Niệm lực và niệm phật

Thảo luận trong 'Pháp-Luận' bắt đầu bởi baoquang, 11/4/12.

  1. baoquang

    baoquang Member

    NIỆM LỰC VÀ NIỆM PHẬT

    Đã là con nhà Phật, chắc chắn trong chúng ta không còn ai xa lạ với hai chữ ''niệm Phật''.
    Thông thường hễ nói đến niệm Phật là người ta nghĩ ngay đến câu lục tự Di-Đà : Nam-mô A-Di-Đà Phật. Không phải chúng ta chỉ biết có mình Đức Giáo Chủ Tây Phương mà chỉ vì tất cả chúng ta đều tu theo môn Tịnh-độ, mà cái đặc tánh của môn nầy là chuyên niệm A-Di-Đà Phật.
    Trái với đệ tử của thiền-tôn là môn đòi hỏi nhiều ở trí-huệ, người chuyên tu theo Tịnh-độ-tôn có thể không cần học nhiều, miễn trong khi niệm Đức A-Đi-Đà phải giữ thế nào cho được thanh-tịnh và tâm đừng vọng động là thành công được.
    Niệm Phật hiệu nghiệm như thế, thiết nghĩ tìm hiểu coi nguyên-do ở đâu, tưởng không phải là một việc vô ích.
    Trước tiên, chúng ta hãy thử định nghĩa chữ niệm và kế đó xét cái sức mạnh của niệm cùng những đặc tính của nó, rốt hết xem coi những đặc tính và sức mạnh ấy được pháp môn Tịnh-độ đem ra áp-dụng như thế nào và kết quả ra sao. Muốn cho dễ nhận chúng tôi xin phép, hễ mỗi khi đề cập đến một đặc tính của niệm là chỉ ngay cách áp dụng trong Tịnh-độ-tôn.

    Định nghĩa chữ Niệm.-
    Niệm là một danh từ Phật học mà nay, tuỳ chỗ dùng, ta gọi là tư tưởng (la pensée) hay tưởng nhớ (penser).
    Niệm Phật ra tiếng hay niệm thầm mà chỉ làm cái việc lập đi lập lại câu ‘’Nam-mô A-Di-Đà Phật’’, còn tâm-trí lại gởi nơi nào, hoặc đương bị cái mong chờ, sợ sệt, hối-tiếc, giận-dủi v.v… làm xao động, là làm một việc làm bề ngoài, không ích lợi gì cả. Vì vậy kinh sách dạy trong khi miệng xướng to hay trí thầm gợi hồng danh Đức Giáo-chủ Tây phương, tâm cần phải tưởng nhớ đến Ngài luôn, như thấy Ngài trước mắt. Cái bí quyết sự tu chứng ở chỗ nầy.
    Xem đó thì cái ý nghĩa chân-chánh của hai chữ niệm Phật, của việc niệm Phật, là tưởng nhớ đến Phật hay có những tư-tưởng như Phật, chớ không phải đọc suông hồng danh là đủ.

    Đặc-tánh của tư-tưởng.-
    Tư-tưởng có nhiều đặc-tánh :

    1) Tư-tưởng có hình và sắc.-
    Tư-tưởng là pháp, là hiện-tượng như tất cả hiện tượng khác trong vũ trụ, dầu rằng mắt ta không thấy, tai ta không nghe. Vì là hiện-tượng, nên có hình, có sắc. Mỗi khi ta tưởng nhớ đến một người nào, có phải ta thấy hình-dáng người ấy như đứng trước mắt ta không ? Càng tưởng nhớ càng thấy rõ, nào mặt mày tay chơn, nào phục-sức, nào màu sắc của da tóc, thậm-chí đến tính-tình ngôn-ngữ, cử chỉ nhứt nhứt ta thấy hết, có sắc như thật không ?
    Một người bạn tôi, ngày kia, nảy ra ý mua một chiếc ô-tô. Bạn tôi đến hảng xem và khi ra về, không quên xin một tấm giấy quảng-cáo trong ấy có hình chiếc xe, các bộ phận quan trọng và lời giải nghĩa những cái tiện lợi, tiến bộ của hiệu xe ấy. Về đến nhà, vừa thay quần áo xong là bạn tôi cấm cổ đọc đi đọc lại mấy giòng chữ và ngắm mãi cái hình màu sắc lộng lẫy của chiếc xe. Đến buổi cơm, mảnh giấy ấy còn trên tay, rồi đi ngủ cũng ngắm, thét rồi mở mắt như nhắm mắt, thức như ngủ, bạn tôi không giây phút nào không thấy chiếc xe trước mắt. Hình ảnh, màu sắc nó dường như ghi khắc trong trí óc bạn tôi, không gì làm nhòa được.
    Người niệm Phật nên ghi khắc như thế. Mỗi khi miệng xưng hồng danh của một Đức Phật nào, tâm phải nhớ đến Đức Phật ấy cho đến thấy như Ngài hiện ra trước mắt. Phải hình-dung Ngài có một cái thân tốt đẹp vô ngần, trên thế gian nầy không còn một cái thân nào tốt đẹp hơn làm ta phải quý mến. Phải hình-dung Ngài có một cái trí-tuệ tuyệt vời, trên thế-gian nầy, không còn cái trí tuệ nào cao hơn khiến ta phải bái phục. Phải tưởng thấy Ngài đầy đủ các đức-tánh siêu-việt, trên thế gian nầy không còn một ai đạo-đức hơn để cho ta phụng thờ và tuân-giữ giáo-lý. Không hẹn mà nên , tư-tưởng ta sẽ tập trung vào một chỗ là trạng-mạo, trí-tuệ và đạo-đức của Phật, mà tư-tưởng được tập trung là hết vọng động, tức là Định. Đây là nơi gặp gở của hai môn Tịnh-độ-tôn và Thiền-tôn, và vì thế cho nên nói trong Tịnh có Thiền .

    2) Tư-tưởng có sức mạnh.-
    Cái đặc-tính thứ hai của tư-tưởng là nó có một sức mạnh phi-thường, phóng ra xa như lượn sóng nhỏ, như luồng điện xẹt, châu lư pháp giới. Sức mạnh ấy có thể tăng được, bằng cách phóng những luồng tư-tưởng khác cùng một loại, ví như nhờ đợt sóng sau xô đẩy mà đợt sóng trước tiến mãi không ngừng.
    Chắc chư đạo hữu nghe thuật một vài trường hợp ‘’thần-giao cảm cách’’. Đây là một danh-từ triết-học chỉ sự liên-quan và thông-cảm giữa hai người ở xa nhau. Xin lấy một thí dụ :
    Một người mẹ ở Hà-nội. Bỗng một hôm, không hiểu tại sao, bà thấy nóng nảy, bứt rứt, trong khi một mối buồn man mác xâm chiếm lòng bà. Hôm sau bà được tin điện cho hay người con yêu-quí nhứt đời của bà đương đau nặng ở Sài-gòn. Bà tức tốc vào thăm, hỏi lại mới hay mấy ngày trước, con bà đã trải qua một cơn bệnh ngặt, tưởng đã phải lìa trần. Tính ra ngày ấy, giờ ấy, chính là lúc lòng bà như bị thiêu, bị đốt. Tâm-lý học cho rằng lúc ấy giữa mẹ con có một sự giao-tiếp trong tinh-thần và dầu cách nhau xa, đã cảm-thông với nhau (thần-giao cảm-cách).
    Đứng về niệm lực tức là sức mạng của tư-tưởng mà luận, ta có thể nói rằng, vì người con đã hết sức tưởng nhớ đến mẹ, nên mới xảy ra trường hợp nói trên. Biết mình thập tử nhứt sanh, sợ chết mà không thấy mẹ, người con gom hết sức tàn tưởng nhớ đến bậc từ mẫu xa xuôi, gần như anh thấy mẹ đứng cạnh giừơng anh, còn anh thì như cố gọi mẹ, cố nắm tay mẹ, mong mẹ bảo vệ, hộ trì cho khỏi nanh-vút của tử thần. Mỗi cái tưởng nhớ của anh là một luồng sóng điện anh phóng về hướng của bà mẹ thân yêu. Luồng soóng nầy vừa phát ra là luồng sóng khác tiếp theo, xô đuổi nhau, xông lướt muôn trùng trong không gian, chỉ nháy mắt là đến Hà-nội và xâm nhập vào tâm khảm của người mẹ, ví như cái mặt trống bị người cầm dùi đánh mãi, thành phải kích-động liên miên.
    Phải niệm Phật, tưởng nhớ Phật, như người con kia đã tưởng nhớ mẹ, thì gữa Phật và ta sẽ có một ‘’thần giao cảm-cách’’ như thế. Chư đạo hữu chắc không quên bài ‘’Quán-cưởng’’ mà hai câu đầu là :
    Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch,
    Cảm ứng đạo giao nan tư nghì…
    Năng lễ là người hành lễ, tức là đệ tử Phật chúng ta. Sở lễ là người chịu sự lễ bái của ta tức là Phật, Phật và chúng ta đều một tánh như nhau, ấy là tánh ‘’không’’ và ‘’tịch’’. Vì một tánh nên giữa đôi bên có một sự cảm ứng, giao-tiếp không thể suy gẫm, bàn luận được, vì nó bất đếm không-gian, xa xuôi cách mấy nó cũng đến được, và cũng bất chấp thời-gian, động đầu nấy tức khắc đầu kia cảm, như hai máy điện-thoại. Sở dĩ động được là nhờ có một luồng điện nối liền hai máy. Nếu luồng điện ấy không bị kích thích, tức là nếu ta không quây (máy), thì tuồng như không có, nên kêu là ‘’không’’ và nằm êm nên kêu là ‘’tịch’’. Khi ta quây, nhờ sự cơ cấu của máy, những đợt sóng sẽ phát sinh trên luồng điện và xua nhau chạy như những đợt sóng rượt nhau trên mặt nước, muốn dừng, dừng không được.
    Cái kích thích làm nổi sóng điện là động-lực, là nhân. Sóng điện phát sinh và xua nhau chạy từ đầu giây nầy đến đầu giây kia là quả. Ở người Phật-tử, động-lực là niệm, là tư-tưởng. Mỗi niệm làm phát-sinh một đợt sóng trong không –gian, niệm niệm đều như thế, thành một luồng sóng, đợt nầy xua đuổi đợt kia, hướng về Phật mà chạy không ngừng. Hướng về Phật tức là hướng về Từ-bi, Trí-huệ, Thanh-tịnh, Giải-thoát. Ngày ngày như thế, làm gì tâm hồn ta không bị Tốt, cái Lành ám ảnh, làm gì ta không hành-động theo cái ám ảnh ấy dưới sự hộ-vệ của Phật. Vì vậy, phương-pháp niệm Phật hoàn toàn nhất là phải chí-thành và tưởng nhớ đến Phật bất luận trong giờ khắc nào, đi đứng như nằm ngồi, như ăn ngủ, để cho luồng sóng tư-tưởng Phật của ta không bị gián đoạn và sức ám ảnh của uy-thần Phật không bao giờ ngưng-trệ trong lời nói việc làm của ta.
    Chúng ta có con đi học xa. Nếu lúc nào chúng cũng tưởng như có ta bên cạnh, chắc chắn chúng sẽ hết sức cẩn-thận trong cử-chỉ, ngôn-ngữ, hành-động, để khỏi làm cho ta buồn lòng. Được như thế, chúng sẽ tránh khỏi nhiều điều sái quấy. Ta tu Tịnh-độ cũng phải đến chỗ như thấy đấng Cha lành luôn luôn trước mắt, như mãi sống trong bóng Từ-quang của Ngài. Bao nhiêu đó đủ giữ ta đứng lại trên miệng hố tội lỗi, vì có đứa con nào ngỗ-nghịch cho đến đổi dám làm điều thương luân bại lý trước mặt cha mẹ ? Đây cũng là một trong những cái lý của câu ‘’Bất ly Phật’’ (không lìa Phật).

    3) Tư-tưởng chịu luật tương-ứng.-
    Ta thường nghe nói ‘’ Đồng thanh tương-ứng, đồng khí tương cầu ‘’. Từ điển Đào Duy Anh giải : ‘’nh ững vật cùng một thứ tiếng thì ứng nhau, như một con gà gáy thì cả bầy đều gáy theo ; những vật cùng khí loại thì tìm nhau, như đá từ-thạch thì hút sắt, hổ phách thí hút hột cải ‘’. Người Pháp nói : ‘’Kết phe với nhau là giống nhau ‘’. Tư-tưởng cũng thế. Tư-tưởng lành bao giờ cũng hút tư-tưởng lành, còn tư-tưởng ác thì hút tư-tưởng ác. Một khi phóng ra, những đợt sóng tư-tưởng của ta có cái sức mạnh đi xa như đã nói, cho nên chẳng những nó bị những đợt sóng chính chúng ta phóng theo sau xô đuổi, mà còn bị những đợt sóng tư-tưởng của người khác và đồng loại với nó thúc-giục nữa.
    Theo cái luật tương-ứng nầy, ta thấy rằng nếu ta có niệm lành, tư-tưởng lành, thì những tư-tưởng nầy được những tư-tưởng lành của bao nhiêu kẻ thiện-tâm khác trong vũ-trụ tiếp sức mà lành thêm. Còn tư-tưởng lành của bao nhiêu người khác cũng nhờ lại cái sức mạnh không ngờ của tư-tưởng lành ta mà thêm mạnh. Luận về tư-tưởng ác cũng thế. Hể ta có những cái tâm niệm ác, chắc chắn cái ác của ta sẽ tăng thêm, vì bị cái tâm niệm ác của người khác thúc đẩy, tăng sức. Tóm tắc, ta có thể nói tư-tưởng có một cái năng-lực truyền-nhiễm lạ lùng, tốt cũng như xấu, lành cũng như dữ, nhứt là xấu và dữ, vì đa số chúng sanh có cái tâm bất thiện.
    Đã nói niệm là tư-tưởng, thì trong khi ta niệm Phật, niệm với tất cả lòng thành, ta phát huy những tư-tưởng lành và trong sạch, chẳng những giúp ta tăng-trưởng những tư-tưởng lành có từ trước và làm cho cái thiện-tâm của ta ngày càng kiên-cố, mà còn thúc đẩy bao nhiêu tư-tưởng lành của kẻ khác khắp hoàn cầu, khiến cho cái thiện-tâm của họ càng ngày càng thêm rộng lớn. Góp phần tư-tưởng lành của ta trong hư-không như thế, tức là rút bỏ cái của ta ra trong đống lửa tư-tưởng ác-độc đương bùng cháy khắp trần-gian, và đồng thời đem giọt nước cam-lộ của tư-tưởng lành chế lên cho ngọn lửa tham dục, sân hận, si-mê ấy. Ngoài cái lợi vừa nói , ta còn cái lợi khác là không sợ những tư-tưởng ác của kẻ khác ám ảnh. Tôi nghĩ rằng những tư-tưởng lành của ta tức là những đám mây lành, màu sắc tốt đẹp (tường vân) thường hay nói đến trong kinh Phật. Có hình, có sắc như đã nói, tư-tưởng lành của ta hợp với tư-tưởng lành của bao nhiêu người khác, kết thành một đám mây lành, màu sắc tốt đẹp và kiên-cố như thiết-giáp, mà những đám mây tư-tưởng ác và xấu xa, một khi va chạm đến là phải dội ngay. Nhờ đó mà những tư-tưởng, những niệm ác còn vương vấn trong tâm phàm chúng ta khỏi bị những luồng tư-tưởng ác khác làm tăng trưởng. Có phải đây là một cách trình bày luật tương-ứng của tư-tưởng, khi kinh Thái-Thượng nói : ‘’Hễ tâm ác khởi lên, ác tuy chưa làm mà hung thần đã đến ; hễ tâm thiện khởi lên, thiện tuy chưa làm mà kiết thần đã theo ‘’ ?
    Do mấy điều vừa bài giải, ta có thể kết-luận, về cái đặc-tính thứ tư, là bao nhiêu tư-tưởng của ta, lành cũng như dữ, đều có ảnh-hưởng đến kẻ khác. Người thiện có thể vì ta mà thêm thiện, kẻ ác cũng có thể vì ta mà ác thêm. Bàn về vấn đề nầy, một nhà đạo đức đã viết : ‘’Mỗi chúng ta đều có trách-nhiệm đối với nền Hạnh-phúc của Nhân-loại ‘’. Xét kỷ, câu nói nầy không có gì quá đáng. Ta nên thận trọng và nên cố gắng trì chí niệm Phật. Vô tình mà ta sẽ giúp phần với bao nhiêu bậc thiện-tâm đương kêu gọi hoà-bình trên hoàn-vũ : Tư-tửơng Từ-bi của ta sẽ giúp cho những tư-tưởng Từ-bi của những bậc ấy ngày càng thêm mạnh, cho đến khi hiển hiện thành một sự thật.

    4) Tư-tưởng thế nào hành-động thế ấy.-
    Tư-tưởng bao giờ cũng đi trước lời nói và việc làm. Thật là chí-lý khi có người bảo :’’ Thân tâm ta thế nào là tại tư-tưởng ta thế ấy ‘’. Anh kia mặt đỏ, mắt lộ, miệng la, tay đập, là vì những tư-tưởng, những cái niệm sân đã biến sắc mặt và đổi cử chỉ của anh. Trong giây phút ấy, anh hết là người chúng ta thường thấy khi bình nhựt, mà là con quỉ giận hiện hình. Bà kia tay cầm bát cơm, dịu ngọt mời một người ăn xin, là tại những tư-tưởng Từ-bi ở lòng bà đã in lên nét mặt đầy vẽ yêu-thương và hiện trong lời nói ôn-hòa của bà. Trong giây phút ấy, bà cũng hết là người đàn bà của bình nhựt mà là một Bồ-tát hiện thân. Câu ‘’trong sao ngoài vậy ‘’ (Hữu ư trung tắc hình ư ngoại ) chắc không xa nghĩa nầy. Và vì vậy nên khi ta gần được những bậc tu hành chân-chính, đạo-đức cao dầy, ta không sao khỏi sinh lòng kính mến trước vẽ mặt hiền-từ, những lời nói hòa nhã, hay những nết đi tướng đứng đầm-thấm, khoan thai của các vị ấy.
    Tư-tưởng tuy vô hình, nhưng nếu ta biết nhận những cái hiện-tượng của nó, tức khắc ta ‘’ đọc’’ được tư-tưởng của người khác trên những ngôn-ngữ, cử-chỉ và hành-động của họ.
    Lại nữa, hễ nghĩ đến việc lành, kiếm việc lành, là gặp việc lành ; còn nghĩ dữ, tìm dữ, sẽ gặp dữ. Niệm Phật là tưởng đến việc lành, ắt gặp phải việc lành, chắc chắn như vậy.

    5) Tư-tưởng chịu Luật Nhân-qủa.-
    Tư-tưởng của ta từ tâm phát ra, châu lưu khắp cõi, rồi lại trở về với ta, để rồi lại đi nữa và trở lại nữa, cứ như thế mãi, nếu ta cứ trợ duyên của nó. Tư-tưởng trước là nhân cho cái tư-tưởng sau là qủa. Quả nầy sẽ trở lại thành nhân cho một tư-tưởng khác đồng một loại, đúng với câu : ‘’Cái nhân nào ngươi gây ra, sẽ trở thành cái quả cho ngươi ‘’ (Cứ nhử sở tác nhân, hoàn nhỉ sở tác qủa). Nếu ta không có cái niệm tham nầy nối với cái niệm tham khác về một vật gì đó thì chắc cta không có những lời nói hay những hành-động tham. Mà càng tưởng niệm cái tham, cái tham càng tăng và quây quần mãi trong đầu óc, nối liền nhau cho đến khi nó hiện ra trong việc làm của ta mới dứt. Quan trọng hơn nữa, những tư-tưởng của ta, một khi vân-du trong chốn hư-không, sẽ trở lại với ta mạnh hơn lúc mới phát vì bị những tư-tưởng đồng loại của kẻ khác làm tăng trưỡng.
    Nhờ cái đặc-tính nầy mà những tư-tưởng Phật, tức là Trong sạch, Từ-bi, Giải-thoát như đã nói, sẽ trở lại với ta mạnh hơn trước gây cho ta một cái Tín-tâm ngày càng dày chặc, nương đó mà ta được tinh-tấn, dũng mãnh, nếu ngày ngày ta không quên niệm Phật.

    Kết luận
    .
    -
    Niệm Phật, cũng như mọi phương-pháp tu tập, có sự và có lý.
    Về sự thì dù niệm Phật cách nào, niệm lớn hay niệm thầm vừa niệm vừa dùng tưởng tượng mà hình-dung nhục-thân hay pháp-thân của Phật, phải coi đó như một giới luật cần phải tuân-giữ và lấy thuần làm cốt. Niệm một cách mê-mang, niệm cho đến chỗ quên tất cả mọi việc, nội giới cũng như ngoại giới, niệm cho thành cái máy, như thế là thuần. Mà thuần thì tâm không còn vọng-động, tức là tới chỗ ‘’nhứt tâm bất loạn’’, không còn một tư-tưởng dơ bẩn, tức là được trong sạch (thanh-tịnh). Tâm Thanh-định là có Định, rồi nhờ Định mà có sự sáng-suốt, nhận rõ lẽ chân, điều giả, tức là có Huệ, Huệ đã có, tất phải sanh Từ-bi, Hỷ-xả, Giải-thoát. Đó là lý.
    Chỉ một việc niệm Phật, mới xem coi hình như không có hiệu-nghiệm gì, mà thực-hành được ba món Vô-lậu-học là Giới học, Định-học và Huệ-học, thực mầu-nhiệm biết bao…
    Vậy ta còn đợi gì mà chẳng niệm Phật thì thực qúi báu vô cùng.
    Một nhà bác học, sở dĩ được thành bác-học, là tại trước kia đã ‘’niệm bác-học’’, tức là đã tư-tưởng bác-học, có những tư-tưởng bác-học. Chúng ta muốn làm người trong sạch, muốn được sinh về một cảnh giới khác trong sạch hơn cõi đời ô-trược nầy, thì ta lấy tư-tưởng trong sạch, hãy niệm Phật A-Di-Đà là đấng Giáo-chủ của cõi trong-sạch (Tịnh-độ) và nguyện sinh về cõi ấy.

    Chánh Trí
    (Trích theo tạp-chí Từ Quang số 15 tháng 5/1952)
     

Chia sẻ trang này