PHÁP TU TẬP TRONG PHẬT GIÁO HÒA HẢO PHAN THANH NHÀN Phật giáo xem chúng sanh đều bình đẳng từ khởi thủy, nhưng hiện nay chúng ta không cảm thấy như vậy, vì trí huệ và khả năng mỗi người đều khác nhau. Có người thông minh, có người kém thông minh. Tại sao như vậy? Đức Phật dạy rằng chúng sanh khác nhau ở mức độ vô minh. Vì vô minh mà chúng ta tạm thời mất trí huệ và khả năng nội tại của mình, nhưng không phải vĩnh viễn. Nếu thoát khỏi vô minh chúng ta sẽ có thể lấy lại được khả năng và trí huệ. Giáo lý của Đức Phật dạy chúng ta cách giải trừ vô minh và tìm lại khả năng tiềm ẩn của mình. Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều có những khả năng, đức hạnh và trí huệ giống như Đức Phật, nhưng do vọng niệm và chấp thủ mà đã mất những khả năng nầy”. Đó là nguyên nhân của mọi vấn đề của chúng ta. Tu tập Phật giáo là áp dụng lời dạy của Đức Phật để giải trừ mọi vọng niệm, mọi ý nghĩ phân biệt và chấp thủ. Chúng ta sẽ giữ cho tâm thanh tịnh để trí huệ phát sinh. Vì vậy chư Phật, chư Bồ Tát không nói đến sự thông minh và trí khôn của con người, vốn không phát xuất từ tâm thanh tịnh. Trong nền giáo dục Phật giáo, muốn đạt thành tựu, chúng ta phải theo học với một vị thầy và thực hành một pháp môn duy nhứt mà thôi. Nếu như chúng ta theo học với nhiều thầy và nhiều pháp môn, chúng ta sẽ bị kẹt giữa những ngã đường nầy, không biết phải đi theo hướng nào. Chúng ta thành tựu cái gì? Thành tựu thực sự là đạt được tâm thanh tịnh; từ đó chúng ta sẽ giảm bớt phiền não và trí huệ đích thực gia tăng. Có trí huệ thì chúng ta có khả năng giải quyết mọi vấn đề trong thế gian cũng như ngoài thế gian. Đức Phật dạy chúng ta muốn đạt trí huệ đích thực cần thoát ra khỏi mọi tà kiến của mình. Trí huệ đích thực giúp cho chúng ta hiểu đúng ý nghĩa trong kinh sách. Chỉ khi nào không còn tâm chấp ngã thì chúng ta mới có khả năng nhận xét sự thật và sự giả, điều đúng và điều sai, phải và trái, điều lợi ích và điều độc hại. Phải phá bỏ mọi tà kiến của mình mới đạt được sự giác ngộ đích thực. Trí huệ đích thực chỉ phát xuất từ sự thanh tịnh của tâm trí; vì vậy, trí huệ mà giáo lý của Đức Phật nói tới thì không thể đạt được chỉ bằng việc đọc và nghiên cứu kinh sách. Trí huệ mà chúng ta đạt được bằng cách đọc sách và nghiên cứu chỉ là trí huệ thế gian chứ không phải là chân trí huệ. Mục đích thực hành tu tập trong Phật giáo là đạt trí huệ. Trong Thiền tông, mục tiêu nầy là “minh tâm kiến tánh” tức “giác ngộ viên mãn”. Trong Tịnh Độ tông, điều nầy được gọi là “nhất tâm bất loạn”. Nhưng Tịnh Độ tông ưu việt hơn ở chỗ chúng ta không chỉ tu tập để đạt nhất tâm bất loạn mà còn để được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Các tông phái dùng những ngôn từ khác nhau nhưng kết quả hai mức trạng thái tâm đạt được là một. Vì vậy chỉ trích tông phái khác là phỉ báng Đức Phật cũng như giáo pháp của Ngài. Tất cả những pháp môn nầy đều do Đức Phật truyền dạy chúng ta. Chúng ta hãy chọn pháp môn nào thích hợp với mình để tu tập và thành tựu. Tuy nhiên, dù chọn pháp môn nào để tu tập, chúng ta cũng cần phải giải trừ ngã chấp và pháp chấp để có thể đạt được sự lợi ích trong tu tập. Nền đạo của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ được mang danh là PHẬT GIÁO HÒA HẢO, một tông phái đạo Phật thành lập tại làng Hòa Hỏa, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc miền tây nam nước VIỆT NAM. Từ trước đến nay, việc lấy địa danh làm tông danh là điều thường thấy trong đạo Phật. Như Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ thì gọi là Phật giáo Ấn Độ; khi truyền vào Trung Hoa thì gọi là Phật giáo Trung Hoa, vào Thái Lan thì gọi là Phật giáo Thái Lan, và vào Việt Nam thì gọi là Phật giáo Việt Nam v.v. Về tông phái như Thiên Thai tông bên Trung Hoa sở dĩ thành danh là vì tông nầy xây dựng già lam trên núi Thiên Thai, cũng như phái Trúc Lâm Yên Tử ở nước Việt Nam, được thành danh cũng do ngài Điều Ngự Giác Hoàng tức vua Trần Nhân Tôn khai sáng một thiền phái Việt Nam trên núi Yên Tử. Tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng như những tác giả viết về Phật Giáo Hòa Hảo đều tự nhận mình là Phật Giáo và họ khẳng định họ là Phật Giáo Hòa Hảo, chớ không phải là Hòa Hảo. Giáo lý Phật Gíao Hòa Hảo chính là giáo lý của Phật đạo bắt nguồn từ tinh hoa giáo thuyết bình hòa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền thừa trên hai mươi lăm thế kỷ. Phật Giáo Hòa Hảo tự coi mình như một bộ phận của Phật Giáo Việt Nam, một tông phái mới của Phật Giáo và bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một “tôn giáo mới” hay là “đạo Phật canh tân”. Với những đặc điểm trong giáo lý, nếu nói là canh tân thì chỉ canh tân về mặt “dụng” là phương cách hành đạo hay đúng ra có sự cải tiến cho thích nghi với cuộc sống, mà không hề có sự tranh cải hay xét lại về mặt giáo thuyết Phật đạo, nghĩa là về mặt “thể” không có gì thay đổi. Phật Giáo Hòa Hảo không phải là một tín ngưỡng mới; giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo chính là giáo pháp trong đạo Phật, đó là sự thật: Rút trong các Luật các Kinh Giác Mê Tâm Kệ Hay: Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh, Nên truyền ban cho chúng sanh tường. Giác Mê Tâm Kệ Hay: Ta là kẻ vô hình hữu ảnh, Ẩn xác phàm gìn đạo Thích Ca. Kệ Dân Cũng như Đức HUỲNH GIÁO CHỦ tuyên bố: “Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật” và “Đối với toàn thể tín đồ Phật giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca, tôi tin chắc rằng giáo lý giải thoát chúng sanh chẳng những được truyền bá ở Thiền lâm mà còn phải thực hiện trên trường chánh trị” (trích Tuyên Bố ngày 14-11-1944). Trong cuộc phỏng vấn của báo Nam Kỳ, Ngài cho biết: “Theo sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do nơi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng lấy chủ nghĩa từ bi bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng; vì những câu: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình đẳng với chúng sanh”. Đã có sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn gian nầy còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý đó, Đức Thích Ca Mâu Ni không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài do nơi hoàn cảnh xã hội của Ấn Độ xưa không thuận tiện. Thế nên Ngài chỉ phát dương cái tinh thần đó mà thôi. Ngày nay, trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mực khả quan, đồng thời với sự tiến bộ về khoa học thì ta có thể thực hành giáo lý ấy để thiệt hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo. Thế nên với cái tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại.” và Ngài nói tiếp: “Với sự hành Đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành Đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tính cao cả và thực hành trên thiệt tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết.” (trích báo “Nam Kỳ” ngày 29-11-1946). Đức HUỲNH GIÁO CHỦ không chỉ dùng ngôn từ để dạy đạo mà còn làm gương để chúng sanh noi theo. Ngài buông bỏ mọi ái dục, mọi thú vui trần tục, mọi danh vọng để sống đời sống của một Tăng Sĩ. Ngài sống một đời sống đơn sơ, thân tâm thanh tịnh và phúc lạc. Với người hiểu biết bằng trí huệ sẽ thấy rằng cuộc đời của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ là sự giải thoát, phúc lạc và thành tựu thực sự. Đức HUỲNH GIÁO CHỦ không còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chấp thủ hay phiền não. Ngài thật sự là an nhiên tự tại! Ngài hòa hợp với mọi hoàn cảnh và biểu lộ trí huệ trong mọi ý nghĩ và hành vi để hướng dẫn chúng sanh ở thế gian nầy. Đạo Phật Giáo Hòa Hảo lấy “HOA SEN” làm biểu tượng trong mọi sinh hoạt về giáo sự. Theo các Kinh xưa đồng cho biết: khi có người phát tâm tu môn Tinh Độ thì nơi ao thất bảo bên cõi Cực Lạc trổ sẵn một hoa sen. Chờ khi nào người ấy niệm Phật được chí tâm, thuần thục và đền xong nợ thế, thần thức vãng sanh về gá vào hoa sen đó mà nở ra thân liên hoa “Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc, Hưởng công niệm Phật rất yên lành” (bài cho cô Võ Thị Hợi) và trong quyển Khuyến Thiện, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng cho biết: Ao sen báu Tây phương đua nở, Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm. Khuyến Thiện Hay: Liên Hoa đua nở nụ cười, Rước tôi lương đống chào người chơn tu. Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ Bông sen tượng trưng sự siêu việt mười cõi hiện hữu. Trước hết, cành sen mọc lên từ lớp bùn dưới đáy hồ tượng trưng sáu cõi luân hồi. Sen vươn lên qua lớp nước tượng trưng bốn cõi Thánh. Sau cùng bông sen nở ở trên mặt nước tượng trưng sự giác ngộ viên mãn. Bông sen nhắc nhở chúng ta rằng dù đang sống ở thế gian, chúng ta không nên để cho mình bị ô nhiễm bởi sự vật thế gian. Bông sen trên mặt nước muốn nói rằng sẽ có lúc toàn thể chúng sanh đều thành Phật. Cõi Phật siêu việt tất cả mười cõi luân hồi và sự thành Phật là mục tiêu tối hậu của sự tu học; vì vậy khi trông thấy hoa sen, chúng ta sẽ nhớ là mình cần phải thực hành tu tập để thoát luân hồi đắc Phật quả. Trước sự suy đồi toàn diện của Phật giáo, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ tạo một hình thức cải cách cho đạo Phật, giản dị hơn, trong sáng hơn, hợp thời hơn. Ngài lấy người tu Phật tại gia làm trung tâm và xây dựng mỗi tín đồ thành một người tu hành chân thật, không bị ảnh hưởng của hình danh sắc tướng. Ngài không chủ trương xây dựng thêm chùa chiền mới, nhưng nhìn vào phương thức hành đạo của Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta nhận thấy có nhiều ngôi chùa nhất trong lịch sử Phật giáo vì mỗi mái nhà của tín đồ là một ngôi chùa, mỗi thành viên trong gia đình của người tu Phật là một “tăng thân” tu học. Ngài đưa đạo Phật đến tận mỗi con người, mỗi gia đình. Mỗi người tự thực hành đạo Phật trong cuộc đời mình. Nếu đời sống bận rộn, không có thời giờ để nghiên cứu kinh sách Phật giáo nhiều vô số, chúng ta có thể bắt đầu với Sấm giảng quyển “Khuyến Thiện” của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ. Khi đã thông hiểu giáo lý trong quyển kinh nầy, chúng ta sẽ hiểu không chỉ lời dạy của Phật Thích Ca mà cả giáo lý trong nhà Phật nữa, vì tất cả những giáo lý nầy đều phát xuất từ tự tánh. Trong việc thờ phượng, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy chỉ thờ một tấm trần màu dà “màu ấy là sự kết hợp của tất cả màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật”. Trên bàn thờ, chúng ta thấy một số vật. Đó là những vật trợ giúp chớ không phải là những vật đối tượng để chúng ta thờ phượng, vì Phật giáo không phải là một tôn giáo, mà là một nền giáo dục. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang, dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng.” Ngoài ra, nước tượng trưng cho giáo lý, cho sự thanh tịnh của tâm trí mà chúng ta cần phải đạt được, không để cho mình bị ô nhiễm bởi tham, sân, si. Nước yên tĩnh không một gợn sóng nhắc nhở chúng ta với người và sự vật một cách bình đẳng vô phân biệt. Nước trong trẻo và phẳng lặng phản chiếu rõ ràng mọi vật cũng như thanh tịnh và an tĩnh, chúng ta sẽ thấy rõ sự vật ở chung quanh mình. Những bông hoa tượng trưng cho nhân quả và nhắc nhở chúng ta rằng mỗi hành vi thân, khẩu, ý của mình đều sinh ra hậu quả. Nhang thơm tượng trương cho sự trì giới, thiền định và sự hiến thân vì sự lợi ích của người khác. Đèn tượng trưng cho sự sáng suốt của trí huệ, xua tan bóng tối vô minh. Về hành lễ, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi.” Trong Phật Giáo Hòa Hảo, ngoài phần giáo lý là nội dung và phần tín ngưỡng là hình thức biểu lộ niềm tin tôn giáo. Dù phần giáo lý là nền tảng và quan trọng nhứt, nhưng đa số tín đồ chưa nắm vững thấu hiểu đúng đắn đầy đủ mà chỉ hiểu đơn sơ, khái quát giáo lý tôn giáo mình theo. Phần đông đều lấy việc thực hành tín ngưỡng như thờ phượng, cầu nguyện, cúng lạy làm chính. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ nhận thấy trước sự tạp nhạp của nền Phật giáo dân gian, Ngài đã chỉ dạy cho tín đồ một cách tỉ mỉ, rõ ràng, trong sáng, sự cúng lạy, sự cầu nguyện. Nhờ vậy tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, dù là người bình dân ít học vẫn thực hành đúng các nghi lễ. Tuy có pha trộn một số màu sắc tín ngưỡng bình dân của người Việt Nam, nhưng các hình thức nầy thể hiện khá hoàn mỹ những nét đặc thù của đạo Phật là lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ, là tinh thần từ bi, cầu mong mọi chúng sanh đều được bình an, yên ổn, hạnh phúc, là sự giải thoát tâm linh chỉ mong trí huệ giác ngộ cho bản thân chớ không cầu xin một cái gì khác. Các nghi thức hằng ngày của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tuy được làm một cách ngắn gọn, giản dị nhưng có tính kỷ luật cao và tính tôn giáo cao vì phải thực hiện mỗi ngày. Tính ra người tín đồ phải lạy mỗi ngày 4 lạy trước bàn thờ ông bà, 4 lạy sau khi đọc xong năm lời cầu nguyện trước bàn thờ Tam Bảo, 16 lạy trước bàn Thông Thiên. Mỗi ngày hành lễ sáng và tối, tổng cộng như vậy gồm 48 lạy. Người tín đồ dành từ 10 đến 15 phút cho một lần hành lễ. Cúng lạy buổi sáng là sự nhắc nhở chúng ta không quên giáo lý của Đức Phật và hành xử đúng đắn trong ngày. Cúng lạy buổi tối là xem lại những hành vi trong ngày của mình, để biết mình có làm theo lời dạy của Đức Phật, Đức Thầy hay không. Nếu đã làm theo thì chúng ta có thể cố gắng nhiều hơn nữa trong những ngày sau, còn nếu không thì chúng ta phải sửa đổi bản thân mỗi ngày. Chỉ bằng cách thực hành như vậy, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích thật sự. Cúng lạy sáng tối là pháp tu tập căn bản trong việc tu học Phật pháp. Chúng ta cần phải nhắc nhở mình mỗi ngày, suy xét và tu sửa. Đối với chùa chiền, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết: “Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rầm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật dâng hoa, không cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều). Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa không nên hủy báng”. Ngày nay, khi trông thấy hình tượng Đức Phật, chúng ta lại được nhắc nhở là mình cần phải biết ơn Ngài đã truyền dạy giáo pháp trong 49 năm. Là một nhà giáo dục xã hội tự nguyện, Đức Phật đã dành trọn cuộc đời của Ngài để dạy chúng ta cách đoạn lìa phiền não, đạt trí huệ hoàn hảo và hạnh phúc đích thực. Ngài cũng là một người bình thường như mọi người khác, nhưng Ngài đã tinh tấn tu hành giác ngộ khi nhìn thấy sự thật của đau khổ, sinh, lão, bịnh, tử. Ngài đã chứng ngộ chân lý cuộc sống và vũ trụ, đã “khai ngọn đuốc từ bi” cho chúng ta noi theo để cùng đạt giác ngộ, sống hạnh phúc và mãn nguyện. Việc dâng cúng và lễ kính hình tượng của Đức Phật có hai mục đích: Thứ nhất là để tỏ lòng tôn kính Đức Bổn Sư Phật Thích Ca của chúng ta; mỗi lần ngắm tranh hay tượng của Ngài, chúng ta nhớ lại những giáo lý cao siêu mà Ngài đã truyền dạy. Thứ hai là để nhắc nhở mình làm theo gương Ngài, ra sức giải trừ vô minh, đạt giác ngộ. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ lưu ý chúng ta một điều: “Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái lời mà Ngài đã chỉ dạy”. Trong “Lời Khuyên Bổn Đạo”, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thuyết: “Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm cho linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà sai đắm lục trần; ý thức lầm lạc ấy khiến các trò nhận cái thân ô trược nầy là thật, cái cảnh phú quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô thường tạm mượn do tứ đại hiệp thành. Cuộc phú quý tựa đám phù vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội chướng thì linh hồn phải chịu luân chuyển báo đền. Ngày nay đã tỉnh ngộ quy y cùng Phật pháp. Như vậy cửa trường sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ quy y cho thấu đáo: Quy là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu. Vậy quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cỏi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp (đọc trong cuốn Khuyến Thiện.) Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan dung mà cư xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ. KỆ RẰNG: Đạo pháp thường hay dung với hòa, Xét người cho tột xét thân ta. Nếu người rõ phận vui lòng thứ, Ta thứ được người, người thứ ta. Bạc Liêu, năm Nhăm Ngũ” Bước vào cửa Phật việc đầu tiên phải làm là thọ trì tam quy y (chữ “trì” có nghĩa là làm được. Thọ trì là thực hành được trong đời sống hằng ngày). Tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tức là Giác, Chánh, Tịnh) là điều Phật dạy để chúng ta thoát ly lục đạo luân hồi. Trong bất cứ lúc nào cũng gìn giữ được tâm giác ngộ của mình, luôn luôn giác mà không mê. Từ trước đến nay chúng ta mê mà không giác, bây giờ quay ngược trở lại chúng ta giác mà không mê, nên gọi là quay lại, nương vào. Có quy y, tu trì chân thật thì mới được liễu sanh thoát tử, vãng sanh Tây Phương. *Phật nghĩa là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật Chân Như Phật Tánh ly niệm linh tri có sẵn trong tự tâm. *Pháp nghĩa là khuôn phép. Tự Tánh Pháp chính là khuôn mẫu đạo đức, nhân nghĩa cao quý sẵn có trong tâm. *Tăng nghĩa là Thanh Tịnh. Tự Tánh Tăng chính là tịnh hạnh thanh tịnh vô nhiễm sẵn có trong tâm. Quy y nói trên gọi là quy y Tự Tánh Tam Bảo. Còn một loại quy y nữa gọi là Trụ Trì Tam Bảo: *Đã quy y Phật nên thờ Phật làm thầy; bắt đầu từ nay cho đến hết đời, dốc lòng chân thành lễ kính, chẳng lười nhác dù trong ý nghĩ. Lại chẳng được quy y ngoại đạo, tà thần. *Đã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo nữa. *Đã quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa. (Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ nói cho chúng ta biết chư Tăng là ai: “Phật là đấng toàn thiện toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy” (trích “Ân Tam Bảo”). Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích về Tam Bảo, Ngài không dùng những từ ngữ “Phật”, “Pháp”, “Tăng” vì để tránh sự hiểu lầm về Tam Bảo cho những thế hệ tương lai. Ngài nghĩ rằng khi Phật giáo được truyền từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, nếu dùng từ ngữ nầy, người ta sẽ hiểu rằng Phật Bảo là tranh tượng Phật, Pháp Bảo là kinh sách, Tăng Bảo là các Tăng Sĩ. Đó là những đối tượng mà chúng ta quy y trên mặt sự. Còn trên khía cạnh lý, chúng ta quy y Phật, có nghĩa là quay về với Phật tánh của chính mình. Cổ Đức nói: “Tự tánh giác ngộ là cái vốn có”. Vì vậy khi Đức Phật nói “quy y Phật”, không có nghĩa là đến an trú nơi Ngài, chúng ta phải từ bỏ tâm vô minh mà quay về nương tựa Tự Tánh Phật vốn có của mình. Chúng ta cần phải hiểu sự quan trọng của việc quy y tự tánh nầy. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cảnh giác chúng ta: “Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy? Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng “các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự của con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy” (trích “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ). Khi quy y Phật, chúng ta quay lưng lại với trạng thái tâm vô minh và nương tựa vào tâm giác ngộ. Chúng ta không nương tựa vào những bức tranh hay tượng Phật, mà nương tựa tinh thần giác ngộ vốn là những ý nghĩa đích thực của những tranh tượng đó. Nếu là người tu theo pháp môn Tịnh Độ, chúng ta phải biết nương tựa vào những bài học về từ bi và trí tuệ của Phật A Di Đà. Danh hiệu “A Di Đà” có nghĩa là ánh sáng vô lượng và tuổi thọ vô lượng. Khi thực hành giáo lý của Ngài, chúng ta sẽ đạt được trí huệ, phúc lạc và trường thọ. Đó là quy y Phật. Quy y Pháp Bảo có nghĩa là nương tựa vào trí Bát Nhã để sửa đổi những hành vi thân, khẩu, ý, sai lầm từ tà kiến quay sang quy y chánh kiến. Chúng ta phải làm sao để khôi phục lại trí huệ của mình! Chúng ta làm theo những lời dạy của Đức Phật trong kinh sách. Nếu lối nghĩ của chúng ta phù hợp với kinh sách thì như vậy có nghĩa là chúng ta đã hiểu đúng giáo lý. Đối với hành giả là tín đồ Phật Gíao Hòa Hảo, chúng ta nên nương tựa vào quyển Sấm GỉangThi Văn Toàn Bộ của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ để tu tập. Đó là quy y Pháp. Quy y Tăng Bảo, với hai điều: sự thanh tịnh tâm trí và sự hòa hợp trong đời sống. Sự thanh tịnh tâm trí là lối sống xa cách những sự cám dỗ, giữ sự thanh tịnh sáu căn mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý đối với sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vậy quy y Tăng Bảo có nghĩa quay khỏi tâm ô nhiễm, nương tựa vào tâm thanh tịnh. Tăng Bảo còn tượng trưng cho sự hòa hợp trong đời sống. Hậu qủa của sự bất hòa giữa các dân tộc, các quốc gia và cả các tôn giáo là những đau khổ cho nhơn loại, Đức Phật dạy sáu điều hòa hợp tức lục hòa. Sáu nguyên tắc sống hòa hợp nầy là những điều hướng dẫn thiết yếu mà mỗi người tu Phật phải tuân theo để thoát ra khỏi ô nhiễm và bất hòa. Đó là quy y Tăng. Nếu đã quy y Tam Bảo mà còn tin tưởng ngoại đạo, tôn thờ tà ma, quỷ thần thì tuy hằng ngày niệm Phật, tu trì, cũng khó lòng được lợi ích chơn thật, vì tà chánh chẳng phân, chắc chắn chẳng có hy vọng liễu thoát sanh tử. Vậy chúng ta phải hiểu rằng “quy y” vừa nói trên chính là quy y hết thảy Phật, Pháp, Tăng, chớ chẳng phải quy y một cá nhân nào, như Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng, Tam quy ngũ giái lòng hằng gìn theo. Cho Ông Cò Tàu Hảo Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy trong bài Quy Y, nguyện vái hằng ngày qua hai thời cúng lạy: Nam Mô Ta Bà Gíao Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (tam niệm). Nam Mô Thập Phương Phật. Nam Mô Thập Phương Pháp. Nam Mô Thập Phương Tăng. Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành, lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo. Ngài còn khuyên tấn chúng ta: Quy y thì khá làm y, Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời. Thức Tỉnh Một Tín Đồ Một dân tộc văn minh là biết tôn trọng sanh mạng của nhau, tôn trọng những quyền tự do căn bản của con người. Vì thế, Ngũ giới là nền tảng căn bản đem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sống đúng ý nghĩa văn minh của nhơn loại. Ngũ giới là căn bản đạo đức của người tu theo đạo Phật, khi bắt đầu bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản đạo đức nầy, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng là lối nói rỗng. Ngũ giới là năm điều răn cấm do Đức Phật chế ra, người tu Phật phải tuân hành theo. Sau khi quy y người ấy tự nhận là đệ tử Phật có đủ tư cách một Phật tử phải gìn giữ năm giới. Gìn giữ năm giới nầy là vì bản thân mình, không phải vì Phật. 1-Không sát sanh: là không được giết hại mạng sống của con người. Chúng ta quý sanh mạng của mình, sao lại đi giết hại kẻ khác. Lẽ công bằng nhơn đạo không cho phép chúng ta làm việc ấy (loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hiềm, vì háo thắng…). Giết hại mạng sống của con người có ba cách: trực tiếp giết, xúi bảo người giết, tùy hỉ trong việc giết hại. Vậy người tu Phật không được tự tay mình giết mạng người, không dùng miệng xúi bảo, đốc thúc kẻ khác giết, khi thấy họ giết hại nhau chỉ một bề thương xót không nên vui thích. Đó là người đối với người. Chúng ta quý trọng mạng sống, những con vật cũng quý trọng mạng sống. “Người đối với thú cầm còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống; nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi mà không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không lợi ích cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyển hoặc, vì đứng vào bậc siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai lạc lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xẩy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được. Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thú của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thể xác, cũng biết tìm lẽ sống như nhân loại vậy.” (trích “Luận Về Tam Nghiệp” trong quyển thứ 6). Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ giảng giải về ác thứ bảy của Thập ác trong “Khuyến Thiện” như sau: Ác thứ bảy Sát Nhơn gây vạ, Tánh hung hang đâm chém chặt bầm. Chất chứa điều hung dữ trong tâm, Chờ đắc thế ra tay hạ sát. Viết đến đây động lòng rào rạt, Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân. Nào kể chi là đạo Quân Thần, Tôi giết chúa, con đành sát phụ. Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ, Trò giết thầy tội ấy đáng không. Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng, Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé. Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ, Giành của tiền cốt nhục giết nhau. Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào, Tình nhơn loại phân chia yểm bách. Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách, Tưởng rằng mình như thế là ngoan. Khuyên bá gia bá tánh việt đàn, Chớ sát hại mạng người như thế. Bớt giết vật đặng mà cúng tế, Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng. Rủi ốm đau bởi tại căn tiền, Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác. Phải ăn năn phước điền tạo tác, Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời. Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời, Xuống phước rộng từ bi hỉ xả. Đấng Thần Minh công bình trực dạ, Đâu ăn lo đổi họa làm may. Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy, Điều họa phước ấy cơ báo ứng. Chẳng biết thân còn toan chứa đựng, Qủa bất lành chưa trả vay thêm. Cầu cho đời sóng lặng gió êm, Đặng bá tánh an nhàn tu niệm. Khuyến Thiện Vậy chúng ta cầu sanh Tây Phương để tránh nỗi khổ luân hồi, điều đầu tiên cần chú trọng là kiêng giết. 2- Không trộm cướp: Của cải tài sản của chúng ta, không muốn ai xâm phạm đến, của cải tài sản của người khác, chúng ta cũng không được giựt lấy hay lén lấy. Cướp giựt hay lén lấy của người là hành động trái nhơn đạo, phạm luật chánh quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướp là do lòng tham lam độc ác, chỉ nghĩ lợi mình, quên nỗi đau khổ của người, mất cả công bằng và nhơn đạo, là nguyên nhân của nghèo khó, phá hoại hạnh phúc của con người. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ giảng giải về ác thứ sáu của Thập ác là Đạo Tặc trong “Khuyến Thiện” như sau: Lấy của người sắm ăn sắm mặc, Chẳng kể công nước mắt mồ hôi. Phá lương dân dạ luống bồi hồi, Ngày làm lụng đêm lo canh giữ. Trốn pháp luật tập tành đủ thứ, Nào đào tường, khoét vách khuân đồ. Tội chập chồng đâu biết ở mô, Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi. Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi, Vào thâm tâm những kẻ gian phi. Hãy tu thân chừa thói vô nghì, Của phi nghĩa làm chi xong chuyện. Luật nhơn qủa thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Vậy ta nên làm việc thẳng ngay, Cứ bền chí có ngày thong thả. Khuyến Thiện Người tu theo Phật quyết định không được làm, giữ tâm ý trong sạch, đừng chất chứa điều tham lam ích kỷ, “Thấy của người thèm khô nước miếng” (Q5). 3- Không tà dâm: Người tu theo đạo Phật, là cư sĩ tại gia, được phép có đôi bạn vợ chồng. Khi đã có đời sống phu thê rồi, tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu vi phạm thì mắc phải tội tà dâm. Đây là hành động cũng là nguyên nhân làm đau khổ cho gia đình mình và gia đình kẻ khác, tạo thành nguy cơ tán gia bại sản. Do một chút tư tình của mình, khiến nhiều người khổ đau liên lụy, qủa là thiếu lòng nhơn. Để bảo đảm sự yên ổn của gia đình mình và hạnh phúc của gia đình người khác, người tu theo Phật nhất định không phạm tà dâm. 4- Không nói dối: Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam độc ác, sự kiện xẩy ra thế nầy lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người khác mắc họa. Người như thế gọi là người vô đạo đức, không có lòng nhân. Người tu theo Phật sống đời có đạo đức, ăn nói mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu ngoa xảo trá. Trừ trường hợp vì lợi người, lợi vật, không nở nói thật để người hay vật bị hại hay khổ đau. Do lòng nhân cứu người hay cứu vật, nếu có nói sai sự thật mà không phạm tội nói dối. Không nói dối là giữ lòng tin đối với mọi người chung quanh. 5- Không uống rượu: Đạo Phật chủ trương giác ngộ, muốn được giác ngộ, trước phải tỉnh sáng, uống rượu vào tâm trí quay cuồng, mất hết bình tĩnh không còn sáng suốt, trái hẳn mục đích giác ngộ. Người say rượu, tội lỗi nào cũng dám làm, xấu xa gì cũng không sợ, mất hết lương tri, “Tửu nhiễm vào thân thể bất an” (Gíac Mê Tâm Kệ). Uống rượu chẳng những làm mất trí khôn, lại gây bệnh hoạn cho thân thể. Người tu theo Phật, vì sự nghiệp giác ngộ, vì lợi ích cho mình và người khác quyết không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh, y sĩ bảo phải dùng rượu hòa thuốc uống mới lành, đến khi hết bệnh thì chấm dứt. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyến cáo: “Uống rượu phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng tỏ sự chia rẽ với ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi” (trích “Những Điều Được Tránh Hẳn Hoặc Được Châm Chế” trong quyển thứ 6). Sự đau khổ của con người không gì hơn khi họ nghĩ đến sanh mạng bị đe dọa, tiền của bị mất mát, người yêu thương của mình bị xâm phạm. Vì cứu khổ đem vui đến cho mọi người, Đức Phật không cho phép người tu theo đạo Phật sát sanh hại mạng, vô cớ tước đoạt của cải người khác, xâm phạm tiết hạnh nữ nhi, “Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn” (Khuyến Thiện) và gái phải giữ tròn tiết hạnh “Gái lẳng lơ tiếng huyển lời đờn, Hoa có chủ đèo bồng tình mới” (Khuyến Thiện). Tình thương vĩnh viễn không có, nếu con người không tin tưởng và cảm thông nhau. Bởi vì trong cuộc sống mà không có tình thương, con người sẽ sống lạc loài, không có sự đùm bọc thương yêu chia sớt cay đắng ngọt bùi. Muốn đem tình thương đến cho nhau, trước tiên phải có tin tưởng thông cảm nhau, nên người tu theo Phật không được nói dối. Tinh thần cứu khổ ban vui trong đạo Phật đã thể hiện rõ ràng trong năm giới. Vì thương mình thương người, người tu theo Phật, chúng ta phải cố gắng gìn giữ và khuyên người gìn giữ. Đó là căn bản của Đạo làm người trong hiện tại và mai sau. Người tín đồ Phật Gíao Hòa Hảo, ngoài việc tuân thủ năm điều giới luật do Đức Phật chế ra, còn phải triệt để ứng dụng tám điều răn cấm của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ định ra để mọi người xem như mực thước trong việc tu hành. Trong “Lời Khuyên Bổn Đạo”, Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên tín đồ: Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn cấm sau đây: Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tan cang ngũ thường. Điều thứ nhì: Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận. Điều thứ ba: Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài mà đành quên nhơn nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó. Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Tời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay nguyền rủa vì Thần Thánh không can phạm đến ta. Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta. Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật. Điều thứ bảy: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy. Điều thứ tám: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo dức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh. Tất cả thiện nam tín nữ trong Tôn giáo nhà Phật lúc rảnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ những tục lệ chơn chánh, bỏ tất cả những sự dị đoan mê tín thái quá mà làm cho đạo đức suy đồi.
Ngài còn khuyên tấn bổn đạo: “Tôn trọng giới luật của đạo, rán sửa mình cho trong sạch để gây quả phúc tốt cho linh hồn và xác thịt”. “Nếu người nào không giữ được giới luật của đạo, tốt hơn là ra khỏi đạo, không có sự ép buộc phải ở trong đạo” (Trích “Lời Tâm Huyết”). Tu Thập Thiện để dứt trừ Thập Ác. Thập Ác là: Ác Lưỡng thiệt, Ác Ỷ Ngôn, Ác Vọng ngữ (thuộc Khẩu Nghiệp), trong “Lời Khuyên Bổn Đạo” Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên: “Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người. Cần hiểu rõ cái lý vô ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ”. Ác Tà dâm, Ác Đạo tặc, Ác Sát nhơn (thuộc Thân Nghiệp). Ác Tham hiểm, Ác Sân hận, Ác Mê si (thuộc Ý Nghiệp) Nếu giữ được chẳng phạm thì gọi là Thập Thiện. Nếu chẳng giữ thì gọi là Thập Ác (xin đọc đoạn Thập Ác trong quyển “khuyến Thiện” của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ). Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm quả ác, quyết định không nghi, không hề sai sót. Mười điều lành nầy bao gồm hết thảy thiện pháp. Nếu có thể tuân hành thì không điều ác nào chẳng đoạn, không điều thiện nào chẳng tu. Chúng ta đã quy y, thọ giới, hãy nên tuân thủ trọn vẹn. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp, Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho. Trồng cây lành vị quả thơm tho, Tuy không thấy mà sau chẳng mất. (Khuyến Thiện) Lại còn phải nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chớ nên coi thường. Nếu chẳng để ý, đến khi lâm chung mới cảm thấy là trọng yếu vì gió nghiệp đã thổi, chẳng thể tự chủ, hối cũng chẳng kịp. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có kết quả. Tu thập thiện dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp)”. Mười nghiệp thiện là nền móng căn bản của phương pháp tu hành. Chúng ta phải đem thập thiện áp dụng trong đời sống sanh hoạt thường ngày, noi theo tiêu chuẩn dạy trong kinh luận, phải từ cơ sở nầy mà bước vào cửa Phật. Để thành một con người hoàn hảo, người tu Phật phải hoàn hảo pháp Thập Thiện. Pháp Ngũ Giới mới chuyển hóa hai phần nổi, thân, khẩu mà thôi. Bởi vậy người tu Phật chúng ta không phải chỉ dừng ở Ngũ Giới mà phải tiến lên Thập Thiện mới thật đầy đủ. Đời Đường ở Trung Hoa, có một thiền sư thấy trên cây có chỗ thuận tiện ngồi tu được, ông liền gát cây, bẻ nhánh lót thành chỗ ngồi, giống như ổ quạ và ngồi đó tu. Thời gian sau, ông ngộ đạo tại đây, dân chúng gọi Ngài là Ô Sào thiền sư (thiền sư ngồi trong ổ quạ). Một hôm, ông Bạch Cư Dị là nhà văn thơ nổi tiếng thời ấy, được cử làm quan ở Huyện nầy, nghe danh thiền sư Ô Sào, ông liền đến hỏi đạo. Khi gặp nhau ông hỏi nhiều câu, đến câu chót: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Thiền sư Ô Sào ngồi trên ổ quạ đáp: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” (Chớ tạo các điều ác, vâng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đây lời chư Phật dạy). Ông Bạch Cư Dị cười thưa: “Bài kệ Ngài dạy, con nít tám tuổi cũng thuộc rồi”. Thiền sư bảo: “Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc, song ông già tám mươi làm chưa xong”. Bạch Cư Dị đảnh lễ rồi lui về. Qua câu chuyện nầy, chúng ta thấy chính yếu, chư Phật dạy người tu Phật phải chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện. “Chớ tạo các điều ác” là dừng ba ngiệp ác. “Vâng làm mọi việc lành” là tu ba nghiệp lành. “Giữ tâm ý thanh tịnh” phải chú tâm nhiều về ý nghiệp. Ý nghiệp thanh tịnh thì thân, khẩu mới tốt, mới thanh tịnh. Ý nghiệp là chủ động. Bạch Cư Dị nghe bài kệ nầy thấy dễ nhớ dễ hiểu nên xem thường bảo rằng “con nít tám tuổi cũng thuộc”. Thiền sư dạy cho ông một bài học “con nít tám tuổi cũng thuộc, song ông già tám mươi tuổi làm chưa xong”. Chúng ta đã hiểu rằng Đạo là để hành để tu chớ không phải hiểu nhớ suông. Nếu hỏi đạo để hiểu để nhớ, chỉ là việc vô bổ. Ứng dụng lời chư Phật, chư Bồ Tát dạy vào cuộc sống mới thấy hữu ích thật sự. Học Phật pháp để hiểu để nói, như người khoe ăn nhiều thứ bánh vẽ, mà bụng vẫn đói. Người học đạo để tu để hành, mới thật là người chân chính. Bước khởi đầu của người học Phật là phải thực hiện được “chuyển hóa ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện”. Mỗi người hoàn thiện thì xã hội mới toàn mỹ. Chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện là tự mình thẳng tiến trên bước đường đạo đức, đóng góp sự vui tươi an lạc cho gia đình mình, xây dựng một xã hội văn minh. Cho nên trong kinh Thập Thiện nói người tu thập thiện sẽ được sanh lên cõi Trời, gọi là Thiên Thừa trong Phật giáo. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Trừ xong ba nghiệp chướng, hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo hạnh. Nhưng sự tiến bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên cần phải hành luôn Đạo Bát Chánh tiếp theo vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tiến triển trên con đường Giải Thoát”. Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy, Là chơn truyền của Đức Thích Ca. Người tu hành cần phải tìm ra, Giác Mê Tâm Kệ Bát Chánh Đạo là con đường chân chánh có tám chi, giúp chúng sanh hướng đến một đời sống cao thượng, hạnh phúc. Bát Chánh Đạo là tám phương tiện vi diệu đưa chúng sanh đến đời sống an lạc, giải thoát, tiến đến địa vị giác ngộ. Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy để đi đến Niết Bàn, Phật quả. Sau đây là ý nghĩa mỗi chi nhánh của Bát Chánh Đạo: 1- Chánh Kiến: là thấy, nghe, nhận thức đúng đắn. Hiểu rõ những điều kiện đạo đức và tinh thần để trau dồi chất lượng của tư tưởng, của lời nói, hành động và loại bỏ những thành kiến. Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện, Phải đừng cho lầm lạc nẽo tà. Dầu việc người hay việc của ta, Nên phán đoán cho tường cho tận. Tội với phước xét coi nhiều bận, Mới khỏi lầm tà kiến đem vào. (Giác Mê Tâm Kệ) 2- Chánh Tư Duy: là suy nghĩ đúng đắn với lẽ phải, loại bỏ những tư tưởng xấu xa, tà vạy dù việc hiện tại, qúa khứ hay vị lai cũng đều trừ sạch. Thay vào đó bằng nhũng tư tưởng đạo đức cao siêu, từ, bi, hỷ, xả hoặc trì niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” không để sơ hở, gián đoạn. Được như vậy tâm trí chúng ta sẽ bình tỉnh sáng suốt để tiến thẳng theo con đường chơn lý giải thoát. Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ. Trên cùng dưới dầu thầy hay tớ, Cũng tưởng điều trung chánh mới mầu. Việc vui say mèo mả đâu đâu, Hãy dẹp gác nhớ câu Lục Tự Giác Mê Tâm Kệ Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ từng dạy trong bài “Dặn Dò Bổn Đạo”: Thứ ba Tư Duy bằng nay, Những điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu. 3- Chánh Nghiệp: là hành động nào cũng phải phù hợp với lẽ phải, đừng hãm hại bất cứ loài vật nào, bất cứ người nào, ngay cả đừng có ý định làm hại kẻ khác. Người có chánh nghiệp là luôn luôn có hành vi đạo đức tốt. Dầu nghề chi làm việc ngay đường. Ta đừng nên theo kẻ bất lương, Học ngón xảo để lừa đồng loại. Giác Mê Tâm Kệ Chánh Nghiệp đòi hỏi một sự lựa chọn nghề nghiệp để kiếm sống mà không gây hại cho mọi người, mọi vật. Chánh Nghiệp còn có nghĩa khuyến khích chúng ta làm một nghề gì có lợi ích cho người khác. Đức Phật đã đưa ra các nghề phải tránh như: không bán vũ khí, không bán ma túy, không làm nghề đồ tể, không sản xuất các đồ uống có độc hại. 4- Chánh Tinh Tấn: dạy chúng ta siêng năng, kiên nhẫn, rèn luyện cho mình một đức tánh dũng mãnh, một ý chí kiên cường. Dù ai có dùng quyền lực áp bức, hay tà thuyết cám dỗ, cũng không thể làm lay chuyển được lòng mình, để vững tiến trên con đường chánh Đạo, hầu đi đến chỗ giác ngộ. Chánh Tinh Tấn dầu thành hay bại, Cứ một đường tín ngưỡng của mình. Dầu cho ai phá rối đức tin, Ta cũng cứ một đàng đi tới.(Giác Mê Tâm Kệ) 5- Chánh Mạng: dạy chúng ta tạo một nếp sống thanh kiết về tinh thần, lấy chơn thân linh diệu điều khiển lục căn đừng để duyên nhiễm lục trần và trừ sạch những tư tưởng trần tục thường tình. Cho hồn linh cai quản châu thân. Lấy chơn nhơn dẹp tánh phàm trần, Mới có thể mong về Cực Lạc. (Giác Mê Tâm Kệ) 6- Chánh Ngữ: là lời nói phải chân thật, đúng với lẽ phải. Lời nói có một sức mạnh gây nên điều tốt, cũng có thể gây nên sự nguy hại cho người nghe. Lời nói đi sau sự suy nghĩ của mình, cho nên phải tư duy cẩn thận trước khi nói ra. Muốn thực hành Chánh Ngữ, hành giả phải thực hiện các điều Đức Phật dạy: không nói dối, không ỷ ngôn, không nói lời độc ác, không nói thêu dệt hai chiều gây sự chia rẽ phân tranh. Nếu không thể nói điều gì có lợi trong một hoàn cảnh nào đó thì tốt hơn hết giữ sự im lặng. Câu Chánh Ngữ lòng son ghi tạc, Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường. Nói những điều đức hạnh hiền lương, Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi. Việc tráo chác ấy là nguồn cội, Lời xảo ngôn do đó mà ra. (Giác Mê Tâm Kệ) 7- Chánh Niệm: chữ “niệm” có nghĩa là những gì đang gợi lại trong tâm thức ở giây phút hiện tại “còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng…”. Chánh Niệm giúp chúng ta trở lại trong giây phút hiện tại để chú ý vào những điều ta đang muốn và đang xảy ra trong hiện tại và tìm ra một giải pháp thích hợp. Mỗi khi lễ bái nguyện cầu, đều được thành tâm khẩn thiết, chẳng nên làm chiếu lệ cho qua thời. Câu Chánh Niệm thiết tha nhiều nỗi. Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi, Phải làm tròn các việc vẹn toàn. Dân chớ nên làm bướng làm càn, Trong lúc ấy niệm cho lấy có. (Giác Mê Tâm Kệ) 8- Chánh Định: là tập trung tư tưởng vào một vấn đề tốt lành như lòng từ bi, sự vô thường của cuộc đời. Chánh Định giúp cho tâm thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện hữu trong thực tại. Chánh Định giúp chúng ta nhìn thấu triệt vô thường, làm giảm những lo lắng, sợ sệt, nghi ngờ và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình an hơn, sẽ từ bi hơn để đem lại lợi ích cho chính chúng ta và cho người khác. Tuy thấy khó hành nhưng nó giúp cho hành giả được giải thoát rốt ráo, miễn là đối với vạn cảnh, vạn pháp, tâm mình vẫn như như bất động. Bây giờ tâm thần được an định mà trở về với chân như thật tướng của mình, ấy là chứng đắc Niết bàn tịch tịnh. Mục Chánh Định thiệt là rất khó, Giữ tấm lòng bất động như như. Cho hồn linh yên lặng an cư, Thì mới được hoàn nguyên phản bổn. Tà với chánh còn đang trà trộn, Người muốn tu phải sớm lọc lừa. (Giác Mê Tâm Kệ) Con đường tu tập Bát Chánh Đạo cũng chính là con đường tu tập Giới- Định-Tuệ: Tu tập Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng là tu tập các điều thiện, là tu tập Giới vô lậu học. Tu tập Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định là tu tập Định vô lậu học. Tu tập Chánh Kiến, Chánh Tư Duy là tu tập Tuệ vô lậu học. Bát Chánh Đạo chính là phương pháp tu phổ biến cho tại gia lẫn xuất gia, trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào cũng có thể thực hiện được. Tu tập Bát Chánh Đạo là tu tập Thân, Khẩu, Ý của chúng ta, mà nếu ai cố chí làm theo thì gặt hái nhiều kết quả. Bát Chánh Đạo là nền tảng của chánh giác, là căn bản của giác ngộ, giải thoát. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn giận, chẳng dạ ghét ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ, gây mối thiện duyên, lần lần trí huệ mở mang, cõi lòng sáng suốt, thì màn vô minh sẽ bị diệt mất.Vô minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh sắc diệt; danh sắc diệt thì lục nhập diệt; lục nhập diệt thì xúc động diệt; xúc động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo thủ diệt; bảo thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải thoát vậy” (Môn Hoàn Diệt). Mang đặc tính tu hành theo đạo Phật bình dân và yêu nước, hay nói theo cách thời đại là Đạo Pháp và Dân Tộc. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ chủ trương học Phật, tu Nhân, thực hành giáo lý Tứ Ân, làm các điều lành, tránh xa điều ác, cúng lạy Phật, niệm Phật tại gia. Tín đồ không cần xây chùa cao, tượng lớn, không cần hình tướng đầu tròn, áo vuông, chỉ cần thờ lạy một tấm trần dà với ba lễ vật đơn sơ là nước lã, nhang và bông hoa. Học Phật, tu Nhân là đặc chất của nền Phật giáo dân gian và thời đại mà Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ chủ xướng “Dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng, Chẳng nói cao vì sắp rốt đời.” (Giác Mê Tâm Kệ). Ngài chỉ chọn một số tư tưởng căn bản của Phật giáo và diễn giải cho thích hợp với quần chúng nông dân. Tuy nhiên đó không phải là những tư tưởng tầm thường, hời hợt, mà trái lại, đó là vừa phần căn bản, phần tinh hoa, phần “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật. Học Phật, tu Nhân là nền tảng của giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo. Học Phật có nghĩa là học và thực hành những lời Phật dạy, cụ thể là những giáo lý căn bản như Tam độc: tham, sân, si, Tứ diệu đề, Tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả, Ngũ giới, Thập thiện, Lục căn, Lục trần, Lục độ, Thập nhị nhơn duyên, Bát chánh đạo v.v… Phần học Phật mà Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ trình bày giảng dạy trong giáo lý chính là đạo Phật nguyên thủy, đạo Phật chơn chánh chớ không có gì khác. Vì căn cơ trình độ của người nghe Pháp còn thấp, nên Ngài chỉ tóm lược và nói những phần căn bản và đơn giản mà thôi. Trong phần học Phật, có phần thực hành thì Ngài có dạy về cốt lõi của Thiền tông, là khai mở cái chân tâm, nhưng không dạy tín đồ phương pháp ngồi thiền. Ngài giảng dạy phải phá chấp tướng (chấp có mình và người) thì mới mong giải thoát “Tâm trần tục còn phân nhân ngã, Thì làm sao thoát khỏi luân hồi” (Giác Mê Tâm Kệ). Dùng trí tuệ để diệt vọng tâm thì chơn tâm hiển bày tức Phật tánh, chính là tinh yếu trong Phật đạo và Thiền tông mà Ngài đã giảng dạy “Mài gươm trí cho tinh cho khiết, Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không” (Giác Mê Tâm Kệ). Ngài đi đến chỗ cao siêu huyền diệu của đạo Giải Thoát “Phật tại tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên Non Núi” (Kệ Dân) và: “Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu, Hãy tìm kiếm cái không mới có” (Kệ Dân). Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ phổ truyền Chánh Pháp trong giáo lý của Ngài chính yếu là chỉ dạy về Tịnh Độ là pháp môn Niệm Phật. Đại đa số quần chúng nhân dân thì pháp môn Tịnh Độ rất thích hợp cho mọi tầng lớp. Dạy Phật học cho họ căn bản là khuyên làm lành lánh dữ, niệm Phật, giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh là thích hợp nhất, không ai có thể làm khác. Ngài cũng nhắc lại lời Phật thuyết: Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Độ, Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh. Nếu như ai cố chí làm lành, Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc. Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật, Dầu Tiên, Phàm, Ma, Qủi, Súc sanh. Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành, Được cứu cánh về nơi an dưỡng. Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng, Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi. Khuyến Thiện Đức Phật vì quá thương xót chúng sanh mãi trôi lăn trong bể trầm luân khổ ải, nên Ngài đã thuyết Vô Lượng Thọ kinh để tùy cơ giáo độ hết các tầng lớp chúng sanh và ân cần khai thị pháp môn Tịnh Độ. Bởi vì tu theo pháp môn Tịnh Độ rất giản tiện và dễ chứng đắc hơn hết. Thế nên, thời nay Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cũng tiếp tục xiển dương pháp môn ấy để rộng độ chúng sanh: Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh, Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa. Khuyến Thiện Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ cho biết tất cả chúng sanh nếu quyết chí làm lành lánh dữ và nhứt tâm trì nguyện sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” với lòng tin vững chắc, chí nguyện thiết tha, phụng hành tinh tấn, thì chỉ trong một kiếp chắc chắn được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc: Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu, Nằm, đi, đứng, hay ngồi chẳng chấp. (Kệ Dân) và Di Đà lục tự ấy phương châm, Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm. Đáp Lời Ông Nguyễn Kỳ Trân kết quả sẽ là: Về Cực Lạc thảnh thơi an dưỡng, Ấy là ngày ban thưởng công phu. Cho Ông Cò Tàu Hảo Chúng ta cần phải biết Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đạo đức tối cao không ai bằng được, nói ra kinh Vô Lượng Thọ. Lời Ngài nói ra tuyệt không dối người. Chỉ nên tin có cõi Cực lạc, niệm Phật được sanh về đấy. Đó chính là yếu quyết thành công thứ nhứt. Phải nhận rõ đời ác ngũ trược hiện tại, nên khởi tấm lòng chân thật nguyện sanh về thế giới Cực Lạc. Đây chính là yếu quyết thành công thứ hai. Đã tín, nguyện rồi, lại nên theo đúng phương pháp tri hành hợp nhứt, chớ xao lãng, “Tu hành trì chí mới là liễu mai” (Sám Giảng). Đây chính là yếu quyết thành công thứ ba. Pháp môn Tịnh Độ lấy “TÍN, NGUYỆN, HÀNH” làm tôn chỉ, thường được gọi là ba thứ “tư lương” tức là lương thực đi đường. “Tín” là cách vững chắc không gì lay chuyển, tin Phật Thích Ca nói đúng, tin Phật A Di Đà và cảnh Tịnh Độ là có thật, tin pháp môn niệm Phật có thể đưa ta về Cực Lạc, tin vào giáo lý nhơn quả, ở hiền gặp lành. “Nguyện” là chí nguyện, ước mong thực hiện những điều chân chính, là động cơ thúc đẩy hành giả mau chóng đạt kết quả. Hành giả phải tập luyện cho bền, luôn kiên trì tâm trí tu theo pháp môn niệm Phật, tha thiết được vãng sanh Tịnh Độ. “Hành” là thực hành; có tin, có ước muốn mà không thực hành tức không niệm Phật thì không đạt chứng quả. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thích Ca khẳn định: “Con người ở cõi Ta Bà nầy, rất khó tu hành, khó niệm Phật vì ở đây có tới năm trược: phiền não trược, kiến trược, kiếp trược, chúng sanh trược, mạng trược. Ở cõi nầy, những ai làm lành, niệm Phật thì công đức rất lớn, lớn hơn về cõi Tinh Độ nhiều. Nhờ đó được vãng sanh về cõi Tịnh Độ mà tu hành thêm cho đến ngày thành chánh quả.” Đức Phật nói với ông Xá Lợi Phất: “Nay ta xưng tán chư Phật là bất khả tư nghì công đức thì tất cả chư Phật cũng đều xưng tán “Ta” là bất khả tư nghì công đức. Các Ngài phán ra những lời sau: “Đức Phật Thích Ca thường làm những việc rất khó và ít có dù ở cõi Ta Bà đầy các ác trược mà Ngài đắc quả chánh đẳng chánh giác và vì chúng sanh, Ngài nêu ra pháp môn Tịnh Độ là pháp môn rất khó tin hơn hết trong các cõi thế gian…Ta vì chúng sanh nêu ra pháp môn khó tin nầy, thật là một điều rất khó thay…” Pháp môn niệm Phật gồm nhiếp cả Thiền, Luật, Giáo, Mật, là vì: - Khi niệm Phật thì trừ được vọng tưởng, chấp trước, đó là Thiền. - Sáu chữ hồng danh bao gồm vô lượng nghĩa mầu nhiệm; vô lượng nghĩa ẩn dấu và xuất hiện từ đó, ấy là Gíao. -Niệm Phật đến cảnh giới sâu, các nghiệp đều trong sạch, vắng lặng, đó là Luật. - Câu niệm Phật có công năng như câu thần chú, giải oan, trừ nghiệp, đó là Mật. Trong nhân gian, cái kiến chấp phổ biến “tâm tốt thì cũng giống như niệm Phật”. Tâm người vốn dẫy đầy tham, sân, si, thêm thường gây tạo nghiệp sát, đạo tặc, tà dâm, mà vẫn cường điệu cố nói tâm mình tốt, chẳng phải là lầm lạc hay sao! Gỉa sử như có người nói tâm mình tốt thật sự thì cũng chỉ làm được thiện nghiệp. Đây chỉ đáng gọi là “Tu Phước”, kiếp sau sẽ hưởng tiểu qủa nhân, thiên, chớ chưa thoát khỏi luân hồi, như thế chẳng đến được cỏi Cực Lạc. Muốn vãng sanh Cực Lạc thì phải “Tu Huệ”, mà tu huệ chính là niệm Phật. Nhân thế nào thì quả thế ấy. Phước là phước, huệ là huệ, phải phân biệt rõ ràng, chớ lầm lạc. Có người viện cớ “bận rộn quá không có thời giờ niệm Phật” để cự tuyệt pháp môn đại tiện nghi vạn kiếp khó được gặp, thật đáng tiếc! Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên: Niệm Phật nào đợi mùi hương, Miễn tâm thành kính Tòa Chương cũng gần. Sám Gỉang Hay: Nhớ từ bi hai chữ ngâm nga, Dù làm lụng cũng là trì chí. Giác Mê Tâm Kệ Hay: Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi. Tư Tưởng Có thật sự bận rộn chăng? Niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi, đều làm được. Dù là sĩ, nông, công, thương, đều không trở ngại. Niệm Phật không luận có đèn, nhang hay thời khắc, mà lúc nào cũng vẫn trì niệm và thành tâm khẩn thiết, đừng để một vọng tưởng nào xen tạp, tất được dựa kề Phật Thánh: Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu, Nằm, đi, đứng, hay ngồi chẳng chấp. Kệ Dân Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ dạy: “Còn phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh, vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt; vì cái vọng niệm về việc thế trần mà không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hể thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh. Cho đến khi nhất tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nảy sanh ra được? Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai.” (trích “Chư Phật Có Bốn Đại Đức”). Pháp môn niệm Phật là pháp môn dạy chúng ta nhớ đến Phật. Nếu sự tưởng niệm đó là hết sức tha thiết, in sâu thì mỗi lời nói, mỗi việc làm của chúng ta trở thành những bước dài đến gần Phật. Kinh Phương Đẳng ghi: “Niệm Phật luôn luôn không ngừng thì Phật sẽ hiện ra”. Niệm là do tâm khởi, tâm khởi niệm thiện là niệm thiện, tâm khởi niệm ác là niệm ác, khởi niệm thiện báo ứng thiện nghiệp, sinh ác nghiệp là báo ứng ác nghiệp như gương hiện ảnh bóng theo mình; muốn khởi chánh niệm để dập tắt ba nghiệp thì phải niệm Phật. Về vấn đề nầy Thiền sư vua Trần Thái Tôn lý giải như sau: Lúc niệm Phật thân thẳng, ngồi ngay, không làm việc ác là dứt được nghiệp thân, Miệng tụng kinh không nói điều tà là dập tắt được nghiệp khẩu. Ý luôn luôn thanh tịnh không dấy nghiệp là dặp tắt được nghiệp ý. Do vậy, niệm Phật là con đường đi đến giác ngộ ngắn nhứt, đơn giản và đáng tin cậy nhứt. Có nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng chẳng để tâm vào đó, trong lòng toàn là “tâm viên ý mã”. Niệm như vậy cũng vô dụng. Miệng niệm Phật thì tâm phải tương với Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ một câu niệm Phật ra không còn nghĩ đến gì khác nữa, không có ý niệm nào khác khởi lên. Có như vậy mới gọi là niệm Phật “Nhất tâm bất loạn”, từ đó mới dễ thành công. Từ trước tới nay, người niệm Phật thì nhiều, nhưng niệm cho được nhất tâm bất loạn thì ít ai làm được, nên không thấy kết quả. Do đó ĐứcTôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ kêu gọi mọi người giờ đây hãy trì tâm niệm Phật cho đúng phương pháp thử coi. Nghĩa là phải niệm làm sao cho tiếng niệm nghe đều đều và hòa vào nhịp thở của tim. Tuy không niệm ra tiếng nhưng vẫn nghe rõ từng chữ một nơi tâm, không hề gián đoạn hoặc vọng tưởng xen vào. Nếu niệm Phật được như thế, tất khỏi cảnh máu đổ thịt rơi trong ngày chiến tranh tận diệt: Nam Mô sáu chữ Di Đà, Từ bi tế độ vậy mà chúng sanh. Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh, Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi. Trì tâm thì quá ít oi, Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào. Rạch tim đem để Nó vào, Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi. Sám Gỉang Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khuyên nếu ai chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, không để phút nào gián đoạn, thì lúc nào gặp tai nạn hiểm nguy sẽ được Phật Trời gia hộ, hoặc có người cứu thoát: Lòng Sáu Chữ nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không. Sa Đéc Hay: Chữ Lục Tự trì tâm bất viễn, Thì lâm nguy có kẻ cứu mình. Kệ Dân Ngài cũng cho biết, nếu như ai cố gắng chuyên cần niệm Phật thì được: Niệm Di Đà rán niệm cho rành, Thì mới được sống coi Tiên Thánh. Kệ Dân Niệm Phật dễ hay khó? Thật ra pháp niệm Phật đây, bảo là dễ thì nó cực dễ, bảo là khó thì nó cực khó. Chẳng cần biết là khó hay dễ, chỉ đáng kể mình có bền lòng niệm được nhiều hay không, “trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên”. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tùy duyên nhưng bất biến”. Tùy duyên thì an mệnh. Hãy an phận thủ thường, ít muốn, biết đủ, giàu sống theo giàu, nghèo sống theo nghèo, sang sống theo sang, hèn sống theo hèn. Thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Giữ vững lập trường, bền lòng vững chí, không chùn chân, dừng bước. Đó gọi là tùy duyên nhưng bất biến. Về hành trì cũng phải tùy duyên. Tùy theo hoàn cảnh sống ở nhà lớn hay nhỏ, không nên chấp chặt vào nghi thức có bàn thờ hay không. Không ràng buộc thời gian rảnh rỗi hay bận rộn, phải biết uyển chuyển tận dụng thời gian và sức lực, chớ buông trôi, giải đãi. Tóm lại, người tu hành phải tùy duyên nhưng bất biến. Bất biến nhưng tùy duyên, phải làm chủ lấy mình, không để bị cảnh chuyển, phải hạ quyết tâm cao, kiên nhẫn, tinh tấn niệm Phật, đó mới thật là người chí chân tu, “Nhất cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương” (Niệm Phật Di Đà chuyên chú thì phẩy tay, không nhọc nhằn đến Tây Phương). Kinh A Di Đà có câu “Nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm là đối với tâm loạn mà nói. Nếu niệm Phật mà lòng đầy vọng tưởng thì niệm Phật tâm tán loạn. Nhất tâm bất loạn là tự mình biết mình đang niệm Phật, nhất tâm niệm Phật, toàn tâm toàn ý niệm Phật, trói buộc cả thân tâm mình vào danh hiệu Phật. Theo kinh A Di Đà, nếu có thiện nam, thiện nữ vào nghe giảng về Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu Ngài hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày mà tâm không tán loạn, thì có thể vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cho chúng ta biết Đức Phật A Di Đà lúc nào cũng mong đợi chúng ta biết hồi tâm hướng thiện, niệm Phật, làm lành. Tuy Ngài an tọa nơi Tây Phương Cực Lạc, nhưng luôn dùng hào quang năm sắc soi rọi khắp cõi Ta Bà, tìm kiếm chúng sanh nào biết tu thân lập hạnh, chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài ủng hộ và tiếp dẫn chúng sanh ấy được vãng sanh về cõi Cực Lạc: A Di Đà nhìn xem khắp cõi, Đặng trông chờ mong mỏi chúng sanh. Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành, Đặng tìm kiếm những người hiền đức. Kệ Dân Hay: Ở Tây Phương chư Phật ngóng trông, Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật. Kệ Dân Quang minh của Đức Phật A Di Đà soi được khắp vô lượng thế giới “Hào quang chư Phật rọi mười phương” (Khuyến Thiện), cho nên có đặc biệt danh hiệu là Vô Lượng Quang. Câu nói “Vô sở chướng ngại” (không đâu chướng ngại) là nói về nhơn loại có chướng ngại hay không. Chúng ta nên hiểu những chúng sanh nào cùng với Phật kết duyên thì thế gian ở đấy đều được thấy rõ ràng, không hề chướng ngại. Đừng hiểu lầm rằng Phật quang đã soi khắp cả mười phương thì chẳng cần tụng niệm, ai cũng thấy được. Chỉ những kẻ nào có duyên với Phật thì Phật quang soi đến, mới thấy mà không chướng ngại; còn kẻ vô duyên thì vẫn chướng ngại chẳng thấy gì. Người nào biết tỉnh tâm tu niệm, thì đây là dịp may hiếm có “Xưa nay không có mấy khi, Dương trần có Phật vậy thì xuống đây” (Sám Giảng Q1). Vì thương xót chúng sanh, Đức Phật A Di Đà truyền lịnh cho Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo khai hóa Đạo mầu: Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc, Đức Di Đà truyền mở Đạo lành. Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh, Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy. Nên khổ lao Khùng không có nại, Miễn cho đời hiểu đặng Đạo mầu. Kệ Dân Hay: Khùng vâng lịnh Tây Phương Phật Tổ, Nên giáo truyền khắp cả Nam Kỳ. Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi, Người hiền đức đặng phò chơn chúa. Kệ Dân Ai là người nhận được kệ giảng của Đưc Tôn Sư HÙYNH GIÁO CHỦ, hãy sớm lo tu niệm, vì trong kệ giảng Ngài đã vạch sẵn con đường vãng sanh Cực Lạc. Ngài đã chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ. Nếu ai nhứt tâm niệm Phật theo đúng phương pháp của Ngài dạy, tức là niệm Phật cho rành thì chẳng những sẽ kiến diện Phật Tiên trong ngày Hội Long Hoa mà còn được vãng sanh Phật quốc, dứt nẽo luân hồi: Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh, Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh. Kệ Dân Điều yếu quyết, hành giả cần có đủ Tín-Nguyện-Hành, chuyên tâm niệm Phật, làm lành. Nếu ai quyết tâm trì chí như vậy, quyết đặng vãng sanh Cực Lạc: Tìm Cực Lạc, Đây rành đường ngõ, Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu. Kệ Dân Niệm Phật vào hai thời cúng lạy sáng tối, “Muốn tu hành thì phải cần chuyên, Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi.” (Kệ Dân). Nếu ai muốn tu hành thì phải chuyên cần, tinh tấn trong các thời lễ bái, niệm Phật không nên chểnh mảng, có thế mới mong kết quả, “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bửa, Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu” (Kệ Dân). “Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già hay thẳng lưng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật. Hay niệm: Nam Mô Tây Phương Cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A Di Đà Phật” (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm). Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc” (Trích Niệm Phật) Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối, Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà. Thì hiền lương quên mất điều tà, Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng. Giác Mê Tâm Kệ Những căn cứ giúp chúng ta thêm tin tưởng vào hiệu lực của pháp môn Tịnh Độ: *Đức A Di Đà khi chưa thành Phật đã có lời thề nguyền: “Khi tôi thành Phật, hễ ai muốn sanh về cõi tôi, siêng tu các căn lành và chí tâm xưng danh hiệu tôi mà kẻ ấy không được vãng sanh thì tôi thề không thành chánh giác”. *Đức Phật Thích Ca dạy trong kinh Vô Lượng Thọ: “Nay ta nói kinh nầy khiến cho chúng sanh được thấy Phật vô lượng thọ và quốc độ của Ngài. Những kẻ muốn bước lên đường giải thoát nên cầu vãng sanh. Pháp môn nầy mọi người đều có thể tu, chớ vì ta diệt độ rồi mà lòng sinh nghi hoặc. Trong tương lai, khi tam tạng giáo điển đã diệt hết, ta dùng nguyện lực từ bi, duy lưu kinh nầy trụ thế 100 năm. Những chúng sanh nào có duyên được gặp tùy ý mong cầu đều được đắc độ”. *Đại sư Tỉnh Am cho biết: “Trên cõi đời nầy mà tu hành qủa thực là khó nhưng muốn vãng sanh nơi Tịnh Độ cũng dễ thôi. Do dễ nên một đời người có thể đạt tới, khó cho nên muôn kiếp chưa thành tựu. Vì thế Thánh Hiền đời trước ai ai cũng có thể hướng về đây, ngàn kinh muôn luận cũng đều giải bày nghĩa nầy. Việc tu hành trên đời hiện tại nầy không có pháp nào hay hơn pháp đó”. *Ngài Bồ Tát Văn Thù trong bài kệ phát nguyện cũng nói: “Nguyện ngã lâm chung, diệt trừ chướng ngại, diện kiến Phật A Di Đà, vãng sanh Cực Lạc Quốc”. Ngài Bồ Tát Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Di Lặc trong phẩm Chúc Lụy cũng đều phát nguyện tu pháp niệm Phật để vãng sanh Tịnh Độ. *Chí nguyện cao cả nhứt của ĐứcTôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khi lãnh sắc lệnh của Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà thị hiện trần gian giáo độ chúng sanh, Ngài có lời thệ nguyện: ngày nào thế giới còn đau khổ thì ngày ấy Ngài chẳng riêng vui nơi cõi Tịnh Độ: Nếu thế gian còn chốn mê tân, Thì Ta chẳng an vui Cực Lạc Khi nào nền Đại Đạo được khai thông, đuốc từ bi được rọ khắp, bể trầm luân đã khô cạn thì ngày ấy Ngài mới trở về ngôi vị cũ: Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo, Đuốc từ bi rọi khắp nhân gian. Bể trầm luân khô cạn sáu đàng, Tăng Sĩ mới trở về nơi thanh tịnh. Trao Lời Cùng Ông Táo Khi mà chúng sanh hết phiền não, Chúa vững ngai vàng trong cõi đời Thượng Ngươn an lạc thì ngày đó Ngài mới rời cảnh tục trở lại cảnh Tiên: Chúa vững ngai vàng Sãi mới yên, Rời xa cảnh tục trở về Tiên. Chẳng còn tham luyến nơi trần thế, Vì cả thế gian hết não phiền. Dụng Kinh Quyền Chí nguyện của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ thật là vĩ đại, chỉ hàng Đại Bồ Tát mới phát hoằng thệ nguyện như thế. Đới Nghiệp Vãng Sanh Câu “Đới nghiệp vãng sanh” là chỉ người tu Tịnh Độ mà nói; đối với các pháp môn khác nếu đới nghiệp thì tuyệt đối chẳng thể giải thoát, chẳng thể liễu sanh tử. Nhưng đa phần người tu hành theo Tịnh Độ hiểu lầm là dù còn tạo tội nghiệp vẫn có thể vãng sanh, vẫn có thể thành tựu. Do nói như vậy nên “mười người tu chín người rớt”, chẳng thành công được. Trong ý nghĩa của “đới nghiệp vãng sanh”, chúng tôi xin trích dẫn ra đây phần hỏi và đáp giữa Đức Thầy và ông Phan Châu Bá qua bài thi tứ cú của ông Phan Châu Bá hỏi Đức Thầy. Ông Bá hỏi: Tang bồng nợ thế trả chưa xong? Chí dốc từ bi cổi tất lòng. Nhơn đạo còn mang chưa xử trọn, Nghĩ sao giải thoát nợ tang bồng? Đức Thầy đáp họa: Đành rằng nợ thế trả chưa xong, Mà biết ăn năn sửa lấy lòng. Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp, Thuyền từ Thầy rước lại non Bồng. * Non Bồng Tiên Phật xót nhân sinh, Trí huệ trau giồi khán kệ kinh. An phận hơn bề danh lợi tạm, Tề gia trung hiếu vẹn thân mình. Ý nghĩa chân thực của việc “đới nghiệp vãng sanh”: Nghiệp là những tội nghiệp đã tạo do thân, khẩu, ý, tạo mười nghiệp ác (Thập ác), nhưng chẳng phải gây tội trong đời nầy, mà từ nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo đã tạo vô lượng tội nghiệp. Tạo tội thì phải trả trong lục đạo. Tội cũ trả chưa xong thì gây tội mới, làm sao giải thoát? Trong Quán Kinh Sở, Tổ Thiện Đạo đại sư nói: “Chí thành niệm Phật một tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Ai cũng nghĩ là niệm Phật tiêu tội. Điều nầy không sai, nhưng “Đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Sức ma lớn vì ma sự nhiều. Chúng sanh từ bao kiếp xưa nay toàn làm ma sự, bây giờ chỉ niệm đôi ba năm thì làm sao tiêu được?. Niệm Phật tiêu nghiệp như lửa nung chảy băng. Tảng băng lớn, ngọn lửa nhỏ làm sao tan băng được. Bởi thế người tu hành thấy sức ma lớn, Phật lực không linh, cho nên lắm kẻ thối chuyển. Nhưng nếu người chẳng tu hành thì một phân đạo cũng không có. Chúng ta có được một phân, một tấc đạo đã là chẳng uổng rồi. Ngoại trừ Phật pháp, không có biện pháp nào để thoát khỏi luân hồi. Mục tiêu của nhà Phật là thoát khỏi luân hồi. Làm thế nào để thoát? Phải là “nghiệp tận tình không”, nghiệp trong nhiều kiếp lẫn nghiệp hiện tại phải nhất loạt tiêu sạch. Đời nầy không tiêu hết thì cố gắng tiêu trong nhiều kiếp. Chúng ta chưa đoạn được mọi thứ phiền não thì chẳng thể giải thoát. Vì thế Đức Phật Thích CA Mâu Ni nói ra pháp môn Tịnh Độ, dạy chúng sanh niệm Phật A Di Đà , chẳng cần đoạn dứt phiền não, chỉ cần chế ngự phiền não liền có thể giải thoát. Nhưng phiền não vẩn còn thì phải làm sao? Luôn dùng sáu chữ hồng danh đè nén chúng, lâu ngày thuần thục, đến lúc mạng chung, nếu khởi tâm niệm Phật thì tạp niệm bị chế phục chẳng khởi lên nên có thể mang theo nghiệp đi vãng sanh (đới nghiệp vãng sanh). Sanh qua cõi Cực Lạc rồi mới đoạn phiền não. Chỉ cần chế phục phiền não chẳng tạo nghiệp nữa, nên sẽ cảm ứng đạo giao cùng Phật. Đây chính là ý nghĩa chân thật của “đới nghiệp vãng sanh”, tuyệt đối không phải vừa niệm Phật, vừa tạo tội vẫn được vãng sanh. Tu theo Tịnh Độ, là con đường tu tắt. Người tu theo Tịnh Độ cũng đắc quả như những người tu theo các tông phái khác. Pháp môn nầy rất dễ tu, nó đến với mọi nhà, mọi người, ai ai cũng tu được, cũng niệm Phật được, ở mọi nơi, mọi lúc không câu nệ phải có chuông, có mõ. Cũng do dễ tu, dễ chứng nên thu hút quảng đại quần chúng tham gia từ trước đến nay. Cổ thi viết: “Ta thấy người khác chết, trong lòng thấy xót xa, chẳng phải xót kẻ mất mà là sẽ đến phiên ta. Ở đời, việc buồn thảm lớn lao nhất không gì hơn là từ biệt, nhưng sự chết người đời chẳng ai tránh khỏi. Chết chẳng qua kết liễu của một thời quả báo, nghiệp quả luân chuyển giữa mỗi đời, khi xả thân nầy, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp đành để cho nghiệp qủa xoay vần”. Người tu pháp môn Tịnh Độ phải dốc lòng niệm Phật, dự bị tư tưởng để đạt vãng sanh cõi Cực Lạc một cách an nhiên. Chúng ta phải nhớ điểm nầy: ngày tháng qua mau, vô thường không hẹn, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe: Phải rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu. Tư Tưởng Và: Tu thân thiện tín phải chuyên cần, Lục Tự Di Đà giữ Tứ Ân. Nhẫn Đợi Thời Cơ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là đạo nhập thế, là một nền đạo vị nhơn sinh, thế nên giáo lý của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ luôn luôn chú trọng đến tế nhơn lợi vật, như Ngài từng phán dạy: Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen. Sám Gỉang Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh, Tiên, đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy y đầu Phật tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa. “Đức Thầy Tây An thuở xưa khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy sinh gắng gổ mới mong trọn vẹn”. Một trong những phẩm hạnh cao đẹp của người tu theo Phật là biết ơn và đền ơn. Ơn nghĩa trong cuộc đời thật bao la rộng lớn, bao trùm khắp tất cả chúng sanh và hết thảy sự vật. Thuyết Tứ Ân được Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ phát dương quang đại đã trở nên có giá trị thời đại, giá trị toàn cầu, giá trị toàn diện, sâu sắc, không những cho việc Học Phật, Tu Nhân của người Phật tử Việt Nam mà còn cho mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi người không phân biệt biên giới, chủng tộc, của thế giới hiện đại. Tư tưởng Phật học đặc sắc nhất của Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ là phần Tu Nhân là thực hành Tứ Ân. Ngài giảng dạy: “Muốn làm tròn nhơn đạo phải giữ vẹn Tứ Ân”. Tứ Ân là: Ân Tổ Tiên cha mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Đồng Bào và Nhơn Loại. Con người phải làm tròn bốn ân lớn nầy thì mới xứng đáng là một người con Phật và mới mong được dự Hội Long Hoa. 1-Ân Tổ Tiên cha mẹ: Đạo hiếu đối với cha mẹ là nhắc nhở con người hiện đại nên quay về biết cội nguồn của mình, không bao giờ được quên ơn cha mẹ ôm ấp nuôi con bằng dòng sữa mẹ và chịu biết bao là khổ nhọc. Sinh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa. Hãy thường xuyên nhớ nghĩ thâm ân cha mẹ mà tìm cách báo đáp, mới không lỗi đạo làm con. Cho nên việc đề xướng hiếu đạo, tích cực hiếu dưỡng cha mẹ là làm vơi bớt sự cô đơn, khổ sở của cha mẹ già. Không vì ngày nay thành tựu, hiển hách mà xem thường cha mẹ là thắp kém vô tri. Người con hiếu thảo là hết lòng cung kính và dưỡng nuôi cha mẹ dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng không nệ hà hay phiền trách. Ai luôn biết hiếu dưỡng cha mẹ là người ấy sống có nhân cách đạo đức, nên dễ thành công trên đường đời. Cung kính dưỡng nuôi cha mẹ đầy đủ về phương diện vật chất từ thức ăn uống, chỗ ở cho đến thuốc thang mỗi khi bịnh hoạn hay những lúc già yếu, gọi là hiếu dưỡng cha mẹ. Người con báo hiếu cha mẹ phải hết sức thật lòng không phải vì hoàn cảnh bắt buộc, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc, gọi là hiếu tâm. Người ở đời nhờ cha mẹ mà lớn lên, cho nên đạo lý làm người là phải biết nhớ ơn và đền ơn công đức sanh thành của bậc song thân. Nếu chúng ta chỉ nuôi dưỡng cha mẹ bằng vật chất thì gọi là hiếu thế gian, còn những ai biết dẫn cha mẹ quy hướng về Phật pháp, tin sâu nhơn quả, làm lành lánh dữ là hiếu dưỡng cao thượng. Phật giáo cho rằng hiếu có thể phân ba tầng bậc: thông thường chỉ sự phụng dưỡng cha mẹ, không để cha mẹ đói rét, đó chỉ là cái hiếu nhỏ bé mà thôi; công thành danh toại, quang tông diệu tổ, làm cha mẹ hãnh diện vui lòng là cái hiếu bậc vừa (Trung); dẫn dắt cha mẹ có niềm tin chân chính, viễn ly ác đạo, thoát khỏi sinh tử luân hồi, khiến cho người thân, tông tổ được cứu độ khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), đó mới thật sự là đại hiếu. “Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta còn lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong huynh đệ, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ qúa vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân. Còn đền ơn tổ tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tông đường” (trích Ân Tổ Tiên cha mẹ). Kinh Đại Tập có nói: “Thế nhược vô Phật, thiện sự phụ mẫu, tức thị sự Phật” (thế gian nếu như không có Phật thì việc hiếu kính cha mẹ chính là phụng sự các vị Phật). Sinh vào thời mạt pháp, các đức Phật đã nhập Niết Bàn, phải xem cha mẹ như là Phật mà tôn trọng, hầu hạ, phụng thờ. Vì ơn cha mẹ sinh dưỡng, chúng ta mới có thể được thân người, mới có thể theo đuổi trí tuệ nầy mà thành tựu huệ mạng, cũng mới có thể viên mãn bồ đề, chứng đắc Phật đạo. 2-Ân Đất Nước: Ân Đất Nước tức là Ân Quốc Gia, trong đó có ân của các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống để đất nước Việt Nam tồn tại. Chúng ta có bổn phận duy trì và gìn giữ, làm tròn bổn phận công dân. Trước tiên phải đóng góp vào việc giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Phát huy sáng tạo khoa học kỹ thuật, làm cho đất nước phát triển hưng thịnh lâu dài. Bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, “Rán nâng đỡ xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo, làm cho được trở nên cường thịnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoại xâm thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia giàu mạnh mình ta mới ấm. “Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đang việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đổi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng góp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước. Đó là ta đã đền ơn cho đất nước vậy” (trích Ân Đất Nước). Chúng ta còn sống sót giữa bao cuộc xâm lăng thống trị và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc, không những nhờ vào tinh thần quật cường bất khuất, mà còn nhờ một nền văn hóa đặc thù, cao siêu mà Phật giáo là thành tố quan trọng nhất. Tiếp nối truyền thống đó Phật Giáo Hòa Hảo đã chứng minh vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống độc tài và họa xâm lăng của ngoại bang theo dòng lịch sử dân tộc. 3-Ân Tam Bảo: Biết ơn và đền ơn là một trong những đức tính căn bản của người tu theo Phật. Trong cuộc sống chúng ta mang ơn rất nhiều, từ nhỏ đến lớn, từ ít tới nhiều. Ân Tam Bảo là ân pháp. Ai đã từng bế tắc, không tìm được lối ra, không thấy được ý nghĩa cuộc sống dù mọi thứ vật chung quanh vẫn đủ đầy thì mới thấy giá trị mang ơn giáo pháp. Có những giá trị sống thuộc về tinh thần (tâm linh) mà vật chất không thể đánh đổi hay với tới được. Cho nên giáo pháp thường được ví như chiếc bè chở chúng sanh qua sông mê, bể khổ, đến bờ an lạc. Giáo pháp mở ra quan kiến mới, định hình nên một lối sống mới, kiến tạo được hạnh phúc và bình an thật sự của con người. Đức Phật đã tìm ra con đường giải thoát mọi ràng buộc khổ đau đó bằng sự tu chứng của chính mình. Là người tu theo Phật phải nhớ đến ân đức của Ngài. “Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sung bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lầu đài Đạo hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu thế. “Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vã đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy” (trích Ân Tam Bảo). 4-Ân Đồng Bào và Nhân Loại: Cuộc sống nầy không phải chỉ có một mình ta đơn điệu, mà tất cả như là một mạng lưới, trong đó mỗi người là một mắc xích với nhau, kẻ cho qua, người cho lại tạo nên sự thăng bằng cuộc sống. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không làm thợ hồ, thợ mộc nhưng vẫn có nhà để ở. Thế cho nên từ loài người cho đến thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, muôn vật nương tựa vào nhau mới bảo tồn được sự sống. “Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có một trang lịch sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết, không thể rời nhau, chẳn thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế ta phải rán giúp đở họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một. “Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cậm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên qủa địa cầu. Nếu không có nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên qủa địa cầu. Nếu không có nhân loại, thủ hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhớ đến Nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác Vf phải bit ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình. “Vả lại cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng sanh. “Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình, gây ra tai hại cho đân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỷ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn” (trích Ân Đồng bào và Nhân Loại). Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra, thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu, “Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn” (Cho Ông Cò Tàu Hảo). Hạng tại gia cư sĩ học Phật tu Nhân trong bối cảnh ngày nay là việc phải cùng nhau hội ý cho phù hợp với tâm tư nguyện vọng của chúng ta, lớp người đồng tu, nhằm nâng cao những cống hiến thích ứng cho sinh hoạt về việc Đời hay việc Đạo. Chúng ta là tín đồ tại gia cư sĩ thuộc giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo đều có vai trò trách nhiệm của mình trong Giáo hội. Nói đến vai trò là nói đến nhận thức và hành động, là nói đến nhiệm vụ, thấy rõ chỗ đứng thực tế và có cách nhìn đúng đắn, đem lại sự hòa hảo trong cộng đồng. Chúng ta chân thành quy ngưỡng Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, cho nên chúng ta học Phật là học làm những con người mang tính chất nhân bản, nhân ái, biết giải tỏa mọi xích xiềng ràng buộc thân tâm để tự phóng giải cho mình và cùng với mọ người phát huy những phẩm chất tốt đẹp nhất của mỗi bản thân có sẵn, để tạo lấy cho nhau một đại đồng an lạc. Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo luôn luôn ý thức rằng nhân đạo, nhân ái đâu phải là những danh từ rỗng tuếch chỉ nói suông, mà chính xác là mang tính chất trung thực và quyết tâm hành trì thực hiện. Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ với lòng thương yêu và qúy trọng con người, Ngài đã thuyết pháp hóa độ và nêu gương hành động cả cuộc sống từ bi, “Cũng nhận được trần hoàn là khổ hải, Dốc tầm đường phóng giải cho thân tâm. Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm, Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới” (Gởi Bác Sĩ Cao Triều Lợi). Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ đã giác ngộ, rồi “Độ tận chúng sanh khỏi dại khờ” đã noi gương Đức Phật đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người đi đến mục tiêu giải thoát hoàn toàn, “Ước mơ thế giới lân Hòa Hảo, Nhà Phật con Tiên hé miệng cười” (Phòng Vắng Đêm Khuya) và “Biết làm sao gieo Đạo khắp Đại Đồng, Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc” (Không Buồn Ngủ). Nếu chúng ta không tự giác, thì chúng ta không thể giác tha, cũng như phải biết tự độ chính đáng thì mới có thể độ tha chính đáng. Chúng ta tự trau dồi, thực nghiệm bản thân là điều chủ yếu của người học Phật chân chính. Chỉ có cái biết chân thật mới có thể hành động chân thật. Trong số đông quần chúng là nhân dân lao động, trí thức, khoa học, gắn liền với sự đóng góp thiết thực, thích nghi vào cuộc sống xây dựng đất nước. Cho nên người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, hạng tại gia cư sĩ là ở trong những thành phần nêu trên, với điều kiện và thời gian có được, chúng ta nên tập trung vào mặt tu thiện và hành thiện phù hợp với phạm vi tu học thực hành của giới cư sĩ. Việc tu hành không thể tách rời ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội, nên việc hộ pháp của cư sĩ chúng ta là việc bảo tồn phẩm chất tín ngưỡng trong sáng nơi cảnh thiền môn, đồng thòi là việc phát huy tác dụng của đaọ vào cuộc sống quần chúng thăng tiến. Chúng ta tụng niệm, lễ bái, tiếp thu giáo lý là để cải hóa thân tâm, tăng cường trí dũng, tạo được nhiều cống hiến đích thực làm cho đất nước phát triển, dân tộc thăng hoa. Tu thiện và hành thiện của người cư sĩ tại gia ngày nay là ý nghĩa thực tiễn làm tỏa rộng sáng tươi cuộc sống nhân gian, xóa sạch mọi hình thái tàn dư mê hoặc độc hại mượn danh Phật giáo vào những mưu đồ bất chánh. Cung cách tùy thuận tùy duyên của đạo Phật Giáo Hòa Hảo là không ngoài sự nhận thức được chơn lý Diệt Đề và Khổ Đề “Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa. Cõi hồng trần các việc mến ưa, Sự giả tạm ta nên rứt bỏ. Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ, Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành. Lòng dục tu thì phải thiệt hành, Chớ đừng có ham điều sung sướng” (Giác Mê Tâm Kệ). Không xem khổ ải là trở ngại để trốn tránh, cũng chẳng cầu thụ chứng cảnh giới xa vời đâu khác ngoài thực tại thế gian, không tách rời đồng ưu cộng lạc với quần sanh. Của cải mà chúng ta thọ dụng là gia sản do nhiều bàn tay ân nhân trong đời nầy và nhiều đời trước tổng hợp với nhiều điều kiện mới làm ra được. Cho nên, con người đã được nuôi dưỡng hằng ngày cả thể xác lẫn tinh thần đều nhờ xã hội có sự sáng tạo ra của cải vật chất, vậy mọi người phải biết đền ơn đáp nghĩa. Sự biết ơn đó thể hiện cụ thể trong Tứ Ân mà Phật đạo đã dạy chúng ta. Hạng tại gia cư sĩ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nằm trong quần chúng nhân dân lao động về nhiều mặt, đang sống cuộc sống đồng bộ của số đông, thì nếp sống đạo của chúng ta là nếp sống đạo nhập thế, là một thực thể của xã hội với nhiều năng động tạo niềm vui trong sáng của người tín đồ biết chan hòa tình thương nhân bản, thích nghi vào mọi quan hệ trong cộng đồng xã hội. Chúng ta làm đúng đắn của người học Phật tại gia, đạo đời trọn vẹn mới xác minh được trọn vẹn vai trò của mình. Trong qúa trình chấn hưng Phật giáo từ khi Đức Tôn Sư HUỲNH GIÁO CHỦ khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, luôn gắn bó với nền văn hóa dân tộc, làm rạng rỡ lịch sử Phật giáo, hạng tại gia cư sĩ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tự hào với vai trò của mình. Ngày nay, giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo sinh hoạt trong khối đoàn kết dân tộc, tại gia cư sĩ tín đồ chúng ta vận dụng hết các mặt tinh hoa của đạo lý thành hành động hài hòa với nền văn minh tiến bộ thời đại, nâng cao phục vụ xây dựng, bảo vệ quê hương của chúng ta, vì hòa bình, bảo tồn sự tốt đẹp của loài người. Muốn có phước dầy thì không chi bằng chấp trì danh hiệu Phật, hơn hẵn công đức bố thí cả trăm năm, phát được tâm Bồ Đề rộng lớn vượt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Gieo giống Bồ Đề phải cấy bằng niệm Phật, đạo qủa tự nhiên được tăng trưởng, cởi thuyền Đại nguyện vào biển lớn Tịnh Độ Tây Phương. Nợ thế âu toan tròn nợ thế, (Tu Nhân) Đường tu sớm liệu vẹn đường tu. (Học Phật) Tỉnh Giấc Mơ. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Ngày 30-01-2018 PHAN THANH NHÀN