đau ấy nó triền phọc con người một cách khốc hại, khiến “nước mắt của chúng sanh trong ba ngàn thế giới đem dồn lại còn nhiều hơn nước của đại dương” nên Phật mới phải ra tay cứu vớt.
    Người ta sinh ra là để nhận chịu quả khổ. Sống ngày nào là khổ ngày đó. Nhưng chết đi liệu có thoát được khổ lụy không? Phật bảo rằng không. Vì chết đi sẽ lại đầu thai kiếp khác. Ngài đem thuyết luân hồi để chứng minh việc sanh tử, tử sanh không ngừng của con người qua lục đạo. Tại sao có luân hồi? Bởi vì hành vi của chúng sanh trong kiếp nầy sẽ là nguyên nhân cho những việc xảy ra trong kiếp lai sanh. Đó là thuyết nghiệp báo.
    Nếu muốn diệt khổ phải trừ nghiệp báo, vì nghiệp báo là gốc của luân hồi. Muốn dứt nghiệp báo, luân hồi, thì phải diệt vô minh (12 nhân duyên) và biết theo con đường chánh có tâm nẻo ra (bát chánh đạo) mà đi đến nơi thành quả (trì khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo)
    Đó là những điểm cương yếu trong bốn điều tinh túy nhất do Phật thuyết ra và mệnh danh là Tứ Diệu Đề hay Tứ Thánh Đế để đưa người từ dục vọng khổ đau đến nơi lâng lâng, thanh thản.
    Khi tất cả dục vọng, tức phần xấu xa nhất của cuộc đời bị diệt, thì tự nhiên phần tốt đẹp của con người hiện ra, niết bàn cũng theo đó mà đến.
    Những điều khái lược trên đây, tuy quá chật buộc ngắn hẹp, nhưng vẫn nằm trọn trong mục đích cứu cánh của Phật. Vì bình sanh Giáo Lý của Ngài tuy rằng cao siêu, sâu sắc, nhưng bao giờ Ngài cũng chỉ muốn đem điều gọn ghẽ, giản dị để giảng hòa chúng sanh. Bằng cớ rất rõ là một lần Đức Phật cầm trong tay một nắm lá Sinsapa và nói với các đệ tử :
    -Các người xem lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng nầy nhiều?
    -Bạch Thế Tôn, những chiếc lá Ngài cầm trong tay thì ít, mà lá trong rừng thì quá nhiều !
    Rồi Ngài nhân đó giảng giải :
    -Cũng như thế đó, các tì kheo! Những cái ta biết thì rất nhiều, nhưng cái ta đem ra dạy các người thì rất ít. Tại sao ta không đem ra tất cả dạy các người? Là vì những cái ấy không có lợi gì cho các ngươi cả. Chúng không giúp gì cho sự giải thoát cho nên ta không đem dạy các người. Ta dạy các người những gì? Ta chỉ dạy về sự khổ, nguyên nhân cái khổ, sự diệt khổ, và con đường đi đến diệt khổ. Những thứ ấy có ích lợi vì chúng có thể đưa các người đến chỗ giải thoát.
    Chắc không có lý luận nào để làm rõ ràng mục đích của Phật hơn là dẫn ra những lời của Ngài ở trên !

    Đạo Phật bị bày đặt them Giáo lý chân truyền của Phật như đã thấy vốn rất cao thâm mà thiết thực, nó là một triết thuyết nhiều hơn là một tôn giáo duy thần. Chính trong căn nguyên giáo điều của Đức Phật trực tiếp nhiếp hóa, Phật không hề bảo ai tụng kinh, gỏ mõ, dựng tháp, đúc chuông… Nhưng về sau Đạo càng được truyền đi, càng sai lạc. Người ta bày ra nhiều chuyện như hát Phật chạy đàn… lắm kẻ còn bỏ tiền ra để làm những xá mã, cho rằng những vật ấy có công năng bay được về trời mà thưa, xin, cầu đảo phúc đức cho mình v.v….(1)
    Trớ trêu hơn nữa là có nhiều nơi, tượng cốt của Phật Tổ còn ít được dựng lên hơn là tượng cốt của những nhân vật do người đời tưởng tượng mà bày đặt ra, ví như tượng Quan Âm chẳng hạn.
    Có kẻ còn mướn thêu một ngọn cờ, treo ở chùa và tin rằng mỗi lần cờ phất trong gió là tụng được một bài kinh, mà “tụng được một bài kinh” như vậy, là được lên nát bàn (2)
    Còn biết bao điều xa lạc nguyên căn khác do người ta dựng lên và gắn vào nghi thức Giáo điều đạo Phật! Những vụ tụng kinh mướn, những cuộc cầu rỗi với mục đích kiếm tiền nhan nhản khắp nơi, trái hẳn với chủ nghĩa chân chính của Phật không sao kể xiết.
    Thượng tọa Mật Thể, trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, tất nhiên Thượng tọa là người từng ăn nằm trong cửa Phật, sau khi nghiên cứu Phật sử Việt Nam cận đại, đã phải than dài và công bằng mà nhận xét như sau:
    ”Từ trên vua quan cho tới thứ dân ai ai cũng yên trí rằng Đạo Phật là để cúng cấp, cầu đảo chứ không có gì khác nữa. Và phần đông họ chỉ trọng ông Thầy ở chỗ danh vọng, chức tước, mặc dầu ông thầy ấy thiếu học, thiếu tu. Tệ hại ấy làm cho tăng đồ trong nước lần lần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè, đàm trước thanh sắc”.

    Phật Giáo Hòa Hảo đã quy nguyên Phật Pháp

    Tình trạng xuống dốc của Phật Giáo Việt Nam cứ thế mà lụng bại hoài thêm. Trước kia nền quốc giáo đã rực rỡ trên ba trăm năm trong thời Lý, Trần, thì về sau, đến đời Nguyễn khoảng 200 năm. Đạo phải chịu dần dần rơi xuống chỗ tiêu trầm, đọa lạc , bởi trong Đạo thiếu người tài giỏi và những cuộc lấn át tư tưởng mỗi lúc mỗi thêm nặng nề. (3)
    Đến hồi Pháp thuộc, với chánh sách phong tỏa toàn diện, đạo Phật cũng không được phát khai mấy chút. Trong một bài nhan đề : Phật Giáo ở xứ ta vì đâu mà suy đồi,đăng trên Pháp Âm Phật Học (4) ông Hoằng Nhiên đã nêu ra mấy nguyên nhân liệt bại, trong đó có hai điều quan trọng :
    -Phái tăng già ở xứ ta phần nhiều tu mả không học.
    -Người mình hay trọng sự lạy lục cúng dường theo lối mê tín dị đoan.

    Từ năm 1930 đến 1940, nhờ ảnh hưởng phong trào Phật giáo quốc tế , nhất là ảnh hưởng của Phật giáo Tàu do Thái Hư Đại Sư (5) đứng ra cổ võ, Phật Giáo Việt Nammới có dịp hô hào hoằng dương. Tuy nhiên, những tình trạng phân chia riêng chùa Phật, riêng đệ tử và riêng rẽ pháp môn, cùng với chuyện sai đồng khiến quỷ vẫn được mang vào cửa thiền một cách công nhiên, vẫn làm cho đạo khó mà vươn lên khỏi cái bước trung suy được.
    Trước hoàn cảnh đó, Đức Giáo Chủ nhận thấy cần phải làm ngay một cuộc chỉnh lý để quy nguyên Phật Pháp.
    Năm 1939, Ngài mạnh dạn đứng lên bài trừ tất cả những tệ đoan đã làm cho chính nghĩa Phật giáo bị mờ. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng lớn trong Đạo Phật. Những điều cải cách của Đức Giáo Chủ có thể xếp thành hệ thống :

    1.Bài trừ dị đoan mê tín : đồng cốt, bong chàng, xà mã, lầu kho, giấy tiền, vàng bạc.
    2.Bỏ hẳn nghi lễ phiền toái: thầy lễ, thầy cúng, gỏ mõ, tụng kinh.
    3.Giản dị hóa việc thờ cúng: không vẽ hình, đúc tượng, chẳng cúng kiến chè xôi.
    Công việc tu hành theo Đức Giáo Chủ chỉ cần trau giồi trí tuệ, sửa tánh răn lòng, gần lành xa ác và luôn luôn niệm Phật chớ không cần khổ hạnh và cũng chẳng bầy bố cho nhiêu khê phiền toái.
    Vì vậy Ngài mới hô hào :
    Réo những ai lợi dụng làm xằng
    Cho suy sụp chơn nhơn mờ mịt
    Nào có khác mây đen phủ bít
    Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây
    Lấy tinh thần hiệp vén ngút mây
    Trong bổn đạo tự thân phải xử !
    Hồi chuông cách mạng tôn giáo vừa đánh lên, là có hằng triệu người hưởng ứng. Khởi đầu là những cuộc thuyết pháp để vạch rõ những chỗ nào là chân truyền, là cương yếu, mà thật sự xưa kia Đức Phật Tổ đã hoằng dụ vạn dân, chỗ nào là những cái mà người đời sau bày đặt ra để cho Đạo bị xa nguồn và người đời khinh rẽ. Kế tiếp Đức Giáo Chủ sáng tác kinh kệ để minh giải Tứ Diệu Đề, nhiếp hóa phép tu Thiền Định, bàn Tứ Ân giảng Tam Nghiệp.v.v…
    Ngài đã nắm vững thành công trong việc đề xướng một Đạo Phật không thờ cốt Phật, một Đạo Phật không phù thủy hóa, và quay về cội rể bằng một đạo Phật chân truyền của Đức Thích Ca.
    Những điều gì cần phải nói mà Đức Thích Ca đã nói, Ngài đều tùy phong hóa dân sanh phù hạp mà nói lại một cách giàn dị rõ ràng.
    Nếu Phật bảo: “Không biết rõ ta mà bảo là tin ta, tội ấy còn hơn là hủy báng ta” thì Đức Giáo Chủ rạch ròi và thiết thực, đã bảo :
    Trước khi thờ học đạo nào hay ông thầy nào, ta hãy suy gẫm phán đoán kỹ càng, chừng hiểu biết rõ ràng sẽ hành theo (…) Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao ta phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô đạo nhắm ngó mà bài bác, nhạo chê, phỉ báng, và rất uổng cho cái công trình thành kính lễ bái của ta vậy”.
    Nếu Đức Thích Ca đã kêu gọi “ Hỡi các đệ tử! Hãy bãi bỏ tục giết sinh vật để tế tự”, thì Đức Giáo Chủ cũng quả quyết, minh bạch mà rằng :
    “Ta không nên sát sanh hại vật mà cúng thần thánh nào, vì thần thánh không bao giờ ăn hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những kẻ ăn đồ cúng kiếng mà làm cho hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta!”
    Và nếu Đức Phật Tổ xưa kia đã vì nhân loại quyết chí hủy thân cứu chúng mà đại thệ: “Có một chúng sanh nào không thành Phật, ta thề không thành Phật”, thì Đức Giáo Chủ hôm nay cũng quả quyết phát nguyện:
    Thương trần ta cũng ráng thề
    Đặng cho bá tánh liệu bề tu thân
    Tu hành chẳng được đức ân
    Thì ta chẳng phải xác thân người đời !
    Đó là một vài chứng tích điển hình để có thể minh xác việc chỉnh lý và quy nguyên Phật pháp mà Đức Giáo Chủ đã thực hiện hữu hiệu trong thời gian qua.

    Phật Giáo Hòa Hảo đã canh tân Giáo Điều

    Một vài người chưa có dịp biết qua Phật Giáo Hòa Hảo, ngờ rằng Đạo nầy không có một Giáo Lý sâu sắc làm căn bản tu học. Mà thản hoặc có, thì không có gì là vững chắc, mới mẻ, thích thời!
    Ngờ như vậy là lầm.
    Chính nhờ ở cái giáo lý vững chắc của Phật mà Đức Giáo Chủ đã thấm nhuần từ vô lượng kiếp (6) và đã làm một cuộc chỉnh lý lớn để đem giáo lý ấy đúng lại với chân truyền, nên mới làm cho Phật Giáo Hòa Hảo vượt hẳn được cái thần khải tôn giáo mà trở thành một nền đạo có lương tri, duy lý, vững mạnh và thích thường trong cuộc sống nhân loại hôm nay.
    Chẳng những vậy, Ngài còn dung hòa giáo nghĩa của Đức Phật Thầy Tây An với những nhận thức mới của mình mà canh tân phương pháp tu Phật.
    Hơn một trăm năm trước, Đức Phật Thầy Tây An đã :
    Khát thời uống nước Tào Khê
    Đói ăn Ma phạn tối về canh tân
    Thì hôm nay Đức Huỳnh Giáo Chủ suy ra trong giáo lý Phật Tổ cách nay hơn hai ngàn năm và thiên chuyển đi hằng thiên vạn lý từ Ấn sang Tàu, sang Việt, tất có chỗ biến dịch hoặc lỗi thời, cho nên mới xét lại để canh tân lại.
    Chính Đức Phật từng phán dạy:
    “Nầy các tỳ kheo! Chánh Pháp của ta giảng dạy cũng như chiếc bè để đưa người qua biển khổ sanh tử, không phải để cho người giữ chặt lấy!”.
    Vả lại, Phập pháp là bất định pháp , mỗi vị Phật đều có thể tùy theo căn cơ trình độ của tín chúng mà hóa dụ chứ không phải nhứt thiết lập lại những gì của Đức Như Lai.
    Công việc canh tân của Đức Giáo Chủ trước tiên là không thờ tượng cốt mà đặt vào Ngôi Tam Bảo một vật thể tượng trưng. Đó là bức Trần Đỏ. Ngài đã nói :
    Ngôi Tam Bảo phải thờ Trần Đỏ
    Tạo làm chi những cốt với hình !
    Hãy nghe sự giải thích đầy nhân ái và lương tri của Ngài trong sự không thờ tượng cốt.
    Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ Bi mới làm ra thờ phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế chúng ta không có ý hủy báng sự phượng thờ của các chùa chiền. Cách thờ phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng về cư sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa, nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở sự hào nhoáng bề ngoài”.
    Đối với ý nghĩa tấm Trần màu Dà (trước màu đỏ, sau đổi màu dà) nói lên tinh thần vô vi của Đức Phật, Ngài cũng giảng rõ: Màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật.
    Bức Trần Dà tất nhiên ngày xưa trong giáo điều của Phật không có.
    Còn biết bao nhiêu điều “cải mới” khác, như : Đem tính ba Nho, Lão lồng vào Giáo Pháp. Dựng một bàn thông thiên trước nhà làm nơi thanh tịnh trì niệm hầu cách cảm tứ phương. Không chấp nhận việc xây tháp lớn, dựng chùa to. Lạy thì lật ngữa bàn tay chớ không lật sấp. Xá thì không chỉ xá ngay chính giữa Đức A Di Đà mà còn xá cả hai bên để tỏ lòng sùng ngưỡng cả hai vị Quan Thế Âm và Đại Thế Chí v.v….
    Theo Tứ Ân trong kinh điển cũ, thì : Ân Phụ Mẫu, Ân Quốc Vương, Ân Tam Bảo, Ân Chúng Sanh. Nay trong căn bản giáo điều của Phật Giáo Hòa Hảo đã được canh cải: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân tam bảo, Ân đồng bào và nhân loại.
    Những sự thay đổi trên lời văn không đáng chú trọng bằng một điểm cải cách quan trọng trong bốn ân đó, là ân thứ hai. Nếu trong giáo điều trước kia ân thứ hai là ân quốc vương thì ở đây, đã được đổi lại là ân đất nước. Từ sự tôn thờ quân quyền phong kiến đổi sang khuynh hướng bảo vệ quốc gia dân tộc là gì, nếu không phải nói lên một sự canh tân trong Phật Giáo ?
    ***
    Cần phải có một quyển sách dày dặn với những công phu nghiên cứu nhiều hơn mới nói đầy đủ nổi những cải cách lớn lao của Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo.
    Những điều sơ lược vừa trình bày, kẻ cầm bút chỉ với mục đích dựng lên một ý thức, cắm lên những cây nêu, cái mốc, để cho các hàng thức giả có thể y cứ mà phăng tìm, chứ chưa đặt chút kỳ vọng nào ở đây, trong việc tìm đủ và biết đủ của vấn đề.
    (1)Xem Việt Nam Tam Giáo Sử Đại Cương của tác giả Phạm Văn Tươi, xb 1957
    (2) Tham khảo theo Lịch Sử Thế Giới của Thiên Giang và Nguyễn Hiến Lê do nhà Nguyễn Hiến Lê xuất bản 1954
    (3) Cuối đời Vũ Vương, đạo Phật rất đỉnh đốn, lại còn bị lấn át đủ điều. Tả ngoại Trương Phúc Loan là một quyền thần, nhiệt liệt bênh vực các cố đạo và lên án tăng đồ: “Thầy chùa là bọn ngu dốt, trốn sưu lậu thuế, phần nhiều đáng tội treo đầu. Trái lại các cố đạo người Âu là những người thông thái, lại giàu lòng bố thí, trợ giúp kẻ bần nhơn cô quả. Họ trọng nể pháp luật của triều đình” (L Cadiere – Quelques figures de la cour de Võ Vương)
    (4) Số 9, tháng 9 năm 1937
    (5) Đại sư họ Lê người Chiết Giang, từng chu du khắp Âu Mỹ để tuyên dương Phật pháp. Lập Hải Triều Âm và viết được 218 tác phẩm. Tịch năm 1947
    (6) Xem bài “ Sứ Mạng của Đức Thầy” trong Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ



     
    Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 20/1/15
  2. TTT

    TTT Member


    Chương VII: Giáo Lý Căn Bản Phật Giáo Hòa Hảo


    Cầu cho già trẻ gái trai
    Rủ nhau niệm Phật liên đài ắt lên
    Thế gian ngay thảo đáp đền
    Ngày sau sẽ được chăn mềm thơm tho
    Đến một kinh thành hoa lệ, ta phải có bản đồ, nếu không sẽ bị lung lạc bởi vạn nẻo chi li.
    Đi giữa trùng dương diệu vợi, ta phải có la bàn, thiếu nó, sẽ bị trôi giạt long bong trong cảnh bao la trời nước.
    Việc tu cũng thế, nếu không rõ được đường lối nên theo, chắc rằng ta sẽ bị bơ vơ lạc long.
    Kinh nói : “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản”. Nho cũng dạy rằng “Ngô đạo nhất dĩ quán chi”. Trong muôn vạn lời vàng của Đức Giáo Chủ, tuy có khí quyền, khí thiệt, lúc trực giải, lúc lang ngôn, nhưng nếu dụng công tìm hiểu và xếp thành hệ thống, thì ta thấy bao giờ Ngài cũng qui về có một : cải tạo con người trở thành chí thiện, và đưa đến mục đích giải thoát thân tâm.
    Đó là Giáo lý Học Phật Tu Nhân, đó là bản đồ, là la bàn để định hướng cho hành giả nương theo mà không sợ lạc.

    Học Phật (Tu Phước và tu Huệ) Về học Phật, Đức Giáo Chủ nhận thấy trong thời Pháp thuộc, đạo Phật lắm phen bị lấn áp tư tưởng, nền Quốc giáo bị lâm vào tình trạng phân chia riêng chùa, riêng Phật. Đạo pháp mờ lu, tăng sĩ sa đọa vào mê tín dị đoan, những chuyện sai đồng khiển quỉ được mang vào cửa thiền một cách công nhiên, cho nên trước tiên, Ngài chú trọng một cuộc cải cách lớn lao trong đạo Phật như chúng ta vừa đọc ở chương trước.
    Ngài nhận thấy :
    Quá mắc mỏ bởi chưng Phạn ngữ
    Nên người đời khó kiếm cho ra
    Cho nên mới đem những giáo điều căn bản của Phật Tổ như : Tam Nghiệp, Thập Ác, Bát Chánh và Tứ Diệu Đề diễn thành văn vần với những lời văn vô cùng giản dị, nhưng ngọt ngào và ống chuốt, để cho hạng bình dân dễ thuộc dễ theo. Nhờ có cách truyền dạy phổ thông như thế mà biết bao tín điều cao siêu trong Phật Giáo được thấm nhuần một cách dễ dàng và mau lẹ trong hàng cư sĩ tại gia, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.
    Đức Giáo Chủ từng phán dạy :
    Quyết dạy trần nên nói lời thường
    Cho sanh chúng đời nay dễ biết
    Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ cần phải sửa mình là trước nhứt, phải làm sao cho phát triển phẩm hạnh và trí tuệ, đưa con người đến chỗ toàn thiện toàn mỹ chớ không cần chú trọng ở sự phô trương hình thức bên ngoài hoặc nhất thiết phải khổ hạnh trường trai :
    Tu không cần lạy cần quỳ
    Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau
    Và :
    Chay bốn bữa ấy là qui tắc
    Của Kẻ Khùng chỉ dắt chúng sanh
    Sauk hi dọn mình trong sạch để gần được Đạo, để tỏ ngộ bản tâm lần đến giải thoát người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cần phải trau dồi Phước Huệ mà kinh điển thường gọi là Phước Huệ song tu.
    1.Tu Phước : Tu phước là tạo tác phước điền. Người tu Phật cần phải đem hết khả năng của mình mà làm tất cả những việc lành, việc phải.
    Đức Phật từng dạy rằng :
    Chư ác mạc tác
    Chúng thiện phụng hành
    Và Đức Giáo Chủ cũng khuyên:
    “Cái hạnh đạo đúng theo ý nghĩa của nó là làm thế nào thực hiện những đức tính cao cả bằng mọi biện pháp đem lại phúc lợi cho toàn thể chúng sanh. Đó là sự thỏa mãn trong đời hành đạo của mình”.
    Tóm lại, muốn tu phước, người tại gia cư sĩ phải tích cực giúp đời, tham gia công tác xã hội, gieo duyên lành để hưởng lấy quả ngọt về sau.
    2.Tu Huệ : Còn về tu huệ, tức phải trau dồi trí huệ cho tinh minh, vẹt sang màn vô minh che mờ căn trí, có thể khiến ta mãi mãi lăn lộn trong bể trần thống khổ. Mà muốn cho trí huệ thông minh, đắc thành đạo quả, Đức Giáo Chủ dạy phải tu Thiền tu Tịnh.
    Tu Thiền phải tự độ, phải đem sức mình mà độ rỗi, lấy mình nhiên hậu Chư Phật mới gia hộ cho chúng ta. Người tu Thiền nhứt định không được ỷ lại vào tha lực.
    Đức Giáo Chủ há không dạy rằng :
    Coi rồi phải thân mình tự trị
    Chẳng độ xong Phật khó dắt dìu
    Bản tâm của chúng sanh vốn đồng cùng chư Phật, lúc nào cũng tròn đầy sang tỏ như vành trăng trung thu in trên nền trời trong vắt hoặc như ánh bình minh hiện lên giữa không gian xanh sáng, nhưng bởi đám mây mù của con tim vọng niệm phủ che nên phải mê mờ u tối. Nếu phá vẹt được mây, tức huệ nhựt hiện bày tỏ rõ …
    Về điểm nầy, Đức Giáo Chủ trong một buổi vân du thuyết giáo, trời đang quang đảng bỗng nhiên mây kéo phủ xuống một màu đen. Ngài liềng chỉ giữa hư không mà phán dạy :
    Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
    Vạn lý vô vàn vạn lý thiên
    Bởi vậy Hưởng Hải Thiền Sư trong đời nhà Lê đã trả lời cho vua Lê Dụ Tôn khi vua hỏi: “Thế nào là ý của Phật”
    Nhạn quá trường không
    Ánh trầm hải thủy
    Nhạn vô di tích chi ý
    Thủy vô lưu ảnh chí tâm
    Tạm dịch :
    Giữa trời cánh nhạn
    Trong nước bong chim
    Nhạn không còn lưu dấu vết
    Nước chẳng để lại bóng hình
    Như vậy, chúng sanh tự định để lần đến phát huệ và có thể tự dung trí huệ sáng tỏ của mình mà đắc thành Phật quả như Đức Thầy đã dạy là “Nếu lặng tâm tỏ ngộ Đạo mầu”, chứ không phải do cầu mà có (1)
    Còn về tu Tịnh, tức tu theo pháp môn Tịnh Độ, là trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà để nương nhờTừ bi oai lực nhiệm sâu hầu có Độ con thoát chốn ưu sầu trần ai.
    Sự trì niệm nói trên, phải thành khẩn thiết tha, niệm cho đến chừng nào nhất tâm bất loạn mới đạt được kết quả.
    Đức Giáo Chủ có nói :
    Môn Tịnh độ là phương cứu cánh
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa
    Và Ngài dạy rằng :
    Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu
    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp
    Hoặc là :
    Muốn niệm Phật bất cần sớm tối
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà
    Thì hiền lương quên mất điều tà
    Được hạnh phúc nhờ lòng cố gắng
    Nhờ có cố gắng, tâm trí sẽ bình tỉnh an nhiên, diệt được ma trọc phiền não, và cõi tịnh độ sẽ thể hiện trước mắt ta một cách chân thực vậy.
    Bởi rất tin vào môn Tịnh độ, cổ nhân từng bảo :”Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu niên nhân”. Sở dĩ Đức Giáo Chủ dạy cả hai phép Thiền Tịnh là để dễ bề hóa độ tất cả mọi người, bởi vì với hai pháp môn nầy, dù cho trình độ cao thấp thế nào, nếu quyết tâm là có thể làm theo được.
    Thật vậy, nếu mọi người vừa tự tu tự luyện than tâm, vừa chuyên trì niệm Phật để nương nhờ sự gia hộ của Đức Phật thì việc tu hành không khác gì cánh buồm no gió con thuyền nước xuôi, kết quả sẽ dễ dành thu hoạch.
    Tu Nhân (Xử thế và Tứ Ân)
    Trên đây là phần học Phật mà tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo luôn luôn chuyên trì tu niệm, nhưng ngoài việc học Phật, họ còn phải tích cực tu Nhân.
    -Tại sao ta phải tu Nhân? Tại sao con người Phật tử đã theo Phật rồi, lại không xuất gia, rời thế gian để đi thẳng vào cõi giải thoát mà còn làm việc đời, còn bận bịu trần ai?
    Đó là câu hỏi mà có lẽ nhiều người còn băn khoăn khi đứng giữa hai nẻo đường đời và đạo.
    Cổ nhân có câu “Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo, nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hĩ”. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy rằng :
    Tu đền nợ thế cho rồi
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
    Như vậy, chúng ta đã được thấy rằng :”Phật đạo bất ly thế gian”. Bởi vì lìa đời, Đạo còn cải sửa cho ai, và một khi đã không được cải sửa thì xã hội nầy sẽ ra sao? Cho nên Đức Giáo Chủ đã nhiều phen ân cần nhắc nhở :
    Đòi không đạo đời vô liêm sỉ
    Đạo không đời đạo biết dạy ai
    Vì vậy mà trong việc tu nhân, điều trước tiên là phải tu thân xử kỷ, Ngài khuyên mọi người nên dứt bỏ những cổ lệ lỗi thời, những tập tục hủ bại để rồi “ rán giữ gìn phong hóa nước nhà”.
    Đức Giáo Chủ với lời lẽ ôn hòa lưu loát bàng bạc trong Thi văn. Ngài dạy, tín đồ rạch ròi từ chân tóc kẻ răng, nào cách ở ăn với xóm giềng, việc xã giao trong hương đẳng, rồi tình bè bạn, nghĩa thầy trò, đạo chồng vợ… Tất cả những tình ba trong nho giáo cũng như những giáo điều xử thế tiếp vật của Phật giáo. Ngài đều đã rút tỉa và giảng dụ cho tín đồ. Ngài đã quan niệm một xã hội an lạc tại thế gian, một xã hội mà trong đó toàn là con người chân thực với sự phát triển tột độ về than tâm:
    Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng
    Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc
    Ngoài ra, người cư sĩ tại gia còn có bốn trọng ân không thể nào không đền đáp được. Bốn trọng ân đó là :
    -Ân tổ tiên cha mẹ
    -Ân đất nước
    -Ân tam bảo
    -Ân đồng bào và nhân loại
    1- Ân Tổ Tiên Cha Mẹ: Cây có cội, nước có nguồn. Thân xác nầy có được là nhờ đâu nếu không phải nhờ ở tổ tiên cha mẹ ?
    Cổ nhân có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”.Con người nếu không gìn hiếu đạo thì dầu họ không tự tủi hổ với lương tâm, cũng bị mọi người khinh khi xa lánh.
    Theo Đức Giáo Chủ thì hiếu đạo chẳng những chỉ “chăm lo nuôi dưỡng báo đền” mà còn phải làm sao cho cha mẹ được luôn luôn yên lòng đẹp dạ nữa.
    Một hôm, có một môn đệ hỏi Đức Giáo Chủ rằng : Thầy có dạy :
    Nếu ai biết chữ tu trì
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn
    Nhưng con thấy có người lo cho cha mẹ uống ăn no đủ, mà trái lại, họ thường làm phiền cha mẹ thì có nên không? Đức Giáo Chủ liền đọc cho tín đồ kia nghe hai câu trong Sấm Giảng :
    Ở cho biết nhượng biết tùy
    Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
    Rồi Ngài giảng tiếp rằng : “Người con hiếu không chỉ làm chữ hiếu như Tử Lộ mà còn phải có được cái hiếu của Tăng Sâm.
    Thì ra, Tử Lộ người Xuân Thu, học trò Khổng Tử, rất có hiếu. Thường đường xa đổi gạo để kiếm tiền nuôi mẹ. Được liệt vào một trong nhị thập tứ hiếu của Tàu. Nhưng tính Tử Lộ cương cường, đôi khi làm cho mẹ vì con mà lo sợ buồn khổ. Lúc ông được làm quan phú quí thì mẹ đã mất, ông hằng than thở : Ta không còn được đội gạo để nuôi mẹ nữa. Còn Tăng Sâm là con của Tăng Tích, mỗi bửa cơm đều có rượu thịt dâng lên cho cha. Mỗi khi ăn xong dẹp mâm xuống, ông còn hỏi cha : “Đồ ăn thừa nên cho ai?”. Làm như thế Tăng Tử muốn cho cha được vui lòng, vì còn của dư, có thể đem cho người khác. Mạnh Tử khen Tăng Tử biết nuôi cha phải đạo, ông không những nuôi cha về thể xác mà còn nuôi dưỡng tâm trí cha nữa.
    2.Ân Đất Nước : Sanh ra con người nhờ tổ tiên cha mẹ, nhưng sống được là nhờ tất đất ngọn rau. Một dải giang sơn ta ở đậu phải tự nhiên có được mà phải do công lao tranh thủ không ngừng của các bậc tiền bối tự nghìn xưa :
    Bắc Nam một giải san hà
    Mồ hôi giọt máu ông cha ta bồi
    Cho nên bổn phận công dân là phải bảo vệ đất nước. Bởi vì : “Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên , quốc gia mạnh giàu than ta mới ấm”.
    Vì quan niệm như trên, nên Đức Giáo Chủ đã tự mình thực hiện cứu quốc bằng cách “Rứt áo cà sa khoác chiến bào”. Ngài đã cất tiếng buồn than khi non song nghiêng ngửa :
    Yêu nước bao đành trơ mắt ngó
    Thương đời chưa vội ẩn non cao
    Và Ngài đã quả quyết lên đường cứu quốc :
    Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa
    Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha
    Việc cứu nước chỉ là một phương tiện được áp dụng trong một giai đoạn bảo vệ quốc gia, đồng bào và bảo vệ tín ngưỡng mà thôi. Khi nước nhà an lạc, người Phật tử liền trở về vị trí tu hiền để được vào cõi siêu hình, giải thoát :
    Đền xong nợ nước thù nhà
    Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô
    3. Ân Tam Bảo : Tam Bảo tức Phật, Pháp, Tăng. Có Phật mới có Pháp, nhờ Phật mà chúng sanh mới có người được chuyển mê thành ngộ, cho nên không Phật tử nào được quên ân Phật. Biết ân Phật, người Phật tử lại phải thực hành các Pháp mà Phật truyền dạy, vậy Pháp bảo là món báu vô song. Đến như Tăng là hạng người giử Pháp và truyền bá các Pháp cho người đời hiểu rõ. Cho nên người Phật tử cũng cần tôn trọng các tăng nit u hành chân chính để cho Phật Pháp được truyền thụ lâ dài.
    4. Ân Đồng Bào và Nhân Loại : Con người khi lọt lòng mẹ, đã phải chịu ơn của những kẻ xung quanh. Càng lớn lên, con người càng nhờ nhỏi đồng bào nhiều hơn nữa. Do đó, mọi người phải biết ơn đồng bào, bởi vì không một ai có thể đứng lẻ loi một mình mà sống được. Vì cảm nghĩa đồng bào mà năm 1946 trong bài “Tiếng chuông cảnh tỉnh” Đức Giáo Chủ đã truyền phán :
    Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống
    Tha thứ nhau để sống cùng nhau
    Quí nhau từng giọt máu đào
    Để đem máu ấy tưới vào địch quân
    Ngoài đồng bào ta còn phải nghĩ tới nhân loại trên mặt địa cầu.Nếu không có nhân loại chúng ta sẽ không đủ vật liệu cần dung, ta sẽ thiếu người giúp đở khi có thiên tai, địa ách. Những cuộc cứu trợ của ngoại bang trong thời kỳ lụt lội miền Nam 1961 và thiên tai miền Trung năm 1964, há không phải là điều mà ta đáng ghi ân nhân loại hay sao?
    Vậy muốn tròn nhân đạo, phải giữ tứ ân mà người tu Phật như chúng ta, nếu không đền tứ ân, nghĩa là ta muốn ly thế gian, không chịu lo tròn nhân đạo, thì khó mong đắc thành đạo quả.
    Người tín đồ nhà Phật, khi làm tròn nhân đạo thì tự nhiên đã tiến được nhiều phần trên đường giải thoát. Vì khi tận tâm phục vụ Đạo Đời, chúng ta đã dẹp được ích kỷ tham lam thể hiện từ bi bác ái.
    Đức Phật Thích Ca có thuyết : “Nếu ai thọ trì theo phẩm báo tứ ân thì sẽ được siêu việt sanh tử, có mặt trong Long Hoa Hội và sẽ được giải thoát.”

    Tổng quan, căn bản giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo là dắt người từ mê si tăm tối trở về con đường lành, lo tròn nhân đạo để xây dựng một thế giới hòa hảo, an vui. Và sau khi làm xong nhân đạo, con người sẽ tự nhiên tiến đến diệt trừ vọng niệm, ái dục, để tỏ ngộ bản tâm hầu có giải thoát.
    Trên hết mọi phàm nhân, Đức Giáo Chủ là hiện thân của nhân đạo, của công bằng, của từ bi và bác ái. Ngài đã hòa quang đồng trần để hướng khách trần gian tiến về nơi quang minh đỉnh.
    Người ta không thể tìm thấy nơi Ngài một khuyết điểm nào, những giáo điều mà Ngài ban bố cho chúng sanh, chính bản thân Ngài đã thực thi đầy đủ.
    Nhờ phương pháp phổ độ rất thích hợp và nhờ có căn bản giáo lý vừa vững chắc vừa hợp lý hợp tình qua lời văn thông thường êm đẹp, Đức Giáo Chủ đã nắm được thành công lớn lao trong một thời gian kỷ lục.
    Hơn một phần tư thế kỷ trước đây, Ngài đã nhận định là cần phải lấy nông dân Việt Nam làm trọng tâm cứu khổ và làm xuất phát điểm gương mẩu cho nông dân thế giới, thì gần đây người ta mới chú ý tới và nhận rằng điều ấy là quan trọng. Nội bấy nhiêu đó tưởng cũng đủ cho chúng ta suy gẫm về sự thành công trên bước đường truyền giáo của Ngài.

    Chương VIII: Tinh Thần Khổng, Lão Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo

    Diệt tà lập chánh đành rành
    Ba màu nắm chặt Nam thành xử phân
    Trong Tam Giáo ân cần mở Đạo …
    Như chúng ta đã hiểu một cách rõ ràng qua các chương trước, Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo Phật, do đó, những gì là chân truyền của đạo được Đức Thích Ca đề xướng, đều được Đức Giáo Chủ khai phục và hoằng dương. Tuy nhiên, để cho phù hòa với tính chất dân tộc và phát huy Phật pháp một cách hữu hiệu trong thời kỳ chúng sanh cơ duyên thiển bạc, Đức Thầy đã bao gồm thêm tinh ba Khổng Mạnh và ý thức Lão Trang trong giáo lý của Ngài.
    Người có chút ít kiến thức, ai cũng biết nước Việt trải qua thời văn hóa cực thịnh Lý, Trần, khoảng non 400 năm, là thời kỳ Tam Giáo thịnh hành. Sĩ phu bấy giờ đều nghiên cứu, tinh chuyên ba nền học thuyết xuất phát tại Ấn Độ và Trung Hoa. Cả đến lệ thi cử, cử tử có lúc phải thi ba môn Phật, Lão, Nho. Bởi vậy ảnh hưởng của Tam Giáo đã ăn sâu vào tâm hồn dân chúng ngay từ ngày ấy (1).
    Lại nữa, thói thường cho rằng Thánh thể hiện đạo Khổng, Tiên thể hiện đạo Lão, Phật thể hiện đạo Thích. Nếu quan niệm rằng đạo Nho là bước nhập môn vào giáo thuyết Phật Giáo Hòa Hảo (tu Nhân) thì có thể nghĩ rằng đạo Lão chuẩn bị một tác phong siêu thoát để tiến lên mức căn bản là đạo Phật (học Phật). Con người tuyệt đích của Nho Giáo là Hiển Thánh ở thế gian, nhưng vượt khỏi phạm vi thế gian mà chưa tiến cao đến trình độ Phật, chính là bực Tiên Phong Đạo Cốt
    Cho nên, với kinh nghiệm và tư tưởng riêng của Ngài, Đức Giáo Chủ đã quy căn vào bản sắc và nền tảng dân tộc để làm cho Phật Giáo Hòa Hảo trở thành một tôn giáo có sắc thái và đặc tính Việt Nam. Và cũng chính thế mà các nhà xã hội học, các sử gia và Văn học sử gia đã nhìn thấy Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo dân tộc.

    Vị trí Khổng Mạnh trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Việc tu Nhân học Phật trong pháp môn tu chứng của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo khiến họ trước hết phải “nhập cuộc” với đời, để xử thế tiếp vật và hành xử tứ ân thế nào cho phải, chớ không được ly cách thế gian. Bởi “muốn về cõi Phật” phải “lập thân cõi trần” và nếu muốn giải thoát cho thân hậu, thì ngay ở nhãn tiền phải đền bù sao cho xong nợ.
    Công việc “đền nợ thế” theo nếp sống quen thuộc của người dân Việt, thường được khuyến khích theo mẫu người Nho giáo, nay mặc dù bị lu mờ, nhưng ảnh hưởng vẫn chưa dứt. Chính thế mà vị trí của Khổng học được đặt vào một nơi trong tòa nhà Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo để dễ bề cổ võ, chấn chỉnh lại một xã hội đã quá suy đồi. Nào như :
    Ở thị thiềng đua chen xướng khởi
    Những tuồng hư cho bọn gái lẫn trai
    Nào hút thuốc phiện hội ve chai
    Nào trùm đĩ ma cô nghề hút máu
    Ai để mắt xem đời chu đáo
    Chẳng khỏi than giùm dân tộc quá hư hèn
    Diện áo quần son phấn lấn chen
    Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa
    Mãng điểm tô huy hoàng nhà cửa
    Ai khốn cùng để mặc đất trời xây
    Bức tranh thác loạn ấy còn được vẽ lên một cách gớm ghiếc hơn nữa :
    Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân
    Nào kể chi là đạo quân thần
    Tôi giết chúa con đành sát phụ
    Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ
    Trò giết thầy tội ấy đáng không?
    Thêm chồng giết vợ vợ giết chồng
    Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé
    Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ
    Giành của tiền cốt nhục giết nhau
    Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào
    Tình nhân loại phân chia yểm bách.

    Vị trí Nho giáo thường được thấy bàng bạc nhiều nơi trong Kinh kệ hoặc Thi ca của Đức Giáo Chủ.

    Có khi với tính cách hô hào mọi người làm theo:
    Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh
    Sách thánh hiền dạy đạo làm người
    (Kệ Dân)
    Trung Dung khuyên đó noi gương Khổng
    (họa lại bài Ông Nguyễn Thanh Tân)
    Noi chí Thánh Hiền tìm cội cũ
    (tặng ông Nguyễn Kỳ Trân)
    Có lúc với tính cách dẫn dụ :
    Đức Khổng Thành người sanh nước Lỗ
    Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ
    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du
    Lúc thập bát chư hầu rối loạn
    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Nghèo Thầy Nhan bầu nước đai cơm
    Tùy cơ hàn mà được danh thơm
    (Sa Đéc)
    Và có khi như nhắc nhở cho mọi người cùng nhớ lại :
    Sách Thánh đạo ghi trong Tam Tự
    Người mới sanh tánh thiện trời dành
    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Thánh nhơn ghi sách Trung Dung
    Hiền nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay
    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    Chữ Thánh Hiền mới được nôm na
    Ta thỏa chí hô hào trung nghĩa
    (Nang thơ cẳm tú)
    Vị trí của Khổng Giáo, như đã thấy trên đây là được đặt vào một nơi trong tòa nhà Giáo Lý Phật Giáo Hào Hảo, chớ nó không hề được tổng hợp đồng đều trong tinh thần Tam Giáo. Điều đó rất dễ hiểu là vì chỉ có đạo Phật mới là căn bản chính yếu cho tôn giáo nầy. Mà cứu cánh của Phật là giải thoát, là nát bàn, chứ không thể dừng lại ở nếp sống của mẫu người hiền nhân quân tử theo khuôn thước đạo Nho.

    Giáo thuyết Nho Giáo trong Phật Giáo Hòa hảo

    Nếu vị trí của Khổng Giáo được xác định như trên, thì giáo thuyết của Nho học cũng chỉ được hạn cuộc trong một giới ước cải thiện con người trong cái sống mẫu mực ở cõi trần hoàn nầy. Bởi vì người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo dù phải gánh vác việc đời, phải chống đỡ quốc gia trong cơn lâm biến, nhưng tâm tư của họ lúc nào cũng khoắc khoải ước mong cuộc đời được hiến dâng trọn vẹn cho Chánh Pháp. Họ làm xong nghĩa vụ con người tại thế gian không phải để thỏa mãn mục đích trị quốc, bình thiên hạ như con người Nho giáo, mà chỉ là để tạo điều kiện cho sự giải thoát hoàn toàn.
    Những tinh hoa của Nho giáo như tam cang, ngũ thường, tam tùng, tứ đức, hằng được Đức Giáo Chủ nhắc tới để khuyên dạy tín đồ làm theo. Ngài đã bất chấp sự bài xích của một số người phi đạo :
    Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng
    Tam cang trung trực người rằng ngu si
    Để rồi trong Tám Điều Răn Cấm thuộc giới luật Phật Giáo Hòa Hảo, Ngài đưa ra điều răn chừa và nên làm thứ nhứt là :
    Ta không nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm và phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.
    Về những gì gọi là Ngũ Luân gồm có Tam Cang, Ngài đã dặn dò tế nhị:
    Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ
    Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương
    Đạo cha con chặt chẽ chữ miên trường
    Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác
    Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác
    Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì
    Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri
    Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá
    Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã
    Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.
    Còn nói đến ngũ thường:Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Đức Giáo Chủ cũng có đề cập, Ngài đã giảng giải từng điều một rải rác trong các tác phẩm văn xuôi và văn vần của Ngài. Đại khái có thể nói gọn lại :
    Phận làm người hiếu thảo noi gương
    Ấy chẳng qua là đạo luân thường
    Riêng về tam tùng, tứ đức qua bổn phận của người đàn bà, Đức Thầy cũng không quên nhắc tới :
    Lớn lên phận gái cần chuyên
    Làm ăn thì phải cho siêng mới là
    Phải gìn dục vọng lòng tà
    Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân
    Nghe lời cha mẹ cân phân
    Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy
    Và :
    Đi thưa về cũng phải trình
    Công dung ngôn hạnh thân mình phải trau
    Nếu xưa kia các Nho giả thường xem sự thái bình thời Thuấn, Nghiêu là một thiên đàng, cho cách “Nghiêu Thuấn trị dân gia vô bế hộ” là một chánh sách tuyệt hảo, thì người ta cũng quan niệm rằng con người của Thuấn Nghiêu là mẫu người điển hình tuyệt mỹ : “Nhân phi Nghiêu Thuấn yên năng mỗi sự tận thiện:. Và theo đó, xã hội Thuấn Nghiêu đã được coi là một xã hội lý tưởng nhất.
    Thế nên muốn hướng dẫn tín đồ từ ác trở về thiện, từ thấp lần lên cao, Đức Giáo Chủ đã giản dị hóa những cái gì cao xa và viển vông, khiến người xem và người nghe chợt tỉnh một cách mau lẹ, Ngài viết :
    Thuở xưa thời buổi Thuấn Nghiêu
    Thái bình thịnh trị mến yêu khắn tình
    Hay là :
    Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu
    Lòng hiền đức nào ai có biết
    Ngài lại còn khuyến khích mọi người tích cực nhập thế để đem tài đức ra phục vụ Đạo và Đời, làm sáng danh hàng tu mi nam tử :
    Chí quân tử lòng nhơn vạn đại
    Dốc làm cho rõ mặt tang bồng
    Nghiêng hai vai gánh nặng non sông
    Vớt trăm họ lầm than bể khổ
    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Sống làm cho vẹn chữ tu mi
    Sống vùng vẫy râu mày nam tử
    (Nang thơ cẩm tú)
    Nhận thức như vậy, chúng ta sẽ thấy rõ dụng ý của Đức Giáo Chủ là dùng tinh hoa Nho giáo để hướng dẫn tín đồ trong phần nhập môn., vì dân tộc Việt Nam từ xưa đã quen biết nhiều với đạo lý Khổng Mạnh, họ không còn lạ lùng gì mấy khi bước vào cửa đạo để đi từ gần đến xa, hầu có làm tròn đạo tu Nhân trong pháp môn thích ứng là tu Nhân học Phật.

    Vị trí Lão Trang trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Bên cạnh sắc thái quân tử nhập thế của Khổng giáo, người Việt còn hấp thụ thêm một sắc thái xuất thế vô vi của Lão giáo.
    Khổng giáo tích cực nhập thế, thì Lão giáo cũng tích cực xuất thế. Thoạt nghe qua tưởng chừng như hai mẫu người nầy chống đối nhau, không đụng nhau được. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng hai mẫu người ấy đã hòa hợp nhau để bổ túc cho nhau một cách kỳ diệu.
    Hoạt động của con người, nhất là con người Á Đông, không phải lúc nào cũng chăm lo giải quyết nhu cầu vật chất như Tây phương. Một phần thì giờ còn phải dành cho đời sống nội tâm để di dưỡng tính tình, thanh thoát ra khỏi ràng buộc thực tế. Những lúc mình đối diện với chính mình trong đời sống nội tâm, con người Việt đã hồn nhiên thả hồn theo gót Lão Trang mà phiêu diêu trong thế giới nội tại. Mình vui thú với mình, mình sống với con người thật của mình.
    Để chuẩn bị một tác phong siêu thoát, một tinh thần phóng khoáng vượt khỏi những gì được xem là ô trọc ở trần gian, hầu tiến lên cõi Phật, Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cũng đã đưa vị trí của Lão Trang qua thể hiện Tiên cách trong Sấm Giảng của Ngài:
    Rán kiếm chỗ tầm Tiên lánh tục
    Người ở đời phải được lòng trong
    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Khuyên bá tánh tầm Tiên rời tục
    Chỉ mây trời bày tỏ việc về sau
    (Trao lời cùng Ông Táo)
    Một mai thấy được non Bồng
    Cảnh Tiên rực rỡ mây rồng đẹp thay
    (Từ gỉa làng Nhơn Nghĩa)
    Vị trí của Lão Trang – tiên phong đạo cốt – được hiện diện trong Thi Văn Sấm Giảng PGHH cũng chỉ đóng một vai phụ mà thôi. Nó chỉ là sự góp phần thanh thoát, phá bỏ những ràng buộc, những tham vọng vật chất mà con người quân tử của Nho Giáo có thể có, để đưa người ta đến cái đích cứu cánh là con đường siêu thăng lên bờ chánh giác, tức viên thành Phật quả.
    Ảnh hưởng Lão Trang trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Người Việt từ xưa, qua những hồi lăn lóc trong bể lợi danh, quá mệt nhọc trên trường khoa hoạn, thường ưa thích những phút giây thư thái tâm hồn. Những Đạo Đức Kinh củaLão Tử, Nam Hoa Kinh của Trang Tử, đã làm cho tâm hồn họ lâng lâng không ít. Một Nguyễn Công Trứ với con người của khuôn rập Nho gia, đã chẳng khỏi ảnh hưởng Lão Trang cuốn hút :
    Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
    Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
    Đám phồn hoa trót bước chân vào
    Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết!
    (Thoát vòng danh lợi)
    Một Cao Bá Quát đầy tự phụ và cao ngạo, cũng chán ngấy trần gian không kém ông Trang, ông Lão :
    Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
    Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
    Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
    Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
    (Ngán đời)
    Rồi Nguyễn Trãi với trạng thái tiêu dao, gởi hồn vào những câu hát trên núi Côn Sơn, Trạng Trình với “Một mai một cuốc một cần câubên bờ Tuyết Giang và Nguyễn Thiếp với đôi mắt mơ huyền nhìn ngàn Thiên Nhận, núi Thiên Nhận mà lãng quên thế sự thăng trầm… đã dư đủ để nói về ảnh hưởng của Lão Trang trong giới sĩ phu thời cổ.
    Bởi vậy, để đưa người từ vẹn đạo tu Nhân, tiến sang quả vị thành Phật, Đức Giáo Chủ đã khơi lên ý thức Thần Tiên tức là gợi ý thoát tục cho con người dần dần tiến mãi.
    Cái phong thái xuất thế cầu nhàn được mô tả như là đẹp nhất và an ổn nhất cho tâm hồn để lần lên bờ giải thoát. Ta hãy dò theo ngòi bút của Đức Thầy.
    Khi thì như chơi vơi trong cảnh mây bay gió thoảng, trời rộng non cao…
    Ngồi trên đảnh núi liên đài
    Tu hành tầm đạo một mai cứu đời
    Lan thiên một cõi xa chơi
    Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng
    Hiu hiu gió thổi lạnh lùng
    Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai
    Mùa xuân hứng cảnh lầu đài
    Lúc còn xác thịt thì tài hùng anh
    Tứ vi mây phủ nhiều đoanh
    Bồng lai một cõi hữu danh chữ đề
    Kể từ Tiên cảnh ta về
    Non Bồng ta ở dựa kề mấy năm…
    Lại có hồi như băn khoăn ray rứt, nhưng vẫn tịch mịch thoát trần…
    Trí thần nhờ đến tiếng quyên
    Gọi hồn cố quốc sầu riêng một mình
    Trầm ngâm vẻ mặt làm thinh
    Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say
    Mơ tiên hồn muốn vụt bay
    Và cũng có lúc như nhàn nhã thong dong, say mê theo những cuộc cờ tiên, câu thơ thần, chung rượu thánh…
    Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh
    Chén quỳnh tương gác điều gai ngạnh
    Vui tinh thần bày biện cuộc cờ
    Khi thứa nhàn trổi giọng ngâm thơ
    Bày thi phú than qua thời thế…
    Chúng tôi đã có dịp nói rằng sự hiện diện của Khổng và Lão trong Phật Giáo Hòa Hảo không phải là sự tổng hợp đồng đều, mà chỉ là một phương tiện. Phương tiện đưa dần từ bước nhập môn tu Nhân, lần lên ý thức thoát tục, để rồi tiến dần đến học Phật cho giác hạnh viên mãn. Tuy vậy, trong kinh kệ của Đức Thầy, thỉnh thoảng Tam Giáo được nhắc đến theo trình tự kề nhau, như có ý khuyên người lần dò theo mà đi đến đích:
    Trên non Tiên văng vẳng tiếng phụng hoàng
    Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc
    (Không buồn ngủ)
    Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải
    Những ước ao thế giái hòa bình
    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Tu là tu Phật tu Tiên
    Tu cho rõ biết chữ Hiền ra sao
    (Viếng làng Mỹ Hội Đông)
    Đến đây, sau khi đã biết là Đức Thầy thường dùng các phương tiện để độ rỗi chúng sanh, chúng ta mới không thấy làm lạ khi đọc kinh sách Phật Giáo Hòa Hảo mà thấy có các danh xưng Vua, Chúa, Tiên, Thần, Trời, Thánh… Người ta đã mắc phải những lầm lẫn lớn khi đọc vội vả và hiểu vội rằng Ngài có tư tưởng bảo thủ, hoặc chấp nhận những gì trái với triết học duy lý của Đức Thích Ca.
    Không. Bằng những phương pháp hoặc suy diễn hoặc quy nạp tùy lúc, Đức Thầy đã thoát khỏi sự cậu nệ thường tình để có khi chú trọng vào tinh thần hơn là kinh điển, có khi chỉ lưu ý đến một hình ảnh điển hình và cụ thể để dẫn giải một sự kiện siêu hình, miễn làm sao cho dễ nghe dễ hiểu để đạt được cái lý là đủ.
    Trở lại vấn đề dung nạp tinh hoa Nho giáo và tư tưởng Đạo giáo trong Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta có thể xác nhận rằng đó là sự “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp” để làm cho xuôi đường thuận cảnh dẫn dắt chúng sanh và để quy căn vào bản sắc dân tộc chớ tuyệt nhiên không phải để cải sửa lại bất cứ điểm nào trong Giáo lý chơn truyền của Đức Thích Ca Mâu Ni (2)

    (1)Xem Việt Nam Tam Giáo Sử Đại Cương của tác giả Phạm Văn Tươi xb 1937
    (2)Xem thêm bài của Thành Nam: Nho Giáo trong Giáo Thuyết PGHH, Đuốc Từ Bi số 19-20 tháng 9-10, 1966 và Tinh Thần Lão Giáo trong Giáo Lý PGHH, Đuốc Từ Bi số 21, tháng 11, 1966

    Chương IX: Tinh Thần Cách Mạng Quốc Gia trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Tranh độc lập tự do cho nước
    Cho giống nòi rạng rỡ trước năm châu
    Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo mà trong Giáo lý có pháp giáo tứ ân. Theo đó thì ngoài các ân tổ tiên cha mẹ, ân tam bảo, ân đồng bào và nhơn loại, ân đất nước được liệt vào hạng bậc thứ hai. Chính Đức Giáo Chủ đã giảng về ân đất nước như sau:
    “Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị xâm lăng giày đạp. Ráng nâng đỡ xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo và làm cho được trở nên cường thạnh. Ráng cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.
    Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải ráng tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước. Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy”.
    Vì quan niệm đất nước liên hệ mật thiết với sự sống còn của công dân bất luận người lương kẻ đạo, nên Đức thầy ngoài việc cải tạo tôn giáo, cải tạo tâm lý, cải tạo xã hội giữa thời kỳ nước Việt đang bị băng hoại mọi mặt, Ngài còn chủ trương tích cực bảo vệ đất nước giữa lúc đất nước bị xâm lăng thống trị và gây tin tưởng về tương lai trong sự cải tạo một quốc gia độc lập hùng cường, để cho mọi người đều hưởng được mọi công bằng và hạnh phúc.

    Tư tưởng cách mạng thoát thai từ đạo Phật

    Tư tưởng cách mạng vừa nêu ở đoạn trên thoát thai từ Giáo Lý của Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tuyên bố tỏ rõ trên nhật báo Quần Chúng, số ra ngày 14-11-1946, như sau:
    “Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật, một chiến sĩ trì chí của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, sẵn sàng cùng đoàn thể mình cương quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương quyết tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chung cho nòi giống...
    Đối với toàn thể tín đồ Phật giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca, tôi tin chắc rằng Giáo Lý giải thoát chúng sanh chẳng những được truyền bá ở chốn thiền lâm mà còn phải thực hiện trên trường chánh trị”.
    Song song với bổn phận báo ân đất nước Đức giáo Chủ còn chủ trương cách mạng xã hội để phụng sự một cách đắc lực cho đồng bào và nhân loại mà Ngài đã có dịp nêu ra trong phần sau hết của tứ đại trọng ân.
    Ta hãy đọc qua một đoạn trả lời của Đức Giáo Chủ tại chiến khu miền đông, trong một cuộc phỏng vấn của báo Nam Kỳ do lý giả Hồn Quyên phụ trách, số ra ngày 29-11-1946 tại Sài Gòn, khi Ngài được hỏi về lý tưởng chánh trị của Ngài có liên quan với Giáo Lý nhà Phật không:
    “Theo sự nhận xét của tôi về Giáo Lý nhà Phật do nơi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng lấy chủ nghĩa từ bi bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng; vì những câu “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình đẳng với chúng sanh”. Đã có những sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhân gian này còn có chúng sanh tiền tiến áp bức chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với những Giáo Lý chơn chánh ấy. Giáo Lý đó, Đức thích Ca Mâu Ni không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã hội của Ấn độ xưa không thuận tiện. Thế nên Ngài chỉ phát dương cái tinh thần đó mà thôi. Ngày nay, trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mực khả quan, đồng thời với tiến bộ về khoa học thì ta có thể thực hành Giáo lý ấy để thiệt hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo. thế nên với cái tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thự, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại”.

    Các hoạt động cách mạng quốc gia và tinh thần dân chủ xã hội của Đức Thầy

    Bởi theo đuổi chủ trương Phật đạo vì nhân sinh mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiếp tục theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương, nên Ngài đã bằng mọi phương cách, đứng lên thể hiện tình yêu thương rộng lớn của Ngài đối với chúng sanh qua việc cứu nước và báo ân cho đồng bào nhân loại. Hoài bảo ấy của Ngài, đã được biểu lộ trong những vần thờ đượm thắm tình yêu:
    Ta đã mang một khối tình
    Dường như thệ hải với sơn minh
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh.
    Cũng bởi tình yêu tràn ngập cả nhân loại chúng sinh ấy mà Đức thầy không nỡ ngồi yên để nhìn dân nhìn nước mình đang chịu thảm họa xâm lăng đè nặng trên vai trên cổ. Ngài đã than:
    Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau
    Quyết rứt cà sa khoác chiến bào
    Đưởi bọn xâm lăng gìn đất nước
    Ngọn cờ độc lập phất phơ cao
    Tất nhiên chủ trương vì dân giữ nước của Đức Thầy đã được ghi nhận bàng bạc trong Sấm Giảng P.G.H.H. ngay sau khi Ngài mở cơ hóa đạo. Nhưng trên phương diện thực thi thì sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945 Ngài mới chính thức đứng lên lãnh đạo các phong trào giải phóng dân tộc.

    Ngoài việc thành lập các cơ cấu tôn giáo để hoằng Pháp và chẩn tế, đồng thời gây lên tinh thần tôn giáo liên hiệp rộng rãi trong toàn thể đồng bào như chúng ta đã biết. Đức thầy đã tổ chức Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội hô hào các giới đứng ra tranh thủ độc lập cho quốc gia; tổ chức Bảo An Đội với mục đích bảo vệ an ninh cho nhân dân từ thành đến xã lúc ấy đang bị trộm cướp bạo hành; thành lập Đệ Tứ Sư Đoàn để đối kháng với xâm lăng vì chế độ thực dân được đặt trở lại...

    Ngày 14-8-1945, để cho cơ sở đấu tranh được rộng lớn hơn, Ngài đem Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội hiệp tác với Cao Đài Giáo, Tịnh Độ Cư Sĩ, Liên Đoàn Công Chức, Nhó Trí Thức , Thanh Niên Tiền Phong, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng để thành lập một mặt trận, lấy tên làMặt Trận Quốc Gia Thống Nhất với bốn mục tiêu tranh đấu: chống đế quốc Pháp, chống họa thực dân, bảo vệ trị an, bài trừ phản động.

    Trên bước đường cách mạng, từ đó, Đức thầy đã trải qua không biết bao nhiêu lượt gian nguy. Có khi bị quân Pháp truy tầm, có hồi bị cộng Sản vu cáo... Nhưng Ngài vẫn không chút sờn lòng, mà chỉ khư khư một mực:
    Thân ta ta chẳng tiếc chi
    Miễn cho bá tánh nạn gì cũng qua.
    Cho nên Ngài phải có lúc nhận nhiều khổ ải:
    Từ ấy lao mình vượt khổn nguy.
    Băng rừng lội suối giả man di...
    Và có khi đem thân len lỏi trong núi thẳm rừng xanh mà lòng luôn nặng vấn vương tình chủng loại:
    Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẻ
    Nhìn non sông đượm vẽ tang thương
    Mối tình chung loại vấn vương
    Thấy quân xâm lược hùng cường căm gan
    Qua nhiều phen trở ngại lớn trên đường hoạt động cách mạng, vào tháng 4 năm 1946. Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời sau một phiên đại hội kéo dài ba ngày đêm tại Bà Quẹo mà Đức thầy là Chủ Tịch, Ngài đã đứng ra tiếp tục tranh đấu không ngừng. Nhưng công tác đáng được chú ý để nghiên cứu kỹ lưỡgn hơn cả là chủ trương dân chủ xã hội mà Ngài đã cùng một số trí thức đề ra ngày 21 tháng 9 năm 1946. Đó là việc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng.

    Dân Xã Đảng có tuyên ngôn, chương trình hẳn hòi. Nhìn qua vài điểm trong bản tuyên ngôn ấy, ta đã thấy rõ được chủ trương của Đảng:

    Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảgn quốc gia, tranh thủ sự tự chủ hoàn toàn của dân tộc củng cố nền độc lập quốc gia và cấu tạo xã hội Việt Nam mới.

    Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảng dân chủ, chủ trương triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân.

    Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảng cách mạng xã hội, chủ trương tổ chức nền kinh tế theo nguyên tắc chủ nghĩa xã hội: không để giai cấp mạnh cướp công quả của giai cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc lợi cân xứng với tài năng và việc làm của mình.

    Đặc điểm của Dân Xã Đảng là khôn gchủ trương giai cấp đấu tranh giũa dân tộc Việt, vì xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh 1946, sau 80 năm bị trị, chỉ có một giai cấp bị tư sản thực dân bóc lột.

    Còn chương trình của Đảng là nhằm chủ trương toàn dân chánh trị. Bởi chủ trương toàn dân chánh trị, thế tất Đảng phải chống độc tài bất cứ hình thức nào.

    Các vấn đề đối ngoại, đối nội, các nguyên tắc kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự, chương trình của Đảng đều có đề cập với những đường lối hoạch định rõ rệt.

    Khoảng tháng 10 năm 1946, để thể hiện chủ trương thống nhất lãnh thổ, độc lập quốc gia và nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc. Đức Thầy đã tham gia Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ với chức vụ Ủy Viên Đặc Biệt. Nhưng Cộng Sản đã phản bội và âm mưu hại Ngài. Ngài vắng mặt từ ngày 16-4-1947.

    Việt Nam Dân Xã Đảng cho đến nay, vẫn còn được tiếp tục hoạt động. Dưới những năm chịu đựng chính sách hà chính của anh em họ Ngô, nhiều yếu nhân của Đảng vì theo đuổi lý tưởng cao cả của Đức Thầy đã bị tù đày và bị sát hại một cách tàn nhẫn, nhưng Đảng không vì thế mà tan rã được. Đó là một đoàn thể chánh trị mà hầu hết đảng viên đều là người công dân P.G.H.H.

    Những tuyên ngôn, chương trình, điều lệ của Đảng, những tài liệu huấn luyện cán bộ được Đảng – qua sự lãnh đạo của Đức Thầy – đã viết ra thành tập và đưa ra trong các khóa huấn luyện cán bộ từ năm 1947, ngày nay giới hữu trách có thể khai thác một cách sâu rộng để đưa bước tiến của Đảng đến một con đường hoàn thành sứ mạng một cách vinh quang (1)

    ***
    Nghiên cứu để tìm hiều về P.G.H.H... chúng ta không nên quên rằng Đức Thầy ngoài sứ mạng thiêng liêng của một đấng Giáo Chủ khai cơ hóa Đạo, còn là một vị Thủ Lãnh cao cả của một phong trào cách mạng quốc gia. Nhưng chúng ta không nên lầm tưởng rằng Ngài chủ trương chánh trị hóa tôn giáo.

    Một vài suy nghĩ cạn hẹp của một vài người cho rằng Đức Thầy ban sơ lấy đạo để qui tụ nhân dân rồi về sau biến Đạo thành Đời mà đưa Đạo trở về con đường chánh trị, điều đó là một sai thù không bao giờ được chấp nhận.

    Đạo luôn luôn vẫn phải là Đạo, nhưng Đạo không thể lìa Đời vì như thế là trốn cái nợ hằng hữu của con người tại thế gian. Phải đền xong nợ thế gian, con người Đạo mới thành được Đạo ở bên kia bờ giải thoát. Đó là cơ pháp tất yếu trong Giáo Lý tu Nhân học Phật (2)

    (1) Những tài liệu như vậy, thật là cần thiết, nhất là những quyển sách nói về tư tưởng dân chủ xã hội của Đức Thầy cũng như các thư tịch nói về các hoạt động chánh trị của Ngài, là những cây kim chỉ nam cho các cán bộ hậu tiến nghiên cứu học tập. Chúng tôi mong mõi và vững tin rằng các nhà lãnh đạo của Đảng đã và đang để tâm nhiều về vấn đề thiết thân này.
    (2) Xem chương XVII: Bửu Sơn Kỳ Hương và PGHH không phải là một đoàn thể chánh trị.
    Chương X: Phật Giáo Hòa Hảo Với Bản Sắc Dân Tộc
    Theo Phật Giáo từ kim chí cổ
    Gốc ông cha ta cũng tu hành
    Sản sanh từ lòng đất mẹ, nền Đại Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo tuy bắt nguồn nơi Giáo Lý căn cốt của Đức Thích Ca, trang điểm thêm bằng tinh hoa Khổng Lão nhưng sắc thái và tinh thần của Đạo vẫn là sắc thái tinh thần của dân tộcViệt Nam. Cho nên nói đến B.S.K.H. người ta nghĩ ngay đó là Đạo của Dân tộc, cũng như nhìn qua P.G.H.H. ai ai cũng nhận đó là Đạo của Giống Nòi.

    Điều này có gì quan trọng mà cần phải nói?

    - Đọc nhân loại tiến hóa sử, xin thưa rằng quốc gia nào cũng nâng cao tinh thần dân tộc lên hàng đầu, bởi vì nó là yếu tố căn bản để quyết định vận mạng thịnh suy, còn mất của một nhân chủng.

    Nước Việt Nam thân yêu của con Rồng cháu tiên sở dĩ tồn tại được đến ngày nay, là nhờ ở tinh thần quốc gia dân tộc đó. Nó hồn nhiên dung dị nhưng biết tự lập, tự cường; nó từ hòa quảng ái, nhưng bất khuất trước những bạo lực muốn đè bẹp, rẻ khinh. Nó có thể đồng hóa được bất cứ ai lân la với nó, chớ quyết không hề để cho ai đồng hóa nó được bao giờ!

    Một điều đáng hãnh diện hơn cả là nhờ tinh thần dân tộc mà hằng ngàn năm phải học “chi hồ giả dã” và hằng trăm bị nhồi nặn trong cái lò “a b c, d”, nòi giống nhỏ bé này vẫn được đồ sộ, vững bền, không có hế lực nào làm sụp đổ được.

    Như thế, tính chất dân tộc của P.G.H.H. là một đặc điểm tô bồi cho sự vững bền của quốc gia vậy.
    Quan niệm Tiên Rồng
    Theo Phật Giáo từ kim chí cổ
    Gốc ông cha ta cũng tu hành
    Sản sanh từ lòng đất mẹ, nền Đại Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo tuy bắt nguồn nơi Giáo Lý căn cốt của Đức Thích Ca, trang điểm thêm bằng tinh hoa Khổng Lão nhưng sắc thái và tinh thần của Đạo vẫn là sắc thái tinh thần của dân tộcViệt Nam. Cho nên nói đến B.S.K.H. người ta nghĩ ngay đó là Đạo của Dân tộc, cũng như nhìn qua P.G.H.H. ai ai cũng nhận đó là Đạo của Giống Nòi.

    Quan Niệm Tiên Rồng

    Trong quyển Việt Sử Kinh Nghiệm (1), khi bàn về quan niệm Tiên Rồng, chúng tôi đã phát huy cái tư tưởng cực khôn ngoan của ông cha khi chọn Tiên Rồng làm vật tổ. Tiên tượng trưng cho những gì lịnh mẫu, trí tuệ, phi phàm; Rồng tượng trưng cho sức mạnh vô biên, tiềm năng bất tận. Các cuộc kháng cường lân thế chư chẻ tre qua những lần phá Tống, bình Chiêm, diệt Nguyên và hạ Pháp... há không phải là sức mạnh của Rồng thiêng chỗi dậy? Và những phong cốt hào hoa, bí trí của Nguyễn Trãi khi về ẩn dật ở Côn Sơn, của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc an tọa trên am Bạch Vân, của La Sơn Phu Tử khi đứng trên ngàn Thiên Nhân mà “thế sự nhìn xem rồi cuộc cờ... “ là gì, nếu không cho rằng Tiên phong cốt cách?

    Quan niệm đó tuy chỉ bắt nguồn trên một huyền sử, nhưng thật đã vun quén chẳng ít cho tinh thần Dân tộc, khiến người Việt, từ mấy ngàn năm, biết sống trên cái bản ngã đặc biệt, rất đáng lấy làm tự hào qua sự góp mặt của họ trên quả địa cầu.

    P.G.H.H. trong sự sáng khai của Đức Huỳnh Giáo Chủ, luôn luôn tiếp tục phát dương cái quan niệm đó không cho mất mát, phai mờ. Ngài đã thuật hoài ý chí của mình:
    Khùng cảm mến truyền câu hồi vị
    Thà làm hiền mà biết non sông
    Điên như ta Điên giống Tiên Rồng
    Điên gỡ ách xích xiềng thế tục.
    Và những lúc ca ngợi anh linh các hàng tử sĩ, Ngài cũng không quên khơi gợi ý thức Lạc Hồng:
    Thiệt chẳng hỗ giống dòng Nam Việt
    Từng nêu cao khi tiết Lạc Hồng
    Đã mang lấy nợ núi sông
    Quyết lòng báo quốc tồn vong sá gì!
    Quan niệm ấy, nhiều lúc đã được dặn dò một cách cẩn thận, rạch ròi hơn. chẳng hạn, trong bài Trao lời cùng Ông Táo, Ngài viết:
    Thần ráng sức ra công khuyên dỗ
    Gìn thuần phong mỹ tục của Rồng Tiên
    Tập ở ăn theo nết Thánh Hiền
    Lòng tu tỉnh dòm Phật tiên nối chí
    Cho đến lúc đi khuyến nông, thuyết giáo mọi người lo làm ăn, tu học, Ngài cũng không quên kêu gọi, nhắc nhở đến cái đức chịu đựng cần cù của nói giống Rồng Tiên:
    Gởi một tấc lòng son nhắn nhủ
    Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông
    Nắm tay trở lại cánh đồng.
    Cần lao nhẫn nại Lạc Long tổ truyền
    Quan niệm Tiên Rồng bàng bạc trong thì văn sấm kệ P.G.H.H. đã nói rõ lên ý thức quốc gia được sùng thượng nơi đây, để đóng góp cho tinh thần dân tộc đặc biệt của người Việt mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh.

    Giữ nền nếp cũ
    Hoằng khai Chánh Pháp giữa thời kỳ mà quần chúng quá ư đọa lạc bởi sự cám dỗ của vật chất văn minh. Đức Giáo Chủ rất lưu tâm đến sự bảo tồn nền xưa nếp cũ. Những gì lố lăng, phiền phức, làm trở ngại cho việc tu học và sự tiến bộ quốc gia, Ngài đều khuyên nên gạt bỏ. Nhưng những gì là thuần phong mỹ tục, cần gìn giữ cho khỏi mất nòi, Ngài hô hào nên theo.

    Tục lệ thờ cúng tổ tiên, sùng phụng các anh hùng liệt nữ là tục lệ tốt. Ngài luôn luôn ca ngợi và khuyến khích trị hành.
    Trung với hiếu ta nên trau tỉa
    Biền với Lương bổn đạo rèn lòng
    Thường nguyện cầu siêu độ tổ tông
    Với bá tánh vạn dân vô sự
    (Kệ dân)
    Tử vi nước còn ghi linh miếu
    Thác vì đời thanh sử danh bia
    Mỹ cánh chuồn đai giáp mang hia
    Tuy thô kịch mà tâm chánh trực.
    (Diệu pháp quang minh)
    Đối với người vong bản, hủy hoại phong hóa, trong bàiGìn tục cổ, Đức Giáo Chủ ngỏ ý chất vấn họ để cảnh cáo chung:
    Cũng đồng dân Việt cùng màu da
    Sao lại chê bai thói tục nhà
    Đối với hàng thanh niên nam nữ, dễ bị lôi cuốn theo trào lưu mới mà quên gốc, Ngài kêu gào:
    Trai trung liệt đáng trai hiền thảo
    Gái tiết trinh mới gái Nam trào
    Lời thánh hiền để lại biết bao
    Sao trai gái chẳng coi mà sửa?
    Trong bài dặn dò bổn đạo, Đức Giáo Chủ cũng có lúc đã phải thở than:
    An Nam phong hóa lễ nghi
    Đời nay văn vật bỏ đi chẳng gìn
    Mãng lo chế nhạo chống kình
    Chẳng trau đạo đức mà gìn thôn hương
    Ta đây dường thể như lươn
    Cứu dân chẳng nệ nắng sương lắm đâu
    Nếu Đức Phật Thầy Tây An chủ trương để tóc để râu, hóa đồng phong cốt như người đời trong khi Ngài là nhà lãnh đạo tôn giáo, được thế nhân tôn xưng là hoạt Phật, thì Đức Giáo Chủ cũng đã tuyên bố:
    Tu đầu tóc không cần phải cạo
    Miễn cho rồi cái đạo làm người
    Bởi vậy ta không lấy gì làm lạ khi thấy tín đồ P.G.H.H. từ cấp trị sự cho đến quý vị giảng viên, từ những người trụ trì tại các chùa chiền cho đến các hành giả tai gia chuyên trì tu niệm, đều không một ai thế phát (1)

    Người tín đồ P.G.H.H. được tùy tiện trong sự hòa hợp với mọi người trên phương diện hình thức như vừa nói, chớ không có việc bắt buộc phải để tóc thật dài, hay là cạo tóc đi.

    Đến như y phục cũng thế, họ không đấp y, không bày ra lễ phục nào khác hơn một cái áo tràng dà trong thời cúng tại gia, và mặc quốc phục khi hành đại lễ. Chính Đức Giáo Chủ trong lúc chu du khuyến nông thuyết Pháp, Ngài cũng chỉ mặc quốc phục chớ không hề có dùng một thứ đạo phục nào.

    Tinh thần dân tộc một lần nữa, được phát lộ nơi đây. Nó thể hiện sự hòa hợp với mọi người trong nếp cũ nền xưa của giống nòi Hồng Lạc.

    (1) Một số đông tín đồ P.G.H.H. thấy Đức Giáo Chủ có lúc vì muốn tỏ cho thiên hạ biết Ngài không chấp nhận cái văn minh cặn bả của Tây mà để tóc dài chấm vai, nên lầm tưởng để tóc là tu. Ngài có phân rành rằng: “Tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu”. Và Ngài đã khuyên mọi người nên tự do cải cách hều hòa hợp với lương dân

    Nuôi dưỡng tinh thần quốc gia
    Đã bảo tồn nền nếp, không để cho tàn hoại đi những sắc thái đặc biệt của dân tộc, Đức Giáo Chủ còn dưỡng nuôi, hun húc tinh thần quốc gia. Ai có nghiên cứu Sấm Kinh P.G.H.H. sẽ thấy điều này nhan nhãn khắp nơi.

    Trong giáo lý Tứ Ân, có ân thứ hai được đặt trọn vẹn, cho đất nước.

    Ngài còn tha thiết kêu gọi tín đồ hãy cố gắng tránh hẳn những điều gì có tánh cách sơ xuất, có thể làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại cho đất nước, nếu mình chưa gặp thời cơ hại cho đất nước một cách tích cực.
    Ngài cũng phơi giải can tràng trong bài Thiên lý ca:
    Thương sanh chúng đòi cơn da ngọc
    Ta quyết gìn chủng tộc giang sơn
    Ta Khùng mà chẳng có cơn
    Cũng không có tánh giận hờn bá gia...
    Tinh thần quốc gia lại được vung quén, trưởng dưỡng hơn nữa, mỗi khi Đức Giáo Chủ có dịp đối cảnh sinh tình. Đây là bài Bánh mì, khi Ngài nghe thấy tiếng rao mì lãnh lót của ai vẳng lên ngoài cổng:
    Mì kia gốc phải nước mình không?
    Nghe thấy rao mì thốt động lòng
    Chiếc bánh não nùng mùi khách lạ
    Bát cơm đau đớn máu cha ông
    Văn minh những vỏ trưng ba mặt
    Thắm thía tim gan ứa mấy dòng
    Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược
    Say mì lắm kẻ bán non sông!
    Từ hậu bán thế kỷ 19 cho đến tiền bán thế kỷ 20, trong tình trạng nước nhà bị thực dân cai trị, ngoại trừ những phong trào kháng Pháp tranh thủ độc lập do các nhà ái quốc đề xướng, phần đông đồng bào ta vì hoàn cảnh sinh hoạt, vì áp lực nghiệt ngã của thực dân nên đành để cho tinh thấn quốc gia ngủ quên theo số phận của người dân bị trị. Đức giáo Chủ, trong tình thế đó, đã phải tìm lấy mọi cơ hội, mọi cảnh ngộ để đánh thức nhân dân.

    Trông cờ tam tài của Pháp phất phới trên nền trời, Ngài đã liên tưởng ngay đến cảnh quốc phá gia nguy, mà ngâm nga câu “gặp cảnh vong bang ứa ruột rà” Và khi thấy ông địa sành ngất ngưỡng ngồi cao, thản nhiên trước thăng trầm thế sự, thì nhẹ nhàng mát mẻ mà nhắc khéo trong một bài tứ tuyệt:
    Bảnh chọe ngồi chơi sướng hỡi ông!
    Tâm lành sao chẳng tiếp non sông?
    Nhân dân bốn phía đương đồ thán
    Vui sướng chi mà lại tỉnh không?
    Đôi khi để kéo lại những tâm hồn “nghinh tận” thái quá mà phủ nhận tất cả những gì cố hữu của giống nòi, Đức Giáo Chủ cũng đã mượn lối thi ca trào phúng tế nhị mà cảnh giác người đời. Bài Vịnh quạt máy sau đây đã thuyết minh điều mà chúng tôi vừa nói:
    Khoa học đời nay htật khéo cho
    Bài ra cái quạt chạy vo vo...
    Tranh quyền tạo hóa nồng thay lạnh
    Đông Á lần hồi phụ quạt mo
    Có tiền mua lấy cũng nên cho
    Tủ sắt còn đầy còn gió...vo
    Nhưng ngặt khan dầu e hết điện
    Trở về lối cũ lượmm cau mo!
    Cau mo chừng ấy đặt tiền cho
    Ngóng cổ thêm dài hút gió... vo
    Chủ khách ngẩn ngơ cơn nóng bức
    Thôi thì “toa mỏa” tạm dùng mo
    Còn gì thắm thía hơn nữa khi dùng lõi “nói khéo” như trên mà bảo toàn những gì của dân mình vốn có từ ngàn xưa chẳng mất!

    Nhưng ái quốc mà không bài ngoại, và tồn cổ mà không phải câu chấp cổ lệ lỗi thời, mới là chuyện đáng quan tâm. Đó là điều mà chúng tôi sẽ đề cập ở một đoạn sau.

    Tính chất giản dị trong việc thờ cúng là tính chất dân tộc

    Trong tác phẩm Bản ngã người Việt (2) chúng tôi đã nói đến tâm tình giản dị hồn nhiên của người dân Việt Nam.

    Với đặc tính đó, PGHH đã không chấp nhận những nghi lễ quá rườm rà phiền toái có thể gây tốn kém vô ích và sai xa bản thể thanh tịnh vô vi của Phật giáo.

    Người tín đồ P.G.H.H. trong việc trang trí chỗ thờ phượng, thật hết sức giản dị tinh khiết. Cư sĩ tại gia P.G.H.H. chỉ trú trọng vào ba nơi thờ chánh là Bàn Thông Thiên (đặt giữa trời), Bàn Thờ Ông Bà Bàn Thờ Phật (đặt trong nhà). Trong trường hợp giản dị tối đa, người tín đồ P.G.H.H. có thể tưởng niệm trong lòng mình cũng đủ.
    Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà
    Phật bất chấp không nài thời khắc
    Việc cúng Phật, theo quy tắc chính yếu của đạo, là không cúng bằng vật gì khác hơn bông hoa và nước lả, đèn hương. Nhưng nếu người tu không đủ phương tiện vật chất hoặc điều kiện thuận tiện thì được phép giảm chế tất cả. Chính Đức giáo Chủ đã dạy các tín đồ của Ngài: “Có nhang thì đốt, không có thì nguyện không”.

    Cái bản nhiên giản dị củqa dân tộc từ thời cổ sơ cho mãi mãi đến về sau, được giữ lại trong tính chất hồn nhiên của P.G.H.H. Hãy nghe những lời giảng dạy của Đức Giáo Chủ trong việc thờ tự:

    “Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài.

    Còn người nào có cốt Phật trong nhà, để vậy cũng đặng . Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi.

    Kẻ nào ở chung đậu với người khác không tu hiền, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ thờ phượng thì đến giờ cúng kiến chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng được”.

    Nhưng giản dị không có nghĩa là bỏ đi tất cả lễ nghi khuôn phép. Giản dị là để cho “lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nháng bề ngoài” mà thôi. Mà lòng tin tưởng trở lại tâm hồn tức là người tu phải chứng ngộ được lòng chí thành của mình. Chính điều đó mới là sự tối quan trọng để cho hành giả đắc đạo, chứ việc cúng dường cũng vẫn không có gì là cần thiết lắm. Đức giáo Chủ có nói:
    Tới với ta chớ đem đồ cúng
    Chỉ đem theo hai chữ thành lòng
    Xem thế thì đủ rõ cái hồn nhiên dung dị vốn có của dân tộc và hiện thấy trong P.G.H.H. không phải là không cần thiết.

    (1)Đã đăng trên Tuần san Văn đoàn bộ III, từ số 42 đến 50, ngày 16-8-1962 đến 17-10-1962.
    Sấm Giảng với đặc tính dân tộc

    Sấm Giảng Với Đặc Tính Dân Tộc

    Sau ngày nhân dân Việt Nam giành lại chủ quyền cho quốc gia, trong lãnh vực văn hóa, người ta đã biết chú trọng đặc biệt về dân tộc tính.

    Một bài thơ, một áng văn, một bức họa... mà thiếu dân tộc tính sẽ bị xem như một vật thể không có hồn linh, và giá trị của nó, do đó, sẽ coi là thấp kém.

    Những câu hò miền Nam, miền Trung, những bài vè, bài hát ru em cho đến những vở ca kịch, hát bội, thường được người ta đem ra nghiên cứu, tán thán những cái hay cái đẹp của các nhà thi văn vô danh. Công việc làm đó không phải dài dòng kể lể, chắc ai cũng đồng thấy là nên làm.

    Riêng trong Sấm Kinh P.G.H.H. thật là đầy đủ những tinh chất kia. Nội cái giọng đọc của những câu kinh P.G.H.H. trên các Đài vô tuyến truyền thanh Sài Gòn, Ba Xuyên hoặc Cần Thơ sẽ nghe được những giọng ngâm đặc biệt đó.

    Giọng ngâm đó không hẳn là giọng hò miền Nam. Cũng không đúng là khúc hát nam ai hay nam bình xưa cũ trên sân khấu hát bội đã mang ảnh hưởng Chiêm Thành. Nó tha thướt, trầm trầm, dễ khơi gợi cảm xúc cho người nghe và dễ làm người ta thắm thía đến cảm thông ý nghĩa của câu văn phô diễn.

    Nó là một giọng điệu phát xuất từ căn cốt của một điệu hát vãn... Vãn có nghĩa là bài thơ, một lối văn vần.Đó là một lối hát có giọng buồn, cũng gọi là hát vãn, hay tiếngvãn viết trong tuồng hát bội với tính chất đặc biệt Việt Nam.

    Bởi vậy, nghe tiếng đọc Giảng Kinh của P.G.H.H. thì người nghe cơ hồ đã nghe được cái gì đặc biệt của nòi giống mình. Còn đến khi thưởng thức những thi, ca, văn, chú, trong nguồn Sấm Kệ P.G.H.H. người ta sẽ thấy được những gì vốn có của nước non nhà.

    Ở đây không có vần điệu nào khác lạ hơn những vần điệu quen thuộc của người dân Việt Nam. Cũng lục bát, song thất lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn, Đức Giáo Chủ đã làm nổi bật được thần tính và hồn tính của những lời khuyên răn đạo lý. Người đọc Kinh Giảng P.G.H.H. sẽ có cảm nghĩ là mình đang đọc một bài vè, một đoạn thơ, một khúc ngâm hay vài câu ca dao qua tiết điệu du dương trầm bổng.

    Này là tính chất của một bài vè:
    Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế
    Thấy dân mang sưu thuế mà thương
    Chẳng qua là Nam Việt vô Vương
    Nên tai ách xảy ra thảm thiết
    Bạc không cánh đổi thay chẳng xiết
    Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn
    Mới mấy năm sao quá hao mòn
    Mùa màng thất đói đau không thuốc
    Này là Đường thi vận luật:
    Cương thường gánh nặng trai gia trọn
    Tơ tóc vai quằn gái vẹn phân
    Nợ nước văn chương toan báo đáp
    Ơn nhà đạo đức quyết đền ân...
    Này là tứ tuyệt thất ngôn:
    Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau
    Quyết rứt cà sa khoát chiến bào
    Đuổi bọn xâm lăng gìn đất nước
    Ngọn cờ độc lập phất phơ cao
    Và này là khuôn rập của ca dao lục bát:
    Hạ ngươn nay đã hết đời
    Phong ba biến chuyển đổi đời gia cang
    Năm mèo kỷ mão rõ ràng
    Khắp trong trần hạ nhhộn nhàng xiết chi...
    Có thể nói trong trên 500 trang cũa quyển Thi Văn Sấm Giảng Toàn Bộ do Đức Giáo Chủ viết ra, là một số lớn những gì hô hào, cổ võ cho tinh thần dân tộc.

    Dân tộc nhưng đại đồng

    Đã có một vài người từ trước, khi nhìn qua một đôi quyển Sấm giảng P.G.H.H. với những nhận xét sơ sài, chưa kịp suy nghĩ tế vi, vội cho rằng vì có nhiều tính chất địa phương, mà giáo nghĩa e sẽ hẹp hòi gò bó.

    Không. Người ta đã nông nỗi rồi, khi đã nhận định như thế!

    Tính chất dân tộc của P.G.H.H. không hề trái với chủ trương đại đồng của người sáng lập ra nó. Mặc dầu ta thấy giáo lý P.G.H.H. có bảo tồn cổ tục,có bảo vệ quốc gia, có hưng truyền đạo cũ và có trì thủ những lề lối thi ca căn cốt của giống nòi... nhưng bảo tồn cổ tục không có nghĩa là nắm giữ cả những hũ tục cũng như bảo vệ quốc gia đâu cứ phải là bài ngoại, bế quan! Chính những nghi lễ rườm ra bề bộn, làm tốn kém và mất thì giờ, Đức Giáo Chủ đã quả quyết cắt rời khỏi đạo: và những điều gì mới mẻ mà hay ho, không phải trở ngại cho bước tiến của quê hương, Ngài đều công nhiên thừa nhận hay khuyến khích nên làm.
    Đây:
    Đối với khoa học, Ngài nói:

    “Sự hiểu biết về khoa học không cản trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ”.

    Đối với thể dục, Đức Giáo Chủ khuyên:
    “Nên luyện tập những môn thể dục nào hợp với sức khỏe nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khỏe mạnh, tinh thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm đạo nghĩa một cách đắc lực”.

    Đối với nhân loại trên mặt địa cầu, Ngài chủ trương:
    “Ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cậm cụi cần lao cũng cấp những điều nhu cầu cần thết... Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào?

    ... Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác vào phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình và đồng chủng mình”.

    Thật ra, còn vô số bằng chứng để nói được cái tinh hần mở rộng sự hòa hợp, cái tính chất muốn vươn lên cho vượt được thời gian và không gian và không gian trong Sấm Kinh P.G.H.H.

    Trong một bài thơ viết tại khu chiến miền Đông giữa một ngày tết, Đức Giáo Chủ đã thố lộ lòng khát khao cho con dân đất Việt chóng tiến đến cõi đại đồng. Ta hãy nghe Ngài chuốc chén:
    Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng
    Uống rồi vùng vẫy khắp Tây Đông
    Đem nguồn sống mới cho nhân loại
    Để tiến tiến lên cõi đại đồng
    ***
    Nhìn qua sắc thái P.G.H.H., đồng hóa các tư tưởng ngoại lai, để biến thành chất liệu dân tộc rồi giữ gìn những gì tốt đẹp thật sự của dân tộc không để cho nó tiêu hao tàn hoại đi, một lần nữa chúng ta có hể quả quyết P.G.H.H. là một nền đạo dân tộc.

    Nhưng, còn có một điều đáng ghi nhận nữa là tính chất dân tộc đó không hề bị đóng khung trong một cái vỏ “cô lậu quả văn” mà là một tính chất phóng khoáng vượt bực, bao giờ cũng muốn đem nguồn sinh lực siêu nhiên, đầy đạo lý của mình mà:

    Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc (1)
    (1) Cần xem thêm: Một nền Đạo dân tộc, Phan Long và Hoàng Quân biên soạn, Ban Tu Thư Phổ Thông Giáo Lý P.G.H.H. ấn hành.

    Chương Thứ XI: Phật Giáo Hòa Hảo Với Quần Chúng

    Đời không Đạo Đời vô liêm sĩ
    Đạo không Đời Đạo biết dạy ai!
    Nếu mục đích của cuộc sống là để phục vụ vật chất, để làm mọi việc bảo vệ sống còn cho thân xác, thì đó chỉ là một bản án khổ sai dài hạn, đáng cho mọi người kinh hãi, chán chê!

    Nếu kiếp người sanh ra là để đạt đến những thỏa mãn danh, lợi, tình, thì đó cũng chỉ là một cái gì đáng cho chúng ta lánh xa, nhớm gớm!

    Người ta không ai hoàn toàn phủ nhận cái sống vật chất, nhưng bảo rằng chỉ có vật chất là quan trọng cho kiếp người, là một điều sai lầm nếu không cho rằng ngụy biện.

    Cho nên đi đôi với vật chất, với hình hài khí cụ, con người đã biết chú trọng đặc biệt đến tâm linh, đến tinh thần, đến cái mà người ta có thể cho là vật chất sản sanh, nhưng trở lại điều hành vật chất.

    Bởi thế mà các Đạo giáo hoặc các triết thuyết xuất hiện, Phật giáo thường bị coi như là một tôn giáo khuyến dụ người ta lìa đời, chối bỏ thực tại mà tìm lấy viển vông, khước từ hiện sinh mà đi vào không tưởng.

    Sự thật, nhận xét đó phải coi là nông nổi, hoặc nên kết luận là võ đoán.

    PGHH xuất thế hay nhập thế

    Whitehead, có lẽ trong một phút suy nghĩ hời hợt, đã viết: “Tôn giáo là sự sinh hoạt của cá nhân trong đơn độc vắng lặng. Nếu anh không sinh hoạt trong đơn độc vắng lặng thì anh không phải là người có tôn giáo”.

    Đối với tôn giáo nhà Phật, tư tưởng đó không sát nghĩa chút nào. Đạo Phật đâu có chủ trương nhất định đơn độc! Đức Phật Tổ, mặc dù có lúc lìa đời tìm đạo, nhưng sau khi đắc đạo thì lại mang đạo nhập thế gian. Những bậc tăng thống, đại sư thời Đinh, Lê như Khuôn Việt, Đỗ Thuận, hoặc những vị được coi là hoạt Phật đời trần nhưTrúc lâm tam tổ, đều đã hòa mình hẳn vào quần chúng để xây dựng cuộc đời. Họ nào đâu có xa lìa quần chúng!

    Tuy nhập thế, những bậc tu hành chân chánh tiêu biểu đứng đắn cho đạo Phật, không hề để lợi danh cám dỗ. Bởi vì trước khi vào đời họ đã đều đi sâu vào cuộc sống tâm linh, đã có một dạo lìa thế gian để lắng lòng ngộ đạo. Lìa đây không có nghĩa lìa xa hết mọi bận bịu trần ai. Có thể ví họ là những kẻ bấu víu với chiếc phù phao để “tập tầm vũng” trên mặt nước một thời gian, trước khi họ cứu người chết đuối. Bao nhiêu những chấp trước, những thiên vị, những dục vọng làm đen lòng người, họ đã đều có cơ duyên đẹp được tất cả. Cho nên khi lăn xả vào đời để cải thiện xã hội, thì tâm họ là tâm không, trí họ là trí giác.

    Những bậc chân tu đó, nếu họ có làm cách mạng, làm chính trị, thì không phải vì danh vọng hão huyền mà mục đích là muốn đem phúc lợi cho toàn thể chúng sanh mà thôi. vua Trần Nhân Tông, hiền sư Vạn Hạnh đã là chứng tích điển hình về điều này. Đó là trạng thái vô vi nhi vô bất vi (1) vậy.

    Đức Giáo Chủ P.G.H.H. trong một cuộc phỏng vấn của báo Nam Kỳ ngày 29-11-1946, khi ký giả Hồn Quyên hỏi về sinh hoạt chính trị của Ngàitại bưng biền có ảnh hưởng gì đến sự hành đạo của Ngài chăng, thì Ngài đã trả lời cặn kẻ:

    “Với sự hành đạo của tôi, cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thực tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh, thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi không có nghĩa lý gì hết”.

    Qua câu đáp, Đức Giáo Chủ đã tỏ rõ chủ trương và Ngài không bao giờ để cho vật chất chi phối cuộc đời hành đạo. Tất nhiên đạo Ngài là đạo nhập thế, Ngài chỉ vì đời mà mở đạo để tế vật lợi sanh. Cho nên, mặc dù:
    Bể trần sóng cuộn lao xao
    Ngài cũng đã hơn một lần:
    Xông thuyền bát nhã lướt vào một phen

    PGHH chán đời hay yêu đời

    Nhiều người đứng ngoài ngưỡng cửa đạo Phật, chưa chịu để tâm nghiên cứu kinh điển của đạo, đã vội vã lên án: Đạo Phật là đạo chán đời, nó chỉ dành cho hạng người thất chí, những kẻ bệnh hoạn, hoặc đàn bà trẻ con. Sau nhữn gcâu nhận xét như vậy, họ kết luận: Người tu Phật là người chán đời.

    Nhận xét đó bao hàm một sự lầm lẫn nặng nề từ tâm tưởng của kẻ phát ra.
    Nếu Đức Phật Thích Ca chán đời, thì tại sao Ngài lại chịucực khổ vì đời trong suốt 49 năm vân du giáo hóa? Nếu Đức Thầy Tây An chán đời, thì sao khi trong muôn ngàn biến chứng hiểm nghèo đe dọa chúng sanh, Ngài lại hiện ra độ rỗi? Và nếu đạo Phật chán đời, thì làm sao trên hai ngàn năm, đạo đã góp phần lớn lao trên thế giới trên phương diện cải tiến xã hội, và ít nhất cũng gieo được bao nhiêu tư tưởng an lạc hòa bình?

    Có chán chăng, chỉ có thể là một số người chán chê nghịch cảnh, nhằm ghét cái cũ nào đó quá hũ lậu, gian ngoa, nên muốn phá vỡ để cải tạo lại. Họ muốn theo đạo mà làm lại cuộc đời, xây dựng một xã hội mới, đẹp hơn, tươi sáng hơn. Như thế tất nhiên họ không phải là hạng người bất đắc chí, rồi đâm ra chán đời làm bậy, hoặc không thỏa mãn những thị dục thấp kém rồi đâm ra trụy lạc hư hèn.

    Đức Thích Ca xưa có chán đời thật, nhưng Ngài chán cái đời phân chia giai cấp, chán cái mê si thù hận của chúng sanh, nên mới vất bỏ ngôi cao, duyên thắm, mà đi vào mộng ước: Xây dựng lại một thế giới an vui, tình thương chan chứa.

    Như thế thì đạo Phật đâu phải là một đạo chán đời. Có chăng người theo đạo phần đông là chán cái bất chánh gian ngoa, chán cái tham ích kỷ của một số đồng bào hay đồng loại, nên mới bước sâu vào đạo, mượn đạo để cải tạo những cái đáng chán của đời.

    Như thế thì phải nói đạo Phật là một đạo yêu đời, muốn đem đời đến một thiên đường tại thế.
    Bởi quá yêu đời mà Đức Giáo Chủ đã mang một hoài bão lớn lao:
    Biết làm sao gieo đạo khắp đại đồng
    Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc
    Và trong một bài nhan đề Tình yêu, Ngài viết:
    Ta đã đa mang một khối tình
    Dường như thệ hãi với sơn minh
    Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh
    Mối liên quan giữa Đời và Đạo
    Có người quan niệm rằng đời và đạo là như hai con đường dị biệt, hai chất liệu dị biệt không thể nào trộn lẫn được nhau. Bởi vậy mới có ít người theo đạo cố ý lãng quên việc đời, họ cho rằng phải chuyên trì khổ hạnh, phải xa lánh trần ai. Có lẽ cũng vì đó mà có một số người đời quá mê thích cái hạnh phúc giả tạm của uyển thân, không chịu nhận kỹ đạo Phật, thấy vậy, cho rằng đạo là thuốc phiện, sa vào đó thì say mê, thì tiêu tầm tịch diệt, thì mất hết niềm vui, tan lòng phấn đấu và sẽ làm cho xã hội này biến thành một cảnh giới buồn tanh như bãi tha ma.

    Quan niệm của hai hạng người vừa nói đều không đúng bản chất của đạo Phật. Họ phải nhận định khác đi. KhiDi bộ tôn luân luận có chép: “Tất cả những giác ngộ tốt đẹp đều thực hiện bởi con người”. Vậy con người phải lặng lòng mà xét nét kỹ cang chờ không nẹn nhìn xét qua loa mà vội vàng kết luận.

    Đức Giáo Chủ trong bài Nang thơ cẩm tú đã cho rằng“Đời Cùng đạo bi hoan ly hiệp”. Và Ngài còn có nói một câu đại ý như vầy: “Nếu không có đạo đời còn gì là phải chăng, liêm sỉ, nhưng có đạo mà không có đời, thì đạo lấy đâu mà cải sửa, dạy răn!”

    Một học giả Tây phương tuyên bố: “Đạo Phật là con đường của sự sống”. Và người trí thức phương Đông nào mà quên được câu “Phật đạo bất ly thế gian”. Có đạo, đời mới được tốt đẹp hơn, bởi vì nhân phẩm được tăng cao do con người thực hành chân chính, và có đời, đạo mới thiệt thi được vai trò cải hóa của mình, một sứ mạng siêu nhiên không thể nào thiếu vắng được.

    Vậy đạo không thể sinh hoạt ở ngoài đời, và đời không thể không có đạo kèm theo. Đời đạo bất tương ly, ví như bóng với hình không thể tách rời qua ánh sáng.

    PGHH với quần chúng Kinh Pháp Hoa có chép: Phật vị nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế (Phật vì một nhân duyên lớn mà có mặt trên đời). Và Đức Guatama cũng phán rằng: “Phật giáo vì chúng sinh mà sinh”. Như vậy Đạo Phật là đạo của quần chúng không hơn không kém.

    Nếu Phật bảo “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhất thể bình đẳng với chúng sanh” thì đạo Phật lại càng là đạo của bình dân đại chúng, không có gì chối cãi.

    Nhìn vào một số tăng ni tu hành khổ hạnh, người ta nghĩ rằng mình khó thể làm theo, rồi tự nhủ: Đạo Phật dành riêng cho hạng người khổ công ép xác.

    Có những người khác, lầm lạc hơn, họ dòm thấy các sư chuyên trì kinh kệ, giảng thông luật, luận, liền cho rằng đạo Phật chỉ dành cho những người trí thức, rỗi rãi thì giờ.

    Nghĩ như vậy là sai xa bản nhiên hằng hữu của Phật giáo.
    Thuở xưa, khi Phật liễu ngộ, Ngài đã giáo hóa đủ các hạng người. Hạng hoàng đế như Bsinbisan; hạng công chúa như Nan đa, hạng trưởng giả như Pinkoda; hạng hoa khôi như Visakha... những người này đều là cư sĩ tại gia, có vợ chồng con cái, họ là quần chúng trong đời chớ nào đâu có xuất gia. Thế mà họ đều được chứng quả A La Hán hoặc vào hàng thánh quả. Bao nhiêu đó đủ hùng biện rằng đạo Phật không chỉ dành riêng cho hạng tăng sĩ xuất gia hay cho một giai cấp nào. Nó là của quần chúng. Xa quần chúng, nó không làm sứ mạng thiêng liêng của nó được.

    Cũng chính vì thương quần chúng mà Phật đã phát tâm thệ nguyện: Hữu nhất chúng sanh bất thành Phật quả ngã thệ bật thành Phật (có một chúng sanh nào không thành Phật, thì ta thề không thành Phật).

    Cũng vì mục đích đó mà Đức Giáo Chủ đã viết:
    Thương trần ta cũng ráng thề
    Đặng cho bá tánh liệu bề tu thân
    Tu hành chẳng được đức ân
    Thì ta chẳng phải xác thân người đời
    Yêu đời yêu quần chúng đến đỗi Phật không từ chối một khổ nhọc nào có thể cứu giúp quần chúng, nên có một lần, khi nghe một môn nhân hỏi rằng ai là người đáng bị xuống địa ngục, thì Phật đáp:

    -Ta nên xuống địa ngục. Chẳng những xuống địa ngục mà thường trú địa ngục; chẳng những thường trú ở địa ngục mà lại lấy địa ngục làm vui; chẳng những lấy địa ngục làm vui mà lại làm cho địa ngục biến thành một nơi trang nghiêm nữa.

    Đức Giáo Chủ P.G.H.H. cũng tha thiết với quần chúng nên mới gánh chịu bao nhiêu tai nàn khủng khiếp. Trong bài Sa Đéc, Ngài đã ung dung thốt lên:
    Ta chịu khổ khổ cho bá tánh
    hoặc thì Ngài cảm tác:
    Thân ta dầu lắm đoạn trường
    cũng làm cho vẹn chữ thương nhân loài
    Trong tác phẩm Đức Phật Đối Với Chúng Sanh, Đức Giáo Chủ giảng luận:

    “Hỡi các người! Đức Phật đối với chúng sanh và môn đồ, như người cha đối với các con (...) Phật cũng yêu hết chúng sanh, dầu kẻ ngu người trí; tất cả môn đồ, dầu kẻ biếng nhác với kẻ siêng năng”.

    Sau khi ngẫm nghĩ tận tường, còn ai bảo đạo Phật chán đời, đạo Phật tách lìa cõi thế?
    Không! Đạo Phật là đạo của quần chúng, nhất là P.G.H.H., một tôn giáo nhà Phật đã độ rỗi hằng mất triệu quần chúng, phần đông là thật thà, lam lũ làm ăn. Trên thực tế, đạo đã đưa họ đến được con đường giác ngộ bản tâm, và đã giúp họ được tương đối yên ổn từ vật chất đến tinh thần giữa thời đại nhiễu nhương này. Và trước mắt họ, hiện đang thể hiện một viễn đồ khả dĩ tiến đến an vui và giải thoát.

    Chương Thứ XII: Sự Thực Hư và Lối Vần Vè Trong Thi Văn Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hảo

    Hò sang xự xế bỏ thôn hương
    Liếu cống xê nghe đã tận tường
    O ó tiếng gà coi nguyệt cảnh
    Chít chiu giọng khỉ ngó hoa vườn
    Trong giai đoạn diễn biến đầu tiêncủa thiên Đạo sử Phật Giáo Hòa Hảo, nhà chép sử chắc chắn sẽ phải ghi nhận một điểm quan trọng này là: những quyển Sấm kinh của Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ra ban sơ không được mấy người trong hàng trí thức Việt Nam để ý.

    Một là người ta đọc phớt qua, sẽ thấy trong ấy những“lập luận lỏng lẻo” những cái gì “có vẻ mập mờ” và hình như “không có chủ đích”, khiến họ khó nắm được ý chính của bản văn, không rõ được dụng tâm của tác giả.

    Hai là bên cạnh những câu, những bài có những lời lẽ siêu thoát, kỳ diệu, người ta sẽ có ý “thất vọng” với những vế, những đoạn có tính cách vần vè, những từ ngữ rất mực bình dân, lắm khi đến “quê kịch” nữa!

    Như rồi, nếu các sử gia hoắc văn học sử gia đó, sau khi chịu khó nghiên cứu kỹ hơn, thì họ sẽ phải xác nhận rằng các nhận định kia đều sai, bởi vì lối viết như vừa nói, thật ra, là một chủ trương, một dụng ý của tác giả, chớ không phải là những sơ hở tầm thường trong văn chương, hay những cái vỏ ốc đáng ghét trên một sân chơi bằng phẳng.

    Lê văn Siêu đã nói đúng khi viết về đoạn “vị trí xuất phát những lời tục truyền” trong quyển Văn Minh Việt Nam (1) của ông:

    “Các truyện truyền kỳ, các lời sấm ký hư hư thật thật, cùng các chuyện cổ tích đủ loại, chính đã phải mượn lối này mà lan rộng đến mọi gia đình một cách nhanh chóng.

    Biết đâu rằng qua những truyện ngụ ngôn và tượng trưng ấy lại chẳng có những ký hiệu ám chỉ thời cuộc” ...

    Sự thực thực hư hư đó đã thấy nảy sanh từ thời Lý với Vạn Hạnh Thiền Sư, thời Mạc với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và thời Lê Nguyễn với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Cho nên muốn nói rõ tác dụng hiện tại trong kho tàng sấm kinh Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta thử lật ngược thời gian, tìm hiểu qua một vài sự kiện của người xưa, hầu mới rộng tầm phê phán.
    (1) do Nam Chí Tùng Thư xuất bản, trang 24.

    Sự thực hư trong lối văn tiên tri của người xưa

    Người Việt Nam ta chắc không còn một ai lấy làm lạ gì với những lối nói nửa úp nửa mở trong những lời tiên tri, những câu sấm ký đã xuất pháp từ cửa miệng của các bậc siêu nhân. Sở dĩ các Ngài không nói trắng ra được là vì nhiều lẽ.

    Chúng ta đâu có thể nghi ngờ ở sở học uyên bác của Vạn Hạnh thiền sư, môt cao tăng thường được vua Lý Nhân Tông khen tặng bằng câu “Vạn Hạnh dong tam tế, chân phù cổ sấm ky”. Vậy mà lúc nhà Lê do vua Lê Đại Hành chấp chánh, thiền sư nổi tiếng là bậc tiên tri, vẫn phải trả lời úp mở theo công thức sấm ký. Chẳng hạn, vua hỏi về việc phá Tống, sư đáp: “Nội ba bảy ngày thì giặc sẽ tan”; còn khi hỏi về việc bình Chiêm, thì sư chỉ nói một câu là: “khuyên nên đánh chóng”, mặc dù những lời giải đáp ấy trong tương lai, phải đúng vanh vách như ba lần bảy là hai mươi mốt...
    Thiền sư còn tiên đoán được việc nhà Lý sẽ thay nhà Lê, qua bài sấm được định nghĩa:
    Tật Lê chìm biển Bắc
    Cây Lý mọc trời Nam
    Bốn phương tắt binh lửa
    Thiên hạ mừng bình an.

    Sách Thiền Uyển Tập Anh và nhiều sử sách khác đều kể chuyện sư Vạn Hạnh đã đoán được bài sấm mà sâu ăn thành chữ trên cây vông gạo, và biết trước rằng nhà Lê sắp mất và nghiệp Lý sẽ thành. Do đó mà nhà sư nói cho Lý Công Uẩn biết chuyện và lập mưu đưa ông này lên ngôi vua. Những câu sấm ấy biết đâu chẳng là của thiền sư Vạn Hạnh!
    Bài sấm tương truyền như vầy:
    Gốc cây trắng trắng
    Vỏ cây xanh xanh
    Hoa đao mọc ngã
    Thập bát tử thành
    Đông A nhập địa
    Cây khác nảy sanh
    Cung Chấn vầng nhật
    Cung Đoài ẩn tinh
    Khoảng sáu bảy năm
    Thiên hạ thái bình
    Trong thời Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ một Bạch diện thư sinh mà chỉ mỗi một lần đi thi, đã đổ ngay bằng cấp Văn Trạng và được phong đến Trình Quốc Công, nên tục gọi cụ là Trạng Trình. Thế mà khi cần đưa ra những gì về thiên hạ đại sự, nhất là việc chỉ điểm cho tương lai, cụ đều dùng toàn lối văn sấm ký.

    Chẳng hạn, trong đời Lê Chiêu Tôn, một bên là Trịnh Tuy, một bên là Mạc Đăng Dung, vì muốn tranh quyền nhiếp chính mà đánh nhau suốt mấy năm, cụ Trạng Trình đoán số Thái Ất, biết được nhà Lê sẽ phục nghiệp và họ Trịnh về sau sẽ đoạt quyền vua Lê nên đã nói lên trong một bài cảm hứng với hai câu:
    Ngựa phi ắt có thời quay cổ
    Thú dữ nên phòng lúc cắn người (1)
    Khi vua Lê băng, họ Trịnh muốn tiếm vị luôn, nhưng còn sợ lòng người, vẫn nhớ công đức nhà Lê mà chống lại mình, nên sai người đến hỏi ý kiến cụ Trạng. Trạng Trình không đáp thẳng lời sứ giả, mà chỉ nói với người nhà rằng:
    “Giống mới thất mùa, hãy tìm giống cũ mà gieo mạ lại”
    Và cụ quay sang nói với thư đồng:
    “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản”
    Họ Trịnh nghe lọt vào tai, cho người đi tìm con cháu nhà Lê (giống cũ) về làm vua, và chỉ đóng vai Chúa, nắm hết quyền binh (giữ chùa thờ Phật).

    Đến đời Lê mạc, Nguyễn sơ có cụ Nguyễn Thiếp là hạng văn tài lỗi lạc, được vua Quang Trung xem là bậc thầy và thế nhân tôn xưng là La Sơn Phu Tử. Cụ đã do thuật lý số mà tiên đoán:
    “Sông ngư nước cạn, nhà Nguyễn trở về”
    hoặc là:
    “Tùng lâm mãn địa, anh hùng tất tập ư Hoan Châu” (rừng thông đấy đất, anh hùng đều nhóm ở Hoan Châu)
    và:
    “Lam giang chi thủy nhập nộn hồ. Nam nhân nhập đế Trung quốc” (khi sông Lam chảy vào bàu Nón, thì người nước Nam vào làm vua Trung quốc.)

    Trong Hạnh am thi cảo của cụ có bài Sấm Ký mà cụ viết ra năm 58 tuổi như vầy:
    Ba năm gió thuật bể thanh
    Ông già đoán Dịch xem tình ra sao
    Hang đông nhật mọc quỷ tiêu
    Cõi tây xuân ấm lúa cao vầng dài
    Khôn ngoan công lập ải ngoài
    Thanh nhàn trốn ẩn vui vầy sống lâu
    Nghĩa còn tuy cảnh khác nhau
    Kể chi khi sợ khi sầu tuy vui (2)
    Người ta đã thấy ứng vào câu thứ ba, việc Nguyễn Hữu Chỉnh người Đông Hải, diệt họ Trịnh; ứng vào câu thứ tư, việc Quang Trung Hoàng Đế bình quân Thanh; ứng vào câu thứ năm, việc chúa Nguyễn Ánh khởi binh từ Gia Định; ứng vào hai câu cuối cùng, việc các sĩ phu chia rẽ vì kẻ ra, người ẩn trong thời thay ngôi đổi chúa, từ cuối Lê đến đầu Nguyễn.

    Còn biết bao nhiêu mẫu chuyện khác với những câu thơ, bài văn mang tính chất hư hư thật thật, nhiều khi mập mờ tối nghĩa, tuy rằng các tác giả vốn dĩ là những người bác học đa tài. Nhưng thiết tưởng đưa ra vài chứng tích như trên, cũng đủ gợi thêm cho vấn đề thêm sáng.
    (1) Ngựa phi ... quay cổ chỉ nhà Lê
    Thú Dữ ... cắn người ... chỉ họ Trịnh
    (2) Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, trong sách La Sơn Phu Tử do nhà Minh Tân xuất bản tại Paris 1952.

    Chư Tổ trong Bửu Sơn Kỳ Hương cũng dùng lối thực hư để tiên đoán
    Năm 1849, Ngài Đoan Minh Huyền sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương và được thế nhân tán thán công đức, tôn xưng là Phật Thầy, Ngài cũng từng phán dạy nhiều sự việc mà về sau, những lời dạy mang tính chất truyền sấm ấy người ta cho là đều ứng hợp thảy cả. Xin cử vài thí dụ:

    Để tiên đoán việc sau này, sẽ có ngưới trở về kế truyền tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Ngài hoằng hóa, Đức Phật Thầy nói:
    Chừng nào trâu rống dưới sông
    Lòng Ông bảy chợ thì Ông trở về.
    Người ta để ý thì thấy năm 1939, tại Lòng Ông (tức dòng sông nằn giữa lòng Cù Lao Ông Chưởng) đò dọc đầy sông và những tiếng tù và làm bằng sừng trâu được thổi lên inh ỏi để kêu gọi hành khách. Rồi hai bên Lòng Ông, từ vàm dưới lên vàm trên cũng đã mọc lên đủ đúng bảy cái chợ. Cũng trong năm ấy Đạo Phật Giáo Hòa Hảo ra đời, kế tục hưng truyền đại đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

    Để chỉ việc các bà nội trợ không phải giữ lửa trong bếp như hồi cựu trào và đàn ông sẽ làm thợ may thay thế cho họ. Đức Phật Thầy nói:

    “Sau này đàn bà thì vùi lửa trên nóc mùng; còn đàn ông thì học đòi nghề may vá kim chỉ”.

    Thiên hạ đương thời đã ngơ ngác biết mấy khi nghe lời trên; mãi đến hồi có hộp quyẹt diêm, mua sẵn để trên nóc mùng phòng khi đêm hôm thức dậy đánh lửa đốt đèn cho tiện, và đàn ông thì làm thơ may với những cái máy tối tân, ai nấy mới bật nghĩ ra!

    Ngoài Đức Phật Thầy Tây An, còn có Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư, Ông Sư Vãi, cũng có truyền thế bằng những câu nửa thật nửa hư như vầy:
    Với Đức Phật Trùm thì:
    Rày Kinh nay đã đóng biên
    Hai năm Tuất Hợi gần miền Phật ra
    Tử dân vô số hằng hà
    Độc trùng ác thú đều ra hại người
    Phần thời giắc đánh tới nơi
    Phần thời giặc trời ra hại người ta
    Chư hầu dấy động can qua
    Đến chừng thấy Phật thì cón bâu không!
    Với Đức Bổn Sư thì:
    Chừng nào cây quế trổ bông
    Bồ Đề có trái thì ông trở về
    Và với ông Sư Vãi Bán Khoai thì:
    Bây giờ hưỡn đãi không lo
    Đến cơn bát loạn nằm co kêu Trời
    Bấy lâu dạy chẳng nghe lời
    Để cho ác thú trên trời xuống ăn
    Đoái nhìn lửa chạy tứ giăng
    Trên non chín động binh chằng kéo ra
    Lao xao kẻ khóc người la
    Cong lưng mà chạy biết ra ngã nào?
    Lời truyền sấm của Tam Tổ miền Thất Sơn vừa dẫn, thế nhân cho rằng có điều đã ứng nghiệm, có điều đang ứng nghiệm, và có điều chưa đến, vì những câu này được sáng tác từ non trăm năm trở lại đây. Điều đó còn tùy thuộc ở sự suy nghiệm và lòng tin tưởng ở mọi người.

    Đức Giáo Chủ với sự thực hư và lối vần về.
    Một điều hệ trọng trong tâm chương này là sự thực hư và lối vần vè trong Thi Văn Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ.
    Bắt đầu từ năm 1939, song song với việc cứu bịnh cho quần chúng. Ngài thuyết pháp và viết Kệ Kinh.
    Lời văn của Ngài có lúc thật lưu loát văn hoa, như có hồi bất cần âm luật và lắm khi, có những dụng ngữ mập mờ của những câu sấm ngữ.

    Mở quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, chúng ta chẳng cần lựa chọn gì cũng được thấy nhan nhãn những câu êm đềm, óng chuốt. Ví như mấy câu mở đầu cho Sấm Giảng Quyển Ba của Đức Giáo Chủ:
    Ngồi trên đảnh núi liên đài
    Tu hành tầm đạo một mai cứu đời
    Lan thiêng một cõi xa chơi
    Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng
    Hiu hiu gió thổi lạnh lùng
    Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai...
    hoặc như mấy câu đầu trong bài tự tán:

    Vì đâu bốc ngọn lửa Tần
    Mà lòng Tăng sĩ như dần nát tan
    Nghĩ mình chọn kiếp con hoang
    Quê hương rày đã dặm tràng sơn xuyên...
    Bên cạnh những câu nhẹ nhàng trôi chảy, chúng ta cũng thường gặp những câu bất chấp âm luật, và chẳng cần đẻo gọt văn từ. Ví như bốn câu Việt Hán trích trong bàiLý Lịch:
    Huỳnh sanh cơ thẳm đáo trung đàn
    Tự giác âm thầm kiếm tiên bang
    Bủu ngọc sơn trung kỳ hương chí
    Tứ hải bất hòa khởi tiên giang
    Và bài Quốc âm tứ tuyệt sau đây mà Ngài đã trả lời cho một người ngoại đạo năm 1939:
    Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần
    Một hội này ráng lập thân
    Chớ để trễ trày rèn chẳng kịp
    Khuyên ai khuya sớm ráng chuyên cần
    Nhưng một phần lớn trong Thi Văn Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta còn thấy đựng chứa một lối viết sấm ký. Lối này thật khó rút đại ý, khó phân tích minh bạch được bố cục hoặc ý nghĩa toàn đoạn, toàn bài.. Chúng ta thử đọc mấy câu trong bài Hố hò khoan:
    Huỳnh Long lộ vĩ
    Bạch sĩ tiên sinh
    Nam quốc công khanh
    Ra đời cứu tế
    Hò xang xự xế
    Mắt kế Trương Lương
    Tự giác thôn hương
    Qua dương cơ khí
    Lập chí hiền nhân
    Nên mới có cơn
    Thất sơn tiếng nổ
    Quy cổ diệt Kim
    Cửu cửu y nhiên
    Tình riêng tham báu
    Đổ máu tuôn rơi
    Khùng mới nói chơi
    Chư bang hàng phục...
    Hoặc mấy câu khác nữa trong bài Thiên Lý Ca:
    Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu chít
    Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó o
    Tường tận đã nghe xê cống liếu
    Hương thôn bỏ xế xự xang hò (1)
    Và đoạn sau đâu trong Tự thán:
    Mắt đen thấy mắt trắng lòa
    Phật ma ma Phật mới ra vở tuồng
    Trời già tay khéo khéo luôn
    Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui
    Năm canh luống những sụt sùi
    Cảm trông dân chúng lắm người dở dang
    Sầu chung ta cất tiếng than
    Phù sanh kiếp có đoạt tràng thì thôi.
    Bon bon chuông giục mấy hồi
    Rầm rầm sấm nổ trên đồi xa xa
    Đầu canh tiếng động bên nhà
    Chờ ba canh một thì gà gáy tan
    Ngoài mấy đoạn trích dẫn có tính cách thật hư, còn có lối việt rất mực bình dân, lắm lúc như vần è và dụng ngữ như hình không cần chọn lọc. Mời bạn đọc qua đoạn sau đây:
    Bạc không cánh đổi thay chẳng xiết
    Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn
    Mới mấy năm sao quá hao mòn
    Mùa màng thất đói đau không thuốc
    Thương hại bấy lê dân đứt ruột.
    Thảm vợ con đói rách đùm đeo
    Gẫm chữ nghèo còn mắc chữ eo
    Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc...
    Ai cũng hiểu là tính cách một bài vè được phảng phất đâu đây qua những câu trên. Thế mà có lúc, Đức Giáo Chủ còn dùng những tiếng hoàn toàn quen thuộc của giới nông phu mà người chưa hiểu dụng ý của tác giả, có thể trách lầm là quê kệch. Chẳng hạn:
    Câu chánh nghiệp thật là quá bự
    Dầu nghề chi làm việc ngay đường
    .....
    Có người ở xóm bằng nay
    Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn
    .....
    Xóm này kẻ ghét người ưa
    Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
    Những tiếng bự, bằng nay, rày, sạch trơn nổ bừa, quả là những tiếng dùng quen thuộc của hạng bình dân phác thực.
    Bài này thuộc lối thuận nghịch độc, xin đọc ngược từ dưới lên

    Đức Giáo Chủ có mục đích gì khi dùng lối văn ấy?
    Bình tĩnh mà xét, bắt đầu từ Vạn Hạnh thiền sư, Trạng Trình, La Sơn Phu Tử, Phật Thầy Tây An và Chư Tổ Sư cho đến gần đây Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, trước hết, ta thấy giữa thời hôn quân tác quái, Lê Long Đỉnh từng dám đạt mía lên đầu nhà sư mà róc, từng bắt người trèo lên cây cao rồi đốn gốc cho ngã xuống dập xác để mua cười, thì một câu nói sơ hở do một sự buột miệng gây nên cũng đủ chết cả dòng họ chứ đừng nói chi là những âm mưu hay tác động chống chế chánhquyền. Do đó mà bao nhiêu sách lược để làm một cuộc đảo chánh nhân đạo đã được Thiền Sư Vạn Hạnh gói gọn vào những vần chánh thi.

    Còn Trạng Trình, sống giữa thời đại nhiễu nhương, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn bên nào trước sau rồi cũng nối tiếp mà có thế lực to, nếu không là hạng thức thời cứ thật như đười ưoi, thẳng như ruột ngựa, không dùng lối nửa úp nửa mở để chỉ vẽ, thì làm sao mà đứng vững đuộc và tiến xa được trong cái thế rất khó khăn rắc rối giữa bao tư tưởng đối lập và giữa các triều đình?

    Đến như trường hợp La Sơn Phu Tử, thì tác dụng của lối văn trên lại càng cần thiết.

    Con người đanh thép như vua Quang Trung mà phải xem cụ là bậc thầy, rồi đến vua Gia Long là tay đầu mưu lược, thế mà vẫn phải tôn trọng, mặc dù nhà vua đã biết rằng Phu Tử đã từng giúp rập cho Tây Sơn, thì ta đủ rõ được rằng trong lẽ xuất sử với những lời chỉ giáo hư thật phi thường phải có công năng chẳng ít.

    Đức Phật Thầy Tây An đá tránh né khá nhiều trong cách ăn nói, như ta vừa thấy. Thế mà Ngài còn chưa hoàn toàn thoát khỏi cái nghi án tà gian đạo sĩ trong buổi khai thông đại đạo, cho nên thế tất Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư, Ông Sư Vãi cũng không sao không dùng cách ấy cho được.

    Riêng về Đức Giáo Chủ lối viết nửa thực nửa hư lại còn cần thiết nhiều hơn. Bởi vì giữa hồi bị trị, mọi tác động có ý nghĩa đắc nhân tâm, cho dẫu là hạng tay sai thực dân, cũng là bị dòm dỏ, huống chi đắng này Đức Giáo Chủ với mục đích hoằng khai một mối đạo, mà không có cách áp dụng khéo léo như vậy để cho đối phương không để ý và không khủng bố gắt gao thì làm sao hơn?

    Trường hợp thứ nhất, trong bài Diệu Pháp Quang Minh viết năm 1940, có những câu:
    Đạo mở cửa bày câu minh mục
    Nước Ma ha tưới tắt lòng phàm
    Cõi Trung Ương luân chuyển phương Nam
    Mở hội Thánh chọn người trung hiếu
    Tử vì nước còn ghi linh miếu
    Thác vì đời thanh sử danh bia
    Như khi đưa ra, để tránh sự khó dễ của thực dân, đối với những người lương thiện ưa Kính trọng Phật, nên Đức Giáo Chủ bảo phải đổi lại câu “Tử vì nước còn ghi linh miếu” thành ra “Tượng Quan Thánh còn ghi linh miếu”

    Chỉ mỗi một câu ca ngợi tinh thần trung hiếu của một số người xưa trong lịch sử, cũng phải dè dặt giữ kín, thế mà cũng không tránh khỏi hoài nghi, không khỏi sự câu lưu hoặc an trí nơi này nơi nọ. Thử hỏi nếu Đức Giáo Chủ cứ ngang nhiên tác động, cứ tỏ rõ lập trường mở Đạo giảng dân, thì kẻ thống trị bấy giờ thẳng tay đàn áp là bao?

    Trường hợp thứ hai, ngày mùng một tết năm Canh Thìn (1940), một năm mà thế giới đang sôi động vì đại chiến thứ hai đang tàn hại sinh linh, và nhân dân các nước nhược tiểu cũng đều đang vùng dậy để tự cứu mình, Đức Giáo Chủ cảm xúc vì nước Việt Nam thân yêu vẫn còn bị nặng đè dưới gông cùm thống trị và ngọn cờ ba sắc củqa Pháp vẫn phất phới một cách tự do, nên đã khẩu chiếm bài thơ sau đây:
    Tam sắc cờ bay phất phới mà
    Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta
    Thuở xưa đâu có cờ tam sắc
    Một cảnh vong bang ứa ruột rà...
    Tuy ngẫu hứng như trên, nhưng khi đến nhà thương Chợ Quán, Đức Giáo Chủ đã có thư về dạy phải đổi lại, nguyên văn như sau:

    Tam sắc cờ bay phất phới mà
    Ngồi nhìn khoăn khoái cõi lòng ta
    Thuở xưa đâu có cờ tam sắc
    Nay hiệp Tây Đông thể ruột rà.
    Anh em tín đồ ngơ ngẩn không rõ vì sao lại có sự đổi thay lạ lùng như thế, nhưng chỉ có cách là im lặng, nghĩ suy đợi chờ xác nhận mà thôi.

    Thì bỗng một hôm, Cai Tổng Pho, một chức trách đang cầm quyền trong Tổng An Lương đương thời, phải đích thân đến nhà Đức Ông, thân sinh của Đức Giáo Chủ để điều tra về bài thơ Cờ Tam Sắc nói trên. Cai Tổng Pho toan làm khó dễ Đức Ông, bảo rằng bài thơ đó lính kín Pháp cho biết là Đức Thầy cố tình chống Chánh phủ.

    Giữa lúc ấy sẵn có nhiều người, Đức Ông liền bảo ông Nguyễn Chí Diệp, một tín đồ thường được hầu hạ bên cạnh Tôn Sư, đọc bài Cờ Tam Sắc cho Cai Tổng Pho nghe. Ông Diệp liền chậm rãi đọc lên bài thơ mà Đức Thầy mới gởi về.

    Cai Tổng Pho nghe xong, vừa ý, vỗ tay nói lớn:
    -“Vậy mà người ta lại đọc khác chớ!”
    Thế là huề cả làng! Thế là anh chị em tín đồ thêm một lần nữa, tin tưởng hơn lên về sự tiên đoán và đức thận trọng của bậc Chân Sư.

    Đến đây chúng ta có thể xác định được rằng, sự thật hư, sự không cần niêm luật, sự chẳng nói cao xa, trong thơ văn của Đức Giáo Chủ, là một dụng ý rõ rệt của ngài với mục đích làm cho thực dân cũng như bất cứ ai là kẻ đối nghịch tư tưởng, sẽ xem Ngài là hạng tầm thường, không có khả năng gì để tiến vững và tiến xa để cho Ngài và bổn đạo Ngài không mắc vào những trở ngại lớn, đồng thời, Ngài cũng dụng tâm gây sự chú ý cho những ai quyết lòng suy nghĩ về Đạo của Ngài.

    Riêng về lối viết bình dân giản dị, đôi câu mang tính chất vần vè, không cần lựa chữ, cũng là một chủ tâm khác nữa của Ngài chứ không phải vô tình. Chúng ta có thể thấy rõ được chủ tâm đó như sau:

    -Phải có lối bình dân giản dị mới làm rung động được những tâm hồn phác thực trong lành.

    -Phải có tính chất vần vè mới gợi cảm được những quả tim mà từ khi còn ở trong nôi, đã từng biết nghe những câu hát ru em qua tiết điệu Ca dao, thơ Vân Tiên, vè Sáu Trọng.

    -Phải có những tiếng nói, nói được cái nói của gã chèo đò, của cô hàng nước, của bác nông phu, mới có tác dụng kích động tâm tính hồn nhiên của những hạng người ấy một cách chân thành.

    Chúng ta có thể quả quyết rằng sự thực hư và lối vần vè trong Thi Văn Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ là một chủ trương của Ngài, một phương thức mà Ngài có mục đích làm cho ngoại nhân không thể dòm tìm, xét đoán được; còn người tầm đạo thì sẽ hết lòng chú ý, theo đuổi mà nghĩ nghiệm ra (1)

    Thật vậy, người ta đã nghi Ngài có thể thành công phương tiện tôn giáo vì có hàng đợt sóng người kéo đến quy y, nhưng khi cho lệnh xét qua Sấm Giảng Thi Văn, kẻ vô tâm không tàoi nào khám phá nổi mục đích của tác giả muốn gì và định làm gì trong mai hậu, bởi họ không hề nắm được một Giáo Pháp rõ ràng trong kho tàng Pháp bảo mà Đức Thày đã đưa ra.

    Người ta cũng có nghi Ngài sẽ làm chính trị, nhưng khi phái người rình dò từ sinh hoạt đến những buổi Thuyết Pháp thì lại được thấy toàn những mập mờ khó hiểu, đôi khi như cuồng loạn đảo điên, khiến họ không biết phải trừng trị phải áp đảo bằng lẽ gì!

    Lắm lúc quá bực vì những tờ báo cáo của hạ cấp, người ta ngờ là Ngài khùng điên thật y như lời Ngài tự xưng, nên cho lệnh dời ngày đến nhà thương Chợ Quán để phân tích bệnh trạng. Như vị bác sĩ ở đây đã ngẩn ngơ không tìm được bệnh, rồi lại quy y luôn với Ngài, khiến họ chỉ còn có cách giữ Ngài lại để thời gian giải đáp.

    Sự thật, thời gian đã giải đáp được một cách rạch ròi, từ năm 1945 đến nay:
    -Ngài là một Giáo chủ gương mẫu.
    -Ngài là một lý thuyết gia quần chúng.
    -Ngài là một nhà cách mạng chân chánh.

    -Ngài là một thi sĩ tài hoa.
    Nếu muốn nhận định một cách sâu sắc và tế nhị hơn, ta phải thấy những gì thực hư úp mở từ 1945 từ trước đã không còn trong những sáng tác phẩm của Ngài từ đó trở đi. Ta sẽ không lấy làm lạ ở hiện tượng đó là vì từ 1945 về sau, tình thế đã trăm phần sai khác.

    Ngài cũng đã nhiều lần hé lộ huyền cơ qua dụng tâm ấy –sự dụng tâm “lập chí hiền nhân” mà không cho đối phương nắm được chủ đích- trong Thi văn của Ngài:
    Hò xang xự xế
    Mắc kế Trương Lương
    Tự Giác thôn hương
    Qua dương cơ khí
    Lập chí hiền nhơn
    Nên mới “có cơn”
    hoặc là:
    Thấy “điên khùng” làm như sắt nguội
    Chẳng tranh đương nó lại khinh khi
    Ngó về Tây niệm chữ từ bi
    Cười trần thế mê si thái hóa!
    Một chứ cứ cụ thể nữa để làm sáng tỏ thêm vấn đề, là năm 1943, khi có dịp bàn đến sự lễ bái, Đức Thầy đã có nói với đồng đạo Lương Trọng Tường (Hội trưởng Trung Ương) lúc đó đang ở bên cạnh Ngài, một câu như vầy:

    “Sở dĩ thầy chưa cho lịnh thống nhứt về cách lễ bái là vì Thầy không muống người ta trông vào cách lễ bái đó mà nhận ra là tín đồ P.G.H.H.”

    Vậy thì các sử gia, hoặc văn học sử gia, cũng như bất cứ ai muốn tìm hiểu Đức Huỳnh Giáo Chủ, đều không thể nào tách rời cái dụng ý hư hư thực thực và vần vè trong Thi Văn Sấm Giảng của Ngài mà xét nhận một cách đúng đắn được.




     
    Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 20/1/15
  3. TTT

    TTT Member


    Chương Thứ XIII: Nền Văn Minh Tây Phương Qua Sấm Kinh Phật Giáo Hòa Hảo


    Văn minh những vỏ trưng ba mặt

    thắm thía tim gan ứa mấy dòng

    Nếu mối cảm xúc của nhà văn có tính cách tiên tri; nếu trong thảm kịch lịch sử nhà văn đã linh cảm và tiên đoán những gì sắp xảy ra; nếu tác phẩm văn chương là một “phong vũ biểu” giúp người ta dự đoán tương lai và hiểu rõ hiện tại, thì tính thôntg linh của nhà tôn giáo cho thấy chắc chắn, rõ ràng thời tiết trong tương lai, nói trước ngọn gió đạo đức nào sẽ thổi cũng qua như những cơn giông tố nào của lịch sử sẽ đi qua...

    Giữa lòng thế kỷ 19, khi Nguyễn Công Trứ đã chán nản lợi danh vinh nhục để bắt đầu cuộc sống thần tiên thời trí sĩ với cảnh “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”, thì người Việt Nam cũng bắt đầu làm quen với tiếng súng đại bác của Tây phương. Rồi khi Nguyễn Khuyến thăng Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, thì các tỉnh miền Nam đã ở trong tay người Pháp; người dân ở đây đã quen nhiều với những khí giới tối tân, Thi ca của Tôn Thọ Tường, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu... đã ít nhiều cho thấy sức mạnh của văn minh tân tiến. Nhưng phải đền đầu thế kỷ 20 người ta mớii hiểu được nhiều hơn căn bản của nền văn minh đó.

    Số người theo Tân học khá đông,sách vở báo chí cũng phổ biến khá nhiều. Đến khi Tự Lực Văn Đoàn ra đời, hô hào thúc đẩy thanh niên mạnh dạn đi vào con đường “Âu hóa”, thì văn minh cơ khí đã tiến những bước quá xa. Dân Việt Nam đã biết rõ thế lực của nó, một số người đã được hưởng những tiện lợi do nó mang lại, một số người khác đi xa hơn, tin tưởng chắc chắn rằng rồi đây với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, mọi huyền bí sẽ được khám phá, con người sẽ là chúa tể của vũ trụ, thiên đàng sẽ được hiện ngay trên mặt địa cầu, hoàn kim thời đại không phải ở sau lưng mà ngay trước mắt, trên con đường thẳng của lịch sử.

    Bảy năm sau khi Tự Lực Văn Đoàn ra đời, Đức Giáo Chủ mới bắt đầu mở Đạo ở miền Nam này. Ngài đã khởi sự viết và truyền bá những Sấm Kệ và một số những Thi Văn Giáo Lý. Lúc này người trí thức tân học Việt Nam đang hướng về văn minh Tây phương, đặt nhiều tin tưởng và hy vọng vào khoa học, riêng Đức Giáo Chủ lại xót xa than thở qua Sấm Kinh của Ngài:
    Ta quá rầu đài các văn minh
    Mấy ai mà giữ dạ sắt đinh
    Theo Tông Tổ của mình thuở trước
    Trong bài Trao lời cùng Ông Táo, Đức Thầy cũng khuyến cáo:
    Đời văn minh vật chất bỉ gương xưa
    Nghiệp Tổ Tiên con cháu dày bừa
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục
    Khắp thế giới binh lương cụ túc
    Quyết tranh giành quyền lợi xé sâu nhau

    Vậy văn minh là gì? Nền văn minh Tâyphương tựa trên những cơ sở nào, có những hậu quả tai hại là gì? Tại sao Đức Thầy đã lên tiếng không chấp nhận nền văn minh đó?

    Văn minh là gì? Văn minh –theo nghĩa chữ- là vẻ sáng sủa rực rỡ; chỉ trạng thái tiến bộ của đời sống nhân loại trong nổ lực vượt qua trạng thái dã man. Dùng để dịch tiếng civilisation của Pháp, văn minh chỉ toàn thể sức mạnh tinh thần, những hiểu biết và khả năng của con người, những hoạt động hữu lý nối tiếp (hay đôi khi đối lập) những hoạt động mù quáng của bản năng và sức mạnh (1)
    Với ý nghĩa rộng rãi đó, khó mà phân định rõ ràng ranh giới của văn minh và dã man. Con người thật sự ở trạng thái thuần tự nhiên đã không còn nữa từ mấy trăm ngàn năm nay. Tất cả những giống người, được các nhà khoa học phát kiến, đã có ít nhiều mầm mống của văn minh. Bắc kinh viên nhân (Sinanthiopus pékinensus) đã biết tạo dụng cụ và biết dùng lửa. Tuy nhiên đó chỉ là con người thời tiền sử, và tất nhiên không ai dùng chữ văn minh để nói đến trạng thái của nhân loại trong thời tối tăm mịt mù này. Chỉ được xem là văn minh khi con người tiến đến trình độ sinh hoạt khá cao. Xưa nhất người ta có thể nói đến văn minh Ai Cập, Mésopotamie, Crète..., Ấn Độ, Trung Hoa và có thể có cả nền văn minh Việt Nam nữa (2)

    Nhưng chữ văn minh mà Đức Thầy nói ở đây không phải ở trình độ văn minh nói trên. Vấn đề bài bác văn minh không đặt ra đối với nền văn minh xa xưa đó. Giữa thế kỷ 20, nó chỉ là vết tích của một quá khứ mịt mù. Nền văn minh mà Đức Thầy muốn nói là nền văn minh hiện đại của Tây phương, nền văn minh cơ giới, kết quả của những tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã làm đảo lộn tất cả đời sống con người từ hơn thế kỷ nay.

    Người dân Việt ngày nay, từ thành thị đến thôn quê, không còn lạ gì với những súng ống tối tân, những phi cơ siêu thanh phản lực, những máy thu thanh, vô tuyến truyền hình... tất cả những phát minh và sự quản dụng cơ khí trên các địa hạt kỹ nghệ, giao thông, quân sự... kết quả của nền văn minh đó. Nhưng nếu trăm năm trước đâu, người Trung Hoa cũng như người Việt Nam, trước sự tấn công ồ ạt của những họng súng tối tân, vẫn xem người Âu Châu như một bọn bạch quỷ dã man, thì ngược lại từ đầu thế kỷ 20 đến giờ, chúng ta đã ý thức được sự chậm tiến, tình trạng kém mở mang, của chúng ta để công nhận sự tiến bộ vượt bực của họ cũng như sức mạnh vạn năng của văn minh Tây phương vậy.

    Thế nhưng Đức Thầy lại bài bác, không chấp nhận nền văn minh hiện đại, mà lại khuyên chúng ta tìm về nguồn cội, quay về với Tổ tông, là tại làm sao? Chủ trương ấy mới nghe có vẻ nghịch lý, lỗi thời, nhưng xét kỹ đó là những nhận định sâu xa và là những lời tiên tri để cảnh tỉnh con người trước khi họ sa vào vực thẳm.

    (1) La civilisation est une somme de forces spirituelles de savoir et de pouvoir humain, d’activités raisonnables qui se superposent (et parfois s’opposent) au jeu aveugle des instincts et des forces. (K.Birket Smith – Histoire de la Civilisation).
    (2) Ông Lê Văn Siêu đã có quyển “Văn Minh Việt Nam” để khai thác những đặc điểm được xem là văn minh của dân tộc.

    Hậu quả bi thảm của văn minh khoa học.
    Người Tây phương ngày nay có thể rất tự hào về những tiến bộ khoa học kỹ thuật của họ. Nhờ những công trình nghiên cứu có phương pháp, những phát kiến quan trọng của các nhà bác học trên địa hạt vật lý, hóa học ... ngày nay họ có những nhận thức có hệ thống chính xác, khách quan ... Và từ những kiến thức khoa học đó họ áp dụng vào việc sáng chế các máy móc tối tân tạo nên nhiều tiện nghi giúp cho đời sống vật chất của con người ngày thêm tiện lợi.

    Việc giao thông dễ dàng nhanh chóng bởi những phương tiện di chuyển tối tân như các loại xe cộ, tàu thủy, phi cơ. Đời sống của họ rất sung túc, sung sướng trong những ngôi nhà lộng lẫy trang hoàng bằng đủ loại máy móc tinh xảo: máy giặt, máy hút bụi, máy đều hòa không khí, máy thu thanh, máy vô tuyền truyền hình, đủ thứ. Một bữa ăn của người Âu Châu có thể có đủ các món ngon vật lạ đến từ những nơi xa côi, và đời sống của một người khá giả có thể có nhiều thích thú lạ lùng hơn cả những bậc đế vương thuở trước.

    Những đã hẳn đó chỉ là về phương diện vật chất; còn về phương diện tinh thần thì saso? Thật ra người Tây phương họ còn hãnh diện hơn nữa về những tiến bộ kỹ thuật của họ. Họ có tự do, dân chủ, hó có pháp luật để bảo vệ quyền làm người, nhân phẩm được tôn trọng, cả loài vật cũng được bảo vệ. Trên mọi địa hạt giáo dục, xã hội, ở đâu cũng được rực rỡ bởi ánh sáng của văn minh tân tiến.

    Tuy nhiên cơ sở của nền văn minh đó thật ra không có gì vững chắc. Và ngay từ đầu thế kỷ này đã có nhiều người ý thức được mong manh, bấp bênh cũng như những tai hại của nó. Tất cả chỉ là cái bóng bảy hào nhoáng bên ngoài mà thôi. Những kiến thức khoa học mà họ tự hào, dù cho có tiến bộ, cũng chỉ là những kiến thức của con người trong thân phận hèn kém của nó mà thôi. Bao nhiêu huyền bí vẫn mãi mãi là huyền bí. Cho đến nay, người ta đã biết được gì chắc chắn về vũ trụ, về quả đất địa cầu, về sự sống? Người ta biết gì về uyên nguyên cứu cánh của nó? Tổng cộng những hiểu biết để so với những gì chưa biết được, ta mới thấy sự hiểu biết mà ta tự hào ấy thật là vô nghĩa.

    Trên địa hạt kỹ thuật cũng thế. Tuy biết rằng mọi nỗ lực trên địa hạt này đều nhằm phục vụ cho đời sống nhân loại, làm cho con người sung sướng hạnh phúc hơn. Nhưng sự sung sướng hạnh phúc ấy – nếu cho là có- cũng rất mong manh, vì nó gắn liền với cuộc sống giới hạn, cảnh đời tạm bợ của cõi vô thường. Mà hơn thế nữa, người ta còn có thể nghi ngờ hạnh phúc do cơ giới mang lại. Thật sự con người có được hạnh phúc không, trong đời sống văn minh đó?

    Nhà kinh tế học có một lầm lẫn lớn là lẫn lộn mực sống và hạnh phúc. Mức sống của con người chỉ có giá trị đối với nhà thống kê; mà những con số của họ nêu lên chỉ là những con số chết trước hạnh phúc thật sự. Nói một cách khác hơn, hạnh phúc của con người không tùy thuộc vào số y sĩ, đường rày xe lửa, số calories, số kilowatts điện, số những cú điện thoại hằng ngày, hay là số tiền lương hàng tháng. Hạnh phúc tùy thuộc nhiều hơn ở tâm trạng thanh bình an nghỉ của con người.

    Chẳng những kỹ thuật không đem lại hạnh phúc, không thỏa mãn được những nhu cầu của con người mà nó còn kích thích , còn đẻ thêm nhiều nhu cầu khác khiến cho con người càng cảm thấy thiếu thốn thèm khát. Đó là chưa nói đến bao nhiêu nỗi lo âu, thắc mắc khác, bao nhiêu những khắc khoải kinh hoàng, thường hay ám ảnh đe dọa trong tâm hồn. Tính cách phi lý, vô nghĩa, thừa thải của kiếp người là điều họ vẫn thường xuyên ý thức.

    Nếu từ Bacon, người ta hy vọng rằng trí óc của con người trong ít thế kỷ sẽ đạt đến chân lý vẹn toàn để duy trì lý hóa vĩnh viễn mối tương quan vũ trụ và con người, thì ngược lại từ những khám phá mới mẻ của khoa học ở giữa thế kỷ 20 dẫn đến những thuyết tương đối, bất định... con người bắt đầu thất vọng cảm thấy con đường tiến bộ của minh chỉ dệt bằng một chuỗi dài những ảo tưởng. Khủng hoảng trí thức! Chân lý không bao giờ đạt được nếu không nhờ khai thị, nếu chỉ trông vào trí óc con người. Một số triết gia Tây phương đã lên tiếng về sự bất lực của khoa học, cái bấp bênh của cơ sở văn minh hiện đại (1)

    Cơ sở đã không vững vàng mà hậu quả lại càng tai hại. Trước hết là sự sùng tín khoa học. Sự tin tưởng mù quáng và kiêu hãnh ơ nơi bộ óc con người đã đưa đến chủ nghĩa duy lý độc tôn bóp chẹt tình cảm cá nhân, dòng sống cụ thể của con người, nó là một sai lầm nguy hại. Sự thờ phượng khoa học không thể không đưa đến chủ nghĩa duy vật nguy hiểm dù ở phía tư bản hay người cộng sản.

    Từ đó không biết bao nhiêu những hậu quả gớm ghê khác. Bao nhiêu cuộc chiến lớn nhỏ nguội lạnh, bao nhiêu tkhí giới giết người tối tân được đem ra xử dụng. Sắt, máu, khói, lửa, hơi độc ... tàn sát tiêu diệt hàng triệu triệu người.

    Đây là một bằng chứng: “khi sự bùng nổ xảy ra ở Hiroshima, đó là một luồng hào quang chói lọi, và tất cả trung tâm thành phố bị vùi dập trong một làn chớp ngắn. Từ thành phố ấy, một cơn gió bạo tàn trỗi dậy, lột trần những người sống sót. Những người đàn bà mặc Kimono hóa ra trần truồng, với các hình vẽ của vải in trên da thịt loang lở vết cháy. Gió quất vào cơ thể như mũi kim lửa. Hàng trăm ngàn sinh linh bị tiêu diệt trong khoảnh khắc, hàng trăm ngàn người chết mòn mỏi, dăng dẳng cả chục năm...” Đây chỉ mới là trái bom nguyên tử của năm 1945.

    Một văn sĩ khác ghi lại cái thê thảm của Âu Châu:
    “Tôi đã nhìn thấy cảnh Âu Châu sụp đổ, cảnh bao người chết đói, cảnh những kẻ bị tù đày, hành hạ và chết mòn trong các trại tập trung... Tôi đã nhìn thấy cảnh chết chóc tàn tạ của cả một lục địa với những khối người, những pháp luật, lòng tín ngưỡng và hy vọng của nó, chết mà không biết rằng mình chết. Tôi chỉ có thể nhìn thấy phố xá điêu tàn, các lũ người điêu tàn, các thánh đường điêu tàn và các niềm h vọng sụp đổ...”

    Cảnh thế chiến thứ hai đã ghê tởm đến thế, nếu có thế chiến thứ ba, chắc chắn đó là ngày tận thế. Điều đó không phải là không thể xảy ra khi hai khối lớn, hai khối đối lập trên thê giới hiện nay, đã sẵn sàng làm những võ khí nguyên tử, thừa để tiêu diệt mọi sự sống trên địa cầu trong giây lát. Mà dù cho không xảy ra chiến tranh đi nữa, con người trong xã hội văn minh máy móc kia đã phaải mang một bộ mặt thê thảm, phi nhân tính.

    Nhiều triết gia văn sĩ đã tố cáo, đã lên án. Đây là lời của một người: “Bầu không khí của xã hội hiện thời dễ trở nên ngột ngạt, con người không thể chịu đựng được nữa.. Bàn giấy, chủ nghĩa, quân đội, chính phủ, tổ chức, nhà nước... mọi thứ đều hướng vào việc bóp nghẹt con người.”

    Và “xã hội hiện thời coi giá trị một người chỉ bằng hai hoặc ba tá nô lệ kỹ thuật (máy móc). Nó được tổ chức và hoạt động theo các định luật kỹ thuật. Đó là một xã hội được tạo nên do nhu cầu máy móc chớ không phải do nhu cầu của nhân loại. Và tấn thảm kịch bắt đầu từ chỗ ấy”.

    Cho nên dù người ta có biện minh các nào đi nữa, đó vẫn là hiển nhiên là hậu quả của văn minh, của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
    Xem chương 15, Vấn đề hòa bình trong P.G.H.H. tiết mục: Sự lấn áp của văn minh khoa học đối với đạo đức nhân nghĩa.

    Những lời cảnh cáo
    Người Âu Châu, nguời của xã hội văn minh đã vậy, người Việt Nam từ khi tiếp xúc với văn minh Tây Phương đã học hỏi những gì? Một số không nhỏ những người chạy theo văn minh Tây Phương là vì cái hào nhoáng, cái rực rỡ bên ngoài, cái xa hoa vật chất của nó. Đó là những kẻ tự tách rời khỏi đời sống của đại đa số quần chúng để có một nếp sống vật chất xa hoa như người Tây phương:
    Văn minh sửa mặt sửa mày
    Áo quần láng mướt người rày ăn chơi
    Dọn xem hình vóc lã lơi
    Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa
    Từ miếng ăn, cái uống, đến y phục, nhà cửa... nhất nhất đều rập theo khuôn khổ Tây phương, ngay cả đến cái tên cũng thế. Trong khi đó số đông dân chúng nghèo khổ bị họ khinh khi chê cười. Rất ít người biết nghĩ đến dân tộc, đến quốc gia. Người ta thấy phần đông chỉ chạy theo vật chất. Bởi thế Đức Thầy mới bảo:
    Đời văn vật khôn ma khôn quỉ
    Lo trang sức kim thời huê mỹ
    Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà
    Trong tâm thì chứa những gian tà
    Chớ chẳng chứa tấm lòng bác ái
    Học chữ nghĩa cho thông cho thái
    Đặng xuê xang đài các xe tàu
    Có người sẽ bảo: Nhưng đó không phải là văn minh thật sự, văn minh Tây phương đâu phải chỉ ở khía cạnh vật chất, chính tinh thần của nó mới đáng học hỏi. Hoàng Đạo chẳng hạn cách đây mấy mươi năm, đã viết:

    “Âu Hóa, không phải là ăn vận cho đúng mốt Paris, nhảy đầm cho đúng điệu, nặn mũi cho lõ, pha thuốc vào mắt cho xanh. Âu hóa là ta phải tìm đến những điều cốt yếu của văn hóa Tây phương để áp dụng vào đời ta”.

    Chí lý thay, lời nhận xét ấy. Nhưng thử hỏi “tìm đến những điều cốt yếu cùa văn hóa Tây phương để áp dụng vào đời ta” để làm gì? Hoàng Đạo đã trả lời là để “về đủ phương diện tinh thần, luân lý hay vật chất người ta có thể dần dần dìu nhau đến một đời đẹp đẽ, đáng yêu, đáng kính hơn”. và đó là “ý chí sống một đời đáng sống dưới ánh sáng mặt trời, sống một đời văn minh”.

    Thật là lý tưởng! Và lý tưởng đó chỉ là một ảo tưởng đối với một thực tế trái ngược. Các nước văn minh Tây phương có phải đâu là thiên đàng ở hạ giới. Nếu đã là thiên đàng thì đã không có những phong trào triết gia, văn thi sĩ nỗi loạn từ đầu thế kỷ, đã không có những lời buộc tội gắtt gao như đã thấy trên!

    Con người máy móc, mất hết phẩm tính con người, bị lưu đày, bị vong thân, trong một thế giới rạn vỡ... hậu quả tất nhiên của những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, đó mới là sự thật. Nhất là từ những cuộc chiến tranh chiếm thuộc địa, chiếm thị trường, đến đại chiến thế giới thư nhứt và thứ hai, dù nói làm sao đi nữa, người ta vẫn thấy:
    Đời vật chất văn minh tranh cạnh
    Chữ lợi quyền giựt giết lẫn nhau
    Đây mới là sự thật, một sự thật thê thảm mà Đức Giáo Chủ đã thấy biết và tiên tri để cảnh tỉnh những người quá ham mê văn minh (1)
    (1) Theo tiểu luận của Th. Leni. Đuốc từ Bi số 21 tháng 11, 1966

    Chương Thứ XIV: Ý Nghĩa Vô Vi Trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng
    Tầm Vô Vi kiếm cảnh niết bàn
    Trong Kệ Dân (quyển nhì) luận về Phật pháp, Đức Giáo Chủ có viết:
    Làm Vô Vi chánh đạo mới mầu
    Câu tuyên thuyết quan trọng này đã khơi nguồn cho một hệ thống ý thức, nhằm tái tạo lại diệu pháp Vô Vi của Đức Thích Ca.

    Nhưng thế nào là Vô Vi?
    Định nghĩa quá thấp cho một vấn đề thuộc phạm vi hình nhị thượng, một số người đã vội cho rằng Vô Vi tức làkhông làm, người hành đạo vô vi thường không làm gì cả. Cách định nghĩa này đã làm nghiêng lệch chiều nhận xét của phần đông, do đó nãy ra óc tưởng tượng:
    1) – Cho vô vi là đạo chán đời. Người hành đạo hẳn là kẻ ần trong thâm sơn cùng ccốc, làm ổ trên cây, uống nước trên nguồn, xây lưng vào cuộc thế hoặc xem nó như trò vân cẩu mỉa mai. Vô vi như vậy quả không giúp ích được gì cho quốc gia, xã hội.
    2) – Cho vô vi là trạng thái biếng nhác; con người vô vi tuy có sống giữa trường đời thật đấy, nhưng không dám nhảy vào thực tại để thi đua; chưa chiến đấu họ đã đào ngũ lo cầu an tự tại. Vô vi có khác nào một chỗ núp, một mảnh đất dành riêng cho hạng người lánh nạn.
    3) – Cho vô vi là tư tưởng bi quan, trong ấy, con người luôn có mặc cảm với cuộc sống. Họ nhình đời qua một màu xám ngắt; xem nó như một co n bệnh sắp chết. Họ không màng cứu chữa, vì heo họ, có cứu chữa cũng toi công. vô vi thành một chướng ngại không nhỏ trên đường nhân loại tiến hóa.
    4) – Hoặc cho vô vi là một hiện tượng đối kháng, - một cuộc nỗi loạn tâm tình – khi con người tràn ngập bởi những bất công, đau khổ, bị khống chế dưới luật lệ cứng ngắt của tư tưởng cực vi. Hiện tượng đối kháng này giống như các cuộc lãng công trong các phong trào tranh đấu. Vậy vô vi là một cuộc cách mạng thụ động?

    Mấy lối nhận xét phiến diện vừa kể, dĩ nhiên không vạch được con đường nào đi đến chơn lý vì nó chưa cảm nhận nỗi giá trị của chữ vô vi. Nhất là với Phật Giáo Hòa Hảo, một đạo Phật không hoàn toàn nệ chấp kinh luật, không phượng thờ tượng cốt Phật nhưng rất thù thắng trên đường học Phật tu Nhân và song gồn cả tu Thiền lẫn tu tịnh. Cái vô vi trong giáo lý rộng rãi, phong phú kia, mới thật là “bất khả đắc nhi tư nghị giả”.
    Lão Tữ là người đầu tiên đề xướng ra thuyết vô vị tại Trung Hoa. Trang Tử xiển minh và thăng hóa cho thuyết ấy lên đến mức siêu thoát. Kể từ mạc Hán về sau người ta thường dùng danh từ Lão Trang khi nói về học thuyết của hai Ngài.

    Vô Vi qua học thuyết Lão Trang

    Lão Tử sinh ra trong thời loạn lạc, thấy nhà Châu suy nhược, thiên hạ đảo điên không thể cứu vản nỗi, nên chán ngán viết ra bộ “Đạo Đức Kinh”; Ngài muốn kêu gọi con người trở về với tự nhiên, cởi bỏ mọi ước thúc của luân lý hầu sống cho hợp với Đạo. Theo đó đời, loạn mới cần nhân nghĩa, lễ nghi, luật pháp. Vì các thứ đó là con đẻ của ý thức, mà ý thức chính là nguyên nhân của sự loạn. Lấy loạn mà trị loạn thì đại loạn. Chi bằng thủ tiêu tất cả các ý thức luân lý, lễ nghĩa hữu vi kia, để con người được tự nhiên, lòng rỗng bụng đầy, sống cuộc đời tự do như trời đất. Nếu thiên hạ hành được cái Đạo Vô Vi ấy, thì loạn không còn, đau khổ cũng không còn (Ngã vô vi, nhi dân tự hóa). Đó là nhân sinh quan của thuyết vô vi duy nhiên. Trong Đạo Đức Kinh, Ngài viết:
    Vi vô vi
    Sự vô sự
    nếu hiểu theo nghĩa thườn, từng chữ một thì:
    Làm không làm
    Lo không lo
    Nhưng ý của Ngài thì trái lại, Ngài muốn bảo rằng:
    Làm mà như không làm
    Lo mà như không lo
    đó là một cách duy nhiên điềm đạm vậy. Bởi
    Đạo thường vô vi
    (Đạo thường không làm)
    nhưng thấy thì dường như không làm gì cả, chớ thật ra không có cái gì là khôn gdo cái “không làm” ấy mà ra.
    Vô vi nhi vô bất vi
    (không làm mà không gì là không làm được).
    Xét lại câu “Vi vô vi” mà Lão tử đã nói, ta thấy có nghĩa: “Hãy làm cái đạo vô vi (vi vô vi), làm mà như không làm gì cả, làm một cách hết sức tự nhiên, kín đáo, làm như không có làm, hoặc làm mà đừng để mắc trong cái làm của mình”.

    Vậy vô vi trong học thuyết Lão Trang là: có làm, nhưng làm một cách thật khéo, làm cho hợp với tự nhiên.
    Vô Vi trong đạo Phật
    Kinh Đại Phạm Thiên Vấn Phật Quyết Nghi có chép:
    Thưở Đức Thích Ca đang ở trên pháp hội Linh Sơn, có vị Đại Phạm Thiên (Mahàbrahman: cõi trời thứ ba trong sơ thiền) đến dâng hoa sen sắc vàng, cầu thỉnh Phật thuyết Pháp. Phật chỉ đưa tay ra nắm lấy hoa sen rồi lặng thinh không nói tiếng nào. Các vị Bồ Tát, Thinh Văn cùng đại chúng đồng có mặt tại pháp hội không ai hiểu nỗi ý Phật, nên tất cả đều im lặng. Riêng Ngài Ma Ha Ca Diếp thì mĩm cười. Phật liền dạy: “Ta có Chánh Pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, nay phó thác cho ông Ma Ha Ca Diếp”.

    Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm tức là Vô Vi Pháp, một pháp môn duy nhứt do chính Đức Thích Ca dùng “tâm” mà truyền cho “tâm”. (tâm của Phật, tâm của Ngài Ma Ha Ca Diếp). Diệu pháp này không nương vào kinh văn giáo điển (không dùng phương tiện sắc tướng thinh âm). Bởi vì tất cả kinh điển của Phật chẳng qua như ngón tay dùng để chỉ mặt trăng. Ngón tay không phải là mặt trăng, mà “mặt trăng chân lý” thì không thể dùng văn tự, ngôn ngữ nào đem nó xuống tận ngón tay được.

    Thế nên, suốt 49 năm trải bước khắp nơi thuyết pháp độ sanh, gần đến lúc nhập Niết bàn, Phật mới chọn có mộtVô vi pháp được Ngài Đạ Ma tổ Sư truyền sang Trung Hoa dưới danh hiệu là Giáo Phái thiền Na.

    Đến đời Lục Tổ, Ngàu Huệ Năng đem vô vi pháp truyền lần xuống phương Nam được gọi là Nam Đốn, thần Tú truyền ngược lên phương Bắc nên gọi là Bắc Tiệm.

    Vô Vi pháp do Thần Tú truyền đi lúc ấy đã bị thinh âm sắc tường chen vào làm sai lạc. Nó không còn thuần túy như lúc khởi đầu.

    Vô Vi trong Giáo Lý của Đức Giáo Chủ

    Cùng trường hợp với các bậc thánh nhân,hiền triết, Đức giáo Chủ hóa hiện ra đời dùng vào lúc chiến tranh bắt đầu khai diễn, con người đang thao thức trong ngàn khắc khoải, lo âu. Đạo đức suy đồi, Phật Pháp bị lãng quên không người góp công hoằng hóa. Vì tình thương rộng lớn đối với chúng sanh trong thời mạt pháp, Ngài quyết đứng ra dựng Đạo cứu Đời. Ngài lấy vô vi chơn truyền của Đức Thích Ca làm nồng cốt. Bước đầu truyền đạo, Ngài tạm dùng sự huyền diệu của Mật giáo để đối cơ cảm hóa kẻ ít thiện căn.Sau đó Ngài dung hợp hai pháp môn Phước, Huệ để làm cơ bản tu học cho các tín đồ.

    Thông thường các nhà sáng lập ra tôn giáo, triết học, trước hết phải lưu tâm đến vấn đề trình bày vũ trụ quan trên giáo lý, học thuyết của mình, nhằm giúp cho con người an tâm mà qui hướng, nhập môn. Đức Giáo Chủ khác hơn! Vì đạo của Ngài chính là đạo Phật, vũ trụ quan của Ngài là vũ trụ quan của Phật. Những gì Ngài phải nói, hai ngàn năm về trước Đức ThíchCa đã nói hết rồi. Vả lại Ngài có viết:
    Làm “Vô vi” chánh đạo mới mầu
    Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu
    Hãy tầm kiếm cái không mới có
    Câu này đã xác nhận rằng Ngài không làm khác hơn Đức Thích Ca, nhưng vì Đạo Phật quá cao sâu phong phú mà nhân sanh thì phước huệ mỏnh manh, nếu không ai khuyết khích dắt dìu thì rất dễ sai lầm mất gốc. Bởi lẽ ấy nên Ngài phải ra công chỉ nẻo vô vi (cái không) cho những ai muốn tìm chánh đạo (cái có).
    Cái “không” ở đây không thể lầm lẫn với cái “không” của Lão Tử, mà là cái “chán không diệt hữu” của Phật vậy.
    Cứ như câu:
    Đạo “vô vi” của Phật ân cần
    Nối theo chí Thích Ca ngày trước
    thiết tưởng không còn gì rõ rệt hơn cho chúng ta xác định nguồn gốc chữ vô vi trong đạo của Ngài.

    Xưa, sau 49 năm thuyết pháp, Phật không muốn dùng tới kinh văn giáo điển, Phật chỉ đưa tay cầm lấy hoa sen rồi im lặng, thế mà ông Ma Ha Ca Diếp liền đắc đạo vô vi.

    Ngày nay, Đức Giáo Chủ cũng dạy cho tín đồ không nên bày biện ra sắc tướng thinh âm, mà chỉ cần quay trở về với bản tâm thanh tịnh. Vì có câu: “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Mà trong mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, bình đẳng như nhau, ai cũng có thể tự mình đắc quả. Đức Giáo Chủ há chẳng nói:
    Phật tại tâm chớ có đâu xa
    Mà tìm kiếm ở trên non núi
    Rốt lại, người hành đạo chỉ cần có cái tâm. Hễ giữ tâm cho thanh tịnh thì chẳng đdợi gì phải tìm kiếm ở bên ngoài, Phật sẽ hiện ra ngay ở trong tâm.

    Đi đôi với việc hướng về bản tâm thanh tịnh, Đức Giáo Chủ cũng không ngớt kêu gọi tín đồ cùng hàng tu sĩ sớm dứt bỏ mọi việc làm có tánh cách dị đoan mê tín, giải trừ tà kiến, diệt lòng ái thủ ngã chấp. Ngài nói:
    Tu “vô vi” chẳng cúng chè xôi
    Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót
    Tìm hiểu chữ Vô Vi Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo không gọi vô viphápmà chỉ nói “làm vô vi” (làm theo pháp vô vi), “tu vô vi” (làm theo pháp vô vi), “tu vô vi” (tu theo pháp vô vi) hoặc đôi khi cũng gọi “Đạo vô vi” (Đạo Phật tu theo vô vi pháp).

    Chữ vô vi rất quen dùng trong Sấm Giảng Thi Văn, trong ngôn ngữ của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Tuy ta vẫn thường nói, thường nghe và liền cảm thông nay trong câu chuyện, nhưng nếu đem ra mà diễn giải thì e rằng khó giải cho đúng, diễn cho tròn.

    Nghiên cứu trong Sấm Kinh của Đức Giáo Chủ chúng ta có thể hiểu chữ vô vi bằng hai cách:
    1) – Vô vi, là không làm cho có hình tướng.
    2) – Vô vi, là không có hình tướng.
    Không làm cho có hình tướng thuộc về sắc.
    Không có hình tướng thuộc về tâm.
    Về Sắc – Theo giáo lý thì các tướng đều là giả tướng. Vạn hữu không có thật. Thân ta cũng do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành. Nó không bền chắc, không tránh khỏi ngày tan rả. Thân ta không thuộc về ta làm chủ (vô ngã) vậy những cái do ta tạo tác cũng tùy duyên mà có tạm thời. Tướng không phải là tướng, chỉ có vô sắc tướng mới thiệt là tướng. Thế nên phải vô vi! Phải tránh những việc làm ra hình tướng bề ngoài. Cúng Phật chỉ dâng nước lã, bông hoa và đốt nhang (Nhang dùng bán mùi uế trược, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, nước lã tiêu biểu cho sự trắng trong). Nơi thờ không thờ tượng cốt, Ở chùa thì không phá bỏ cái cũ nhưng không tạo thêm cốt Phật. Ở nhà thì chỉ thờ TRẦN DÀ. Khi cúng dâng cầu nguyện cũng chỉ nguyện thầm trong tâm, không động đậy ngoài môi. Niệm Phật cũng niệm trong tâm, quyết nhiên không có tụng kinh gõ mõ.

    Về tâm – Bởi các tướng đều là giả tướng, nên không bày bố ra hình tướng. Nhưng, thử hỏi cái gì làm cho ta thấy có hình tướng ấy để bày bố hay không bày bố? – Chính là cái “tâm” vậy!
    Bởi “tâm” làm chủ mọi việc. Tất cả đều do “tâm” sanh.
    Địa Ngục cũng tại tâm làm quấy
    Về thiên đàng tâm ấy tạo ra
    Cái chữ tâm là quỉ hay ma
    Tiên hay Phật cũng là tại nó
    Cái “tâm” điều hành cuộc sống của con người nhưng cái tâm thường lệ thuộc cho mắt. Mắt chụp hình mọi vật truyền về tâm. Do đó tâm sanh ra vọng tưởng. Nếu làm cho cái tâm lúc nào cũng vắng lặng, tinh tấn, thản nhiên không lay động, không để cho cảnh giới huyễn hoặc xâm nhập vào, tâm sẽ hết lệ thuộc cho mắt, mà còn trở lại làm chủ cho mắt. Mắt nhìn, tâm nhận. Mắt cứ nhìn tất cả hình tướng, nhưng tâm sẽ nhận ra cái giả, cái thật. Như vậy các giả tướng bên ngoài (thuộc về sắc)không độn nhập vào tâm được, chỉ còn việc tự tâm làm ra giả tướng. Hễ giả tướng bên ngoài không độn nhập vào tâm được, giả tướng bên trong cũng không thể biến sanh, thì trong tâm ta không bao giờ thấy có giả tướng mà chỉ còn thấy có Đạo. Bởi thế nên dù ta có cần phải bày bố hình tướng bên ngoài, khi ấy cũng không còn thấy đâu có hình tướng để bày bố!
    ***
    Vô vi trong giáo lý của Đức Giáo Chủ khác với vô vi của Lão Tử.

    Vô vi của Lão Tử (Người Pháp dịch là: Théorie de I’inaction) dựng lên một con người tự nhiên như nước lã, hành động không theo ý thức luân lý, một con người lòng rỗng bụng đầy, xem thường cả nghĩa nhân thánh trí; một con người nỗi loạn giữa những ước thúc hữu vi. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tánh vi sô cẩu: Trời đất không có nhân, coi vạn vật như loài cho rơm; Thánh nhân không có nhân, coi trăm họ như loài chó rơm). (1) Vô vi của Đức Giáo Chủ (có thể tạm gọi là: Théorie de I’abstraction) dựng lên một con người thực tế, làm hết trách nhiệm mình đối với tổ quốc, lịch sử, đồng bào và nhân loại; một con người sống theo trung đạo, lấy tâm làm trọng, không lệ thuộc vào vật chất, không phô trương hình dáng bề ngoài và lúc nào con người ấy cũng hành động theo ý thức nghĩa nhân và đạo lý (2)
    (1) Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
    (2) theo tiểu luận của Bạch Diệp Đuốc Từ Bi số 9 tháng 11- 1965

    Chương Thứ XV: Vấn Đề Hòa Bình Trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Phật Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền, chuyển lập hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang.

    Đề tài được nêu trên, mới xem qua có vẻ là một trong các vấn đề nóng bỏng thuộc phạm vi thời cuộc. Sự thực thì không hẳn như htế. Sở dĩ phải nói không hẳn là vì vấn đề người ta đặt ra là nhằm giải quyết cấp thời cho chiến tranh Việt Nam; còn vấn đề của chúng tôi là vấn đề thuộc phạm vi nhận định, tìm hiểu một giáo pháp, mà trong giáo pháp đó sẽ cũng có thể là một giải pháp, tuy có khác là giải pháp đó miên viễn vì tính chất rộng lớn, cũng như phải đợi cái mức thích thời vì tính chất khế cơ và khế lý của nó.

    Nhìn từ non 30 năm trở ngược người ta sẽ nhận thấy một sự kiện quá rõ rệt trong tâm trạng mong muốn hòa bình: Hết hiệp ước Minich đến nghị hội Yalta, xong hòa hội Postdam tới hòa nghị Genève... Nhưng chiến tranh cứ mỗi lúc càng thêm ác liệt.

    Chúng ta cũng không thể chối cãi ít nhiều thiện chí của các nhà hữu trách trong việc thành lập Hội Quốc Liên (Société des Nation) và Liên Hiệp Quốc (Organisation des Nation Unies). Nhưng các cơ sở “liên hiệp” này cũng chưa giải quyết nỗi vấn đề, mà sự việc thì càng ngày càng lại có mòi như muốn lún ngập thêm vào trong ngõ bí!

    Người ta đổ lỗi cho cái tâm ác độc của con người, cho khoa học, hoặc cho... ông Trời. Và rồi cho tới nay, đâu vẫn nằm nguyên ra đó!

    Sự lấn áp của văn minh khoa học đối với đạo đức nhân nghĩa

    Đổ cho tạo hóa sắp đặt là một lý luận có vẻ tiêu cực; còn đổ cho cái tâm ác độc của con người thì đã hẳn rồi. Nhưng ảnh hưởng vì đâu và con người phần đông đâm ra ác độc như vậy?
    Về điều này, Đức Giáo Chủ PGHH đả có ý kiến ngay từ năm 1940:
    Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa
    Nghiệp tổ tiên con cháu vày bừa
    Học thói mới lăng loàn theo sở dục
    Khắp thế giới binh lương cụ túc
    Quyết tranh giành quyền lợi xé xâu nhau
    Thấy nhơn sanh tuôn giọt máu đào
    Lòng bác ái động tình rơi nước mắt!
    Tiếng ai bi thở than véo vắt
    Khắp Đông Tây Nam Bắc chịu ưu sầu
    Theo Đức Thầy thì cái ác tâm của con người chỉ là cận nhân phụ thuộc; cái viễn nhân gây tạo nghiệp dữ phải là nền văn minh vật chất quá độ của ngày nay. Không ai có thể phủ nhận sự tiện lợi và ích lợi của khoa học và kỹ thuật tạo thành nền văn minh vật chất của thế kỷ 20. Nhưng người ta đã đâm ra nghi ngờ hạnh phúc do văn minh cơ giới đem lại cho họ.

    Thật sự con người có được hạnh phúc không, trong đời sống văn minh vật chất đó? – Người ta đã tỉnh ngộ khi sực nghĩ mình đã mắc một lầm lẫn quá lớn là lẫn lộn mức sống và hạnhh phúc. Hạnh phúc tùy thuộc ở tâm trạng thanh thoát bình lặng và hình thái an dưỡng nghỉ ngơi, chớ đâu phải chỉ tùy thuộc nơi ánh điện nê ông, chặn đường rầy xe hỏa, hay món sinh tố trong một thực phẩm cao lương của mực sống!

    Những cái trau chuốt bề ngoài để tăng cường mực sống chỉ tạo nhiều phiền toái và làm bận xác thân để rồi cùng đem nhau đến chỗ sa đọa, cay cú và xâu xé chớ chưa hẳn làm nỗi được hạnh phúc cho con người. Ta hãy nghe lời giảng giải của Đức Giáo Chủ:
    Ở thị thiềng đua chen xướng khởi
    Những tuồng hư cho bọn gái lẫn trai
    Nào hút thuốc phiện hội ve chai
    Nào trùm dĩ ma cô nghề hút máu
    Ai để mắt xem đời chu đáo
    Chẳng khỏi than giùm dân tộc hư hèn
    Diện áo quần son phấn lấn chen
    Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa
    Mãng điểm tô huy hoàng nhà cửa
    Ai khốn cùng để mặt đất trời xây
    Một số triết gia, học giả cũng nhận định như vậy và lại còn lên án nặng nề văn minh khoa học Tây phương. Họ đã cho rằng chính tại nền văn minh cơ giới đi lên quá mạnh bỏ lại đằng sau nền văn minh tinh thần với tính chất cao đẹp thời trung cổ, khiến con người càng lúc càng nặng về cơ tâm. Những then máy trong lòng người cũng theo những cái bẫy rập trong khoa học cơ giới mà sinh ra, tần tranh chátp, giết phá do đó mà được mở rộng.

    Nhà bác học Branly đã dửng dưng trước sự tiến bỗ quá mức của khoa học cơ giới vì nó khiến cho đạo đức suy đồi, mặc dù Branly là một người rất chuyên về khoa học:

    “Tôi lắm khi ngơ ngác, kinh ngạc nữa về những phát minh chuyên môn do sự tìm tòi của khoa học tạo nên là bởi tôi nhận thấy có một sự dang xa khủng khiếp giữa sự tiến bộ vật chất và sự tiến bộ tinh thần đạo đức mà hiện thời đang lùi xa ghê gớm” (1)

    Đạo đức mỗi lúc xuống dốc theo sự dằn mạnh lên trên của văn minh vật chất trách gì hòa bình khó mà gây dựng được tương đối lâu dài như ngày xưa! Chính vì thế mà bà Gina Lombroso đã coi cơ giới là kẻ thù chung của khổ đau thời đại, khi bà hạ những câu này trong cuốn La Rancon du machinisme:

    “Tôi cũng chắc chắn rằng sự phát triển cực độ của kỹ nghệ là nền tảng của tất cả những vấn đề quan trọng hiện thời... và nếu người ta muốn làm giảm bớt nỗi đai khổ của thời đại thì đừng có thiết tha đến những chi tiết mà phải quyết tâm chiến đấu với kẻ thù chung nơi sinh mạng yếu điểm của nó: cơ giới chủ nghĩa” (2)

    Chính sự tiến bộ về văn minh vật chất mà Đức Thầy đã có lần cho là cái văn minh cặn bã, hào nhoáng bề ngoài – đã lấn lướt trầm trọng đạo đức nhân nghĩa, và gây thành những mối mâu thuẩn nặng nề cho thời đại chúng ta.
    (1) Conférencia – N Janv 1939 – Điều đáng chú ý là chính Branly là người đã phát minh ra vô tuyến điện thoại.
    (2) Xem lại chương XIII, Nền văn minh Tây phương qua Sấm kinh P.G.H.H. tiết mục: Hậu quả bi thảm của văn minh khoa học.
    Tình trạng bất ổn mỗi lúc một tăng Năm 1939, khi bắt đầu hóa đạo, Đức Giáo Chủ đã cáo tri chúng sinh những gì sẽ tới:

    Ngày 18 tháng 5 năm kỷ Mão, vì thời cơ đã đến lý thiên đình hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan.
    Và Ngài còn vạch rõ thêm:
    Hạ ngươn nay đã hết đời
    Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang
    Năm mèo Kỷ mão rõ ràng
    Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi
    Hoặc là:
    Hạ ngươn lòng dạ đồi dời
    Bây giờ khổ não đến đời là đây
    Tâm cảm con người đã bị ảnh hưởng vật chất cuốn hút làm quay tít trong chỗ mê lầm từ trước vốn nhiều đời triền phọc trong si mê, bây giờ gặp đấy sống – miếng đất vật chất xa hoa gắn liền theo những phát kiến của khoa học – cho nên càng xua lùa nhau đến bờ vực thẳm của những cuộc tranh đua khốc liệt, khiến thảm họa càng lúc càng dập dồn. Cho nên chúng ta sẽ không lạ gì khi bắt buộc phải thấy:
    Mai sau nhiều cuộc đất cày
    Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa
    Và cảnh huống đó không chỉ diễn ra ở gần ta, mà đâu đâu trên trái đất, cũng phải đồng nhận lấy cộng nghiệp:
    Khắp thế giới cửa nhà tan nát
    Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu
    Đệ nhị thế chiến đã sát hại đến 25 triệu mạng người và gây thương tích cho 29 triệu người khác từ Âu sang Á mà trong Sấm Kinh P.G.H.H. Đức Giáo Chủ hẳn đã tiên tri (1). Nhưng sau chiến tranh đó, hòa bình có đến với nhân loại chưa, hay chỉ là những dịp nghỉ chân tạm bợ của người khách lữ hành?

    Đức Giáo Chủ đã cho biết là chưa, Ngài viết:
    Khổ với thảm ngày nay có mấy
    Sợ mai sau dòm thấy bay hồn
    Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn
    Cảnh sông máu núi xương tha thiết!
    Trần với thế bây giờ nào biết
    Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường
    Quả thật, như chúng ta đã thấy , sau ngày thế chiến chấm dứt thì hết “nóng” đến “nguội” rồi đi vào “cân não” nữa, những cuộc tranh chấp cứ mãi giằn co để bắt buộc nhân loại phải dẫn xác đến bãi sa rtường. Người ta đã hô hào hòa bình bằng miệng lưỡi, bằng giấy mực. Biết bao sách báo và nước miếng đã tốn kém cho việc giải quyết hòa bình, nhưng chiến họa vẫn tràn lan hết nơi này đến nơi khác.

    Nếu chiến tranh Hàn quốc đã hằn đậm nét đau thương trên gương mặt già nua trườc tuổi của biết bao người con côi vợ góa, thì những cuộc xung sát tại Congo, Lào quốc, Ấn Độ, Ai Cập... cho tới hằng trăm cuộc đụng độ mỗi ngày trên lãnh thổ Việt Nam từ trên 20 năm qua, đã tố cáo lớn tiếng rằng tình trạng bất ổn mỗi lúc càng tăng chớ không có mòi gì giảm bớt.

    Người dân nếu có rảnh rang, chỉ danh ra 24 giờ thôi để theo dõi tiếng nói trên các làn sóng điện do các đài vô tuyến truyền thanh trên thế giới loan đi, sẽ được thấy biết bao cuộc chia giành hờn mích, hoặc chuẩn bị cho sức mạnh vật chất để ứng phó bằng dao to búa lớn với nhau: “Mỹ phóng hỏa tiễn X lên không gian... Nga đức phi thuyền Y bay vòng quanh trái đất... Trung Cộng chế bom nguyên tử hạn gnặng... Lào bị đảo chánh hụt hôm qua... Biểu tình khỏa thân để chống lại đề nghị ăn thịt bò của bà Thủ Tướng Ấn Độ... Đồng Anh Kinh phá giá gây ảnh hưởng đến đồng Mỹ Kin... Biểu tình đẫm máu tại Tokyo qua chuyến công du của Thủ tướng Eisaku Sato...”

    Người ta phải giựt mình mà thắc thỏm lo âu đến chiến tranh thứ ba, một chiến cuộc toàn dùng cơ giới tối tân để có thể làm vở toanh quả đất chỉ trong khoảnh khắc. Và cũng trong một phút giây nào đó, tâm hồn yên lặng người ta sẽ suy tư nhiều hơn, những hình ảnh sau đây được ghi nhận từ lâu trong Sấm truyền P.G.H.H.:
    Cuộc đồi nay như ngựa buông cương
    Khó dừng lại gió cu lụp bụp
    Mặt nước biển lô nhô lặn hụp
    Chim đua bay cá lội tranh mồi
    Ngọn thủy triều nô nức sục sôi
    Bầu trái đất một phen luân chuyển...(1)
    Ông Oskar Morgenstern, một chuyên gia Mỹ về vấn đề phòng thủ, đã tuyên bố: “Có nhiều cơ hội cho một trận giặc hạch tâm xảy ra hơn là không xảy ra”. Và năm 1955, luân tước Berteand Russell, người Anh, đã hiệp với nhà bác học Einstein, kêu gọi các nhà khoa học trên thế giới hiệp lực ngăn cản sự chế tạo vũ khí bạch tâm. Theo huân tước Rusell thì nếu những khí giới tối tân này được phát triển thì sinh mạng của nhân loại không thể nào bảo vệ và vấn đề hòa bình không thể thực hiện.

    (1) Sau cuộc khủng hoảng tại Cuba hồi tháng 10-1962, chính Tổng Thống Kennedy đã tuyên bố: Nếu Nga không nhân nhượng thì chiến tranh nguyên tử đã bùng nổ, và chỉ nội ngày đầu, tại Nga, Mỹ và châu Âu sẽ chết đến 150 000.000 nhân mạng chớ không ít. Ta thử tưởng tượng nếu cứ thê mà tràn lan thì quả đất này còn chi? Cho nên T.T. Kenedy cũng nói tiếp: Đó là chung cuộc của Thế Giới.
    Làm sao đi đến hòa bình thế giới
    Từ xa xưa, nhiều bậc siêu nhân đã nghĩ đến phải làm thế nào để duy trì được sự hòa bình vĩnh cữu hơn những cuộc hòa bình chỉ giới hạn trong vài trăm năm mà ta thường thấy trong lịch sử, nên ta đã có đưa ra những lời chỉ dạy hoặc những nhận định về nhân sinh. Thiên chúa với giáo điều bác ái, Thích Ca với tứ vô lượng tâm, Lão Tử với từ kiệm khiêm và thi bá Dante, căn hào Kant với mông ước “bốn biển đồng anh em” đều cũng đã nhằm xây dựng thanh bình an lạc cho nhân loại. Thử đem một nhân sinh quan của Lão Tử làm một dẫn dụ.

    Bậc lão tổ của đạo giáo này đã nghĩ và cho rằng có ba điều quý nhất để xây dựng cuộc hòa bình: Một là từ hòa(rộng lòng bác ái), hai là thanh kiệm (giản dị không xa xỉ), ba là không dám tranh hơn (nhúng nhường) (1). Nếu ai ai cũng giữ 3 điều ấy thì không thể nào có sự nhẫn tâm đánh giết nhau, bởi lòng nhân không cho phép; không thể nào hoang phí của tiền, vì lòng đã biết e dè với nếp sống đạm bạc giản dị, không lòe lẹt khoa trương; và không tranh danh hám lợi bởi lòng sẵn nhún nhường từ tốn, thì đâu có tranh chấp với ai. Nếu ai nấy cùng cố giữ đúng như thư thế cả, cũng theo ý lão Tử, có việc gì mà không thái bình yên trị.

    Cùng một ý kiến muốn xây dựng hòa bình, Mạnh Tử và Mặc Tử cũng đồng lên án chiến tranh. Mạnh Tử nói:

    - Đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành, như vậy gọi là đem đất ăn thịt người, đem xử tử còn chưa hết tội.

    Còn Mặc Tử thì rằng:
    - Giết một người thì bảo rằng bất nghĩa, phải chịu một tử tội. Cứ theo đó mà suy, giết mười người thì bất nghĩa gấp mười, giết trăm người thì bất nghĩa gấp trăm, tất phải chịu trăm tử tội.

    Nhưng nước lớn phải có ròng, có thịnh phải có suy, có trị phải có loạn và khi cùng phải biến để rồi đi đếnthông. Thuyết Phật đã cho hay “hữu tình tắc hoại” thì tất cả những gì hiện thực ở trần gian này đều phải chịu theo định luật cùng thông hoại diệt đó. Chỉ có niết bànhư vô mới là cõi an ổn đời đời mà thôi, kỳ dư thảy đều biến dịch. Do đó, lý tam ngươn cũng đã cắt nghĩa thêm rằng thời đại chúng ta là Hạ ngươn mạt kiếp, nhân tâm nhân dục đã đi đến một mức độ cần phải có một cuộc thay đổi lớn để chuyển dần đến Thượng ngươn.
    Theo Đức Giáo Chủ thì:
    Khắp thế giới biến di thương hải
    Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn
    Cho nên chính vì thế mà những cuộc so tài cao thấp, giựt giết thiệt hơn, không có tài nào can ngăn được!

    Học giả Trần Trọng Kim trong quyển Nho giáo, khi xét đến nguyên di vì sao Tây phương phú cườngĐông phương suy nhược, và đưa ra giải pháp cường thịnh cho phương Đông, hầu lập thế quân bình để giữ cho cuộc sống được hòa bình hạnh phúc, đã lý luận rằng nếu người phương Đông ngày nay biết đem những cái hay cố hữu là phần đạo đức nhân nghĩa mà áp dụng, bỏ những cái hủ bại đi, rồi học thêm những điều tiến bộ về khoa học trí xảo của người Tây phương, thì chắc rằng mình cũng tiến bộ như người Tây phương được.

    Riêng phần chúng tôi, từ 12 năm trước đây, khi có dịp bàn đến vấn đề nên theo cũ hay theo mới để gây tạo hạnh phúc cho cuộc sống, cũng đã có đề nghị như vầy:

    - “Trên thế giới ngày nay nói chung và nước Việt Nam nói riêng, nếu muốn cho con người được hưởng vẹn toàn hạnh phúc, thì đi ngang với văn minh khoa học, phải cổ lệ mối chân đạo đức cổ truyền cho sống dậy trong lòng mọi người. Nói thế khác: bên cạnh đời sống khoa học, phải có tinh thần từ ái, phác thực của đời sống người xưa. Như vậy mới khỏi phần thiên lệch và như vậy nhân loại mới hy vọng đi tới cuộc đời thiên đường rực rỡ mai sau mà người người đang khát khao mong đợi (2)

    Các đề nghị nghe qua có phần hữu lý nêu trên, thời gian đã cho biết vẫn còn khó khăn thực hiện. Bởi vì cái mâu thuẫn giữa vật chất và tinh thần, ít có trường hợp cho phép chúng song hành với nhau trong một cuộc sống. Có lẽ chỉ có Thích Ca, Lão Tử cũng như Diogène, Epictète... đã hoàn toàn làm chủ mình rồi, thì điều kiện vật chất mới không câu thúc, hoặc mói khó ảnh hưởng đến tinh thần được. Ngoài ra sự thực đã chứng tỏ rằng hễ vật chất lên cao thì phần tinh thần phải kém sút, không sao kềm giữ nỗi.

    Cho nên muốn gây tạo hòa bình cho nhân loại, nói theo thuyết tự nhiên, phải nhờ đến một gột lọc lớn bằng một luật lệ đào thải được áp dụng đồng loạt do những mâu thuẫn tự nhiên tạo thành, hoặc nói theo thuyết nhà Phật, những cái nhân tai ác của loại gây ra quá nhiều, thì cái quả bất lành không sao tránh khỏi được và cái cộng nghiệp kinh khủng là “đến ngày trả quả ầm ì biết bao” không chóng thì chầy cũng phải đến.

    Dấu chấm dứt của khúc bi ca lịch sử phải chờ lúc đó, và cái niên đại hòa bình cũng phải đợi đến khi ấy mới được khai nguyên.
    (1) Nguyên văn: Nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm, vi thiên hạ tiên
    (2) Trích Việt Nam Tam Giáo Sử Đại Cương của tác giả, Phạm Văn Tươi xuất bản 1956, trang VIII

    Dấu chấm dứt của khúc bi ca lịch sử Những tai họa khủng khiếp càng đến với chúng sinh quyết liệt chừng nào thì ngày chấm dứt khúc bi ca lịch sử càng gần kề chừng nấy, cũng như quả đã muồi thì phải rụng, chúng sinh phải chịu đựng một cuộc biến cố lớn để rồi mới an hưởng được một ngươn lớn: niên đại của hòa bình.

    Sự thay đổi đó như thế nào? Ta hãy xem qua Tứ thánh,một tác phẩm lục bát trường thiên được người đời tín nhiệm.
    Hạ ngươn mỗi việc mỗi mòn
    Mòn sông mòn biển lại còn mòn non
    Đổi chồng đổi vợ đổi con
    Đổi non đổi núi đổi hòn Hà Tiên
    Đổi Châu Đốc đổi Tịnh Biên
    Thất Sơn lại đổi qua liên Nhà Bàng
    Qua liền năm trước chật đàng
    Qua lộ Văn Giáo máu tràn như sông
    Đổi năm đổi tháng đổi trong ngày giờ
    Đổi cha lại đổi nhà thờ
    Đổi cồn đổi bãi đổi cờ Nam bang
    Trời xoay Âu Á bốn phang
    Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ
    Chuyển luân bờ vực biên thùy
    Ngửa nghiêng trời đất lập kỳ thượng ngươn.
    Đức Giáo Chủ cũng từng báo trước cho chúng sinh những điều tai họa khốc liệt sẽ đến trên trái đất này trước ngày thái bình thịnh trị:
    Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc
    Đứng sau lưng hình vóc dẫy chơn
    Nước kia lửa nọ tưng bừng
    Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai
    Ngài lại còn hé lộ cơ huyền:
    Đến Thân Dậu Thánh Thần náo động
    Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang
    Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn
    Nạn tai dồn dập xóm làng còn chi!
    Những biến chuyển vĩ đại đó, không chỉ có nói trong Sấm Kinh của Đức Giáo Chủ, mà cả trong Sấm truyền xưa của Phật Thầy, cũng có trình bày với tính cách quyết đoán.

    Những người thiện căn đã gieo được thiện nhân, tất nhiên sau khi nhận chịu cộng nghiệp của thời kỳ đại biến chuyển, sẽ được tồn tại trong cuộc sống mới của thời thượng ngươn; còn kẻ bất lương điên đảo, đời đời gây nghiệp dữ, tất nhiên phải bị nghiệp lực giày vò gớm ghê.

    Hội Long Hoa, ngày giải quyết vấn đề
    Quan điểm hòa bình của P.G.H.H. là phải có một Long Hoa Đại Hội để giải quyết vấn đề mà toàn thể nhân loại đang bị chìm sâu trong bế tắc – Việc ấy tuy không thấy định rõ thời gian, nhưng khi cơ biến thì nó sẽ xảy ra dễ dàng trong chớp mắt. Chính Đức Thầy đã nói:
    Muôn thu thiên định khắc kỳ
    Hạ ngươn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa
    Mục đích của Hội là một cuộc lọc lừa, một trường thi cử, một cuộc đổi dời lớn lao và toàn diện. Hình ảnh của một cuộc đại cách mạng trong một quốc gia, dù phải trải qua những sát hại tàn nhẫn và khũng khiếp – ví như cuộc cách mạng 1789 của nước Pháp cũng không thể so bì được với một cuộc đổi đời trên toàn thể nhân loại. Cuộc lọc lừa đó là một sự kiện tiền định:
    Long Hoa Tiên Phật đáo ta bà
    Lừa lọc con lành diệt quỉ ma
    Nếu mãi mê mang mùi tục lụy
    Linh hồn chìm đắm chốn nê hà
    Hoặc là:
    Lập rồi cái Hội Long Hoa
    Đặng coi hiền đức được mà bao nhiêu!
    Gian tà hồn xác cũng tiêu
    Thảm thương bá tánh chín chiều quặn đau
    Những người được thoát khỏi bao nhiêu tai biến của cục diện tang thương để hưởng cảnh thái hòa trong một ngươn lớn ấy, ắt phải là người tốt, có lắm duyên lành và đã có trải qua nhiều lúc tu học:
    Khá chí tâm học hành Kinh Sám
    Thoát nơi miền hắc ám phong ba
    Trở chơn cho kịp Long Hoa
    Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn
    Chính vì có cuộc tiền định như đã nói, cho nên Đức Thầy mới đã nhiều lần nhắc nhở mọi người:

    “Phật vương đà chỉ rõ máy diệu huyền, chuyển lập Hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”.

    Như những điều thượng dẫn, chúng ta đều nhận biết khá rõ là cuộc hòa bình đó sẽ được thụ hưởng khắp “vạn quốc chư bang” chứ không riêng tại Việt Nam hay một nơi nào, tuy nhiên Việt Nam vẫn được giữ một vai trò quan trọng của nó trong niên đại hòa bình qua sự ghi nhận trong kinh Tứ Thánh:
    Cũng gần sắp trổ nhà Nam
    Nay còn phong kiến tứ tam tranh giành
    Sắp đời như sợi chỉ mành
    .....
    Núi rừng trổ ngọc trổ ngà
    Long Hoa lại trổ trên tòa Thượng ngươn
    Nam nang một lá quế đơn
    Năm châu tựu hội Thất Sơn đông vầy
    Hoặc tìm thấy được rải rác trong Sấm Kinh của Đức Giáo Chủ:
    Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế
    Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam
    ....
    Cõi Trung Ương luân chuyển phương Nam
    Mở hội thánh chọn người trung hiếu
    Bức tranh “trẻ ngậm cơm, già vỗ bụng” sẽ có dịp hiện ra khắp chỗ; con người không còn hậm hực trong nghi ngờ thù hận như ngày nào, mà trái lại, tình thương tràn ngập khắp nơi, bởi vì “hiền lành chừng đó sum vầy”, để mới có thể “trong bốn bể chúng dân lạc nghiệp”.
    ***
    Qua sự nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề Hòa bình được nêu ra trong các lời giảng hóa của Đức Giáo Chủ, chúng ta được biết rằng nhân loại hiện nay đang sống trong “đời ngươn hạ nhiều người hung dữ, nên xảy ra lắm sự tai ương”. Do đó, người ta phải trải qua những cuộc đào thải kinh khủng để chuyển vận lọc lừa, để đốt đường mà vượt khỏi giai đoạn cùng cơ tận pháp trong lịch sử nhân loại, hầu tiến tới một thời thượng ngươn tươi đẹp thái hòa.

    Ta có thể coi sự chuyển vận đó là một giải pháp tháo gỡ những mâu thuẫn chồng chất đã đưa nhân loại vào chỗ bế tắc nhất không nẻo ra. Tất nhiên giải pháp ấy phải được khế hợp giữa thời cơ và lý tình mới có thể vận hành chuyển hóa được.

    Chúng ta nguyện cầu và mong ước ngày ấy sẽ chóng đến, và chúng ta sẽ hạnh hỉ mà được là một trong những người thiện duyên, để:
    Mau chơn kịp bước Long Hoa Hội
    Chầu Phật hòa vui cõi Đại Đồng

    Chương Thứ XVI: Sự Dung Hóa Giữa Giáo Lý Từ Bi và Tinh Thần Ái Quốc Trong Phật Giáo Hòa Hảo

    Hễ nước mất thì cơ sở của Đạo bị lấp vùi, nước còn thì nền Đạo được phát khai rực rỡ.
    Một vài người lưu tâm đến công việc xã hội, khi nhìn qua mặt ngoài của P.G.H.H., đã tỏ ý thắc mắc vì sao Giáo lý của Đạo là Giáo lý của Phật, nay người tín đồ P.G.H.H. vừa trì hành Giáo lý ấy, lại vừa đề cao tinh thần ái quốc bằng cách có lúc đã võ trang để bảo vệ quốc gia, như thế có thể xem như là mâu thuẫn với nhau chăng?

    Để giải tỏa nghi vấn đó, chúng ta trước hãy nghiên cứu kỹ pháp môn tu Nhân học Phật của Đạo, đồng thời phải tìm hiểu thế nào là từ bi và thế nào là ái quốc theo ý nghĩa chân xác của nó.

    Trong một chương trước, độc giả đã có dịp hiểu qua phần Giáo lý căn bản của Đạo rồi, bây giờ xin mời bạn đọc đi thẳng vào đề.

    Từ bi không có nghĩa cầu an, tiêu cực

    Phần đông thường hiểu Từ bi là thể hiện của đức tính hòa nhã, nhu mì, và nếu cần, có thể cứ ù lì bất động.

    Người ngoại cuộc, có tinh thần đối kháng, còn cho từ bi là ngồi thừ ra đó, cứ “từ bi vi Phật”, ai chết mặc ai, ai gây gỗ trối kệ, ai làm gì cũng phải, thấy sao hay vậy, chẳng nói không rằng...

    Nhận xét đó còn sai xa giáo nghĩa uyên áo của thiền môn.

    Chư Phật từng dạy rằng: “Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh chi lạc; Bí năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ”.Đã phải ra sức để cứu khổ cho chúng sanh, phải làm cho chúng sanh được an vui, không bị ai đè lưng, bóp cổ, tránh được đói rét hoành hành, khỏi mắc phiền não bủa vây, thì từ bi là hiện thân của xả hỷ, lợi tha, nào có phải đâu là cầu an, tiêu cực!

    Chẳng những không tiêu cực mà ta phải thẳng thắng nói rằng từ bi còn có nghĩa tích cực là đàng khác!

    - Tích cực dìu dắt, dạy dỗ người kém hơn mình với tất cả lòng từ, không để cho mọi người lầm lạc vào đường tội lỗi, khiến họ tránh được khổ đau, cùng khốn, xây dựng một con người đúng với chân thân chân tính con người của nó; để khi con người toàn thiện thì xã hội hòa hài, quốc gia an lạc, thế giới đại đồng, cùng vui cùng sống trong nhân ái, bình đẳng, tự do với nhau.

    - Tích cực, chống trả mọi hờn ghen, ghét bỏ của nội tâm, mọi đàn áp bất công có thể rắc gieo tai họa cho dân lành vô tội, rồi đem tánh bi mà bao dung, thương xót, tha thứ cả đến những người mưu hại mình, khiến cho mọi hiềm nghi , xú ác bị tuyệt diệt, mọi tàn hại, giết chóc bị rẽ khinh; nếp sống hòa hảo, ấm no, do đó mà tự nhiên sinh sôi, nẩy nở.

    Vậy kẻ nào muốn thực hiện cho trọn vẹn giáo nghĩa từ bi, nhứt định không phải là kẻ cầu an, tiêu cực, chỉ biết buông xuôi dòng đời cho ngày tháng muốn trôi giạt bồng bềnh bất cứ về đâu...

    Ái quốc không có nghĩa bài ngoại, hiếu sát

    Trong bốn ân mà Phật dạy, có ân quốc vương thủy thổ.Bởi vì đất nước ta mới có chỗ cư trú, sống còn; và có quốc vương, theo quan niệm thời xưa, ta mới có an ninh trật tự. Do đó mà người tu Phật, không thể không bảo vệ biên cương, không thể không mang ơn người sáng quốc.

    Cho nên các sơn môn thiền chủ thời Đinh, Lê, Lý, Trần tuy đã ăn nằm trong cửa Phật, từng thắm nhuần ý nghĩa từ bi, nhưng cũng không hề lãng quên bổn phận cầu vương, cứu chúng.

    Đại sư Khuôn Việt đã tận tụy không phò vua Đinh, thiền sư Vạn Hạnh đã thông mưu với Đại tướngĐào Cam Mộc khuynh phúc nhà Lê, Tuệ Trung thượng Sĩ Trần Quốc Tảng đã quyết tử với quân Nguyên, Trúc Lâm nhất tổ Tĩnh Tuệ Giác Hoàng đã chủ trương phá quân Mông Cổ, cầm binh chinh phạt Chiêm Thành v.v...những hành động đó há không biểu lộ cụ thể tinh thần ái quốc của các tu sĩ hay sao?

    Tuy nhiên, ái quốc không có nghĩa bài ngoại, hiếu sát, và nhất là nhà tu hành càng không nên quên chủ nghĩa từ bi bác ái của mình.

    Thật vậy, vua Trần Nhân Tông (về sau là Trức lâm nhất tổ) đã ngậm ngùi khi nhìn thấy chiếc đầu lâu khô héo của tướng giặc Toa Đô. Thắng không kiêu, bại không nản, và không bao giờ nhà vua để cho quân dân làm khó dễ khách kiều cư vô tội trú ngụ trên đất nước mình giữa khi người Tàu xâm lăng bờ cõi.

    Vậy ái quốc nhất định không phải chống ghét kẽ ngoài, và không vì chóa mắt lợi quyền mà hăng say sát phạt.

    Ái quốc là một cạnh khía của Từ Bi

    Như trên đã thấy, Từ là phải tìm cho chúng sanh niềm vui và Bi là phải xót thương và phải làm sao cứu khổ cho mọi người. Nếu nước mất thì người dân mất hết niềm vui, phải bị xích cùm ràng buộc, chết hại thảm thương, người có lòng từ bi đâu nỡ thấy đồng chủng mình bị kẽ xâm lăng giày xéo!

    Phương chi “hễ nước mất thì cơ sở của Đạo bị lấp vùi, nước còn nền Đạo được phát khai rực rỡ”. Cho nên cứu quốc cũng là một hình thức bảo vệ tín ngưỡng nữa. Trong tứ đại trong ân, riêng về ân đất nước, Đức Giáo Chủ đã dạy các tín đồ của Ngài rằng:

    “Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thoảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải ráng tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước. Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy”.

    Như vậy, ái quốc còn là một cạnh khía của từ bi. Đã vì chánh nghĩa, vì đức hiếu sinh, hiếu hòa của một sắc dân, của một giống nòi mà đứng ra tự vệ, chế ngự, kềm hãm, không để cho có sự tàn hại, bức áp của một sắc dân khác, và tránh cho họ cái tội cướp nước, sát nhân, thì không có gì là trái với định luật thiên nhiên cả.

    Giáo Lý từ bi và tinh thần ái quốc cùng dung hóa một cách thích đương

    Bởi quan niệm đất nước là hệ trọng cho kiếp sống của con người và sự tồn vong của Đạo pháp, nên khi nó bị xâm lăng, Đức giáo Chủ đã chủ trương cứu nguy tổ quốc.
    Ngài đã quả quyết trong mấy vần thơ:
    Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau
    Quyết rứt cà sa khoác chiến bào
    Đuổi bọn xâm lăng gìn đất nước
    Ngọn cờ độc lập phất phơ cao
    Và để động viên tinh thần sĩ dân góp phần chống đỡ giang sơn, Ngài đã hô hào sự tích cực góp tay của các giới.
    Đối với thanh niên, Ngài nhắc nhở:
    Trải qua cũng lắm hồi vận bỉ
    Rồi anh em tráng sĩ đứng lên
    Liều mình đục pháp xông tên
    Còn đối với phụ nữ, Ngài cũng không quên khuyến khích họ tham gia phong trào cứu nước:
    Chị em ôi! Bắc Nam là một
    Chị em là rường cột giống nòi
    Dở sử xanh Nam Việt mà coi
    Gương Trưng Triệu còn roi muôn thuở
    Tuy nhiên, bên cạnh tinh thần ái quốc đó, ta còn phải thiết tha nghĩ tới tình nhân loại đậm đà mà giáo lý từ bi đã ý thức cho ta. Hãy nghe lời giảng dạy của Đức Giáo Chủ:

    “Ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cậm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết; họ là nhân loại là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến Nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

    Vả lại cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc, nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại chúng sanh.

    Thế ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình, gây ra tai hại cho các gân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn”.
    Cho nên khi mà “nước ai nấy ở nhà nhà tự do” thì chừng ấy sẽ:

    Không ganh ghét dứt câu thù hận oán
    Để rồi:
    Nguyện giữ cang thường gìn Phật Đạo
    Giao hòa mãi mãi với lân bang
    Đến đây tưởng không gì rõ hơn là trích dẫn thêm một câu tuyên bố của Đức Thầy với báo chí năm 1946:

    “Thế nên, cái tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhân loại”.

    Nhưng người tu không được vịn vào cớ ái quốc mà để cho lợi danh cám dỗ

    Tuy lăn xả vào đời để cứu dân giúp nước, những bậc chân tu tiêu biểu đúng đắn cho đạo Phật không bao giờ để lợi danh cám dỗ. Nếu họ vì sự cần thiết lắm mà phải đứng ra hoạt động cứu quốc thì đó chỉ là thực hiện bổn phận công dân, chỉ là trường hợp tự vệ, không phải vì danh vọng hão huyền, không phải vì mang nặng tư tưởng võ trang, mà mục đích tối thượng cũng chỉ là muốn đem lại phúc lợi cho toàn dân. Và bao giờ họ cũng cố đem chủ nghĩa từ bi bác ái mà thi thố trước mọi người. Ta hãy nghe qua, lời của Đấng Cha Lành khuyên bảo đàn con dại, sau ngày chế độ xâm lược của thực dân Pháp bị cáo chung:
    “Hỡi tất cả thiện nam tín nữ!
    “Đạo Phật là Đạo Từ Bi Bác Ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay, tấm lòng nhơn chẳng đổi.

    “Vậy hãy coi toàn dân như anh em một nhà, mong họ liên kết với chúng ta để kiến thiết lại quê hương cùng nền Đạo nghĩa. Những kẻ bạo tàn từ trước đến giờ, nay đã ăn năn giác ngộ thì hãy dĩ tức nhiêu dung tội trạng của họ, để sau này cho quốc gia định đoạt, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì thái quá mà động đến từ tâm của chư Phật.
    “Mong các người hãy tuân theo”...
    Chẳng những thế, đối với những kẻ đã cố tâm mưu hại Đức giáo Chủ và dùng mọi thủ đoạn để tàn sát tín đồ của Ngài, Ngài vẫn mở lượng từ bi, kêu gọi buông tha, hỉ xả:
    Đồng bào ai nỡ dứt tình
    Mà đem chém giết để mình an vui
    Dầu lúc trước nếm mùi cay đắng
    Kẻ độc tai đem “tặng” cho ta
    Say này tòa án nước nhà
    Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình
    Lúc bấy giờ muôn binh xâm lược
    Đang đạp vày non nước Việt Nam
    Thù riêng muôn vạn cho cam
    Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công
    Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống
    Tha thứ nhau để sống cùng nhau...

    Thật không còn gì nhân ái cho bằng! thật chẳng có gì mâu thuẫn được, giữa từ bi bác ái quốc!
    ***
    Chung quy, việc cứu nước chỉ là một phương tiện trong một giai đoạn để bảo vệ quốc gia đồng bào và tự do tín ngưỡng mà thôi. Khi thái bình trở lại, người Phật tử, tín đồn Phật Giáo Hòa Hảo, liền trở về vị trí nhà tu để được thẳng tiến vào cõi siêu hình giải thoát như lời Đức Tôn Sư phán dạy:
    Đền xong nợ ước thù nhà
    Thiền món trở gót Phật Đà nam mô
    Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật
    Bụi hồng trần rứt sạch cửa không
    Chuông linh ngân tiếng đại đồng
    Ta bà thế giới sắc không một màu.

    Chương Thứ XVII: Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo Không Phải Là Một Đoàn Thể Chánh Trị

    Đạo mở cửa bày câu minh mục
    Nước ma ha tưới tắt lòng phàm
    Cõi trung ương luân chuyển phương Nam
    Mở hội Thánh chọn người trung hiếu
    Người am hiểu lịch sử cận đại nước nhà đều biết rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo Phật kế tiếp truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Phật Thầy Tây An khai sáng từ đời Tự Đức.

    Tuy nhiên, cũng có một vài người bàng quan đã nhìn Đạo này với tánh cách phiến diện, nên thấy nó là một đoàn thể chánh trị, hoặc cho nó là một phong trào cần vương. Sự thật, cặp con mắt quan sát đó đã thấy sai tất cả.

    Bao nhiêu sinh hoạt của một cá nhân, cũng như hằng sa công quả của môt mối Đạo, đâu có thể chỉ nhìn qua một vài động tác rồi vội vàng kết luận rằng người ấy thế này, Đạo ấy thế kia được! Nếu nhận xét vội vàng dẫn tới sự kết luận hấp tấp, thì e không khỏi bị xem là võ đoán.

    Giáo Lý và sự hành Giáo

    Ai đã từng đọc Sấm Giảng Thi Văn của Đức Giáo Chủ, từng theo dõi các sách báo và những tài liệu tu học của Đạo này, chắc chắn đã thấy rõ rằng B.S.K.H. và P.G.H.H. là một Đạo có Giáo Lý vững vàng chắn chắc, Giáo Lý đó bao gồm Yếu Pháp của Phật, đôi phần tinh túy của Nho và bao nhiêu tư tưởng riêng của chư vị tổ sư từ Đức Phật Thầy Tây An đến Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    Giáo Lý đó ra đời kịp lúc thật ứng hợp với không gian và thời gian. Bằng cớ không thể phủ nhận được, là Giáo Lý đó đã được tiếp nhận một cách hân hoan và nồng nhiệt, cho nên Đạo mới được lan rộng phi thường như ngày nay.

    Với một Giáo Lý vững vàng chắc chắn, không phải chư Tổ Sư chỉ đưa ra là xong, mà còn phải hoằng hóa từ phương diện tổ chức sinh hoạt cho đến thức lệ thực hành.

    Nếu Đức Phật Thầy Tây An, Đức Bổn Sư, Đức Phật Trùm, Ông Sư Vãi Bán Khoai đã phải lo dời (lập làng, mở ruộng, độ bịnh) phải giáo đạo (giảng Phật Pháp, dạy cách tu), thì Đức Giáo Chủ đã phải xiển dương hơn nữa. Chính tự thân Ngài đã phải xiển dương hơn nữa. Chính tự thân Ngài đã thực hành đầy đủ Giáo Pháp do Ngài đề xướng, Ngài lại tận tâm dẫn dắt mọi người noi theo gương tu hành vừa giản dị, vừa có công năng đưa đến con đường giải phóng thân tâm. Đồng thời, Ngài khuyến cáo ai nấy chăm lo việc làm ăn chân thật, biết thương nhau, hỉ xả cho nhau mỗi khi phạm lỗi. Phải yêu thương đất nước, bảo vệ đất nước và không làm điều gì có thể coi là gây sự tổn hại cho đất nước.

    Giáo Lý đó đã được dạy dỗ rạch ròi và thực hành nghiêm chỉnh. Chẳng bỏ Đạo mà cũng chẳng quên đời, không chăm vào tham vọng giải thoát ngay mà cũng không mê đắm mồi danh bã lợi mà quên cái tiêu điểm niết bàn vắng lặng, cần phải tinh tiến của mình.

    Nhìn Giáo Lý B.S.K.H. – P.G.H.H. rồi xem sự thực hành Giáo Lý ấy một cách kỹ càng và khách quan, chắc ai cũng phải nhận đó là một đạo Phật nhập thế, một giáo phái có căn đề, để y cứ mà tiến vững và tiến xa hơn nữa trên đường Đạo Pháp.

    Những cái nhìn thiên lệch

    Tuy vậy, một vài ngoại nhân vô trách nhiệm có khi vì mê vọng, thiên chấp vào thành kiến chánh trị, mang nặng chủ nghĩa vô thần, hoặc vì có những mục đích lung lạc hạng người nông nỗi, lại có những cái nhìn không đúng đắn chút nào, nên ngờ rằng B.S.K.H. và PG.H.H. là một “phong trào cần vương”, là một “đảng cách mạng lãnh đạo bằng thân quyền để tránh né sự đàn áp của thực dân”.

    Người ta đã bóp méo sự thật một cách máy móc mà rằng:
    - Sấm Giảng không gì khác hơn là tài liệu học tập trình độ thích hợp với nông dân do cán bộ tiền bối soạn thảo.

    - Khi cán bộ khoác áo thầy tu, kêu gọi bền chí tu niệm tức là hô hào kiên trì tinh thần tiêu cực đề kháng, không cộng tác với xâm lăng.

    - Khi nói đến Hội Long Hoa, Long Vân tức là cảnh cáo rằng ngày Cách mạng thành công, phục hồi vương vị thì sẽ có thưởng phạt.

    Nhận định như vậy là hoàn toàn thiên lệch, Người ta không thể nói con voi là cái quạt, là cây chổi, là cột nhà... như câu chuyện năm người mù rờ voi do Phật chứng dẫn trong một cuộc thuyết pháp, mà phải thấy con voi đúng là con voi với cái vòi dài,với đôi tai to, với bốn chân lớn, với cái hông phẳng và với cái đuôi tua tủa của nó...

    Sự nhận định sai lầm, là khởi điểm nảy sanh nhiều lý luận ngô nghê và đưa đến một kết luận không đâu vào đâu cả. Đó là điều mà Đức Phật và chư Tổ Sư hằng khuyên phải tránh:

    - “Đứng trước mọi việc chi, dầu sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy”.

    Dù là nhà đạo đức hay là nhà chánh trị, chúng ta đều không thể bỏ qua quan điểm “suy xét cho minh lý” mà bàn nghĩ đúng đắn được!

    BSKH và PGHH có phải là đảng cách mạng khoác áo tôn giáo ?

    Trong bốn ân mà toàn thể tín đồ P.G.H.H. đang theo đuổi thực hành, tất nhiên có ân đất nước. Nhưng ai dám bảo đảm rằng Giáo Lý P.G.H.H. chỉ có ân đất nước, hoặc chỉ có tứ ấn? Người hời hợt, sơ căn đến đâu, khi chịu khó nhìn vào một vài quyển Sấm Kinh của Đạo, cũng đủ thấy nhan nhản những Pháp môn Tịnh Độ, Thiền quán, những bất chánh, bát nhẫn, Tứ diệu đế... Ân đất nước chỉ là một giáo điều đối với hằng trăm, hằng ngàn giáo điều khác hiện hữu trong Giáo Lý B.S.K.H và P.G.H.H.

    Không ai chối bỏ công việc chống xâm lăng của Quản cơ Trần Văn Thành – một đại đệ tử của Phật Thầy Tây An, từng chỉ huy cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa từ năm 1868 – (1) cũng không ai quên được sự nghiệp cách mạng quốc gia của Đức Giáo Chủ trong giai đoạn chống xâm lăng, chống độc tài vừa qua... Nhưng cứ nhắm mắt mà tin rằng các Ngài chỉ là nhà quân sự, nhà chính trị, mà quên hẳn rằng còn có vô số công đức truyền giáo cứu dân, hằng sa phúc quả cải thiện xã hội mà các Ngài thực hiện được, thì thật là ngớ ngẩn nếu không cho rằng xuyên tạc!

    Chúng ta phải nhớ rằng trong Quản cơ Trần Văn Thành kháng chiến, còn có Đức cố quản Trần Văn Thành với một sự nghiệp đồ sộ của một bậc chân tu, và trong Đức Huỳnh Thủ Lãnh, lãnh tụ tối cao Dân Xã Đảngm còn có Đức Huỳnh Giáo Chủ với một công đức không thể nghĩ lường của một vị hoạt Phật.

    Thành tích cứu nước của Ngài tuy nguy nga không xiết nói, nhưng công đức giảng dân hóa chúng của các Ngài trùm phủ hơn lên, chan hòa ân huệ chẳng những ở con người, mà cả đến sinh vật vạn hữu nữa.

    Chúng ta cũng phải nhớ thêm rằng bên cạnh ông Đạo Thành, trong hàng đại đệ tử của Đức Phật Thầy còn có ông Đạo Lập, ông Đạo Xuyến, ông Đạo Ngoạn, ông Tăng Chủ, ông Đình Tây v.v... đã suốt đời chuyên lo hoằng khai chánh Pháp, cũng như trong khối tín đồ của Đức Giáo Chủ, bên cạnh những người hoạt động cách mạng quốc gia, còn có vô số những người chuyên lo phát huy Đại Đạo, mong đưa đời đến một cõi cực lạc, đại đồng!

    Như vậy, nào có phải đâu B.S.K.H và P.G.H.H. là đảng cách mạng khoác áo tôn giáo, mà là một gíao phái chân chính; người tín đồ chỉ làm phận vụ công dân khi gặp giai đoạn cần thiết bắt buộc phải bảo vệ đất nước mà thôi. Mà khi đã phải bảo vệ tổ quốc thì đã dám đứng ta tổ chức hẳn hoi, có tuyên ngôn chương trình rõ rệt, chớ không hề tránh né.

    BSKH và PGHH với xu hướng tôn giáo hóa chánh trị

    Mặc dù người ta đã tâng bốc rằng “P.G.H.H đã lôi cuốn hằng triệu nông dân theo lập trường chống Pháp và chống Cộng, đáng ghi vào lịch sử” “về nhân số thời P.G.H.H. ngày nay tương đương với Cao Đài và Thiên Chúa, đông đảo hơn bất cứ chánh đảng nào ở Việt Nam kể cả Cộng Sản” để rồi kết luận rằng “B.S.K.H và P.G.H.H là một phong trào cần vương”, thì người tín đồ của Đạo này cũng sẽ buồn cười mà không nhận những lời khen mang tính chất bóp méo sự thật như vậy.

    Người ta phải biết rằng sứ mạng của tôn giáo, nhất là B.S.K.H và P.G.H.H. là tôn giáo hóa chính trị,chớ nhất định không có việc chánh trị hóa tôn giáo. Bởi vì Đức Giáo Chủ hằng minh xác:
    Chi toan gieo giống bồ đề
    Kiếm người lương thiện dắt về tây phương
    Dạy khuyên những kẻ ngổ ngang
    Biết câu lục tự gìn đàng tứ ân
    Ở trần xử trọn nghĩa nhân
    Quyết làm tôi Phật gởi thân liên đài
    Hoặc là:
    “Nếu trong cõi nhân gian này còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc làm trái với những Giáo Lý chân chánh”.
    Ngài đã chủ trương:
    “Đem tâm hồn bác ái, từ bi, điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhân loại”.

    Dùng đạo lành ban rải cho chúng sanh, trong khi chúng sanh đang say mê lặn hụp trong danh lợi hảo huyền, trong chem giết thảm thương, chúng ta mãnh liệt tin rằng con người sẽ nhờ đó mà từ bỏ con đường tăm tối, lần theo ánh sáng cứu khổ của Đạo mà giải thoát cái lưới nhện chánh trị nhiều giả tạm đổi thay trong thời buổi hạ ngươn này.
    ***
    Đem tôn giáo biến thành chính trị là đem cái bao la vô tận nhốt vào ái hữu hạn tạm thời. Đem chánh trị biến thành tôn giáo là buông thả cái cô lậu hẹp hòi tung ra ngoài cõi trùng điệp muôn phương,vững bền, chắc chắn.

    Người chân tu bao giờ cũng nhận định được “gà lồng hạc nội bên nào là hơn”.
    Cho nên:
    Đừng nghĩ lầm rằng B.S.K.H và P.G.H.H là một đoàn thể cách mạng cần vương khoác áo giáo phái!

    Chương Thứ XVIII: Sự Bành Trướng Và Tiềm Lực Tự Tồn Của Phật Giáo Hòa Hảo

    Dầu cho gặp lắm hùm beo
    Từ bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng
    Nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Giáo Chủ khai sáng đến nay vừa được 29 năm tròn. Trong thời gian không lấy gì làm dài lắm đó Ngài đã thu hút được một số quảng đại quần chúng làm cho có lắm người e ngai hoặc thèm muốn.

    Trước tiên là thực dân. Với chủ trương đời đời thống trị, thực dân rất lo ngại trước sức bành trướng quá mau trong buổi đầu của mối đạo này. Họ đã cho lệnh lưu cư Đức Giáo Chủ rày đây mai đó. Họ kiểm soát gắt gao không cho truyền đạo và khủng bố nghiệt ngã tín đồ. Họ chủ trương thẳng tay bóp nghẹt không cho đạo này lan rộng bất cứ nơi đâu.

    Thứ đến là hạng người vô thần. Người ta muốn, hoặc phá vỡ tan tành đi, không cho có một lực lượng hữu thần với tinh thần quốc gia vững chắc, hoặc muốn kết nạp khối này thành một nhóm người thuộc hạ năm trong sự uốn nắn, dẫn đường của họ để đồng hóa theo tư tưởng họ.

    Ba là đám người độc tài, phong kiến. Đám người này cũng rất nguy hiểm không kém gì hai hạng trên. Họ chủ trương tiêu diệt tôn giáo và tất nhiên Hòa Hảo là môt tôn giáo vừa có nhân hòa mà vừa có địa lợi. Họ muốn bóp nghẹt cho bộ máy điều khiển tê liệt để rồi nắm hết tín đồ bắt phải suy tôn, phục tòng và nếu được, theo hẳn tín ngưỡng của họ.

    Một hạng sau cùng là hạng người lợi dụng lòng tín ngưỡng của các tín đồ để lung lạc hầu lôi cuốn về phe, làm hậu thuẫn cho mình. Hạng này được chia làm hai: nội bộ và ngoại giới. Nội bộ tức những người trước tiên dựa chân là tín đồ để rồi sau đó mưu cầu nắm quyền điều khiển. Ngoại giới là những kẻ không phải trong đạo, nhưng muốn cầu thân, ve vãn để nắm được tín đồ ngõ hầu thỏa mãn những mưu cầu riêng. Hạng người này cũng gây xáo trộn chẳng nhỏ trong công việc tiến hóa của Đạo.

    Bởi mối tham vọng quá nhiều của những hạng người vừa kể mà Đức Giáo Chủ và anh em tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo phải chịu chẳng biết bao nhiêu là khốn khổ, đớn đau qua suốt một phần tư thế kỷ nay.

    Với thực dân Năm 1939, tức âm lịch Kỷ mão, Đức Giáo Chủ mở đạo. Mối đạo vừa phát dương dù với chủ trương đường lối rõ rệt là “dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với trăm quan” để mọi người lánh dữ làm lành quy y Phật pháp, nhưng thực dân vốn là “con chim sợ tên” đối với dân tộc Việt này, nên bất cứ sự quần tụ, kết đoàn nào, là cấp thời đàn áp, muốn dập tắt ngay.

    Còn ai lạ gì thủ đoạn của kẻ ngoại bang thống trị đối với các tôn giáo xứ này. Lần dỡ những trang sử các đạo giáo miền Nam, chúng ta thấy ngay từ khi Ngài Ta Paul tức Đức Phật Trùm (cũng gọi là ông Đạo Đèn) xuất hiện ở núi Tà Lôn (miền Thất Sơn) khoảng 1868, thì thực dân đã bắt đầu đàn áp. Người ta đã đày cụ Ta Paul ra hải ngoại và hành hạ đủ điều, không cho tông phái này có cơ bành trướng. Kế đến Ngài Ngô Lợi (tức Đức Bổn Sư, Giáo tổ tôn phái Hiếu nghĩa hóa hiện cứu đời 1830 – 1890) cũng bị quân Pháp nhiều lượt bao vây lùng bắt. Rồi đến Ngài Nguyễn Đa tức Cử Đa và Ông Sư vãi Bán Khoai v.v... cũng không khỏi sự dò la, lùng bắt của bọn người xâm lược.

    Chính vì chủ trương của người Pháp như thế, nên khi dò biết Đức Giáo Chủ được đông đảo quần chúng ngưỡng mộ, là họ lập tức ra tay. Trước hết họ dời Ngài xuống Sa Đéc (tháng 4 Canh thìn 1940), rồi kế đến sang kinh xáng Xà No Cần Thơ (tháng tư canh thìn), lên nhà thương Chợ Quán (tháng 6 Canh thìn), xuống Bạc Liêu (tháng 5 Tân Tỵ 1941), và sau cùng họ đày Ngài sang Lào (1945).
    Nhưng có một điều quan hệ đáng nói là:
    Càng đi càng biết nhiều nơi
    Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông
    Đi đến đâu Đức Giáo Chủ đều được cơ hội khuyến tu, thuyết giáo. Tại Sa Đéc, trong khi Bazin, chủ sở mật thám có phận sự điều tra, theo dõi Ngài thì trái lại, vợ của Bazin và nhiều nhân vật tên tuổi khác tôn kính, quy y. Các nơi khác như Cần Thơ, Chợ Quán, Bạc Liêu... đâu đâu Ngài đều được quần chúng theo về tấp nập. Hội đồng Điều, Bác sĩ Tâm, Ông Ký Giỏi, Hương bộ Thạnh là những người có thế lực, đang lệ thuộc trong bộ máy cai trị của Pháp đương thời, đã quy y với Đức Giáo Chủ và tự nhiên trở thành những người đứng trước, đầu sóng ngọn gió, không ngại sự liên lụy nguy nan. Bao nhiêu tín đồ từ Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc... càng bị khủng bố ác liệt, họ càng có sức chịu đựng phi thường. Hương Cả Đào Thánh Đô bị đày đi Côn đảo, nhiều phần tử trung kiên và càng khiến họ thêm kết đoàn chặt chẽ trên đường tín ngưỡng.

    Thì ra thực dân đã thử sai bài toán: họ tưởng đâu cầm chân Đức Giáo Chủ để chận đứng phong trào, nào ngờ bậc siêu phàm kia chẳng chút lòng lay dao động.
    Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn
    Miễn sanh chúng thông đường giải thoát
    Cơn giông tố mịt mù bụi cát
    Chẳng nao lòng của đấng từ bi
    Và kết quả là số tín đồ của Đức Giáo Chủ mỗi lúc mỗi thêm đông đảo. Tiềm lực tự tồn đã bắt nguồn trong tín ngưỡng và được trưởng dưỡng bởi những động lực tinh thần của Sấm kinh.
    Với vô thần
    Hết chịu đựng nạn thực dân, Đức Giáo Chủ cũng như tín đồ của Ngài phải đương đầu với nhóm người vô thần Cộng Sản.

    Sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945 Đức Giáo Chủ thành lập Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội với thiện chí xây dựng độc lập quốc gia và tìm cách nâng cao tinh thần đạo Phật. Ngoài ra, Ngài còn đi khuyến nông thuyết pháp nhưng Việt Minh không để cho tôn giáo, các đoàn thể quốc gia được yên. Phật Giáo Hòa Hào bấy giờ đã lớn mạnh, lại có lập trường tranh đấu quốc gia rõ rệt, nên Việt Minh cũng tìm cách đè bẹp thẳng tay.

    Sau cuộc âm mưu bao vây văn phòng Đức Thầy tại Sài Gòn đêm 9-9-1945 của Việt Minh, Ngài vắng mặt.

    Dù rất đau lòng trước cảnh đất nước lâm nguy, Ngài vẫn phải:
    Tứ ấy lao mình vượt khổn nguy
    Băng rừng vượt suối giả man di
    Còn tín đồ của Ngài thì lớp bị sát hại, lớp bị khủng bố tàn khốc, các anh Huỳnh Thành Mậu (bào đệ Đức Giáo Chủ), Nguyễn Xuân Thiếp (thi sĩ Việt Châu), Trần Ngọc Hoành (trưởng nam cố Trung Tướng Trần Văn Soái) đều bị Việt Minh giết tại Cần Thơ, rồi kế tiếp các ông Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiều, Võ Văn Thời v.v... cũng bị sát hại tại Trà Vinh. Biết bao nhiêu người khác nữa bị chết oan và bị tra tấn tàn nhẫn.

    Tuy vậy tinh thần đạo giáo vẫn không sụt lùi. Người ta đã “quyết tử tiến trên đường gió bụi”, để rồi tìm mọi cách đùm bọc, che chở cho nhau trong hoàn cảnh con lạc cha, Thầy xa tớ. Người ta thầm nhủ với nhau, lời châu ngọc của đấng thiêng liêng siêu thượng:
    Lúc làm rẩy rụi nhiều sâu bọ
    Rồi ngẩn ngơ bỏ giống ra sao?
    Nấu lọc rành mới biết vàng thau
    Ai thật tánh ai người giả đạo
    Bị đàn áp, tinh thần đoàn kết lại lên cao. Toàn thể tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong giai đoạn này hơn lúc nào hết, biểu thị rất rõ rệt.

    Tháng 2 năm 1946, Đức Giáo Chủ sau một thời gian vắng mặt mà người nhẹ dạ tưởng đâu Ngài đã bị hại thì trái lại, Ngài trở về trong niềm phấn khởi của muôn vạn tín đồ...

    Rồi Ngài lại làm việc Đạo...
    Rồi Ngài lại tiếp tục công cuộc hộ quốc tì dân. Khiến muôn vạn tín đồ hân hoan tin tưởng:
    Khó làm cho hiền thánh lung lay
    Chỉ tưới nước vun phân cây quý
    Rồi Việt Minh lại dở lại ngón cũ, lập tâm ám hại Ngài tại Đốc Vàng Hạ.
    Ngài lại phải vắng mặt từ năm 1947, Tín đồ của Ngài biết bao người phải bị Việt Minh tàn sát và vô số bị đánh đập dã man, hoặc bị tiêu tan sản nghiệp!

    Nhưng tinh thần thương Thầy vẫn nguyên vẹn nơi con người đạo và sức bành trướng của khối Phật Giáo Hòa Hảo mỗi lúc mỗi mạnh thêm ra.

    Thì ra người ta nghĩ lầm rằng với lực lượng của một chi đội 30 (Hòa Hảo) chỉ có vài trăm cây súng, làm sao chống nỗi với lực lượng của 3 chiến khu 7,8,9 (Việt Minh) có hàng vạn sĩ binh với võ trang đầy đủ trong khắp địa bàn hoạt động miền Nam Việt Nam.

    Thì ra tinh thần đạo giáo lại chứng minh thêm lần nữa là không có lực lượng vật chất nào đàn áp nỗi!

    Với phong kiến Đã chịu đựng với Thực dân, Cộng sản, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo còn phải đương đầu với chế độ độc tài phong kiến của nhà Ngô.

    Năm 1945, Ngô Đình Diệm lên cầm quyền là thẳng tay đàn áp Hòa Hảo. Quân đội Phật Giáo Hòa Hảo với võ trang hùng hậu đóng trên khắp nẻo đường đất nước miền Tây, từ bao lâu năm đã làm cho Cộng sản lùi xa và giữ an được an ninh vững chắc, họ Ngô bấy giờ vì quyền lợi riêng tư, đã ra kịnh thu lột vũ khí và tước đoạt quyền hành.

    Trung tướng Lê Quang Vinh rút vào bưng biền, lập chiến khu kháng cự. Trung tướng Trần Văn Soái cũng bỏ Cái Vồn, kéo binh vào Đồng Tháp cứ hiểm. Sự xáo trộn xảy ra và chế độ bào tàn dẫn tới những hành động tội ác lan diễn khắp nơi mà những người tín đồ ngoan hiền lắm khi không làm chi nên tội cũng bị bắt cóc, hoặc bị sanh cầm.

    Cộng sản thừa cơ hội tốt lập lại thế đứng ở nhiều nơi. Họ Ngô ngoan cố, tưởng đâu mình chống nỗi Cộng sản, nên cứ lo đàn áp P.G.H.H. Trung Tướng Lê Quang Vinh, một bậc anh hùng dẫy đầy thành tích bài Tây đả Cộng, bị bức tử tại Cần Thơ, rồi biết bao nhiêu Hòa Hảo có khả năng, thừa khí phách trên đường phục vụ chính nghĩa quốc gia, bị họ Ngô thảm sát.

    Từ năm 1958 trở đi, Ngô Đình Diệm đã thu tóm được phần lớn quân lực P.G.H.H., nên xoay sang tiêu diệt cơ cấu điều khiển của Đạo. Các tự viện, các hội quán đều bị tịch thu, nhiều tài sản của đạo như ruộng vườn, nhà cửa cũng bị cưỡng đoạt. Công cuộc truyền bá đạo lý, cơ sở từ thiện đều bị bóp nghẹt không cho hoạt động.

    Họ Ngô còn chủ trương tiêu diệt viên chức trong đạo. Đức Huỳnh Công Bộ, lãnh đạo tinh thần tối cao P.G.H.H., luôn luôn bị trông chừng, theo dõi. Các ông Huỳnh Hữu Thiện, Trần Văn Tập, Huỳnh Thiện Tứ, Lê Hoài Nam không hề có hoạt động chánh trị chống chánh quyền, đã bị bọn mật vụ Ngô triều bắt cóc và thủ tiêu. Nhiều đồng đạo khác nhiệt tâm với đạo, với nước, đứng lên hoạt động đòi hỏi quyền dân, cũng bị ám sát hoặc khủng bố nghiệt ngã. Người ta còn dùng mọi cách để ly gián tín đồ, mưu toan cuộc “chia để trị”

    Người dân Hòa Hảo dầu phần đông mộc mạc, hiền lương, nhưng nhờ có đọc kinh, học đạo, họ vẫn thừa đức tin và đủ trí xét đoán để thấy được dã tạm của đam người độc ác. Cho nên dầu có bị phân chia năm bè ba mối, họ vẫn nhớ họ là họ với tấm Trần Dà trăm năm, vớibàn thông thiên muôn thưở. Đêm đêm thắp nhang khấn nguyện về xa xôi mong Thầy trở lại. Đạo nào khác, cho dẫu có lắm của nhiều tiền và có quyền có chức, họ đều xa lánh chẳng theo. Cho nên suốt chín năm dài, gia đình họ Ngô vẫn không đạt được cái mộng tiêu diệt tín ngưỡng và đè bên này, người ta xoay sang bên khác.

    Trong cơn bão táp loạn cuồng do nhà Ngô gieo gây, người trong đạo đã rỉ tai nhau câu phán truyền của Đức Tôn Sư kính mến:
    Phát xích sẽ truy tầm tàn sát
    Không đảng nào mà thoát tai ương
    Cho nên phải:
    Chớ nóng nảy sân si hư việc
    Phải đợi thời vua Việt hồi quy
    Và người ta đã “phân thân”, đã tự động tổ chức từng nhóm, phát giảng đọc kinh,gây thành một phong trào tu hiền lan rộng với thể thức tuyên truyền khác biệt. Họ đọc to trên máy phóng thanh lời Sấm Thi của Đức Giáo Chủ:
    Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành
    Làm cho đời hiểu rõ thinh danh
    Công đức Phật từ bi vô lượng
    Người ta lại phấn khởi lên và số người theo đạo gia tăng không ít.

    Cho hay người ta muốn tiêu diệt tín ngưỡng thì tín ngưỡng dồi dào, và muốn cho mối đạo rã tan thì đạo lại kết chặt lạ thường với một hình thức khác.

    Với hạng người lợi dụng

    Trong lúc ba hạng người trên, vì lợi quyền tham vọng, đã gieo tai rắc họa cho đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo không ít thì hạng sau cùng, tức hạng người “đục nước béo cò” lợi dụng lòng tín ngưỡng của tín đồ để lung lạc hầu lôi cuốn về phe làm hậu thuẫn. Như đã nói ở phần đầu, hạng người này được chia làm hai: nội bộ và ngoại giới. Trước hết xin nói về hạng người ngoại giới.

    Họ là những kẻ không phải trong đạo, nhưng thấy cơ bành trướng của đạo, động lòng tham, ước muốn nắm được khối quần chúng vĩ đại này để làm hậu thuẫn cho những hoạt động chánh trị của họ. Tham vọng đó đã thúc đẩy họ hành động những thủ đoạn không được chánh đáng. Chẳng hạn, đưa ra những luận thuyết sai lệch với manh tâm gây uy tín cá nhân để lôi cuốn anh em tín đồ P.G.H.H. về phe; hoặc gây hoang mang, chia rẽ trong nôi bộ để giả vờ chở che, ủng hộ, hầu nắm lấy tín nhiệm của một nhóm người. Nhưng họ đã thất bại hoàn toàn theo kiểu thất bại của những người “bắt lươn đàng đuôi”. Bởi vì có khi họ có thể mua chuộc hoặc rù quến được một vài người, nhưng hạng người để cho bị mua chuộc kia có chăng là những kẻ không có uy tín và khi trở về với anh em đồng đạo thì chẳng lôi kéo được ai, họ còn bị xem thường rẽ khinh là đàng khác!

    Bởi vì con ngươi tâm đạo, lòng luôn luôn mặc niệm những câu thơ:
    Con nghịch phản điều mang câu đàm tiếu
    Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan
    Lòng sắt son dám sánh nỗi ngàn vàng
    Khó mua chuộc những người đầy liêm sĩ
    Đường xa mới rõ tài con ngựa ký
    Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương Đến như hạng người trong nội bộ tức những người trước kia có dựa chân là tín đồ để rồi sau đó, lợi dụng khi Đức Giáo Chủ còn xa vắng, mưu tạo uy tín cá nhân và toan nắm quyền điều khiển.

    Trong những hồi người ta còn hoạt động mập mờ chưa có gì tỏ rõ, vẫn có một số người đạo tâm chân chất vì chưa kịp nhận xét tế nhị mà tin nghe, nhưng khi hoạt động công khai vấn đề được đưa ra ánh sáng, thì người tín đồ chân chất kia lập tức giác ngộ, mà quay về với bản sắc cũ, nghĩa là “sớm với chiều gắng chí nguyện cầu”, họ chuyên đọc Giảng Thầy, giữ trọn quy điều Thầy dạy và chỉ bàn xét kinh luật của Thầy chớ không hề tin nghe một người nào nữa.

    Số người chủ xướng công việc như trên cộng với những người chạy theo tuy không có bao nhiêu, nhưng đôi lúc cũng gây hoang mang xáo trộn trong nôi bộ đoàn thể. Âu có lẽ nhờ những việc như thế mới thử được lòng người mà trước kia Đức Giáo Chủ đã có lần tiên đoán.

    Thì ra nhóm người lợi dụng đã chẳng có dấu hiệu gì được thỏa mãn; còn khối tín đồ hơn hai triệu người của Đức Giáo Chủ vẫn vững vàng mạnh tiến trên cơ sở tinh thần mà từ 29 năm trước Ngài đã đề ra.
    ***
    Nếu chịu khó để tâm nhận xét một chút, ai ai cũng sẽ thấy răng sức bành trướng của khối người PG.H.H. rất mau và rất mạnh. Sự bành trướng đó không cần phải đợi lúc thế thuận mới có mà ngay trong hồi nguy kịch gian nan vẫn có như thường. Thử xem dưới thời Pháp thuộc, thực dân đàn áp là bao mà con số tín đồ tăng trưởng là bao!

    Rồi dưới thời độc tài và trong hồi phong kiến, hai chế độ này đã tận dụng khả năng tiêu diệt, nhưng rút lại, số người tín đồ đông đảo và đoàn kết là bao!

    Nếu chịu khó nhận xét kỹ hơn chút nữa, ta sẽ thấy được sức chịu đựng của đoàn thể này. Lắm khi bơ vơ mất người điều khiển như năm 1945, có hồi tan rả cả cấp lãnh đạo như thời 54-63, thế mà đạo đã vững vàng, người đạo vẫn khư khư một mực. Sức chịu đựng đó phải gọi đúng là tiềm lực tự tồn. Cái tiềm lực đó bàng bạc trong tinh thần người đạo. Khi thì phân thân, khi thì bất động, nhưng lúc nào cái tiềm lực đó cũng vững bền để rồi tiến đến chỗ hằng cửu bất biến, vững chắc về sau.

    Ai là người có tham vọng tiêu diệt, đồng hóa hoặc lợi dụng mối đạo này, tưởng cần nên trông nhìn vào bước đường diễn tiến ở trên... Nếu không, sẽ có ngày vỡ mộng.

    Chương Thư XIV: Phật Giáo Hòa Hảo Ngày Nay

    Mảng chờ trông bá tánh thảnh thơi
    Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo
    Xuất phát tại làng Hòa Hảo quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc, Phật Giáo Hòa Hảo đã bành trướng ở Nam Phần nước Việt, nhứt là tại 15 tỉnh sau đây: Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Kiến Phong, Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiên Giang, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên, Định Tường, Long An, Kiến Hòa, Kiến Tường, Sài Gòn, Gia Định. Từ 3 năm nay Phật Giáo Hòa Hảo lại được lan rộng thêm ở Trung Phần, tại các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định và rải rác trong nhiều nơi khác...

    Đặc biệt tại các tỉnh miền Tây phát sanh xứ của P.G.H.H, thuộc châu thổ sông Cửu Long giáp với nước Cao Miên, được mệnh danh là vựa lúa của Việt Nam. Nhờ sự phì nhiêu của đất đai, vùng này có khả năng vĩ đại về nông nghiệp và có một vai trò căn bản trong nên kinh tế nông nghiệp hiện nay của nước Việt.

    Với một diện tích canh tác là 1.885.000 mẫu tây, vùng này đã sản xuất hằng năm khảng 3.000.000 tấn lúa. Những hoa màu phụ, những ngành chăn nuôi, ngư nghiệp... còn là một mối lợi to chưa kể đến.

    Tưởng cũng nên nói rõ là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa gồm có diện tích tổng cộng 17.326.000 mẫu hiện đang canh tác. Trên căn bản ấy, vùng Hậu Giang, nơi phát sanh và bành trướng ảnh hưởng P.G.H.H đã ước lượng có đến 1.885.000 mẫu tây được canh tác. Nếu tính ra phần trăm thì miền này đã chiếm đến 60% tổng số diện tích đất đai khả canh toàn quốc. Đại đa số mễ cốc xuất cảng của Việt Nam, đã xuất phát tại đây.

    Nhờ thuận lợi ở khế cơ và thích đương về khế lý, Phật Giáo Hòa Hảo ngày nay đã tổ chức được những cơ cấu thật rộng rãi và chặt chẽ để tùy duyên hóa độ quần sanh theo cơ chỉ cao thượng mà Giáo Lý của Đức giáo Chủ đã khai thị.

    Tổ chức cơ cấu Năm 1946, trong một câu trả lời cho báo Nam Kỳ, Đức Thầy có cho biết rằng Ngài đã kết nạp được hơn triệu tín đồ. Sau đó, nhờ ảnh hưởng của 107 lần chu du khuyến nông thuyết pháp của Ngài qua các tỉnh miền Nam hồi 1945 và nhờ sự truyền bá Kinh Giảng không bị cấm ngăn như dưới thời Pháp thuộc, số tín đồ P.G.H.H. tăng lên đến 2.000.000 người. Từ họ Ngô bị lật, sự truyền bá tư tưởng được tự do hơn, số tín đồ PG.H.H. càng lúc càng tăng thêm. Cụ thể ở Gò Công, Long Khánh, (miền Nam) hoặc Cam Ranh, Sông Cầu (miền Trung) xưa kia rất ít hoặc không có bóng dáng người tín đồ P.G.H.H. thì ngày nay, bàn Thông Thiên cũng như trang Tam Bảo được thượng lên tại nhiều nhà để thể hiện tinh thần quy phục.

    Số tín đồ P.G.H.H. hiện hữu, đại diện cho một tỉ số 39% trên dân só vùng Hậu Giang hay 18% trên tổng số dân Việt Nam Cộng Hòa. Có những tỉnh như Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Đéc, tín đồ P.G.H.H. lên đến 90%. Dân số ở các tỉnh khác, tỉ số này thay đổi từ 20 đến 60%.

    Với một khối quần chúng vĩ đại mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã kết nạp được, Ngài đã cho thành lập ngay từ năm 1945, các cơ cấu trị sự của Đạo từ Trung Ương đến thôn xã. Chính Ngài đã giữ nhiệm vụ Chánh Hội Trưởng cấp Trung Ương của Đạo để điều hành các cơ sở hạ tầng. Ngài cũng đã lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội để hô hào thống hợp đạo Phật trong nước giữa khi các sơn môn nếp sinh hoạt rời rạc với cảnh tượng “riêng Pháp bảo, riêng chùa, riêng Phật”. Nhưng các cơ cấu nói trên vì tình thế, bị bế tắc, hoặc có hồi ngưng trệ.

    Hiện nay, sau những lần Pháp nạn khốc liệt, P.G.H.H. đã có tư cách pháp nhân. Giáo Hội Trung Ương (nhiệm kỳ 1) lần hồi phục hoạt các cơ cấu Trị sự cũ và thiết lập thêm các cấp Trị Sự mới, làm thành một hệ thống dây chuyền, chặt chẽ liên hệ nhau để thiệt hành việc đạo.

    Theo nguyên tắc dân chủ, Giáo Hội được bầu cử từ Chi hội lên Ấp, Xã, Quận, Tỉnh, đến Trung Ương. Mỗi cơ cấu có một Ban Trị Sự đông từ 9 vị (Xã) đến 17 vị (Trung Ương) và cho đến nay, Giáo Hội gồm có:
    - 16 Ban Trị Sự Tỉnh và Liên Tỉnh
    - 56 Ban Trị Sự Quận
    - 363 Ban Trị Sự Xã
    - 2.842 Ban Trị Sự Ấp
    Giữ đúng tinh thần vô vi, Giáo Hội không chủ trương kiến trúc quy mô các cơ sở quy ngưỡng. Tuy nhiên, dù giản dị thế mấy, Giáo Hội cũng đã có:
    - 401 hội quán và 2.876 trụ sở (1)
    - 152 Tự viên (đã được hợp thức hóa thành tài sản Giáo Hội).
    - 388 Độc giảng đường với 401 bộ máy phóng thanh (2)
    Số Trị viên các cấp để sinh hoạt tại các Ban Trị Sự, cộng 23.848 người. Ngoài ra Giáo Hội còn có hằng trăm Giảng viên và 10.000 Giảng sinh được đào tạo tại 21 trung tâm tu học và Học viện Giáo Lý với trách nhiệm đi diễn giảng Đạo Pháp khắp nơi cho đại chúng nghe. Giáo Hội lại tổ chưc các Ban Quản Tự các Tự Viện, Ban Quản Trị các Độc Giảng Đường để liệu lý công việc nhà chùa và điều hành các công quả xướng đọc Sấm Giảng. Mỗi Ban Quản Tự là 13 nhân viên và mỗi Ban Quản Trị cũng 13 nhân viên. Như vậy, số Ban Quản Tự và Ban Quản Trị gồm có:
    - Ban Quản Tự Tự Viện: 13 x 152 : 1.976 nhân viên
    - Ban Quản Trị Độc Giảng Đường: 13 x 388 : 5.044 nhân viên.
    Tổng cộng nhân viên của các ngành thuộc hệ thống Giáo Hội hiện nay là 40.968 người. ai nấy đều làm việc hoàn toàn hi sinh với tính cách sư sĩ tại gia, tự làm lụng để tự tu tự độ và gắng gổ độ tha, không được cung cấp lương bỗng và cũng không thụ nhận sự tài trợ của ai hết.

    Tất cả trên dưới một lòng hướng về vị lãnh đạo duy nhất và tối cao là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Từ ngày 16-4-1947, Đức Giáo Chủ vắng mặt, quyền uy tối thượng toàn thể tín đồ vẫn đặt trọn nơi Ngài. Nhưng về phần tinh thần, có Đức Ông Huỳnh Công Bô và Đức Bà Lê Thị Nhậm (thân phụ và thân mẫu của Ngài) lần lượt nối tiếp giữ nhiệm vụ hướng dẫn đồng đạo.

    Hiện nay, Đức Ông và Đức Bà đã viên tịch, Tổ Đình (1) vẫn được quy ngưỡng. Nơi đây có cụ Huỳnh Văn Quốc, bào đệ Đức Ông, cô Huỳnh Thị Kim Biên, bào muội Đức Thầy, ông Lâm Đồng Thanh, tế tử của Đức Ông và Đức Bà, đại diện trông coi phụng tự và nhắc nhở việc tu hành cho các tín hữu. Hằng năm đến ngày 18 tháng 5 âm lịch, tức ngày kỷ niệm Đức Thầy khai sáng đại đạo, người ta kéo về như thác đổ, bàn chân nối tiếp với bàn chân, họ quỳ rạp từ thềm nhà tổ đến ngoài sân, nguyện cầu bá tánh giải thoát tâm mê và Đức Thầy mau trở lại...
     
    Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 20/1/15
  4. TTT

    TTT Member

    Trọng tâm công tác

    Trọng tâm công tác của Giáo Hội nhằm vào hai mục tiêu chính. Thứ nhứt là phổ truyền Giáo Lý P.G.H.H. trong nước và ngoài nước. Thứ hai, thực hiện các công tác xã hội, cứu trợ, bố thí.

    Công việc phổ truyền Giáo Lý được xem như món ăn tinh thần để bồi dưỡng và phát huy đạo đức trong nhân loại để cải tạo con người, đồng thời công tác xã hội nhằm nâng cao mực sống của chúng sinh trong một xã hội đang tiến bộ theo trào lưu của thế kỷ 20.

    Mặc dù đang trong đà đẩy mạnh của nhiều việc phải làm. Giáo Hội vẫn nỗ lực việc cứu trợ nạn lụt miền Trung, việc giúp đỡ các cô nhi quả phụ và thương phế binh, việc cấp học bổng để nâng đỡ các học sinh nghèo, việc cất nhiều ngôi nhà lá để tặng cho các đồng bào xấu số ở nhiều nơi bị hỏa tai hay chiến họa,việc tặng quà và giúp thuốc men cho các phạm nhân trong các trại cải huấn các tỉnh và ngoài Côn đảo ... (1)

    Chương trình văn hóa xã hội dự định còn nhiều. Hiện nay một loại trường từ Trung đến Đại Học do Giáo Hội sẽ dựng lên, cần được đặc biệt chú ý. Loại trường này có thể mệnh danh là trường Từ Bi chẳng hạn, dạy theo chương trình Chánh phủ nhưng sẽ có mỗi tuần một số giờ Giáo Lý P.G.H.H. hoặc đưa sang các trung tâm tu học Giáo Lý P.G.H.H. hoặc đưa đi du học tại các đại học đường Phật Giáo ngoại quốc.

    Một trung tâm huấn luyện cán bộ xã hội cũng cần được mở ra với một chương trình dài hạn, do những người tình nguyện nhận chịu sự hi sinh trong một nếp sống khắc khổ để đứng ra góp phần tế trợ và cải tạo lại một xã hội đang bị suy đồi.

    Các công tác y tế nông thôn, các trại tế bần, các nhà dưỡng lão, các viện mồ côi... mà Đức Giáo Chủ đã đề ra năm 1946, phù hợp với Giáo Lý tu phước trong Phước huệ song tu, cũng cần được Giáo Hội xúc tiến để thực hiện cho kỳ được. (2)

    Công tác truyền bá Giáo Lý đã được tích cực hoạt động. Mặc dù trong tình trạng sơ khai, khởi sự bằng con số không, Giáo Hội đã mở đầu bằng một cuộc đại hội với trên 400 vị Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý trong toàn quốc để biểu quyết một chương trình hoạt động then chốt của ngành Phổ Thông Giáo Lý. Kế đó là các cuộc hội nghị để đính chính những chỗ in sai trong Kệ Giảng, hội nghị để trình bày và nghiên cứu các ngôn hành của Đức Thầy hầu tập đại thành những gì cần phải bảo tồn.

    Khoảng 250 cuộc hội nghị được mở ra trong vòng ba năm (1964-1967) để nghiên cứu Giáo Lý P.G.H.H. Hằng trăm nhân viên phụ trách trong hằng chục tiểu ban chuyên môn để nhắm đúng mục tiêu phát huy Giáo Lý. Kết quả, Nguyệt san Đuốc Từ Bi, cơ quan Phổ Thông Giáo Lý P.G.H.H. với số lượng xuất bản mỗi tháng từ 15 đến 20 ngàn quyển phát hành khắp quốc nội và ra đến hải ngoại. Nội san Sống Vì Đạo, Hướng Đạo, Chân Tiến, Chân Đạo, Ánh Đạo đã được ra đời co các cây bút trẻ đang tu học tại các trung tâm Giáo Lý phụ trách. Tiếng nói Chánh Pháp và Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ được chính thức tuyên dương trên các Đài Phát Thanh Sài Gòn, Ba Xuyên và sau chuyển sang Cần Thơ, mỗi tuần nửa giờ đều đặn.

    Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ do Đức Giáo Chủ viết ra, sau khi được đính chính và đề từ cẩn thận – vì lâu ngày tam sao thất bổn – đã liên tục ấn hành mỗi kỳ hằng 20n ngàn bộ. Phẩm Tôn Chỉ Hành Đạo được phiên dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh và in bằng ba thứ tiếng với ấn loát mỹ thuật để phổ biến trên trường quốc tế. Một bản chữ Hán cũng đã được dịch ra để đápứng nhu cầu đòi hỏi tại các quốc gia Nhựt Bản, Trung Hoa và Đại Hàn.

    Ban tu thư Phổ Thông Giáo Lý cũng đã biên soạn được nhiều quyển sách thuộc loại học tập nội bộ và ấn hành hằng loạt để phát dương tinh thần tu học và sinh hoạt đường lối của Giáo hội, trong số đó có loại song ngữđược trình bày bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Trên 40.000 quyển đã phát hành và hiện đã soạn xong những quyển mới để tiếp nối xuất bản.

    Song song với những hoạt động trên, còn có hằng trăm cuộc phỏng vấn được trả lời cho các ký giả báo chí, các văn gia học giả, các phái viên các đài vô tuyến truyền thanh và truyền hình trong và ngoài nước hỏi về P.G.H.H. Hằng ngàn buổi diễn giảng đạo pháp với nhiều đề tài nghiên cứu cẩn thận được các vị Giảng viên Giáo Lý đi diễn giảng khắp đô thị, thôn quê do nhu cầu của đại chúng. Một phái đoàn xuất dương sang các nước Nhật Bản, Ấn Độ và Thái Lan với hằng ngàn Kinh, sách, báo được mang theo; cũng như một phái đoàn khác được đưa ra bốn Tỉnh miền Trung để sinh hoạt Giáo Lý P.G.H.H. đều không ngoài mục tiêu đã nhắm.

    Để xây dựng cho có nhiều cán bộ có khả năng hầu nỗ lực hoạt động đạo pháp trong hiện tại cũng như cho tương lai, 21 trung tâm tu học Giáo lý P.G.H.H. đã được mở ra tại Thánh địa cũng như tại các tỉnh trong năm 1966-1968. Mỗi trung tâm tu học này thu nhận khoảng 500 tu sinh, trong số đó lứa tuổi không đồng đều, nhưng toàn thể đều nỗ lực tu học theo một chương trình chung do cơ quan Phổ Thông Giáo Lý biên soạn, giảng huấn và điều hành guồng máy hoạt động. Sinh hoạt này thật hết sức cần thiết cho một nền Đạo lớn, do đó mà Giáo Hội lúc nào cũng cố sức chăm lo cho được mỗi ngày nẩy nở thêm người tài đức hầu chuẩn bị việc đưa sinh viên xuất dương du học, chuẩn bị giáo sư dạy về Giáo Lý tại các học đường, hoặc sung vào cơ quan tuyên úy P.G.H.H. mà Giáo Hội đang tranh thủ (3).

    Cùng với việc đào tạo lớp người mới để nối tiếp với thế hệ nhân viên tuổi sắp về chiều, còn có công tác quan trọng nữa là khai thác các nhân tài đang có sẵn, tùy khả năng tham dự vào các tiểu ban, động viên hết nhiệt tình vào việc Đạo. Nhờ vậy mà trong nhiệm kỳ I, riêng về phương diện truyền giáo, tính từ tháng 12 năm 1964 đến tháng 12 năm 1967, đã có đến 3.263 vụ được hoàn toàn thanh toán, 407.760 ấn bản thuộc tài liệu tu học và nghiên cứu được xuất bản, và 458.352 quyển Kinh, sách, báo được phát hành trên toàn quốc và hải ngoại. Như vậy tính chúng đã có đến 866.112 ấn loát phẩm được đưa ra (4).

    Hiện nay, chương trình tu học còn được chuẩn bị sẵn sàng cho các khóa huấn luyện Độc Giảng Viên, khóa đào tạo thiếu nhi, khóa sơ cấp bổ túc, khóa trung cấp để tiến lên cao cấp. Chương trình Tiếng Từ Bi cũng được dự liệu mở rộng thêm trên các Đài phát thanh Huế, Ban Mê Thuột và khi giải quyết xong vấn đề Tuyên Úy P.G.H.H. thì sẽ có chương trình phát thanh trên Đài Quân đội... Chương trình phát hành Đuốc Từ Bi cũng được nghiên cứu đến việc đặt một trung tâm phát hành tại Âu Châu để tiện bề phổ biến hơn nữa.

    Tóm lại, những điều mà Đức giáo Chủ phán dạy phải làm, như việc tra cứu kinh điển, việcdịch sách, việc viết sách nói về đạo Phật, cũng như việc mở trường dạy Đạo Phật, việc phái người đi giảng Đạo Phật... đều đã được nỗ lực thi hành trong thời khoảng ba năm qua. Nhưng vấn đề thật lớn lao và rộng rãi, chương trình cần phải liên tục và trường kỳ mới có thể đi đến cái đích viên mãn của nó (5)
    (1) Tham khảo theo tài liệu thuyết trình của Ban Trị Sự Trung Ương (nhiệm kỳ I) trong kỳ viếng thăm các tỉnh hồi tháng 7 năm 1966.
    (2) Nguyễn Văn Hầu: Muốn về cõi Phật, chương Hành thiện.
    (3) Số quân nhân gốc là tín đồ P.G.H.H. hiện nay có trên 60 ngàn người đang chiến đấu trong quân đội V.N.C.H.
    (4) Đó là chưa kể đến hằng 100.000 học liệu của 10 trung tâm tu học tiếp tục khai giảng từ tháng giêng đến tháng 7 năm 1968.

    (5) Xem chương Hoằng Pháp trong quyển Muốn về Cõi Phật do Hương sen xuất bản, cùng một tác giả.

    Ảnh hưởng PGHH

    Từ năm 1947, vì phải đứng lên vừa chống xâm lăng vừa chống độc tài, người công dân trong danh nghĩa quân đội Hòa Hảo hoặc Dân Xã thường bị đối phương đưa ra những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, cố làm cho đoàn thể này bị mất uy tín.

    Thật ra, với nền kinh tế tự túc, tất cả nhu cầu cần thiết như quân trang, quân cụ, cho tới thực phẩm, thuốc men... quân đội đảgn phái trong tình trạng vô chánh phủ lúc đó làm sao không trông cậy vào sự tiếp tế của nhân dân. Do đó, mà đã có một số dư luận bất công không tránh được đối với P.G.H.H.

    Tuy nhiên, từ 1954 trở đi, khi Ngô Đình Diệm chấp chánh và thao túng chính trường, giới thanh niên trong quân đội Hòa Hảo trở về với nếp sống tín đồ, còn quân đội D.X rút lui vào bưng biền bất hợp tác, thì người ta mới có dịp so sánh và lần hồi được thấy rõ những gì cần nhận định cho đúng đắn, và nhờ vậy họ có cảm tình với P.G.H.H.

    Qua mấy năm Giáo Hội củng cố lại các cơ cấu và hoạt động mạnh trên hai phương diện truyền giáo và hành thiện, ảnh hưởng của P.G.H.H. đã lan rộng nhiều nơi. Các giới chức chánh quyền đều ủng hộ. Các vị Chủ Tịch, Quốc Trưởng, Thủ Tướng trong các chánh phủ từ 1963 đến nay, đều có đến viếng thăm Thánh Địa Hòa Hảo và bày tỏ mối cảm tình đối với đoàn thể này.

    Hằng chục phái đoàn trong mỗi năm, gồm có Thượng Hội Đồng, Hội Đồng Nhân Sĩ, Hội Đồng Lập Pháp, Dân Biểu lập Hiến, Thượng Hạ Viện, các nhà lãnh đạo Tôn Giáo, các Tổng Ủy Viên, các Tổng Bộ Trưởng, các Tướng lãnh đại biểu Chánh Phủ, các vị Tư Lệnh Vùng, trước sau tiếp nối về Tổ Đình để vấn an Đức Ba, thân mẫu Đức Huỳnh Giáo Chủ, hoặc để tham dự các đại lễ.

    Hằng trăm phái đoàn văn sĩ, học giả, ký giả đến các khu vực có đông tín đồ để sưu tầm tài liệu, phỏng vấn, tham khảo về lai do P.G.H.H. Lại thêm rất đông các du khách thuộc các thành phần, đã về đây với tấm lòng mong muốn thăm qua và tìm hiểu.

    Nhờ Giáo Lý thâm diệu của Tổ Thầy và chủ trương ôn hòa, vị tha của Giáo Hội; nhờ các phái đoàn Giảng viên truyền bá Giáo Lý hoạt động tích cực; nhờ nhiều kinh, sách, báo tung ra; nhờ chương trình phát thanh tiếng nói Đạo Pháp đều đặn; nhờ nhiều công tác từ thiện, xã hội... khiến đa số quần chúng trong toàn quốc, dù chưa có dịp đến Thánh Địa, vẫn dành nhiều mỹ tình với Đạo qua những bức thư viếng thăm, góp ý kiến hoặc đưa ra những đề nghị xây dựng đáng được tán thành...

    Nhiều báo chí, sách vỡ của các văn nhân ký giả ngoại đạo cũng dành những chương mục, những số riêng để nói về P.G.H.H.

    Đặc biệt đưa vài thí dụ: như tuần báo Cộng Hòa đã dành trọn một số gồm trên 30 trang lớn để nói về P.G.H.H. với nhiều hình ảnh và bài vở chọn lọc. Nhật báo Miền Tây với hằng loạt bài vừa phỏng vấn, vừa tường thuật những gì thuộc phạm vi sinh hoạt của anh em trong đạo.

    Những bộ sách lớn như Tín ngưỡng Việt nam, người Việt đất Việt, của các nhà văn như Toan Ánh, như Cửu Long Giang... đã thành thật nhiều trang để nói thật đầy đủ từ phát sanh xứ cho đến nghi thức tu hiền, từ những giáo điều cho đến cách thức vào Đạo v.v...

    Trên bình diện quốc gia, Giáo Hội P.G.H.H là một hội viên sáng lập Hội Đồng Tôn Giáo Việt Nam, một cơ quan đoàn kết các tôn giáo giữa P.G.H.H. với Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Bah’ai...

    Đó là một vài chứng tích thuộc ảnh hưởng quốc nội. Còn nói đến ảnh hưởng quốc tế thì cách biệt rất xa với những năm trước kia.

    Ngay sau khi Giáo Hội phục hoạt các cơ cấu và Đuốc Từ Bi số 1 được phát hành, nhiều nhà trí thức ngoại quốc cũng như các học giả Việt Nam tại hải ngoại đã liên lạc ngay với cơ quan hữu trách của Giáo Hội. Bác sĩ Nguyễn Trần Huân, giáo sư Đại học Sorbone, là một học giả Việt nam đầu tiên ở hải ngoại nghiên cứu về P.G.H.H. Trong một bức thư hồi đầu năm 1965, học giả nói:

    “Tôi đã đọc Đuốc Từ Bi và rất lấy làm vui mừng nhận được nhiều tài liệu quý báu về Giáo Lý P.G.H.H. - Ở bên Pháp có nhiều nhà khảo cứu về Tôn giáo muốn biết về Hòa Hảo. Nay nhận được báo này, tôi sẽ có thể cho họ biết được triển vọng của P.G.H.H.”

    Rồi trong một thư khác, đến khi đề cập “Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ” của Đức Huỳnh Giáo Chủ sau khi được ấn loát cẩn thận và gởi sang, Bác sĩ viết:

    “Bộ Sấm Giảng này thật là một bộ sách quý và rất có lợi cho tất cả mọi người Việt Nam hay ngoại quốc muốn hiểu rõ về vấn đề P.G.H.H.”.

    Trong số những thư từ liên lạc, Giáo sư Georges Condominas, Giám đốc Trung tâm khảo cứu về Đông Nam Á và Nam Dương, thuộc phân bộ Văn hóa, Trường Đại học thực hành kinh tế xã hội học ở Paris, sau khi tiếp nhận được Bộ Sấm Giảng Thi Văn của Đức Giáo Chủ, đã viết cho chúng tôi một bức thư mà trong đó có một đoạn đầy thiện cảm, được dịch ra như sau:

    “Bộ kinh này (Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ) giúp ích cho tôi rất nhiều, vì từ lâu người ta đã nói đến Phật Đạo canh tân Hòa Hảo, thế mà đến nay tôn giáo này vẫn chưa được nghiên cứu một cách đứng đắn trên những tài liệu chánh thức và xác thực. Việc xuất bản quyển Kinh này cũng đã bổ khuyết một sự thiếu sót nghiêm trọng; vậy tôi xin nhiệt liệt ngợi khen Ông về công tác ấy.

    Tác phẩm này đã được đem ra làm đầu đề trong một buổi thuyết trình quan trọng tại một khóa tu học của chúng tôi: những môn đệ của tôi rất lấy làn thích thú, quan tâm đến vấn đề này cũng như về những liên quan cùng một lúc với thời sự và sự biến chuyển của các tư tưởng...”

    Nói chung hiện nay có đến trên 100 thư viện trên 30 quốc gia trên thế giới có tàng trử các loại Kinh, sách, báo chí của P.G.H.H. và có liên lạc với tòa soạn Đuốc Từ Bi. Một số các nhà báo, nhà văn Pháp, mỹ, Nhật đã viết về P.G.H.H. Có thể kể: Annuaire 1966-1967 (Tiếng Pháp); Monthy Gazette (tiếng Nhật); the Japan Time, The Mainichi Daily News newsweel (tiếng Anh0.

    Ngoài ra, còn một số đông các tu sĩ, các nhà trí thức quốc tế, đã liên lạc với P.G.H.H. trong tinh thần tôn giáo tương thân hoặc nghiên cứu tôn giáo. Xin kể qua vài vị trong một ít quốc gia. Đó là Bác sĩ H.H.E, Loofs (Úc Đại Lợi); Giáo sư Milton Sacks, Tiến sĩ Waltes Slote, Giáo sư A.Richard Gard (Hoa Kỳ); Thượng tọa Fujii, thượng tọa Ariya Wansa, Giáo sư Kaship (Ấn Độ); Kỹ sư Fujiki; Bác sĩ Hisao Shoga, Giáo sư Yotoumoto, Hội chủ Nikkyo Niwano, Thượng tọa Fujii, Thượng tọa riri Nakayama, tu sĩ Sogen Omori (Nhật bản); Giáo sư Maurice Durand, Giáo sư Georges Condominas (Pháp quốc) v.v...

    Kể làm sao xiết được số lượng các phái đoàn ngoại quốc như Phái đoàn Tôn giáo, Phái đoàn Văn Hóa, Phái đoàn Báo Chí và Phái đoàn Chánh Trị đến viếng Thánh địa trong mấy năm gần đây. Ai được hân hạnh ngồi đọc hết những dòng chữ lưu niệm trong quyển sổ vàng để tại Tổ Đình P.G.H.H. với những nét bút khác nhau và nhiều thứ tiếng không giống nhau, mới thấy được những cảm nghĩ tốt đẹp của các nhân vật quốc tế đối với đoàn thể có nhiều triển vọng này.

    Kỹ sư Fujiki, trưởng phái đoàn báo chi kinh tế và chuyên viên Nhật Bản trong chuyến hành hương về Thánh Địa hôm nhày 5 tháng 3 năm 1967, có đọc một bài diễn văn quan trọng bằng tiếng Nhật, có thể tiêu biểu chung cho đa số cảm nghĩ của những người ngoại quốc có cảm tình với P.G.H.H. Xin dịch sát ý của nguyên văn:

    “Thật là một diễm phúc và là một danh dự mà quý vị đặc biệt dành riêng cho chúng tôi được đặt chân đến viếng thăm Thánh địa Hòa Hảo hôm nay.

    Tôi rất lấy làm cảm kích trước sự phổ thông Giáo Lý chính xác của Đạo Phật Giáo Hảo cho các đoàn thể Phật Giáo Nhật, cho Giáo Hội Rissho Kosei Kai (1) và mọi người mà quý vị trong phái đoàn P.G.H.H. đã thực hiện trong kỳ viếng thăm nước Nhật Bản trong năm vừa qua.

    Tôi thành thật cảm tạ trước sự nỗ lực không ngừng của liệt quý vị để kiến thiết một quốc gia, một xã hội con người có đạo lý, làm cho thế giới phải chú ý đến vùng châu thổ sông Cửu Long của nước Việt Nam có được một Giáo Hội P.G.H.H. với một tinh thần đoàn kêt mạnh mẽ và hãnh diện trước thế giới” (2)

    Chắc không còn gì để nói nhiều hơn lời của một viên kỹ sư và cũng là một cư sĩ Phật Giáo người Nhật mà chúng ta vừa được biết.
    ***
    Phật Giáo Hòa Hảo ngày nay thật sự đã tiến triển được nhiều mặt mà người biết chuyện nào chắc cũng phải nhìn nhận như vậy. Nhưng điều đáng mừng hoặc đáng ngại là hãy xem sự tiến triển ấy có tiến đúng theo mục tiêu đạo nghĩa của nó hay chăng.

    Mặc dù cũng còn một số người đua đòi hoặc đam mê vật chất, chạy theo Đạo với một mục đích chưa đúng ý nghĩa mà Đức Giáo Chủ đã đề ra. Đó là một điều không sao tránh khỏi bất cứ ở đâu và thời nào. Tuy nhiên, một số lớn đã chăm lo tu học, chuyên làm việc thiện biết cải tạo xã hội, đồng thời dọn mình tinh sạch để qua bờ giải thoát, họ thật sự cố gắng để tiến đúng mục tiêu cao cả của Đạo Vô Vi mà Đức Tôn Sư đã khai mở cho họ. Chính điều này mới thật sự đáng ngợi khen và cái tiến triển của P.G.H.H. ngày nay mới là một hiện tượng đáng mừng.

    (1) Rissho Kosei Kai là một Hội Phật Giáo tại Nhật Bản có trên hai triệu hội viên. Hội Chủ là Ngài Nikkyo Niwano. Hội này có chỗ tương đồng với P.G.H.H. là hầu hết trong Đạo đều cư sĩ tại gia. Trong kỳ sang Nhật năm 1966, Phái đoàn P.G.H.H. đã được mời đến chùa hội quán của Hội tại Tokyo để trình bày về sinh hoạt và Giáo Lý P.G.H.H. cùng trao đổi nhiều quan điểm tu Phật trước một số ký giả và thính giả. Nhựt báo the manichi Daily news số 15752 ra ngày 13-12-66 có đăng bài tường thuật với đầy đủ hình ảnh.

    (2) Cùng với Bác sĩ Shoga, Chủ Tịch Toàn Á Hiệp Hội, Kỹ sư Fujiki là một trong những người từng giúp đỡ nhiều phương tiện cho Phái đoàn P.G.H.H. trên đất Nhựt.

    Trong một buổi thuyết trình Giáo Lý P.G.H.H. tại chùa Tsukiji Hongati hồi 13 giờ đến 15 giờ 30 ngày thứ tư, 7-12-1966 (nhằm 26-10 Bính Ngọ) tại trung tâm thành phố Tokyo, trước một số thính giả quan trọng, trong đó có Thượng tọa Nakayama và Thượng tọa Fujii, cũng là nhờ có sự góp tay trợ giúp đắc lực của Kỹ sư


    LỜI BẠT
    Phật Giáo Hòa Hảo hưởng ứng lời kêu cứu thiết tha của lịch sử dân tộc và lịch sử loài người đứng ra nhận lãnh một sứ mạng. Sứ mạng đó là võ trang tinh thần cho nòi giống để chặn ngăn mọi luồng tư tưởng tà ngụy từ bốn phương tám nẻo tràn vào, rồi đứng trên cái ưu thế của dân tộc Việt đã được giác ngộ qua cơn khói lửa triền miên, mà thiết lập một “nát bàn nơi hạ giới” cho loài người chung cả.

    Muốn hiểu rõ sứ mạng đó phải thực hiện ra sao, chúng ta cần trở lại dĩ vãng cách đây 100 năm, để xem tất cả những sức lực chánh trị kinh tế, văn hóa nó đã đè ném xã hội Việt như thế nào.

    Khi nước ta tiếp xúc với Tây phương, thì cái văn hóa bệnh hoạn thời Nguyễn không đủ sức kháng cự với cái văn hóa đại kỹ nghệ đại thương mại đương tích cực tìm đường phát triển ra bên ngoài, đặc biệt vào Châu Á và Châu Phi. Văn hóa thời Nguyễn chỉ là thứ văn hóa vụ hình thức, rỗng tuếch về nôi dung. Đa số các nhà Nho không nuôi chí học những thứ gì cần thiết cho dân tộc, đất nước mà chỉ cốt gọt giũa câu văn cho óng chuốt, câu thơ cho điêu luyện, hợp điệu hợp vần và gác ngoài tai, không chịu tìm tòi nghiên cứu tất cả những biến chuyển bên ngoài quốc tế.

    Một Nguyễn Trường Tộ không đủ uy thế cảnh tỉnh cả một triều đại thối nát. Con người sống chỉ còn vì cá nhân mình, vì gia đình mình mà không còn vì dân tộc quốc gia nữa. Bè phái, tông tộc, hương đảng tranh giành khuynh loát lẫn nhau. Ở triều đình, người ta thi nhau mua quan bán tước, ở thôn xã thì tranh giành chiếu trên chiếu dưới, thủ lợn phau câu.

    Đó là đời sống chính trị của quốc gia, còn trên phương diện kinh tế thì vẫn là thứ nông nghiệp cổ hủ muôn xưa, vẫn thứ tiểu thủ công nghệ có tính cách gia đình, làng xóm, vẫn cái thứ thương mại chật hẹp, gà què ăn quẩn cối. Văn học đó, chánh trị đó, kinh tế đó đã khiến cho quốc dân sống thiếu chỉ nam, không còn tiềm lực đấu tranh tự vệ.

    Trong hoàn cảnh đó quân Pháp đến nước ta. Chúng ta có thể đoán ngay rằng thế nước không thể nào giữ được. Một ít phát súng đại bác là quân địch hạ được thành. Những vị anh hùng chỉ còn biết tuẫn tiết để khỏi sống trong cái nhục mất nước. Rồi khi quân Pháp đã đặt được nền móng đô hộ, xã hội lại càng thối nát thêm.

    Dân chúng sống trong mê tín dị đoan. Nơi góc tường này, dưới gốc cây kia, người ta thấy nhan nhãn những bàn thờ thần, bàn thờ bà chúa. Ốm đau người ta không lo chạy chữa thuốc thang, mà chỉ lo đi cúng đền này phủ nọ, xin tàn hương nước thải về uống, hoặc lập dàn cúng kiếng rước thầy pháp thầy bùa ếm quỉ ếm ma. Có việc khó khăn, người ta không nghiên cứu lẽ thành bại, mà lại đi coi bói toán, hay đi xin quẻ xin xăm. Rượu chè cờ bạc đàng điếm hoành hành khắp nơi. Người ta ca ngợi những ai tiền nhiều bạc lắm, ngày tháng rong chơi, ăn xài lớn. Tất cả những thứ đó, người Pháp không làm gì bài trừ, lấy cớ là họ dân chủ, không xen vào đời sống riêng tư và những tục lệ cổ truyền của dân “bản xứ”.

    Nguy hiểm và độc địa hơn nữa là họ đem nước ta cắt ra làm ba khúc, dưới cái danh hiệu ai oán và nực cười là Bắc kỳ, Trung ky, Nam kỳ. Mỗi nơi có một nền hành chánh khác nhau để cho sự khác biệt giữa cá tính địa phương (nước nào chẳng có?) mỗi ngày mỗi sâu đậm hơn. Những xu hướng Nam kỳ tự trị hay Nam kỳ quốc đều là hậu quả của chánh sách ác độc chia để trị của thực dân. Hoàn cảnh bi đát ấy của đất nước lồng vào hoàn cảnh quốc tế rất bấp bênh trước một viễn ảnh sắp đổ vỡ tan tành, có thể chôn vùi cả nền văn minh nhân loại. Đó là viễn ảnh thế chiến thứ hai.

    Để cứu vãn tình thế của nước nòi, rộng ra cứu vớt loài người, Phật Giáo Hòa Hảo ra đời, với sứ mạng đem đuốc từ bi đốt cháy mọi mê lầm để dẫn dân Việt từ chỗ Đại bi đến Đại giác, đứng lên làm cách mạng bằng một Đại hành hoàn thành Đại Đạo cho toàn dân và toàn thể loài người!

    Sứ mạng thật là nặng nề, khó khăn, nhưng cũng thực là cao cả. Chúng ta hãy lắng tâm tỉnh trí, mở các tập Thi Văn Sấm Giảng ra, thắp nén hương lòng lên mà đọc, đọc với tất cả tấm lòng tha thiết đối với số phận mỗi cá nhân con người, đọc với tất cả tấm lòng tha thiết yêu thương nòi giống, thương yêu nhân loại, chúng ta sẽ thấy ở đây những gì cần phải cứu vớt, cứu vớt lấy bản thân chúng ta đang chìm đắm trong hôn mê, trong ngõ lợi đường danh, cứu vớt lấy dân tộc đang phân hóa một cách ghê sợ do những tư trào quốc tế tràn vào xung đột lẫn nhau, để rồi, tiến lên góp phần với mọi cá nhân tiến bộ, mọi tổ chức tiến bộ, mọi quốc gia tiến bộ trên thế giới mà cứu vớt loài người đương đứng trên bờ vực thẳm, có thể vì một giây điên khùng mà tự tiêu diệt bằng đủ loại vũ khí hạch tâm.

    Phật Giáo Hòa Hảo ra đời với một sứ mạng cứu vớt! Vậy sự cứu vớt! Vậy sự cứu vớt đó khai triển như thế nào, bắt đầu từ đâu để rồi chấm dứt ở nơi đâu?

    Trong hoàn cảnh đất nước sống quằn quại dưới gót sắt của thực dân Pháp, những người hơi tỏ ra yêu nước thương nòi là bị thực dân kềm chế hoặc bắt tù đày, giam cầm; còn đa số quốc dân trí thức đuổi theo danh lợi lãng quên sự nghiệp Tổ tông. Khối dân quê đông đảo nhất, thuần phát nhất, giữ được nhiều đức tính của dân tộc nhất thì lại dốt nát, sống cơ cực làm chẳng đủ ăn, không người lãnh đạo. Mà chính khối dân quê này trong suốt dòng sử đã là chủ động cho mọi cuộc phục hưng dân tộc quốc gia. Những cuộc cách mạng Đinh Tiên Hoàng, Lê lợi, Quang Trung đều do nông dân hoàn thành bằng cách cung cấp nhân lực, tài lực, vật lực.

    Cho nên cứu vớt gì thì cứu vớt, nếu không chú trọng đến nông dân thì chỉ là làm cái công việc của dã tràng xe cát. Vì lý do đó mà Phật Giáo Hòa Hảo xuất hiện ngay trong lòng nông dân để giác ngộ họ, giúp họ tiến lên tự giải thoát lấy mình, giải thoát dân tộc rồi góp phần vào công việc giải thoát loài người.

    Vị Giáo Chủ là người sinh trưởng ở nông thôn đã đau khổ cái đau khổ của nông dân, ước ao và hy vọng cái ước ao hy vọng của nông dân, nên mới hiểu được họ, cảm hóa được họ.

    Sau hơn nửa thế kỹ sống dưới triều Nguyễn, một triều đại đã xao lãng cái căn bản tinh thần của nòi giống, sau ngót trăm năm Pháp thuộc, lòng người dân tựa đống tro tàn trong mùa gió lạnh, họ sống không có chỉ nam, mất tin tưởng ở bản thân mình, ở dân tộc mình, trước sự tràn lan của nền văn minh vật chất Tây phương. Bởi vậy, việc cần thiết là phải gây cho họ lòng tin ở tự mình, ở dân tộc mình bằng cách phác vẽ cho mọi người một lý tưởng nhân sinh, một lý tưởng sống.

    Lý tưởng đó là Lý Tưởng Phật Giáo Hòa Hảo, một lý tưởng tổng hợp cả ba luồng tư tưởng nhất ở Châu Á là Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo.

    Từ Đinh qua Lê, Lý Trần, ba luồng tư tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh và kiến quốc của dân Việt, ngày nay chỉ cần hiện đại hóa bằng tinh thần khoa học Tây phương. Tinh thần Từ bi bác ái của nhà Phật, tinh thần Nhân thứ của Khổng tử, tinh thần tiêu dao không màng danh lợi của Lão tử được phô diễn bằng những lời vàng ngọc, khi thì như những hiệu lệnh, khi thì như nhắn nhủ khuyên răn, khi thì như cảnh cáo, thấy bàng bạc khắp trong Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

    Trên cái căn bản tinh thần đó, một chủ trương cách mạng khắp mặt được ngấm ngầm đề ra, mới coi thể như rời rạc, lặp đi lặp lại, nhưng tinh ý thì thấy ngay cả một chủ trương vĩ đại của một vị cứu thế muốn dùng văn thơ đi thẳng vào lòng người. Phác vẽ cho mọi người thấy cái cảnh khổ não của xã hội Việt và xã hội nhân loại rồi giác ngộ họ tìm đường giải thoát. Đó là chủ trương Đại bi Đại giác. Từ chỗ giác ngộ đó, khuyên răn ai nấy phải lo làm tròn bổn phận làm người để cứu lấy thân mình, gia đình mình, quốc gia dân tộc mình hầu hoàn thành cho dân tộc, cho loài người một đời sống bác ái tự do. Đó là chủ trương Đại hành và Đại Đạo.

    Đi vào chi tiết ta sẽ thấy P.G.H.H. chủ trương cải tạo tôn giáo, cải tạo tâm lý và cải tạo xã hôi để rồi gây một tin tưởng lớn vào lòng người ở tương lai.
    ***
    Vấn đề thực là quan trọng. Giữa thế kỳ 20 mà dân Việt ta, nhất là nông dân sống trong một màn dày đặc mê tín và dị đoan. Nhiều người đi chùa chỉ hiểu mang máng rằn nếu năng tới lui lễ bái, dâng cúng lễ vật bạc tiền, thì được phước, ngược lại thì gặp tai ương. Đa số có hiểu đâu rằng cốt tượng chuông mõ chỉ là hình tướng giúp cho con người dễ tập trung tư tưởng mà suy gẫm về nền Giáo Lý, có nó là để nhắc nhở cho người tu khỏi xao lãng việc tu hành. Nó chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Phải giác ngộ cho mọi người hiểu cái yếu lý của tu hành: giữ sao cho tâm linh được luôn luôn yên tĩnh đừng để cho lòng dục sai khiến, nhất là khi một mình mình đối diện với mình. Phải xét nét xem lòng mình niệm ma hay niệm Phật. Ma là vẫn đục, là gian ác. Phật là sáng suốt, hiền hậu, từ bi.

    Một nhà Nho xưa kia mỗi ngày xét mình ba lần để xem xét tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi của mình có chi phải, có chi quấy, ngày nay người đời còn truyền tụng ngợi khen. Nhưng lối tu hành nhà Phật từng buộc nhà tu xét nét mỗi sát na (đơn vị nhỏ nhất của thời gian ước vào 1/1.000.000 cái nháy mắt), phải giữ cho cái tâm cho tụ, không thể để cho tư tưởng chờn vờn như con bướm bay từ hoa nọ đến hoa kia. Đó là điều cốt yếu, còn cúng lạy chỉ là phương tiện giúp thêm cho sự tu tỉnh sửa mình mà thôi:
    Tu không cần lạy cần quỳ
    Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau
    Hai câu gỏn gọn 14 chữ đủ nói lên hết cả cái cách mạng về tu hành của Phật Giáo Hòa Hảo, thiết tưởng ta không cần dài dòng cho lắm, nhiều lời thêm nữa, e làm giảm cả cái cô động mà bao quát của 14 chữ đi.

    Sau việc cải tạo tôn giáo là cải tạo tâm lý. Trong thời gian Pháp thuộc, tâm lý dân Việt bị băng hoại, người ta bon chen danh lợi, sống độc thiện kỳ thân, ích kỷ, giả dối, không chí hướng và nhất là không nghĩ đến nước nòi, mà chỉ:
    Sớm lo lòn cúi chiều ăn ngủ
    Nào biết liệu toan gỡ nợ nần
    Bởi vậy việc cần thiết là phải hun đúc cho họ có một chí quyết hiểu biết và quyết làm. Về tu niệm, phải làm sao cho họ có một đức tin trong sạch, nhưng tin không phải là mù quáng mà là đức tin được hướng dẫn bởi lòng lành và soi sáng bằng trí huệ. Có như thế, mới khỏi mắc vào mê tín dị đoan, hầu vững tâm tiến bước. Về bổn phận đối với tổ tông đất nước, phải làm sao cho ai nấy nuôi một chí hướng sắt đá là:
    Sống làm sao vẹn chữ tu mi
    Sống vùng vẫy râu mày nam tử
    và luôn luôn vững lòng vững dạ, không vì những lời phê phán bất chính của những kẻ tiểu nhân dèm pha mà bỏ việc dở dang.
    Đấng anh hùng dựng nên thời thế
    Sá chi loài trùn dế nhỏ nhen
    Khi chí lập rồi, thì phải tìm cách mở mang trí huệ, mới mong hiểu biết mối đạo của mình đang theo đuổi. Đạo đây phải hiểu là một thể hiểu, làm thống nhất, đem hiểu biết giác ngộ ra mà làm việc đời. Phải đọc kinh sử, lấy bài học của người xưa làm kinh nghiệm cho công việc ngày nay, công việc ngày nay không thể tách rời ra khỏi dòng sông sử kia được, nếu ta muốn lập cho đất nước một sự nghiệp thánh vương.
    Đời phải biết suy kim nghiệm cổ
    Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh Hiền
    Có như thế mới mong đem được cái đạo của mình ra giúp cho dân tộc thịnh trị, giúp cho loài người thoát khỏi bến mê đi về bến giác.

    Đến vấn đề trau dồi tình cảm cũng là một vấn đề trọng yếu. Nếu ta không làm chủ được tình cảm của ta, cứ để cho tình cảm tự do phóng túng thì chương trình kế hoạch của ta có tốt đẹp, có khoa học chăng nữa, thì cũng không giúp ta làm nên nỗi trò trống gì! Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên răn tín đồ của Ngài đem cái ý chí sắt đá ra mà rèn luyện tình cảm:

    “Phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng duy nhất của mối đạo mình đang theo đuổi để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến, cố chấp thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm xiểm dua nịnh, ích kỷ, tự tâm, sự mê đắm trong bể dục tình, và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng”.

    Về phương diện này, chúng ta không thể nói gì hơn bằng cách lấy những câu trên làm kinh nhật tụng.

    Ở trên chúng ta đã nói xã hội Việt trong thời Pháp thuộc băng hoại và thối nát như thế nào. Cờ bạc rượu chè, đàng điếm hoành hành khắp nơi, mê tín dị đoan đè nặng lên mọi tầng lớp xã hội. Vấn đề đặt ra cho Phật Giáo Hòa Hảo là phải cải tạo hết những cái bẩn thỉu trong xã hội. Công việc thực khó khăn, bởi không có thế lực của một chánh quyền, chỉ có cách dùng cái quyền uy tinhh thần, để tâm phục mọi người bằng giác ngộ. Trong Tôn Chỉ Hành Đạo của Phật Giáo Hòa Hảo, rượu chè, thuốc sái bị cấm. Vàng mã, thầy bùa thầy pháp, làm chay làm đàn bị coi như những thứ tin nhảm, mê hoặc lòng người
    Xá với phướn là trò kỳ quái
    Làm chay đàn che miệng thế gian
    ....
    Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi
    Chớ có đốt tiền vô lý
    Tất cả những điểm trên là những chủ trương cải tạo cần thiết trong P.G.H.H. mà chúng ta được thấy thực hiện ngay từ bước đầu. Đi xa hơn, chúng ta sẽ bắt gặp một niềm tin lớn hơn được xây đắp lên cho tương lai.
    ***
    Đọc Thi Văn Sấm Giảng không ai bảo ai, mà người nào người nấy đều tin tưởng rằng, tuy nước nhà đương trải qua môt hồi cực bĩ, nhưng sẽ có một tương lai huy hoàng sáng lạn. Tác dụng của Sấm Giảng về điểm này thực vô cùng quan trọng. Giữa lúc đất nước bị qua phân, giữa lúc lòng người chia rẻ, xã hội băng hoại, đến cùng cực, giữa lúc những biến chuyển ở bên ngoài ảnh hưởng không mấy tốt đẹp đến nôi tình đất nước, lòng người hoang mang mất tin tưởng ở vận mạng mình và vận mạng nòi giống, rộng ra ở vận mạng loài ngườ, Phật Giáo Hòa Hảo đã là một thứ dầu mầu nhiệm nuôi ngọn lửa lòng cho người dân Việt. Một cảnh thái bình vĩnh viễn được vẽ ra, ai muốn được hưởng phải trau tria tu sửa thân tâm. Cảnh đó là cái cảnh cả nước tự do, người người no ấm an vui dưới sự lãnh đạo của các phần tử trí thức một lòng vị nước vị dân.
    Trên kẻ trí lấy công bình phân đoán
    Dưới vạn dân trăm họ được im lìm
    Cảnh đó là cảnh nhân loại đại đồng, các quốc gia không còn hiềm khích lẫn nhau mà một lòng thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau nắm tay trên đường tiến bộ.
    Ấy là xong bốn biển hiệp một nhà
    Không ganh ghét dứt câu thù hận oán
    Cảnh đó là cảnh loài người hết xâu xé lẫn nhau, sống thành một bản thể hiệp điệu để cũng cố địa vị mình trong vũ trụ và để cùng với vũ trụ kết thành một thể Nhất như.
    Tiêu dao đạo đức luận bàn
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao
    Tất cả sự nghiệp trên đây đã làm cho Phật Giáo Hòa Hảo đóng một vai trò trọng yếu trong xã hội nước Việt hiện nay, mỗi ngày mỗi rõ rệt thêm lên! Giữa lúc nước nòi vùng lên đấu tranh giành lấy sống còn, độc lập tự do dân chủ, lý thuyết Mác Xít làm mưa làm gió ở đâu thì làm, chứ ở miền châu thổ sông Cửu Long này, nó đã không tìm được đất sống. Là bởi đại đa số dân chúng ở miền này đều đã thấm nhuần lý tưởng Phật Giáo Hòa Hảo, nên tinh thần họ đã được đầy đủ võ trang, không chấp nhận tư tưởng thiếu gốc rễ dân tộc.

    Ngay từ thuở còn sống thành bộ lạc, trên đất Trung Hoa ngày nay, dân tộc ta đã có ý tưởng Tiên Rồng làm kim chỉ nam cho kiến quốc và sinh hoạt quốc dân. Rồng tượng trưng cho đời sống vật chất, Tiên tượng trưng cho đời sống tinh thần. Đời sống của dân Việt là một đời sống quân bình phat triển hai mặt sống đó. Không phải vật chất là tất cả, mà cũng không phải tinh thần là tất cả, mà hai mặt đó phải đặt ngang hàng nhau thì đời sống mới không lệch lạc. Những thời thạnh trị trong lịch sử nước nhà đều là những thời kinh tế và văn hóa phồn thịnh ngang nahu.

    Lý tưởng Phật Giáo Hòa Hảo lấy yếu lý nhà Phật làm căn bản đã rất thích hợp với cái lý sống của dân tộc từ muôn xưa. Nhà Phật lấy con người làm cốt cán cho học hiểu. Theo huyền thoại, khi Đức Thích Ca mới sinh ra thì nói rằng: “Thiên thượng, địa hạ duy ngã độc tôn”. Thiên thượng, địa hạ đây là tượng trưng cho khoảng thời gian không gian vô hạn định là vũ trụ, ngã đây là con người mà Đức Thích Ca là tượng trưng. Trong vũ trụ tự nhiên chỉ có loài người đã ngộ, xứng đáng mang cái danh hiệu là “người”.

    Lý tưởng Phật Giáo thật là thích hợp với tư tưởng cốt cán của dân tộc ta, mà Phật Giáo Hòa Hảo lại là một luồng tư tưởng tổng hợp Phật, Khổng, Lão, một thứ tổng hợp gạn lọc qua tinh thần Tiên Rồng đã làm cho nước nhà thoát ra khỏi âm mưu diệt chủng của người phương Bắc mà thành một quốc gia có một văn hóa riêng biệt nó chối bỏ tất cả những thứ văn hóa nô dịch, nhưng luôn luôn sẵn sàng hấp thụ những tinh hoa của các nền văn hóa khác. Miền Tây nam này của nước Việt mến yêu tránh được một phần lớn những khổ não đau thương tang tóc của chiến tranh do sự tranh chấp quốc tế gây nên, là nhờ dân chúng đã được Hòa Hảo hóa, lý tưởng tà ngụy không còn tìm được đất nở sinh.

    Chúng tôi tin tưởng rằng nơi đây là thành trì của dân tộc chống với mọi tư tưởng ngoại lai ác hại, để từ đó dân tộc tập trung nhân lực, tài lực, vật lực rồi, chờ cơ hội, vùng lên cao cả và đại hùng hoàn thành Sứ mạng , thiết lập một “nát bàn nơi hạ giới”. Chỉ lúc đó, và chỉ sau lúc đó, Phật Giáo Hòa Hảo mới hoàn thành được sứ mạng của mình:
    Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật
    Bụi hồng trần rứt sạch cửa không
    Chuông linh ngân tiếng đại đồng
    Ta bà thế giới sắc không một màu

    Tổng Định-Hòa, ngày Phật thành đạo, năm 1967
    TRẦN-NGUYÊN-BÌNH

     
    Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 20/1/15

Chia sẻ trang này