Bồ Tát HUỲNH PHÚ SỔ và Phật Giáo Thời Ðại Ts.Lê Hiếu Liêm Chương một: Dẫn nhập Việt Nam và Phật Giáo đầu thế kỷ hai mươi. Đầu thế kỷ 20, tư tưởng Nho Giáo, thống trị độc tôn đất nước từ Thời Hồ Quý Ly, nhà Lê và nhà Nguyễn suốt 400 năm, hoàn toàn sụp đổ. Tư tưởng Phật Giáo, ngự trị vinh quang trong thời đại Lý Trần từ thế kỷ thứ 11 đến cuối thế kỷ 14, suy đồi tận gốc. Tư tưởng Tây Phương và tôn giáo của nó, Thiên Chúa Giáo La Mã, bị đại đa số trí thức và nhân dân coi như sản phẩm và công cụ của chế độ Thuộc địa và thực dân Pháp nên vẫn không được chấp nhận. ý thức hệ Cộng Sản cũng như các tư tưởng mới khác chưa ra đời. Cả một khoảng trống tư tưởng, cũng có nghĩa là một khoảng trống tôn giáo và chính trị, to lớn bao trùm trên một nước Việt Nam bị nô lệ, bóc lột, áp bức, lạc hậu và nghèo đói. Nhưng đây cũng là môi trường lý tưởng cho sự ra đời của những tư tưởng mới, những tôn giáo mới, những chính đảng mới và những phong trào mới: Phong trào đông Du và Việt Nam Duy Tân Hội của Phan Bội Châu từ năm 1904, đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can và các nhà Nho tiến bộ năm 1907, tư tưởng dân quyền và dân chủ của Phan Chu Trinh suốt hai mươi năm (1905-1925), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội cùng năm, Việt Nam Quang Phục Hội năm 1912, cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ và ở Huế năm 1916 của Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, vua Duy Tân..., phong trào Hội Kín ở miền Nam năm 1913-1916 lan rộng khắp Lục Tỉnh và cuộc tấn công Sài Gòn năm 1916. Các hoạt động này đã liên tục diễn ra từ đầu thế kỷ 20 đến cuối đệ nhất thế chiến. Tuy nhiên mãi đến đầu thập njiên 20 Việt Nam mới thật sự thức dậy với sự ra đời Việt Nam Thanh Niên Cách mạng đồng Chí Hội và Tân Việt Cách Mạng đảng năm 1925, đạo Cao đài năm 1926, Việt Nam Quốc Dân đảng năm 1927, Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự ra đời của đảng Cộng Sản đông Dương năm 1930 và phong trào Sô Viết Nghệ Tỉnh 1930-1931. Trong thời gian sôi động này, từ 1925 trở đi, Phật Giáo cũng đã thức dậy. Từ năm 1923, thiền sư Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu đã thành lập, tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, Hội Lục Hòa Liên Hiệp với mục đích vận động thành lập một Hội Phật Giáo Việt Nam toàn quốc để chấn hưng Phật Giáo. Thiền sư Thiện Chiếu, khác hẳn tất cả tăng sĩ Phật Giáo đương thời, là một tăng sĩ có tân học. ông đã đi ra Trung và Bắc vận động thống nhất Phật Giáo năm 1927 nhưng bất thành. Năm 1928 thiền sư Khánh Hòa xây dựng Thích Học đường và Phật Học Thư Xã tại Chùa Linh Sơn, Sài Gòn và năm 1929 ông cho ấn hành tạp chí Viên âm, tập san Phật Học đầu tiên bằng quốc ngữ tại Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Xoài Hột, Mỹ Tho. Cùng thời, thiền sư Thiện Chiếu xuất bản một tạp chí Phật Học nhắm vào giới thanh niên trí thức lấy tên là Phật Hòa Tân Thanh Niên, đặt tòa soạn tại chùa Chúc Thọ ở Gia định. Năm 1931 thiền sư Khánh Hòa cùng nhiều tăng sĩ và cư sĩ thành lập Hội Phật Học đầu tiên tại Việt Nam, lấy tên là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và thiền sư Từ Phong được mời làm Chánh Hội Trưởng. Hội ra tờ Từ Bi âm năm 1932. Thiền sư Khánh Hòa, cùng người cộng sự thân tín là thiền sư Thiện Chiếu đã đóng vai trò tiền phong khai mở phong trào chấn hưng Phật Giáo và hiện đại hóa Phật Giáo, chuyển động sâu rộng lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam trong suốt 65 năm qua. Tại miền Trung, thiền sư Giác Tiên mở Phật Học đường tại chùa Trúc Lâm năm 1929 và ủy thác cho đệ tử là bác sĩ Lê đình Thám thành lập Hội An Nam Phật Học năm 1932. Hội quy tụ đông đảo những danh tăng và cư sĩ trí thức tại miền Trung. Cư sĩ Lê đình Thám được bầu làm Hội Trưởng và vua Bảo đại được mời làm Hội Trưởng Danh Dự. Hội ra tạp chí Phật Học Viên âm năm 1933. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên, cư sĩ Lê đình Thám... đã thành lập Trường An Nam Phật Học, trong đó có mở cấp đại Học Phật Giáo. đặc biệt hơn nữa là Hội đã phát động phong trào "Chỉnh Lý Tăng Già" rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. Chính nhờ những nổ lực cấp tiến này mà Phật Giáo miền Trung đã đóng được một vai trò quan trọng trong những thập niên sau đó. Năm 1934 các thiền sư Trí Hải, Tâm ứng, Tâm Bảo cùng với giới cư sĩ trí thức tên tuổi tại Hà Nội như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Hữu Kha, Bùi Kỷ, Lê Dư... thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, bầu cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng và suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ. đặc biệt là trong buổi lễ suy tôn Pháp Chủ này, cư sĩ Trần Trọng Kim đã thuyết pháp về đề tài; "Thập Nhị Nhân Duyên". Hội ra tạp chí đuốc Tuệ năm 1935 và phát triển mạnh mẽ khắp miền Bắc (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 3, t 51-173). đặc tính của cả ba Hội Phật Học tại ba miền là vai trò nổi bật của giới trí thức cư sĩ, là thuần túy Phật học và sinh hoạt Phật sự. Thời điểm 1925-1945 là thời điểm chuẩn bị trong kiên nhẫn và thầm lặng. Các hội Phật Học đã làm đúng chức năng và vai trò lịch của mình, một cách khiêm tốn, từ đống gạch vụn đổ nát của nền Phật học và Phật Giáo Việt nam trong thời Thực Dân Pháp thống trị. Trong thời kỳ này xuất hiện những con người đặc biệt, xuất sắc và những tư tưởng mạnh mẽ, quyết liệt, trong Phật Giáo cũng như ngoài Phật Giáo. Từ đầu thập niên 30, tư tưởng Phật Hộc của Thích Thiện Chiếu đã là những quả bom chấn động. Và năm 1939 Huỳnh Phú Sổ xuất hiện làm một cuộc cách mạng tôn giáo, cải cách toàn bộ và triệt để Phật Giáo chưa từng có trong hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Miền Nam, một vùng đất lạ lùng và kỳ diệu... An Hòa Tự Phan Chu Trinh từ Pháp trở về Sài Gòn năm 1925, đất nước bùng lên những làn sóng tư tưởng dân quyền và dân chủ. ông khẳng định phải tìm nguyên nhân mất nước trong sự mất đạo đức, mất luân lý, trong bài diễn thuyết đạo đức và Luân Lý đông Tây, và ông cũng khẳng định chế độ quân chủ chuyên chế là nguyên nhân chính làm mất nước trong bài thuyết giảng Quân Trị Chủ Nghĩa và Dân Trị Chủ Nghĩa tại Sài Gòn năm 1925. ông mất năm sau đó và đám tang ông cùng với cuộc vận động ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã khơi bùng phong trào yêu nước và yêu tự do dân chủ trên toàn quốc, đặc biệt là trong giới thanh niên. Nhưng dữ dội, bốc lửa và sấm sét trong tư tưởng yêu nước chống thực dân cũng như tư tưởng tự do dân chủ, trong thời này, chỉ có Nguyễn An Ninh là đi xa nhất, quyết liệt nhất. Là một thanh niên miền Nam, ông đi du học ở Pháp và trở về nước với bằng cử nhân Luật. Lợi dụng quy chế thuộc địa của Nam Kỳ, nơi mà báo chí bằng tiếng Pháp được tự do, không bị kiểm duyệt, ông ra tờ La Cloche fèlèe (Tiếng Chuông Rè) từ năm 1923 đến năm 1926. ông tự xưng tờ báo của ông là "cơ quan tuyên truyền tư tưởng Pháp", lấy tư tưởng của kẻ xâm lăng để đập những nhát búa tạ vào chế độ Thực Dân, đồng thời tờ báo cũng tự nhận là "cơ quan chuẩn bị cho tương lai dân tộc". Thật là độc đáo và tuyệt vời. Ngoài việc phê bình kịch liệt, thẳng tay chính sách và chế độ thực dân, ông cổ võ cho việc đào tạo một tầng lớp thanh niên Việt Nam tân học, có văn hóa, có lý tưởng, có chí khí, có năng lực và có tổ chức và ông tuyệt đối tin vào sức mạnh và vào tương lai của nhân dân Việt Nam. ông chủ trương một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc và trở về lịch sử dân tộc để tìm niềm tin và sức mạnh. ông hô hào, khi chỉ mới ngoài 20 tuổi, "Chẳng những phải duy trì những giấc mộng vĩ đại, mà còn phải tổ chức thành một nhóm quan trọng để chuẩn bị cho tương lai". Không những tư tưởng táo bạo, độc đáo, mới lạ, kiến thức của ông cũng rất uyên bác. Khi Thống đốc Nam Kỳ tuyên bố: "Xứ này không cần trí thức". ông đã viết bài trả lời bốc lửa: "... Những thảm khổ của chúng ta ngày nay, còn gì nữa, đúng là do tổ tiên của chúng ta đã sờ mó vào cây kiến thức. Hạng trí thức đã làm đảo lộn thế giới, làm hư hỏng hạnh phúc của thế giới. Hãy nguyền rủa tên tuổi của Prométhé, kẻ đã lấy trộm chút lửa của Trời. Hãy nguyền rủa con người đã bày ra cái ná cao su cho trẻ con bắn đá vào trán ông khổng lồ... Trí Tuệ, đó là cái tai hại. Trí tuệ, đó là con rắn cuốn quanh thân cây đã làm cho chúng ta vĩnh viễn mất cõi thiên đường... Nói đến vai trò giáo dục, vai trò văn minh của các ông chủ xứ đông Dương này, thưa các ông, điều ấy làm ta mỉm cười... Người ta đã quỳ lụy bái phục những vị "đem ánh sáng tới", những vị "làm điều kỳ diệu ở Ấu Châu"... Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là, chỉ trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ trí thức của người Nam đã thấp đi lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể, trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn". (Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, q2, t 311). Nguyễn An Ninh cũng là một trong những nhà trí thức tân học đầu tiên nghiên cứu Phật Học và hoàn thành một tác phẩm Phật Học quan trọng, cuốn "Phê Bình Phật Giáo". Sau thời kỳ hoạt động sôi nổi từ 1923 đến 1926, Nguyễn An Ninh bị ở tù trong thời gian 1926-1927, sau đó ông về nghiên cứu Phật Giáo. Trên bàn làm việc của ông, có một cái chuông, một cái mõ, ông cạo trọc đầu và đi chân không. ông nghiên cứu Phật Giáo qua tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng đức và các hoạt động Phật Giáo trong nước. Cuốn Phê Bình Phật Giáo xuất bản năm 1937 là kết quả của sự nghiên cứu này. Tựa đề của cuốn sách, 70 năm sau cũng không có ai dám viết một cuốn sách Phật Học có tựa đề thách thức và can đảm như vậy. Mục đích và phương pháp luận còn mới lạ, táo bạo hơn, đó là "so sánh Phật Giáo với thời đại của nó để chỉ chỗ hay, chỗ đúng hơn của nó đối với các thuyết khác và so sánh Phật Giáo với thời đại này để chỉ sai lầm của Phật Giáo". Tác phẩm này được giới trí thức, giới chính trị cũng như giới Phật Giáo chú ý đặc biệt. Nhưng không gây sóng gió và tranh luận suốt nhiều năm trời như những tác phẩm của Thích Thiện Chiếu. đối với Tăng, Ni, Phật Tử thập niên 30, những tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu là những tiếng sét ngang tai. Ngày nay đọc lại, chắc chắn quý vị tăng sĩ, cư sĩ và Phật Tử cũng không khỏi giựt mình, chấn động và suy nghĩ. Những tư tưởng này, được viết từ thập niên 30, ngày nay, cuối thập niên 90, vẫn còn mới, còn táo bạo, còn chứa đầy sức nặng của đá tảng và sức nổ của sấm sét. Thích Thiện Chiếu là tinh hoa sáng chói của Phật Giáo trong thập niên 20, 30. ông đã đi tiền phong trong mọi lãnh vực chấn hưng và hiện đại hóa Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 này. Ta phải đứng trên một đỉnh núi cao, mới hy vọng nhìn thấy những cái gì chưa ai nhìn thấy, những cái gì nằm khuất sau dãy núi cao. đó có thể là những dãy núi cao hơn, hay là một đại dương mênh mông hay là một bình nguyên rực rỡ. Thích Thiện Chiếu là một ngọn núi cao của Phật học và Phật Giáo Việt Nam trước đệ nhị thế chiến. Ta hãy đứng trên đỉnh núi cao ngất, hùng tráng này để nhìn rõ một đỉnh núi cao ngất, hùng vĩ khác, là Cư sĩ, Bồ Tát, Giáo Chủ Huỳnh Phù Sổ. A/ Cuộc đời và hành trạng của Thiền Sư Thích Thiện Chiếu. Cuộc đời cũng như tư tưởng của thiền sư Thích Thiện Chiếu thật là lạ lùng, độc đáo. Theo cuốn Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, quyển ba, của Nguyễn Lang, thì ông sinh năm 1898 ở Gò Công, tên đời là Nguyễn Văn Sáng, có lúc thì tên Nguyễn Văn Tài, bí danh là Xích Liên (bông sen đỏ). ông gần gủi với Phật Giáo từ khi ông tám tuổi qua ông nội là thiền sư Huệ Tịnh, trú trì chùa Linh Tuyên, tỉnh Gò Công. Thiện Chiếu tinh thông chữ Nho khi còn nhỏ và cũng đọc được sách bằng tiếng Pháp. Năm 21 tuổi ông lên Sài Gòn học thêm và đến năm 28 tuổi, năm 1926, ông làm trú trì, thật ra thì làm giáo thọ có lẽ đúng hơn, chùa Linh Sơn tại Sài Gòn. ông đọc được nhiều "tân thư"của Trung Hoa, sách Pháp ngữ nên ngoài Phật Học, ông là một trong những tăng sĩ hiếm hoi lúc đó biết rõ tình hình chấn hưng Phật Giáo tại Trung Hoa, các tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa và tình hình thế giới. Là một thanh niên trí thức tinh thông Hán học, Phật học lại biết thêm tân học, xuất thân từ một gia đình Phật Giáo có ông nội là thiền sư Huệ Tịnh rất tinh thâm Nho học nên ông đã dễ dàng tạo những quen biết thân tình, có tính cách tri kỷ, với các danh tăng đương thời như Tổ Khánh Hòa, sáng lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, thiền sự Trí Thiền, cố vấn của Hội Phật Học này. ông là một trong những người đi đầu, nhiệt tình nhất hăng hái nhất, tích cực nhất, trong phong trào chấn hưng, hiện đại hóa và thống nhất Phật Giáo Việt Nam cận đại. Tấm lòng của ông đối với đạo Phật đang suy đồi, đen tối thật là thiết tha. Và đồng thời tấm lòng ông đối với đất nước đang bị ngoại bang đô hộ, dày xéo, thật là sôi nổi, cuồng nhiệt. Năm 25 tuổi, năm 1923, ông đã sát cánh với thiền sư Khánh Hòa, cùng với các danh tăng đương thời như Khánh Anh, Huệ Quang, Pháp Hải, thành lập Hội Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam là Hội Lục Hòa Liên Hiệp, ông đã đi khắp Nam, Trung, Bắc để vận động thành lập một hội Phật Giáo toàn quốc. ông đóng góp đắc lực vào việc xây dựng những cơ sở hiện đại đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam trong việc hệ trọng là đào tạo tăng tài và hoằng pháp như Thích Học đường và Phật Học Thư Xã năm 1928, cả hai cơ sở này đều đặt trụ sở ở chùa Linh Sơn nơi ông làm giáo thọ. Năm 1929 ông cùng Tổ Khánh Hòa vận động mua cho Thư Xã bộ Tục Tạng Kinh 750 tập. ông cũng góp phần quan trọng trong việc xuất bản tờ báo Phật Giáo đầu tiên tại Việt Nam là tờ Pháp âm, số ra mắt ngày 13-08-1929. Chính ông sau đó ra tạp chí Phật Học thứ nhì tại Việt Nam, và hết sức mới lạ, so cả với bây giờ, là tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên, nhắm tới giới thanh niên trí thức. Có lẽ tờ bào này đã gieo những hạt nhân cho giới thanh niên trí thức, cư sĩ cũng như tăng sĩ đương thời, từ đó hình thành Tổ Chức Gia đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Tổ Chức Gia đình Phật Tử Việt Nam (nhưng tờ báo vừa ra đã bị Thực Dân Pháp đóng cửa). Chắc hẳn ông cũng là một trong những nguyên nhân xúc tác việc thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học nhưng là một thanh niên trí thức yêu nước cuồng nhiệt, ông chắc hẳn đã hết sức bất bình khi Hội này mời Thống đốc Nam Kỳ làm hội trưởng danh dự và Hội bị những phần tử thân Pháp khuynh loát. Không những Thiện Chiếu mà người sáng lập ra nó là Thiền Sư Khánh Hòa cũng phải thất vọng và ra đi: ông rút về chùa Long Hòa, tổ chức một Phật Học đường lưu động lấy tên là Liên đoàn Phật Học Xã và thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật Học tại Trà Vinh, cuối cùng giấc mơ của Tổ Khánh Hòa được thực hiện: Phật Học đường Lưỡng Xuyên (Lưỡng Xuyên có nghĩa là "hai con sông", sông Tiền Giang và sông Hậu Giang) được chính thức khai mạc vào cuối năm 1934. (Nguyễn Lang, sđd, t 59). Trong thời gian này, thiền sư Thiện Chiếu cư trú ở chùa Hưng Long, Chợ Lớn. ông không những bất mãn với những cư sĩ quan chức của Pháp như ông Trần Nguyên Chấn, người chủ chốt của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, ông còn bất mãn với sự cổ hủ, lạc hậu và bảo thủ của Phật Giáo và của đạ đa số tăng sĩ đương thời, kể cả với Thiền Sư Khánh Hòa. ông viết những bài báo nóng bỏng, sôi động, đả kích mạnh mẽ tình trạng Phật Giáo và Phật Học đương thời, đồng thời bỏ công sức viết và tự xuất bản khoảng mười cuốn sách Phật Học, đa số đều gây chấn động và những cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng, vừa bất đắc chí với giới tăng già và tình trạng bảo thủ, lạc hậu của Phật Giáo, vừa thất vọng vì thấy phật Giáo bất lực không giải quyết được vấn đề xã hội và đất nước, và vừa do tấm lòng ái quốc chống Pháp, chống Thực Dân cuồng nhiệt, nên ông cởi áo tăng sĩ, bỏ chùa Hưng Long trở về cuộc đời cư sĩ và ở nhà một người bạn cư sĩ ở Gò Vấp. Năm 1936, ông về Rạch Giá tiếp tục hoạt động mạnh mẽ trong hàng ngũ Phật Giáo, theo một khuynh hướng tiến bộ, hoàn toàn khác biệt với các sinh hoạt Phật Giáo đương thời. Tại đây ông cùng thiền sư Trí Thiền lập Hội Phật Học Kiêm Tế, lấy chùa Tam Bảo ở làng Vĩnh Thanh Vân làm trụ sở. Hội ra tạp chí Tiến Hóa năm 1938. Hội Phật Học Kiêm Tế không những chỉ là hội nghiên cứu và truyền bá Phật Pháp (Phật Học) mà còn là hội cổ võ và thực hành kinh bang tế thế nữa (Kiêm Tế). Hội thành lập một cô nhi viện Phật Giáo đầu tiên tại Việt Nam, cứu trợ nạn nhân bảo lụt ở Rạch Giá. Như con người Thiện Chiếu, tạp chí Tiến Hóa tuyên bố không những "tuyên truyền"cho Phật Học mà còn "truyên truyền cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm chúng sanh khỏi khổ được vui". Không những thế, những học thuyết nào có tính cách từ bi bác ái đều được Tiến Hóa công nhận là Phật Pháp. Tiến Hóa chủ trương một đường lối triệt để cách mạng, vô cùng mới mẻ và táo bạo và gây sóng gió trong giới tăng già, có người quy kết Tiến Hóa là Cộng Sản và thân Nhật nhưng Hội Phật Học Kiêm Tế được nhiều người ủng hộ trong đó có danh tăng Trí Thiền (Cố Vấn Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học). ông đã làm giấy cúng hết tài sản chùa cho Hội như là sự bày tỏ cụ thể và triệt để sự ủng hộ của ông. đường lối cách mạng cấp tiến của những người lãnh đạo Hội Phật Học Kiêm Tế biến chùa Tam Bảo thành một trung tâm quy tụ những nhà ái quốc chống Pháp như cử nhân Hán học Vũ Ngọc Hoành, một cán bộ của Phong Trào đông Kinh Nghĩa Thục, đưa chùa Tam Bảo trở thành một chiến khu bí mật chống Pháp. Cuối năm 1939 chùa Tam Bảo bị đóng cửa, Thực Dân Pháp tố cáo trong chùa có chứa vũ khí và chế tạc đạn, thiền sư Trí Thiền và nhiều người khác bị bắt và bị đày đi Côn đảo. ông, một cao tăng vì yêu nước chống Pháp, đã hy sinh trong nhà tù Côn đảo. Trong vụ bố ráp chùa Tam Bảo, thiền sư Thiện Chiếu là lý thuyết gia của nhóm, chính ông đã đem tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa truyền bá tại đây, đã may mắn trốn thoát. Từ đó ông không còn sinh hoạt trong hàng ngũ Phật Giáo và thoát ly theo hẳn con đường kháng chiến chống Pháp. ông tham gia phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa do đảng Cộng Sản đông Dương phát động ở Hốc Môn, Bà điểm. Năm 1942, ông bị mật thám Pháp bắt được, đày đi Côn đảo. ông bị Thực Dân Pháp tra tấn đến bại xuội. Sự tra tấn, tù đày dã man của Thực Dân chỉ làm con người đại hùng đại lực của ông thêm sắc đá, cứng rắn và kiên định trong lý tưởng cách mạng. Mặc khác ở Côn đảo gần 9/10 tù nhân chính trị là tù nhân Cộng Sản nên có lẽ trong thời gian tù đày này, ông đã tham gia vào đảng Cộng Sản đông Dương. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, ông trở về đất liền tiếp tục hoạt động. Năm 1954 ông đi tập kết ra Bắc. Năm 1956 ông qua Trung Hoa làm trưởng tổ ban phiên dịch của nhà Xuất Bản Ngoại Văn ở Bắc Kinh. Năm 1961 ông trở về Hà Nội làm ở Viện Triết Học. Năm 1965 ông về hưu trí và mất ở Hà Nội ngày 6/7 âm lịch năm 1947, thọ 74 tuổi. (NL, sđd, t 64-76). Con người tăng sĩ và cư sĩ Thích Thiện Chiếu trong thời gian còn mang lý tưởng phụng sự Phật Giáo và Dân Tộc, lấy thời điểm ông làm giáo thọ chùa Linh Sơn, Sài Gòn, năm 1926, đến khi chùa Tam Bảo, Rạch Giá bị Thực Dân Pháp càn quét năm 1939, chỉ trong 13 năm, ngoài vô số hoạt động hăng hái, tích cực nhất trong giới Phật Giáo thời đó và ngoài những bài báo bốc lửa, vũ bão, ông đã viết và xuất bản hơn 10 tác phẩm, tác phẩm nào cũng giá trị, mới lạ và sôi nổi, đó là các tác phẩm: Phật Học Vấn đáp, Phật Hóa Tân Thanh Niên, Cái Thang Phật Học, Phật Học Tổng Yếu, Phật Pháp là Phật Pháp, Tranh Biện, Tôn Giáo, Tại Sao Tôi Cám ơn đạo Phật và các công trình dịch Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Cú, Phật Giáo Vô Thần Luận của Thái Hư. Kể từ năm 40 trở đi, khi ông tham gia Nam Kỳ Khởi Nghĩa và thoát ly trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp, và ông không còn sinh hoạt trong hàng ngũ Phật Giáo, cho đến khi ông mất năm 74, tổng cộng 34 năm, không thấy ông để lại tác phẩm gì. Có lẽ trong thời gian tập kết ra Bắc, ông cũng như những người kháng chiến yêu nước khác, Phật Giáo hay không Phật Giáo, đã hoàn toàn vỡ mộng và đã bị kềm chế, không thể hoạt động gì và cũng không thể viết lách, sáng tác gì cả. được biết trong thời gian ở miền Bắc ông đã tỏ ra bất mãn với chế độ. ông thất vọng và đau đớn vì những người đồng chí mới của ông - những người Mác Xít – đã đàn áp, bóp nghẹt Phật Giáo. Nhưng dù sao phần đời của ông, hiến dâng cho lý tưởng giái phóng dân tộc, từ năm 1940 trở đi, đã thuộc về dân tộc, về lịch sử và tôi cúi đầu khâm phục, không phê phán, trước sự hy sinh cao quý, vĩ đại, của ông và của thế hệ ông cho sự nghiệp kháng chiến cứu quốc khỏi ách thống trị tàn ác của Thực Dân Pháp, trong một hoàn cảnh lịch sử bế tắc và mù mịt. ở đây, ta chỉ nhìn lại và phê bình tư tưởng Phật Học của ông, từ năm 1923, khi ông cùng thiền sư Khánh Hòa lập Hội Lục Hòa, cho đến năm 1939 khi tất cả đồng chí Phật Giáo của ông trong Hội Phật Học Kiêm Tế, tăng sĩ cũng như cư sĩ, đã bị quân xâm lăng bắt giữ, tra tấn, tù đày. ở Thích Thiện Chiếu, con người yêu đạo Pháp thiết tha và con người yêu quê hương sôi nổi đã hòa nhập làm một bất khả phân ly. ở ông, con người lý tưởng lý thuyết sâu sắc nhưng bốc lửa và con người hành động, dấn thân kiên trì, cuồng nhiệt cũng là nhất quán và không thể tách rời. Phật Giáo Việt Nam có hàng chục ngàn tăng, ni và hàng triệu, triệu Phật Tử, thế nhưng 70 năm qua đã có mấy tăng sĩ hay cư sĩ Việt Nam chịu khó viết hơn 10 cuốn sách? và đã có mấy ai có một cuộc đời tuổi trẻ hào hùng, đáng sống như ông? Trình bày và phê bình tư tưởng Phật Học của Thích Thiện Chiếu cũng có nghĩa là trình bày và phê bình tư tưởng Phật Học của những đồng chí cùng thời với ông. Tôi vừa hổ thẹn, vừa hãnh diện khi làm công việc này. Hổ thẹn vì tư tưởng của Thích Thiện Chiêéu và của một số tăng sĩ, cư sĩ thời đó còn táo bạo hơ là tư tưởng của chính tôi ngày nay, và hãnh diện vì, từ lâu tha thiết với việc hiện đại hóa Phật Giáo, tôi không ngờ cách đây 6, 7 chục năm mà Phật Giáo Việt Nam đã có những tư tưởng mới lạ, tiến bộ như thế và những con người tài giỏi cấp tiến và xứng đáng như thế. Tuy nhiên, trong hàng ngũ Phật Giáo Việt Nam, chỉ có một số ít chấp nhận tư tưởng cấp tiến của Thích Thiện Chiếu. Hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam quả thật vừa là một di sản vô giá, vừa là một gánh nặng ngàn cân.
B/ Tư tưởng Phật Học của Thiền Sư Thích Thiện Chiếu và của các bạn cùng lý tưởng. Từ năm 1932, khi mà chủ nghĩa Mác Xít cả nước chưa có được mấy người biết đến, khi mà đạo Thiên Chúa cũng chưa mấy ai trong giới thanh niên trí thức quan tâm dòm ngó đến, khi mà Phật Giáo toàn quốc đang ngủ say, "tiếng thở như sấm", nói theo chữ của Phan Chu Trinh, thì trong cuốn sách Phật Giáo Vấn đáp, Thiện Chiếu đã cho nổ những quả bom tư tưởng mới lạ và táo bạo: "đau đớn thay, lạ lùng thay. Muốn bênh vực rằng Phật Giáo không phải là một đạo mê tín hoang đường thì sờ sờ ra đó biết bao nhiêu là chuyện huyền hoặc dị đoan. Muốn bào chữa cho Phật Giáo không phải là một đạo hữu thần, thì nhan nhãn ra đó cũng cầu xin, cũng chuộc tội, có khác nào những kẻ ỷ lại thần quyền. Muốn khoe Phật Giáo là một đạo cứu đời thì hàng Phật Tử nếu không phải chán đời mà lên non ẩn hạng ắt cũng ích kỷ chỉ lo quanh quẩn trong gia đình chớ không biết gì đến công ích của xã hội cả. Muốn nói Phật Giáo là là đạo thoát khổ, thì người theo đạo cũng buồn rầu khiếp sợ, cũng theo hoàn cảnh mà đổi dời, cũng cực khổ lầm than, chỉ cứ trông đợi kiếp sau chớ không biết ra tay mà cải tạo. Như vậy bảo sao Phật Giáo không tiêu diệt theo các tôn giáo khác trước khi thế giới đại đồng cho được? Thế thì người có nhiệt tâm với Phật Giáo, hay nói cho đúng, là người có nhiệt tâm với nhân loại quần sanh, phải lo tìm phương bổ cứu duy trì, hay chỉ khoanh tay ngồi ngó và than vắn thở dài mà thôi? Nếu thiệt có lòng bổ cứu duy trì Phật Giáo là một chiếc thuyền tế độ ở giữa biển khổ sông mê, không nỡ để cho tiêu diệt theo các tôn giáo khác, thì chẳng những giáo hội (hay hạng người xuất gia) phải nghiên cứu Phật Học, phát dương những ý hay nghĩa lạ ra cho thích hợp với nhu cầu của nhơn sanh, dẹp bỏ hết các việc mơ hồ trái lẽ, chớ quá chấp nê theo hủ tục, mà tín đồ (hay hạng người tại gia) cũng phải làm cho tròn cái bổn phận của một người tín ngưỡng Phật Giáo, một cách chơn chánh, cũng phải kiểu chánh lại những chỗ sai lầm của giáo hội (vì giáo hội hiện thời là một giáo hội hư hèn, không có trật tự) chớ nên vì ý riêng, vì tình cảm mà chia bè lập đảng, tin bướng theo càn. được như vậy thì cái yến sáng Phật Giáo mới mong chói lọi ở đại đồng thế giới sau này" (Nguyễn Lang, Sđd, t 72). Rõ ràng ông là một người chủ trương cải cách, chấn hưng Phật Giáo hăng say, cuồng nhiệt nhất thời đó. Dám đụng độ vào giới tăng sĩ, chê các Thầy, các bạn đồng môn đồng lữ của mình là "hư hèn, không có trật tự", ông còn dám đập thẳng vào giới trí thức Phật Tử quy tụ khá đông đảo trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Trong sách nói trên, ông chê trách "nghiên cứu" của Hội này không phải là thứ nghiên cứu đứng đắn: "Nói rằng nghiên cứu là phải lấy phương pháp thiệt nghiêm của khoa học làm căn bản, lấy sự thiệt trên lịch sử làm chứng cớ, thì mới có thể phát huy nghĩa mầu trong sách Phật, và mới tránh khỏi những hoang đường vô lý do người sau thêm vào, chớ không phải cứ theo sách mà dịch càn rồi cũng xưng là nghiên cứu Phật học. Và phải làm thế nào cho tín đồ có sự hiểu biết thông thường về Phật Giáo thì người ta mới biết cái bổn phận của người tại gia, mới biết chỗ sai lầm của giáo hội" (NL, sđd, t 73). Không những là một tăng sĩ trẻ cấp tiến, ông còn là một thanh niên trí thức yêu nước mãnh liệt. Ngay từ những năm 1925, 1926 nhân có những buổi diễn thuyết của Nguyễn An Ninh, của Phan Chu Trinh, hay đi đám tang Pha Chu Trinh, theo Trần Văn Giàu, trong cuốn Sự Phát Triển Của Tư Tưởng ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám, quyển hai, thì những dịp này có "hàng chục cái đầu thanh niên cạo bóng" tham dự hay "hôm đi rước Bùi Quang Chiêu (lãnh tụ đảng Lập Hiến từ Pháp trở về) có hơn 20 ông sư trẻ. Bị chất vấn "ai xui thầy chùa đi biểu tình", giáo thọ Thiện Chiếu thuộc chùa Linh Sơn đã viết bài trả lời trên báo rằng: "Thuyết Từ Bi cứu khổ của Phật Tổ xui Phật Tử tham gia những cuộc vận động yêu nước thương dân chớ không ai xui cả" (trang 230). Từ rất sớm, khi trên dưới 25 tuổi, đại đức Thiện Chiếu đã dán hai câu đối ngang tàng, hào hùng ngay trên cửa chính của chùa Linh Sơn, nơi ông làm giáo thọ: "Phật Pháp thị nhập thế phi nhi yếm thế Từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh". (đạo Phật là nhập thế chớ không phải yếm thế Từ bi có lúc phải sát sinh để cứu độ chúng sinh). Thiện Chiếu không đơn độc. Những người có ý thức, tăng sĩ cũng như cư sĩ trong thời của ông, cũng đã mạnh dạn lên tiếng báo nguy về tình trạng suy đồi của Phật Giáo và vận động chấn hưng Phật Giáo. Cư sĩ Khánh Vân đã viết bài: "Phật Giáo ở nước ta vì đâu chịu cái hiện trạng suy đồi?" đăng trong tạp chí Duy Tâm số 18 khẳng định con người suy đồi nhưng Phật Pháp vẫn còn giá trị, Phật Giáo suy đồi vì tăng sĩ không hiểu đạo Phật và khinh thường giới luật: "Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngãi, luyện roi thần, làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, khi ông lên lúc bà xuống, ngáp vắn ngáp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra là lợi dụng lòng mê muội của thiện nam tín nữ, mở rộng túi tham quơ vét cho sạch sành sanh. Than ôi, họ phải ma vương sao mà làm chuyện trò cười cho ngoại đạo? Vậy mà cũng lên mặt trụ trì. Hiện trạng như thế bảo sao chẳng suy đồi, làm tấm bia cho các nhà duy vật mỉa mai? ". Trong báo đuốc Tuệ số 178, Thanh Quang kể các khuyết điểm của tăng đồ về văn hóa, giáo dục, tổ chức, rồi kết luận: "đau đớn thay, xứ ta những hạng người xuất gia vào chùa phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này mai lãnh đám khác, cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của mà xem thì có khác nào người trần tục? " (TVG, sđd, t 230-235). Viên âm, tạp chí của Hội An Nam Phật Học với những cư sĩ trí thức có Phật học và tân học vững chãi như bác sĩ Lê đình Thám đã nêu lên ba mục tiêu của sự chấn hưng Phật Giáo: "Vì sự tấn hóa của trí thức người xứ ta về mặt luân lý, vì khoa học tuy đánh đổ sự mê tín nhưng tự mình không có năng lực tạo thành hạnh phúc cho nhân loại, vì phải có một đạo lý vững vàng để làm cho khoa học phục tỉnh, để đào tạo đức tính của loài người". Tóm lại Viên âm cho rằng sự tiến hóa trí thức, đạo đức của người Việt Nam ngày nay đòi hỏi phải chấn hưng Phật Giáo. Viên âm có tham vọng đem đạo Phật bổ túc cho khoa học để mang lại hạnh phúc cho con người. (NL, sđd, t 31-350. Một cách tổng quát, phong trào chấn hưng Phật Giáo đầu thập niên 30 cho đến giữa thập niên 40 trên cả ba miền Nam, Trung, Bắc đều nhắm đến những mục đích sau: - Thứ nhất là truyền bá đạo Phật, về căn bản đã thất truyền, bằng quốc ngữ và thật sự đã thành công hơn bao giờ hết trong việc mang đạo Phật đến quảng đại quần chúng. Vì ngay cả trong những thời hưng thịnh, đạo Phật chỉ được truyền bá, nghiên cứu bằng chữ Nho nên rất giới hạn. Thời đó, ngay từ năm 1935 trên các nhật báo đã có trang Phật Học, ngoài hơn 10 tạp chí Phật Học được phát hành trong nước. Và rất nhiều kinh sách bằng hán văn đã được dịch và phát hành, dù rằng việc Việt hóa nghi lễ, kinh sách Phật Giáo và giới thiệu một cách đầy đủ và giản dị Phật Pháp cho quảng đại quần chúng Phật Tử đến nay vẫn còn là một công việc trọng đại, to lớn cần nhiều nổ lực hơn nữa. - Thứ hai là đặt trọng tâm vào việc đào tại tăng, ni có kiến thức Phật học song song với việc "chỉnh lý tăng già". Việc này tại miền Trung đã thực hiện mạnh mẽ và khá thành công như thành lập Hội đồng Luật Sư để trừng phạt các tăng sĩ phạm giới, phân biệt hẳn thầy cúng và tăng già, cấm hẳn thầy cúng mặc áo tràng, áo nhật bình, y nâu hay y vàng, thầy cúng chỉ được mặc áo màu xám và không được ở chùa. Ngoài ra cư sĩ, Phật tử được khuyến khích tham gia vào việc "chỉnh lý tăng già" bằng cách: - không nhận người phá giới là tăng sĩ – xé bỏ những điệp quy y thọ giới do các ông thầy tu nói trên ban cho – công bố sụ phạm giới có bằng cớ của tăng sĩ – không tham gia vào những công việc không phù hợp Phật pháp – tham gia vào việc hoằng dương chánh pháp và chỉnh đốn tăng già. (NL, sđd, t 93). - Thứ ba là hiện đại hóa Phật Giáo, đem cho đạo Phật cổ truyền, một tinh thần và hình thức mới, hợp với thời đại, hợp với khoa học và nhập thế tích cực trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội. Công việc này phải nói là chưa đạt được những thành tựu đáng kể vào thời đó cũng như mãi cho đến ngày nay. vì bản chất người Việt Nam, Phật tử cũng như tín đồ các tôn giáo khác, rất bảo thủ. Cho đến nay chỉ có một ngoại lệ vượt bực và ngoạn mục trong chiều hướng này là sự xuất hiện của thiền sư Huỳnh Phú Sổ và sự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939. đây quả thật là một cuộc cách mạng trong lòng Phật Giáo Việt nam mà cho đến nay vẫn chưa được nhìn nhận và đánh giá đúng mức. - Thứ tư là tập hợp lực lượng Phật Giáo từng địa phương, từng miền thành một giáo hội Phật Giáo thống nhất trên toàn quốc. đây là công việc gian nan, lâu dài, khởi đầu từ năm 1923 với Hội Lục Hòa của Tổ Khánh Hòa và thiền sư Thiện Chiếu, mãi đến gần 30 năm sau mới thành lập được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, năm 1951, nhưng các giáo hội và hội Phật Học vẫn giữ nguyên cơ chế riêng biệt cho đến năm 1964 mới thành tựu trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (xem thêm Nguyễn Lang, sđd, t 13-177). Là một trong những người tiền phong và lãnh đạo của phong trào chấn hưng Phật Giáo, thiền sư Thiện Chiếu đã đóng góp hăng say, sôi nổi, bằng hành động cũng như bằng các tác phẩm Phật học. ông là người đầu tiên từ miền Nam ra Trung, ra Bắc để vận động thống nhất Phật Giáo. ông là người đã góp công lớn lao trong việc truyền bá đạo Phật đến giới thanh niên, trí thức. Và hơn thế nữa những tác phẩm của ông đã gây chấn động và tranh luận suốt mấy năm trời, nhờ thế Phật Giáo càng được dư luận, giới trí thức và quảng đại quần chúng quan tâm, tìm hiểu. ông cũng đã làm giáo thọ giảng dạy tăng, ni trong nhiều năm và giúp đắc lực cho Tổ Khánh Hòa thực hiện các Phật Học đường đào tạo tăng tài. ông cũng đã có những hành động mạnh mẽ trong việc chỉnh lý tăng già, phê phán triệt để "sự hư hèn" của giáo hội, của giới tăng sĩ. ông là người đầu tiên đã đặt vấn đề hiện đại hóa Phật Giáo một cách triệt để, toàn diện và cấp tiến nhất. đồng thời ông cũng là người đưa đạo Phật vào đời để cứu nước và phụng sự xã hội một cách mạnh mẽ nhất, không từ nan bất cứ việc gì, từ việc mở cô nhi viện đến việc đi biểu tình và tham gia kháng chiến chống thực dân. Nhưng hơn tất cả các điều này là ông đã vượt qua tất cả. ông viết và hành động không phải như một tăng sĩ, cũng không phải như một cư sĩ Phật tử, mà ông viết và hành động như một nhà trí thức, một con người tự do, một nhà cách mạng và một kẻ phản kháng, một kẻ nổi loạn. Và cuối cùng ông đã đập thẳng vào Phật pháp, nền tảng và yếu tính của Phật Giáo, một tôn giáo khai phóng, bao dung, phá chấp và tự do nhất trên trái đất. để rồi bị rơi ngã vào một ý thức hệ non nớt, lệnh lạc: ý thức hệ Mác Lê. 40 năm đầu tiên của đời ông, ông đã bay thênh thang, hùng tráng, như rồng, như sư tử trong một không gian mênh mong vô tận, đó là đạo Phật. Và 34 năm cuối cùng của đời ông, ông đã sống và chết uất trong một không gian tù túng, đó là chủ nghĩa duy vật Cộng Sản. Bây giờ ta hãy đọc thật kỷ để nghe, để nhìn lại những tiếng gầm dữ dội của một con sư tử và những đường bay ngang tàng của một chim phượng hoàng, trong cuối thập niên 20 đến cuối thập niên 30. Tác phẩm Phật học Tổng yếu của Thiện Chiếu, xuất bản năm 1929 đã nổi lên một cuộc tranh luận chưa từng có, kèo dài suốt 3, 4 năm trời từ năm 1929 đến năm 1932 trên các báo Trung Lập, đông Pháp Thời Báo, đuốc Nhà Nam, Thần Chung và các tạp chí Phật Học. đây chỉ là một cuốn sách nhỏ nhưng tiếng vang rất lớn, thu hút giới Phật tử và trí thức đương thời. Thiện Chiếu mở đầu tác phẩm của mình như sau: "Phật Học Tổng Yếu là một bức huyết lệ thư, một quyển sách cốt để giới thiệu với các nhà trí thức trong nước, muốn cho nhà trí thức nghiên cứu Phật học đặng làm kế tạo nhân cho Phật học giới. Phật học Tổng yếu là cuốn sách bày tỏ dị điểm của Phật giáo với các tôn giáo khác". Qua tác phẩm này cũng như nhiều tác phẩm khác, ông, lần đầu tiên tại Việt Nam, gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi về những vấn đề muôn thủa của con người và cũng là những vấn đề muôn đời của triết học và các tôn giáo, đó là các vấn đề về thượng đế, về linh hồn, về thiên đàng, địa ngục. Và ông đã đặt những nan đề triết học và thần học này ở mức độ lý luận rất cao. a/ Bác bỏ thượng đế: Hơn cả triết gia Nietzsche tuyên bố thượng đế đã chết, Thiện Chiếu quả quyết thượng đế chỉ là sự bịa đặt của tà đạo. ông cho rằng Phật Giáo là "vô thần giáo". Theo Thái Hư đại sư, ông khẳng định đức Phật không bao giờ nói có thượng đế sáng tạo vũ trụ. ông đồng ý quan niệm Phật Giáo cho rằng vũ trụ vô thủy vô chung, và do vô số nhân duyên tạo thành. ông cho rằng lúc nhân loại dã man thì cần tôn giáo (theo nghĩa tôn giáo hữu thần - thờ một vị thượng đế) khi nhân loại được khai hóa thì tôn giáo chẳng những trở ngại cho sự tiến hóa mà còn làm thiệt hại cho nhân loại nhiều bề như chiến tranh tôn giáo, cường quyền lợi dụng tôn giáo... nên ông cho rằng: "nếu ngày nay mà tôn giáo có hại thì tự nhân loại dẹp nó đi cũng phải. Tôi nói như thế, có người cho tôi là duy vật, matérialiste. Không, tôi không phải là duy vật, tôi chỉ là người Phật học mà thôi". ông cho Phật giáo là một tôn giáo, nhưng khác với tất cả tôn giáo khác, đó là tôn giáo không có thượng đế hay một tôn giáo vô thần. Quan niệm này cũng giống như nhà khoa học Laplace khi trình bày quan niệm của ông về vũ trụ, vua Napoléon hỏi tại sao không nói đến trời, ông trả lời: "Tâu Hoàng Thượng, tôi không cần giả thuyết ấy". hay Ranakrishnan, tác giả sách Triết Học ấn độ xác quyết: "đức Phật không xây dựng đạo lý trên một nền cát lún của siêu hình học và thần học, Ngài muốn xây dựng đạo lý trên nền tàng đá núi của sự vật. đức Phật là một đạo sư hơn là một vị thần thánh". (TVG, sđd, t 241). Thiện Chiếu đã phê bình quan niệm thượng đế hiện hữu, toàn năng và sáng tạo vũ trụ. Trong sách Vô Thần Luận, ông cho rằng thượng đế chỉ là chuyện "lông rùa sừng thỏ"giả dối, không có thực. ông viết: "Thượng đế là ai? Cái giả danh ấy chẳng qua là bọn đồng bóng, bọn giáo sĩ đặt ra để họ lợi dụng, sự chưởng quản thưởng phạt cũng chỉ lạ họ chớ không có thượng đế nào cả". ông cho chủ nghĩa vô thần của Phật Giáo là thứ chủ nghĩa vô thần hoàn mỹ nhất xưa nay. ông viết: "Không phải tôn giáo đều là hữu thần. Tôn giáo có đa thần, nhất thần, vô thần. Nhưng vô thần thì mới phải cái nghĩa cứu cách của đạo Phật. Cho nên Phật giáo tôi gọi là một tôn giáo vô thần, khác hẳn với các thứ tôn giáo hữu thần khác" (Thật ra, Phật giáo là một tôn giáo siêu thần, các thần tràn ngập trong các kinh Phật nhưng Chư Phật và Bồ Tát siêu việt qua thần linh). Phê bình thuyết thượng đế tạo vật, trong cuốn Tại sao tôi cám ơn đạo Phật, xuất bản năm 1936, ông đã so sánh thượng đế và ma quỷ là lý luận ngộ nghĩnh nhưng chí lý như sau: "Nếu có thượng đế sáng tạo tất cả thì đối với ma quỷ thế nào? Thượng đế có tạo ra ma quỷ không? Nếu không phải thượng đế tạo ra ma quỷ thì cái năng lực thượng đế cũng hữu hạn thôi, vậy thì thượng đế khác gì mấy anh thợ ở thế gian này, có cái làm được, có cái làm không được. Ma quỷ đã không do thượng đế tạo ra, tất phải có kẻ tạo ra nó, rất đổi nó còn có gan có sức chống lại với thượng đế, cám dỗ người ta đừng theo thượng đế, vậy thì cái năng lực của kẻ tạo ra ma quỷ tất phải to lớn lắm. Biết đâu loài người và cả thượng đế nữa không phải do "kẻ" ấy tạo ra? Còn nếu nói ma quỷ tự nhiên có, không phải ai tạo, vậy tại sao vạn vật không được tự nhiên có mà phải nhờ thượng đế tạo ra? Và nếu nói ma quỷ cũng do thượng đến tạo ra thì sao ngài không bỏ ma quỷ vào địa ngục mà chỉ dành địa ngục làm chỗ phạt những người theo ma quỷ, vậy thì còn gì công bằng ở đâu nữa? Hay là cái quyền lực của thượng đế vốn có sức phạt ma quỷ vào địa ngục nhưng cố lưu chúng lại ở thế gian này quấy chúng ta chơi? Thà là đừng có loài người, thà là đừng ai tạo ra chúng ta, tạo ra ta để ta phải chịu đắng cay đau đớn thế này, thì kẻ tạo ra đó là ân nhân hay chúng là kẻ thù số một? Huống chi ông trời Thiên Chúa ghét ông trời Tin Lành, ông trời Hồi giáo giết nhau với ông trời Bà La Môn giáo... càng làm cho ta thêm đủ bằng cớ không tin có thượng đế chút nào hết". Quan niệm này được Nguyễn An Ninh trong Phê Bình Phật Giáo tán thành, cũng như được các học giả PG đương thời như Bác sĩ Lê đình Thám hay thiền sư đôn Hậu, thiền sư Khánh Hòa cũng công kích, bác bỏ thuyết thượng đế tạo vật. Và hầu hết các tạp chí Phật Học đương thời như Viên âm, Duy Tâm, đuốc Tuệ cũng đồng ý với Thiện Chiếu và đăng nhiều bài phê bình phá hủy thượng đế và thuyết thượng toàn năng, sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa Giáo cũng như của tôn giáo độc thần, nhất thần khác. Họ cùng chủ trương vũ trụ hình thành do vô số nhân duyên vô thủy vô chung và thượng đế chỉ là sự tưởng tượng. Một cách ngắn gọn, báo đuốc Tuệ tóm lược vũ trụ quan Phật giáo: "Vũ trụ và muôn vật đều bởi nhân duyên mà thành lập, chớ không phải do một thiên thần sáng tạo, duy có cái nhân tốt thì thành những vật tốt, nhân không tốt thành những vật xấu". b/ Bác bỏ thuyết linh hồn bất tử: Trong sách Phật Học Vấn đáp, ông chủ trương không có linh hồn bất tử. Nhưng trong sách Chân Lý Tiểu Thừa và Chân Lý đại Thừa, ông cũng bác bỏ quan niệm cho chết rồi là hết. Nghĩa là không có linh hồn bất tử nhưng có luân hồi. đây là điểm khó hiểu nhất, không những đối với Phật Tử mà còn đối với các nhà nghiên cứu Phật Học. Ta hãy xem Thiện Chiếu giải quyết sự oái ăm, có vẻ nghịch lý này ra sao. ông cho rằng cái gì cũng bị hủy hoại nếu có linh hồn bất tử, bất diệt, hằng sống đời đời thì cũng như nói: "tôi là người, nhưng hết thảy người ta đều phải chết, duy một mình tôi được sống mãi mà thôi. Thật hết hết sức mâu thuẩn". ông nói ai chủ trương có linh hồn bất cứ thì phải đem đủ bằng chứng ra, không được nói mập mờ, nói không bằng chứng chỉ là sự bịa đặt, gạt gẫm người ta mà thôi. "Nếu nói trí khôn, có hiểu biết, phân biệt là linh hồn cớ sao khi mới sinh ra thì ngây ngây ngốc ngốc, đối với bao nhiều sự vật xung quanh mình đều không biết, không phân biệt gì hết, mà phải chờ nghe, thấy mà học tập lần lần? Cái trí khôn ấy cũng biến đổi luôn, nay hiểu thế này, mai hiểu thế kia, hồi nhỏ khác, lớn lên khác, trí khôn thủa bé không giống lúc già. Cái bằng chứng rằng linh hồn cũng phải biết đổi như vật chất đã rõ ràng như vậy mà con tin cái linh hồn không chết, chông chịu vất cái ấy đi, ấy là họ không chịu dùng đến lý trí". Tạp chí Phật Học Viên âm của Bác sĩ Lê đình Thám cũng khẳng định: "Linh hồn là một danh hiệu không có trong kinh điển Phật giáo". Thiện Chiếu phê bình quan niệm linh hồn bất tử là "thường kiến", và quan niệm cho chết rồi là hết là "đoản kiến". ông viết: "Tuy không có một nhân vật hằng sống đời đời, cũng không cho chết rồi là hết. Phật giáo ở giữa hai cái thiên kiến trường và đoản ấy". Thiền sư Khánh Hòa, thiền sư Bích Liên bác bỏ linh hồn và đưa ra quan niệm A Lại Da Thức: "Trong kinh luận gọi là nghiệp thức, thế gian gọi là linh hồn, thì nghiệp thức hay linh hồn cũng tức là một". Thiện Chiếu không đồng ý quan niệm cho thức là hồn, theo ông thức là thực, là có mà hồn là giả, hoàn toàn không có. ông ví cái thức như ngọn đèn, còn cái thân do "tứ đại giả hợp"giống như bình, cái tiêm, dầu hỏa, có những thứ đó thì đèn mới đỏ. Dầu hỏa cạn, tiêm lụn, bình vỡ, thì làm gì còn ngọn đèn cháy nữa. Quan niệm "ở giữa"của Phật Giáo, không có linh hồn bất tử nhưng cũng không phải chết rồi là hết được Thiện Chiếu trình bày như sau: "Cái thức không phải từ trong thân kiếp trước chui vào cái thân kiếp này, bỏ cái thân kiếp này chui cái thân kiếp sau. Nó sinh ở kiếp nào thì mất ở kiếp đó. Cũng như bóng trăng: khi múc nước đổ vào thùng thì thấy bóng trăng trong thùng, đem nước thùng đổ vào lu thí bóng trăng trong lu, đem nước lu đổ vào chậu thì thấy bóng trăng trong chậu. Nó hiện ra ở đâu thì diệt ở đó, không phải cái bóng trăng ấy từ thùng này nhảy qua lu kia, từ lu kia nhảy qua chậu nọ. Ba cái bóng trăng đó tuy không phải là một, cũng không phải là khác. Cái thức trong ba kiếp ấy cũng vậy, không phải là một mà không phải là khác." (TVG, sđd, t 246-264). Ai cũng biết Phật giáo chủ trương có luân hồi là vì nghiệp lực, nghiệp lực tạo ra tái sinh như một bó lửa này được mồi qua một ngọn đuốc kia, hay như trá billard này bị đẩy tới va chạm và đưa trái billard kia đi tới. Thiện Chiếu không tin có linh hồn bất tử nhảy từ thân xác này qua thân xác khác, cũng không tin có a lại da thức chuyển từ kiếp sống này qua kiếp sống khác. ông, như quan niệm Phật Giáo kinh điển, cho rằng nghiệp của các đời sống trong quá khứ tạo ra sự tái sanh trong hiện tại và nghiệp của cuộc sống hiện tại sẽ quyết định cảnh giới tái sanh của kiếp sau và các kiếp sống này không phải là một và cũng không phải là khác. Mỗi kiếp sống có sự độc lập, riêng biệt của nó nhưng đồng thời cùng bị chi phối bởi một nghiệp lực duy nhất. c/ Bác bỏ quan niệm thiên đàng, niết bàn: Thiện Chiếu cho rằng niết bàn, Tây Phương cực lạc đều không phải là cảnh có thực, đó chỉ là sự an lạc trong tâm của chúng ta và địa ngục chỉ là cảnh giới đau khổ của tâm thức. Tâm là Phật. Phật là Tâm, mà Tâm cũng là ma quỷ, địa ngục. Cho nên ông không tin việc niệm Phật, cầu Phật hay làm lành lánh dữ mà được Phật rước về nước Tịnh độ, Tây Phương cực lạc hay được Phật ban cho điều này điều kia. ông viết: "Cái thuyết thưởng phạt của tôn giáo cho rằng ai làm lành thì sau khi chết được lên thiên đàng, còn làm dữ thì chết rồi phải sa địa ngục. Thiên đàng và địa ngục thật ra chỉ là cái tên của cánh vui và cảnh khổ. Nếu đời hiện tại mà không bằng cớ gì làm cho ta biết được, phải đợi đến khi chết, thì chẳng mơ hồ hay sao? Phật giáo thì nói rằng: lòng mê muội thì khổ, ấy kêu là chúng sinh, lòng sáng suốt thì vui, ấy kêu là Phật. Há đợi thiên đàng mới vui, địa ngục mới khổ hay sao? ". Tạp chí Viên âm cũng đồng ý niết bàn, địa ngục đều là những cảnh giới do nghiệp lực biểu hiện, nghiệp lành sinh ra cảnh giới hoan hỉ, an lạc, nghiệp dữ thì hiện ra cảnh giới đau khổ. "Niết bàn tóm lại không ngoài ba nghĩa: nghĩa bất sinh, nghĩa giải thoát, nghĩa tịch diệt. Bất sinh nghĩa là không sinh những điều mê lầm nữa. Giải thoát nghĩa là không ràng buộc nữa. Tịch diệt nghĩa là dứt sạch tất cả các nguồn mê lầm". Như thế rõ ràng niết bàn không phải là một cảnh giới nào ngoài thế gian này, ngoài cái tâm của ta. d/ Thuyết vô ngã: Vấn đề hữu ngã hay vô ngã được Thiện Chiếu trình bày khá giản dị như sau: "Theo kẻ phàm tục và ngoại đạo đều tưởng trong thân mình riêng có một vật linh thiêng không chết, chủ tể và chỉ huy cho thân xác, họ kêu là linh hồn. ấy là thuyết hữu ngã. Trái lại Phật giáo bảo rằng chẳng những loài người mà cho đến hết thảy vạn vật đều do nhân duyên giả hợp mà có, không thể "có một" mà sinh thành được, cũng không hằng còn mãi mãi nếu nhân duyên tan rã. ấy là thuyết vô ngã. Muốn hiểu thuyết vô ngã thì phãi rõ thuyết nhân duyên, mọi vật phải có nhân và có duyên với thành vật, ví như thực vật thì hạt giống là nhân, còn đất, nước, khí trời, ánh sáng là duyên. Có cả hai thứ nhân và duyên thì mới nứt mộng, mọc lá, mọc rễ, thành cộng, đơm bông, ra trái. ấy là nhân duyên giả hợp. Trí thức của người cũng thế, đều do sáu căn và sáu trần, sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; sáu trần là hình, sắc, tiếng, hương, mùi, vật. ấy là nhân duyên giả hợp". Không những trình bày khá trung thực và bảo vệ một cách nhiệt tình những nhận thức đứng đắn của đạo Phật, Thiện Chiếu còn đi xa hơn hầu hết tăng, ni, Phật tử thời đó cũng như thời nay để phê bình mạnh bạo vào chính một số quan điểm trong đạo Phật mà ông thấy không đồng ý, nhất là khi ông đối chiếu những quan điểm này với xã hội đương thời. Sự độc lập, và độc đáo, về tư tưởng của ông rất hiếm có. ông tuyên bố với những người đang bút chiến với ông, như ông Liên Tôn, chủ bút Từ Bi âm: "Nếu ông nói có lý, thì ông nói tôi cũng tin, còn nói vô lý thì dầu Phật Thích Ca còn sống đi nữa, nói tôi cũng không tin". Thật rất đúng tinh thần tôn trọng trí tuệ và khai phóng, phá chấp của đạo Phật. ông đúng là một nhà khoa học nghiên cứu Phật học hơn là một tăng sĩ, tín đồ Phật giáo. Nhà Phật học và cũng là nhà cách mạng Phan Văn Hùm, trong bài Dịch Sách Phật, đăng trên báo Công Luận năm 1931, đã hết sức khen ngợi tinh thần hoài nghi và cả tinh thần phá hoại cần thiết cho sự nghiên cứu đạo Phật nhằm "trùng hưng Phật Pháp, tu lý đạo Phật" cho nên ở ngay "trong cửa Thiền, Thiện Chiếu thoát được bọn ma vương". (TVG, sđd, t 266-267). Tuy nhiên sau khi Thiện Chiếu thoát luôn cả cửa Thiền, đi làm cách mạng thì nhà nghiêncứu và nhà ái quốc Huỳnh Thúc Kháng, chủ bút báo Tiếng Dân cũng như nhiều người khác rất ngạc nhiên vì thầy Thiện Chiếu "20 năm ăn nằm trong Phật Giáo", đã nhiệt liệt bênh vực Phật Giáo, hăng hái cỗ võ đổi mới Phật Giáo, thế mà nay lại "cám ơn" đạo Phật và công kích một số tư tưởng rất căn bản của Phật Giáo. Trong quyển "Tại sao tôi cám ơn đạo Phật? " Thiện Chiếu đã tâm sự chân thành sự chuyển hướng tư tưởng của mình, ông viết: "đánh đâu thua đó mà không chịu đổi chiến lược thì ta biết là nhà cầm binh thất sách, cũng trái hẳn cái mục đích hoặc chiếm cứ lãnh thổ kẻ khác, hoặc giữ gìn đất nước của mình. Thay đổi phương châm, thay đổi cách hành động, hoặc thay đổi luôn học thuyết, cũng như bỏ hẳn đạo Phật, theo cái chủ thuyết khác mặc dầu, miễn đạt được cái mục đích "chúng sinh hết khổ", ấy mới phải là người học Phật, nghĩa là không trái với tôn chỉ của Thích Ca Mâu Ni". ( TVG, sđ, t 287). Thật là táo bạo. Nhưng cũng thật là đúng tinh thần Phật Giáo, bỏ luôn cả đạo Phật, bỏ luôn cả đức Phật, miễn làm sao thực hiện được lý tưởng làm cho mọi người hết khổ là được. Phật giáo nên tự hào vì đã có những Phật tử như Thiện Chiếu: tự do không giới hạn trong suy nghĩ, phê bình, sáng tạo, tự do thênh thang vô tận trong hành động, tự do tuyệt đối trong cuộc đời. Những người theo chủ thuyết Mác Lê hiện nay tại Việt Nam nên học tập, bắt chước tinh thần khai phóng, phá chấp và tự do này của sư Thiện Chiếu: miễn làm sao dân chúng được no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh, hưng thịnh là được, chủ nghĩa nào trái với lý tưởng này thì nên thẳng tay bỏ ngay, phương cách nào giúp cho lý tưởng này mau thành tựu thì nên mạnh dạn áp dụng liền, chớt dứt khoát không nô lệ cho giáo điều, chủ nghĩa và ý thức hệ. Nguyên nhân nào Thiện Chiếu "cám ơn" đạo phật?. ông trần tình chí thành như sau: "trong mấy năm trường, dẫu gặp phải cái trở lực về chính trị, về kinh tế, vì sự vu cáo, sự phá hoại của bọn Phật giáo cải lương hay của phái nghịch đi nữa, cũng không đến nổi ngã lòng. Huống chi, về mặt lý thuyết, đã thấy có phần thắng lợi, cũng có một số người giác ngộ theo ủng hộ và tán thành, không nổi quạnh hiu cho lắm. đất có người cho, tiền có người quyên để giảng đường, làm nơi căn cứ cho khỏi bị xua lên đuổi xuống vì ở đậu bạc mấy chỗ "quyền sở hữu" của những kẻ ý kiến bất đồng. Nhưng xin đa tạ. Bây giờ đối với chương trình quyết định trước kia, đã lãnh đạm đi rồi. Kinh làm biếng xem, đầu hết muốn cạo. Bởi thấy kinh tế càng bị khủng hoảng nặng nề, người ta càng lầm than, càng đói khổ, do nguyên nhân gì gây ra? lấy phương pháp nào cứu chữa? Chớ Phật giáo đã không phải là phương thuốc cứu chữa duy nhất nữa rồi. Phải, muốn cho hết thảy chúng sinh được hết vọng tâm, được sáng suốt, được niết bàn và thành Phật như Phật Thích Ca sau khi bỏ cảnh tu nhịn đó, đã vô ích mà có hại nữa kia. Huống chi cái thuyết vô ngã của nhà Phật có hay cho mấy đi nữa, không thể nói suông mà phá được thần quyền mê tín là bức tường bảo hộ của cái chế độ (Thực Dân) hiện tại này. đứng đó không vững, đi tới chưa biết đi đường nào..."(TVG t 287). Phần kết cuốn Tại Sao Tôi Cám ơn đạo Phật?, Thiện Chiếu diễn tả tâm trạng của ông: "Bao nhiêu giáo nghĩa của Phật từ căn bản đến luận lý đều rung rinh hết, khác nào như một nhà lầu ở đông Kinh hồi địa chấn, người trong đó giựt mình, hoảng hốt, lật đật trỗi dậy, dầu có hết sức lưu luyến cái chỗ nương tựa lâu nay đi nữa, cũng phảo lo tìm đường thoát thân. đi đâu? Chắc thế nào cũng phải đi về con đường nào đó thuận tiện cho mình, và nhất là phải bị lôi cuốn vào đám đông hết sức đông đảo đương rầm rộ, nhịp nhàng, có kỷ luật và trật tự". (TVG, t 288-289). Thời đó phong trào cách mạng cứu quốc đang dấy động lên khắp nơi, đặc biệt là các phong trào tranh đấu chống Pháp, có chủ thuyết, có lý luận, có tổ chức, có kỹ luật, và "có đám đông hết sức đông đảo đương đi rầm rộ, nhịp nhàng" trong những cuộc khởi nghĩa, biểu tình, do đảng Cộng Sản đông Dương bí mật lãnh đạo. Khác với Lý đông A, dấn thân hoạt động cách mạng nhưng vẫn quyết giữ đạo Phật và lý tưởng giải thoát, giác ngộ: "ngày nào làm tròn giấc mộng tiền sinh ấy, vào đến non sâu nhập niết bàn", hay Huỳnh Phú Sổ "Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha, đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật đà Nam Mô" và vô số tăng, ni, Phật tử yêu nước khác đã tham gia các hoạt động đấu tranh, kháng chiến chống giặc Pháp mà vẫn giữ tư cách tín đồ Phật giáo của mình. 1/ Mâu thuẩn của Niết Bàn: ông cho "hết thảy chúng sinh trên thế gian này... cho đến cáo bọn có tiếng là Phật học cao thâm đi nữa, tôi dám chắc không một ai là được thành Phật, không một ai là được Niết Bàn", vì không có ai có thể "dứt hết các vọng tâm". đi xa hơn, ông trình bày những lo âu, đau khổ của con người trong xã hội và nói: "ở cái chế độ tư hữu mà nói "Niết bàn" được, thật là láo dóc. Còn đến khi xã hội cải tạo rồi thì cần gì có Niết bàn nữa" (TVG, t 290). Thật đã quá rõ, ông, một người tha thiết với lý tưởng cứu khổ, cứu dân tộc, cứu chúng sinh, đã mê hoặc bởi chủ thuyết xã hội, hay đúng hơn, chủ nghĩa Mác Xít và dùng lý luận của chủ thuyết này để đả kích lại Phật Giáo. Thời đó,Thiền Tông hầu như tuyệt tích nên Thiện Chiếu không biết cách nào để "an tâm" và không tin có người đã "dứt hết các vọng tâm". Thực chất chế độ xã hội chủ nghĩa hay chế độ tư bản chỉ đóng khung hạn hẹp trong việc giải quyết các vấn đề sở hữu các phương tiện sản xuất, tương quan sản xuất, sự phân phối sản phẩm, tài nguyên, nhân lực hay các mô thức tổ chức chính trị, xã hội. Vấn đề đau khổ của con người liên quan không những đến xã hội, đời sống chính trị, kinh tế của con người mà chính yếu liên quan đến dục vọng, tham lam và cách nhận thức sai lầm, lệch lạc của con người. Những phê bình trên đây của Thiện Chiếu cũng giống như giơ gậy mà đòi đập trời. Cái gậy ý thức hệ Mác Xít chưa vươn tới bầu trời tâm linh thì làm sao có thể giải quyết vấn để giải phóng con người, ở mức độ sâu thẳm và cao siêu nhất mà đức Phật đã chứng nghiệm và giảng dạy tư 25 thế kỷ trước? 2/ Mâu thuẩn nhân quả: đây là nền tảng của Phật giáo thì Thiện Chiếu phê bình nhân quả Phật giáo "tuy có cao hơn cái thuyết hữu ngã luân hồi của Bà La Môn giáo mặc dầu, nhưng cũng trái hẳn với luật nhân quả của khoa học" và cũng không tránh khỏi thần bí vì phải chờ ở luân hồi kiếp sau. ông cho thuyết nhân quả có vẻ công bằng hơn thuyết thưởng phạt (thiên đàng, địa của Thiên Chúa giáo) nhưng bản thân nó mâu thuẩn lắm. ông đưa ra một ví dụ sống động: "thuyết nhân quả nói kiếp trước không bố thí nên kiếp này phải chịu cảnh bần cùng, còn người giàu bây giờ là nhờ kiếp trước có bố thí rộng rãi. Nếu như vậy, bây giờ đã chịu thân bần cùng, bữa đói bữa no, lấy cái gì mà bố thí? Làm sao mà rộng rãi được? Có khi bị hoàn cảnh, bị cái đói lạnh xúi dục, họ sinh ra trộm cắp nữa. Theo thuyết nhân quả, chẳng những kiếp sau phải chịu bần cùng hơn nữa, còn phải sinh vào cảnh khổ (địa ngục) hoặc làm súc vật để đền tội trước kia: một ngày một xuống, không trồi đầu lên được, ấy không phải vĩnh kiếp ở địa ngục là gì? Trái lại, giàu có mới có tiền của bố thí, bố thí có mua vui họ còn bố thí hơn nữa. ở cái địa vị cao sang dư dã thì dại gì ăn cướp ban đêm? Càng ngày càng lên, ấy không phải vĩnh kiếp ở thiên đàng là gì? Thế thì cái thuyết nhân quả nó rộng rãi với hạng người giàu có, mại gắt gao với hạng người nghèo khổ thái quá". đúng là lý luận Thích Thiện Chiếu, có vẻ chí lý nhưng muốn đánh đổ thì không khó gì. Thiện Chiếu cũng chứng minh thuyết nhân quả cũng sai lầm trong việc thông thái, ngu si: "con cái bọn mọi trong rừng rú, ai dám bảo nó lớn lên sẽ được văn minh, thông thái? Con của các nhà tư bản Ấu Mỹ ai dám bảo chúng nó lớn lên sẽ ngu muội dã man? Nhưng đổi lại, khi mới đẻ ra, con của nhà tư bản đem cho mọi và con của mọi đem cho nhà tư bản họ nuôi thử coi, thì sẽ thấy một bên vì hoàn cảnh, vì sự giáo dục, vì điều kiện vật chất được hoàn toàn đầy đủ, ai còn dám bảo đứa con mọi ấy (do nhà tư bản nuôi) là dã man nữa. Trái lại, một bên vì sự sinh hoạt đơn sơ, không có giáo dục, thiếu hẳn điều kiện vật chất, cái hoàn cảnh ấy có thể nào tạo được đứa con tư bản kia (do mọi nuôi) trở nên một kẻ văn minh?" (TVG, t 289-301). Trường hợp ví dụ này quá sức đúng, nhưng việc một đứa con đẻ trong rừng mà được nhà tư bản nuôi thì cái đó 100% là do nhân duyên, nghiệp lực mà thành cũng như đứa trẻ sinh ở cao sang mà lại bị lạc vào rừng rú thì không phải là "số mạng", định mệnh", "thượng đế an bài", hay "ngẫu nhiên", "tình cờ", mà chính là do thuyết nhân quả chi phối, quyết định vậy. Cũng như việc một người sinh ở nơi văn minh, giàu sang hay sinh trong hoàn cảnh tối tăm, nghèo khổ là do nghiệp lực và nhân duyên nhiều đời trước quyết định. Cũng như người được trúng số hay gặp thời trở nên giàu có, nguyên nhân nằm trong sự thiện nghiệp, thiện duyên mà họ đã tạo ra từ các kiếp trước. Còn việc bố thí, Phật giáo liệt kê Pháp thí (ban tặng Phật pháp) là đứng đầu, thứ đến là Vô úy thí (ban tặng sự không sợ hãi), chót hết mới là Tài thí (ban tặng tiền bạc, của cải). Cũng theo đó, phước đức tăng trưởng nhiều hay ít và đời sau được sinh làm người giàu sang hay nghèo hèn. Trong việc Pháp thí và Vô úy thí, bao gồm việc nói, khuyên người khác bỏ ác, làm lành, ăn ở hiền đức, sinh sống thật thà, lương thiệ, an ủi, khích lệ nâng đỡ người khác khi họ bị đau khổ, thất vọng, hay cứu mạng người hay mạng sống của các loài chúng sanh khác v.v... thì ai có từ tâm cũng đều làm được, chớ không phải chỉ người giàu có mới làm được. Hơn nữa việc bố thí chỉ có một phần công đức phụ thuộc mà thôi. Cái nguyên nhân chính yếu, tạo ra thiện nghiệp hay ác nghiệp, đưa đến cảnh con người bị nghèo hèn hay được sang quý cũng như sanh ở sáu cõi là họ giữ ngũ giới và thực hành thập thiện hay không? Không phải có tiền bố thí, hay ngay cả xây chùa, đúc tượng mà có phước và được tái sinh làm người giàu sang hơn. Lương Võ đế đã xây hàng trăm ngôi chùa, đúc hàng ngàn tượng Phật, thế mà khi Vua hỏi: "Trẫm có công đức gì không? thì Bồ đề đạt Ma đã trả lời dứt khoát: "Không có công đức gì cả". Trong khi đó một người cứu một người khác sắp chết đói, chết rét hay ngay cả cứu một con kiến đang sắp chết đuối cũng có thể có công đức rất lớn. Lấy vấn đề tiền bạc để làm tiêu chuẩn duy nhất cho việc phê phán quan điểm nhân duyên tội phước của đạo Phật thì nó quá hạn hẹp, phiến diện và không chính xác. đi xa hơn, quyết liệt hơn, Thiện Chiếu lý luận: "cho đến tuần lễ 40 giờ và bọn Chà Và chợ phải nhượng bộ, ấy là bởi nhân quả, phải chờ kiếp sau, hay là bởi đấu tranh hện tại của nhân dân mà được những thắng lợi ấy" (TVG, sđđ, t 300-3001. Việc này thì hoàn toàn đúng và chính đức Phật cũng đã giảng dạy nổ lức phấn đấu để chuyển hóa nghịch cảnh và xây dựng một xã hội hiền lương, nhân đạo và công bằng, chớ đức Phật không dạy cầu nguyện lễ bái hay thụ động, khiếp nhược chấp nhận bất công, áp bức. Thời đó, một chủ thuyệt xã hội Phật giáo chưa có, cũng như chưa có một quan niệm hành động xã hội chính trị của người Phật Tử nên nói đến công xã hội, Thiện Chiếu không khỏi rơi ngay vào lý thuyết đấu tranh giai cấp và cuối cùng còn cực đoạn cho rằng dù là Phật Giáo được chấn hưng, cũng hoàn toàn đưa đến bế tắc mâu thuẩn và không thể cứu khổ"" , giải thoát được. Báo phụ nữ Tân Văn, năm 1843, đã kết luận về tăng sĩ Thiện Chiếu một cách đặc biệt như sau. "Sư Thiện Chiếu là một người ở về hạng thành thật nhất, bỏoli vậy cho nen sư đáng cho ta để sy thập nhất, bởi vậy cho nên sư dáng cho ta để ý. Trong các giáo chủ của cuộc vậng động tôn giáo ngày nay, sư là một người có lý tưởng, có chủ nghĩa, có nhiệt thành. Mà sư lại đứng tr hẳn một cánh để phản đối tất cả chi phái khác. Sư mê Phật học mà sư xướng rằng không có thần, không có Ngọc Hoàng Thượng đế, không có chủ tể càn khôn. Sư phản đối kịch liệt cho đến nổi nói tới hai chữ Thiện Chiếu thì bọn tang lữ đời nay đều khủng khiếp. Người ta ghét mà sợ con người có tín ngưỡng thật. Vì đời của sư không có chỗ nào sàm báng được. Ngày nay sư Thiện Chiếu đã tỉnh ngộ và giác ngộ. Nhờ quan sát nhiều, nhờ suy nghĩ lắm, nhờ thảo luận cùng anh em mà sư tỉnhgiấc ngủi thôi từ hon 20 năm nay. Khác có kẻ hỏi: vậy thì sư mong giải khổ cho quần sanh về chỗ nào? Sư nhận ra rằng cuộc đấu tranh để giải khổ là cuộc đấu tranh trong xã hội, giải khổ trên mặt đất, chớ kông khong phải kiếp tái sinh hão huyền nào hết. Trong hàng trí thực An Nam và tất cả hão huyền nào hết . Trong hàng trí thức An Nam và tất cả A đông, ta ít khi gặp được người thành thật và can đảm như thiện Chiếu". TVG, sđd, t 282-291> Phê bình này không đi ra ngoài tinh thần Phật giáo đại thừa, là tôn giáo duy nhất trên thế giới này chủ trương có thể xây dựng một cõi Tịnh độ, không còn cảnh bất công, đói rách, đau khổ, một thiên đàng an lạc, đạo đức, hòa bình, ngay tại thế gian này. Tiếc rằng thời đó tinh hoa của Phật tiáo đại thừa bị mai một nên Thiện Chiếu không thấy những quan niệm cứu khổ ngay trong cuộc đời, giải thoát ngay trong thế gian, xây dựng Phật quốc ngay trong cõi Ta Bà của tư tưởng Phật giáo đại thừa hùng tráng, dũng hoạt và hết sức thực tế, cụ thể. Thật là đáng tiếc, một con người như Thiện Chiếu đáng lý ra nên vận dụng căn bản Phật học và cả uy tín, kinh nghiệm, nhiệt tâm tranh đấu của mình để hình thành một chủ thuyết xã hội Phật Giáo và một trào chính trị Phật Giáo, như Huỳnh Phú Sổ đã làm chỉ vài năm sau đó, một cách xuất sắc, tuyệt vời qua việc hình thành Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, ông đã ngã vào con đường hành động xã hội của chủ nghĩa Mác Xít và của đảng Cộng Sản mà hậu quả tan thương, đau đớn chính ông đã cảm nhận sâu xa trong những ngày tháng tù túng tại Bắc Kinh, Hà Nội cũng nhữ đồng bào ông đã gánh chịu suốt nửa thế kỷ nay. Cùng thời với Thiện Chiếu cũng có những quan niệm cấp tiến, mạnh bạo tương tự thể hiện trong Hội Phật Học Kiêm Tế và tạp chí Tiến Hóa cũng như trong Hội Tịnh độ Cư Sĩ và tạp chí Pháp âm. Tạp chí Tiến Hóa, như đã nói, tuyên bố "tuyên truyền cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sinh khỏi khổ được vui" và coi các học thuyết này đều là "Phật pháp". Ngay từ số 1, đã có mục "triết học thường thức" và đến số 4, ký giả Trần Quân trình bày Duy Vật Biện Chứng Pháp và từ số 6, ông phê bình các chủ thuyết Duy Tâm Luận. Tạp chí Tiến Hóa chủ trương táo bạo như sau: "a/ Người Phật tử mới phải có sự giác ngộ mới do khoa học khám phá. Người Phật tử phải học khoa học để biết rằng không có Tây Phương Cực Lạc hay Thiên đàng, địa ngục, phải học kinh tế học, chính trị học để biết những đau khổ của con người là do các chế độ chính trị đè nén và những cuộc khủng hoảng kinh tế, chớ không phải do thần linh ban họa giáng phúc. b/ Phật Thích Ca chỉ là bậc sáng suốt hoàn toàn trong thời đại của Ngài mà thôi. Bây giờ phải nắm hết những hiểu biết của khoa học thì mới gọi là "Phật"... vì trí thức của Phật hồi thời đại ấy không bằng tri thức của toàn thể nhân loại sau này.". c/ đường lối cải tạo cái tâm trước không có hiệu quả. Phải cải tạo cảnh. Phải tổ chức trường học cho người dốt nát, nghèo khổ, phải ngăn cấm không cho một thiểu số nắm giữ và lũng đoạn guồng máy kinh tế, phải thủ tiêu chế độ tư hữu. Họ còn mơ giấc mơ đại đồng: "đừng chia riêng của người này với của người khác, nước nọ với nước kia, thì đâu có cái hiện tượng tranh dành cướp giật và bắn giết lẫn nhau? ấy là cái nghĩa nhất thiết chúng sanh thành Phật". (NL, sđd, t 66-67). Tác giả Nguyễn Lang cho rằng "gốc rễ Phật học của các lý thuyết gia Tiến hóa (trong đó đương nhiên có Thiện Chiếu) là chưa sâu vững". Không những thế còn kém cõi về kiến thức khoa học. Theo kinh Phật, thì cõi Tây Phương Cực Lạc cách đây vô lượng vô số thế giới, ngay cả thiên văn họa hiện đại cũng chỉ mới khám phá một gốc trời nhỏ của vũ trụ quan Phật giáo. Hay cho rằng "Sự hiểu biết của Phật không bằng trí thức bây giờ". Nói như thế trong thập niên 30, 40 thì được, chớ ngày nay sau khi đã nuốt chửng triết học và thần học Tây Phương thì khoa học đã tự bộc lộ những giới hạn và sự bất lực của nó, khoa học vẫn ở trong bàn tay của Phật học, đúng như Albert Einstein, nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ 20 đã tuyên bố: "Phật giáo bắt đầu ở nơi khoa học chấm dứt" (Buddism begins where Science ends) nghĩa là sau khoa học chính là Phật giáo. Mặt khác, quan niệm cải tạo tâm và cải tạo cảnh đều được bao gồm trong Phật giáo đại thừa, cụ thể như vấn đề tư hữu, Phật giáo chủ trương diệt trừ tam độc tham, sân, si nguồn gốc của tội lỗi và đau khổ, nhưng đồng thời cũng chủ trương bênh vực giới lao động, nâng đỡ những kẻ yếu nghèo, xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo. Trong chiều hướng chấn hưng Phật giáo một cách táo bạo, triệt để và toàn diện, ký giả Giác Tha còn hô hào "thủ tiêu hình thức và tinh thần tôn giáo của Phật Giáo", "hủy bỏ tất cả những kinh sách và những tập quán có khuynh hướng hữu thần và yếm thế". Không những thế Tiến Hóa còn chủ trương hủy bỏ truyền thống tăng sĩ "đầu trọc áo vuông", theo gương phái tân tăng ở Nhật Bản mặc âu phục, cưới vợ và ăn mặn. Ký giả Tự Giác, sau khi gặp tân tăng trẻ Nhật Bản Tomomatsu tại Sài Gòn, ông này bặt thiệp, nói nhiều thứ tiếng, hiểu biết rộng rãi, tuyên bố những tư tưởng mới lạ, đã hô hào: "từ rày về sau, người tu Phật nên bỏ hẳn cáo lối đầu trọc áo vuông, theo gương các sư Nhật... nhưng ai có muốn ăn chay hay độc thân thì tùy ý (NL, sđd, t 68). Pháp âm ủng hộ lập trường Thiện Chiếu và của Tiến Hóa và bắt đầu chỉ trích đường lối chấn hưng Phật giáo, của các hội Phật học đương thời, như phê bình các hội này chỉ chú trọng tinh thần mà bỏ quên thực tế, chỉ biết nghĩ về vị lại mà bỏ quên hiện tại, chỉ nói suông mà không thực hành. Họ kêu gọi chấn hưng Phật giáo là để "gây thành một thế lực mà ứng phó với thời cơ". Rõ ràng là kêu gọi chuẩn bị hành động, chuận đóng góp vào cuộc tranh đấu cứu nước, giải phóng dân tộc. đi xa hơn nữa Pháp âm và Hội Tịnh độ Cư Sĩ còn: "hết sức ủng hộ việc bỏ cái lối đầu trọc áo vuông" mà tạp chí Tiến Hóa đã đề nghị. Pháp âm còn kêu gọi "thủ tiêu cái chế độ riêng"trong nhà chùa, kêu gọi chư tăng theo gương hòa thượng Nguyễn Văn đồng (Trí Thiền) trú trì chùa Tam Bảo cúng hết chùa và tài sản cho Hội Phật Học Kiêm Tế. Và có người còn đi xa hơn nữa, đề nghị phục hưng Phật giáo trong tinh thần xã hội chủ nghĩa. Phạm đình Vinh, diễn thuyết tại trụ sở hội An Nam Phật Học tại Huế ngày 15-08-1937 về đề tài Luân Lý Phật Giáo, đã minh bạch tuyên bố: "Luân lý, cũng như nghệ thuật, triết học, pháp luật, tư tưởng, văn tự, ngôn ngữ... đều là ý thức hình thái (ý thức hệ) của xã hội mà ta thường gọi là tinh thần văn hóa, được kiến thiết ở trên nền tảng kinh tế. Nếu kinh tế thay đổi thì ý thức hình thái (ý thức hệ) của xã hội tức là nghệ thuật, triết học, pháp luật, tư tưởng, văn tự, ngôn ngữ... hay tinh thần văn hóa cũng phải thay đổi theo hết. Theo ý tôi thì chỉ có hai cách. Một là muốn cho xã hội tín ngưỡng và thực hành luân lý đạo Phật thì phải làm cho công bình, đừng cho ai lợi dụng. Hai là phải vận động khắp thế giới thủ tiêu các chế độ tài sản tư hữu... mới thực hiện được tinh thần vô ngã của đạo Phật". Và ông cho rằng cách thứ hai là hữu hiệu hơn hết. (NL, sđd, t 64-69). Thực tế đã chứng minh là những phương pháp đi nhanh nhất thường là đi chậm nhất, đôi khi lại thụt lùi, và cấp tiến nhất thường đưa đến những kết quả bảo thủ, thoái hóa tai hại nhất. Những tư tưởng cấp tiến, tả khuynh thời đó nở rộ như nấm và lạ lùng hơn nữa là khởi phát mạnh mẽ ở miền Nam, nơi đảng Cộng Sản rất yếu. ở miền Trung Hội an Nam Phật Học và tại Chí Viên âm hay ở miền Bắc, Bắc Kỳ Phật Giáo Hội và tạp chí đuốc Tuệ đều có một quan điểm chấn hưng Phật giáo rất ôn hòa, nhẹ nhàng, đặt nặng vấn đề Phật học, đào tào tăng tài hơnl à những vấn đề thời sự, chính trị, xã hội, kinh tế, dù rằng cả hải Hội Phật Học và hai tạp chí Phật Học này đều cổ xúy một nền Phật giáo dân gian, nhập thế, đi vào đời, áp dụng vào cuộc sống. Quyển Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, do Việt Triết Học tại Hà Nội chủ biên, trong phần kết luận, đã xử dụng trường hợp Thiện Chiếu để chứng minh PHật Giáo không đáp ứng được thời đại, và chủ nghĩa Mác Lê là cấp tiến hơn, thích hợp hơn cho Việt Nam. Lập luận này ngày nay đã tự sụp đổ nên ta khỏi cần tranh luận. Nhưng, như một số nhà nghiên cứu Phật Giáo trong nước đã phê bình, dùng một chủ thuyết khác để đã kích Phật Giáo trong một cuốn sử mang tên Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, rõ ràng là việc làm không có tính cách sử học. Mặc khác, tăng, ni Việt Nam thời đó cũng có trên cả chục ngàn và tuyệt đại đa số vẫn trung thành, sống chết cùng với đạo Phật và đã tích cực đóng góp vào sự nghiệp cứu quốc, phụng sự quốc gia, xã hội mà vẫn không từ bỏ con người tôn giáo của mình, còn số người như Thiện Chiếu chưa 1/1000 thì không thể thấy trường hợp quá đặc biệt và ngoại lệ này để công kích Phật Giáo. Thứ ba là Thiện Chiếu đã phản tỉnh khi ông miền Bắc, chứng kiến bộ mặt thật của xã hội chủ nghĩa và cảnh Phật Giáo bị đàn áp khốc liệt, nên lợi dụng cuộc đời yêu nước nồng nhiệt, hăng say của ông để tấn công Phật Giáo là điều không lương thiện. Những gì tăng sĩ Thiện Chiếu mong ước và đã thất bại không thực hiện nổi, là một nền Phật Giáo dân tộc và thời đại, một nền Phật Giáo hành động cứu quốc và cách mạng xã hội, chỉ vài năm sau, năm 1939, đã được một cư sĩ, là Huỳnh Phú Sổ, thực hiện một cách tuyệt diệu và thành tựu một cách tuyệt vời.
Cuộc đời của Huỳnh Phú Sổ. Sự liên hệ chặt chẽ, bất khả phân ly giữa Phật Giáo Việt Nam cận đại và Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như giữa đức Phật và tăng, ni, Phật tử Việt Nam với cư sĩ và đồng thời là giáo chủ Huỳnh Phú Sổ có thể được chứng minh và cô động trong một câu nói của chính Huỳnh Phú Sổ: "đối với toàn thể tín đồ Phật Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của đức Phật Thích Ca". Và đặc tính của nền Phật Giáo thời đại, nhập thế, dấn thân do Huỳnh Phú Sổ sáng lập cũng được tóm gọn đầy đủ, xúc tích trong một lời tuyên bố lừng danh của Huỳnh Phú Sổ: "Tôi tin chắc rằng giáo lý giải thoát chúng sanh (của đức Phật Thích Ca) chẳng những được truyền bá ở Thiền Lâm, mà còn phải được thực hiện trên trường chánh trị". ông giải thích thêm: "Theo như sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng, lấy chủ nghĩa từ bi bác đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt, thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng, vì những câu "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh" và "Phật cùng đồng nhất thể bình đẳng với chúng sanh". đã có những sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không thể tiến hóa ngang hàng với Chư Phật được. Nếu trong cõi nhân gian này còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý do đức Thích Ca Mâu Ni Phật không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài, là do hoàn cảnh xã hội của ấn độ xưa không thuận tiện. Ngày nay, trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với sự tiến bộ về khoa học, thì là có thể thực hành giáo lý ấy để thực hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo. Thế nên với tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại" (Báo Nam Kỳ, ngày 29.11.1946, Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, t 481). Chỉ một lời tuyên bố ứng khẩu trích dẫn ở trên, Huỳnh Phú Sổ đã tóm lược tài tình cốt tủy, tinh hoa, chủ đích của đạo Phật cũng như phác họa thần diệu mục tiêu, đường hướng và phương pháp của Phật Giáo Hòa Hảo, một nền Phật Giáo thời đại, nhập thế, dấn thân tích cực. Chỉ lời tuyên bố trên đây cũng đủ để đưa Huỳnh Phú Sổ thành một Phật tử lớn, một thiền sư lớn, một nhà tư tưởng Phật Học đặc sắc, độc đáo, một nhân vật có tầm cỡ vĩ nhân của Phật Giáo Việt Nam và Phật Giáo thế giới trong thế kỷ 20. Sự độc đáo và vĩ đại của Huỳnh Phú Sổ được giới trí thức quốc tế công nhận, dù bị giới trí thức Việt Nam và trí thức Phật Giáo Việt Nam, do thiếu thông tin, thành kiến nông cạn, sai lầm, không biết đến và đề cập đến: Bộ Bách Khoa đại Từ điển có thẩm quyền nhất thế giới, bộ The New Encyclopaedia Britannica đã công nhận Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam "Huỳnh Phú Sổ is a Vietnamese philosopher... "(Vulume 6, Micropaedia, 1987, trang 18). Chữ triết gia đối với Việt Nam là một chữ tầm thường, nhưng đối với Tây Phương là một chữ phi thường. Lý tưởng của đạo đức và chính trị Tây Phương, như Platon mơ mộng, không phải là sự ngự trị của những quốc vương triết gia (Philosopher-King) hay sao? Không một Phật tử, thiền sư hay nhân vật Phật Giáo Việt Nam nào khác thế kỷ 20 này được đánh giá như vậy. Và quả thật Huỳnh Phú Sổ đã vượt qua tất cả... Những nhân vật lẫy lừng của Phật Giáo Việt Nam thời đó như các thiền sư Khánh Hòa, Khánh Anh, Thiện Chiếu, Giác Tiên, Trí độ, Lê đình Thám... hay về sau này như Trí Quang, Thiện Minh, Trí Thủ, Thiện Ha, Nhất Hạnh, Thanh Từ... đều không thể nào so sánh với Huỳnh Phú Sổ vì Huỳnh Phú Sổ được coi như là hóa thân của Bồ Tát và những hiểu biết của ông xuất phát từ Tuệ Giác và những hành động của ông là những hạnh nguyện của tâm đại từ bi. ông dã vượt qua mức độ phàm phu và đã đạt đến trình độ của thánh nhân. Học giả Phạm Công Thiện tán dương ông là "đại bồ tát" không phải không có lý do. Nhân dân Nhật Bản ca ngợi thiền sư Nhật Liên của họ là đại bồ tát, thì Phật tử Việt Nam ca ngợi Huỳnh Phú Sổ là đại bồ tát cũng không có gì quá đáng. Có ai, trong suốt mấy ngàn năm lịch sử Việt Nam, khi chỉ mới 19 tuổi, đã thành lập một tôn giáo mới (thật ra là một tông phái mới của Phật Giáo), đã có những viễn kiến đi trước thời đại và được hàng triệu người tôn thờ như là Giáo Chủ? Chỉ có Huỳnh Phú Sổ, một thanh niên quê quán ở làng Hòa Hảo trên đồng bằng sông Cửu Long. A/ Cuộc đời thanh thiếu niên của Huỳnh Phú Sổ. ông sinh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, tức ngày 15/1 năm 1920, tại làng Hòa Hảo, gần Vàm Nao, quận Tân Châu, tỉnh Châu đốc, một tỉnh miền Tây nằm sát bên nước Cao Miên và trên sông Cửu Long (Tiền Giang), trong một gia đình nông dân, con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Lúc nhỏ ông thường bịnh hoạn, đau yếu, xanh xao, chỉ đi học trường làng, và đã đậu bằng tiểu học tại Tân Châu, nhưng đến năm 15 tuổi phải nghỉ học vì lý do sức khỏe. ông được điều trị bởi nhiều thầy thuốc và bằng nhiều cách nhưng bịnh tình càng ngày càng trầm trọng và theo đuổi suốt quãng đời thiếu niên của ông. Mãi cho đến khi ông 18, 19 tuổi, bỗng nhiên ông hết bịnh và trở thành một thanh niên mạnh khỏe, tuấn tú, da mặt hồng hào, tươi sáng, tướng bộ chững chạc, trang nghiêm. Từ thuở bé, ông đã có căn tính của một người tu hành, ông không thích đàn địch, ca hát, cười dỡn như các bạn cùng trang lứa, lúc nào ông cũng trầm tư, mặc tỉnh, thích ở nơi thanh vắng, yên tỉnh. ông lại rất hổ thẹn và phản đối ngay khi nghe song thân bàn chuyện kiếm người bạn đời cho ông. Dù mới chỉ học xong tiểu học và chưa từng nghiên cứu Phật Học, ông bỗng nhiên có một kiến thức Phật Học uyên bác, và hơn thế nữa, một khả năng "xuất khẩu thành thơ" biến những kiến thức Phật Học thành những bài thơ giảng đạo đi sâu vào lòng quần chúng bình dân, ít học. Ngoài ra ông làm thơ bằng chữ Nho một cách tinh thông, xuất sắc dù không học chữ Nho. Không những thế, ông còn bỗng nhiên có tài chữa bịnh, kể cả những bịnh nan y dù chưa từng học về y khoa. Ngày 18 tháng năm năm Kỷ Mão, tức ngày 4/7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ tuyên bố khai lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo, khi ấy ông chỉ mới 19 tuổi. B/ Cuộc đời hành đạo của Huỳnh Phú Sổ. Sau ngày khai đạo, ông thực hiện hai công việc chính là thuyết pháp và chửa bịnh, mà trong đó thuyết pháp là chính, trị bịnh chỉ là phương pháp nhất thời, trợ duyên cho việc hoằng pháp như ông đã giải trình trong "Sứ Mạng đức Thầy": "Phương pháp của ta tùy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam, trên thì nói Phật Pháp cho kẻ có lòng mộ đạo quy căn gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền diệu của tiên gia trị bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi cua chư vị..." Thời gian trị bịnh chỉ kéo dài trong mấy tháng đầu khai đạo, cho tới đầu năm 1940 là chấm dứt, còn việc thuyết pháp, độ sanh và đem tinh thần đạo Phật vào cuộc đời, ông đã tích cực, liên tục thực hiện không mệt mỏi cho đến khi ra đi vào năm 1947. Chỉ 27 năm xuất hiện trên thế gian và từ khi khai đạo, chỉnh hành hoạt trong 7 năm, thế nhưng Huỳnh Phú Sổ đã để lại một sự nghiệp lớn lao mà không một Tăng, Ni, Phật Tử nào trong thế kỷ 20 này có thể so sánh được. Như Jesus Christ cũng trị bịnh lúc khai đạo Thiên Chúa, Huỳnh Phú Sổ đã trị bịnh và chữa lành cho nhiều bịnh nhân mà không cần dùng dược liệu, thuốc thang cũng như kh6ng dùng các phương thuật phù thủy thịnh hành đương thời. Người bịnh thường được ông cho uống nước lạnh, hoặc nhai một bông cúc, bông trang, lá xoài, lá ổi thường được trồng rất phổ thông ở khắp nơi, hoặc nuốt nguyên vào bụng một thẻo giấy màu vàng bằng ngón tay chớ không đốt thành than pha vào nước lạnh rồi uống như thói quen thời đó. đặc điểm của ông là mỗi khi trị bịnh cho ai ông đều khuyên bịnh nhân nên tin tưởng ơn trên Trời, Phật, cầu nguyện chí thành thì sẽ được gia hộ và niệm Phật: "Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban". Chỉ với lòng thành tin rằng đây là "thuốc Phật", là "cam lồ Phật ban", bịnh nhân uống nước lạnh, nhai bông, lá trong vườn và lành bịnh. Từ đó quần chúng tin tưởng Huỳnh Phú Sổ là một vị Phật hóa hiện để cứu nhân độ thế. Một số trường hợp chửa bịnh cụ thể như sau được ghi nhận như một em bé bị bịnh ban đỏ (sởi) được ông chửa lành trong một đêm bằng cách cho uống lá ổi, ông Tạ Quốc Bửu bị bịnh phân nửa khuôn mặt nổi sần lên và lở như lác, được ông chửa lành trong vài ngày bằng cách cho uống một ly nước lạnh, bà Chung Bá Khánh đai bịnh ruột dư, bác sĩ bịnh viện Saint Paul Sài Gòn tiêm thuốc cho gom mũ để bữa sau mỗ, được Huỳnh Phú Sổ chửa lành tức thời bằng cách cho ăn một trái cam và nhiều trường hợp khác ông chữa lành cho hàng ngàn bịnh nhân, kể cả những bịnh nhân đang ở trong tình trạng hấp hối... mà Tây y và y học cổ truyền cũng bó tay không chửa trị nổi. Trị bịnh chỉ là phương tiện nhất thời thể hiện ý nguyện từ bi cứu khổ và chỉ là một chiếc cầu gây tín tâm hướng về Phật pháp nơi quần chúng bình dân, truyền đạo, rao giảng Phật pháp, khuyên người đời ăn hiền ở lành, lo tu hành Phật đạo mới là công việc chính, thường trực và không ngừng nghỉ của Huỳnh Phú Sổ. ông giảng dạy giáo lý của đức Phật Thích Ca mà ông có sứ mạng truyền bá như một sứ mạng thiêng liêng nhất: "Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn Xuống hạ giới truyền khai đạo Pháp" Nếu biết rõ đức Phật vẫn xử dụng các từ ngữ thông dụng đương thời, thuộc các tôn giáo khác, như "Phạm Thiên", "Bà La Môn" v.v... để mọi người đương thời đều hiểu, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Huỳnh Phú Sổ thường xử dụng những từ ngữ bình dân trong dân gian, không có trong từ ngữ Phật học, như"Thượng đế", "Hạ giới", "Sắc lịnh" v.v... để dễ dàng truyền bá Phật pháp cho giới bình dân thôn quê. Theo các nhân chứng thời đó kể lại thì ông đã tận tâm tận lực bình đẳng thuyết giảng Phật Pháp cho mọi người đến nghe đạo hay trị bịnh, không phân biệt sang, hèn, giàu, nghèo, thân, sơ. Nhiều khi ông đã liên tục thuyết pháp cả ngày lẫn đêm vì thính giả thập phương đến nghe đông đảo. Theo ông Nguyễn Văn Hầu, trong cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm thì: "Với một giọng nói thanh tao, êm dịu, khi bỗng lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu, khi giản dị, Ngài giảng giải cho quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành. Ngài thuyết pháp không ngưng, không vấp... Một nhà báo ở Sài Thành (ông Hiền Sĩ) nói về đức Huỳnh Giáo Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài hùng biện và khoa ngôn ngữ của Ngài bằng câu "thao thao bất tuyệt" và cho rằng Ngài "chiếm giải quán quân về phương diện diễn thuyết". Nhà lãnh tụ nhóm "Tranh đấu" là Tạ Thu Thâu chưa chắc có thể so sánh với đức Thầy về môn diễn thuyết và nói trước công chúng được. Lại nữa, lời văn của đức Thầy còn có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách phi thường nên thính giả nhiều khi mủi lòng rơi lệ, liền phát bồ đề tâm, quy y đầu Phật. Nhiều nho sĩ văn gia, nhiều trí thức tân học đỗ cao (cử nhơn, tấn sĩ) đều bái phục đức Thầy vì tài ba, vì đức hạnh. Thật Ngài là một bực thượng trí anh tài, một bực sinh nhi tri vậy". Thính giả đến nghe giảng ngày càng đông và ngôi nhà của thân sinh ông trở thành một đạo tràng thuyết pháp, một ngôi chùa lúc nào cũng đông đảo thiện nam tín nữ từ khắp nơi về và bị nhà chức trách dòm ngó. Nên ông đã có lần nhờ thân sinh lên quận xin phép đổi cái nhà của ông thành một ngôi chùa, lấy tên là Kim Sơn Tự. Tuy chỉ xuất hiện trên đời 27 năm, ông đã để lại một khối lượng kinh sách đáng kể, tổng cộng khoảng 150.000 chữ, bằng văn xuôi và văn vần, phần lớn đều là ứng khẩu và đại đa số là văn vần, nghĩa là thơ, dưới các hình thức thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cù, trường thiên thất ngôn, ngũ ngôn. Như các vị Giáo chủ thời xưa, những bài giảng của ông phần lớn đều ứng khẩu thuyết giảng cho đệ tử, tín đồ nghe và những người này ghi chép lại. Một phần khác thì do ông đích thân viết và theo các nhân chứng thuật lại, thì ông viết rất tự nhiên, không suy nghĩ, không gạch xóa sửa chửa và viết một mạch không ngừng cho đến khi hoàn tất. đặc điểm của thơ văn Huỳnh Phú sổ là ngôn từ rất giản dị, rõ ràng, dễ nhớ, ai đọc cũng hiểu nhưng rất hàm súc và hoàn toàn phù hợp với kinh sách Phật Giáo. Nhờ đó ngay cả những người dân quê không biết chữ vẫn có thể hiểu và học thuộc lòng hàng trăm câu thơ khuyến tu, truyền đạo của ông. Không những đặc biệt trong việc truyền giảng Phật Pháp, là giảng bằng thơ và thơ hết sức bình dân, mà việc phổ biến các tác phẩm Phật Học này cũng rất đặc biệt: là một số tín đồ có giọng tốt học thuộc lòng và đi diễn ngâm khắp đồng bằng Nam Bộ và những tín đồ khác, có hoa tay, thì lại chép các bài thơ sấm giảng này thành 100 bản, 200 bản và luân chuyền khắp nơi, với vài trăm người như thề hàng trăm ngàn ấn bản có thể phổ biến dễ dàng và sâu rộng (sau này nhờ một tín đồ có quốc tịch Pháp là bà Trần Văn Tâm đứng xin giấy phép xuất bản nên ấn bản đầu tiên của Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hỏa mới được in). Cho đến năm 1965, khoảng 800.000 ấn bản các tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ đã được in và đến năm 1975 thì trên một triệu quyển đã được in ra. Không một tác giả Phật Giáo nào, và có lẽ ít có một tác giả Việt Nam nào, cho đến nay, có được một số lượng tác phẩm được phát hành lớn lao như thế. Qua phương pháp trị bịnh thần diệu và truyền giảng Phật Pháp một cách giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, chỉ trong một thời gian ngắn ngay trong năm 1939, "Câu Tư Hòa Hảo" tức thanh niên 20 tuổi Huỳnh Phú Sổ, đã được dân chúng tôn sùng, quy ngưỡng như một vị giáo chủ và ngôi nhà của ông tại làng Hòa Hảo trở thành thánh địa. Nông dân đã đáp ứng một cách nồng nhiệt bằng cách quy y nhập đạo, ngày càng đông đảo, giới điền chủ, trí thức nghi ngờ, dè dặt và nhiều người đã thử thách đến viết những bài thơ chữ Hán, là thứ chữ Huỳnh Phú Sổ chưa bao giờ học, để thử tài ông. ông đã họa lại và khiến các nhà nho này khâm phục. Như Thầy Bảy Tốt ở Long Xuyên đến so tài làm thơ bằng chữ Hán, có hôm làm không kịp với Huỳnh Phú Sổ, ông phải rút trọn một câu trong sách thuốc Thọ Thế đưa vào bài thơ, bị Huỳnh Phú Sổ vừa cười vừa chọc: "ông hết chữ rồi nên mới rút tới câu đó". Một hôm khác nhân đọc câu "Trần Di ngủ say câu thành tựu" trong bài Diệu Pháp Quang Minh của Huỳnh Phú Sổ, ông bèn hỏi: "Bạch Ngài, tôi e chữ thành tựu chưa có ai dùng. Phải chăng Ngài đã lẫn lộn? "Huỳnh Phú Sổ trả lời về xem lại bộ Tứ Thơ thì sẽ thấy. ông về tra lại nhưng không thấy, đến hỏi, được Huỳnh Phú Sổ cho biết là chữ thành tựu được lấy ra từ hàng chữ cháu con "nhứt nhứt thành tựu". Một nhà nho khác là ông Huỳnh Hiệp Hòa ở Long Xuyên đến đưa một bài thơ bằng chữ Nho, Huỳnh PHú Sổ đã viết liền không suy nghĩ một bài thơ họa lại cũng bằng chữ Nho, bài "Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương". Hay ông Nguyễn Kỳ đức cũng ở Long Xuyên đến trình một bài thơ chữ Nho, hỏi Huỳnh Phú Sổ về vận nước ngã nghiêng, thì ông đã ngay lập tức họa lại một bài thơ chữ Nho để đối đáp lại, bài "Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên". Hay ông Ba Thận ở Tân Châu làm hai bài để thử tài và chất vấn Huỳnh Phú Sổ nhưng đã được Huỳnh Phú Sổ trả lời ngay những điều ông muốn hỏi dù ông chưa kịp xuất trình hai bài thơ đó. Không những biết chữ Hán rất uyên thâm, ông đọc kinh bằng 18 thứ tiếng khác nhau. Các nhà Tân Học thì lại thử thách Huỳnh Phú Sổ bằng cách đặt những câu hỏi hóc búa liên quan đến kiến thức mới hay đến tình hình. Như Bác sĩ Trần Lũy ở Rạch Giá hỏi: "ông có thể cho tôi biết quan niệm của ông về thuyết Darwinisme? ". Huỳnh Phú Sổ ung dung trả lời: "Phải ông muốn hỏi tôi về vấn đề ông Darwin cho rằng thỉ tổ của loài người là khỉ chăng?... Nếu quả thật khỉ là thỉ tổ của loài người thì từ mấy chục ngàn năm nay nó đã thành người hết rồi, trong rừng sẽ không còn con khỉ nào. Còn như nói người là biến thân của khỉ cũng như con ếch là biến thân của con nòng nọc, thì khi sanh ra loài người phải có đuôi như khỉ, đến lớn lên cái đuôi đó rụng như đuôi nòng nọc mới phải chớ". Chỉ học tới tiểu học (lớp năm) mà Huỳnh Phú Sổ bác thuyết tiến hóa của Darwin như thế thì cũng khác chính xác, hợp lý. Chớ nếu hỏi "Darwinisme là gì với "các ông đạo" ở miền Tây thì các ổng chắc chắn sẽ... á khẩu. ông bác vật (thời đó kỹ sư ở miền Tây được gọi là bác vật) Nguyễn Văn Thời, gốc Rạch Giá hỏi: "Giáo chủ nói chuyện độc lập, vậy khi người Phái đi khỏi xứ này rồi, ai sẽ giúp ta thiếp lập hệ thống đường xá cầu cống để phát triển kinh tế? Làm sao ta có đủ kỹ thuật, nhân tài, vật lực để làm những việc hệ trọng đó?". Huỳnh Phú Sổ trả lời: "Sau khi Thực Dân Pháp ra đi sẽ có các nước văn minh khác trên thế giới giúp Việt Nam giải quyết vấn đề đó". Thật là gọn, nhưng đây cũng là lời tiên tri. Một trí thức tân học khác yêu cầu giải thích một cách khoa học về hiện tượng ông đọc được tư tưởng của người khác. Huỳnh Phú Sổ trả lời như sau: "Tôi là một cái máy thâu thanh nhạy và mạnh hơn máy thâu thanh của người thường. Những ý nghĩ trong trí ông thể hiện thành những làn sóng, người thường như cái máy thâu thanh yếu không thể bắt được những làn sóng đó, còn tôi nhờ có máy thâu thanh mạnh hơn nên bắt được làn sóng của ông. Có người kêu là lục thông, giác quan thứ sáu". Giải thích như thế là rất khoa học (tuy nhiên "lục thông" không phải là giác quan thứ sáu, có lẽ chỉ là một cáh nói bình dân cho mọi người hiểu). Có người lại hỏi một vấn đế khá tế nhị: "Tại sạo đi đâu ông cũng ở nhà những người giàu có, chớ không thấy ở nhà kẻ nghèo hèn? ". Huỳnh Phú Sổ ung dung trả lời: "Nhà giàu như cáo gò, nhà nghèo như cái hố. Tôi ở nhà giàu cũng là để ban cái gòn xuống cho cái hố nhờ cậy". Thật là tuyệt và đúng tinh thần xã hội Phật Giáo, khác hẳn với tinh thần của chủ nghĩa xã hội Mác Xít, nghĩa là không cưỡng bức, sắt máu, chỉ đánh thức từ tâm của họ để họ phát tâm từ bi cứu khổ, giúp nghèo. Quan niệm Phật giáo về giàu, nghèo là do ở nguồn gốc thiện nghiệp hay ác nghiệp trong quá khứ. Người giàu có là nhờ làm việc việc phước đức từ đời trước và ngày nay nếu họ giàu có hay có dư dã thì phải nên cúng dường, trao tặng cho người nghèo khó, giống những cành cây sây trái quá nặng, nếu không hái bớt thì sẽ dễ dàng bị gãy. Còn "ban cái gò xuống cho cái hố nhờ cậy" cũng được ông cụ thể hóa trong tuyên ngôn và chương trình của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, tức là tiết chế tư bản và bảo vệ quyền lợi của tầng lớp lao động. Cách ứng xử của ông rất linh động, uyển chuyển, chớ không hẳn là chỉ gần gủi giới giàu có: khi ông quận trưởng Tân Châu Nguyễn Văn Lễ đem xe hơi đến rước thì Huỳnh Phú Sổ đã từ chối và đi thuyền của một tín đồ dân thường, ông nói: "Tôi đâu có thể thiên vị kẻ giàu mà phụ bạc kẻ nghèo". Nhân tiện ông giảng dạo cho ông Chủ Quận: "Song thân ông có tu nhơn tích đức nên nay ông mới được chức trọng quyền cao. Vậy ông nên lập công bồi đức nếu ông muốn hưởng phước được lâu dài". Lời khuyên này hoàn toàn phù hợp với quan niệm phước đức, nhân quả của Phật giáo. C/ Những năm tháng bị quản thúc. Số tín đồ và ảnh hưởng của Huỳnh Phú Sổ càng ngày càng gia tăng trong chưa đầy một năm kể từ ngày khai đạo và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ, rộng lớn làm cho Thực Dân Pháp phải lo ngại. Ngày 18/8/1940 nhân viên công lực tỉnh Châu đốc đến làng Hòa Hảo bắt buộc Huỳnh Phú Sổ phải lập tức theo họ về tòa hành chánh tỉnh Châu đốc, ông không kịp thay áo quần và khi ra đi chỉ kịp cầm theo tấm "giấy thuế thân" (Thời Pháp Thuộc mỗi người dân phải đóng một thứ thuế trên chính con người của mình để trở thành một người dân nô lệ "hợp pháp", gọi là "thuế thân", không đóng "thuế thân"sẽ bị đi ở tù). Tại đây sau vài giờ làm thủ tục, ông giao chuyển qua cho Cò mật thám (trưởng công an) Bazin của tỉnh Sa đéc (sau trở thành giám đốc sở Mật Thám Nam Kỳ). Tên này tra hỏi có phải ông là tác giả mấy quyển Sấm Giảng không? ông nhận là do chính ông viết. Bazin không tin một thanh niên vừa đúng 20 tuổi, học hành dang dỡ lại có thể sáng tác nổi nên hỏi: "Nếu thật ông viết thì ông thử viết cho tôi coi". Huỳnh Phú Sổ liền sáng tác và viết ngay bài thơ Sa đéc sau đây: "Muốn lập đạo có câu thành bại, Sự truân chuyên cú Khách Thiền Môn. Khắp sáu châu nức tiếng người đồn, Ta Chịu Khổ, Khổ Cho Bá Tánh. Tiếng Gọi đời Sông Mê Hãy Lánh, Chạm lợi quyền giàu có cạnh tranh. Bước chông gia đường đủ sỏi sành, đành tách gót lìa quê hương dã. Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã, Bởi sự thường của Bực Siêu Nhơn. Dẫn gian lao dạ sắt chẳng sờn, Miễn Sanh Chúng Thông đường Giải Thoát". Bài thơ này diễn tả tâm trạng, nguyện lực và nhân cách lớn của một đại Phật Tử, một bồ tát và phảng phất hình ảnh, không khí của các Thánh Tử đạo Phật Giáo, hay của Jesus Christ khi đang bị đóng đinh trên thập tự giá: "Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh", dù khi đó ông chỉ mới 20 tuổi. Nghe xong bài thơ này Bazin phải nhận Huỳnh Phú Sổ là một người xuất chúng, có tâm hồn tôn giáo nhiệt thành và tạm quản thúc ông ở nhà ông Phán đặng. Rồi chỉ hai tháng sau, ngày 23/5/1940, chuyển ông sang ở làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ, quản thúc ở nhà ông Hương Võ Mậu Thạnh. Tại cả hai nơi này, quần chúng tìm đến đông đảo để nghe thuyết pháp và xin quy y nhập đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Cho nên chỉ hai tháng sau, ngày 28/7/1940, nhà cầm quyền Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ vào bịnh viện Cần Thơ và sau đó chuyển lên nhà thương điên Chợ Quán Sài Gòn. Cùng thời bên xứ Nga, Stalin cũng đã gán cho những người đối lập với ông ta là những người mắc bịnh tâm thần và đều quản thúc họ ở các nhà thương điên. Tại đây, chính người điều trị, quản thúc là y sĩ Trần Văn Tâm và cả người gác dan cũng quy y đạo Phật Giáo Hòa Hảo và tôn thờ Huỳnh Phú Sổ như một vị giáo chủ. đặc biệt y sĩ Trần Văn Tâm là một trí thức tân học có nghiên cứu Phật Giáo, ông đã bị Huỳnh Phú sổ chinh phục và quy y vì khâm phục kiến thức Phật Học uyên bác, sâu sắc và đạo đức của Huỳnh Phú Sổ. Không những có tài trị bịnh và thuyết pháp, Huỳnh Phú Sổ còn có khả năng biết những việc xẩy ra trong quá khứ, biết được tư tưởng của người khác, dù cách xa và tiên tri đúng những việc sẽ xẩy ra trong tương lai. Theo Trần Kim Thiện, con của y sĩ Trần Văn Tâm kể lại thì "Bà kế mẫu của mẹ tôi, sau này trở thành kễ mẫu của ông Nguyễn Ngọc Thơ (Phó Tổng Thống đệ nhất Cộng Hòa) được đức Thầy trị cho hết bịnh đau nhức xương trên lưng mà bà đi bao nhiêu bác sĩ trị không dứt, cho nên bà đến xin đức Thầy cho bà "vài chai thuốc Phật" (tức là nước lã mà đức Thầy đã cho bà uống mà dứt bịnh). đức Thầy có trả lời rằng: "Thuốc Phật đâu mà bà xin nhiều đến vài chai? Sao bà không nhớ có lần người ta xin bà một chai nước mắm mà bà còn tiếc không cho, bây giờ lại xin tới vài chai thuốc Phật?". Bà kế mẫu nghe vậy kinh sợ vô cùng "vì chuyện này đã thật sự có xẩy ra khi bà còn ở với ngưới chồng trước là ông Huyện Chơn ở Long Xuyên". Chuyện thứ nhì là chuyện của chính tôi... ba má tôi xuống chúc Tết đức Thầy vì là đầu xuân. đức Thầy có bảo má tôi nên trở về nhà vì có tôi về nhà ăn tết. Má tôi nghe lời đức Thầy trở về nhà thì quả nhiên có tôi ở nhà. Tôi đi lính đóng ở Bắc Việt, xin phép về Sài Gòn ăn tết, nhưng có ý không cho gia đình hay, muốn dành cho ba mẹ tôi một điều bất ngời thích thú... Tại sao đức Thầy lại biết được dự định trong ý riêng của tôi trong khi tôi ở tuốt xa ngoài Bắc Việt?". (Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, t 167-203) Hay theo lời kể của ông Trần Văn Soái, tự Năm Lửa, một thị giả của Huỳnh Giáo Chủ, thì có một lần nhân rũ mền gối của đức Thầy, ông thấy một con rệp, ông liền giết chết, không ai hay biết. Nhưng đức Thầy vẫn biết và quở rằng: "Nó cắn tôi chứ đâu có cắn ông mà ông nở giết nó". Hôm sau cũng nhân rũ mền gối, ông Soái thấy một con rệp khác, ông liền lén bắt đem ra phơi nắng. thế nhưng đức Thầy cũng biết là la ông. Sau đó ít hôm, ông cũng thấy một con rệp khác trên giường của Huỳnh Phú Sổ, lần nầy ông lén bỏ vào miệng nuốt luôn xuống bụng, không ai hay biết cả. Thế những lần này đức Thầy cũng biết và cười bảo ông: "Hết giết bằng tay, bằng bỏ phơi nắng, bây giờ ông lại giết người ta bằng cách nuốt vào bụng". (Băng giảng Những Mẫu Chuyện Bên Thầy). Ngoài ra, trong dịp đi khuyến nông, ông làm bài thơ có câu "Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc" vào khảng tháng 5 năm 1945 rồi nói với ông Lương Trọng Tường, thủa ấy là chánh thư ký Ban Trị Sự Trung Ương PGHH: "Bây giờ tôi viết Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc mà ngày sau người ta sẽ đọc Thằng chệt đã tràn vào Trung, Bắc cho mà coi". Quả nhiên vài tháng sau, Nhật đầu hàng, theo hiệp ước Yalta của các cường quốc đồng Minh thắng trận, Trung Hoa Dân Quốc cử tướng Lư Hán kéo quân Tàu (người bình dân trong Nam Bộ gọi là Chệt) vào chiếm đóng miền Trung và miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở lên, và quân Anh chiếm đóng từ vĩ tuyết 16 trở xuống. Vào tháng 5/45, ngay cả những lãnh tụ thế giới như thủ tướng Anh Churchill, tổng thống HOa Kỳ Roosevelt, tổng bí thư Cộng đảng Liên Sô Stalin, ký vào hiệp ước Yalta, là hiệp ước phân chia thế giới tập trung vào cục diện Ấu Châu, thì họ có lẽ cũng không để ý có điều khoản liên quan đến Việt Nam. Bằng tuệ giác nào mà Huỳnh Phú Sổ đã tiên tri quân Tàu sẽ vào Trung, Bắc? Huỳnh Phú Sổ bị quản thúc ở nhà thương Chợ Quán cho đến ngày 5/6/1941. Sau đó ông bị giải qua bót Catinat thẩm vấn 8 ngày và rồi Thực Dân Pháp lưu đày ông đến tỉnh Bạc Liêu, một tỉnh miền Tây xa nhất Sài Gòn, giáp vịnh Xiêm La. ở đây ông bị quản thúc ở nhà ông Võ Văn Giỏi và chịu sự quy định: không được trị bịnh, không được thuyết pháp và ngày thứ hai mỗi tuần phải đến trình diện tại ty công an. Tuy nhiên việc di chuyển ông đi ở nhiều tỉnh khác nhau đã là một cơ hội quý giá cho ông truyền đạo, thu nhận thêm nhiều tín đồ và đưa Phật Giáo Hòa Hảo lan rộng khắp đồng bằng sông Cửu Long. Trong giai đoạn bị cưỡng bức dời cư, ông đã viết những vần thơ tự tại: "Càng đi càng biết nhiều nơi. Càng đem chân lý tuyệt vời phổ thông... Ta cũng thương, thương trò liệu điệu, nhưng cũng mừng được dịp phổ thông...". ở bất cứ nơi nào bị lưu đày, Huỳnh Phú Sổ đều mở mang phát triển Phật Giáo Hòa Hảo và niềm tin tôn giáo mãnh liệt đã thắng những sự kềm kẹp, hạn chế của nhà cầm quyền. Nên cuối cùng Thực Dân Pháp dự định lưu đày ông qua Ai Lao. Ấm mưu này bị khám phá và một số tín đồ PGHH cùng với sự giúp đỡ của hiến binh Nhựt đã giải thoát ông và đưa ông về Sài Gòn. Phòng Tình Báo Quân Sự Pháp viết như sau: "Bạc Liêu đã trở thành nơi hành hương của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Họ tới thăm Thầy, khi về nhận chỉ thị miệng và sấm giảng, giấu diếm đem phổ biến khắp nơi. đó là những tài liệu, những thông điệp chống Pháp rõ rệt. Cho nên đầu năm 1942, nhà cầm quyền địa phương đề nghị đưa ông Huỳnh Phú Sổ trở về sinh quán. Nhưng Phủ Toàn Quyền quyết định đưa ông đi đày ở Ai Lao. Chỉ vài ngày trước khi thi hành quyết định này, một số tín đồ PGHH vớisự tiếp tay của hiến binh Nhật đã tổ chức giải cứu ông đưa về Sài Gòn. Những nhân vật có dính líu trong vụ này gồm có Lương Trọng Tường, Bùi Văn Trung, Cả Vi, Hội đồng điều, trung sĩ hiến binh Nhựt Kimura và tài xế Trần Văn Sơn". Chi tiết đầy đủ, chính xác hơn được ông Lâm Ngọc Thạch, con ông Lâm Thơ Cưu, người chủ mưu vụ này cho biết như sau: "Việc Pháp khủng bố Cao đài, bắt đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đày đi Madagascar làm cho tín đồ PGHH lo ngại. Khoảng tháng 9 năm 1942 đức Thầy nói riêng cho Biện Hùm biết Pháp có ý định đưa Ngài đi đày xa, ở ngoại quốc, giống như đã đày Hộ Pháp Cao đài đi Madagascar. Biện Hùm về gặp cha tôi (Lâm Thơ Cưu) bàn tính kế hoạch đưa gấp đức Thầy đi nơi khác... Cha tôi liền đến sở hiến binh Nhựt tại Sài gòn nhờ họ giúp... nhưng Kempeitai không cho mượn xe của sở hiến binh, họ tìm dùm chiếc xe hơi dân sự, giao viên thượng sĩ hiến binh Kishi cùng đi với cha tôi và tài xế Ba Xạ"... Như thế thì rõ ràng việc giải cứu này lo do sáng kiến của tìn đồ PGHH và họ chủ động thực hiện, Nhật chỉ giúp một phần nhỏ. Thái độ của Huỳnh Phú Sổ đối với Nhật rất minh bạch, đó là thái độ thân hữu mà vẫn giữ tư thế độc lập và đường lói, chủ trương của mình, vì bằng tuệ giác, Huỳnh Phú Sổ đã tiên tri chính xác rằng: "Nhựt Bổn ăn không hết nửa con gà". Năm Ât Dậu, 1945 tức năm gà và Nhật đã đầu hàng đồng Minh ngày 6/8/1945 (Thành Nam, sđd, t 167-223). D/ Thời gian sống tại Sài Gòn và đi khuyến nông tại miền Tây. Từ tháng 10 năm 1942, sau khi thoát khỏi sự kềm tỏa của Pháp và tạm trú an bình ở Sài Gòn, với sự bảo vệ của Nhật, Huỳnh Phú Sổ và PGHH bắt đầu một giai đoạn hoạt động mới: phát triển, củng cố hàng ngũ tín đồ xây dựng hạ tầng cơ sở và cơ cấu điều hành, huấn luyện cán bộ, liên kết với giới trí thức yêu nước, chuẩn bị đấu tranh cứu quốc, một tổ chức quân sự, phong trào Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo, cũng được thành lập. Chỉ trong ba năm ngắn ngủi, từ 1939 đến 1942, Huỳnh Phú Sổ đã có hàng trăm ngàn tín đồ và chỉ thêm ba năm sau đó, đến năm 1945, khi đất nước vỡ bùng trong những biến động chính trị lớn lao, thì Phật Giáo Hòa Hảo đã trở thành một tôn giáo có trên, dưới một triệu tín đồ, được đoàn ngũ hóa, có tổ chức, có kỹ luật, có lãnh đạo. Trên thật tế, PGHH, chỉ với 6 năm lịch sử, và tuy chỉ giới hạn ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đã mạnh hơn, và có những đóng góp lớn lao hơn cả toàn khối Phật Giáo cổ truyền có gần 2.000 năm lịch sử trong giai đoạn sôi động 1945-1947. Năm 1945 nạn đói khủng khiếp đã xẩy ra ở miền Bắc đưa đếm một thảm cảnh bi đát trong lịch sử cận đại VN: gần hai triệu người Việt bị chết đói. Huỳnh Phú Sổ sáng tác bài Khuyến Nông và đi du thuyết tại 107 địa điểm ở các tỉnh miền Tây trong suốt hai tháng, từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945, để kêu gọi nông dân tăng gia sản xuất hầu có dư thêm lúa gạo cứu trợ đồng bào miền Bắc. Có nơi ông nói chuyện trước 10.000 người, ít lắm cũng một, hai ngàn người và có ngày ông diễn thuyết trước cả 5,6 chỗ khác nhau. đây là dịp ông trở lại miền Tây và gặp lại tín đồ sau hai năm xa cách nên các tín đồ PGHH đã vô cùng vui mừng, tiếp dón vô cùng trang nghiêm, long trọng, họ dựng các khải hoàn môn, bày các hương án dọc hai bên đường để bày tỏ lòng tôn kính, các tín đồ nam phụ lãi ấu đứng chờ cả buổi, cả ngày hai bên đường để mong được gặp vị Giáo Chủ đáng yêu đáng kính của họ. Có người ghi nhận là ông được đón tiếp "còn hơn cuộc tiếp rước quan Toàn Quyền đi kinh lý". Dịp này số tín đồ quy y, gia nhập PGHH gia tăng mạnh mẽ và một không khí yêu nước, yêu đồng bào, tích cực sản xuất và chuẩn bị hành động cứu quốc lan tràn sôi nổi khắp miền Tây. Tinh thần này đã tỏa ra sôi sục từ bài Khuyến Nông của ông: "Kẻ phu tá cũng là trọng trách, Cứu giống nòi quét sạch non sông. Một phen vác cuốc ra đồng, Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai. Mưa nắng ấy đâu nài thân xác, Chí hy sinh dầu thác cũng cam." Lời hịch khuyến nông này cũng là lời hịch kêu gọi tín đồ sẵn sàng đứng lên như ông Lê Minh điều tự thuật: "Tôi là người làm ruộng ở Sa đéc và có tham gia phong trào Bản An PGHH. Khi nghe được bài Khuyến Nông của đức Thầy, chúng tôi thảo luận với nhau và đồng ý rằng thời cuộc đã đến lúc xoay chuyển, cho nên đức Thầy mượn cơ hội khuyến nông để kêu gọi tín đồ hãy sẵn sàng để hy sinh cho đất nước". (TN, sđd, t 211). Chẳng bao lâu sau, như dự kiến của Huỳnh Phú Sổ, Nhật Bản bị liên tiếp thảm bại, bị Hoa Kỳ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai phố Hiroshima và Nagasaki và đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15/8/1945. Một vận hội mới mở ra cho dân tộc Việt Nam. Huỳnh Phú Sổ, trong giai đoạn này, đã sáng tác một bài thơ tuyệt với... "Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha, đền xong nợ nước thù nhà. Thiền môn trở gót Phật đà Nam Mô". ông Việt Nam còn hơn cả những người Việt Nam nất, ông là Phật Giáo hơn cả những người Phật Giáo nhất. ông là một đại Phật Tử, đại thiền sư, đại bồ tát. Qua ba câu thơ này, và qua cuộc đời ông, đã gói trọn, một cách viên mã, đã kết tinh, một cách rực rỡ, đã hiển sinh, một cách chói lọi, truyền thống yêu nước, truyền thống hành động của Dân Tộc Việt Nam và của Phật Giáo Việt Nam. Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, dù chỉ mới 25 tuổi, Huỳnh Phú Sổ đã thành lập hay tham gia, và đóng góp ở vai trò lãnh đạo các tổ chức cách mạng yêu nước sau đây: Năm 1945: - Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội; - Việt Nam Vận động độc Lập Hội; - Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất; - đệ Tứ Sư đoàn Dân Quân; Năm 1946: - Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (Chủ Tịch); - Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng (Lãnh tụ và linh hồn); Năm 1947: - Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ (Ủy Viên đặc Biệt); - Mặt Trận Toàn Quốc. Cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm đã trình bày khá chi tiết cuộc hành trình khuyến nông tại miền Tây của Huỳnh Phú Sổ: "khởi hành tại Sài Gòn nơi căn nhà số 38 đường Miche ngày 10-5-1945, đức Thầy và ông Lương Trọng Tường cùng vài đệ tử thân tín xuống Cần Thơ rồi qua Cái Răng, Sóc Trăng, Bãi Xào. Sau khi khuyến nông thuyết pháp, đức Thầy đến Bác Liêu khuyến nông và thuyết pháp tại đình Tân Hưng, thính giả đông nghẹt... Tỉnh trưởng, thẩm phán và nhiều nhà trí thức trong tỉnh lỵ có đến dự thính. Sau hai giờ chăm chú xem, nghe, mọi người đều thán phục tài hùng biện của đức Thầy. Bữa sau, đức Thầy đi khuyến nông tại Vĩnh Châu, chiều lại, Ngài thuyết pháp ở Sóc đồn. Ngày kế đến, đức Thầy đi ghe vô chùa Linh Quang Tự. Chính đức Thầy đã đặt tên cho ngôi chùa này và có làm hai câu liễn như vầy: a. Phật pháp khai thông, khổ hải trùng trùng tâm bất khiếp, trần duyên bế tắt, liên đài điệp điệp đạo vô cùng. b. Phật pháp hoằng khai, chuẩn tế thương sinh đăng giác ngạn, trần tâm tịnh tận, siêu thăng cực lạc tọa liên đài. Khi đức Thầy vừa đến thì trong chùa nổi trống sấm, gióng đại hồng chung, và gõ mõ tiếp nghinh trọng thể. Thấy vậy, đức Thầy hỏi ông giáo thọ có biết chuyện tích về chuông mõ chăng? Thấy ông lúng túng, đức Thầy liền tiếp: "Thôi, để lát nữa Thầy sẽ nói cho mà nghe". Thế rồi trong khi thuyết pháp, đức Thầy có nhắc lại chuyện tích cái chuông, cái chày kinh (có hình con cá kình) và cái mõ có chạm hình con cá ngạc... Trước khi rời khỏi Bạc Liêu, đức Thầy có đi khuyến nông ở Hòa Bình, Giá Rai và Cà Mâu... Ngày 12 tháng 5 năm Ât Dậu, đức Thầy từ giã Bạc Liêu đi qua Vị Thanh, Giồng Riềng... kinh xáng Cái Sắn... Tân Hội... rồi Ngài trở về Rạch Giá ở đó ngày 19 và 20. Bữa sau có na nô đưa đức Thầy đi Sốc Xoài và Ba Hòn... Cũng tại Rạch Giá, đức Thầy đã trả lời trôi chảy nhiều câu hỏi về tôn giáo, chánh trị và khoa học huyền bí do các bậc trí thức đưa ra, làm cho họ tấm tắc ngợi khen... Từ giã Ba Hòn (Rạch Giá), đức Thầy đi thẳng Hà Tiên, Châu đốc... đức Thầy đến thuyết pháp khuyến nông tại sân vận động. Buổi diễn thuyết hôm ấy có nhiều nhà trí thức đến dự thính, như: tỉnh trưởng Hồ Tần Khoa, đốc Công Trần Văn Dương, Y sĩ Phạm Văn Tiếc... Trưa lại, đức Thầy đi Bình Di thuộc quận Châu Phú thượng bây giờ là quận An Phú đến tối mới về tới Châu đốc. Cũng trong dịp này, vài ông sãi ở Khánh An có nằm mộng thấy Phật về thôn họ. Nhưng khi đức Thầy đến nhằm lúc dùng cơm, mấy ông sãi vẫn tiếp tục bữa cơm và không đứng lên thi lễ. đức Thầy mỉm cười nói với ông Hồ Văn Lang: "Người ta trông Phật, nhưng khi gặp, lại chẳng biết nhìn". Bữa sau, đức Thầy đi Tịnh Biên. Bận về có ghé Tri Tôn, Thới Sơn và Nhà Bàng. Khi về tới núi Sam, đức Thầy lại viếng mộ Phật Thầy. Hôm sau, cuộc khuyến nông thuyết pháp cử hành tại chợ Cái Dầu... Bữa sau, đức Thầy quan Tân Châu khuyến nông tại sân vận động rồi đi thẳng Hồng Ngự khuyến thuyết... Chiều lại, đức Thầy về tới Hòa Hảo ngày 26.6 Ât Dậu. đêm đó, anh em tín đồ tựu lại quá đông. Anh em ấy ngồi sắp hàng ngoài lộ, từ nhà đức ông lên tới chợ Mỹ Lương (Cái Tắc). đức Thầy phải ra đường đi lên đi xuống, ngó qua ngó lại cho anh em thấy mặt Ngài nhờ anh sáng của chiếc đèn măng sông do một người cầm theo. Sáng bữa sau (27.5), đức Thầy lên diễn đài tại chợ Vàm (sân vận động)... chiều ngày 27 đức Thầy thuyết pháp khuyến nông tại đình Hòa Hảo. Ngày 30.5 đức Thầy đem lư hương từ Tổ đình xuống chùa An Hòa Tự (Hòa Hảo). Ngày mùng 1 tháng 6, đức Thầy qua Năng Gù. Ban Trị Sự PGHH tỉnh Long Xuyên đón Ngài tại đó và rước Ngài về Long Xuyên... Ngày 2.6, đức Thầy đi Vĩnh Trạch và núi Sập. Ngày 3.6, đức Thầy đi Chợ Mới, ngày 4.6, Ngài đi Mỹ Luông, ngày 5.6, Ngài đi đốc Vàng (Tân Thạnh). Chiều lại, Ngài về Mỹ Hội đông. Sáng bữa sau, đức Thầy thuyết pháp tại sân vận động thôn Mỹ Hội đông rồi về Long Xuyên. Bữa sau đức Thầy đi Thốt Nốt rồi trở về Long Xuyên. Rồi 11 giờ tối ngày ấy, đức Thầy đi luôn xuống Cần Thơ. Diễn đài ở Cần Thơ là sân vận động của tỉnh thành. Không cần phải nói, chư độc giả cũng dư biết rằng số thính giả ở Tây đô phải nhiều hơn các chỗ. Bữa sau, đức Thầy đi Xà No thăm gia quyến ông Hương Bộ Thạnh rồi thuyết pháp ở Cái Tắc. Bữa sau nữa, đức Thầy khuyếnnông tại Phụng Hiệp và Cái Răng. Trong các ngày kế đó, đức Thầy thuyết pháp tại Trà Mơn, ô Môn, Cờ đỏ. Có điều kỳ lại là trong khi đức Thầy khuyến nông tại Phụng Hiệp, trời chuyển mưa, mây đen kìn kịt rồi mưa tuôn xối xả ở tại chợ, cách đó chừng 100 thước. Nói tóm lại là chung quanh đều mưa to, duy có vùng đức Thầy đang thuyết pháp không có mưa. Sau Cần Thơ là đến lượt Sa đéc, Cao Lãnh, Vĩnh Long, Tam Bình, An Trường, Trà Vinh, Càng Long, Bến Tre tiếp rước đức Thầy. Chính tại Sa đéc, trong dịp đi khuyến nông này, đức Thầy đã viết bài "Phụ Nữ Ca Diêu". Ngày 28-7-1945, đức Thầy đến Vĩnh Long. Sáng bữa sau, đức Thầy thuyết khuyến tại sân vận động tỉnh thành. Trưa lại, anh em Thanh Niên Tiền Phong và anh em tín đồ ở các thôn tụ họp lại để mong đức Thầy thuyết nữa. Lúc đó, gương mặt đức Thầy thật là khả ái. Toàn thể thính giả đều quỳ để nghe, trong lúc trời lâm râm rớt hột..." (trang 247-257). Có thể nói, cho đến năm 1945, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, chưa có một nhân vật Phật giáo nào vừa đi thuyết pháp, vừa đi khuyến nông, ở một quy mô lớn lao và được tiếp đón trang nghiêm, long trọng như thế. Chỉ có thái thượng hoàng Trần Nhân Tông, tức đại thiền sư Trúc Lâm của thế kỷ 14, trong thời kỳ vàng son nhất cửa PGVN, may ra mới có những cuộc viễn du thuyết pháp qua các làng mạc, tỉnh thành và được nghênh đón như cách cảm động như thế. Sau này, trong thập niên 60 của thế kỷ 20 này, thiền sư Trí Quang và các vị danh tăng khác được đông đảo quần chúng Phật tử đón tiếp một cách kính cẩn, cuồng nhiệt còn hơn thế nữa. Tuy nhiên các vị này đã xuất hiện trong một không khí và thời cuộc Phật giáo đã chuyển mình thức dậy, sau 500 ngủ say, tiếng thở như sấm và suy đồi tận gốc. Tác giả Thất Sơn Mầu Nhiệm kết thúc đoạn viết về chuyến khuyến nông và hoằng pháp bằng bài thơ sau đây của Huỳnh Phú Sổ: 'Trên đường về Sài Gòn, ngồi trong xe với đức Thầy có thi sĩ Việt Châu mà Ngài vừa mới thâu phục tại Sa đéc... đức Thầy bảo ông Việt Châu thử làm một bài thơ tả cảnh ngồi trong xe trên đường về Sài Gòn. Thấy ông ta nặn óc mãi mà chẳng ra thơ, đức Thầy liền ứng khẩu ngâm bài thơ dưới đây". đây là một trong những bài thơ hay nhất, tuyệt tác và độc đáo, trong đó là một đoạn tóm lược đại nguyện bồ tác của tác giả: "Tăng Sĩ Quyết; Chùa, Am Bế Cửa, Tuốt Gươm Vàng Lên Ngựa Xông Pha. đền Xong Nợ Nước Thù Nhà, Thiền Môn Trở Gót Phật đà Nam Mô. Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật, Bụi hồng trần dứt sạch cửa Không. Chuông linh ngân tiếng đại đồng, Ta bà thế giới sắc không một màu. Sài Gòn đến trống lầu đã trở, đề huề nhau cửa mở xuống xe. Khuyến nông chấm dứt mùa hè..." Chỉ một tháng sau đó, Nhật Bản đầu hàng đồng Minh, Huỳnh Phú Sổ tuốt gươm vàng xông pha giữa trời quê hương rực cháy trong khởi nghĩa và chiến tranh.[/TD]
E/ Quê hương bừng dậy trong cách mạng và kháng chiến. Trong năm 1945 nhiều biến cố quan trọng đã xẩy ra và đưa toàn dân VN một cơ hội giành lại độc lập sau 80 năm bị Thực Dân pháp thống trị. Ngày 9/9/1945 Nhật đảo chánh lật đổ chính quyền Pháp ở đông Dương và đặt sự cai trị lên trên ba nước Việt, Miên, Lào. Lực lượng Thực Dân Pháp, trong thế yếu, bằng lòng đặt dưới sự điều động của quân đội Nhật. ngày 12/3/1945 vua Bảo đại ra tuyên cáo hủy bỏ tất cả hiệp ước bất bình đẳng mà nhà cầm quyền VN đã ký với pháp ngày 6/6/1862 và ngày 15/8/1884. Ngày 18/3/1945 một cuộc biểu tình lớn, quỵ 50.000 người tham gia gồm tất cả đảng phái. Ngày 17/4/1945 chính phủ Trần Trọng Kim ra đời với khẩu hiệu "Dân Vi Quý". Tháng 5/1945 nạn đói khủng khiếp hoành hành miền Bắc, hàng triệu người chết đói, nguyên do quân đội Nhật bắt dân phá đồng ruộng, trồng cây kỹ nghệ phục vụ chiến tranh, thay vì trồng lúa, và một phần khác do tình trạng chiến tranh, máy bay đồng Minh dội bom phá hủy cầu cống nên gạo trong Nam không chở ra Bắc được. Ngày 12/6/1956 Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức thanh niên yêu nước, ra mắt đồng bào và biểu tình tại Sài Gòn. đệ Nhị Thế Chiến đi vào giai đoạn kết thúc, ngày 6 và ngày 8 tháng tám, Hoa Kỳ thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Ngày 14/8/1945 Huỳnh Phú Sổ cùng những lãnh tụ quốc gia tại Sài Gòn như Hồ Văn Ngà, Trần Văn Ấn, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Thạch... đã thành công liên kết tất cả đảng phái và thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Một ngày sau, Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngày 21/8/1945 Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại với trên 200.000 người tham dự, nhưng những người lãnh đạo đã không tuyên bố Việt Nam độc lập và cũng không cướp chính quyền. Một ngày sau, ngày 22/8/1945 Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội sau một cuộc biểu tình trước nhà hát lớn Hà Nội, cuộc biểu tình này không do Việt Minh đứng tổ chức, họ chỉ xuất hiện vào phút cuối, căng một số biểu ngữ và hướng cuộc biểu tình tiến chiếm dinh Khâm Sai. Chỉ một ngày sau, ngày 23/8/1945 vua Bảo đại tuyên bố thoái vị và trao quyền lãnh đạo cho Việt Minh. Ngày 24/8/1945 Tổng Bộ Việt Minh phái vào Nam Hoàng Quốc Việt (tức Hà Bá Cang) và Cao Hồng Lãnh. Lúc bấy giờ, ảnh hưởng Việt Minh, cũng như ảnh hưởng của đảng Cộng Sản đông Dương, hầu như không có gì đáng kể tại miền Nam. Ngày 25/8/1945 vua Bảo đại trao quyền và trao ấn, kiếm của Nhà Nguyễn cho đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu. Việt Minh, tức Việt Nam độc Lập đồng Minh Hội, là một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản đông Dương, do đảng này trực tiếp thành lập và chủ động lãnh đạo. Quyết định vội vàng này đã để lại những hậu quả tai hại nghiêm trọng cho dân tộc Việt Nam suốt trong nửa phần còn lại của thế kỷ 20 này: nó vô tình tiếp tay, một phần không nhỏ, trong việc tàn sát những người yêu nước trong giai đoạn tranh quyền xẩy ra ngay sau đó, làm cuộc tranh đấu giành độc lập của nhân dân Việt Nam thêm khó khăn và tốn rất nhiều xương máu, đưa đến sự chia cắt đất nước, chiến tranh khốc liệt, cả đất nước bị tàn phá và dân tộc bị phân hóa cùng cực. đáng lý ra, trong giai đoạn này và trước sự kiện chính phủ Trần Trọng Kim từ chức, vua Bảo đại nên tuyên bố Việt Nam là một nước Quân Chủ Lập Hiến, do vua đứng đầu làm biểu tượng và đất nước được cai trị bởi một hiến pháp. Vua chỉ định người đứng đầu Việt Minh là Hồ Chí Minh thành lập chính phủ như đã chỉ định Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. Và đây phải là chính phủ đại đoàn kết dân tộc và chỉ có tính cách lâm thời. đồng thời chỉ định một ủy ban soạn thảo hiến pháp và xúc tiến việc bầu cử thành lập một quốc hội. Chính đảng nào có đa số tại quốc hội sẽ được quyền thành lập chính phủ, lạnh đạo hành pháp. Hoặc giải pháp cấp tiến hơn là vua Bảo đại tuyên bố Việt Nam là một nước Cộng Hòa và vua là quốc trưởng và quốc trưởng bổ nhiệm Hồ Chí Minh làm thủ tướng thành lập chính phủ. (đây cũng chính là đề nghị ông Hồ Chí Minh đưa ra cho ông Bảo đại khi ông bị những khó khăn đối ngoại và đối nội tràn ngập). Việc vua Bảo đại từ chức thoái vị, giải tán chính phủ đương nhiệm và giải tán luôn cả triều đại của mình, trao toàn quyền cho Hồ Chí Minh, và Việt minh, trên thực tế là trao toàn quyền chính thống cho đảng Cộng Sản đông Dương, một "chi bộ" của Cộng Sản Quốc Tế, là nhân vật và tổ chức mà chính vua Bảo đại và toàn dân Việt Nam chưa biết rõ, thì đó là một thái độ thiếu chính trị và thiếu trách nhiệm. đúng như Lenin đã nói: "nhiệt tình cộng với dốt nát bằng phá hoại". Không kể những hậu quả tai hại không lường sau đó, kết quả tại hại trực tiếp mà mọi người đềm cảm thấy là Việt Minh đã tàn sát không gớm tay tất cả những người yêu nước có uy tín khác, bất chấp nhu cầu đại đoàn kết dân tộc, bất chấp khát vọng ưu tiên của nhân dân Việt Nam là tự do, độc lập, thống nhất quốc gia và thống nhất lòng người. Huỳnh Phú Sổ, một nhật vật yêu nước, có uy tín lớn lao tại miền Nam lúc đó, đã cùng với nhiều người yêu nước không Cộng Sản khác, đã trở thành nạn nhân của Cộng Sản đệ Tam. Ngày 25/8/1945 Việt Minh tại miền Nam tổ chức một cuộc biểu tình và cướp chính quyền tại Sài Gòn bằng cách tuyên bố danh sách Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ gồm 8 ủy viên trong đó Cộng Sản là 5 người và Trần Văn Giàu tự phong làm chủ tịch Ủy Ban. Ngày 2/9/1945 Hà Nội và Sài Gòn đều biểu tình, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn độc Lập và ra mắt đồng bào tại hội trường Ba đình. Ngày 7/9/1945 các đảng phái quốc gia và Cộng Sản đệ Tứ phản đối đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu, Cộng Sản đệ Tam, nhượng bộ, mở rộng thành phần và Phạm Văn Bạch được bầu làm chủ tịch Ủy Ban. Ngày hôm sau, ngày 8/9/1945 một biến cố quan trọng xẩy ra tại miền Tây: Phật Giáo Hòa Hảo biểu tình tại Cần Thơ và đây là lần đầu tiên trong lịch sử chính trị VN, đã có một cuộc biểu tình chống độc tài, cũng có nghĩa là chống chính sách độc tôn của Cộng Sản. đây là lần đầu tiên tại VN, việc chống độc tài và cổ võ dân chủ được công khai bày tỏ với sự tham dự của quần chúng. Cuộc vận động cho tự do dân chủ tại Việt Nam hiện nay, và có lẽ sẽ kéo dài qua thế kỷ 21 sắp tới, được bắt đầu từ ngày hôm đó tại Cần Thơ, ngày 8/9/1945. Và biến cố này đã được thai nghén từ chủ trương xây dựng dân chủ, chống độc tài dưới mọi hình thức của Huỳnh Phú Sổ. Sau cuộc biểu tình chống Thực Dân, chống độc tài quy tụ khoảng 20.000 người, những người cầm đầu là Huỳnh Thạnh Mậu, em ruột của Huỳnh Phú Sổ, Trần Văn Hoành, trưởng nam ông Trần Văn Soái, Nguyễn Xuân Thiếp, đại diện PGHH được phái ra Hà Nội tiếp xúc với Tổng Bộ Việt Minh, bị gán cho tội "âm mưu cướp chính quyền và chiếm tỉnh Cần Thơ" và đều bị bắt giam và bị đưa ra xử tử hình tại vận động trường Cần Thơ ngày 7/10/1945, dù rằng cuộc biểu tình ngày ban tổ chức đã thông báo và có xin phép, và được Ủy Ban Hành Chánh Tỉnh cho phép biểu tình. Ngoài ra, sau vụ này, hàng ngàn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo bị Việt Minh giam cầm và tàn sát. Ngày 9/9/1945 Việt Minh bao vây trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo ở số 8 đường Sohier, gốc đường Miche để bắt Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ nhưng không bắt được. Sau biến cố này, ông phải cải trang, trốn tránh và lưu lạc ra vùng hẻo lánh ở ngoại ô và các tỉnh lân cận. Ngày 13/9/ công an Việt Minh tìm bắt các lãnh tụ quốc gia gần gủi với Huỳnh Phú Sổ như Vũ Tam Anh, Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và lãnh tụ đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu. Ngày 13/9 quân đội Anh do tướng Douglas Gracey chỉ huy đổ bộ xuống Sài Gòn giải giới quân Nhật từ vĩ tuyết 16 trở xuống. Ngày 15/9 quân đội Trung Hoa Dân Quốc do tướng Lư Hán chỉ huy kéo xuống Hà Nội giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyết 16 trở lên. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều không thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Ngày 16/9 quân Pháp đổ bộ Sài Gòn. Tướng Gracey phóng thích và võ trang các phạm nhân Pháp. Ngày 23/9 quân Pháp tấn công và chiếm đóng các cơ sở hành chánh tại Sài Gòn. Ngày 24/9 bốn sư đoàn dân quân cách mạng nhất tề đứng dậy chống Pháp. Cuộc Kháng Chiến Nam Bộ bắt đầu. Các lực lượng Việt Minh rút chạy, chỉ có các lực lượng dân tộc liều chết chống quân Pháp. Ngày 27/9 một số lãnh tụ dân tộc nhóm họp ở Chợ Lớn thành lập Chánh Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Ngày 28/9 đại tá Pháp Cedille đề nghị ngưng chiến, nên sau một ngày thương thuyết, hai bên Việt-Pháp đồng ý hưu chiến kể từ ngày 1/10. Nhân dịp hưu chiến, bộ máy công an Việt Minh đã bao vây bắt giữ tất cả các lãnh tụ quốc gia như Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi Quang Chiêu, có người bị sát hại ngay, đặc biết là Việt Minh đã bắt giữ và tán sát gần một trăm nhân vật Cộng Sản đệ Tứ, tất cả đều bị chôn sống ở sông Lòng Sông, trong đó có những nhân vật tên tuổi, đã có thành tích đấu tranh chống Pháp như Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch... Ngoài ra, ông Tạ Thu Thâu, 39 tuổi, lãnh tụ nhiều uy tín, tài ba, đức độ, can trường của Cộng Sản đệ Tứ khuynh hướng Trotsky, và một nhà ái quốc tên tuổi, suốt đời hy sinh chống Pháp, đã từng bị Thực Dân tù đày, tra tấn đến tàn phế thân thể, cũng đã bị những người Cộng Sản đệ Tam, khuynh hướng Stalin, sát hại, thủ tiêu tại cánh đồng Dương Liễu trên bờ biển Mỹ Khê vào tháng 9/1945. điều đáng nói là chính Trần Văn Giàu đã hạ lịnh thủ tiêu Tạ Thu Thâu, dù Thâu là thầy dạy học của Giàu, đã tận tình giúp đỡ Giàu còn du học bên Pháp và coi Giàu như nghĩa đệ. Hay Hồ Văn Ngà, lãnh tụ đảng Việt Nam Quốc Gia độc Lập, cũng như hầu hết mọi người yêu nước đương thời, tuyên bố "sẵn sàng phục vụ bất cứ ai có tài cứu quốc", đã cùng các lãnh tụ quốc gia khác như Trần Văn Ấn, Nguyễn Văn Sâm thành lập Ủy Ban Phong Tỏa đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn để ngăn cản bước tiến quân của Thực Dân Pháp, và Ủy Ban làm việc khác hữu hiệu, trong khi các cán bộ lãnh đạo Việt Minh đã bỏ chạy, thế nhưng ông nửa đêm bị công an Việt Minh tới bắt đem đi mất tích, sau đó ông bị đâm chết ở Kim Quy đá Bạc (Rạch Giá) thi hài thả trôi dưới sông. Trong thời gian này, hàng ngàn nhân vật quốc gia, các đảng viên đảng phải quốc gia và nhiều tăng sĩ Phật Giáo, chức sắc Cao đài, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng đều bị Việt Minh sát hại dưói nhiều hình thức rất dã man. Không những Việt Minh sát hại những lãnh tụ quốc gia, không đồng chính kiến với Cộng Sản, mà còn giết hại nhiều người yêu nước và vô tội khác để giành độc quyền lãnh đạo và gieo rắc sự khủng bố, sợ hãi trong dân chúng. Tại Sài Gòn cũng như tại Hà Nội, Việt Minh đã hòa hoản với Thực Dân Pháp, với quân anh, với quân Trung Hoa để rảnh tay tiêu diệt những người yêu nước đang kháng chiến chống Pháp. Dưới các chiêu bài "tố cáo bọn phản quốc", "truy lùng Việt Gian", Việt Minh, tức Cộng Sản, đã tàn sát rất nhiều người yêu nước. Phong trào truy lùng, xử án, thảm sát "Việt Gian" này khởi đầu ở miền Nam sau lan ra khắp nơi. Ai bị gán tội Việt gian thì khó thoát chết và thường đều bị giết dưới hình thức chặt đầu, chặt làm ba khúc, mỗ bụng, chôn sống... Thời đó chính quyền kháng chiến ở trong tay Việt Minh nên họ the hồ chụp mũ gán ghép cho những người đối lập, bất đồng chính kiến hay cả nhữngngười đang kháng chiến trong hàng ngũ Việt Minh nhưng có uy tín trong quần chúng cái mũ "Việt Gian", "Phản động" để dễ dàng sát hại và bôi đen, triệt hạ uy tín các nạn nhân của họ. Trong khi các lực lượng kháng chiến yêu nước do những người không Cộng Sản lãnh đạo liều chết chống quân xâm lăng, thì người đứng đầu Cộng Sản tại Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu tập trung lực lượng Việt Minh đi giết hại những người yêu nước và sau đó trốn chạy qua tuốc bên Thái Lan và theo hồi ký của Trịnh Hưng Ngẫu thì: Trần Văn Giàu, chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ (của Việt Minh), chạy thoát sang Bangkok và gặp tôi ngày 13/6/1946. Trần Văn Giàu thú nhận rằng chính hắn ra lịnh thủ tiêu gần 2.500 cán bộ quốc gia trong mấy tháng nắm chính quyền". (Thành Nam, trang 364). Những sự giết hại tàn bạo, quy mô này của những phần tử sắt máu cầm đầu Việt Minh (tức Cộng Sản đệ Tam, do Hồ Chí Minh lãnh đạo) chưa từng có trong lịch sử chính trị Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang đứng trong giai đoạn sinh tử, dầu sôi lửa bỏng, đã tạo nên một bước ngoặc bi thảm trong lịch sử, trong chính trị và trong sinh mệnh dân tộc: dân tộc bị một ý hệ cuồng tín, một chính đảng sắt máu nắm quyền lãnh đạo, chặt nát, phân đôi quốc dân, gây nội chiến, hận thù, phân hóa cùng cực trong lòng dân tộc với những hậu quả tai hại khủng khiếp không thể lường được, tai hại hơn sự thống trị 80 năm của Thực Dân Pháp. đảng Cộng Sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc thảm sát trong năm 1945, 1946, 1947 và những thảm họa mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu trong suốt 50 năm qua. Tài liệu mới đây của lãnh tụ công đoàn Nguyễn Hộ cũng thú nhận Cộng Sản đã sát hại rất nhiều chức sắc, tín đồ Cao đài trong thời gian này. Hay tài liệu gần nhất đây của Hòa Thượng Quảng độ cũng tố cáo những người Cộng Sản cuồng sát "ngay sau ngày Cách mạng thành công, ngày 19/8/1945, sư phụ tôi là hòa thượng Thích đức Hải, trụ trì chùa Linh Quang, tỉnh Hà đông, bị Cộng Sản giết hồi 10 giờ sáng vì bị gán cho tội "Việt gian bán nước", sư bá của tôi là hòa thượng Thích đại hải trụ trì chùa Pháp Vân, tức chùa Dâu, thuộc tỉnh Bắc Ninh, đã bị Cộng Sản bắt vào năm 1946, sau đó đã chết... " Không những thế sư tổ của H.T. Quảng độ là hòa thượng Thích Thanh Quyết, trụ trì chùa Trà Lung Trung, tỉnh Nam định, cũng bị bức tử chết trong vụ đấu tố ruộng đất hồi năm 1954. Chỉ riêng sự phụ, sư bá, sư tổ của H.T. Quảng độ mà đều bị giết hại hết thì khắp cả nước, trong suốt thời gian từ 1945 đến nay, nghĩa là từ khi Cộng Sản nắm quyền, biết bao nhiêu tăng sĩ và cư sĩ Phật tử đã bị Cộng Sản sát hại? Có thể nói trong giai đoạn này, cũng như trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Phật giáo đã bị tàn sát, bức hại một cách quy mô và vô cùng rộng lớn. Trong khi Thiên Chúa giáo được tập trung thành từng vùng, tuy cô lập nhưng đông đảo, đồng nhất, dễ dàng tự bảo vệ, nên ít bị bắn giết, đàn áp. Trong khi Phật giáo trãi rộng khắp trong nước và thường có những nhân vật, hoặc tăng sĩ hoặc cư sĩ, là những người có uy tín nhất trong địa phương và thường tham gia, ủng hộ các đoàn thể dân tộc chống Pháp đương thời nên rất dễ bị Việt Minh chụp mũ là Việt gian, phản động để giết hại. Một vị cao tăng như Hòa Thượng Thích đại Hải, trụ trì một tổ đình lâu đời và lớn vào bậc nhất trong nước, là chùa Dâu, mà còn bị Việt Minh giam cầm, bức tử, vì Ngài đã tham gia, hổ trợ cho Việt Nam Quốc Dân đảng, thì những nhân vật Phật giáo yêu nước khác, ít tên tuổi hơn, lại càng dễ bị thủ tiêu, sát hại. Riêng Phật Giáo Hòa Hảo thì chỉ trong năm 1945, sau vụ biểu tình chống độc tài ngày 8/9 ở Cần Thơ, trên dưới 10.000 cán bộ và tín đồ đã bị sát hại. Nếu kể luôn cả thời kỳ tàn sát quy mô, sau khi Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ bị ám hại, thì con số tín đồ PGHH bị Việt Minh Cộng Sản giết có thể lên đến trên 25.000 người. điều lạ lùng là trong khi một tôn giáo cộng tác chặt chẽ và làm tay sai trung thành cho Thực Dân suốt 80 năm, là Thiên Chúa Giáo, thì lại không bị thiệt hai bao nhiêu trong thời kỳ này, khi Thực Dân bị lật đổ và chưa kịp phục hồi sự thống trị của chúng. Trong khi đó những tôn giáo thuần túy dân tộc, yêu nước chân thành và tích cực đóng góp cho việc kháng chiến cứu quốc, từ Phật Giáo, Cao đài, đến Phật Giáo Hòa Hảo, thì lại bị bắn giết, thủ tiêu hàng loạt và vô cùng tàn nhẫn. Bởi chính những người nhân dân tộc tộc, kháng chiến, giải phóng, cứu quốc, cách mạng, dân chủ mới... Ngày 4/10/1945 tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn với một quân lực hùng hậu và tuyên bố tái lập trật tự trên toàn Nam Kỳ trong vòng ba tháng và sau khi chiếm tất cả các nơi, cuối cùng, ngày 4/2/1946, quân Pháp chiếm tỉnh lỵ Cà Mâu, tỉnh cực Nam của miền Nam. Trước cuộc tái xâm lăng của Thực Dân Pháp, những người Cộng Sản đứng đầu Lâm Ủy Hành Chánh, được cải tổ thành Ủy Ban Nhân Dân Nam Bộ do Việt Minh lãnh đạo, theo nguyên tắc, đã cướp được chính quyền trên toàn miền Nam, đã bỏ chạy tứ tán, kẻ chạy tuốt ra miền Bắc như Dương Bạch Mai, Huỳnh Thiện Nghệ, kẻ chủ chốt là Trần Văn Giàu chạy tuốt qua Thái Lan. Trong khi đó các lực lượng không Cộng Sản liều chết chống quân giặc. Trước sự tan rã thảm hại của Việt Minh (Nguyễn Thành Phương) vào Nam xây dựng kháng chiến Nam Bộ theo đường lối lãnh đạo của đảng Cộng Sản đông Dương. F/ Dấn thân hoạt động cách mạng kháng chiến cứu quốc. Cuộc đại tàn sát năm 1945 và việc ký kết Hiệp định Sơ Bộ ngày 6/3/1946 giữa Hồ Chí Minh và Pháp, cho phép quân Pháp đổ bộ lên miền Bắc làm cho giới kháng chiến quốc gia phải xét lại toàn bộ vấn đề và họ quyết định phải phối hợp hành động và nắm lấy thế chủ động, không để cho Cộng Sản đệ Tam thao túng kháng chiến. Bởi vậy, Vũ Tam Anh, tư lịnh đệ nhị sư đoàn dân quốc cách mạng, đã triệu tập một hội nghị chịnh trị - quân sự bao gồm tất cả các lực lượng đang kháng chiến chống Pháp tại miền Nam, kể cả Việt Minh. Hội nghị này đã quy tụ đại diện các tôn giáo, đặc biệt Cao đài và Phật Giáo Hòa Hảo, của Việt Nam Quốc Dân đảng, Tổng Công đoàn và Kỳ Bộ Việt Minh, Việt Nam quốc Gia độc Lập đảng, đảng Huỳnh Long và đại diện tất cả các lực lượng võ trang kể cả các lực lượng võ trang của Việt Minh (Vệ Quốc đoàn), Bình Xuyên, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao đài. Huỳnh Phú Sổ đã có vai trò quan trọng trong hội nghị này và uy tín ông, dù khi đó chỉ 26 tuổi, bao trùm tất cả, nên sau ba ngày thảo luận sôi nổi, các đại biểu đã quyết định thành lập một tổ chức chung tên là Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp với mục tiêu đoàn kết toàn dân chống Pháp và bầu Hoành Anh, bí danh của Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ PGHH, làm chủ tịch mặt trận. Các thành phần lãnh đạo mặt trận và bộ phận võ trang của nó, là Ủy Ban Quân Sự Tối Cao, phản ứng đúng thực trạng kháng chiến lúc đó tại Nam Bộ: đại đa số là không Cộng Sản, Cộng Sản đệ Tam chỉ là thiểu số. Tuy là Giáo Chủ một tôn giáo và chủ tịnh của Mặt Trận, nhưng Huỳnh Phú Sổ, trong giai đoạn kháng chiến gian nan này, đã sống chung với các dân quân, cùng họ xông pha lằn tên mũi đạn. Một hôm ngủ với các chiến sĩ của Trung đoàn 25, sáng dậy có một thanh niên thấy chân mình đang gát lên bụng của ông, anh ta vội rút chân chửa thẹn: "Thưa Giáo Chủ, đêm qua tôi mơ thấy có đám mây nhỏ dám che khuất mặt trời", ông cười đáp: "Có sao. đó là sự tuần hoàn của tạo hóa". (TN, t 383-397). Mặt khác, tuy em ruột của Huỳnh Phú Sổ và nhiều đệ tử, tín đồ ruột thịt bị Việt Minh sát hại, nhưng vì đại nghĩa, vì việc kháng chiến chống ngoại xâm, ông bỏ qua, không thù oán gì Việt Minh mà còn đem hết lòng thành ra hợp tác, trong tinh thần xóa bỏ hận thù, đoàn kết toàn dân chống giặc, ông đã nhận lời, ngày 14/11/1946, tham gia Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ (do Việt Minh và Cộng Sản đệ Tam lãnh đạo) với chức vụ Ủy Viên đặc Biệt (Ủy Viên Quân Sự của Ủy Ban này là trung tướng Nguyễn Bình). Tham gia Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến, ở cương vị khiếm tốn là ủy viên đặc biệt, là một hy sinh vì đại nghĩa chống Pháp, vì lý tưởng hòa giải, đoàn kết dân tộc và nói lên tinh thần từ bi hỹ xã, không hận thù, không coi ai là kẻ thù của ông, cũng như thể hiện lập trường bất di bất dịch của Phật giáo là mong ước mọi người Việt Nam, không phân biệt chủ nghĩa, chính kiến, tôn giáo, địa phương, giai cấp, quá khứ, cùng sống chung hòa bình với nhau, cùng nắm tay nhau để cứu nước dựng nước. Huỳnh Phú Sổ tuyên bố về sự tham chính này như sau: - để tỏ cho quốc dân và chánh phủ Việt Minh thấy rõ ông chủ trương thống nhất lãnh thổ và độc lập quốc gia; - để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem lại thắng lợi cuối cùng; - để tỏ cho các đảng phái thấy rằng ông không khi nào có những tham vọng cao sang vương bá hay vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu quốc. (Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu, sđd, t 272). Ngày 21 tháng 9 năm 1946, Huỳnh Phú Sổ và một số trí thức khuynh hướng dân tộc, dân chủ, công bố việc thành lập chính đảng mang tên Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, gọi tắt là Dân Xã đảng. ông chính là linh hồn, lành lãnh tụ tối cao của chính đảng cách mạng này. Và ông đã truyền một thông điệp sau đây cho toàn thể tín đồ PGHH: "1/ Việt Minh tranh đấu chánh trị, nếu Thầy đem đạo (PGHH) ra tranh đấu thì không thích hợp. Vì đạo lo tu hành chơn chất. Nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị, mới thích ứng nhu cầu tình thế nước nhà; 2/ Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dầu nhận Thầy là một nhà ái quốc, nhưng không hề cùng hiệp chung với Thầy dưới danh Nghĩa PGHH để lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không thể bỏ đạo quy y PGHH. Vì vậy Thầy phải tổ chức chánh đảng để anh em ấy có điều kiện tham gia. Họ chỉ phải giữ kỷ luật của đảng mà thôi, còn tôn giáo thì riêng ai nấy giữ; 3/ Vậy tất cả tín đồ anh em, nếu thấy mình còn nặng nợ với Non Sông Tổ Quốc, thương nước thương dân, hãy tham gia đảng VNDCXHđ mà tranh đấu. đây là phương tiện để anh em hành xử Tứ Ấn". (Thành Nam, sđd, t 405). Thật là rõ ràng minh bạch. Và chỉ thông điệp ngắn ngủi này của Giáo Chủ PGHH Huỳnh Phú Sổ trong tức thời Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng đã có hàng vạn đảng viên: hầu hết tìn đồ PGHH đều đáp ứng lời kêu gọi này và gia nhập "đảng của đức Thầy". Tuy hầu như tất cả đảng viên là tín đồ PGHH, nhưng đặc biệt hơn nữa, là Huỳnh Phú Sổ đã mời những nhà ái quốc, những nhà trí thức dân tộc không phải là tín đồ PGHH tham gia trong vai trò lãnh đão đảng như các ông Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Ấn, Nguyễn Văn Sâm, Lê Văn Thu... Khi tín đồ lo ngại việc đem giao trọn quyền lãnh đạo đảng cho các nhân sĩ ngoài đạo, Huỳnh Phú Sổ giải thích: "Phàm đã hợp tác thì nên thành thật. đã tín nhiệm thì phải giao phó nhiệm vụ, đặt để đúng chỗ, xứng với tài năng. Việc cứu nước là việc mình nên ủng hộ người ta làm, chớ đừng tỵ hiềm, tranh giành địa vị mà hư việc lớn. Mình nên thực tâm đem khối quần chúng hùng hậu của PGHH mà ủng hộ các chiến sĩ cách mạng tranh đấu cho đất nước" (Thành Nam, sđd, t 417). Thật là một cái nhìn sáng suốt, cao cả của một nhân cách lớn và một nhà ái quốc lớn. Các tăng sĩ Phật Giáo dính dự vào chính trị trong thập niên 60, 70 sau này đã thiếu cái sáng suốt, cao cả này, cái nhân cách lớn và tấm lòng yêu nước vĩ đại này. đặc điểm khác nữa là ngay từ giữa thập niên 40, Huỳnh PHú Sổ và VNDCXHđ đã khẳng định trong Tuyên Ngôn lập đảng rằng: "VNDCXHđ là một đảng Dân Chủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chỉa nghĩa dân chủ: Chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân. đã chủ trương toàn dân chánh trị nên đảng chống độc tài bất cứ dưới hình thức nào. VNDCXHđ là một đảng cách mạng xã hội... " (Tuyên Ngôn 21/9/1946). Vì chủ trương dân chủ, chống độc tài nên số phận của VNDCXHđ và những người lãnh đạo thật là thảm khốc khi đất nước bị những chế độc độc tài thống trị: Người sáng lập và linh hồn là Huỳnh Phú Sổ cùng các ủy viên trung ương Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Tâm đều bị Việt Minh và Việt gian ám hại và tổng bí thư Nguyễn Bảo Toàn bị chế độ Ngô đình Diệm thủ tiêu bằng cách bắt bỏ vào bao bố, siết cổ bằng giây thừng và ném xác xuống sông Nhà Bè và vị tư lịnh Quân lực Hòa Hảo, tướng Lê Quang Vinh bị chế độ độc tài Diệm-Nhu xử tử hình và đem xác dấu mất biệt, không cho thân nhân chôn cất thờ cúng. Sau 1975, hai vị Tổng Bí thư VNDCXHđ là Trình Quốc Khánh và Phan Bá Cầm đều chết trong lao tù Cộng Sản và hàng ngàn, hàng vạn các bộ, chiến sĩ Dân Xã hết bị Tây giết, lại bị Cộng Sản giết, sau đó lại bị Cần Lao Thiên Chúa Giáo giết. Thật là một sự hy sinh tột cùng, vô bờ bến mà Huỳnh Phú Sổ và các đệ tử, tín đồ, cán bộ, đảng viên và chiến hữu của ông đã dâng hiến cho Tổ Quốc Việt Nam suốt 50 năm qua.đây mới thật là Tứ Ấn, đây mới thật là hạnh nguyện Bồ Tát, mới thật là đại thiền sư, đại Phật tử... Lúc đầu Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp với hai nhân vật đầu não là chủ tịch Hoàng Anh (Huỳnh Phú Sổ) và ủy viên tuyên huấn Lê Trung Nghĩa đã mạo hiểm về đặt cơ sở lãnh đạo tại Chợ Lớn, trong vòng kiểm soát của Thực Dân. ở đây ông giả trang làm một người Hoa kiều. Một thiếu nữ đã tỏ tình yêu ông và ông đã làm một bài thơ tình tuyệt diệu để cảnh tỉnh giai nhân, đây là một giao thoại lý thú giữa Giáo chủ, Lãnh Tụ và giai nhân. Nhan đề của bài thơ là Tình Yêu, và có rất nhiều chữ yêu, chữ tình, nhưng đây là tình yêu của bồ tát, của bậc siêu phàm và giai nhân là một chúng sanh đang được khai ngộ, cứu độ khỏi bể tình hạn hẹp, đau khổ để vươn tới biển tình nhân loại bao la, cao đẹp. Có lẽ đây là bài thơ về tình yêu tuyệt vời nhất trong lịch sử thi ca thế giới: "Ta có tình yêu rất đượm nồng, Yêu đời, yêu lẫn cả non sông. Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ, Không thể yêu riêng khách má hồng. Nếu khách má hồng muốn được yêu, Thì trong tâm trí hãy xoay chiều. Hướng về phụng sự cho nhơn loại, Sẽ gặp tình ta trong khối yêu. Ta đã đa mang một khối tình, Dường như thệ hải với sơn minh".. "Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh." Huỳnh Phú Sổ Những tháng cuối năm 1946, ông di chuyển về Hậu Giang và gởi ông Nguyễn Bảo Toàn sang Trung Hoa và Hồng Kông, tiếp xúc với các đảng phái quốc gia, từ đó đưa đến việc hình thành Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Toàn Quốc ngày 27/2/1947 tại Nam Ninh với Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách Mạng đồng Minh Hội) làm chủ tịch, Nguyễn Tường Tam, (Việt Nam Quốc Dân đảng, nguyên là bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ liên hiệp) ủy viên ngoại giao. Tổng thư ký là Nguyễn Bảo Toàn thuộc Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng và đại diện cho Phật Giáo Hòa Hảo và Cao đài. Nguyễn Văn Sâm, thuộc Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, là đại diện trong nước. (TN, sđd, t 407-423). đây là lần đầu tiên các tổ chức do Huỳnh Phú Sổ thành lập đã có những sinh hoạt vượt ra ngoài Việt Nam để đi ra hải ngoại, trước đó, vào đầu năm 1945, ông cũng đã gởi một đại diện tháp tùng xứ bộ Nam Kỳ của Việt Minh để đi dự hội nghị Tân Trào của Mặt Trận Việt Minh. Chính Mặt Trận Toàn Quốc này đã là lực lượng nồng cốt đưa đến việc hình thành giải pháp Bảo đại, làm tiền đề cho một "Miền Nam Quốc Gia" về sau. Tuy nhiên, khi đó, tất cả những nhà cách mạng dân tộc đã góp máu xương cho sự hình thành một Miền Nam Tự Do thì đều đã bị sát hại và kẻ thừa hưởng sự hy sinh của bao chiến sĩ quốc gia lại là những người không đổ xương máu gì cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đó là tập đoàn Ngô đình Diệm. Không những thế, sau khi nắm quyền nhờ dựa vào ngoại bang, họ còn tàn sát khốc liệt những nhà ái quốc còn sống sót đã hy sinh tất cả cho đại cuộc kháng chiến chống Thực Dân và đấu tranh chống độc tài Cộng Sản, Vũ Tam Anh, tư lịnh đệ tam sư đoàn và tổng thư ký Mặt Trận Thống Nhứt Quốc Gia, Nguyễn Bảo Toàn, tổng bí thư Dân Xã đảng đều bị chế độ Diệm-Nhu thủ tiêu, sát hại là những bằng chứng của tội ác tiêu diệt các lãnh tụ quốc gia của chế độ "quốc gia" giả hiệu và chế độ độc tài phát xít chính cống này. đầu năm 1947, Huỳnh Phú Sổ và các chiến hữu của ông tiến hành việc tái bố trí các lực lượng quân sự kháng chiến chống Pháp bao gồm các đơn vị võ trang của Cao đài, Phật Giáo Hòa Hảo, đại Việt, Bình Xuyên, theo "chiến thuật liên khu miền Tây", nhằm chiếm đồng Tháp Mười nhưng đã bị Thực Dân Pháp oanh kích liên tục bằng máy bay và trên bộ bị các đơn vị quân sự của Việt Minh phục kích đánh phá, nên chỉ có các lực lượng thuộc Phật Giáo Hòa Hảo và đại Việt rút được về đồng Tháp Mười (TN, sđd, ch 10). G/ Những ngày hoạt động cuối cùng của Huỳnh Phú Sổ. Tại miền Tây, sự xung đột giữa Việt Minh và Phật Giáo Hòa Hảo gia tăng, tạo một không khí căng thẳng, nghiêm trọng trong hàng ngũ những người chống Pháp, nên Huỳnh Phú Sổ đã đồng ý tham dự một phiên họp hòa giải với đại diện Việt Minh tại Tân Phú, đồng Tháp Mười và đêm 16/4/1947. Tại đây ông bị Việt Minh ám hại. Toàn bộ kế hoạch giành thế chủ động kháng chiến miền Nam cho các lực lượng dân tộc bị gãy đổ và từ đó, tại đồng bằng miền Nam cũng như trên khắp toàn quốc Việt Minh độc quyền lãnh đạo kháng chiến chống Thực Dân Pháp. Và cũng từ đó trên chính trường Việt Nam, chỉ còn hai thế lực đối đầu: Cộng Sản và toàn khối dân tộc kháng chiến chống ngoại xâm đối đầu với Thực Dân Pháp và những thế lục tay sai. Các phần tử kháng chiến không Cộng Sản bị kẹp cứng và bị nghiền nát trong một cạm bẫy lịch sự khắc nghiệt, đau đớn: ở ngoài bưng kháng chiến thì bị Cộng Sản ám hại, về thành thì bị coi như đầu hàng giặc Pháp. Vì thất bại không chủ động lãnh đạo kháng chiến nên các lực lượng dân tộc bị gạt ra ngoài dòng vận hành chính của lịch sử. Lịch sử từ đó trở đi chỉ còn là sự thư hùng của hai thế lực Cộng Sản bản xứ do Cộng Sản Quốc Tế chỉ đạo và chống Cộng do các phần tử tay sai ngoại bang lãnh đạo. đa số nhân dân không có con đường nào khác hơn là ủng hộ, tham gia kháng chiến chống ngoại xâm theo truyền thống anh hùng của dân tộc. Kết cục là dân tộc và Việt Minh đã thắng, đất nước bị chia đôi do cục diện chiến tranh lạnh và sự can thiệp của các cường quốc. Cộng Sản thống trị miền Bắc, từ 1954, một cách chuyên chính và sắt máu. Tại miền Nam, Pháp thua trận ra đi, Hoa Kỳ thay thế và đưa Ngô đình Diệm về cai trị bằng một chế độ độc tài phát xít gia đình trị và Thiên Chúa Giáo trị. Quốc dân Việt Nam và các lực lượng dân tộc, dân chủ bị nghiền nát thành tro bụi giữa hai chế độ phi dân tộc và phản dân chủ. Huỳnh Phú Sổ và biết bao nhà ái quốc vĩ đại khác đã ra đi không trở lại và nhân dân Việt Nam bị đánh đắm và chết đuối giữa đại dương độc tài, chiến tranh, nô lệ, chậm tiến và hận thù, phân hóa cùng cực... Hãy khóc lên đi hỡi quê hương yêu dấu... Cuốn Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc của ông Thành Nam cho biết một bối cảnh rộng lớn hơn và những nguyên nhân sâu xa hơn đưa đến việc Huỳnh Phú Sổ bị ám hại. đó là việc toàn thể các lực lượng kháng chiến không Cộng Sản tại miền Nam, được kết hợp trong Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, mà chủ tịch, hay người lãnh đạo tối cao, là Hoàng anh, tức Huỳnh Phú Sổ, quyết định kháng chiến độc lập, ngoài sự lãnh đạo của Việt Minh và muốn đoạt thế chủ động kháng chiến tại miền Hậu Giang, bằng chiến lược rút lực lượng quân sự về miền Tây, tức chiến khu 8 đồng Tháp và chiến khu 9 U Minh, tạm bỏ chiến khu 7 cho tướng Nguyễn Bình của Việt Minh tunh hoành. Ngoài ra trên mặt chính trị và ngoại giao, kết hợp với các lãnh tụ đảng phái quốc gia tại miền Bắc, đã bị Việt Minh đánh bật ra khỏi Hà Nội và đang lưu vong ở Trung Hoa, thành một mặt trận rộng lớn hơn là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Toàn Quốc. đây là nổ lực đe dọa sự độc quyền lãnh đạo kháng chiến của Việt Minh và đương nhiên là đảng Cộng Sản, chính đảng lãnh đạo Việt Minh, với quan niệm chính trị theo kiểu Stalin, tất nhiên đã có kế hoạch để ngăn chận và phá hoại ý đồ này. Cho nên việc ám hại Huỳnh Phú Sổ, một ủy viên của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, tức chính quyền Việt Minh tại miền Nam, không hẳn là quyết định tùy hứng của một cấp tỉnh ủy viên, mà có lẽ xuất phát từ giới lãnh đạo cao cấp của Việt Minh. Số phận Huỳnh Phú Sổ đã gắn liền với sinh mệnh của phong trào kháng chiến thuần túy ái quốc và dân tộc tại miền Nam. Tác giả Thành Nam đã đánh giá đúng tình hình khi viết: "Nhưng đại sự đã bị ngừng trệ và mục tiêu chiến lược nói trên của các tổ chức đấu tranh quốc gia miền Nam đã không thực hiện được nữa. Biến cố xẩy ra đêm 16/4/1947 đã làm thay đổi tất cả: Việt Minh Cộng Sản ám hại vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo trong một phiên họp tại địa điểm Tân Phú, đồng Tháp Mười. Toàn bộ kế hoạch tiến chiếm giành thế chủ động, mà một số chiến sĩ quốc gia đương thời hay gọi là "chiến thuật liên khu miền Tây" tiếp theo là biến cố 16/4/1947 kể trên, đã đưa cuộc diện miền Nam vào một khúc quanh quan trọng, tạo thay đổi lớn lao từ đó về sau"(trang 395). Những nổ lực của Huỳnh Phú Sổ và các lực lượng kháng chiến dân tộc đã không thay đổi được tình thế, là Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, đã nắm được chính nghĩa kháng chiến, đã giành được chính quyền trên toàn quốc, từ Nam chí Bắc ngay từ mùa thu năm 1945. đã quy tụ được đại đa số những người yêu nước, đã nhận được sự hổ trợ, hy sinh vô tận của nhân dân và lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng những nổ lực ám hại Huỳnh Phú Sổ và những nhân vật ái quốc tên tuổi khác của những người lãnh đạo Việt Minh cũng đã không thay đổi được tình thế, là Việt Nam bị phân làm hai, đất nước bị chia cắt, và phải mất 15 năm núi xương sông máu với năm triệu người chết và những hy sinh, tốn thất lớn lao, vô bờ bến, không thể tưởng tượng nổi của cả dân tộc, để tái lập sự thống nhất. Sự ra di của những nhà ái quốc chân chính, như Huỳnh Phú Sổ, chỉ có lợi cho những kẻ yêu nước giả dối và những nhà "quốc gia" giả mạo. Sự bất khoan dung của những người Cộng Sản giáo điều và tình hình lưỡng cực của thế giới sau đệ nhị thế chiến đã đưa đến việc thành lập một chính quyền không Cộng Sản tại miền Nam với những thành phần lãnh đạo là những con cờ của ngoại bang. Năm 1954, 1955 nếu Huỳnh Phú Sổ vẫn còn thì cục diện Việt Nam sẽ đi về đâu? Cuốn "Thất Sơn Mầu Nhiệm"của Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu cho biết những chi tiết về việc Huỳnh Phú Sổ bị ám hại như sau: "Vì trong bưng địch quân (quân Pháp) đốt phá nên vào lúc 9 giò tối ngày 23/3/1947 đức Thầy chuẩn bị cuộc di binh khởi hành tại Vàm Vè. đến 6 giờ sáng bữa sau, đoàn binh đến thôn Thủy đông. Chiều bữa đó, đoàn binh di chuyển đến thôn Thuận Nghĩa Hòa (chiến khu 8) vào lúc 9 giờ tối. Lúc đó chi đội 4 và 25 của Bình Xuyên đóng tại Sông Soài và Vịnh Sao. đức Thầy ở gần Bộ đội Lưu động số 2 đóng tại Cái Cỏ. Ngày 5/4/1947 vào lúc 2 giờ chiều, đức Thầy đi từ giã anh em trong Chi đội 4 và 25. đến 5 giờ chiều đức Thầy di binh về miền Tây. Vào lúc 1 giờ khuya đêm đó, đức Thầy đến trạm gác của Chi đội 18 (Việt Minh). đến 6 giờ sáng, đoàn binh đã Gãy (kinh Gãy). Vào lúc 8 giờ sáng, đức Thầy đến chợ Tháp Mười, 1 giờ trưa Ngài đến chợ Cái bào, 2 giờ chiều đến Ba Sao, 5 giờ chiều đến vàm kinh Phong Mỹ, 3 giờ rưỡi khuya đến ngọ Ba Răng... để cứu vãn tình thế, đức Thầy đã từ giả chiến khu 7 (Miền đông) trở về chiến khu 9 (Miền Tây) vì Ban Hòa Giải (sự xung đột giữa Việt Minh và PGHH) gồm có ông Hoàng Du Khương (Việt Minh) Linh Mục Nguyễn Bá Luật (Công Giáo) ông Mai Văn Dậu (PGHH) đã trở thành vô hiệu. đức Thầy đặt văn phòng gần ngọc rạch Ba Răng, thôn Phú Thành (Long Xuyên), tại nhà ông Bí Thơ (Dân Xã đảng) Ban Chấp Hành thôn ấy, nghĩa là kế cận Chi đội 30 Vệ Quốc đoàn Việt Nam do ông Nguyễn Giác Ngộ chỉ huy và Bộ đội Lưu động số 2 so ông Trần Văn Soái chỉ huy. Cách mấy bữa sau, đức Thầy có được thư mời dự hội nghị của Trần Văn Nguyên, đặc phái viên kiêm thanh tra chính trị miền Tây Nam Bộ. đức Thầy nhận lời. Thế là ngày 15/4/1947 lối 7 giờ sáng, đức Thầy xuống ghe đi với ba người chèo, bốn cận vệ quân, ông đại đội trưởng đại đội 2 chi đội 30 và ông Huỳnh Hữu Thiện (thư ký văn phòng đức Thầy). Kể luôn đức Thầy thì trong ghe có tất cả 10 người, võ trang 4 mi tray dết, 3 súng lục. Lối 8 giờ sáng, ghé tới chợ Ba Răng, Trần Văn Nguyên xuống bến chợ đón rước đức Thầy. Mười lăm phút sau, đức Thầy đứng lên diễn thuyết tại chở này. Trước một số thính giả khá đông, Ngài kêu gọi hai bên Việt Minh và Dân Xã nên gát bỏ thù hiềm cá nhân để chung lo vận mạng của nước nhà. Trần Văn Nguyên đứng lên nối lời đức Thầy và cũng kêu gọi đoàn kết. Bữa ấy, đức Thầy dùng cơm trưa với Trần Văn Nguyên trong một căn phố gần đó. Lối 12 giờ trưa, Trần Văn Nguyên và một người thư ký xuống ghe đi chung với đức Thầy đến văn phòng ủy ban hành chánh tỉnh Long Xuyên đóng tại ngọc rạch đốc Vàng Hạ (thôn Tân Phú). Tại đây, đức thầy và Trần Văn Nguyên có thảo ra nhiều tờ hiệu triệu kêu gọi hai bên đừng xô xát nhau và bố cáo cho dân chúng biết rằng hiện giờ các vị chỉ huy cao cấp hai bên đang bắt tay nhau lo việc hòa giải. Sau khi dùng cơm chiều tại đây xong, đức Thầy xuống ghe lại nhà một tín đồ ở gần đó chừng 300 thước để nghỉ. Bữa sau, nghĩa là ngày 16/4/1947, lối 7 giờ sáng, đức Thầy trở lại chỗ cũ hội đàm với Trần Văn Nguyên và giàn xếp nhiều vụ xung đột. ông Ngô Trung Hưng, đại đội trưởng đại đội 2.30 và một nhân vật của Trần Văn Nguyên được phái đi các thôn trong tỉnh Long Xuyên để hòa giải đôi bên. Sau khi dùng cơm trưa tại đây xong, đức Thầy xuống ghe nghỉ. ông Huỳnh Hữu Thiện vẫn còn ở trên văn phòng với Trần Văn Nguyên. Vào khoảng 12 giờ trưa, đại đội 66 chi đội 22 do Bửu Vinh (ủy viên quân sự Việt Minh tại Long Xuyên) chỉ huy kéo binh kích xung quanh văn phòng và trao cho ông Thiện một bức thơ gởi đức Thầy, yêu cầu Ngài cho yết kiến. Xem thơ xong, đức Thầy bước lên văn phòng (ở trọn trong vùng binh của Bửu Vinh). Bốn tự vệ quân của đức Thầy cầm súng đứng bốn góc văn phòng. Khi hầu chuyện với đức Thầy, Bửu Vinh có cử chỉ rõ rệt cừu thị. Mãi đến 3 giờ chiều, Bửu Vinh đưa ra một bản phúc trình báo cáo rằng ở Lấp Vò, Vàm Cống (Long Xuyên), Dân Xã giết Việt Minh nhiều lắm nên y yêu cầu đức Thầy đến tận nơi giàn xếp, đức Thầy trả lời: "để rồi tôi sẽ phái người đến đó". Bửu Vinh nhứt quyết buộc đức Thầy phải đi. đến đây cuộc bàn cãi trở nên sôi nổi. Mặc dù biết mình đang ở trong vòng vây, đức Thầy cũng không tỏ vẻ khiếp đảm. Trái lại, Ngài biện luận hùng hồn làm cho đối phương nhiều phen im lặng. Sau rốt, Bửu Vinh cũng nhứt định yêu cầu đức Thầy phải đi. Thấy thế, đức Thầy ưng thuận đi nhưng với điều kiện là Bửu Vinh phải cùng đi với đức Thầy. Bưu Vinh từ khước và trả lời: "Nếu một nhân viên cao cấp của chánh phủ đi với những người trong đoàn thể Hòa Hảo thì cần phải có bộ đội Vệ Quốc đoàn võ trang theo ủng hộ". đức Thầy trả lời với giọng đanh thép: "Nếu quý ông nói vậy, tại sao tôi có một ít người, không bộ đội ủng hộ mà dám đi vào sào huyệt của quý ông? Như thế là quý ông không thành thật". Bửu Vinh trả lời không được nên chịu đi và mời đức Thầy tới văn phòng của y rồi sẽ đi luôn thể. đức Thầy hứa chịu. Bửu Vinh rút binh ra đóng căn cứ phía ngoài vàm. Liền khi đó, Trần Văn Nguyên trao cho đức Thầy một mảnh giấy và nói rằng: "Tôi vừa tiếp được tin điện của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ gởi xuống mời ông và tôi lập tức trở về miền đông dự phiên họp bất thường". Sau khi xem, đức Thầy nói: "Tôi không thể trở về miền đông dự phiên nhóm này vì cần phải ở lại đây giải quyết cho ổn thỏa những vụ xung đột". Trần Văn Nguyên cho biết y phải đi 6 giờ chiều ngày đó mới kịp thì giờ. Trời sẫm tối, Trần Văn Nguyên từ giã đức Thầy. Y lời hẹn, đức Thầy xuống ghe ra văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc của Ủy Ban Hành Chánh dẫn đường. Trời tối như mực. đi một đỗi xa xa bỗng trên bờ có tiếng la: "Ghe ai đó? Tại sao giờ này đã thiết quân luật mà còn dám đi?". - "đi ra văn phòng ông Bửu Vinh" người liên lạc trả lời. - "Ghe ghé lại". Một tiếng khác tiếp theo. đèn chóa rọi xuống ghe và có người ra lịnh trình giấy tờ. ông Thiện lật đật chạy lên cho coi giấy. Thì ra người hỏi đó là Bửu Vinh. Y hỏi ông Thiện: "ông Ủy Viên đặc Biệt có dưới ghe không? ". - "Có" đức Thầy ở dưới ghe vội vã trả lời. Bửu Vinh mời đức Thầy lên văn phòng. Ngài liền đi với bốn tự vệ quân. Văn phòng này đặt trong một ngôi nhà ngói. đức Thầy ngồi bàn giữa tiếp chuyện với Bửu Vinh, còn bốn tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa, cách đức Thầy một thước tây. Mười phút sau, lối 7 giờ rưỡi tối, bọn Việt Minh ở ngoài đi vô 8 người chia ra cặp nách bốn tự vệ quân của đức Thầy và đâm chết ba người. Người thứ tư, anh Phan Văn Tỷ, tức Mười Tỷ nhờ võ giỏi và trí lanh nên thoát khỏi, chạy ra ngoài có bắn một loạt mi tray dết. Lúc anh Mười Tỷ né khỏi mũi dao găm của một trong hai chiến sĩ Việt Minh cặp nách anh thì người chiến sĩ kia bị đồng chí của mình đâm trúng té quị. Vừa lúc đó thì đức Thầy, tù trước đến giờ vẫn tình ***h, lẹ làng thổi tắt đèn. Trong văn phòng tối thui, không ai biết đức Thầy đi đâu cả. Tiếng súng nổ dữ dội... ông Thiện nhảy xuống rạch tẩu thoát. Ba anh chèo ghe chạy trước về báo tin cho các tướng lãnh hay. Tiếng tù và nổi lên liên hồi, làm chấn động một gốc trời Tây. đoàn dân quân cương quyết đi báo thù. Nhưng vào lúc 12 giờ khuya, một người tín đồ PGHH ở gần chỗ xẩy ra cuộc bạo hành, chạy ngựa mang đến Phú Thành một bức thơ chính của đức Thầy trao tận tay ông ta. Bức thư ấy như vầy: "ông Trần Văn soái và ông Nguyễn Giác Ngộ. Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xẩy ra, tôi và ông Bửu Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra, trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động. Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về sau. Phải triệt để tuân lịnh. Ngày 16/4/1947, 9 giờ đêm. (có ký tên) Vì bởi có lịnh của đức Thầy nên anh em sĩ binh Dân Xã cùng Ban Chỉ Huy các bộ đội phải triệt để tuân lịnh. Thế là từ ngày 16/4/1947 đến nay không ai biết đức Thầy lưu trú phương nào". (trang 275-181).[/TD]
(ở đây có bức thư, thủ bút của đức thầy trang 100) Những chi tiết khá đầy đủ, chính xác như trên đặt ra một số vấn đề. 4 Thứ nhất, về chuyện "Hòa Hảo giết Việt Minh". Khi đó, trước khi Huỳnh Phú Sổ bị ám hại, cũng như từ cuộc tổng khởi nghĩa vào mùa thu năm 1945, chính quyền trên toàn quốc rơi vào tay của Việt Minh và từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1947, chính quyền Việt Minh đã có đủ thì giờ để xây dựng lực lượng công an, bộ đội và guồng máy công quyền, tuy chưa đầy đủ, hùng mạnh nhưng đủ để triệt hạ các thành phần khác và làm chủ tình thế. Việc em ruột của Huỳnh Phú Sổ và các nhân vật lãnh đạo khác của PGHH bị xử tử công khai vào cuối năm 1945 tại sân vận động Cần Thơ, sau cuộc buổi tình chống Việt Minh vào tháng 8 cùng năm, là một bằng chứng. Nên chính quyền Việt Minh giết hại các thành phần bất đồng chính kiến khác thì có, và có bằng chứng rất nhiều, chớ có ai, lực lượng nào dám và có đủ lực lượng để đối đầu với Việt Minh? Nên sự cáo buộc trên không hẳn đúng sự thật. Trong một cuộc hội nghị vào cuối năm 1946, giáo sư Phạm Thiều, biệt hiệu Trường Phong, ủy viên tuyên huấn Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ (Việt Minh) có chỉ trích hành vi của tín đồ Hòa Hảo ở miền Hậu Giang, đức Thầy trả lời: "đứng về mặt tôn giáo, tôi lấy đức hiếu sinh của nhà Phật làm tiêu chuẩn, song tôi đã ra làm chánh trị thì những sự xô xát thương tâm do bên Việt Minh gây ra, tín đồ PGHH chỉ đứng về phương diện tự vệ mà thôi". Sự giải thích này đúng sự thật hơn (nhưng những gì xẩy ra sau khi Huỳnh Phú Sổ bị ám hại và một phần lực lượng quân sự-chính trị PGHH ra cộng tác với Pháp để chống lại Việt Minh thì đó là chuyện khác và việc này vượt quá thẩm quyền của Huỳnh Phú Sổ, cũng như những vấn đề liên hệ đến PGHH sau khi Huỳnh Phú Sổ ra đi không được đề cập đến trong quyển sách này. Việc khác, việc hàng ngàn chiến sĩ PGHH đã mù quáng tuân lịnh đức Thầy án binh bất động trong đêm 16/4/1947 đã chứng minh đây là một đoàn thể có kỹ luật cao độ. Huỳnh Phú Sổ đã kêu gọi hòa giải, xóa bỏ hận thù để cùng nhau đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp, lời kêu gọi này chắc chắn được tín đồ của ông triệt để tuân lịnh. Những sự xung đột đẫm máu giữa PGHH và Việt Minh sau này thuộc về trách nhiệm của những người ám hại Huỳnh Phú Sổ, chớ không phải thuộc về trách nhiệm của người đã bị ám hại trong bóng tối bởi những kẻ tiểu nhân. 4 Thứ hai, lá thư ở trên có phải thật là của Huỳnh Phú Sổ hay không? Nếu là thật, thì ông ông đã viết tự ý hay viết khi bị bắt và bị cưỡng bức? Nếu không có lá thư này thì việc thường tình, hiển nhiên ai cũng biết sẽ xẩy ra là hằng ngàn chiến sĩ PGHH sẽ kéo đến bao vây và trả đủa Bửu Vinh, khi đó trong tay chỉ có khoảng một trăm người. Từ một số dữ kiện trên, ta có thể đưa ra một số giả thuyết là: - Huỳnh Phú Sổ đã bị Bửu Vinh ám hại ngay trong đêm 16/4/1947, sau đó Bửu Vinh giả chữ viết và chữ ký của Huỳnh Phú Sổ để viết lá thư trên rồi giao cho một tín đồ PGHH (đã quy thuận Việt Minh) cầm lá thư này trao cho các ông Trần Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ và nói dối rằng chính đức Thầy đã đưa lá thư này cho anh ta. Bửu Vinh đã sắp đặt 8 người để ám hại các cận vệ của Huỳnh Phú Sổ, thì việc kiếm một người viết chữ khéo, giả chữ viết của Huỳnh Phú Sổ và kiếm một tín đồ PGHH để đưa thư, là hai việc Bửu Vinh có thể làm không khó khăn gì. - Một giả thuyết khác là Huỳnh Phú Sổ thoát chết lúc bị ám sát, vào lúc 7 giờ 30 tối 16/4/1947. Nhưng sao đó ông đã bị bắt và bị bắt buộc hay bị thuyết phục viết lá thư trên. Dù là người tu hành chân chính, có tinh thần từ bi hỷ xã cao độ nhưng trước âm mưu sát nhân của Bửu Vinh, đã làm ba tín đồ của ông bị giết trước mắt ông và bản thân ông suýt chết thì không cách gì ông có thể tự viết về Bửu Vinh, kẻ sát nhân trực tiếp, một cách vô tư, như người ngoài cuộc, hay còn như là nạn nhân giống như chính ông (tôi và ông Bửu Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra.). Kẻ bàng quan cũng biết Bửu Vinh đạo diễn cuộc mưu sát chính trị này, do tự ý anh ta chủ mưu hay do mệnh lệnh của những nhân vật Việt Minh cao cấp hơn. Chính đó là một trong những nguyên nhân chính đưa đến cuộc nội chiến đầy màu và nước mắt suốt 30 năm giữa người Việt với nhau tại miền Tây. Nếu được trốn thoát và không bị kiềm tỏa, Huỳnh PHú Sổ đã không viết một bức thư chỉ có mục đích duy nhất là nói cho các tín đồ của ông đừng tin vào những gì mà người cận vệ thoát chết của ông đã tận mắt chứng kiến và sẽ kể lại cho các vị chỉ huy lực lượng quân sự PGHH ("... nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động"). Thật là lạ lùng, một cuộc mưu sát rõ ràng, được một người cận vệ đứng cách Huỳnh Phú Sổ 1 thước và chính anh ta cũng bị đâm suýt chết, cùng với ba đồng đội đã bị đâm chết, chạy thoát về kể lại, mà bị ngay chính Huỳnh Phú Sổ phản bác và bảo đừng có tin nhân chứng này. Giả thuyết tạm đặt ra là sau khi đâm chết ba hộ vệ của Huỳnh Phú Sổ và làm bị thương một người trong phe mình, Bửu Vinh vẫn còn 7 vệ sĩ, cùng với một đại đội trong tay, nhóm này đã bắt được Huỳnh Phú Sổ và họ định giết hại ông ngay, nhưng vì có một cận vệ của ông đã trốn thoát được và họ biết rằng anh ta sẽ chạy về báo cho hai ông Nguyễn Giác Ngộ và Trần Văn Soái đang đóng quân gần đó đến trả thù và họ sẽ khó thoát chết. Nên họ đã cưỡng bức hay thuyết phục Huỳnh Phú Sổ viết lá thư này, lúc 9 giờ tối. Sau đó, họ cũng giàn xếp để Huỳnh Phú Sổ trao tận tay lá thứ này cho một tín đồ PGHH. Ngay khi lá thư này được gởi đi, Huỳnh Phú Sổ bị họ giết hại. - Giả thuyết khác là Huỳnh Phú Sổ đã thoát được cuộc mưu sát này và ẩn trú ở một chỗ an toàn không ai biết. Biết rõ là sau khi có tiếng súng nổ, tiếng tù và nổi lên báo động một gốc trời, các lực lượng quân sự PGHH sẽ hay biết việc ông bị mưu sát và họ sẽ kéo quân đến tấn công Bửu Vinh. Vì lòng từ bi, không muốn thêm nhiều người Việt Nam nữa bị sát hại nên ông đã viết lá thư này, sau đó vì một số lý nào đó, ông ra đi, không trở về nữa. Giả thuyết này nêu lên nghi vấn là tại sao ông phải viết lá thư này khi ông còn sống, không bị ai kềm tỏa? Thay vì viết thư, ông chỉ cần trở về văn phòng của ông hay về bộ chỉ huy của ông Nguyễn Giác Ngộ hay ông Trần Văn Soái là xong và giải tỏa mọi nghi vấn. Nếu ra đi dài hạn, trong một hoàn cảnh sôi bỏng như thế, thì người lãnh đạo có lòng nhân từ và tinh thần trách nhiệm, phải chuẩn bị, sắp xếp đâu vào đó trước khi ra đi. Kể từ đêm 16/4/1947, khi ông không trở về, mọi người tin là ông bị Việt Minh ám hại (dù rằng nhiều tín đồ PGHH vẫn tin rằng ông còn sống và sẽ trở về) và ngọn lửa thù hận giữa Việt Minh và PGHH đã bốc cháy khủng khiếp, kinh hoàng, hoàn toàn trái với đức từ bi hiếu sinh bao la và tinh thần hòa giải, đoàn kết cao độ của ông. Nếu ông còn sống thì ông có trách nhiệm xuất hiện, hay dù không xuất hiện, ít nhất cũng đưa ra lời kêu gọi mọi người dập tắt sự thù hận, bắn giết tương tàn này mà trong đó hàng triệu tín đồ của ông và hàng triệu đồng bào yêu nước của ông, đang tham gia hay ủng hộ Việt Minh kháng chiến chống Pháp, là những nạn nhân đau đớn, tội nghiệp nhất. Tuy nhiên, trước đó, ngày 9/9/1945 ông bị Trần Văn Giàu ám hại. Thoát chết, ông vẫn giữ im lặng, mai danh ẩn tích, cải trang lưu lạc không ai biết rõ ở đâu trong suốt nhiều tháng trời. Chớ tuyệt đối không hề xuất hiện, tuyệt đối không hề lên tiếng tố cáo âm mưu sát nhân của đối thủ, hay lên tiếng thanh minh, giải oan. Và cũng tuyệt đối không hề có một hành động nào để phản công, trả đủa, gây thiệt hại cho kẻ thù nghịch, dù rằng khi đó ông cũng đã có một lực lượng tín đồ hàng trăm ngàn người. Im lặng, ra đi và không hề tạo sự tranh cải hay sự đổ máu giữa người Việt Nam, dù bị oan ức, bị bôi đen, bị ám hại. Phong thái này thể heiẹn lòng khoan dung, từ bi, độ lượng, siêu thoát cố hữu của ông. Biết đâu ông đã vượt thoát cuộc ám hại đêm 16/4/1947 và như lần trước, ông đã im lặng ra đi. Về cuộc đổ máu giữa tín đồ PGHH và Việt Minh phải chăng đó là duyên nghiệp máu xương từ nhiều đời, nhiều kiếp trước, mà tuy biết trước, và tuy nổ lực hòa giải, nhưng ông biết rõ là không thể nào hóa giải nổi những ân oán hận thù có tính cách nghiệp lực nầy? Tác giả cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm, cũng như nhiều người PGHH khác tin rằng Huỳnh Phú Sổ đã thoát thân một cách dễ dàng như lần bị ám hại trước đêm 9/9/1945 bị Trần Văn Giàu ch công an đến ám hại) và ông sẽ trở về... Sự tin tưởng này vẫn còn cho đến ngày nay, 48 năm sau đêm 16/4/1947. Nếu còn ẩn, Huỳnh Phú Sổ năm 1995 này vừa tròn 75 tuổi, cùng tuổi với John Pail II, đương kim Giáo Hoàng Thiên Chúa Giáo La Mã và cùng trang lứa với các Hòa Thượng Trí Quang, Huyền Quang, Thanh Từ, Nhất Hạnh... Lý do có sự tin tưởng này, theo cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm, là: "1/ Trước khi xẩy ra tai nạn, đức Thầy có hỏi một nhân viên hầu cận Ngài bữa nay ngày mấy âm lịch. Nhân viên này có trả lời là ngày 25 tháng 2 nhuần. đức Thầy bèn chép miệng than rằng: "Ngày nay là ngày đau khổ nhứt. ôi, sao mà khổ quá vậy". 2/ Chính đức Thầy có hỏi ông Mười Tỷ biết hướng nào về Phú Thành chăng. Khi anh này chỉ hưóng thì đức Thầy nói: Phải. Thì ra chính anh Mười Tỷ là người sống sót để chạy về báo tin, còn ba tự vệ quân kia đều bị giết hết. 3/ đức Thầy có nói với ông Ngô Thành Bá tức Biện đài trong dịp dẫn ông đài đi núi Tà Lơn rằng sau này Ngài xa vắng bổn đạo trong một thời gian, và trong khi đó không một người tín đồ nào biết Ngài ở đâu. Ngài cũng nói với nhiều tín đồ câu ấy. 4/ Trong sấm giảng của Ngài, đức Thầy cũng có nói: "Rán nghe lời dạy của Thầy, Để chừng đến việc kiếm Thầy không ra". và: "Tu kíp kíp nếu không quá trễ, Chừng đối đầu khó kiếm điên Khùng". Bốn khoản trên đây chứng minh một cách hùng biện rằng đức Thầy biết trước những nạn tai mà Ngài sắp phải gánh vác" (trang 282-283). Có những nghiệp lực, tích lũy từ nhiều đời trước, bùng nổ trong đời này, mà ngay cả những người đã giác ngộ, như đức Phật Thích Ca, cũng không thể nào tránh khỏi, dù biết trước. Như trường hợp chính giòng họ đức Phật bị tàn sát khi Phật còn tại thế. Tạm kết về việc Huỳnh Phú Sổ bị ám hại trong đêm 16/4/1947: Theo một số báo chí đương thời thì ông bị Việt Minh bắt, bị đem ra xử án và bị hành quyết. Theo báo Phục Hưng ngày 16/4/1949, viết hai năm sau đó, được trích lại trong cuốn Thất Sơn Mầu Nhiệm thì Huỳnh Phú Sổ bị bắt. "Trần Văn Nguyên đã tranh cải kịch liệt với Bửu Vinh về số phận của Huỳnh Phú Sổ. Trần Văn Nguyên nói "đồng chí không có quyền xử đoán một Uỷ Viên đặc Biệt của Nam Bộ trong khi đồng chí chỉ là ủy viên tỉnh". Bửu Vinh trả lời: "Cái đó thuộc về một việc xẩy ra ở địa phương tôi, vả lại tình thế đang nguy ngập". Rốt cuộc Trần Van Nguyên phải nhượng bộ vì trong tay không có binh lực. Nguyên đổ trách nhiệm: "Có chuyện gì sau này với Nam Bộ, trách nhiệm về đồng chí hết"... Sau đó Bửu Vinh ra lịch cho ba người hành quyết Huỳnh Phú Sổ, nhưng ba người này đã được Huỳnh Phú Sổ thuyết phục, cảm hóa, cuối cùng họ nói: "Thưa ông Tư, chúng tôi đã hiểu rồi. Xin ông đi đi, đi ngay bây giờ... ông hãy đi cho thoát và độ trì cho ba chúng tôi". Thế rồi vị Giáo Chủ họ Huỳnh lại khoan thai lên đường và đi hút lẩn vào bóng tối. Và cũng đêm ấy, tại chỗ ấy có một người bị chặt làm ba, liệng xuống hố vùi đất lên...". Một số nguồn tin khác thì quả quyết ông đã bị Việt Minh giết chết, chặt làm nhiều khúc và bị đem đi chôn dấu ở nhiều nơi. Tuy nhiên, theo quan niệm Phật Giáo, thì việc Huỳnh Phú Sổ dù mất hay còn sống nhiều năm nữa sau đêm 16/4/1947 không phải là chuyện chính yếu. Nếu ông không mất khi 27 tuổi, và sống đến ngày nay, thọ 75 tuổi thì 5, 10 năm nữa ông cũng sẽ chết như mọi người đã sinh trên thế giới này. Và dù sống thêm 50 năm nữa, ông cũng khó lòng thay đổi được hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, bị chế ngự bởi các thế lực quốc tế và bị điều động bởi cộng nghiệp nhiều đời của cả dân tộc. điều chính yếu là những thông điệp của ông có được hiểu và áp dụng hay không? Thông điệp của ông là lòng từ bi, là tình yêu thương không giới hạn, là sự tha thứ, hòa giải, đoàn kết giữa mọi người Việt Nam với nhau, là quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, dân chủ, công bằng và nhân bản, là nổ lực thực hiện hạnh tứ ân và tinh tấn học Phật, tu Nhân. Huỳnh Phú Sổ còn sống trong mọi tín đồ PGHH và mọi người Việt Nam biết áp dụng những thông điệp cao đẹp này của ông. Tôi tin ông là một Bồ Tát hóa thân. ông, là một Bồ Tát ở một thế giới có mức độ tâm linh cao hơn thế giới này, vì thương Việt Nam, ông đã đầu thai làm Huỳnh Phú Sổ tại làng Hòa Hảo vào năm 1920, vì duyên nghiệp đến năm 1947 là hết nên ông đã ra đi và, với lòng yêu thương Việt Nam một cách sôi nổi, với hạnh nguyện cứu khổ vĩ đại, ông đã trở về, hóa hiện làm người Việt Nam, và hiện ông vẫn còn sống và thầm lặng thi hành hạnh Bồ Tát nhập thế cứu đời dưới một hình tướng nào đó. Giống hệt như các vị Hóa Thân của Phật giáo Tây Tạng. So với đạt Lai Lạt Ma, cũng là một vị Hóa Thân, thì trình độ chứng đắc của Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ cao hơn các vị Hóa Thân này. Khi tôi ngồi viết quyển sách này, nhìn xuống vịnh San Francisco xanh ngát chảy ra biển Thái Bình gió lộng, tôi thấy rõ Huỳnh Phú Sổ vẫn còn sống, trong tôi, trong quyển sách này, trong mọi người Việt Nam hiểu rõ và làm đúng lời dạy của ông. ông vẫn còn sống bên giòng sông Cửu Long thân thương, trìu mến, trên đồng bằng Nam Bộ hiền hòa nhân ái, trong mỗi tiếng hò trữ tình, trong mỗi nụ cười đôn hậu, trong mọi đời sống hồn nhiên, đạo đức của mọi người dân Việt Nam. Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là một đệ tử trung thành của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. đức Phật dạy hãy lấy tình thương xóa bỏ hận thù. đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cũng dạy "Ta thứ người, người thứ ta". Tôi tha thiết mong quý vị độc giả và mọi người Việt Nam hãy áp dụng lời dạy này của đức Phật Thích Ca và của Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ để tha thứ nhau, hòa giải nhau và thương yêu nhau. đối với những người Việt Nam đã phạm những sai lầm, tội lỗi với những đồng bào của họ trong suốt hơn nửa thế kỷ nay, tôi trân trọng mong họ hãy suy gẫm kỹ và thực hành ngay lời dạy sau đây của đức Phật: "Có hai hạng người đáng tán dương ca ngợi. Hạng thứ nhất là những người không bao giờ sai lầm, phạm tội. Hạng thứ hai là những người đã sai lầm, phạm tội, nhưng nay biết thành tâm ăn năn, hối cải". Lịch sử là chính chúng ta. Quê hương và thế giới cũng là chính chúng ta. Tâm bình, thế giới bình, tâm tịnh, quốc độ tịnh. Cách hay nhất để thay đổi đất nước và thay đổi thế giới là thay đổi chính mình trước. Làm cho mình bình an, tươi đẹp, hạnh phúc, độ lượng, nhân từ chính là làm cho thế giới và quê hương bình an, tươi đẹp, an lạc, độ lượng và nhân ái. Không thể có một quê hương Tịnh độ, an vui, hiền lương, đạo đức khi những công dân của xứ sở đó vẫn còn mang tâm hận thù, đen tối, cuồng tín, quá khích. Và đặc biệt, trước tham vọng và hiểm họa khủng khiếp của đế quốc Trung Hoa, người Việt yêu nước chân chính nghĩ sao để sống còn...? Giai đoạn lịch sử bi thảm vừa qua đã làm cho mọi con dân Việt đau lòng, nên xem đây là điều tai nạn cho dân tộc, nhất định sẽ không bao giờ tái diễn, để người Việt là một khối đoàn kết cùng nhau bảo vệ, xây dựng và quang hưng đất nước Việt Nam. Tôi cầu mong quê hương của chúng ta sẽ vượt thoát những chướng ngại tai hại của hận thù, bất khoan dung và bạo động, và các thế hệ con cháu của chúng ta sẽ trở về truyền thống từ bi, nhu hòa, độ lượng của Tổ Tiên, cha ông cũng như của thế giới tỉnh thức hôm nay. Dân tộc chúng ta, sau bao lầm lẫn và đau thương, đang vượt thoát thời đại của bản năng và thù hận để bước và kỷ nguyên của Trí Tuệ và Từ Bi. Của khoan dung và tha thứ. Chúng ta phải chiêm nghiệm lịch sử, với tất cả sự thật phủ phàng, đau đớn của nó, để học hỏi, để khoan dung, độ lượng, để trưởng thành khôn lớn, chớ không phải để đào sâu những hận thù và khơi dậy những vết thương. Tất cả đã qua đi. Tất cả đang ra đi. Và tất cả sẽ biến mất. Thế hệ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh nay còn ai? Thế hệ Huỳnh Phú Sổ nay cón mấy người? Và thế hệ chúng ta sẽ còn sống được bao lâu? 75-95 đã trôi qua nhanh như một chuyến tàu lửa tốc hành. Chỉ thêm một vòng 20 năm nữa, 1995-2015, là hầu như tất cả mọi người của thế hệ Cách Mạng Mùa Thu, thế hệ Kháng Chiến, sẽ chẳng còn ai hiện hữu trên trái đất này. Tất cả đều chết và phải từ bỏ tất cả. Trừ những vĩ nhân. Di sản của họ không mất đi, trái lại, càng ngày càng rực rỡ. Huỳnh Phú Sổ Bất Tử! Sự nghiệp của ông đã trở thành một phần tinh anh tuyệt đẹp của sự nghiệp Phật Giáo và sự nghiệ Việt Nam. K/ Các Kệphẩm của Huỳnh Phú Sổ. Dù chỉ xuất hiện trên đời 27 năm, Huỳnh Phú Sổ đã viết rất nhiều, rất phong phú. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng Phật học nói riêng, ít có tác giả nào đã để lại những tác phẩm đa dạng, về mọi chủ đề và có tính cách đi trước thời đại như Huỳnh Phú Sổ. ông để lại một số tác phẩm quan trọng sau đây và những tác phẩm này là phần chính yếu, căn bản của giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo: 4 Sấm Giảng Khuyên Người đời Tu Niệm, tức quyển nhứt, 912 câu, văn vần thể lục bát, viết năm 1939, khi 19 tuổi, tại làng Hòa Hảo. 4 Kệ Dân Của Người Khùng, tức quyển nhì, 846 câu, văn vần thể thất ngôn trường thiên, viết năm 1939, tại làng Hòa Hảo. 4 Giác Mê Tâm Kệ, tức quyển tư, 846 câu, văn thất ngôn trường thiên, viết tại làng Hòa Hảo ngày 20-10 năm Kỷ Mão. 4 Khuyến Thiện, tức quyển năm, 756 câu, văn lục bát đoạn đầu và đoạn cuối, đoạn giữa thể văn thất ngôn viết tại Chợ Quán năm 1941. 4 Cách Tu Hiền Và Sự Ăn ở Của Một Người Bổn đạo, tức quyển sáu, thể văn xuôi, viết năm 1945 tại Sài Gòn. Ngoài sáu tác phẩm trên, còn khoảng 200 bài thơ và một số tác phẩm văn xuôi mà Huỳnh Phú Sổ đã viết từ năm 1939 đến năm 1947. ông còn dịch, một cách xuất sắc quyển Tăng đồ Nhà Phật bằng chữ Nho ra thành những thi kệ tiếng Việt. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên đã sáng tác các thi kệ bằng chữ quốc ngữ. Ngoài ra Huỳnh Phú Sổ còn để lại nhiều lời nói, câu chuyện do các nhân chứng kể lại. Các tác phẩm này, rất độc đáo trong thế kỷ 20 vì hơn 8/10 là thơ có hai chủ điểm rõ rệt, thứ nhất là thuyết giảng Phật Pháp, khuyên người đời tu hành, ăn hiền ở lành, tâm trí hướng thiện, sống và hành động trong tinh thần từ bi cứu khổ độ sinh của đức Phật. Các tác phẩm hướng về chủ điểm này được viết trong thời gian từ năm 1939 đến năm 1942. Chủ điểm thứ thai là kêu gọi lòng ái quốc, đấu tranh cách mạng, kháng chiến cứu quốc và cải tạo xã hội trong tinh thần Phật Giáo được nhấn mạnh trong thời điểm từ năm 1943 đến năm 1947. Tuy nhiên ngay trong thời kỳ đầu mới khai đạo những bài thơ kêu gọi lòng yêu nước, nghĩa đồng bào, đấu tranh chống Thực Dân Pháp được viết một cách khéo léo, nửa thật nửa hư để khỏi bị Thực Dân khủng bố. đọc suốt toàn bộ tác phẩm của ông, mọi người đều thấy sáng ngời một giòng thơ nhất quán, bất khả phân ly, truyền đạo và yêu nước, truyền bá Phật Pháp và cứu nguy đất nước, một giòng thơ liên tục, tuyệt vời dựng đạo, cứu đời không thể tách rời nhau. Chương bốn: Nguồn gốc lịch sử, bối cảnh chính trị và truyền thống tâm linh. Về căn bản, tư tưởng Huỳnh Phú Sổ là sự tiếp nối trung thực, trong sáng và rực rỡ 2.000 năm tư tưởng Phật Giáo Việt Nam, một nền Phật Giáo dân tộc đặc thù, hòa lẫn và bất khả phân ly với truyền thống Việt Nam, để trở thành tư tưởng Việt Phật hay Phật Việt. Tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý và lịch sử của đồng bằng Nam Bộ, vùng đất cuối cùng của tổ quốc, vùng đất mới được khai phá và định cư từ thế kỷ 17, nên tư tưởng Huỳnh Phú Sổ có những nét đặc biệt, độc đáo của truyền thống Phật Giáo và tín ngưỡng Nam Bộ. Ta hãy xét bối cảnh lịch sử và tín ngưỡng của đồng bằng sông Cửu Long trước khi Huỳnh Phú Sổ xuất hiện. A/ Công cuộc Nam Tiến: Theo lời cố vấn, có tính cách tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân (Một dãy núi Hoàng Sơn, dung thân vạn đời) cuối thế kỷ 16, Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa (Huế) và xây dựng dãy đất miền Trung từ Quảng Bình, nơi có núi Hoành Sơn, trở vào Nam thành một vương quốc tự trị, tuy vẫn thần phục triều đình nhà Lê trên danh nghĩa, nhưng trong thực tế đã ly khai khỏi uy quyền của chúa Trịnh, là thế lực, cũng vẫn tôn thờ nhà Lê nhưng đang nắm quyền cai trị trong nước. ở vùng đất mới này, Nguyễn Hoàng đã dựa vào Phật Giáo để xây dựng chủ lực tinh thần và văn hóa của vương quốc. ông đã cho xây chùa Linh Mụ vào năm 1601 và triều đại của ông đã hết lòng hộ trì Phật Giáo. Cuộc Nam Tiến dưới sự lãnh đạo của các chúa Nguyễn đã được thực hiện nhanh chóng: năm 1611, quân nhà Nguyễn đánh tan quân Chiêm Thành, lập phủ Phú Yên, năm 1653, lập phủ Diên Khánh (Nha Trang) và lập phủ Bình Thuận (Phan Rang, Phan Rí) năm 1697, sau khi tiêu diệt vương quốc Chiêm Thành, là vương quốc đã có những thời hùng mạnh đem quân đánh chiếm cả kinh thành Thăng Long. đồng thời năm 1658 chúa Nguyễn Phúc Tấn gởi 3.000 quân đánh vào Cao Miên, theo lời cầu cứu của hoàng tộc Cao Mên. Năm 1674, vua Cao Miên bị Thái Lan uy hiếp, sang tỵ nạn ở Khánh Hòa và cầu cứu chúa Nguyễn nên Việt Nam đem binh tiến đánh Prey Kor (tức Sài Gòn) và tiến thẳng lên Nam Vang bảo vệ cho Nặc ông Non lên làm vua. Năm 1679, chúa Nguyễn cho phép 3.000 quân lính người Hoa, từ Quảng đông sang tỵ nạn đến định cư khai thác vùng đông Phố (Gia định), Lộc Dã (Biên Hòa) và Mỹ Tho (định Tường). Năm 1707 Mặc Cửu, một người Hoa lưu vong đã đến định cư ở Hà Tiên từ năm 1680, đem dâng đất Hà Tiên và đảo Phú Quốc cho chúa Nguyễn. đầu thập niên 1730, các vùng đất khác của đồng bằng Nam Bộ như Long Hồ, Mỹ Tho, Long Xuyên, Châu đốc, Sa đéc, Kiên Giang, Cà Mâu, Sóc Trăng, Trà Vinh đều lần lượt được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Năm 1759, vua Cao Miên là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn vùng đất cuối cùng là Tầm Phong Linh (An Giang) trong đó có dãy núi Thất Sơn. đến đây cuộc Nam Tiến kết thúc và lãnh thổ Việt Nam, hình chữ S, chạy dài từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Hà Tiên, Phú Quốc đã được hình thành (Thành Nam, sđd, t 23-32). Từ miền Nam sông Dương Tử, nằm cắt đôi Trung Hoa hiện nay, dưới sự xâm lăng khốc liệt của Hán Tộc, tổ tiên chúng ta đã lùi về đồng bằng Sông Hồng cách đây hơn 2.000 năm. Suốt 1500 đầu tiên, chúng ta thu mình trên một dãy đất nhỏ từ biên giới Quảng đông, Quảng Tây đến Nghệ An, Hà Tỉnh và chịu hơn 1.000 năm Bắc Thuộc và đương đầu với những cuộc xâm lăng quy mô của các đế quốc phương Bắc. Thời đại Lý Trần với Phật Giáo là quốc giáo, trong các thế kỷ 11, 12, 13, 14, đã khẳng định thế đứng độc lập và bình đẳng với Trung Hoa của vương quốc đại Việt và đưa vương quốc đại Việt đứng ngang ngữa với những triều đại rực rỡ nhất của Trung Hoa. Nhờ sự phân ly cát cứ của chúa Nguyễn và sự chia cắt đất nước, bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 (và chỉ chấm dứt năm 1789, khi vua Quang Trung đánh tan cả hai thế lực Trịnh - Nguyễn và thống nhất đất nước), và nhờ cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn trong suốt 45 (ttừ nam 1627 đến năm 1672) với bảy trận đại chiến, mà lãnh thổ Việt Nam đã bành trướng đến cực Nam của bán đảo Hoa - ấn: Việt Nam đã lớn lên gần gấp đôi trong vòng chưa đến 200 năm. Cũng vậy, nhờ sự chia cắt và cuộc nội chiến 1954 – 1975 và sự thống nhất quốc gia dưới chế độ Cộng Sản sau năm 1975 mà Việt Nam đã lớn lên và bành trướng khắp thế giới: ngày nay hai triệu kiều dân Việt Nam đã định cư trên gần 100 quốc gia trên thế giới và đại đa số là những quốc gia phát triển, tiến bộ nhất. Con số này sẽ tăng gấp đôi trong vòng 20 năm tới. Việt Nam đang thật sự lớn lên để hình thành một Việt-Năm-Châu và Việt Nam cũng đang hòa nhập với các nước trong vùng để hình thành một Việt Nam – đông Nam á, trục trung tâm của á Châu – Thái Bình Dương. Những cuộc nội chiến khốc liệt của hai họ Trịnh - Nguyễn đã là cơ duyên thuận tiện cho làn sóng di dân từ miền Trung đổ xuống miền Nam. Như các chúa Nguyễn, những di dân này đã ra đi về miền đất mới với tôn giáo truyền thống của họ là đạo Phật, và như tất cả những di dân khác trên thế giới, họ mang theo một tinh thần ái quốc cao độ, một tinh thần dân tộc mãnh liệt. Cuộc xâm lăng của Thực Dân Pháp vào giữa thế kỷ 19 đã là một bằng chứng hùng hồn: Tuy sáu tỉnh Nam Bộ bị thực dân chinh phục đầu tiên, sát nhật và thống trị trực tiếp nhưng nó đã gặp phải sự kháng chiến và bất hợp tác mạnh mẽ của mọi tần lớp dân chúng, và tôn giáo của thực dân trong thời đó, là Thiên Chúa Giáo La Mã, bị tuyệt đại đa số dân chúng tẩy chay, xa lánh và vì vậy, đồng bằng sông Cửu Long là nơi tôn giáo ngoại lại này, tuy được Thực Dân hổ trợ toàn diện trong suốt gần 100 năm, lại là nơi suy yếu, rời rạc nhất. Và nhiệm mầu thay, nơi đây, cũng là nơi các tôn giáo dân tộc được phát triển sâu rộng, mãnh liệt nhất. Và với một tốc độ khủng khiếp: chỉ trong vài tháng sau khi thành lập, đạo Cao đài có hàng trăm ngàn tín đồ, chỉ trong vài năm sau khi khai đạo, Phật Giáo Hòa Hảo có gần một triệu tín đồ. Trong khi đó suốt một thế kỷ truyền đạo bằng đủ mọi cách và với phương tiện lớn lao, tại lục tỉnh (không kể Sài Gòn và phụ cận, là nơi đô hội, dân tứ xứ đổ về), số tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ trên dưới vài trăm ngàn người. Và những người này cũng có tinh thần dân tộc, lòng ái quốc, sự khoan dung, ôn hòa, phóng khoáng hơn hẳn các tín hữu của họ ở những nơi khác. B/ Cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng Pháp bùng nổ trước hết ở miền Nam, ngay khi chúng chiếm thành Gia định (Sài Gòn) năm 1859 và cuộc kháng chiến vẫn tiếp tục dù chính quyền trung ương, là triều đình Huế, đã đầu hàng. đối đầu với quân xâm lăng, nhân dân Việt Nam, tiếp nối truyền thống giữ nước kiên cường, đã anh dũng chiến đấu. đặc điểm của cuộc kháng chiến Nam Bộ là dân chúng vẫn không từ bỏ vũ khí dù chính quyền nhà Nguyễn đã đầu hàng: họ từ bỏ quan niệm trung quân của Nho Giáo để theo đuổi lý tưởng ái quốc. Một đặc điểm khác là dân chúng đã tự động đứng lên kháng chiến giữ nước, họ hình thành những đoàn nghĩa binh cùng quân triều đình chiến đấu chống giặc. Trong khi quân chính quy trong thành Gia định chỉ 1.000 người, dân quân, dưới sự tập hợp của các chí sĩ đất Gia định như Trần Thiện Chính, Lê Huy đông đến 5.800 người. Họ cùng nhân dân quyết chiến với quân Pháp và sau khi bị giặc chiếm thành, một đặc điểm quan trọng khác của cuộc kháng chiến Nam Bộ, là tuyệt đại đa số nhân dân đã tản cư rút khỏi vùng bị giặc chiếm đóng, sau khi thiêu hủy chính nhà cửa của họ, vì không chịu ở chung với quân cướp nước, đến nổi: "Nơi mà trước kia có 40 làng, hồi 1859, nay chỉ còn có một làng gọi là Chợ Quán giữa thành và Chợ Lớn, ngoài ra đều bị phá tan rồi". Các cố đạo Pháp ra sức khuyên dụ dân ở lại nhưng vô hiệu quả. De Larclauze phải than rằng: "Than ôi, ở đây cũng như ở đà Nẳng, ảnh hưởng của các cha là một chuyện hoang đường, các lão này thật là xảo quyệt, vô ích, không giúp đỡ được gì cho tốt". (Cuộc xâm chiếm Việt Nam của giặc Pháp phần lớn là do sự xúi dục của các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo. Giám Mục E Huc gởi thư cho Hoàng đế Napoléon III trong tháng 1 năm 1857 thúc dục Pháp đem quân xâm lăng Việt Nam,. trong đó có đoạn "đánh chiếm Việt Nam s4 dễ dàng hết, sẽ không gây phí tổn gì cho nước Pháp. Dân chúng hiền lành, cần cù, rất thuận lợi cho việc tuyên truyền lòng tin Thiên Chúa Giáo... Họ sẽ đón tiếp chúng ta như những người giải phóng và những ân nhân". Lịch Sử Việt Nam, q 2, t 32). Trong khi đó tại miền Bắc, dù đương đấu với quân Pháp trễ nhất (Pháp tấn công đà Nẳng ngày 31/8/1858 và Gia định ngày 17/2/1859, và tấn công Hà Nội năm 1873) và có đến 15 năm để chuẩn bị nhưng quân đội lẫn dân chúng đều thờ ơ, thụ động và một số không ít, lại hèn nhát bỏ chạy, đầu hàng, thậm chí còn làm tay sai cho giặc để bán nước cầu vinh. Thăng Long và đất Bắc, trong những thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo và dân tộc, dưới các triều đại quân chủ Phật giáo Lý Trần, hàng trăm ngàn quân thiện chiến Mông Cổ và Trung Hoa còn bị đánh tan tành. Thế mà vào năm 1873, tên thiếu tá Pháp Francis Garnier chỉ với 180 quân đã chiếm được Thăng Long (Hà Nội). Không những thế, một thành lớn như thành Hưng Yên, một toán quân Pháp chỉ 7 tên thế mà viên án sát chỉ huy thành sợ chết, nộp thành cho chúng ngày 5/12/1873. Tồi tệ hơn nữa là chỉ trong ba tuần, 180 tên giặc Pháp không những chiếm Hà Nội, mà còn chiếm luôn năm thành Hưng Yên, Nam định, Hải Dương, Bắc Ninh, và Ninh Bình. Chiếm đến đâu, chúng dùng các cố đạo tuyển các giáo dân Thiên Chúa giáo để lập thành binh lính và chính quyền tay sai (lịch sử Việt Nam, q 3, t 64). Một số lớn giáo dân TCG đã đắc lực tiếp tay cho quân xâm lăng cướp nước và tranh nhau làm tay sai cho chúng và đó là một trong những lý do chính giúp giặc Pháp cướp nước Việt Nam một cách dễ dàng và nô dịch nhân dân Việt Nam suốt hơn 80 năm trời. Mười năm sau, và sau cuộc kháng chiến anh dùng của Nam Bộ ¼ thế kỷ, một tên trung tá Pháp (Henri Revière), chỉ với 600 quân, cũng đã lấy thành Hà Nội trong nửa ngày, và "quan võ sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe gió cũng chạy theo nốt". đề đốc Lê Trinh chạy trốn như chuột, án sát Tôn Thất Bá phản bội tổ quốc, đầu hàng giặc, được chúng ch làm quyền tổng đốc Hà Nội. (Lịch Sử Việt Nam, q 2, t 69). Chỉ có điều an ủi cho sĩ khí dân tộc là tổng đốc Hoàng Diệu đã tự vẫn sau khi để mất thành, noi gương tổng đốc Nguyễn Tri Phương 10 năm trước, cũng đã tuyệt thực nhịn ăn mà chết sau khi để mất thành Hà Nội cho tên thiếu tá Francis Garnier. Những cái nhục lớn nầy, phải đợi đến gần 100 năm sau, nhân dân Việt Nam mới rửa sạch được bằng chiến thắng điện Biên Phủ. Cuộc kháng chiến Nam Bộ sôi nổi, quyết liệt, bền bỉ và được toàn dân nhất tâm tham gia, đến nổi quân giặc phải báo cáo về chính quốc là quân đội Việt Nam gồm tất cả mọi người không đau ốm. Trước quốc nạn, anh hùng từ nhân dân xuất hiện như lá cây rừng: Huyện Thoại, Phủ Cậu, Thiên Hộ Dương, Trương Công định, Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành, Phan Tôn, Phan Liêm... và số nghĩa quân lên đến hơn 40.000 người. Hầu như khắp Lục Tỉnh đều nổi lên chống giặc, giữ nước, biến thành một cao trào tổng khởi nghĩa: "Tất cả các đồn của chúng ta đều bị cô lập... Người An Nam với võ khí thô sơ đã chống lại súng, họ cứ nhào vô đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường... Khởi nghĩa khắp nơi. Nơi nào chúng cũng bị trấn áp nhưng không nơi nào chúng bị đánh tan vì ta không có đủ phương tiện... Quân khởi nghĩa ngày càng mạnh dạn, càng tấn công... người Pháp đang bị bao vây, các tầng lớp nhân dân đều tham gia nổi loạn..." theo các báo cáo của quân Pháp. Chúng phải tăng cường thêm viện binh từ Trung Hoa, Phi Luật Tân và từ Pháp. Trong các nhóm dân quân khởi nghĩa, nhóm lớn nhất do Trương Công định lãnh đạo. ông quy tụ gần 20.000 dân quân, hoạt động chống giắc khắp Lục Tỉnh và đã làm cho quân Pháp phải khiếp sợ. Ngày 20/8/1864, quân Pháp tấn công vào quân Trương Công định và ông bị trúng đạn. Không để sa vào tay giặc, ông tự sát bằng gươm. Khí phách anh hùng của dân tộc, và đặc biệt của nhân dân Lục Tỉnh, được biểu lộ quyết liệt trong hành động của các lãnh tụ nghĩa quân bị bắt. Nguyễn Trung Trực đã trả lời khi bị giặc bắt tại Phú Quốc vào thágn 9 năm 1868: "Phận ta đã xong, ta không cứu được nước ta, ta chỉ yêu cầu chúng ta có một việc là giết ta ngay đi". Câu nói cuối cùng của ông, đã đi vào lịch sử một cách oanh liệt, huy hoàng, là "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây". Thủ Khoa Huân nổi dậy ở định Tường, bị bắt và bị hành hình ở Mỹ Tho tháng 6 năm 1875. Các lãnh tụ nghĩa quân khác Phan Văn đạt đã lớn tiếng mắng địch cho đến khi bị hành quyết, Trần Xuân Hòa bị giặc bắt đã cắn lưỡi tự vẫn, Lê Cao Dũng đã cự tuyệt không uống thuốc của giặc cho đến phút chết... (Lịch Sử Cận đại Viêt Nam, q I, t 72-167). Trước đó, các tướng lãnh, quan lại triều đình tại Lục Tỉnh cũng đều tự sát sau khi giặc chiếm mất thành hay sau khi bị bắt: Học đốc Võ Duy Ninh, án sát Lê Từ đều tự sát sau khi thành Gia định thất thủ. (Lịch sử Việt Nam, q II, t 37) Ngày cả Phan Thanh Giản cũng đã tuyệt thực 17 ngày và uống thuốc độc tự tử sau khi ba tỉnh Vĩnh LOng, An Giang, Hà Tiên bị giặc chiếm vào các ngày 20-24 tháng 6 năm 1867 (sđd, t 52). Với tinh thần hy sinh quyết chiến cao độ và bền bỉ của nhân dân Lục Tỉnh, giặc một hần vừa bị nghĩa quân giết hại, phần chết chóc, bịnh tật vì thời tiết và nhất là những khó khăn, rối loạn tại Pháp Quốc, chúng đã định rút chạy, thế nhưng triều đình Huế lại đề nghị thương thuyết, nghị hòa, phải bồi thường chiến phí cho quân giặc, không những thế triều đình còn bắt các nghĩa quân nộp cho quân Pháp. Cuộc kháng chiến Nam Bộ đã bị phản bội, bỏ rơi. Ngoài ra, tình hình loạn lạc tại miền Bắc, giặc giã nổi lên khắp nơi, chế độ quân chủ Khổng giáo, bị Tàu hóa, Hán hóa nặng nề nhà Nguyễn đã quá bạc nhược về ý chí chiến đấu, về trí tuệ, cũng như về binh lực, nên đã phải ký hòa ước bán nước năm 1862, bán đứng Nam Bộ cho Pháp để tập trung lực lượng bình định miền Bắc. Một đặc điểm nổi bật nữa của kháng chiến Nam Bộ là cuộc kháng chiến chống Pháp và các phần tử tay sai còn tiếp tục mạnh mẽ, sâu rộng trên lãnh vực văn học qua các bài hịch, văn tế, thơ của các tác giả vô danh cũng như của những sĩ phu yêu nước tên tuổi như Nguyễn đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa... Sự nở rộ, lan rộng và được mọi tầng lớp dân chúng cảm kích, ủng hộ của các phong trào kháng chiến võ trang như thơ văn yêu nước sôi sục trong giai đoạn nầy chắc chắn đã có ảnh hưởng lớn lao đến tinh thần ái quốc, đấu tranh cứu nước của phong trào tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương xẩy ra cùng thời và phong trào Phật Giáo Hòa Hảo sau nầy: Lãnh tụ kháng chiến Trần Văn Thành là một đại đệ tử của Phật Thầy Tây An và anh hùng kháng chiến Nguyễn Trung Trực (tức quan Thượng đẳng đại Thần) được tín đồ PGHH tôn thờ như một vị thần, chỉ sau Phật Tổ và Phật Thầy Tây An). Cuộc kháng chiến võ trang chống Thực Dân Pháp của nhân dân Việt Nam nói chung nà nhân dân Lục Tỉnh nói riêng dũng cảm, bền bỉ kéo dài cho đến cuối thế kỷ 19. Và từ đầu thế kỷ 20 cuộc kháng chiến này được tiếp tục và nâng cao hơn dưới các hình thức mới như phong trào đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội, các hội kín, các đảng cách mạng và các tôn giáo dân tộc... Một đặc điểm khác nữa là các phong trào yêu nước, như phong trào đông Du do nhà chí sĩ Phan Bội Châu khởi xướng, tuy xuất phát từ miền Trung , nhưng lại được nhân dân Lục tỉnh tham gia, ủng hộ mạnh mẽ hơn tất cả các nơi khác. Chính ở Nam Bộ, chính ở những vùng đất mới của Tổ Quốc mà sinh lực và thần trí dân tộc được tích lũy dồi dào, sung mãn đã phát tiết nổ ra thành những hành động anh hùng, khí phách trong các cuộc kháng chiến trên lãnh vực quân sự và văn học. Chính ở miền Nam mà truyền thống văn hóa, tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc được lưu giữ, bảo tồn, trao truyền, một cách trân trọng và nguyên vẹn. Trong khi đó, ngay chính suối nguồn quê hương xuất phát, là miền Bắc và miền Trung, một số không nhỏ những truyền thống nầy đã bị lu mờ, mai một. đồng bằng sông Cửu Long đã đủ lớn về tâm tưởng, đủ phong phú về tài nguyên, đủ mạnh về tinh thần, nhưng đồng thời cũng vẫn còn trinh nguyên, đôn hậu, tươi mát, mới lạ để đón nhận một thiên tài tôn giáo ra đời và một phong trào tôn giáo lớn dậy. Nếu Huỳnh Phú Sổ sinh ra ở những nơi khác trong giai đoạn Pháp Thuộc, giai đoạn suy vi, chìm đắm của dân tộc, ở những nơi đó bạc nhược về tinh thần, suy yếu về ý chí, nghèo đói về kinh tế, kém cỏi về trí tuệ, nô lệ về văn hóa, xơ cứng, khô cằn trong nếp nghĩ, nếp sống, thì những thông điệp của ông đã không vang vọng đến ngày nay. Sự nghiệp của Huỳnh Phú Sổ chính là sự nghiệp của nhân dân Nam Bộ. ông đã hét lớn vào vách đá sừng sững, hùng tráng và đã có muôn ngàn tiếng dội chấn động. Cùng một tiếng hét đó, cất lên trên một bãi sình lầy, sẽ chỉ có sự im lặng mênh mong. Huỳnh Phú Sổ đã có cáo cơ duyên và cái hạnh phúc lớn lao được sinh ra, lớn lên trên đồng bằng sông Cửu Long hiền hòa, nắng ấm, tươi vui, đã khai đạo, hoằng pháp và đấu tranh với những con người hiền lương, khí phách, trung trực. ông đã thấy, dù thời gian hoạt động quá ngắn, nhũng hoa trái đầu mùa của hạt giống Chánh Pháp và tinh thần ái Quốc mà ông đã gieo truyền, trong đau thương, và lớn lên, trong nghiệt ngã. Những hạt giống đẹp đẽ, mầu nhiệm nầy đã không bao giờ sống sót và nở hoa, sinh trái, nếu chúng không được lưu giữ, bằng máu xương, bởi những tâm hồn, những tấm lòng, những trái tim, những cuộc đời chân thật, ngay thẳng, đạo đức và anh hùng: Không phải tự nhiên, tình cờ, mà cách đây 130 năm, Nguyễn Trường Tộ đã viết trong bản điều tần Tế Cấp Bát điều (Tám điều cứu Vớt) "Những sông núi hai bên sông Cửu Long tất sẽ làm chổ nghỉ nhàn dưỡng lão cho nước ta". C/ Truyền thống đạo pháp và dân tộc. Trong trào lưu đề kháng chống ngoại xâm và khai mở, phục sinh truyền thống tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc, xuất hiện một phong trào kiên trì nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong nhân gian Nam Bộ là phong trào tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với hai ngọn cờ Tín Ngưỡng và ái Quốc. Tín ngưỡng: đó là đạo Phật nhân gian, truyền thống, mang nặng màu sắc Tam Giáo. ái Quốc: đó là chống thực dân Pháp. Người sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương là ông đoàn Minh Huyên sinh năm 1807 tại làng Tòng Sơn, thuộc Gia định thành. Năm 1849 tại làng ông nổi lên nạn dịch tả hoành hành giết người như rạ, ông đã giản dị dùng nước lạnh, giấy vàng chữa lành bịnh cho các nạn nhân và chận đứng được bịnh dịch tả. Dân chúng tin phục và tin rằng ông là Phật Thầy giáng phàm cứu dân. Sau đó ông đến định cư ở ngôi chùa tây An, núi Sam, Châu đốc nên được dân chúng tôn xưng là Phật Thầy Tân An. Mang đặc tính tu hành theo đạo Phật bình dân và yêu nước, hay nói theo cách ngày nay là đạo Pháp và Dân Tộc, ông chủ trương học Phật, tu Nhân, thực hành giáo lý tứ ân, làm các điều lành, tránh các điều ác, cúng lạy, niệm phật tại gia đình, và tín đồ không cần xây chùa cao, tượng lớn, không cần tăng, ni, hình tướng, chỉ cần thờ một tấm trần điều với ba lễ vật đơn sơ là nước lạnh, nhang và bông hoa. Với giáo lý và phương pháp tu hành giản dị, thích hợp căn cơ, trình độ của đại đa số nông dân hiền lành chất phác nên số tín đồ đến quy y thọ giới ngày càng đông, tạo thành một phong trào tôn giáo rộng lớn khắp miền Nam. Mỗi tín đồ, sau khi quy y, được cấp một "lòng phái" bằng giấy màu vàng, trên đó có in triện màu đỏ bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương. đó là những nét đặc biệt của đạo Phật, tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại miền Nam. Phật Thầy Tây An mất năm 1856 để lại một số sấm giảng, mở đầu cho truyền thống truyền đạo bằng thơ của Bửu Sơn Kỳ Hương. Sau đó xuất hiện một nhân vật không tên tuổi được tôn xưng là đức Phật Trùm, có tài trị bịnh, phép thần thông, tiếp nối truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương truyền đạo từ năm 1868 đến năm 1875. Tiếp theo là ông Ngô Lợi, được tôn xưng là đức Bổn Sư, có tài chửa bịnh không cần dùng thuốc, lập làng An định, một chiến khu chống Pháp, dưới chân dãy Thất Sơn để quy tụ về làng khoảng 2.000 tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, tiếp tục truyền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương trong thời gian 1879-1890. Làng An định bị giặc Pháp tàn phá trong năm 1890. Sau đó xuất hiện nhân vật không tên tuổi, được gọi là đức Sư Vải Bán Khoai, tác giả cuốn Sấm Giảng Người đời, tiếp nối rao truyền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương trong các năm 1901-1902 và cuối cùng là sự xuất hiện, ở một quy mô rộng lớn nhất, hiện đại nhất, của đức Huỳnh Giáo Chủ, tức Huỳnh Phú Sổ, khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939. (Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu, sđd, chương 1, 2, 3, 4). Từ đức Phật Thầy Tây An đến đức Huỳnh Giáo Chủ, trải qua suốt 90 năm, là một giòng sinh mệnh Phật Giáo đặc thù Việt Nam và đặc biệt Nam Bộ nhưng nó không tách lìa, trái lại, là một phần bất khả phân ly của 2.000 năm Phật Giáo Việt Nam và 2.500 năm của Phật Giáo Thế Giới. So với rất nhiều tông phái Phật Giáo khác tại Việt Nam và trên thế giới, thì Bửu sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo có đặc chất và màu sắc Phật giáo rất rõ rệt và đậm nét, chưa kể là nó còn mang được tính chất trong sáng và truyền thống của đạo Phật. D/ Gốc rễ văn hóa và tâm linh của cuộc Nam Tiến: đạo Phật tại miền Nam. Các vị minh quân khai sáng nhà Nguyễn, như tất cả những vị minh quân khác của các triều đại trước, đều tôn sùng đạo Phật, và đại đa số nhân dân đàng Trong đã tiếp nối truyền thống văn hóa, tâm linh của Tổ Tiên. điểm nổi bật của sự phát triển Phật giáo đàng Trong là sự hoằng pháp rất thành công của các danh tăng đến từ Trung Hoa như các thiền sư Viên Cảnh, Viên Khoan, Minh Hoằng, Giác Phong, Từ Lâm, Pháp Bảo, Pháp Hoa, Tế Viên, Nguyên Thiều, ... (thuộc phái thiền Lâm Tế), của quốc sư Hưng Liên và nhất là của thiền sư Thạch Liêm (thuộc phái thiền Tào động). Người đi xa nhất về phía Nam là thiền sư Tế Viên, khai sơn chủa Thập Tháp Di đà ở Bình định. ảnh hưởng quan trọng nhất của các tăng sĩ Trung Hoa trong việc hưng thịnh của Phật giáo đàng Trong có lẽ đến từ thiền sư Thạch Liêm, thầy của thiền sư Hưng Liên, người được chúa Nguyễn Phúc Chu tôn làm quốc sư. Thạch Liêm được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến Huế năm 1695 và cách đây đúng 300 năm, ông đã dạy Phật pháp như sau cho nhà lãnh đạo quốc gia: "Trai giới không phải chỉ để cho sạch miệng, sạch mình và sạch tư tưởng mà thôi đâu. Trai giới là làm cho quốc gia từ trên tới dưới được thanh lý chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng giải quyết thỏa đáng: làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của một ông vua". Thiền sư Thạch Liêm còn đề nghị chúa Nguyễn Phúc Chu thực hiện trai giới bằng cách: "Trả tự do cho những người bi giam cầm oan ức, phóng thích bớt những tù nhân trong ngục thất, chẩn cấp cho những kẻ nghèo đói, tháo gỡ cho những người bị đè nén ép uổng, bãi bỏ bớt những luật lệ quá nghiêm khắc, dễ dãi cho người buôn thúng bán bưng và cho thợ thuyền". Chúa Nguyễn Phúc Chu đã nghe lời thầy và thực hiện những biện pháp trai giới cụ thể, thực tế, hợp lòng dân nầy. (Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 2, t 239). Trong việc hoằng pháp tại đàng Trong, một thiền sư Việt Nam đã có công rất lớn là thiền sư Liễu Quán. ông người Phú Yên, sinh năm 1670, đi tu từ lúc nhỏ với thiền sư Tế Viên, học đạo với nhiều vị danh tăng đương thời như các thiền sư Giác Phong, Thạch Liêm, Tử Dung. ông đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế và làm cho thiền phái nầy trở thành thiền phái của đa số Phật Tử đàng Trong (200 năm sau, Phật Thầy đã đến nương náu ở chùa Tây An, núi Sam, Châu đốc. Tây An Tự là một chùa thuộc dòng Lâm Tế). Người Việt Nam có công lớn không kém thiền sư Liễu Quán là chúa Nguyễn Phúc Chu, pháp danh Hưng Long, sinh năm 1675, tinh thông văn chương lẫn võ bị, lên ngôi chúa năm 17 tuổi, thọ ngũ giới và bồ tát giới với thiền sư Thạch Liêm năm 21 tuổi. Là một minh quân, ông hâm mộ đạo Phật. Chính ông là người tiếp nối sự nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng, cho đúc chuông chùa Linh Mụ nặng 3.285 cân. Những chữ khắc trên chuông, ngắn gọn, nhưng đủ để nói lên, mạnh, sâu, tấm lòng của một minh quân thương dân, yêu nước, và một phật tử thuần thành, hiểu đạo: "Quốc Chúa đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào động Chánh Tông đời thứ ba mươi, pháp danh Hưng Long, đúc hồng chung này nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Thiên Mụ Thiền Tự để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều hoàn thành viên chủng trí". Chính ông, năm 1714 đại trùng tu chùa Linh Mụ và khi hoàn thành, đã ở lại chùa một tháng, ăn chay, phát chẩn tiền và gạo cho người nghèo. (Nguyễn Lang, sđd, t 240-241). Không những xây chùa, đúc chuông, lông còn áp dụng những biện pháp "trai giới" ngoạn mục, cũng như bản điều trần 18 điểm về việc trị nước theo tinh thần Phật giáo, mà sư phụ của ông là thiền sư Thạch Liêm đã đệ trình cho ông. Khởi đi từ chúa Nguyễn Hoàng, được tiếp nối và làm cho hưng thịnh rực rỡ bởi chúa Nguyễn Phúc Chu, đạo Phật đã như một giòng os6ng lớn chảy thấm vào các vùng đất mới, cũng như được những di dân miền Trung mang vào đồng bằng sông Cửu Long như là một di sản quý giá của quê hương mà họ đã giã từ ra đi đế đến lập nghiệp trên mãnh đất Nam Bộ hiền hòa, phì nhiêu. Vào thế kỷ thứ 18, khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi đến các tỉnh cực Nam thì một số cao tăng cũng theo làn sóng di dân xây chùa, hoằng pháp, và không những thế còn đóng góp một phần quan trọng trong việc phò tá nhà Nguyễn phục hưng, sai khi bị Tây Sơn đánh bại, và thống nhất đất nước. ở đông Phố tức Gia định có thiền sư đạt Bổn từ Quy Nhơn vào lập chủa Thiên Trường năm 1755. Chính ở chùa nầy, 20 năm sau, năm 1775, Hòa Nghĩa đạo Lý tướng quân suy tôn đông Cung Thái Tử Nguyễn Phúc Dương lên kế nghiệp chúa Nguyễn để chống lại quân Tây Sơn (NL, sđd, t 207). Trước đó cũng đã có chùa Tập Phước, Giác Lâm đã được xây lên ở Gia định. Không những thế cùng thời đã có những ngôi chùa ở các tỉnh khác tại miền Nam như Biên Hòa, Tây Ninh, Hà Tiên... Vào đầu thế kỷ thứ 19, năm 1802, chúa Nguyễn ánh, tức vua Gia Long thống nhất đất nước. Các vua Gia Long, minh Mạng, Thiệu Trị, Tự đức đã từ bỏ nền chính trị đạo đức, khoa dung độ lượng, thuần túy dân tộc, dựa trên chủ lực tinh thần, văn hóa Trung Hoa của triều đại nhà Thanh, dựa trên khổng giáo. Tuy nhiên vì công lớn lao của một số cao tăng đàng Trong trong việc yểm trợ nhà Nguyễn phục hưng đất nước nên các triều vua nầy cũng có đôi chút quan tâm nâng đỡ Phật giáo. Nhưng vì không phải là Phật tử hiểu đạo nên sự hộ trì Phật Giáo của họ chỉ ở mức độ tín ngưỡng như xây chùa, đùc tượng . phong thưởng, trợ cấp ruộng đất... Trong thời kỳ này, có các danh tăng như thiền sư Mật Hoằng, Liễu Thông, Viên Quang, đạo Thông, Viên Ngộ, Phước An... đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hoằng pháp tại Lục Tỉnh. Sang đầu thế kỷ 20, các vị cao tăng Từ Phong, Chí Thanh, Huệ Quang, Khánh Anh, Tâm Thông, Hoằng Nghĩa, Huệ Tịnh... tiếp tục duy trì Phật pháp, thắp sáng ngọn đèn chánh Pháp tại Nam bộ trong đêm dài thống trị của thực dân Pháp.Chính từ đó, từ những ngọn lửa than hồng của dân tộc và đạo pháp, được giữ kính và lưu truyền một cách trân trọng trong chốn thiền môn, mà đã xuất hiện huy hoàng, bi tráng thế hệ Huỳnh Phú Sổ, thế hệ Thích Trí Quang, thế hệ Tuệ Sĩ, Mạnh Thát của hôm qua và ngày nay...
Chương năm: Tinh hoa tư tưởng Phật học và phương thức chấn hưng Phật Giáo của Huỳnh Phú Sổ. "Loài cầm thú còn hay biết ở. Huống chi người nở bỏ tứ ân". Hai câu thơ này, trích trong bài Giảng Giác Mê của Phật Thầy Tân An, viết trong thập niên 1850, đã cô động được tinh yếu của Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương cũng như Phật Giáo Hòa Hảo. Với hai ngọn cờ đạo Pháp và Dân Tộc, hay tu hành và yêu nước, đức Phật Thầy Tây An, cũng như Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, qua công thức "Học Phật Tu Nhân" đã kêu gọi tín đồ thực hành Tứ Ấn, như bổn phận căn bản của người tu hành và cũng là người công dân. Ai trả trọn bốn ân lớn, tức ân tổ tiên cha mẹ, ân quê hương, đất nước, ân tam bảo Phật, Pháp Tăng, và ân đồng bào, nhân loại tức là đã làm tròn bổn phận con người và có đủ điều kiện để tham dự Hội Long Hoa trong thời hạ ngươn, mạt pháp này. Hãy mau học Phật tu nhân, hãy tích cực, dũng mãnh thực hiện hạnh Tứ Ấn để được Phật Trời cứu độ trong Hội Long sắp đến. Thật là một thông điệp hàm xúc, hấp dẫn và mạnh mẽ, một thông điệp giản dị, đơn sơ, chất phác nhưng có khả năng thức tỉnh lớn lao, thức tỉnh khỏi tham, sân, si, danh, lợi, dục lạc thế gian, thức tỉnh khỏi vũng lầy sinh hoạt mê tín dị đoan đồng bóng, bùa ngãi, thức tỉnh trước cảnh khổ của nhân sinh và cảnh nô lệ ngoại bang. Hai chữ Tứ Ấn vừa có đủ từ bi, trí tuệ, vừa có đủ đại lực đại hùng của đức Phật Thầy và của Huỳnh Giáo Chủ là đủ để đập vỡ những quan niệm phê bình Phật Giáo là ích kỷ, yếm thế, thụ động, yếu hèn, vô dụng. Tứ Ấn thật sự cao cả hơn, tích cực hơn mười điều răn của Thiên Chúa Giáo hay ngũ giới trong Phật Giáo. Tứ Ấn đưa mỗi con người vươn lên cao đến tổ tiên, tiền nhân, vươn lên cao đến tổ quốc, dân tộc, vươn lên cao đến Chư Phật, Bồ Tát, và vươn lên cao đến nhân loại trên khắp địa cầu. Một nông dân chơn chất, thường là không biết chữ, ngay từ thế kỷ 19, trên đồng bằng sông Cửu Long hiền hòa nhưng cô lập với thế giới bên ngoài, mà đã thấm nhuần, và không những thế, đã sống, đã thực hành Tứ Ấn và vươn đến những mức độ cao nhất của Tâm Thức và Bồ Tát Hạnh như thế, thì đó là một điều vĩ đại và mầu nhiệm. Nhưng Phật Giáo Hòa Hảo không phải chỉ có thế... Tuy chỉ được trình bày dưới những bài thơ dễ hiểu, dễ nhớ, nhưng tư tưởng của Huỳnh Phú Sổ là một cuộc cách mạng mạnh mẽ trong Phật Giáo và vẫn còn những giá trị thời đại, không những cho thế kỷ này, mà còn cho các thế kỷ sắp tới. 1/ Phương pháp luận của Huỳnh Phú Sổ. Cũng giống như đức Phật, Huỳnh Phú Sổ đã bác bỏ ngay phương pháp luận của các triết gia thường đắm chìm trong những suy tư triết học của sự phân tích, lý luận về những vấn đề siêu hình, trừu tượng thuộc lãnh vực tư tưởng thuần lý. Và cũng giống như đức Phật, ông không mất thì giờ đề cập đến những vấn đề siêu hình về vũ trụ luận, về thế giới quan, về thân phận con người chung chung. ông đi thẳng vào những vấn đề thực tế, cụ thể của con người, của xã hội, của đất nước. Như các giáo chủ, các nhà hiền triết khác của đông Phương, ông trình bày một con đường, một đạo sống, không phải để lý luận, mà để áp dụng và thực hành trong đời sống hàng ngày. ông trực tiếp gởi một thông điệp cứu khổ và giải phóng con người. Và mạnh mẽ hơn đức Phật và các vị giáo chủ khác, ông còn mạnh dạn hô hào giải phóng đất nước, tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, chống độc tài dưới mọi hình thức và thực hiện công bằng xã hội. 2/ Hình thức giảng đạo của Huỳnh Phú Sổ. ông không lập thuyết, không đưa ra một ý thức hệ cũng không viết những bài diễn văn dài dòng, hoa mỹ. đặc biệt hơn tất cả giáo chủ, hiền triết khác, ông chỉ giảng đạo bằng thơ, thơ lục bát và các thể thơ đượm màu sắc dân tộc khác. Cũng không giống các thiền sư, giảng đạo bằng một số bài kệ, thường chú trọng vào những vấn đề chứng đắc tâm linh, ông cũng giảng đạo bằng những bài kệ nhưng là những bài kệ để áp dụng, để thực hành trong cuộc sống hàng ngày và tất cả mọi người, dù mù chữ thất học, cũng hiểu được, học thuộc lòng được và áp dụng được một cách dễ dàng. Nhắm đến đối tượng chính là nông dân, là quần chúng bình dân ở thôn quê nên tư tưởng và hình thức hoằng pháp của ông đã giản dị đến cực độ nhưng lại hữu hiệu vô cùng. Không mấy nông dân Việt Nam nào có thể đọc và hiểu được Tư Bản Luận của Karl Marx hay các kinh như Hoa Nghiêm, Lăng Già... nhưng bất cứ ai cũng có thể hiểu và thực hành những lời khuyên của Huỳnh Phú Sổ. ông đã Việt hóa tư tưởng Phật Học một cách tài tình và bình dân hóa đạo Phật một cách thần kỳ, mà không đánh mất cốt tủy của nó là con đường thực hành sự giải thoát, giác ngộ ngay trong cuộc đời. 3/ Đối tượng hoằng pháp. Khác với đức Phật hay các thiền sư, cũng khác với các nhà Phật Học hay các nhà cách mạng đương thời, Huỳnh Phú Sổ giảng đạo và truyền đạo cho một đối tượng chính và hầu như duy nhất (không kể một vài trường hợp ngoại lệ), đó là nông dân và quần chúng ở nông thôn, là thành phần bị bạc đãi, bị thua thiệt mọi mặt trong xã hội. Vào thập niên 30, 40, tình trạng nông thôn và đời sống nông dân Việt Nam thật là thấp kém, lạc hậu, ngay cả một tờ "nhật trình" (nhật báo), một máy thâu thanh cũng hiếm hoi, sách vỡ, trường học, kinh sách cáng hiếm hơn và số người biết đọc biết viết thật ít ỏi. Bị dìm trong tình trạng nghèo đói, thất học, bịnh tật, thiên tai, áp bức và đau khổ triền miên, đa số nông dân đắm chìm trong rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, đồng bóng, bùa ngãi. ánh sáng của văn minh và Phật pháp đã không đến để soi sáng, thăng hoa, về mặt dân trí cũng như đạo đức, cuộc đời thấp kém, tối tăm của họ. Với lòng từ bi bao la, với trí tuệ giác ngộ và viễn kiến chính trị xuất sắc, Huỳnh Phú Sổ đã thấy ở quần chúng nông dân này, không những là những chúng sanh đáng thương cần cứu độ, mà còn thấy ở họ một tiềm lực lớn lao cho công cuộc giải phóng đất nước. ông đã đến với họ, trao tặng cho họ Phật pháp, đạo đức, niềm tin, lý tưởng và chuyển hóa họ thành một đoàn thể tu hành chân chính và thành một lực lượng ái quốc và cứu quốc. Khi Tạ Thu Thâu, một nhà cách mạng nổi tiếng (bị Việt Minh sát hại vào cuối năm 1945) hỏi: "Tại sao hầu hết các tín đồ của Giáo Chủ là nông dân thiếu học?", ông đã trả lời: "Trong một xã hội có nhiều thành phần người. Quý ông đã lựa chọn giới có học mà thâu nhận vào đảng và quý ông bỏ rơi đám người nông dân thiếu học. Quý ông bỏ họ, thì tôi phải cứu vớt họ, chớ không lẽ bỏ rơi luôn họ sao? Họ cũng là người Việt Nam, là chúng sanh, và tôi chắc họ sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc đấu tranh sắp tới. Chẳng khác nào quý ông đã lựa chọn chén kiểu chén sứ, bỏ mảnh sành nồi đất, thôi để tôi lo cho lớp người thất thế trong xã hội đó". Thật là một sự giải thích giản dị, sâu sắc và đầy đủ. 4/ Phương thức cứu độ. Như hầu hết các vị giáo chủ, các nhà tiên tri, Huỳnh Phú Sổ đã xuất hiện khai đạo với lời báo động về những tai họa khủng khiếp sắp xẩy ra và kêu gọi mọi người hãy thức tỉnh, lo tu hành để được cứu độ. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế từ cuối thập niên 20 đã ảnh hưởng nặng nề trên đời sống nông dân và kéo dài nhiều năm sau đó, trận đệ nhị thế chiến bùng nổ và lan tràn khắp nơi trên thế giới làm mọi người phải giựt mình lo sợ. Nhưng Huỳnh Phú Sổ đã báo động và tiên tri về những điều sâu thẳm hơn và đánh động mãnh liệt hơn đối với nông dân miền Nam, đó là lời báo động về thời hạ ngươn và tiên tri về hội Long Hoa, hai điều này đã bàng bạc, âm ỉ trong tâm thức người dân Lục Tỉnh từ thời Phật Thầy với Bửu Sơn Kỳ Hương gần cả 100 năm trước đó, và không những thế, nó còn là niềm tin thần bí, nằm sâu kín trong đáy lòng của đại đa số quần chúng Việt Nam từ cả ngàn năm nay. Vì nó có liên hệ mật thiết đến Phật Giáo đại Thừa và Tịnh độ Tông, hay đúng hơn Phật Giáo nhân gian, là đích thực tín ngưỡng của đại đa số Phật Tử Việt Nam cũng như nhân dân Việt Nam. Sau khi báo động, ông đã cứu độ bằng cách chữa bịnh, bằng "thuốc Phật" (là nước lã, hoa bưởi, lá chanh...) cho các người bị bịnh tật và đã thật sự chữa lành nhiều bịnh, kể cả những bịnh nan y. Việc chữa bịnh thần kỳ này đã gây được niềm tin cho dân chúng. Sau đó ông bắt đầu thuyết giảng đạo Phật, khuyên mọi người tu hành, bằng cách ăn hiền ở lành, tránh làm điều ác, tích cực làm việc thiện, giúp người cứu đời. Sau đó ông cho họ quy y nhập đạo, đoàn ngũ hóa họ thành một đoàn thể tu hành, đạo đức, trong một tôn giáo, và cuối cùng đoàn ngũ hóa cả hàng ngàn, hàng vạn tín đồ nông dân thành một đoàn thể cách mạng, ái quốc, trong một tổ chức chính trị và một lực lượng quân sự. Huỳnh Phú Sổ đã đi xa hơn cả đức Phật Thích Ca, hơn cả Chúa Jesus, hơn cả nhà tiên tri Mohammed... Có thể nói ông là Thích Ca Mâu Ni Việt Nam, là Jesus Christ Việt Nam, là Mohammed Việt Nam... cho một giai đoạn lịch sử đặc thù Việt Nam và trong một không gian đặc dị Việt Nam. Và dù đi vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo, ông vẫn là một con người tôn giáo, một giáo chủ. Thật là lầm lẫn lớn lao nếu nhìn ông chỉ như là một nhà ái quốc, một nhà cách mạng hay một nhà chính trị. Hơn tất cả hình tướng này, ông, trong bản chất và trong thật chất, là một nhà Phật học và một lãnh tụ Phật Giáo. Cũng vậy, Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo, những sự thể hiện có màu sắc chính trị, xã hội, quân sự, tranh đấu, chỉ là sự biểu hiện nhất thời của một giai đoạn lịch sử đặc biệt cuốn hút tất cả tiềm lực dân tộc vào cuộc đấu tranh sinh tử giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lăng và ách thống trị của ngoại bang. Trước Huỳnh Phú Sổ 700 năm, đã có thiền sư Tuệ Trung trực tiếp cầm quân giết giặc, bảo vệ tổ quốc trong cuộc kháng chiến vẻ vang chống lại cuộc xâm lăng của đế quốc Mông Cổ... Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ và các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ tiếp nối truyền thống ái quốc và anh hùng này mà thôi. 5/ Tinh hoa tư tưởng Huỳnh Phú Sổ. Tư tưởng của Huỳnh Phú sổ chính là tư tưởng Phật Giáo. ông đã tuyên bố rõ: "đối với toàn thể tín đồ Phật Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tự trung thành của đức Phật Thích Ca Mâu Ni". - PGHH chính là đạo Phật, là một tông phái Phật giáo được chấn hưng. đó là sự thật thứ nhất. - Phật Giáo Hòa Hảo là sự tiếp nối hiện đại của Bửu Sơn Kỳ Hương, đó là sự thật thứ hai. - Và sự thật thứ ba là Phật Giáo Hòa Hảo là một sự thể hiện thời đại của Phật Giáo Việt Nam trong hoàn cảnh đặc thù của đồng bằng công Cửu Long. Những tác giả có thẩm quyền về Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều tự nhận mình là Phật Giáo và họ khẳng định họ là Phật Giáo Hòa Hảo, chớ không không phải là Hòa Hảo (và họ rất bất bình nếu bạn chỉ gọi họ là Hòa Hảo). Trong tác phẩm có thẩm quyền nhất về PGHH là cuốn Phật Giáo Hòa Hảo Trong Giòng Sinh Mệnh Dân Tộc, tác giả Nguyễn Thành Nam đã xác định rõ ràng, minh bạch như sau: "Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo chính là đạo Phật, bắt nguồi từ tinh hoa cốt tủy của giáo thuyết mà đức Thích Ca đã khởi truyền từ trên 25 thế kỷ trước đây". Khẳng định nguồn gốc lịch sử và giáo lý từ đức Phật, Phật Giáo Hòa Hảo tự coi mình như một bộ phận của Phật Giáo Việt Nam, tông phái mới của Phật Giáo, và bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo là "một tôn giáo mới" hay là "đạo Phật canh tân". Tác giả Thành Nam giải thích luận điểm này như sau: "Một vài tác giả Tây Phương đã viết rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một tổ chức Phật Giáo canh tân, tương tợ như phong trào cải cách Luther và Calvin đối với Cơ đốc Giáo, ở thế kỷ 16 Tây Lịch. Theo quan điểm PGHH thì sự so sánh này không đúng... Martin Luther (1483-1546) và Jean Calvin 1509-1564) là hai nhà thần học chủ trương cải cách, bất đồng với tòa thánh La Mã một số vấn đề như hệ thống giáo quyền, hình thức thờ phụng, lễ nghi. Nhưng vấn đề quan trọng họ đặt ra là thẩm xét lại sự diễn dịch giáo lý Cơ đốc. Riêng Luther nêu lên 95 luận đề đòi thảo luận với tòa thánh La Mã. PGHH không hề đặt vấn đề thẩm định lại giá trị thuyết Thích Ca. Do đó, PGHH đối với Phật đạo không là một phong trào cải cách như Luther hay Calvin. Những đặc điểm trong giáo lý PGHH, nếu nói là canh tân, thì chỉ canh tân về mặt "dụng" chớ tuyệt đối không thay đổi gì về mặt "thể". Chỉ có sự cải tiến, hay đúng ra thích nghi hóa phương thức hành đạo với cuộc sống, mà không hề có sự tranh cãi, xét lại hay canh tân nào về mặt giáo thuyết phật đạo. Cho nên trên phương diện chính danh, PGHH không phải là một "tôn giáo mới" hay một đạo Phật canh tân. Về mặt tổ chức, PGHH mới xuất hiện từ 1939. Nhưng về mặt giáo lý, PGHH không phải là một tín ngưỡng mới hay tín ngưỡng cải cách. Giáo lý PGHH chính là đạo Phật". Như vậy tác giả bác bỏ hoàn toàn và mạnh mẽ sự so sánh PGHH với sự nổi loạn chống lại Vatican và các giáo hoàng Thiên Chúa Giáo La Mã phóng đảng, sa đọa, ham mê quyền lực của Luther, một sự ly khai tôn giáo đưa đến sự hình thành của Tin Lành, một tôn giáo mới thách đố cả về mặt giáo lý lẫn cơ cấu, tổ chức, sinh hoạt giáo hội của Thiên Chúa Giáo La Mã. Tác giả Thành Nam còn đưa ra những đặc tính của Phật giáo để bảo vệ quan điểm PGHH chỉ là một tông phái mới của Phật giáo truyền thống: "Phật đạo không giáo điều cố định, mà luôn luôn sinh động dung hợp. Du nhập quốc gia nào, Phật giáo không hề gặp sự kháng cự của các nền đạo giáo tư tưởng đã sẵn có trong nước đó. Suốt tiến trình truyền bá đạo Phật đến nay, đã không thấy xẩy ra cuộc chiến tranh nào phát sinh bởi lý do truyền giáo... Trong các điều kiện tương đồng về văn hóa xã hội, như tại các quốc gia á Châu, Phật đạo thích nghi và hòa hợp với văn hóa và bản chất dân tộc, để trở thành một nền đạo Phật mang sắc thái đặc thù của dân tộc ấy, mà vẫn giữ được yếu lý căn bản của Phật giáo. đạo Phật du nhập Việt Nam mang sắc thái đạo Phật Việt Nam, tất nhiên có sự khác biệt với đạo Phật ấn độ, đạo Phật Tây Tạng, đạo Phật Trung Hoa, đạo Phật Nhật Bổn... về mặt pháp môn, sinh hoạt, nghi lễ, kiến trúc, y trang... Nhưng kinh điển và nguyên lý vẫn là Phật đạo mà đức Thích Ca đã truyền bá... Tôn giáo xuất hiện với sứ mạng cải tạo xã hội và con người. đạo Phật truyền bá vào Việt Nam, khi tới miền đất mới khai mở, tức miền Nam Việt Nam, tất nhiên phải có những đặc thái để thích ứng với bối cảnh xã hội và lịch sử, cũng như tâm lý và trình độ quần chúng nơi đây. Căn cứ trên lập luận này, PGHH không phải là một đạo Phật canh tân, mà chính là một tông phái Phật đạo mang một số đặc tính thích nghi với bối cảnh xã hội và lịch sử từ đó tổ chức này xuất hiện. Bối cảnh lịch sử là một nước Việt Nam đang bị thực dân Pháp thống trị. Bối cảnh xã hội là đời sống bất công trong đó lớp nông dân là giai tầng xã hội chịu thiệt thòi và yếu kém nhất. quần chúng nông thôn trình độ chất phác, căn cơ thiển bạc, không thể lãnh hội ý nghĩa khó hiểu của thiên kinh vạn quyển. Bởi vậy đạo Phật truyền bá trong bối cảnh này phải phù hợp với dân tộc tính, đáp ứng tâm lý và trình độ đại chúng nông thôn". Thật là rõ ràng PGHH không những là Phật giáo chân chính mà còn là một mô hình tuyệt hảo của tinh thần thích nghi, dung hợp của đạo Phật và của lịch sử truyền bá, phát triển Phật giáo trên thế giới. Thế nhưng tại sao hầu hết các tác phẩm về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều không đề cập đến PGHH? Tại sạo các giáo hội Phật giáo từ thập niên 30 đến 90 ngày nay đều không bao gồm PGHH? Tại sao đa số tăng, ni, tín đồ Phật Giáo Việt Nam đều không cảm nhận và công nhận PGHH là một bộ phận của PGVN và các tín đồ PGHH là những đạo hữu thân thiết ruột thịt cùng chung một tôn giáo và tín ngưỡng? Nguyên do một phần là suy khi Huỳnh Phú Sổ ra đi đã không có những đại đệ tử tiếp tục xiển dương tư tưởng Phật học của ông và phát triển Phật giáo như một tông phái của đạo Phật. Một phần khác là sự thiếu hiểu biết và ngộ nhận về PGHH và một phần khác nữa là quả thật PGHH đã có những sự thích nghi, cải tiến và phát triển hết sức cấp tiến, mạnh dạn và mới mẻ khiến cho những người quen thuộc với đạo Phật truyền thống từ 2.000 năm nay tại Việt Nam, và nhất là Phật giáo trong giai đoạn suy vi bị Tàu hóa nặng nền sau thời đại Lý Trần, nghĩa là suốt gần 600 năm nay, đã cảm thấy xa lạ và tưởng nó không phải là đạo Phật. Trong khi có thể PGHH còn là Phật Giáo Việt Nam hơn cả Phật Giáo Việt Nam "truyền thống" (thật ra là Phật giáo lai căng Trung Hoa) như ta thường hiểu. Ta sẽ thấy rõ vấn đề quan trọng này, vừa liên quan trực tiếp đến PGHH, vừa ảnh hưởng sinh tử đến Phật Giáo Việt Nam, khi nắm vững tư tưởng Phật học của Huỳnh Phú Sổ, cũng như giáo lý, sinh hoạt, tổ chức của PGHH. Qua các tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ, đạo Phật được trình bày một cách giản dị, trong sáng, thích hợp mọi tầng lớp dân chúngh và thích nghi vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày, bất cứ ai cũng có thể hiểu và ứng dụng. ông đã Việt hóa Phật giáo, thời đó cũng như cho đến ngày nay, vẫn còn mang nặng ảnh hưởng lai căng, lện lạc của Phật Giáo Tàu trong thời suy đồi (thời nhà Thanh) mà hầu hết các danh tăng Việt Nam hiện đại đều cảm thấy sự nguy hại và ra sức loại bỏ, chấn chỉnh. ông cũng làm cho Phật giáo trong sáng hơn, truyền thống hơn, nguyên thủy hơn, gần với đạo Phật thời đức Phật còn tại thế, bằng cách triệt để tách rời, bài trừ những mê tín dị đoan và hình tướng phù phiếm, nhảm nhí, như những dây leo tầm gởi, bám chặt và bán đầy cây Bồ đề Phật Giáo. Bứt bỏ, đốn ngã đám cây, cỏ ngoại đạo này, cây Bồ đề có vẻ thưa thớt, trơ trụi, không còn um tùm, sầm uất như trước, nhưng đó thật là cây Bồ đề. (Theo ý trong băng giảng kinh Pháp Hoa của HT Từ Thông) Phật Giáo Hòa Hảo chính là cây Bồ đề đã được dọn sạch rừng cây leo chùm gởi che phủ nó. Và Phật giáo Việt Nam, thời đó cũng như ngày nay, chính là cây Bồ đề đang bị rừng cây chùm gởi mê tín dị đoan, danh sắc, hình tướng che phủ. Những người không hiểu biết tường tận, quen thuộc với nền Phật giáo đa thần hóa, nhân gian hóa, tưởng đó là nền Phật giáo chân chính và coi PGHH là không phải Phật giáo. Tôi khẳng định PGHH là Phật giáo Việt Nam ngang tầm, bình đẳng, không sai khác, cùng bản chất, màu sắc, hương vị như tất cả những cái gì Phật giáo nhất và những cái gì Việt Nam nhất. Những tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ sẽ chứng minh cho luận án này. Tuy về mặt giáo lý, Huỳnh Phú Sổ không đặt ra những luận đề mới, phản bác, thách thức những quan điểm Phật giáo truyền thống như Luther, Calvin đối với Thiên Chúa Giáo, nhưng về mặt hành đạo, ông đã thực hiện những cải cách táo bạo, cấp tiến, hợp thời đại và vượt thời đại, mang đầy tính cách mạng, khiến cho giới tăng già và những người theo Phật giáo hình thức không tưởng tượng nổi, không chấp nhận nổi, và đây là số đông, nên cho đến nay, PGHH vẫn không được coi là một bộ phận của PGVN truyền thống. Sau đây là những biện pháp cải cách hay chấn hưng PGVN được Huỳnh Phú Sổ chủ xướng, từ đầu thập niên 40. 4 Cổ võ, khuyế khích mọi người tu hành theo đạo Phật, áp dụng đạo Phật vào đời sống hàng ngày. 4 Phê bình phá hủy quan niệm tu hành sai lạc, vụ hình thức. Việt hóa và giản dị các nghi lễ thờ phượng. 4 Bài trừ các loại mê tín dị đoan mạo nhận Phật giáo và núp bóng trong Phật giáo. 4 Làm nổi bật vai trò của cư sĩ như là thành phần chính yếu, quan trọng nhất trong Phật giáo. 4 Chủ trương tu hành tại gia, tu hành trong cuộc đời, trong đời sống xã hội, đạo đời bất khả phân ly. 4 Không tạo dựng tự viện, chùa chiền, mỗi nhà là một nơi thờ Phật, không thờ lạy các hình tướng chư Phật, Bồ Tát, chỉ thờ Phật trong tâm. 4 Tôn kính Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng nhưng không cần tăng, ni hướng dẫn, hộ trì, lãnh đạo tinh thần, chỉ dựa vào Phật Pháp và tự mình tu hành, không qua trung gian của giới tăng sĩ. 4 Hướng dẫn tín đồ học Phật, tu Nhân, thực hành thuyết tứ ân, hành động nhập thế trong tinh thần từ bi của đức Phật. 4 Cổ võ mạnh mẽ tinh thần ái quốc, yêu nước và thuyết tứ ân, đặc biệt là ân đối với tổ quốc, đất nước, đồng bào. 4 Chủ xướng một quan niệm hành động chính trị, kinh tế, xã hội Phật giáo phù hợp với thời đại. 4 đoàn ngũ hóa tín đồ trong một tổ chức tôn giáo, chính trị có hiệu quả và sức mạnh cao hơn hình thái tổ chức của các giáo hội, đoàn thể Phật giáo khác, nhưng lại không tạo ra một tầng lớp thống trị đặc quyền đặc lợi và độc tài như các tôn giáo, chính đảng được tổ chức theo quan niệm Tây Phương. Ðây quả thật là một cuộc cách mạng.
Chương sáu: Cuộc cách mạng tôn giáo của Huỳnh Phú Sổ. 1/ Kêu gọi, khuyến khích mọi người tu hành theo đạo Phật. Trong lịch sử văn học Phật giáo Việt Nam, hiếm có ai thống thiết và mạnh mẽ thúc dục mọi người tu hành theo Phật giáo như Huỳnh Phú Sổ và ít có ai hướng những lời khuyến tu này đến quảng đại quần chúng nhân gian như ông. Những tác phẩm của Trần Thái Tông, quân vương bồ tát, anh hùng dân tộc và thiền sư lỗi lạc, cũng đã có những lời khuyến tu tha thiết, quyết liệt, đặc biệt là những bài như Phổ Khuyến Phát Tâm Bồ đề, Phổ Khuyến Sắc Thân, Kệ Tứ Sơn... nhưng vẫn còn có tính cách văn chương hoa mỹ chưa đi sâu rộng vào lòng nhân gian. Huỳnh Phú Sổ xử dụng những ngôn ngữ thật bình dân, mạnh, thẳng đi trực tiếp vào lòng mọi người, nhất là ông biết dùng những hình ảnh mọi người bình dân đều hiểu và đều quan tâm: "điên này nói việc gần xa, đặng cho lê thứ biết mà lo tu. Tu cho qua cửa Diêm Phù. Khỏi sa địa ngục, ngao du Thiên đài". Tu thiệt là sướng, ai nghe mà không ham? Vừa khỏi cái đại nạn, đại họa "phải sa địa ngục" còn mà được cái đại phúc, đại phước "ngao du thiên đài". đức Phật chắc phải tán dương cư sĩ Huỳnh Phú Sổ đã biết khéo dùng phương tiện thiện xảo để độ người, chẳng khác gì cư sĩ Duy Ma Cật trong kinh Duy Ma. ông còn tiên tri: "Mèo kêu bá tánh lao xao. đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê. Con ngựa lại đá con dê. Khắp trong thiên hạ nhiều bề gian lao. Khỉ kia cũng bị xáo xào. Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng... Từ đây sắp đến thảm thê. Con lìa cha mẹ vợ kia lìa chồng. Tới chừng đến việc ngóng trông. Trách rằng trời Phật không lòng từ bi. Di đà lục tự rán ghi. Niệm cho tà quỷ vậy thì dang ra". Ai nghe vậy chẳng giật mình thức tỉnh. Nhưng ông đã không dọa địa ngục thiên đàng ba láp, bậy bạ, đầy sự mê tín dị đoan, độc đoán, phi lý, và bất công như trong thánh kinh Thiên Chúa giáo đâu (ai không tin theo Thần Gia Tô, và Chúa Jesus, dù có làm lành, làm thiện, cũng bị đọa địa ngục đời đời). Trên đây là những lời tiên tri chính xác. ông là người, có lẽ duy nhất trên thế giới, đã tiên tri đệ nhị thế chiến bùng nổ năm 1939 (năm mèo), tiếp diễn khốc liệt, khủng khiếp trong năm 40, 41, 42, 43, 44 tức năm con rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ và chấm dứt năm 1945 (tức năm con gà ất Dậu: "Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng"), cũng như đã tiên tri cảnh chiến tranh tang tóc của nước Việt Nam sau năm 1945. Những hình ảnh thân thích ruột thịt, vợ chồng, cha mẹ, con cái bị lâm nạn, chia lìa được ông đưa ra làm cho ai nấy phải suy nghĩ, thức tỉnh. Rồi ông đưa ra phương thức cứu chữa thật giản dị ai cũng nhớ được, làm được: "Di đà lục tự rán ghi", tức niệm Nam Mô A Di đà Phật và nhờ vậy mà "tà quỷ dang ra'. Trước bao tai họa mà chỉ cần niệm Phật thì mình và cả gia đình mình được bình an, tai qua nạn khỏi, thì ai mà không làm? Thật là một cách khuyến tu tuyệt diệu, bởi vì đối với nông dân và quần chúng dân dã, bước đầu và đối với những người căn cơ còn kém thiện duyên còn ít, phước trí lại mỏng, khuyên họ thức tỉnh, niệm Phật, bỏ ác, làm lành cũng là một phương pháp tu có giá trị. Từ đó ông lại khuyên tiếp để tu ở mức độ cao hơn: "Khuyên đừng xài phí xa hoa, ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu. đừng khinh những kẻ đui mù. đến sau sẽ khổ gấp mười mù đui". Nói một lời mà mọi phải xét lại mình và lo tu hành. Thật là một cách hoằng pháp tài tình. đui mù không dám khinh thì trên đời này dám khinh ai, bởi vì ai cũng có Phật tánh và cũng đều có thể thành Phật. Và cảnh nào khổ cho bằng đui mù, hãy lo tu chớ không thì có thể bị "khổ gấp mười mù đui" đây không phải là nói quá đáng để hù dọa dân lành mà là sự thật, bởi vì nếu không tu, không bỏ ác làm thiện thì con người có thể bị đọa làm súc vật và những cảnh khổ nhục khác. Những lời khuyến tu thức tế này giá trị trấp trăm lần những lời kêu gọi trừu tượng, siêu hình. "Cứ lo làm việc tà tây, Bắt ngưu, bắt cầy đặng chúng làm ăn. Chừng đau niệm Phật lăng xăng, Phật đâu chứng kịp lòng người ác gian. Thầy đời mê muội lần than, ăn bạ nói càn, tội lỗi chỉn ghê. Chữ tu không phải lời thề. Mà không nhớ đến đặng kề Tiêng bang". Thật là tuyệt diệu. Khuyên niệm Phật nhưng liền sau đó cảnh tỉnh rằng niệm Phật mà vẫn tạo ác nghiệp, như sát canh, giết trâu, giết chó để ăn nhậu "bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn", hay nói lời độc ác thì đừng có mong Phật trời cứu độ. Sau khi khuyên mọi người giữ thân nghiệp, khẩu nghiệp được thanh tịnh bằng cách không sát sanh hại vật, nói lời hung ác hại người, ông khuyên mọi người hãy rán giữ ý nghiệp thanh tịnh và đưa Phật vào trong tâm mình, chuyển hóa tâm mình thành tâm Phật, ông đã đưa mọi người đến thẳng một trình độ thật cao: "Từ đây hay ốm hay đau, Rán tu đem được Phật vào trong tâm". Ai chê tư tưởng Phật học của Huỳnh Phú Sổ là nông cạn, tầm thường thì từ nay cho đến khi chết hãy làm một việc này thôi "Rán tu đem được Phật vào trong tâm". "đem Phật vào tâm" hay tâm mình là tâm Phật, đó là giác ngộ, là chứng đắc rồi đó. "Đừng ham tranh đấu thiệt hơn. Tu Niệm chẳng sờn uổng lắm dân ôi. Hồng trần biển khổ thấy rồi. Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay... Tu hành tâm trí rán trì... Phải dẹp dị kỷ mà lo tu hành... Hồng trần lao khổ xiết bao. Khuyên trong lê thứ bước vào đường tu... Lời lành khuyên hãy gắn ghi, Dương trần phải rán tu trì sớm khuya... Tu hành không thể thả trôi, Nay lỡ mai bồi chẳng có thiền tâm... Kệ kinh tụng niệm đêm thanh. ấy là châu ngọc để dành ngày mai... Nam mô miệng niệm lòng lành, Bá gia phải ráng biết rành đường tu... Khuyên trong lê thứ trẻ già, Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho... đời xưa quả báo thì chầy, đời nay quả báo một giây nhản tiền. Dương trần phải ráng làm hiền. đừng trọng bạc tiền, bỏ nghĩa bỏ nhân... Chuyện người chớ móc chớ moi, Hãy treo gương thiện mà soi lấy mình... ". Trên đây chỉ là một phần nhỏ, những đoạn khuyến tu, trích từ Sấm Giảng Khuyên Người đời Tu Niệm, được Huỳnh Phú Sổ sáng tác năm 1939, khi ông chỉ mới 19 tuổi. ở cái tuổi thiếu niên này, cái tuổi mà đức Phật Thích Ca và Chúa Jesus còn ham vui, ham chơi một cách hồn nhiên, vô tư, nếu ông biết rành những kiến thức ngoài đời, người ta chỉ gọi ông là thần đồng, hay thiên tài, hay học giả và đây là sự thường vì trên thế giới có rất nhiều trẻ em thần đồng. Nhưng ở cái tuổi 19 này mà ông làm được những bài thơ khuyến tu mạnh mẽ, tha thiết đánh động và thức tỉnh cả ngàn, cả vạn người thì ông đâu có phải là phàm phu. ông có thể là bồ tát hóa thân hay ít nhất ông đã tu hành tinh tấn vô số kiếp trong quá khứ. đức đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng, còn được gọi là "Phật sống", được huấn luyện đặc biệt từ lúc 3, 4 tuổi bởi những vị cao tăng Tây Tạng lỗi lạc, siêu việt nhất mà còn không viết nổi những tác phẩm khuyến tu xuất sắc như vậy trong cái tuổi 18, 19, 20 thì Huỳnh Phú Sổ của Việt Nam xứng đáng để đứng ngang tầm với các vị bồ tát hóa thân trên thế giới. 2/ Bài trừ mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những điều huyền hoặc, không có thật, trái chống với lý trí và khoa học. Không có một tôn giáo nào có nhiều mê tín dị đoan bằng Thiên Chúa giáo với những tín điều mê tín dị đoan như "Tội Tổ Tông" hay "Tội Nguyên Thủy", đây là thứ tội tưởng tượng để hù dọa và cùm gông linh hồn của những kẻ nhát gan, yếu đuối, do ông thầy tu Augustin (354-430) bịa đặt, sáng chế ra, từ đó mới có những chuyện như rửa tội, xưng tội. Quan niệm này trái chống với quan niệm mọi người sinh ra vốn có tánh thiện, có tự do, lựa chọn và có trách nhiệm với cuộc đời của mình hầu hết các hiền triết đông Phương cũng như Tây Phương. ông cố đạo Augustin thì lại quả quyết, một cách ngược đời, tiêu cực và đầy sự mê tín dị đoan là con người chỉ có thể làm việc ác, và chỉ khi nào được hưởng hồng ân Thiên Chúa thì con người mới biết làm việc thiện, để mong được cứu rỗi, (Hoài Vân: đạo Nào Xuất Thế Tiêu Cực, đạo Nào Nhập Thế Tích Cực? Phật Giáo Việt Nam, số 92). Hay tín điều "đức Mẹ đồng Trinh", dù bà Maria, không những sinh ra Chúa Ki Tô mà còn sinh ra những người con khác, ai cũng biết muốn có con thì phải có sự giao hợp nam nữ và dĩ nhiên người đàn bà không còn trinh tiết nữa, giả thử như Chúa Ki Tô là người trời giáng phàm thì giải thích làm sao về sự sinh đẻ những người con sau của "đức mẹ Vô Nhiễm"? Tin Lành, tuy cùng công nhận Chúa Ki Tô nhưng không chấp nhận tín điều mê tín dị đoan này. Hay "Ngày phán xét cuối cùng" cũng là một sự mê tín dị đoan vì thánh kinh và giáo hội Vatican không biết và không nói được khi nào xẩy ra. Các linh hồn sau khi chết, hàng tỷ tỷ linh hồn như vậy đã chết từ hàng ngàn, ngàn năm nay, hiện đang ở đâu và phải chờ bao lâu nữa mới được phán xét? Thật tội nghiệp cho những linh hồn thánh thiện, họ cũng đã và đang vất vưỡng, lang thang đâu đó suốt hàng chục thế kỷ nay. Hay thuyết "Chúa Trời sáng tạo vũ trụ" với những luận đề vô cùng ấu trĩ, sau lầm nghiêm trọng, phản khoa học và nhận thức thông thường như mặt trời quay quanh trái đất, trái đất có một "vòm trời" bao bọc, ông Adam và bà Eva là thủy tổ của loài người, thế giới được sáng tạo cách đây... 6.000 năm (khoa học hiện đại chứng minh là riêng trái đất của chúng ta đã xuất hiện cách đây 4.600 triệu năm)... tất cả và toàn bộ học thuyết, quan điểm, tín điều của Thiên Chúa Giáo đều là những điều mê tín dị đoan như thế. đạo Phật thì ngược lại, không những phù hợp khoa học và còn đi trước khoa học rất xa. Nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, là Einstein đã hoàn toàn có lý khi tuyên bố: "Buddhism begins where Science ends" (Phật giáo bắt đầu ở nơi khoa học kết thúc), có nghĩa là sau khoa học, siêu việt nhưng tiếp nối hoa học, đưa nhân loại đi xa hơn những điểm khoa học còn mịt mù, bó tay, chưa đủ sức hiểu biết, lý giải nổi, chính là Phật giáo. Khoa vật lý học hiện đại, khoa thiên văn học hiện đại đã chứng minh lời khẳng định kỳ diệu xuất thần này của khoa học gia Einstein. Fritjof Capra trong cuốn The Tao Of Physics (đạo Vật Lý) đã chứng minh, và làm sáng tỏ một cách rực rỡ, bằng khoa học vật lý hiện đại, những luận đề, có vẻ nghịch lý, mâu thuẩn, của Phật giáo như câu kệ nổi tiếng trong Bát Nhã Tâm Kinh "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" (Emptiness is form, and form is indeed emptiness. Emptiness is not different from form, form is not different from emptiness. What is form that is emptiness what is emptiness that is form, p 215) hay quan điểm tương tức (inter-being) tôi là vũ trụ, vũ trụ là tôi, và tương nhập (inter-penetration) trong tôi có tất cả, trong tất cả có tôi, được trình bày huy hoàng trong bộ kinh tuyệt đỉnh Hoa Nghiêm, cũng được Capra lý giải một cách tuyệt hảo theo khoa học vật lý hiện đại (the universe is a perfect network of mutual relations, where all things, and events interact with each other in such a way that each of them contains, in itself, all the others... all phenomena in the universe are harmoniuosly interrelated, ... the mutual interdependence of all things and events... The Buddist concept of interpenetration goes far beyond any scientific bootstrap theory. Nevertheless, there are models of subatomic particles in modern physics, based on the bootstrap hypothesis, which show the most striking parallel to the views of Mahayana Buddhism. pp 285-301). Nhà khoa học lớn nhất thế kỷ Albert Einstein đã nhận định như sau về đạo Phật: "Nếu có một tôn giáo nào có thể thích nghi với những nhu cầu khoa học hiện đại, thì đó chính là Phật giáo. Phật giáo không cần duyệt xét những quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học, bởi vì Phật giáo bao gồm khoa học, và đồng thời cũng vượt qua khoa học. Phật giáo lá chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật giáo đã kích thích con người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính nó và trong môi trường sống xung quanh nó. Phật giáo siêu việt qua thời gian và mãi mãi có giá trị". Tuy mang bản chất khoa học, đề cao đến tột đỉnh lý trí, nhưng Phật giáo, trong tiến trình phát triển suốt 25 thế kỷ vừa qua trên khắp mọi miền trên thế giới, đã không tránh khỏi tình trạng bị suy thoái và bị những tín ngưỡng đa thần truyền thống của các nước bản địa xâm nhập, và đôi khi, tràn ngập, đặc biệt là ở Trung Hoa và Việt Nam. Tại miền Tây, vùng đất mới, chan hòa các tín ngưỡng phức tạp nhất từ Hồi Giáo, Bà La Môn giáo, Phật giáo nguyên thủy đến Phật giáo đại chúng và các nguồn tín ngưỡng bình dân cổ truyền mà những "thổ dân" người Chàm, người Miên đã lưu giữ từ bao đời cũng như những tín ngưỡng truyền thống mà những "di dân" người Việt, người Hoa đã mang đến. Tác giả Thành Nam đã trình bày tình trạng tín ngưỡng phức tạp tại đồng bằng sông Cửu Long như sau: "Trong bối cảnh xã hội Việt Nam tại nông thân, nền tín ngưỡng dân gian "đa thần đa giáo" thể hiện qua các hình thức hổn tạp, đến nổi các nhà nghiên cứu Tây Phương phải nói rằng "không thể xác định người Việt Nam theo tôn giáo nào". Tuy rằng nhận xét này không hẳn đúng nhưng trên thực tế, dân chúng thờ các loại thần linh: thần tài, thần lộc, Hà Bá Thủy thần, thần cục đất, thần cây đa, thổ thần, tà thần, ôn hoàng dịch lệ, ma vương, quỷ sứ... Cho nên trong xã hội phát sinh những "ông thầy" hay "ông đạo" mà không có nền tảng đạo lý nào: thầy bùa, thầy ngãi, thầy phù thủy, thầy cúng, ông đồng bà cốt, thầy bói, thầy chiêm tinh, thầy địa lý... Tất cả những tín ngưỡng dân gian hổn tạp này song hành với các tôn giáo có nền tảng triết lý cao siêu khả kính của đông Phương như Phật, Nho, Lão, đạo thờ tổ tiên, anh hùng liệt sĩ... Không những đi song hành, mà ở thôn quê các sinh hoạt mê tín dị đoan này còn lấn áp các tôn giáo khả kính, có khi chính các tôn giáo này suy yếu, bị tà giáo lấn áp và đồng hóa" (t 237). Trong tình trạng tín ngưỡng sa đọa, hổ lốn, mù mịt tối tăm như vậy, làm cách nào để đưa phật pháp đến tay những dân quê mùa, ít học này và nhất là những nông dân hiền lành, yếu đuối, lúc nào cũng bảo thủ, sợ sệt đủ mọi thứ thần linh, tôn thờ mọi phép tắc xưa cũ và rất sợ thay đổi? Thay đổi truyền thống, thói quen của lớp thị dân đã rất khó, thay đổi tập tục tín ngưỡng lâu đời của nông dân còn khó hơn. Thế nhưng Huỳnh Phú Sổ đã thành công vượt quá sự tưởng tượng. ông đã thật sự thay đổi tâm thức, nếp sống của hàng triệu nông dân. điều mầu nhiệm là trong xã hội nông thôn chỉ trọng người lớn tuổi, coi khinh bọn thanh niên nhỏ tuổi, thanh niên 19 tuổi Huỳnh Phú Sổ đã thuyết phục được hàng triệu nông dân xô ngã mọi tà thần và tu học, thực hành Cháp pháp với tất cả lòng thành và tín tâm. Chính ông đã đích thân xô ngã một ngôi miễu thờ tà thần xuống sông. ông đã đưa ra tám điều răn, trong đó có đến hai điều để bài trừ mê tín dị đoan: "Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và sát sanh hại vật mà cúng thần thánh nào, vì thần thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, và nếu ta làm tội sẽ chịu tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm cho hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại tạ (điều 5) – Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường, đói rách, tàn tật" (điều 6). Hiện nay, năm 1995, ngay tại Hoa Kỳ các chợ VN vẫn còn bán đủ thứ đồ bằng giấy để đốt cúng cho người đã chết, vậy mà ngay từ những năm 40, Huỳnh Phú Sổ đã kịch liệt bài bác, cấm chỉ những việc làm mê tín dị đoan như thế thì ông không những là sáng suốt mà còn can đảm. Dân chúng đã nghe ông, vì ông đã chữa lành bịnh cho họ, mà không cần những sự cúng kiếng, bùa ngãi, phù phép tà đạo từ 4, 5 chục năm nay, tại vùng PGHH khắp nhiều tỉnh ở miền Tây, tình trạng mê tín dị đoan này đã bị quét sạch, trong khi đó tại khắp các vùng khác, dù chính quyền bài trừ, ngăn chận, cũng không chận đứng được nạn mê tín dị đoan. điều đáng buồn là cho đến ngày nay, ngay chính trong hàng ngũ tăng, ni, nhiều người không bài bác, ngăn cản mà lại còn nhắm mắt làm ngơ hay khuyến khích các tệ đoan tà đạo này. 3/ Loại bỏ các nghi lễ lai căng, phù phiếm, rườm rà, vụ hình thức. Việt hóa và giản dị hóa nghi thức thờ phượng. Mặc dù các hội Phật học trong các thập niên 30, 40 và các giáo hội Phật giáo từ thập niên 50 đến ngày nay không ngừng nổ lực Việt hóa và giản dị hóa các nghi lễ nhưng PGVN trong cuối thế kỷ 20 vẫn còn những lễ nghi, hình thức lai căng, lạc hậu, rườm rà, phù phiếm, vô nghĩa. Ngay cả nghi lễ tụng niệm hàng ngày của chư tăng ni trong các giờ công phu sáng sớm và ban đêm, coi như là công việc chính của đa số tăng ni, thì như thầy Thanh Từ cho biết đó là những nghi lễ của Trung Hoa được sáng chế trong thời nhà Thanh, là thời phật giáo suy đồi, bị Lạt Ma giáo xâm nhập, hủ hóa làm cho biết chất trí tuệ cố hữu của đạo Phật. Như các kinh tụng vẫn tụng những bài kinh dài bằng tiếng Phạn, diễn âm qua tiếng Tàu, nhiều người không hiểu gì cả nhưng vẫn tụng đọc say sưa. Ngay tại Tây Tạng, là đất của Mật Tông với nhiều thần chú, nhưng đa số cũng chỉ tụng câu Om Mani Padme Hum thôi, chỉ có sáu chữ, và có nghĩa là sự hợp nhất, không thể phân ly giữa Mani, Viên Ngọc Như ý, tượng trưng cho đại Từ Bi và Padme, Bông Sen, tượng trưng cho đại Trí Tuệ (Phạm Công Thiện: Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng, Bông Sen số 20), trong khi đó PGVN lại tụng chú đại Bi bằng "song ngữ" Phạn-Hán: "Nam Mô hắc ra đát na đá ra dạ da..." cả hàng ngàn chữn vô nghĩa, hay chú Lăng Nghiêm: "Nam Mô tát đát tha tô già đa da ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa, tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam..."Tiếng gì vậy? Ngay cả những người có bằng tiếng sĩ ngôn ngữ học tiếng Phạn chắc cũng không hiểu nổi cái lối diễn âm này của mấy ông ba Tàu đời nhà Thanh. Hay Bát Nhã Tâm Kinh, trong Nghi Thức Tụng Niệm Thống Nhất được xử dụng trong các chùa hiện nay, cũng không được dịch ra tiếng Việt và kết thúc bằng câu: "Yết đế yết đế Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế Bồ đề tát bà ha" chẳng ai hiểu gì, trong khi nguyên văn Pali là: Gate gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha (tạm dịch là Vượt, vượt, vượt qua, vượt đến bờ bên kia. Giác Ngộ. Ta đã tới nơi rồi). Thần chú, nếu thật là linh nghiệm, thì chỉ có thể là những câu ngắn. Phật, Bồ Tát có tha tâm thông, thiên nhỉ thông không những có thể nghe và hiểu mọi tiếng nói mà còn nghe và hiểu cả tâm tưởng, tư duy sâu thẳm nhất của mọi loài chúng sanh, hà tất phải tụng bằng tiếng Phạn, tiếng Tàu mới là linh nghiệm hay sao? Các nghi lễ Việt Nam như "Lục Thời Sám Hối" do vua và đại thiền sư Trần Thái Tông sáng chế và áp dụng trong thời nhà Trần, kể từ đời Minh thuộc từ đầu thế kỷ 15 trở về sau, cũng như bộ luật Hồng đức, đều bị những kẻ nô lệ, tay sai văn hóa Tàu tiêu hủy, thay vào đó là các nghi lễ, luật lệ Trung Hoa, và tệ nhất là kể từ đời nhà Nguyễn, từ bộ luật Gia Long đến các nghi lễ Phật giáo đều bắt chước lập khuôn theo luật lệ, nghi lễ nhà Thanh. điều mỉa mai là Nhà Thanh cũng không phải là Trung Hoa mà chính là người Mãn Châu đến đô hộ, thống trị người Tàu và đã áp đặt những luật lệ khắc nghiệt và những lễ nghi lai căng, hổn tạp lên chính nhân dân Trung Hoa. Vua quan, tăng ni kém cỏi, yếu hèn Việt Nam thời Nhà Nguyễn ăn cắp hết tất cả những cặn bã và thuốc độc này để tôn thờ, quỳ lạy, tụng đọc, nhai nuốt mỗi ngày, suốt hàng trăm năm nay. Các danh tăng VN đều hiểu rõ tệ đoan độc hại này, nhưng đao số lại làm lơ, hay có lên tiếng, cũng lên tiếng yếu ớt, cho có lệ. Nhưng Huỳnh Phú Sổ đã không thể nào chấp nhận những thứ tà giáo và lai căng. ông đã tuyên chiến với chúng, thủ tiêu, bày trừ tận gốc và đưa ra những hình thức nghi lễ mới, hoàn toàn Việt Nam, hoàn toàn dân tộc và rất phù hợp với Phật Giáo thời đức Phật còn tại thế. Theo sự chỉ dạy của ông, tín đồ PGHH chỉ đặt trong nhà một cái bàn thờ, trên thờ Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, Anh Hùng Dân Tộc, dưới thờ tổ tiên cha mẹ đã qua đời. Không có hình, tượng, chuông, mõ, chỉ thờ một tấm trần điều màu đà, biểu tượng hòa hợp màu sắc, tượng trưng cho màu dân tộc và theo truyền thống Thiền VN. Trên bàn thờ chỉ có nhang đèn, nước lã và bông hoa. Lúc thờ cúng họ chỉ lâm râm đọc những bài kinh, lời nguyện, hoàn toàn bằng tiếng Việt, chớ không trổi giọng ngâm nga ê a hay khua chuông gõ mõ ồn ào. Mỗi ngày họ nguyện hai lần sáng, tối. Ngoài trời, họ có một bàn thờ nhỏ, gọi là bàn thờ thông thiên đặt trước nhà, buổi tối, cả gia đình đều cúng lạy, đọc kinh, cầu nguyện trong im lặng, trang nghiêm, hết sức tinh khiết, giản dị. Huỳnh Phú Sổ còn muốn giản dị hơn nữa: "đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây, nguyện rồi xá bốn hướng. Còn đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được" (Bài đi Xa Nhà) hay "ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà. Phật bất chấp không nài thời khắc" (bài Giác Mê Tâm Kệ). ông còn chỉ dạy rất chí lý và trước các vị danh tăng Thiện Hoa, Thanh Từ hàng chục năm, ông đã dạy tín đồ biết rõ tu là sửa, là trau chuốt tâm mình cho trong sạch, thanh tịnh, cải đổi tính tình mình cho ngay thẳng, hiền lương: "Sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh, hơn là do sự lễ bái ở ngoài... kẻ nào ở chung đậu với người khác không có tu hiền, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ thờ phượng thì đến giờ cúng kiến, chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng được" (bài Thờ Phượng). Coi trọng cái tâm và không chấp vào mọi hình thức là điều đức Phật thường khuyên răn đệ tử. Có một tỳ kheo vì bị tâm dâm dục chi phối, ông đã dũng mãnh cầm dao cắt đứt bộ phận sinh dục của mình. Phật nghe chuyện liền quở rằng: "Cái đáng cắt bỏ (là tâm dâm dục) thì lại không cắt, mà lại đi cắt cái không đáng cắt bỏ Không những giản dị tối nghi lễ, ông còn khuyên mọi người đơn giản hóa các việc tang lễ, hôn nhân, là những điều gây tốn kém, lãng phí rất nhiều. Theo đúng lời Phật dạy, và cũng là tục lệ của các nước văn minh ngày nay, ông khuyên tín đồ không nên la khóc thảm thiết hay kèn trống ồn ào hay cúng kiếng linh đình trong đám tang, chỉ lâm râm cầu nguyện cho người quá cố được siêu thoát. Về hôn nhân, ông dạy tín đồ phải bỏ nạn ép duyên, lệ thách tiền cheo và lễ vật, bớt sự ăn uống linh đình. ông cũng bài trừ, chỉ trích lệ đem lễ vật, đồ cúng: "[ới với ta chớ đem đồ cúng, chỉ đem theo hai chữ thành lòng điểm đặc biệt nữa là ông chủ trương không cất chùa, đúc tượng, không thờ hình tượng nào, kể cả hình của chư Phật. điều này rất đúng với lời Phật dạy: đức Phật đã cấm các đệ tử và tín đồ thờ hình ảnh của Ngài. Lý do rất dễ hiểu: đức Phật là một đạo sư, một "Thiên Nhân Sư" (thầy của Người và Trời), chớ không phải là thần linh. Ngài muốn chúng ta tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình là hải đảo, là nơi nương tựa của mình, tự mình nổ lực tu tập theo con đười Trí Tuệ, Giải Thoát của Ngài, chớ không muốn chúng ta ươn hèn, lười biếng cầu khẩn Ngài như nhân loại thời đó cũng như các tôn giáo độc thần, hay đa thần xưa nay chỉ biết tế lễ, cầu nguyện, chớ không biết tu tập và tự mình chứng đắc, giác ngộ. Sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác là ở chỗ cốt tủy này. Tiếc rằng ngày nay, đa số tăng, ni, phật tử cũng chỉ nhìn Ngài như một ông thần, hối lộ cho Ngài một ít nhang đèn, hoa quả, và cầu xin Ngài đủ thứ, chẳng khác gì tín đồ các tà đạo. Tu chính là sửa, sửa trước hết là giảm bớt và lần hồi dứt bỏ lòng tham. Tu theo kiểu cúng kiến, lễ bái, cầu xin như lối tu của số lớn phật tử ngày nay chỉ tăng thêm lòng tham và vì vậy chẳng sửa được gì. Các thầy Thiện Hoa, Thanh Từ, Từ Thông... đã giảng dạy, phê phán lối tu tham lam, lười biếng này biết bao năm nay... Nhưng trước các vị danh tăng này, Huỳnh Phú Sổ đã giảng dạy, phê phán mạnh mẽ, quyết liệt hơn rất nhiều: "Chúng đục đẽo những cây với vủi. đắp xi măng sơn phết đặt tên. Ngục A Tỳ dựa kế một bên. Chờ những kẻ tu hành giả dối. Khuyên sư, vãi mau mau cải hối. Làm vô vi Chánh đạo mới mầu. đạo Thích Ca nhiều nẽo cao sâu. Hãy tìm kiếm cái không mới có. Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần đỏ. Tạo làm chi những cốt với hình. Khùng nói cho già trẻ làm tin. Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú" (Kệ Dân Của Người Khùng). Cũng như đức Phật, như Lục Tổ Huệ Năng, như Quốc Sư Phù Vân cầm tay yêu thương, trièu mến nói với vua Trần Thái Tông: "Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ thức tỉnh thí đó chính là Phật, chớ không cần phải đi tìm cầu cực nhọc ở bên ngoài". Huỳnh Phú Sổ khẳng định chắc nịch chân lý này, cốt tủy của Thiền Tông và tinh hoa của đạo Phật: "[I]Vậy hãy mau tầm đạo Thích Ca. Phật tại Tâm chớ có đâu xa" (Kệ Dân...). Khi nói những câu khẳng định xuất thần này, ông vừa đúng 20 tuổi và tôi quả quyết ông đã ngộ đạo.[/I] [I]Cảm thương chúng sanh tu hành mê muội, ông đã cảnh tỉnh, một cách dữ dội, quyết liệt, như các thiền sư phải vun gậy đánh học trò ngu mê của mình: [/I] [I]"Học tả đạo làm điều tà mị. Theo dị đoan cúng kiếng tinh tà... Trong sáu tỉnh nhiều điều tà mị. Tu hành mà vị kỷ quá chừng... Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo. Mở lòng nhơn tiếp rước mới là. Làm hiền lành hơn tụng hơ hà. Hãy tưởng Phật hay hơ ó ré. đã chánh đạo thêm còn sức khỏe. đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn... Lũ thầy đám hay làm trò khỉ, mượn kinh luân tụng mướn ăn tiền. Chốn Diêm đình ghi tội liên miên, mà tăng chúng nào đâu có rõ. Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ, Từ xưa nay có mấy ai thành? Phật từ bi độ tử độ sanh, Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.[/I] [I][Xá với phướng là trò kỳ quái, Làm trai đàn che miệng thế gian. Kẻ vinh hoa phú quý giàu sang. Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu. Thương bá tánh vì không rõ hiểu, Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn. Thấy lạc lầm đây động lòng son, Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ... ỷ tước quyền làm ác ê hề. Khi bỏ xác nhiều tiền lo lót, Kinh với Sám tụng nghe thảnh thót, Lũ nhưn bông tập luyện đã rành. đẩu với đờn, kèn, trống nhịp sanh. Làm ăn rặp đặng đòi cao giá. Tâm trần tục còn phân nhơn ngã, Thì làm sao thoát khỏi luân hồi. Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi, chớ có đốt tốn tiền vô lý. Xưa Thần Tú bày điều tà mị, Mà dắt dìu bá tánh đời đường. Thấy chúng sanh lầm lạc đáng thương. Cõi âm Phủ đâu ăn của hối. đúc Phật lớn chùa cao bối rối, Mà làm cho Phật giáo suy đồi.[[/I][I]Tu vô vi chớ cúng chè xôi, Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót. Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt. Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài. ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai. Cúng với lạy khó trừ cho đặng. Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng. Không cầu siêu Phật bỏ hay sao? Lập trai đàn chạy chọt lao xao, Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật. Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất. Vậy hãy mau bỏ bớt dị đoan. Ráng giữ gìn luân lý tam cang. Tròn đức hạnh mới là báu quý... Có thân chẳng liệu lấy thân. Tu theo lối cũ mau gần Diêm Vương"... (Kệ Dân) L[/I][I]ối cũ là lối nào? đó là lối tu tạp nhạp, đa thần, dối trá, đạo đức giả mà Huỳnh Phú Sổ vừa lên án gắt gao nhưng vô cùng chí lý. Các tệ đoan này cũng là những điều mà tất cả các hội Phật học trong phong trào chấn hưng Phật giáo thập niên 30, 40 đều kịch liệt lên án, bài trừ, lối cũ là lối thầy cúng, thầy tụng lẫn lộn trong đạo Phật và tăng, ni cũng chỉ là những người không hiểu Phật pháp, không giảng dạy nổi Phật pháp, đi cúng đi tụng, lo chuyện cầu an, cầu siêu, van xin và thờ lạy trước đủ mọi thứ thần thánh. Thời đức Phật không có chuyện cầu an cầu siêu. Huỳnh Phú Sổ cũng không chấp nhận chuyện cầu an cầu siêu và các tăng như Hòa Thượng Thanh Từ cũng không chấp nhận những chuyện "Phật giáo độ tử" này thay vì độ sanh và đưa đạo Phật vào đời sống tu tập, sinh hoạt xã hội hàng ngày[/I][I]]Tình trạng đa thần hổn tạp xâm chiếm Phật giáo trầm trọng đến nổi vào thập niên 50, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cũng như các giáo hội khác ở Bắc và Trung đã ra giáo lịnh trong chùa chỉ được thờ Phật Thích Ca, Phật A Di đà, và các bồ tát Quan âm, tượng trưng cho đại Bi, Văn Thù, tượng trưng cho đại trí, Phổ Hiền, tượng trưng cho đại nguyện và cấm chỉ thờ phụng, lễ bái những vị thần thánh hổn tạp, tà đạo. Phật là "thiên nhân sư", thầy của thần, của trời, kể cả những vị trời đế Thiên, đế Thích, thế mà lại thờ Phật lẫn lộn với các thứ thần tạp nhạp giả mạo và cũng kinh sợ, quỳ lạy, cầu xin trước những hình tượng tà đạo này như kinh sợ, quỳ lạy, cầu xin Phật thì còn gì là sự cao quý, hy hữu của đức Phật, và sự siêu thoát, trang nghiêm của phật giáo?[/I] [I]Nền Phật giáohình tướng nhưng thiếu nội dung Phật chất, tức là nội dung trí tuệ, giác ngộ, đã làm cho đạo Phật lu mờ, suy đồi. Bởi vậy, Huỳnh Phú Sổ không chủ trương cất thêm chùa, đúc thêm tượng nữa. ông dạy tín đồ:[/I][I]"Nên dùng tiền ấy mà cứu giúp người nghèo khổ, thay vì cất chùa to, đúc tượng lớn". [/I][I]ông cũng khuyên không dùng thực phẩm cúng Phật "[I][COLOR=maroon]vì chư Phật không cần đến thực phẩm thế gian [/COLOR][/I][COLOR=maroon][/color][/I][COLOR=maroon][/color][I][I][I]PGHH cũng là tôn giáo hiếm hoi trên thế giới không chủ trương hình tướng, xây cất nguynga những cơ sở tôn giáo, thờ phụng. Khắc kỷ khiêm tốn hơn cả Phật giáo nguyên thủy, họ chỉ thiết lập hệ thống độc Giảng đường, kiến trúc như một cái chòi đơn sơ, trống trãi và rất ít tốn kém, dùng cho việc đọc kinh, giảng kệ qua hệ thống phóng thanh công cộng vào những ngày giờ nhất định để truyền bá giáo lý. Các hình tướng, lễ nghi chỉ là hình thức, Phật pháp mới chính là nội dung. Hình thức cũng cần thiết, nhưng nên đơn sơ và có tính cách tượng trưng và ta phải biết đó chỉ là phụ thuộc để nhắc nhở tâm trí ta luôn luôn hướng về Chánh Pháp. Nếu ta chỉ chạy theo hình thức mà bỏ quên nội dung thì đạo Phật khác gì các tôn giáo khác? và các tà đạo?[/I][/I][/I] [I][I][I]Không có ai, trong suốt lịch sử 2.000 năm PGVN, đã cố gắng loại trừ tà thần, tà giáo, mê tín dị đoan ra khỏi Phật giáo, và làm cho Phật giáo trở lại sự trong sáng, trang nghiêm, thanh tịnh, an lạc và giải thoát đặc thù của mình, một cách tha thiết và quyết liệt như Huỳnh Phú Sổ và ông đã làm những điều cần thiết, tốt đẹp này, một cách can đảm và có trí tuệ, khi ông chỉ 20 tuổi. Huỳnh Phú Sổ là thánh tăng, chớ không thể là một cư sĩ Phật tử phàm phu. Những điều ông chủ xướng một cách hăng say, nhiệt tình không những có giá trị trong thập niên 40 mà còn có giá trị trong thập niên 90 này và trong thế kỷ tới.[/I][/I][/I] [I][I][I]4/ Làm nổi bật vai trò của cư sĩ, phật tử tại gia như là thành phần chính yếu, quan trọng nhất trong Phật giáo. [/I][/I][/I][I][I][I]đây là cuộc cách mạng chưa từng xẩy ra trong Phật giáo thế giới và PGVN. Tin Lành đưa ra những cải cách giáo lý và đồng thời thực hiện một cải cách quan trọng trong chế độ tăng lữ là các tu sĩ có thể lập gia đình. Huỳnh Phú Sổ tuy có những cải cách quan trọng trong việc thực hành Phật pháp nhưng ông không đưa ra một cải cách nào về nội dung Phật pháp, tuy nhiên ông lại thực hiện một cải cách đi xa hơn cả cuộc cách mạng của Tin Lành (so với Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã) là ông xây dựng một tông phái và một giáo hội chỉ gồm toàn những người Phật tử tại gia. Tuy ông vẫn chủ trương tôn kính, thờ phụng Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) nhưng tông phái và giáo hội Phật giáo do ông sáng lập chỉ gồm có Nhị Bảo, nghĩa là chỉ gồm có đức Phật và Phật Pháp mà thôi, không có tăng già. [/I][/I][/I][I][I][I]Tuy ông có phê bình những tăng sĩ hư đốn nhưng sự phê bình này so với sự phê bình của Thích Thiện Chiếu hay những tăng, ni, phật tử khác thì không có gì đáng kể và ông cũng không loại bỏ tăng già ra khỏi đoàn thể "tu hiền" theo Phật pháp của ông. Không những thế chính ông là người sáng lập Hội Phật Giáo Liên Hiệp để đoàn kết tăng, ni, phật tử không phân biệt tông phái, hệ phái. Nhưng trong thực tế, đoàn thể tu học của ông, tạm gọi là một tăng thân (tăng thân nghĩa là một đoàn thể tu học), một đoàn thể tu học có đến cả triệu người tham gia, được đoàn ngũ hóa và có số lượng, chất lượng và sức mạnh hơn hẳn tất cả đoàn thể tu học khác trong thời đó (thập niên 40, 50) và nó chỉ không bằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập đầu năm 1964 mà thôi, còn ngoài ra nó hơn hẳn tất cả giáo hội hay đoàn thể Phật giáo khác.[/I][/I][/I] [I][I][I]ông không cấm cản, loại trừ sự tham dự của tăng, ni nhưng vì trong thực tế, không một tăng, ni nào tham gia đoàn thể tu học PGHH, và tất cả tín đồ PGHH đều là Phật tử tại gia, nên PGHH chỉ có nhị bảo và thiếu đi tăng bảo. Không một Phật tử nào có thể tưởng tượng một cái chùa mà không thình được thầy hay sư cô nào về trụ trì là mọi Phật tử cũng cảm thấy thiếu thốn người đại diện cho tam bảo, người truyền dạy phật pháp, người hướng dẫn tinh thần. Thế mà cách đây 50 năm Huỳnh Phú Sổ thành lập PGHH, một tông phái mới của PGVN, một đoàn thể tu học cả triệu người mà không cần đến một tăng sĩ nào cả. PGHH đã đứng vững, duy trì và phát triển được trong nửa thế kỷ vừa qua, dù họ luôn luôn bị đàn áp, bức hại, thua thiệt nhiều bền [/I][/I][/I][I][I][I]Không những thế PGHH còn trở thành một cộng đồng tu tập có chất lược cao hơn hầu như tất cả cộng động Phật giáo khác. Và sự trội vượt về chất lượng này hay ở cái chỗ là nó không thể hiện qua kinh sách, hình tướng, mà thể hiện trong đời sống tâm linh, tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, gia đình, xã hội của các tín đồ. Chỉ về miền Tây, đi sâu vào các làng PGHH thì sẽ thấy sự khác biệt so với các làng khác: ở đó người dân hiền lương, đạo đức hơn, các tệ đoan tôn giáo và xã hội như cúng kiếng, tế lễ linh đình, phí phạm, buôn thánh bán thần, mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, ăn nhậu đều rất ít so với các nơi khác. [/I][/I][/I][I][I][I]đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh 50-75, các vùng PGHH là những ốc đảo an ninh, thanh bình trong một đất nước ngập tràn máu lửa, bắn giết, tang tóc, đau khổ. Rồi sau 75, cả đất nước từ Nam chí Bắc đều không tránh khỏi thảm họa sụp đổ về luân lý, đạo đức, nhân tính, sự dối trá, lường gạt, lừa đảo, tệ đoan xã hội, mê tín dị đoan lan tràn, nhưng ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là trong các vùng PGHH lại là những nơi đa số dân chúng vẫn giữ được sự thuần hậu, chất phác lương thiện, hiền lành. [/I][/I][/I][I][I][I]Chức năng chính của tôn giáo là gì? Là đưa ra một lý tưởng chân, thiện, mỹ để tín đồ noi gương học hỏi, tu tập, làm lành, lánh dữ. PGHH đã làm tròn chức năng cần thiết này của một tôn giáo, dù không có tầng lớp tăng lữ. Trong khi đó, có những tôn giáo khác, chính giai cấp tăng lữ đã trở thành một tập đoàn độc tài, chuyên chế, hủ hóa, tồi bài, cùm đầu tín đồ trong yếu hèn, nô lệ và xiềng xích nhân dân trong độc tài, áp bức, như trường hợp của giai cấp tăng lữ Bà La Môn giáo tại ấn độ và giai cấp tăng lữ Thiên Chúa giáo La Mã. [/I][/I][/I][I][I][I]Trong Phật giáo, tân tăng là sự cải cách cấp tiến nhất, mà Phật giáo Nhật Bản đã thực hiện từ thời Minh Trị Thiên Hoàng trong thế kỷ 19 (đa số tăng sĩ PGH tại Nhật đều là những người có vợ con), Trước khi Huỳnh Phú Sổ khai đạo PGHH một năm, vào tháng 8 năm 1938, trong tạp chí Phật học Tiến Hóa số tám của Hội Phật Học Kiêm Tế ở Rạch Giá, ký giả Giác Tha đã kêu gọi cải cách Phật giáo một cách triệt để, nghĩa là phải hủy bỏ hình thức đầu tròn áo vuông của tăng sĩ, thiết lập tân tăng như ở Nhật Bản. ông còn cho rằng việc này là thích hợp với đạo Phật, còn hình thức tôn giáo chỉ là cái lớp vỏ bên ngoài không quan trọng: [/I][/I][/I][I][I][I]"Phật giáo muốn khỏi sa vào vòng tội ác của tôn giáo, muốn vĩnh viễn tồn tại cứu khổ cho thế gian, thì PGH phải hoàn toàn cải cách... Hiện nay nhân loại ham chuộng khoa học và triết lý mới, họ yêu cầu thực hiện hòa bình, hạnh phúc, là phải thời cho PG cởi bỏ cái lốt tôn giáo cũ đặng lòi cái mặt thật của mình" (Nguyễn Lang, Phật giáo Việgt Nam Sử Luận, q 3, t 45).[/I][/I][/I] [I][I][I] Bộ mặt thật của Phật giáo là gì? đây là một câu hỏi thật quan trọng. đạo Phật là một con đường tu học tâm linh, là một phương pháp diệt khổ, ban vui, là một khoa học giác ngộ, giải thoát, là một phương tiện thực tập hạnh phúc, an lạc, là một mẫu mực luân lý, đạo đức xã hội. đạo Phật không phải là những giáo điều để phục tòng nô lệ, không phải là những lễ nghi tôn giáo để van xin, cầu khẩn, không phải là những hình thức, danh tướng để trưng bày, lễ bái. Lời kêu gọi đạo Phật hãy khai mở bộ mặt thật của mình này, cho đến ngày nay cũng chưa thấy có bao nhiêu tăng, ni, Phật tử hưởng ứng. Thế nhưng chỉ một năm sau, Huỳnh Phú Sổ còn đi xa hơn PG Nhật Bản trong việc thành lập một tông phái PG không có tầng lớp tăng sĩ. [/I][/I][/I][I][I][I]Giải pháp của ông không những cấp tiến hơn mà còn khôn ngoan hơn là giải pháp "tân tăng". Nói "tân tăng" đương nhiên là bị chống đối, tẩy chay vì PGVN rất bảo thủ, vượt qua vấn đề "tân tăng", vượt qua luôn cả sự phân biệt giữa tăng sĩ và cư sĩ, tất cả Phật tủ đều là con tinh thần của đức Phật, và đều có Phật tánh và khả năng giác ngộ bình đẳng như nhau, đều có thể tự mình trực tiếp học hỏi, truyền bá, áp dụng, thực hành Phật pháp. Tại sao phải cần những người trung gian là giới tăng lữ? Huỳnh Phú Sổ đã vượt qua, một cách nhẹ nhàng, tài tình, như không vượt qua gì cả, một vấn đề gay cấn, nguy hiểm. ông đã giải quyết, một cách hoàn hảo, trọn vẹn, như không giải quyết gì cả, một vấn đề gai gốc, phức tạp. Cũng như vấn đề mê tín dị đoan, bám rễ sâu dài vững chắc như núi như non trong sinh hoạt dân gian suốt hàng ngàn năm, đã bị ông xô ngã, phá hủy tất cả, một cách nhẹ nhàng, unh dung, như không xô ngã, phá hủy gì cả. [/I][/I][/I] [I][I][I]Trong 2500 năm lịch sử Phật giáo thế giới, ông là người đầu tiên thành công trong việc thiết lập, duy trì, phát triển một tông phái PGH, một giáo hội PG chỉ có "nhị bảo". ông cũng là người đầu tiên trong 2.000 năm lịch sử PGVN, thành công trong việc xây dựng một đoàn thể tu học Phật pháp với cả triệu thành viên mà không có sự tham dự của giới tăng già trong bất cứ một vai trò gì. Sáng Giá Học Hội (Soka Gakkai) của Nhật Bản, một tổ chức cư sĩ Phật giáo lấy nguồn gốc giáo lý từ Nhật Liên Tông là một tổ chức duy nhất của Phật giáo thế giới có thể so sánh với PGHH[/I][/I][/I] [I][I][I] Tại Việt Nam, một tổ chức Phật học duy nhất có ít nhiều đặc tính như PGHH, là Hội Nam Kỳ Nghiên cúu Phật Học, lúc đầu có sự tham dự của tăng già nhưng về sau, đặc biệt là sau 64, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, vai trò của tăng già càng trở nên khiêm tốn hơn, nhưng hội Phật học này chưa có tầm vóc để có thể so sánh với PGHH.[/I][/I][/I] [I][I][I] Huỳnh Phú Sổ, không nói ra, nhưng qua tư tưởng, hành động của ông, muốn đạo Phật tự giới thiệu, tự khai mở một mặt thật của mình, từ hàng trăm năm nay, bị chôn vùi trong những hình tướng, những tập tục mê tín dị đoan cũng như sự mặc cảm, an phận, yếu hèn, lười biếng của người Phật tử. Mỗi người hãy tự thân tinh tấn tu tập để trở thành Phật. đó chính là thông điệp hùng tráng, mầu nhiệm nhất mà đức Phật đã gởi đến nhân loại. Nhưng những đứa con của Ngài đã không lắng nghe, đáp ứng, thanh tựu lời kêu gọi linh thiêng và tha thiết này. Trong thời đó, giới tăng già thì đa phần chỉ lo việc nghi lễ, tụng niệm, cúng kiếng, giới Phật tử thì chỉ cầu xin những điều lặt vặt, mộng huyễn và tự hài lòng với nhiệm vụ hổ trợ cho người khác tu dùm mình, cầu xin dùm mình, như một kẻ phụ thuộc, đứng bên lề sinh hoạt Phật giáo.[/I][/I][/I] [I][I][I]Thầy Trí Quang, ngay từ thập niên 50 đã phê bình thái độ thụ động, tiêu cực này một cách nặng nề: "Ngày nay cũng vẫn có những người tại gia nghĩ rằng mình chỉ là những kẻ tùy thuộc trong Phật giáo. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ tự ti phát sinh bởi tinh thần vô trách nhiệm" (Người Phật Tử Tại Gia, trang 1). Tuy Phật giáo chưa bao giờ trở thành một tôn giáo cùm gông, nô lệ hóa con người và giới tăng lũ chưa bao giờ trở thành một giai cấp sa đọa, thối nát, chuyên chế nhưc các tôn giáo khác trong những giai đoạn suy đồi của họ, nhưng vào đầu thế kỷ 20, quả thật giới tăng già Việt Nam đã không còn mang được những nét tinh anh, sáng lạn của Phật giáo thời Lý Trần, cũng như không còn chuyên chở, thể hiện sinh động đặc chất trí tuệ, giác ngộ, giải thoát của đức Phật. Hình ảnh vị tăng đã trở thành một hình ảnh tiêu cực: đó là hình ảnh của ông thầy cúng, chuyên nghề đưa đám ma, tuy không lý tài trắng trợn như bên đạo Thiên Chúa (giá cả đã được các ông cha quy định sẵn tùy theo tín đồ muốn đơn giản hay trang trọng), nhưng thực chất cũng chỉ là một cách kiếm tiền, ít nhiều có tính cách mê tín dị đoan theo giáo lý của đức Phật (là sự đầu thai vào các cảnh giới cao thấp trong tương lai hay sự sướng, khổ, vui, buồn, sang hèn, giàu nghèo trong hiện tại phần lớn là do mình đã và đang tạo ra thiện nghiệp hay ác nghiệp, chớ không phải do cầu xin, hối lộ, đút lót Phật, Trời, thần thánh mà được như ý). Dù việc cầu siêu, ma chay thường được biện minh là "Dĩ huyễn độ chơn" (lấy việc giả huyển này để độ cho người biết đến Phật pháp) nhưng nhiều vị danh tăng, như Thầy Thanh Từ đã phê bình mạnh mẽ như sau: "Khi Phật còn tại thế, chúng ta có nghe Ngài đi đưa đám lần nào đâu. Cho đến chư Tỳ kheo môn đồ của Phật, cũng không nghe đi đưa đám lần nào. Tại sao chúng ta hiện nay cứ bận rộn đám ma, đám tuần mãi? Bởi tăng, ni xuất hiện trong xóm làng đều do nhà có ma chay, nên bất thần tăng, nin đến nhà thường nào họ liền ghét sợ, coi như một điềm bất tường sắp đến cho gia đình họ. Thực là ngày xưa xem "Một vị tăng đến là một Phật lại", ngày nay thì ngược lại. Thử họi còn gì hổ thẹn cho bằng" (Bước đầu Học Phật, tragn 65). Ngày nay những tệ đoan này vẫn còn phổ thông thì thời của Huỳnh Phú Sổ, thập niên 40, nhất là tạc các vùng quê, nạn mê tín dị đoan và hình ảnh tăng ni ở nông thôn, thường là vô học hay ít học, còn tệ hại như thế nào?[/I][/I][/I] [I][I][I] Huỳnh Phú Sổ, trong rất nhiều tác phẩm, đều tự xưng là "bần tăng", "tăng sĩ", và đã thật sự sống một cuộc đời đạo hạnh như một người xuất gia: ăn chay, không lập gia đình, không yêu thương, dành hết mọi thời gian cho việc sáng tác, diễn dịch kinh sách, truyền đạo, giảng dạy tín đồ. ông làm một thánh tăng, một người trọn đời hiến dâng cho việc truyền bá Phật pháp và cứu độ chúng sanh. Không có bất cứ một tăng sĩ Việt Nam nào, cùng thời đó, như các danh tăng Khánh Anh, Khánh Hòa, đôn Hậu, Thiện Chiếu, v.v... có thể so sánh vớ ông trong sự nghiệp hoằng pháp độ sinh, cũng như thời nay, những tăng sĩ ưu tú, Giác Nhiên, Thiện Hoa, Thanh Từ, Nhất Hạnh đều không tạo được một ảnh hưởng sâu rộng, lớn lao trong việc canh tân Phật giáo và truyền bá, phục hưng PGVN như Huỳnh Phú Sổ đã làm trong cuộc đời hoạt động ngắn ngủi của ông tính đến năm 27 tuổi.[/I][/I][/I] [I][I][I]Việc ông cạo đầu, mặc áo nâu sòng, để trở thành một tăng sĩ là điều ông hay bất cứu ai có thân thể và ngũ căn bình thường, đều có thể thực hiện dễ dàng. Thế nhưng tại sao ông vẫn giữ hình dáng cư sĩ? [/I][/I][/I][I][I][I]Các vị bồ tát hóa thân để cứu độ chúng sanh thường tùy thuận, tùy duyên mà hóa thân, cứu độ. Trong những thời không có hình tướng Cháp Pháp, họ sẽ hóa thân thành tăng, ni và xây chùa, đúc tượng. [/I][/I][/I][I][I][I]Trong những thời Chánh Pháp bị suy đồi vì hình tướng giả dỗi đã lấn áp, che phủ nội dung Phật pháp, thì họ hóa thân thành cư sĩ, Phật tử bình thường và khai mở sự sùng bái và vông thân trong hình tướng và khai mở chân tướng cũa đạo Phật, tức là Phật pah1p và sự học hỏi, tu tập, áp dụng Phật pháp vào giữa cuộc đời. Như Duy Ma Cật, như Huệ Năng, như Tuệ Trung , Huỳnh Phú Sổ đã xuất hiện như một cư sĩ sống hòa lẫn giữa thế gian để đem viên ngọc Chánh Pháp chiếu sáng trong lòng dân gian, xã hội. [/I][/I][/I][I][I][I]Không những không cạo trọc đầu như các tăng sĩ, ông cũng không cắt tóc ngắn như đa số thanh niên nam phái đương thời, mà còn để tóc dài như các cụ thời xưa, thuộc thế kỷ trước. Nhiều người bắt chước để tóc dài như ông, coi đó là một cách tu, cách chứng tỏ mình là người thuộc phái "tu hiền" như ông. ông liền dạy rằng tu hành là tu hành, để tóc là để tóc, tu hành không cần để tóc và để tóc không chứng minh được rằng mình là người tu hành:[/I][/I][/I] [I][I][I] "Sở dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ niệm cái phong tục cổ của tổ tiên, và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng của cái đời văn minh vật chất Tây Phương". [/I][/I][/I] [I][I][I]Các tín đồ bắt chước, cũng để tóc dài. Huỳnh Giáo Chủ thấy vậy liền dạy: [/I][/I][/I][I][I][I]"Tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để túc, để tóc cũng không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh, cũng chẳng phải là tu hành". [/I][/I][/I][I][I][I]Nghĩa là ông đã phát triệt để mọi hình tướng. Cũng thế, cạo đầu, mặc áo cà sa không hẳn là có tu hành, và có tu hành không hẳn là phải xuất gia vô chùa. Quan niệm này thật phóng khoáng, hợp lý và hợp thời đại. Tuy nhiên ông vẫn dạy tín đồ hết lòng cung kính các tăng sĩ cũng như tùy nghi tu bổ các chùa chiền đổ nát. Không ai đi được trên con đường "trung đạo" tuyệt vời như thế, trước những vấn đề đầy mâu thuẩn, xung đột, chỉ thường bắt buộc mọi người phải lựa chọn dứt khoát hoặc có, hoặc không. ông nói rõ, trong phần đối với các tăng sư:[/I][/I][/I] [I][I][I] "Tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chân chính. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh lý, phải nghe lời. đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy cúng) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chính của đức Phật. Nếu các ông vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng dạy cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ".Đ[/I][/I][/I][I][I][I]iều này thì Thầy Thanh Từ chắc là rất đồng ý. Trong phần đối với chùa chiền, ông cũng có một thái độ cấp tiến nhưng vẹn toàn: "những ngày vía của các đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt, có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều. Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng".[/I][/I][/I] [I][I][I]Điều này thì hòa thượng Từ Thông, hiệu trưởng trường Cơ Bản Phật Học Sài Gòn và giảng sư trường Cao Cấp Phật Học, chắc là rất chịu (nhiều tín đồ muốn ông xây một tượng Phật Quan âm tại am Huỳnh Mai của ông, họ chịu hết phí tổn, cả 5, 7 chục triệu đồng, còn biếu ông vài chục triệu xài, nhưng ông nhất định không chịu). Kể cũng lạ, không lẽ hòa thượng Từ Thông còn muốn cải cách Phật giáo mạnh bạo hơn là Huỳnh Giáo Chủ?. đó có lẽ cũng phù hợp với chủ trương của Thầy Nhất Hạnh: tự mình không lập chùa nhưng hết lòng giúp đỡ sửa chữa, trùng tu những ngôi chùa đổ nát ở trong nước. Một đoàn thể tu học, một tổ chức phật tử, một giáo hội Phật giáo không có tăng sĩ, đây quả thật là một cuộc cách mạng, một điều táo bạo, kinh khủng đối với đa số Phật tử, kể cả Phật tử đời nay tại hải ngoại. Những thói quen lâu đời, những tập quán hàng ngàn năm khiến mọi người chấp chặt vào nhữnh hình tướng và đồng hóa hình thức với nội dung và mang tà kiến sai lầm là không có hình tướng đó thì không phải là đạo Phật.[/I][/I][/I] [I][I][I]Huỳnh Phú Sổ đã đập vở các thành kiến lệch lạch này, một cách khôn khéo, tốt đẹp. Nhưng phải chăng vì PGHH không có hình ảnh các tăng ni mà cho đến nay PGHH vẫn bị coi là không phải Phật giáo "chân chính" hay "truyền thống"? Nếu những người không hiểu gì Phật pháp và không sống theo những giới luật tối thiểu của đức Phật, như là không tà dâm, hay không nói dối, và họ chỉ cần cạo trọc đầu, mặc áo cà sa là trở thành "tăng sĩ", thành "Phật giáo" thì có hợp lý và chính danh hay không?Và Huỳnh Phú Sổ, cả một cuộc đời hy sinh tất cả cho việc hoằng pháp, lợi sinh, cống hiến tất cả cho việc truyền bá Phật pháp, bằng những phương tiện thiện xảo, hoàn hảo nhất, đối với hàng triệu nông dân ít học, bị tà giáo và tà thần đầu độc, khống chế, và ông, hơn hẳn tất cả tăng, ni, Phật tử khác trong thế kỷ 20 này, đã thành tựu một sự nghiệp cải cách và phục hưng đạo Phật chưa từng có, nếu coi ông không phải là Phật giáo và coi PGHH không phải là một bộ phận máu huyết, ruột thịt, thân thích không thể tách rời của PGVN là có hợp lý, đứng đắn hay không?[/I][/I][/I] [I][I][I]Trong tiến trình phát triển, PGHH cũng có những tu sĩ, nhưng như vị giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, những tu sĩ PGHH này không mang hình tướng đầu tròn áo vuông. Cái hay là họ không phải là tăng, nên không có vấn đề "tân tăng" hay không "tân tăng". Họ chỉ là những tu sĩ tại gia, và tư cách tu sĩ PGHH này được tín đồ PGHH công nhận vì đạo đức, khả năng Phật học và công đức hoằng pháp phụng sự đạo pháp của họ chớ không phải là hình tướng bên ngoài.[/I][/I][/I] [I][I][I]Cho đến năm 1973, PGHH có 24 ban trị sự tỉnh, 6 ban trị sự thị xã, 82 ban trị sự quận, 476 ban trị sự xã, 3100 ban trị sự ấp, cơ sở tự viện có 213 chùa chiền, tự viện , 468 đọc giảng đường, một đại học với 7 phân khoa, một bịnh viện hơn 200 giường, 452 hội quán, 2876 văn phòng với nhân sự khá hùng hậu: 2679 tu sĩ và nhân viên tại các tự viện, khoảng 10.000 nhân viên và khóa sinh ngành phổ thông giáo lý, 36.500 trị sự viên các cấp và khoảng 2.000.000 tín đồ. Không có một tăng, ni thuộc Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo đại thừa, hay Phật giáo khất sĩ nào tham gia PGHH, thế nhưng Huỳnh Phú Sổ đã tạo được một đoàn thể Phật giáo có kỷ cương và có phẩm chất tu học cao, đúng với tinh thần giáo lý của đức Phật. Phật Giáo Việt Nam trong những năm thịnh đạt của thế kỷ này, có khi có hơn 40.000 tăng, ni, hiện nay thì có khoảng 20.000 tăng, ni. Số lượng tăng ni lớn lao này đã đóng góp được gì cho việc hoằng pháp độ sinh, việc đoàn ngủ hóa Phật tử và việc nâng cao phẩm chất tu học và khả năng hộ đạo, hưng quốc của Phật giáo đồ??[/I][/I][/I]
5/ Học Phật Tu Nhân, áp dụng thuyết tứ ân, đưa đạo Phật vào cuộc đời, tích cực phụng sự xã hội, đất nước, đồng bào, nhân loại.Phật giáo là một tôn giáo để sống, để thực hành, để tự mình chứng nghiệm chớ không phải là một hệ thống lý thuyết để tôn thờ, qùy lạy, chiêm ngưỡng. Huỳnh Phú Sổ đã triệt để đả phá, cởi bỏ mọi hình tướng trói buộc, che khuất tinh hoa, cốt tủy đạo Phật và làm tín đồ hiểu sai lạc mục đích, ý nghĩa của đạo Phật. ông vừa xây dựng một đạo Phật phù hợp với quảng đại quần chúng vừa thích nghi với thời đại. 30 năm trước, hòa thượng Thích đức Nhuận, Huỳnh Phú Sổ đã kêu gọi "trao cho nông dân và trao cho thời đại một nội dung Phật chất", đó là yếu chỉ, là thông điệp và khẩu hiệu hành động của ông. 80 % dân số Việt Nam là nông dân nên khẩu hiệu này của Huỳnh Phù Sổ không những đi trước rất xa, mà còn đi sâu, đi rộng, một cách thực tế, cụ thể hơn Thầy đức Nhuận rất nhiều. Học Phật, Tu Nhân là đặc chất của nền Phật giáo nhân gian và thời đại mà ông chủ xướng. Không nói cao xa và lý thuyết. đây là chủ đích của ông, và thú thật, đối với đạo Phật thì nói thấp, nói để ai cũng hiểu được, thực hành được thì khó hơn rất nhiều lần nói cao siêu, trí thức, bác học: "dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng, chẳng nói cao vì rốt đời". Chính đức Phật cũng bát bỏ những sự giảng dạy, tranh luận về các vấn đề siêu hình, trụ tượng về con người nếu đào sâu cho rốt ráo cùng triệt các vấn đề này thì họ sẽ chết trước khi thấu hiểu trọn vẹn vũ trụ. đem cái đầu óc tôn thờ triết lý, ý thức hệ của Tây Phương để tìm kiếm một cái gì cao siêu, thông thái trong tư tưởng Huỳnh Phú Sổ là một việc làm không thích hợp. Tư tưởng của ông là tư tưởng Phật học, tuy nhiên như những nhà lãnh đạo cộng sản khi truyền bá chủ nghĩa Mác Xít tại Việt Nam họ đã không giảng dạy về tư bản luận cho nông dân nghe, họ chỉ nói phân chia ruộng đất cho dân nghèo, là điều phù hợp với truyền thống quân phân điền thổ của Việt Nam, Huỳnh Phú Sổ chỉ chọn lọc một số tư tưởng căn bản của Phật giáo và diễn giảng cho thích hợp với nông dân. Tuy nhiên đó không phải là tư tưởng tầm thường, hời hợt, mà trái lại đó là phần căn bản, phần tinh hoa, phần "Phật pháp bất ly thế gian pháp" của Phật đạo. Với chủ đích: "Thuyền bát nhã ta cầm tay lái, quyết đưa người khỏi bến sông mê", Huỳnh Phú Sổ để thích nghi với căn cơ, trình độ của quảng đại quần chúng nông thôn, đã thâu tóm tinh hoa đạo Phật, một cách đơn giản nhưng đầy đủ, thành chủ trương học Phật tu nhân, như nền tảng của giáo lý PGHH. Học Phật có ý nghĩa là học và thực hành những lời Phật dạy, cụ thể là học những giáo lý căn bản như Tam độc tham, sân, si, tứ diệu đế, tứ vô lượng tâm, từ, bi, hỉ, xả, ngủ giới, ngủ uẩn, lục căn, lục trần, lục độ, bát chánh đạo, thập nhị nhân duyên, v.v... ông dạy cụ thể như sau: "Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhân từ, không lòng hờn giận, chẳng dạ ghét ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền não, và để bụng tham lam, ích kỷ, gây mối thiện duyên, lần lần trí huệ mở mang, cõi lòng sáng suốt, thì màn vô minh sẽ bị diệt mất. Vô minh bị diệt thì hành bị diệt, hành bị diệt thì thức bị diệt, thức bị diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc động diệt, xúc động diệt thì thọ cảm diệt, thọ cảm diệt thì ái diệt, ái diệt thì bảo thủ diệt, bảo thủ diệt thì hữu diệt, hữu bị diệt thì sanh diệt, sanh bị diệt thì lão tử diệt. ấy là giải thoát vậy". Đối với nông dân mà giảng như thế là đã rất cao. ông cũng giảng dạy phải phá tướng chấp mình, chấp người thì mới mong giải thoát: "Tâm trần tục còn phân nhơn, ngã, thì làm sao thoát khỏi luân hồi". Dùng trí tuệ dể diệt vọng tâm thì chân tâm, tức Phật tánh hiện bày, tinh yếu này của Phật đạo và của Thiền Tông cũng được ông giảng dạy: "Mài gươm trí cho tinh, cho khiết, Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không". ông đã đi đến chỗ cao sâu, huyền diệu của đạo Giải Thoát: "Phật tại tâm chớ ở đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên non núi. đạo Thích Ca nhiều não cao sâu. Hãy tìm kiếm cái không mới có". Nhìn chung thì phần Học Phật mà ông trình bày, giảng dạy chính là đạo Phật nguyên thủy, đạo Phật chân chánh chớ không là gì khác. Chỉ vì căn cơ, trình độ của người nghe Pháp còn thấp nên ông chỉ tóm lược và nói những phần căn bản và đơn giản mà thôi. Trong phần Học Phật, có phần thực hành thì ông có dạy về cốt tủy của Thiền Tông, là khai mở cái chân tâm, nhưng không dạy tín đồ phương pháp ngồi Thiền, mà chị dạy về Tịnh độ, nghĩa là niệm Phật. đây là điều dễ hiểu vì đại đa số dân chúng, ngay cả tầng lớp thị dân, cũng chỉ thích hợp với Tịnh độ. Thiền Tông chỉ dành cho hạng có trình độ trí tuệ khá cao, và từ đầu thế kỷ, đã coi như thất truyền. đối với nông dân, giảng dạy Phật học căn bản và khuyên làm lành, lánh dữ, niệm Phật, giữ thân khẩu, ý thanh tịnh, trong sạch là thích hợp nhất, không ai có thể làm khác. Tứ ân. Phần đặc sắc của tư tưởng Phật học Huỳnh Phú Sổ, và của PGHH là phần Tu Nhân, tức là thực hành hạnh Tứ ân, bốn ân lớn, là ân tổ tiên, cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào và nhân loại. Con người phải làm tròn bốn ân lớn này thì mới xứng đáng là một người con Phật và mới mong được dự hội Long Hoa. điểm đặc biệt là theo quan niệm Phật giáo cổ truyền thì một trong tứ ân là ân quốc vương, đứng vào hàng thứ ba, Huỳnh Phú Sổ, cũng như Phật Thầy Tây An sửa lại là ân đối với quê hương đất nước và đưa lên hàng thứ hai, chỉ sau ân tổ tiên, cha mẹ. điều này hết sức chí lý, chính đức Phật cũng phải công nhận: "Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế" (cha mẹ còn sống trên đời là cũng giống như chư Phật còn sống trên thế gian), và chính Ngài còn tuyên bố: "Tội lớn nhtấ là tội bất hiếu, phước lớn nhất là phước hiếu thảo". Hòa Thượng Thanh Từ còn khẳng định: "Người nào phụng dưỡng đầy đủ cha mẹ thì dù không cúng dường tam bảo, công đức cũng rất lớn. Kẻ nào cúng dường tam bảo rất nhiều mà để cho cha mẹ thiếu thốn đói khổ thì cũng không có công đức gì cả". Nên ân đầu tiên của con người là ân tổ tiên, cha mẹ là hết sức đứng đắn, hợp tình hợp lý. ân thứ đến là ân quê hương, đất nước lại càng chính xác, hợp đạo lý hơn nữa. Huỳnh Phú Sổ đã giảng dạy rất cảm động như sau: "Muốn làm tròn nhân đạo phải giữ vẹn tứ ân. ân tổ tiên, cha mẹ: Ta sinh ra ở đời cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc, nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa... ân đất nước: Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên, cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày xéo. Ráng nâng đỡ xứ sở, quê hương lúc nghiêng nghèo và làm cho trở nên cường thạnh. Ráng cấp cứu nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm. Hãy tùy tài tùy sức, nổ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đở quê hương, ta phải rán tránh đừng làm gì sơ xuất đến nổi làm cho quê hương đau khổ, chớ đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước...". Sau ân tổ tiên, cha mẹ và ân quê hương đất nước, Huỳnh Phú Sổ, khi đó chỉ mới 25 tuổi, cũng đã chỉ rõ ân Tam bảo và ân đồng bào, nhân loại như sau: "ân Tam bảo: Tam bảo là gì? Tức Phật, Pháp, Tăng. Con người nhờ ơn tổ tiên, cha mẹ sanh ra, nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. ấy là về phương diện vật chất. Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi trầm luân, khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy, cho các chư tăng đặng đem nền đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn, đó chính là những đại đệ tử của đức Phật vậy. Bởi vì đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu với quần sanh khỏi miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun gtrồng bồi đắp cho nền đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài đạo hạnh vô thượng vô song, lưu truyền mãi mãi với hậu thế. Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt dùm kẻ sơ cơ và nhất là phải tiếp tục khai thông nền đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải kháp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy. Ân đồng bào và nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ xung quanh, và cái niênkỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy. Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ nhà cửa của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chia với ta. Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc gia đó. Họ lạ ai? Tức là những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy. đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền cùng chung những trang sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang sơn đất nước. đồng bào ta và ta có những liên quan mật thiết, không thể tách rời, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế nên, ta phải ráng giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một. Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? ... Dân tộc ta phải nhờ nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình. Vả lại cái tình từ bi bác ái của đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc, nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại chúng sanh. Thế nên ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình, gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xã và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn". Nền Phật giáo đặc thù Việt Nam suốt 2.000 năm qua phải chăng chính là nền Phật giáo tứ ân mà Huỳnh Phú Sổ đã khai triển, lần đầu tiên, trong thế kỷ này, một cách giản dị, bình dân nhưng đầy đủ và sâu sắc? Qua những hàng chữ chân thành, ngắn gọn nêu trên, ta thấy đâu đây phản phất hình bóng của Vạn Hạnh, của Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng đạo... của bao anh hùng, anh thư, bao thế hệ tổ tiên, cha ông đã gieo trồng, tưới tẩm, bằng máu, bằng bao yêu thương và bằng trí tuệ gốc rễ huyết thống Việt tộc và gốc rễ tâm linh Phật giáo để cho đất nước này vẫn tồn tại đứng vững giữa bao phong ba bão tố nghiệt ngã và nở ra bao mùa xuân huy hoàng, rực rỡ của Dân Tộc và đạo Pháp suốt bao thời đại. Nếu không có nền văn hóa Phật giáo, siêu việt hơn văn hóa Trung Hoa, thì Việt Nam đã biến mất và đã trở thành một tỉnh của đế quốc này như biết bao dân tộc khác. Chúng ta sống sót giữa bao cuộc xâm lăng, thống trị và đồng hóa không những nhờ tinh thần quật cường, bất khuất, mà còn nhờ một nền văn hóa đặc thù và cao siêu, mà Phật giáo là thành tố quan trọng nhất. Giữa bao chia rẽ, phân hóa, nồi da xáo thịt bởi ý thức hệ, chủ nghĩa, tôn giáo, đảng phái, địa phương, chính kiến, giai cấp... xé nát, phân thây các thế hệ Việt Nam suốt nửa thế kỷ nay, Huỳnh Phú Sổ đã cất lên cao ý thức hướng về cội nguồn tổ tien để hợp nhất quốc dân và ý thức đồng bào để đoàn kết dân tộc. Và đi xa hơn nhân loại, đi trước cả những nhà nhân bản tiến bộ nhất, với tâm thức cứu độ bình đẳng tất cả chúng sanh nhân loại của đạo Phật, ông đã gieo truyền ý thức nhân loại là anh em một nhà, ý thức thế giới là ngôi làng chung của tất cả chúng ta, trái đất là đất mẹ chung của tất cả loài người. Từ một ngôi làng Hòa Hảo nhỏ bé của Việt Nam, ông đã truyền đi một ý thức mới trong văn hóa, trong tôn giáo, trong chính trị, kinh tế, môi sinh... mà đến thập niên 90 này mọi người mới thấy rõ. Thuyết tứ ân xa xưa của Phật giáo được Huỳnh Phú Sổ cầm đến, một cách nhẹ nhàng, sơ lược như không cầm đến, đã trở nên mới tinh và có giá trị thời đại, giá trị toàn cầu, giá trị toàn diện, sâu sắc, không những cho việc Học Phật Tu Nhân của người Phật tử Việt Nam, mà còn cho mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi người không phân biệt biên giới, chủng tộc - những công dân bình đẳng - của thế giới hiện đại. Thuyết Tứ ân đã đưa đạo Phật cao siêu đến tầm tay của quần chúng, đã đưa đạo Phật vi diệu đến ngưỡng cửa của cuộc đời và đưa con đường giải thoát tâm linh huyền bí, tối thượng trở thành con đường giải phóng dân tộc và xã hội và cá nhân một cách hiện thực, mà vẫn không bị mất đi bản chất siêu thoát của đạo Phật. Với thuyết Tứ ân, người Phật tử được trao cho những trách nhiệm làm người, làm cha mẹ, làm vợ chồng, làm con cái, làm công dân ngay trong cuộc đời, đưa Phật pháp đi vào thế gian để phụng sử gia đình, cuộc đời, que hương đất nước cũng như chúng sanh nhân loại. Học Phật Tu Nhân, mà căn bản là thực hành Tứ Ấn, quả thật là một đường lối tu hành thích hợp với người Phật tử tại gia, biến cải, thăng hoa họ thành những người con có hiếu với cha mẹ, ông bà, thành những người cha, người mẹ có trách nhiệm với con cái, thành những vợ chồng biết thương yêu, lo lắng cho nhau cũng như thành những công dân đạo đức, yêu nước, hữu dụng. Thuyết Tứ Ấn, nếu được áp dụng rộng rãi trong xã hội, thì mỗi người sẽ là một công dân gương mẫu, mỗi gia đình là một gia đình hạnh phúc, dân tộc đoàn kết, thương yêu nhau, quốc gia phồn thịnh, phú cường và thế giới hòa bình yên vui. Một nền Phật giáo thời đại với chủ đích học Phật tu Nhân và trên căn bản của thuyết Tứ Ấn mà Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, đã khai triển, giảng dạy và truyền bá sâu rộng là đièu có thể thành tựu và sẽ giúp Phật giáo Việt Nam đi vững chải trong cuộc đời và trao cho thời đại một nội dung Phật chất. Nhập thế triệt để, hành động tích cực và dấn thân toàn diện trong mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, đó là đặc tính của nền Phật giáo thời đại, và đó cũng là lời kêu gọi của thuyết Tứ Ấn, của chủ trương học Phật tu Nhân, những đặc tính quan trọng nhất của PGHH, mà Huỳnh Phú Sổ đã tiếp nối và thành tựu huy hoàng di sản quý giá từ đức Phật Thầy Tây An, và của hai ngàn năm Việt Phật. 6/ đề xướng một nền Phật giáo thời đại áp dụng trong chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. đạo Phật đề ra một mẫu mực luân lý đạo đức tuyệt hảo cho cá nhân, gia đình, xã hội và đồng thời chỉ dạy những phương pháp giáo dục, rèn luyện, tu tập trí tuệ, tinh thần và tâm linh ở mức tuyệt đỉnh, đưa con người thành Phật, Bồ Tát. Không một tôn giáo nào có thể cống hiến, một cách thực tiễn hơn, cao cả hơn, lớn lao hơn, cho sự chuyển hóa và thăng hoa con người như đạo Phật đã cống hiến. Không những thế, tuy không phải là một lý thuyết chính trị, đạo Phật đã cống hiến một chế độ chính trị lý tưởng, đầy tính khoan dung, nhân ái, dân chủ và tự do, các triều đại Asoka ở ấn độ, Lý Trần ở Việt Nam là một bằng chứng. Tuy không phải là một học thuyết kinh tế, đạo Phật đã cống hiến những chất liệu trí tuệ, tinh thần, tâm linh để xây dựng một nền kinh tế hùng mạnh, phát triển nhất. Nhật Bản là một kinh nghiệm lớn. Từ cách chào, cách sống, cách uống trà, cắm hoa, làm vườn, võ thuật đến sản xuất xe hơi, tinh thần thiền tông - mỗi động tác là một lễ nghi – đã thấm nhuần sâu sắc và bộc phát, thể hiện một cách sống động trong mỗi người dân Phù Tang, đất nước có 72.000 ngôi chùa và hơn 90 triệu Phật tử. Tuy không phải là một học thuyết xã hội, đạo Phật đã chứng tỏ là có dư khả năng để xây dựng một xã hội an lạc, công bằng, nhân bản, và tiến bộ. Lịch sử của ấn độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Tây Tạng, Tích Lan, Miến điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào,... trong những kỷ nguyên hưng thịnh của Phật giáo đã chứng minh cho điều này. Không phải là một phong trào môi sinh, nhưng đạo Phật đã đề ra những tiêu chuẩn lý tưởng mà các phong trào môi sinh hiện nay, còn được gọi là cuộc "cách mạng xanh", coi như là những mẫu mực để bảo vệ môi trường sống của con người trên trái đất: không giết hại các sự sống, ăn chay, không làm ô nhiễm sông ngòi, không khí, bảo vệ thiên nhiên, núi rừng... Và việc những quốc gia nhỏ bé như Tây Tạng, Mông Cổ, Việt Nam, Triều Tiên... vẫn sống sót, tồn tại trước sức bành trướng vũ bão và đồng hóa hung bạo của đế quốc Trung Hoa là những phép lạ của các dân tộc này. Phép lạ văn hóa này được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật giáo, một nền văn hóa siêu việt hơn nền văn hóa Trung Hoa. Nếu không có đạo Phật, Việt Nam có thể tồn tại sau hơn 1.000 năm, tức 30 thế hệ, bị đế quốc Trung Hoa thống trị, đồng hóa hay không? Tuy nhiên, mãi tới ngày nay, vẫn chưa có một quan niệm hành động Phật giáo, trong xã hội, trong chính trị, kinh tế, môi sinh... được đúc kết và trình bày một cách có hệ thống. Xuất hiện chỉ 27 năm, Huỳnh Phú Sổ là người Phật tử đầu tiên của Việt Nam đã đưa ra được một chủ thuyết hành động Phật giáo, một cách khá toàn diện và hợp thời, trong khi đó những nhân vật Phật giáo khác, cùng thời như Thích Thiện Chiếu, hay sau đó cả mấy thập niên và cho mãi đến thập niên 90 này, đã cố gắng lập một chủ thuyết hành động Phật giáo, nhung đều thất bại. Về chính trị, ông là một trong những người Việt Nam đầu tiên chủ trương dân chủ một cách mạnh mẽ nhất và tự mình thực hành một cách tích cực nhất: lập đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội và ra tuyên ngôn: "thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân. đã chủ trương "toàn dân chánh trị" thế tất đảng chống độc tài bất cứ hình thức nào". ông đưa ra một quan niệm mới mẻ trong chính trị, ở mức độ quốc gia cũng như quốc tế, rút từ tinh hoa đặc thù và siêu vượt của Phật giáo: đó là tất cả mọi người đều có Phật tánh và đều bình đẳng, như vậy việc một nhóm người trong quốc gia thống trị độc tài các thành phần khác trong quốc gia hay việc một quốc gia này xâm lăng, thống trị một quốc gia khác là việc không thể chấp nhận được, dù rằng nhóm cai trị độc tài này hay quốc gia xâm lăng này là nhóm người tiên tiến hay quốc gia tiên tiến đi nữa. Ta hãy nghe ông trình bày điểm quan trọng này, đã được ông ứng khẩu trả lời trong bài: ông Hồn Quyên Vào Chiến Khu Phỏng Vấn đức Huỳnh Giáo Chủ, đăng ở báo Nam Kỳ ngày 29/11/1946: "Theo sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do nơi đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng lấy chủ nghĩa từ bi bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng, vì những câu "nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh" và "Phật cũng đồng nhất thể bình đẳng với chúng sanh". đã có những sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được đức Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến hóa ngang hàng với Chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn gian nầy còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo lý chơn chánh ấy". Đây là điểm đặc sắc của đạo Phật và có thể áp dụng trong mọi lãnh vục sinh hoạt của nhân loại, kể cả trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, bang giao quốc tế, bảo vệ môi sinh, hay ăn chay. Ví dụ như ăn chay, giáo lý căn bản của đạo Phật khuyến khích mọi người nên ăn chay vì cho rằng người và vật đều có Phật tánh, con người là sinh vật tiền tiến, tiến hóa cao hơn các loài động vật, con người là đàn anh, các loại động vật là những sinh vật hạ đẳng, tiến hóa thấp kém hơn con người, chúng là đàn em. Con người không nên ăn thịt súc vật, vì lòng từ bi, đàn anh không nên và không nở ăn thịt đàn em để nuôi dưỡng sự sống của mình. Mỗi con người ăn thịt thì chỉ trong một kiếp sống, miệng và bụng của nó là một nghĩa địa khổng lồ, nhai nuốt, chôn cất vô lượng vô số sinh mạng của các loài vật. Nếu những ý nghĩa xấu, ác của con người có hình tướng, thì như đức Phật có dạy, có thể chất đầy cả hư không, thì sinh mạng các loài vật do con người đã giết hại và ăn vào miệng có thể chất đầy cả nhiều thế giới. Trên căn bản của lý thuyết độc đáo "chúng sanh tiền tiến và chúng sanh lạc hậu này" Huỳnh Phú Sổ chủ trương Việt Nam phải có tự do, độc lập, thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp hay của bất cứ một đế quốc nào và trong sinh hoạt chính trị quốc gia, ông chủ trương thực thi dân chủ, "toàn dân chánh trị", và "chống độc tài dưới bất cứ hình thức nào". ông tranh đấu cho các quyền tự do dân chủ, và tuy không nói ra, nhưng ông mặc nhiên hoan nghênh, khuyến khích sự đa đảng, đa nguyên, là yếu tính của dân chủ, khi hô hào mọi người, trong lời Hiệu Triệu vào tháng 3 năm 1945: "Ủng hộ triệt để các đảng ái Quốc chân chính" hay trong Chương Trình của đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội: "củng cố chánh thể Dân Chủ Cộng Hòa bằng cách đảm bảo tự do dân chủ cho toàn dân", "liên hiệp với các đảng phái để chống họa thực dân"... Về kinh tế, ông chủ trương xây dựng kinh tế trên nguyên tắc chủ nghĩa xã hội. Nhưng khác với quan niệm Mác Xít chủ trương hủy diệt quyền tư hữu và cổ võ đấu tranh giai cấp, ông chủ trương tôn trọng quyền tư hữu và không đấu tranh giai cấp, như vậy quan niệm kinh tế của ông đúng thật là quan niệm kinh tế của trào lưu dân chủ - xã hội thịnh hành ở các nước Bắc Ấu và Tây Ấu. ông tuyên bố rõ trong bản Tuyên Ngôn: "Việt Nam Dân Xã đảng là một đảng cách mạng xã hội, chủ trương tổ chức nền kinh tế theo nguyên tắc chủ nghĩa xã hội: không để giai cấp mạnh cướp công quả của giai cấp yếu, làm cho mọi người đều được phục lợi cân xứng với tài năng và việc làm của mình, những người yếu đuối tàn tật thì được nuôi dưỡng đầy đủ. đặc điểm của Việt Nam Dân Xã đảng là, trong giai đoạn hiện tại, không chủ trương giai cấp đấu tranh giữa dân tộc Việt Nam vì lẽ ở xã hội Việt Nam hiện thời, trên 80 năm bị trị, chỉ có một giai cấp bị 'tư bản thực dân' bốc lột. Muốn tránh khỏi giai cấp đấu tranh về sau thì sự cấu tạo "xã hội Việt Nam mới" phải căn cứ trên những yếu tố không cho sanh trưởng giai cấp bốc lột và chỉ trợ trưởng một giai cấp một, tức là giai cấp sanh sản". Trong chương trình hành động, ông đi vào chi tiết về một số chính sách kinh tế như sau: "Trọng quyền tư hữu tài sản đến độ không có hại đén đời sống công cộng. Dự bị một phần xí nghiệp quốc gia, một phần xí nghiệp quốc hữu hóa, một phần tự do cho tư nhân và ngoại kiều. Thi hành những biện pháp không cho bốc lột công nhân...". Về kinh tế, ông là một trong số ít rất hiếm hoi những người lãnh đạo Phật giáo đã kêu gọi tín đồ không nên đổ nhiều tiền bạc cho việc xây chùa, đúc tượng mà nên để dành nguồn tài lực này để làm những việc công ích. ông cũng là người duy nhất trên toàn nước Việt Nam và trong lịch sử Việt Nam đã đi diễn thuyết suốt gần 200 lần kêu gọi nông dân tăng gia sản xuất hầu cứu đói và phát triển kinh tế. Những lời kêu gọi khuyến nông, tăng gia sản xuất của ông hùng mạnh như những bài hịch ra trận, trước nạn hơn một triệu đồng bào ruột thịt bị chết đói trong năm 1945: "Hỡi đồng bào, hỡi đồng bào. Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc. Ngày lại ngày siết chặt giống nòi. Lật qua các báo mà coi. Thấy con số chết coi mòi kinh nguy. Cũng tại vì Tây di bày kế. Phái hoại nền kinh tế nước ta. Dầu những kẻ vô tình với nước. Cũng tỉnh hồn mơ ước tự do. Tiếng vang độc lập reo hò. Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng. Quyết phen nầy kết liên một khối. đem máu đào tắm gội giang san... Cả kêu điền chủ phú nông. đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang... Ta còn ngần ngại nổi chi. Mà không cày cấy kịp thì hỡi dân. điền chủ phải một phen chịu tốn. Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên. Muốn cho dân được lòng bền. Mua dùm canh cụ là nền khuếch trương. Giá mướn phải thường thường dễ thở. Xử ôn hòa niềm nở yêu nhau. Cùng chung một giọt máu đào. Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà. Kẻ phu tá cũng là trọng trách. Cứu giống nòi quét sạch non sông. Một phen vác cuốc ra đồng. Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai. Mưa nắng ấy đâu nài thân xác. Chí hy sinh dầu thác cũng cam. Miễn sao cho cánh đồng Nam. Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà... Gởi một tấc lòng son nhắn nhủ, Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông. Nắm tay trở lại cánh đồng. Cần lao, nhẫn nại Lạc Long tổ truyền". Về lãnh vực xã hội, với tấm lòng từ bi của một vị Bồ Tát cứu đời, ông đã trình bày quyết tâm xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo trong tinh thần nhân bản Phật giáo: "ngày nay trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với tiến bộ về khoa học, thì ta có thể thực hành giáo lý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni để thực hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo. Thế nên với cái tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại". "Bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh". đó là tinh thần hành động Phật giáo mà Huỳnh Phú Sổ đã thực hiện đến tận cùng và đến hơi thở cuối cùng của đời ông. Chính ông, cách đây hơn 50 năm, đã phác họa những đường nét chính và đã dấn thân hành động trọn vẹn nhất, quyết liệt nhất, trên con đường hành động của Phật giáo thời đại. Chính ông là người khai mở một nền Phật giáo Việt Nam thời đại cho một thời đại Việt Nam Phật giáo. Tôn xưng, tán dương ông là Bồ Tát chính ở chỗ hạnh nguyện và hành động xả thân cứu nước và phụng sự dân tộc của ông. 7/ Hình thành một tôn giáo dân tộc mang màu sắc tam giáo đồng nguyên, tiếp nối truyền thống Phật Giáo Trúc Lâm Yên Tử đời Trần. Huỳnh Phú Sổ tiếp nối truyền thống Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đời Trần mang đặc chất Phật giáo Việt Nam chân truyền, nhập thế tích cực, yêu nước cao độ, thuần túy dân tộc, hưng thịnh sâu rộng trong nhân gian. ông đã tiếp nối giòng sinh mệnh Việt Phật, khai sáng Phật Giáo Hòa Hảo, một nền đạo học tâm linh và luân lý đạo đức xã hội đặc thù dân tộc, nhằm phục vụ quảng đại quần chúng và mang đầy hương sắc của văn hóa Việt Nam. ông đã thành công trong việc đưa Phật pháp vào tận mỗi nông dân, mỗi gia đình, xây dựng họ thành những công dân đạo đức, hữu dụng cho quốc gia dân tộc, và không những thế trao cho họ một tinh thần dân tộc, ái quốc cao độ, một niềm kiêu hãnh về nguồn gốc và lịch sử giống nòi, phá bỏ mặc cảm tự ti đối với ngoại nhân. Với đạo Phật siêu việt, đã được ông chế biến một cách tài tình thành pháp môn Học Phật Tu Nhân, với nền tảng là thuyết Tứ Ấn, và hơn thế nữa, đã được ông hiện đại hóa một cách xuất chúng nên mỗi tín đồ PGHH đã đưa trao một nội dung Phật chất trong sáng, thực tế, khả dụng và chính thời đại và quê hương cũng được trao cho một nội dung Phật chất mang tính từ bi, bình đẳng, trí tuệ và giải thoát có thể áp dụng trong mọi lãnh vực sinh hoạt từ chính trị, bang giao quốc tế đến kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, đạo đức và môi sinh. Phật giáo là nền tảng của PGHH bởi vì Huỳnh Phú Sổ lựa chọn con đường: "Nối theo chí Thích Ca ngày trước" để "Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý, coi tại sao ta phải tu hành". Lựa chọn Phật đạo để tu hành là một sự lựa chọn trí tuệ, khôn ngoan, khoa học, hợp truyền thống đạo lý dân tộc và cũng hợp thời đại. Với Phật đạo ông đã có một truyền thống giải thoát tâm linh hơn 25 thế kỷ với một rừng kinh điển phong phú, cao siêu nhất mà không một tôn giáo nào có thể ngang hàng, và đồng thời ông cũng có một truyền thống tín ngưỡng sâu dày hai ngàn năm trên quê hương Việt Nam, không một tôn giáo nào khác có thể so sánh. Nhưng không những thế, ông còn mang thêm tinh thần Nho Giáo, Lão Giáo và những tinh thần đặc thù của dân tộc: Tam giáo đồng nguyên trong tình tự dân tộc, đó là nét đặc sắc của PGHH. Sự tổng hợp này không làm PGHH mang tính cách ba phải, hổn tạp vì nó được xây dựng một cách dứt khoát, vững chắc và ưu việt trên nền tàng Phật đạo, Nho, Lão chỉ là những yếu tố phụ được thêm vào cho phù hợp với truyền thống bao dung và tổng hợp văn hóa của Việt Nam, như công thức Tam giáo đồng nguyên đời Trần. Nếu Phật đạo mất đi thế đứng trung tâm và chủ đạo thì công thức này sẽ tan vỡ vì Nho, Lão hay bất cứ một tôn giáo, một ý hệ nào khác mà ưu thắng thì cũng đều không đủ sự bao dung, khai phóng và hùng lực để dung chứa và tổng hợp tất cả. Trong lịch sử Việt Nam, sự ưu thắng của Nho giáo trong thời Lên, Nguyễn là một đại họa cho dân tộc và thực chất chỉ là sự Hán hóa, nô lệ hóa Việt Nam về mặt văn hóa, tôn giáo, tư tưởng, họa thuật mà thôi. Và đó là nguồn gốc của các thảm họa trong suốt 200 năm nay khi Việt Nam phải đối diện với Tây Phương. Tuy cùng xuất phát từ ấn độ và Trung Hoa nhưng tam giáo Phật, Nho, Lão đã ăn sâu vào tâm hồn, nếp sống của con người và xã hội Việt Nam sau 20 thế kỷ thích nghi, hội nhập và hòa đồng vào truyền thống văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam. Trong sự hòa hợp tam giáo này, Phật giáo là chủ đạo bao trùm tất cả, tổng hợp, điều hòa tất cả, vừa là nền móng, vừa là bầu khí tinh thần, tâm linh của quốc gia, trong khi đó Nho giáo được xử dụng trong lãnh vực luân thường đạo lý, xử thế tiếp vật của cuộc sống thực tế và Lão giáo được tiếp thu qua nhân sinh quan tự tại, an nhàn, siêu thoát, hòa hợp với thiên nhiên, hòa đồng với vũ trụ. Trên căn bản tam giáo đẹp đẽ, phong phú và hoàn hảo này, một đạo dân tộc là Phật Giáo Hòa Hảo đã ra đời như một sản vật tiêu biểu, đặc thù, như một đứa con có đầy đủ tinh hoa của tổ tiên, giòng họ, của truyền thống văn hóa Việt Nam. Học Phật Tu Nhân gắn liền với đạo làm người của Khổng giáo: "Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh, Sách thánh hiền dạy đạo làm người" (Kệ Dân). Tuy khác xa về mực độ tâm linh, nhưng ở bình diện luân lý đạo đức xã hội thì đạo nhân của Khổng giáo rất gần gủi với quan niệm từ bi của đạo Phật và tánh thiện của mọi người khi mới sinh ra mà Khổng Tử đã dạy không khác bao xa với quan niệm tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng như nhau mà Phật Thích Ca đã thuyết giảng: "Sách Thánh đạo ghi trong Tam Tự, Người mới sanh tánh thiện trời dành" (Giác Mê Tâm Kệ). Tam cương (quan hệ vua tôi, thầy trò, cha con), ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) hay tam tòng (theo cha, theo chồng, theo con) và tứ đức(công, dung, ngôn, hạnh) của người phụ nữ theo Nho giáo không khác gì nhiều với bi, trí, dũng của đạo Phật và những nguyên tắc đạo lý chi phối mối quan hệ gia đình, xã hội mà đức Phật đã dạy trong kinh Thiện Sanh. Những khuôn phép luân lý Khổng Mạnh, cũng như những giáo lý cao siêu Phật giáo, được Huỳnh Phú Sổ giới thiệu cho quần chúng bình dân một cách rất giản dị nhưng đầy đủ; "đi thưa, về cũng phải trình. Công dung ngôn hạnh thân mình phải trau", "Chữ Thánh Hiền mới được nôm na. Ta thỏa chí hô hào trung nghĩa...". điểm đặc sắc và siêu việt của Huỳnh Phú Sổ là ông đã giới thiệu một đạo Việt-Phật, một đạo Phật thuần túy Việt Nam, không lai căng, không nô lệ Phật giáo ấn độ, Trung Hoa, cũng như một quan niệm Việt-Nho, Nho giáo Việt Nam, thoát khỏi mọi xiềng xích của giáo điều Nho giáo từ chương, ước lệ của Hán Tộc, nhất là quan niệm trung quân mù quáng, để quy hướng về quan niệm ái quốc, hiếu nghĩa của đạo lý dân gian Việt Nam. điểm đặc thù của văn hóa Việt Nam, mà PGHH là một bằng chứng sinh động, là sự tổng hợp, dung hòa nhiều nguồn tư tưởng, văn hóa, tôn giáo khác biệt nhau. Dung hòa Khổng giáo nhập thế tích cực qua hình ảnh mẫu người quân tử xông pha phụng sự xã hội với quan niệm vô vi xuất thế của Lão giáo qua hình ảnh bồng lai tiên cảnh là nét tiêu biểu của tâm thức Việt Nam, mà Huỳnh Phú Sổ đã cảm nhận trọn vẹn: "Ráng kiếm chỗ tầm tiên lánh tục, Người ở đời phải được lòng trong" (Giác Mê Tâm Kệ), "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt, Cùc tùng phong nguyệt mới vui sao. Chốn phồn hoa trót bước chân vào, Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết" (Thoát Vòng Danh Lợi), "Ngồi trên đảnh núi Liên đài, Tu hành tầm đạo một mai cứu đời... kể từ tiên cảnh ta về, Non Bồng ta ở dựa kề mấy năm" (Bài Tự Thán). Có thể nói những tinh hoa của đạo học đông Phương, những tinh hoa của văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức, luân lý của truyền thống Việt Nam đều đã được tiếp thụ, dung hóa, hòa hợp một cách mỹ mãn trọn vẹn trong PGHH. Thiên tài của Huỳnh Phú Sổ là vừa giới thiệu hàng triệu nông dân Việt Nam những hương vị tinh khiết, đậm đà, cao siêu, có hàng ngàn năm lịch sự, của các tôn giáo lớn tại á đông cũng như của truyền thống dân tộc, và vừa khai sáng một tông phái Phật giáo mới, một đạo dân tộc mới, giản dị, trong sáng, đầy đủ, hoàn hoảo, rất thích nghi với đời sống văn minh hiện đại và cũng rất phù hợp với thời đại. Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ không những đã hiện đại hóa Phật giáo, mà còn hiện đại hóa Tam giáo Phật, Khổng, Lão, và hiện đại hóa cả truyền thống văn hóa, tôn giáo, luân lý, đạo đức Việt Nam.
[TABLE] [TR] [/TR] [TR] [TD="bgcolor: #ffffff"]Chương Bảy: Con đường hành động Phật Giáo qua hành trạng của Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ. Dù Huỳnh Phú Sổ là một triết gia, theo The New Encyclopaedia Britannica, dù ông là một nhà tư tưởng đã đề cập đến nhiều lãnh vực một cách thông thái, uyên bác, dù ông là một nhà Phật học đã đưa ra được cả một hệ thống tư tưởng Phật học bao quát, mới lạ, làm nền tảng cho một cuộc cách mạng Phật giáo, có giá trị thời đại hơn hẳn các nhà Phật học đương thời, nhưng Huỳnh Phú Sổ chính là một nhà hành động hơn là một lý thuyết gia. Những thành tựu của ông, qua tư tưởng, thật ra không đáng kể so với những thành tựu qua hành động của ông. Vắng bóng năm 27 tuổi, tính ra ông chỉ hoạt động có 7 năm, và phần lớn của thời gian ngắn ngủi này, ông đã bị thực dân Pháp quản thúc hay phải ẩn dạng cô lập không tiếp xúc với ai, hay phải kháng chiến trong bưng biền, rừng núi, và một phần lớn thời gian khác là phải đối phó với thời cuộc, họp hành với các tổ chức chống Pháp, giải quyết những việc hàng ngày của các đoàn thể tôn giáo và chính trị mà ông sáng lập và lãnh đạo, nhưng sự nghiệp ông để lại rất lớn lao, ít người sánh kịp. Có thể nói, trong hàng ngũ các lực lượng dân tộc và dân chủ Việt Nam, không có một người Việt Nam nào trong thế kỷ này có một sự nghiệp lớn lao, ngang tầm với sự nghiệp của ông. Qua việc phác họa, trình bày các tổ chức, đoàn thể mà ông đã sáng lập và lãnh đạo, với tư cách một lãnh tụ Phật giáo, và đồng thời là một lãnh tụ chính trị, ta sẽ thấy rõ con đường hành động Phật giáo. Con đường hành động này không những khẩn cấp, cần thiết trong giai đoạn lịch sử của thập niên 40, mà còn có giá trị lâu dài cho nhiều thế hệ Phật tử Việt Nam hôm nay và mai sau. A) Tranh đấu cho độc lập, thống nhất của đất nước, cho hòa giải và đoàn kết của dân tộc. Hai tổ chức đầu tiên mà Huỳnh Phú Sổ thành lập, tham gia và lãnh đạo là Việt Nam độc Lập Vận động Hội và Việt Nam ái Quốc đảng. ái quốc, và tranh thủ độc lập, đó là tấm lòng và ưu tư hàng đầu của mọi người dân Việt Nam trong thời đó. Có thể nói suốt cả thời gian công khai hoạt động vì nước, từ năm 1945 đến khi bị ám hại năm 1947, yêu nước và tranh đấu cho nền độc lập của đất nước là động lực duy nhất và mục đích duy nhất của ông. đầu năm 1945, từ Sài gòn, sau khi quân đội Nhật đảo chánh Thực Dân Pháp vào ngày 10 tháng 3, chiếm giữ chính quyền trên toàn cõi Việt Nam và gông cùm Thực Dân được nới lỏng phần nào, ông ban hành huấn lịnh sau đây: "Hỡi tất cả thiện nam tín nữ. Ngày mà chúng ta chịu khổ dưới gót giày của người Pháp và bọn quan lại hung tàn đã vừa qua. Kể từ nay tôn giáo của chúng ta sẽ được tự do truyền bá. Vậy tôi nhân cơ hội này tỏ cho các người được hiểu rằng: đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh khoan hồng đại độ, tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi. Vậy hãi coi toàn dân cũng như anh em một nhà, mong họ liên kết với chúng ta để kiến thiết quê hương cùng nền đạo nghĩa. Những kẻ bạo tàn từ trước đến giờ nay hãy ăn năn giác ngộ thì hãy dĩ đức nhiêu dung tội trạng của họ, để sau này quốc gia định đoạt, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì thái quá mà động đến từ tâm của Chư Phật. Mong các người hãy tuân theo huấn lệnh này". 80 năm Thực Dân Pháp và các phần tử tay sai thống trị, bóc lột dã man nhân dân Việt Nam, chúng đã gây biết bao tội ác, bao thảm cảnh cho dân tộc, thế nhưng với tấm lòng từ bi của người Phật tử, với viễn kiến nhìn xa thấy rộng nhân ái, khoan dung và khôn ngoan của nhà chính trị có trách nhiệm, ông đã khuyên mọi người nên xóa bỏ hận thù, hòa giải và đoàn kết dân tộc. Nạn nội chiến nồi da xáo thịt, lẫn nạn chiến tranh tái xâm lăng của Thực Dân và sự chia cắt, xé nát dân tộc, đưa toàn dân vào biển máu lửa, hận thù, tàn sát nhau như những con thú rừng hoang dại, man rợ và sự kiệt quệ, đói khổ, chậm tiến của đồng bào suốt gần 50 năm trời sau đó, phải chăng một phần lớn là người Việt Nam, nhất là những người lãnh đạo, đã thiếu từ tâm và sự khôn ngoan chính trị này? Vì họ đã trả thù, chém giết bừa bãi, thiếu khoan hồng độ lượng theo truyền thống nhân nghĩa của Việt Nam. Những lời kêu gọi lấy tình thương xóa bỏ hận thù để đoàn kết và xây dựng quê hương này làm ta nghĩ ngay đến thái độ nhân từ, khôn ngoan của các vị quân vương - Phật tử đời Trần. Sau lời huấn lịnh trên, ông đưa ra một lời gọi khác tiếp tục kêu gọi hòa giải, đoàn kết để tranh thủ độc lập thật sự, sau khi vua Bảo đại xé bỏ các hiệp ước với Thực Dân Pháp và tuyên bố Việt Nam độc lập trên danh nghĩa, thực chất là vẫn lệ thuộc vào quân đội Nhật: "Hỡi đồng bào Việt Nam. Nước nhà đã tuyên bố độc lập. Kẻ thù giết cho ông chúng ta hầu hết đã bị giam cầm. Giờ đây, bổn phận của mỗi người Việt Nam cần phải làm thế nào cho sự độc lập hoàn toàn của nước nhà chóng thực hiện, vậy tôi khuyên tất cả đồng bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự do thì chúng ta hãy nên đoàn kết chặt chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hiềm ganh ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt khiến ngoại nhân khinh bỉ một dân tộc như dân tộc Việt Nam ta đã có nhiều tầm lòng nhân hậu và những trang sử vẻ vang... Lo trả thù riêng, đốt phá nhà cửa, hoặc trộm cướp sát nhân, làm rối trật tự, có hại cho sự kiến thiết quốc gia. Kẻ yêu nước không nên làm... Bình tỉnh hiệp tác chặt chẽ với nhà đương cuộc, giữ sự an ninh cho dân chú,g có lợi cho sự kiến thiết quốc gia. Kẻ yêu nước nên làm. Nhân danh Việt Nam độc Lập Vận động Hội kiêm Cố Vấn Danh Dự Việt Nam ái Quốc đảng, ký tên Hòa Hảo, Sài Gòn, tháng 3 ất Dậu (1945)". Một thanh niên 25 đã có những lời kêu gọi nhân từ, đức độ, trí tuệ và viễn kiến xa rộng như vậy sao? Phải chăng bằng tuệ giác, ông đã tiên tri Việt Nam sẽ có nạn huynh đệ tương tàn đẫm máu, anh em ruột thịt bắn giết nhau như loài dã thú hết sức bi thương, đau đớn, nên mới thốt lên những lời thống thiết như thế? Ngoài ra, ông còn viết một lá thư riêng gởi cho các tín đồ nhấn mạnh không được trả thù. Lời lẽ hết sức mạnh mẽ, nghiêm khắc: "Lời riêng cho bổn đạo. Tôi lấy làm chẳng vui mà thấy một vài người trong đạo và ngoài đời nhận lấy cái danh từ của tôi mà làm một ít cử chỉ trả thù không có xứng đáng với tấm lòng đạo đức từ bi: trước kia chúng nó hà khắc ta, chúng đành, ngày nay ta hà khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy dự hung tàn, còn lòng ta đầy nhân ái. Nên kể từ nay, kẻ nào trong đạo còn làm điều gì không có mạng lịnh sẽ bị loại bỏ ra khỏi đạo và giao nhà đương cuộc xử một cách gắt gao. Ký tên: Hòa Hảo, Sài Gòn, tháng 2 ất Dậu (1945)". Với lòng yêu nước thiết tha, với một ý thức sáng rực về một vận hội mới đang đến với quê hương và đồng thời những nguy cơ mới đang rình rập, đe dọa tổ quốc, với một quyết tâm tranh thủ cho kỳ được tự do độc lập hoàn toàn, dù không ở vị thế lãnh đạo như vua Bảo đại, như Thủ Tướng Trần Trọng Kim lúc đó và trước cả Chủ Tịch Hồ Chí Minh, ông cất cao lời hiệu triệu toàn dân hãy dốc toàn lực đoàn kết hy sinh tất cả, hiến dâng tất cả cho đất nước. Như sóng nước sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long trong mùa mưa lũ, như sóng thủy triều của biển Thái Bình trong mùa biển động, ông để cho tấm lòng yêu nước nóng hổi, cho quyết tâm giành lại độc lập, tự do tuôn trào cuồn cuồn: "Hiệu triệu. Hỡi đồng bào Việt Nam. Vì một cái chánh sách sai lầm của tiền nhân ta mà đế quốc Pháp có cơ hội tốt để chiếm đoạt lãnh thổ nước Việt Nam. Gần ngót trăm năm nay, đồng bào ta trải biết bao cay đắng: lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan lại tham ô, vì thế nên người dân Việt Nam gách vác biết bao nhiêu sưu thuế nặng nề. Kẻ thù đã lợi dụng chánh sách ngu dân để nhồi sọ quần chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung, phá rối sự đoàn kết, hầu mong cho cuộc đô hộ được vĩnh viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ Tiên ta phải phí biết bao máu đào mới gần dựng được. Vả lại từ trước cho đến nay các bực anh hùng, các nhà chí sĩ khắp ba kỳ đã bao phen vùng vẫy chống lại quân thù mng gầy dựng lại nền độc lập cho quê hương đất Việt. Nhưng than ôi. Chỉ vì thiếu khí giới tối tân, chỉ vì sơ đường luyện tập mà giọt máu anh hùng đành hòa với bao nhiêu giọt lệ, khóc phúc sa cơ, để lại cho người đồng thời và cho đoàn hậu thế muôn vàn tiếc thương ân hận. Cách đây bốn năm, đế quốc Pháp đã tan tành gãy đổ... Giai đoạn đấu tranh đã đến hồi quyết liệt... Hỡi đồng bào Việt Nam. Chúng ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm trọng trên lịch sử. Giờ đây ta đã có thêm nhiều đặc quyền lo lắng đến cái giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên ta di truyền lại. Vận động cuộc độc lập. Vận động cuộc độc lập. Phải, toàn quốc phải liên hiệp vận động cho cuộc độc lập. đấy là cái chủ trương duy nhất của Việt Nam độc Lập Vận động Hội. Việt Nam Hoàn Toàn Tự Do độc Lập. đấy là cái khẩu hiệu duy nhất của người Việt Nam. Hỡi các đồng chí thân yêu, từ khi quốc gia bị khuynh đảo đến nay, chúng ta chỉ hợp từng đoàn thể nhỏ hoặc độc thân đấu tranh và phải bao phen thất bại một cách đắng cay chỉ vì thiếu tinh thần đoàn kết, thiếu sức bền bỉ dẻo dai để chống lại kẻ xâm lăng vô cùng tàn bạo. Thời giờ này ta đã học hỏi được nhiều rồi, ta đã thâu thập kinh nghiệm khá hơn rồi, vậy ta nên đồng nhận chân ý thức như nhau, nắm tay nhau quả quyết mạnh dạn tiến bước trên con đường tranh đấu. Hỡi các bạn trí thức Việt Nam, các bạn có bị cái thứ văn minh cặn bã cám dỗ chăng? Các bạn có quên tinh thần quốc gia hùng dũng của Việt Nam chăng? Không, không, chúng tôi chắc chắn hẳn rằng không vậy. Các bạn cũng biết cái cặn bã của nền văn minh Pháp nhồi nắn rất nhiều đồng bào ta trở thành những bộ máy của bọn xâm lăng. Các bạn đã ôn nhuần những trang lịch sử vẻ vang mà từ ngàn xưa đến giờ tiền nhân ta viết ra bằng tâm cơ và bằng huyết hoãn, vẫn còn đầm đìa trên mặt giấy. Vậy ngày nay, các bạn nên lợi dụng thời cơ thuận tiện để đem tất cả trí năng, đức hạnh tham gia vào Hội, lãnh đạo nhân dân hầu huấn luyện cho nhau tinh thần quốc gia kiên cố. Hỡi các bạn thanh niên... Các bạn hãy để tinh thần tráng kiện ấy vùa giúp vào công cuộc kiến thiết nền độc lập cho giang sơn đất Việt... Hỡi các cụ đồ Nho, hỡi các nhà sư. Các cụ đồ Nho. Từ trước đến nay, luôn luôn các cụ vẫn hoài bảo một nhiệt vọng cho sự độc lập của nước Việt Nam, luôn luôn các cụ vẫn nuôn nấng một tinh thần quốc gia cùng ngày càng mạnh mẽ. Cái ngày mà các cụ mong mỏi, thiết tha đã đến và ngày giờ này các cụ rất khoan khoái được thấy cái nguồn sanh lực của nước Việt Nam tái phát. Bao nhiêu tiết tháo của thời xưa vẫn còn in sâu trong tâm não, bao nhiêu thành tích vẻ vang hùng tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu lại nơi trí óc các cụ những kỷ niệm liệt oanh, rực rỡ. Hỡi các cụ đồ Nho, hãy tham gia vào phong trào mới của nước nhà để khích lệ nhân tâm. Các bực Tăng Sư, Thiền đức. Các cụ có nhớ chăng? Trên lịch sử Việt Nam thời xưa nhà đại đức Khuông Việt dầu khoác áo cà sa, rời miền tục lụy, thế mà khi quốc gia hữu sự cũng ra tay gánh bác non sông. Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự do tín ngưỡng, nhưng bên trong dùng đủ mọi cách âm thầm chia rẽ, phá hoại cho tín đồ nhà Phật không có sức đoàn kết chấn hưng hầu bài trừ cái lưu lệ mê tín dị đoan. đã vậy lại không có cơ quan tuyên truyền thống nhất, cũng chẳng có trường chung đào luyện tăng sư. Các cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ sở của đạo phải bị lấp vùi, nước còn nền đạo được phát khai rực rỡ. Chúng tôi mong ước các cụ noi gương đại sư Khuông Việt tự mình gia nhạp VNđLVđH để làm gương, hay là để khuyến khích các môn nhơn đệ tử mau tham gia vào phng trào mới hầu chấn chỉnh quốc gia ta. Khi nào nước nhà được cường thạnh, đạo Phật mới đặng khuếch trương tự do hầu gieo rắc tư tưởng Thiện Hòa và tinh thần Từ Bi, Bác ái khắp bàng nhân bá tánh... Hỡi các nhà thương mãi, nông gia, thợ thuyền, dưới sự kềm chế của bọn xâm lăng nền thương mãi quốc gia bị đắm chìm kiệt quệ, cơ hồ bị tay người ngoại quốc chiếm hẳn. Vì thế dưới sự chi phối của bọn đế quốc Pháp, các nền kinh tế, thương mãi của người Nam không có cơ ngóc đầu dậy nổi. Các nền tiểu công nghệ, thủ công nghệ bị uy hiếp nặng nề cho đến nỗi những nhà tiểu tư sản đều bị vô sản hóa, lâm vào một tình trạng vô cùng lầm than khổ não. Thương gia Việt Nam đành bó tay không phương giải cứu. Muốn cho nền thương mãi đặng phát triển, thương gia đặng thạnh vượng, phi trừ sự độc lập của nước nhà ra chẳng có cái gì có thể vãn cứu. Các nông gia bị cái áp bức bất công của bọn thực dân người Pháp và những kẻ quan lại kiêm địa chủ hiếp bức đủ mọi phương diện, đều bị bốc lột rất quá đáng... Kẻ làm ruộng vì vậy mà nghèo hèn đói rách... 80 năm nay nghề nông ta vẫn còn nằm trong vòng ấu trĩ phôi thai với những khí cụ của ông bà ta để lại... Nền kỷ nghệ trong xứ... bị ngăn cấm khiến cho sự nhu cầu của dân chúng thiếu thốn mọi bề, từ một cái kim may cho đến một cơ khí tinh xảo... Thợ thuyền nhơn công cũng ở dưới sự bạc đãi, bức bách như nông dân, họ sống cuộc đời luôn luôn thiếu kém và vẫn rụt rè khép nép với bọn chủ xưởng người Tây, vẻ mặt đầy hung ác. Nhiều khi lắm người nhân công bị hành hạ tàn nhẫn, giết chết biệt thây, hoặc bị sốt rét hút hết méu me nơi cánh rừng cao su bát ngát, hoặc chết dưới những hầm mỏ âm u mà nào ai có mở cuộc điều tra, nào ai dám mở lời kêu ca thống trách và luật pháp vẫn bỏ mặc tình, chẳng một điều gì chở che bảo bọc, ấy cũng tại nguyên nhân nào? Nếu chẳng phải tại nước mất nhà tan nên dám người vong quốc ấy phải ngậm ngùi với biết bao điều ân hận. Hỡi các thương gia, nông dân, thợ thuyền. Cố gắng lên, hùng mạnh lên. Và liên kết cổ động tranh đấu cho nền độc lập hoàn toàn của quốc gia hầu vãn cứu đồng bào mình cùng quyền lợi mình... Mỗi người công dân Việt Nam đều phải nghĩ đến xứ sở mình, đến tương lai đất nước mình, đến sự sống còn của dân tộc mình, vì mặc dầu đã bị triệt hạ trên giải đất đông Dương, đế Quốc Pháp bên kia trời cũng vẫn còn hoài bảo cái mộng tưởng khôi phục lại quyền chủ trị, vậy thì đồng bào hãy cố gắng lên. Chúng tôi mong rằng các bậc lão thành, các hàng trí thức, các thanh niên nam nữ, các đồng bào vì đất nước chung, vì mục đích chung, hợp sức cùng nhau để đạt cái nhiệt vọng tối đại tối cao thì tiền nhân ta mới đành ngậm cười nơi chín suối. Việt Nam độc Lập Vận động Hội ủng hộ triệt để các đảng ái quốc chân chính, bài trừ triệt để bọn mọt nước sâu dân. Saigon, tháng 3 dl. 1945". Thế rồi từ đó Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ PGHH, xông pha vào cuộc đời gió bụi, hy sinh đấu tranh cho nền độc lập tự do, trong khi đó có những tu sĩ của các tôn giáo khác, không những trùm chăn an phận, mà còn cộng tác với quân xâm lăng cướp nước: "Tăng sĩ quyết: chùa am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật đà nam mô Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật Bụi hồng trần rứt sạch cửa không Chuông linh ngân tiếng đại đồng Ta bà thế giới sắc không một màu..." (Bài thơ nhan đề Tặng Thi Sĩ Việt Châu, xuất khẩu làm trên đường về Sài Gòn sau khi đi khuyến nông ở Lục Tỉnh, tháng sáu năm 1945). Trước gần 2 năm lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của chính phủ Hồ Chí Minh, ông đã tiên tri Pháp sẽ xâm lăng trở lại và kêu gọi mọi người đoàn kết chuẩn bị kháng chiến. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều thơ văn ái quốc, kêu gọi thanh niên, phụ nữ và toàn dân cùng đứng lên cứu nước và giữ nước: "Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến sĩ Nhìn thời xưa hùng vĩ nước nhà ta. Bắc Nam một giải san hà Mồi hôi giọt máu ông cha tài bồi Trãi qua cũng lắm hồi vận bỉ Rồi anh hùng tráng sĩ đứng lên Liều mình đục pháp xông tên Tiếng roi lại bình Ngô sát đát Sử xanh còn gnào ngạt hương thơm Trông phường giá áo túi cơm Trông phường quý tử mà nhờn đi thôi Nay vận nước đến hồi thịnh thái Chí anh hùng ta hãy noi gương Một mai nước được phú cường Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam" (Gọi đoàn Tráng Sĩ) "Chị em ôi, Bắc Nam là một Chị em là rường cột giống nòi Dở sử xanh Nam Việt mà coi Gương Trưng, Triệu còn soi muôn thuở... Chí anh hùng của khách quần thoa đâu có kém bực tu mi nam tử Sách Thánh Hin truyền lưu mấy chữ Thất phu còn trách nhiệm với non sông Cả tiếng kêu bạn gái má hồng đem son phấn điểm tô Tổ Quốc" (Gọi đoàn Phụ Nữ) Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha cho nền độc lập nước nhà, qua các tổ chức yêu nước Việt Nam độc Lập Vận động Hội, Việt Nam ái Quốc đảng, Việt Minh, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, Mặt Trận quốc Gia Liên Hiệp, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Toàn Quốc, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ đã đi trong cuộc tranh đấu máu lửa và đi trước làn tên mũi đạn, với tâm thức, hạnh nguyện của một Bồ Tát cứu đời. ông đi trong truyền thống hành động của Phật giáo Việt Nam và của nhân dân Việt Nam, sinh phong hùng vĩ của ông là sinh phong của các anh hùng, các thiền sư, các thế hệ tăng, ni, Phật tử Việt Nam, của Lý Nam đế, Lý Thường Kiệt, Tuệ Trung, Nguyễn Trãi. Mùa xuân cuối cùng và ngày tết cuối cùng mà ông đã hành hoạt trên quê hương Việt Nam là một mùa xuân trong bưng biền, chiến đấu chống quân xâm lăng Pháp và là ngày tết trong chiến khu, đổ máu để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Ta hãy đọc bài thơ Tết ở Chiến Khu sau đây của ông để nghe tiếng cười lạc quan, yêu nước yêu đời của một thanh niên vừa bước qua 26 tuổi, đồng thời là người lãnh tụ tối cao của tất cả các lực lượng kháng chiến không Cộng Sản tại Nam Bộ và đó là lực lượng kháng chiến đã liều chết chống quân xâm lăng tại miền Nam (Lực lượng kháng chiến Việt Minh, lúc đó, sau khi Trần Văn Giàu bỏ chạy qua Thái Lan, tướng Nguyễn Sơn mới được cử về thay thế, chỉ lo tái tổ chức, chưa đánh được một trận lớn nào cả). đây là bài thơ gần cuối cùng của ông, viết ngày 2/1/1947, chỉ trước bài thơ sau cùng là bài Kỷ Niệm Rừng Chà Là viết vào tháng 2/47, chỉ vài tháng sau đó, trên đường về miền Tây hòa giải những sự xung đột giữa PGHH và Việt Minh và để xây dựng sự đoàn kết dân tộc để chống kẻ thù chung như nguyện vọng chân thành, mãnh liệt của ông, ông đã bị một cán bộ Việt Minh ám hại khi bất chấp nguy hiểm tham dự một phiên họp hòa giải theo lời mời của đại diện Việt minh, trong đêm 16/4/1947. "Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng Uống rồi vùng vẫy khắp Tây đông đem nguồn sống mới cho nhơn loại để tiến, tiến lên cõi đại đồng Rượu xuân càng nhấp càng say Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng Ngày tết năm nay ở chiến khu Bưng biền gió lốc tiếng vi vu Xa xa súng nổ thay trừ tịch Dân Việt còn mang nặng mối thù Mối thù nô lệ chưa trả xong Pháp tặc còn trên giống Lạc Hồng Dùng thói dã man mưu thống trị Thì ta quyết chiến dễ nào không Dễ nào không dám gắng hy sinh Giữ vững non sông đất nước mình Tự lập nghìn xưa gương chói rạng Anh hùng khởi xuất chốn dân binh Dân binh Nam Việt mấy ai bì? Không súng, tầm vong cũng vác đi Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh, Liều thân cứu nước lúc lâm nguy Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn Lòng mang đại Nghĩa để thân khinh Màu đào xương trắng phơi đầy nội Quyết đổi tự do mới thỏa tình Thỏa tình được sống dưới trời đông Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt, Từ đây non nước thoát nguy vong". Như truyền thống yêu nước anh hùng của nhân dân Nam Bộ, như các sĩ phu ái quốc, bất khuất của thế hệ Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành, Nguyễn đình Chiểu... ông thề thà chết chớ không chịu làm nô lệ và chấp nhận hy sinh tất cả để giành cho được độc lập: "Ách nô lệ dân ta đà chán biết Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm lăng Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng: Thà cam chết chớ không làm dân bị trị... Chờ cơ hội quét tan loài xâm lược Tranh độc lập để bảo tồn non nước..." Muốn tự do, độc lập, phải hy sinh đấu tranh. Tư tưởng yêu nước đại hùng, ađ5i lực của bao thế hệ tăng, ni, Phật tử Việt Nam và của dân tộc Việt Nam bao thời đại được thể hiện hùng hồn trong bài "Quyết Rứt Cà Sa" sau đây: Quyết Rứt Cà Sa "Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau Quyết rứt cà sa khoát chiến bào đuổi bọn xâm lăng gìn đất nước Ngọn cờ độc lập phất phơ cao Ngọn cờ độc lập phất phơ cao, Nòi giống Lạc Hồng hiệp sức nhau. Tay súng tay gươm xông trận địa, Dầu cho giặc mạnh há lòng nao. Dầu cho giặc mạnh há lòng nao, Nam Việt ngàn xưa đúc khí hào. Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị, Anh hùng đâu sá cảnh gian lao. Anh hùng đâu sá cảnh gian lao, Chiến tranh giao phong rưới máu đào. Miễn đặng bảo tồn non nước cũ, Giữ an tánh mạng cả đồng bào". Với tôn chỉ "đặt quyền lợi tổ quốc trên tất cả", với ý thức hòa giải đoàn kết dân tộc, với tinh thần hy sinh tôn giáo linh thiêng, cho mục tiêu chung cao cả là tự do, độc lập và thống nhất của Việt Nam, ông đã ra đi chiến đấu chống quân thù xâm lăng như một chiến sĩ, nhưng đau đớn thay, có những kẻ đặt quyền lợi của chủa nghĩa, đảng phái cao hơn quyền lợi của Tổ Quốc, như Trần Văn Giàu, người lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ, lại là kẻ cộng tác với giặc Pháp và khởi động cuộc chiến nồi da xáo thịt khi quyết dùng mọi thủ đoạn, bạo lực để triệt hạ tất cả những người kháng chiến không Cộng Sản. Giàu đã ra lịnh thủ tiêu nhiều nhà cách mạng dân tộc và định ám hại Huỳnh Phú Sổ trong đêm 9/9/1945 khi ông đang ở trên đường Miche, Sài Gòn. May rằng ông đã trốn thoát và không bị bắt và bị thủ tiêu vào lúc đó. điều mỉa mai là chính Huỳnh Phú Sổ, ngay sau khi Nhật đảo chánh Pháp vào đầu năm 1945 đã gợi đại diện là ông Nguyễn Xuân Thiếp tháp tùnh phái đoàn Nam Bộ đi dự hội nghị Tân Trào của Mặt Trận Việt Minh, để tiện tiếp xúc, cộng tác với Việt Minh, và đã được Tổng Bộ Việt Minh thừa nhận ông Huỳnh Phú Sổ là đại diện Việt Minh tại Nam Bộ. Sự kiện này đã được ông Hoàng Quốc Việt và ông Cao Hồng Lãnh, hai người đại diện Tổng Bộ Việt Minh, chính thức xác nhận trong phiên đại hội các đảng phái, đoàn thể chính trị, tôn giáo miền Nam họp tại Sài Gòn trong đêm 7/9/1945. Thế nhưng hai ngày sau, Việt Minh lại định ám hại Huỳnh Phú Sổ. ông trốn thoát và không hề phản ứng trả đủa, dù khi đó sau lưng ông đã có hàng trăm ngàn tín đồ trung kiên, có tinh thần quyết tử, không những thế có người định sám sát Trần Văn Giàu, ông lại hết sức khuyên can để tránh họa tương tàn giữa anh em với nhau. ông chỉ tạm lánh mặt, mai danh ẩn tích ở Bà Rịa, giả dạng làm người Thượng để tránh sự theo dõi của nhóm Trần Văn Giàu và chờ sự giải quyết của Tổng Bộ Việt Minh ở ngoài Bắc. ít có ai có thể ẩn nhẩn, hy sinh cao đẹp như thế khi bị kẻ nội thù đâm sau lưng ám hại. ông đã tha thứ, bỏ qua vì quyền lợi tối thượng của Tổ Quốc, vì quyết tâm đoàn kết chống xâm lăng, giành độc lập, và vì tấm lòng từ bi của một Phật tử. ông viết những vần thơ đau đớn nhưng vẫn sôi nổi tinh thần ái quốc cao độ: "... Nước non tan vỡ bởi vì đâu? Riêng một ta mang nặng khối sầu. Lòng những hiến thân mong độc lập, Nào hay tia họa áp bên lầu... Từ ấy lao mình vượt khốn nguy Băng rừng lội suối giả man di. Ngày mong ải Bắc oan này giải, đem sức ra nâng lá quốc kỳ. Nhưng khổ càng mong càng vắng bặt, Trời Nam tràn ngập lũ Tây di. Biết bao đồng chí phơi xương máu, Thức giả nhìn nhau hỏi tội gì?..." Tàn sát những lực lượng kháng chiến khác chính kiến, thủ tiêu những nhà ái quốc không Cộng Sản, châm ngòi cho cảnh nồi da xáo thịt, huynh dệ tương tàn và sau đó là cuộc nội chiến khốc liệt, rùng rợn, thê thảm nhất của nhân loại trong thế kỷ 20 và đó là nguyên nhân chính của những thảm họa trong suốt 50 năm trời mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu. ai đã trực tiếp chủ động gây nên những tai họa tầy trời này cho dân tộc Việt Nam? Là nạn nhân ngay từ buổi đầu của cường quyền, bạo lực và độc tài chính trị, theo kiểu Stalin, Huỳnh Phú Sổ với lòng yêu nước vô bờ và lòng nhân ái vô biên đã thấy rõ những tai họa của chủ trương độc quyền yêu nước, độc quyền kháng chiến và giết hại bừa bãi của Cộng Sản Việt Nam, đứa con nô lệ, cuồng tín của tư tưởng Cộng Sản Stalin. Trần Văn Giàu tàn sát tất cả các lực lượng kháng chiến quốc gia rồi sau đó khi quân Pháp tấn công, y bỏ chạy qua tuốt bên Thái Lan. Chỉ có những kẻ nô lệ ngoại bang, tự đánh mất bản chất nhân ái, tình tự dân tộc và truyền thống anh hùng, bất khuất của cha ông mới hành động một cách vô lương tâm, vô đạo đức, vô trách nhiệm như thế. Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản để mất thành phải tự sát. đâm sau lưng những người đang kháng chiến chống giặc rồi bỏ hết thành trì cho giặc chiếm đóng để chạy thoát thân, Trần Văn Giàu và nhóm lãnh đạo Việt Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam lúc đó đáng bị kết án tội phản quốc. Miền Nam không phải là một ngoại lệ, tại Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, miền Trung cũng đều như thế: Trong thời điểm 45, 46, Việt Minh và Cộng Sản không dốc toàn lực kháng chiến chống pháp mà chỉ giành độc quyền lãnh đạo bằng cách tàn sát, giết hại, thủ tiêu tất cả những người yêu nước, những lực lượng kháng chiến không Cộng Sản theo đúng chủ trương bạo lực, khủng bố của Stalin. Cảnh huynh đệ tương tàn, từ khi mới bùng nổ do Cộng Sản khởi xướng vào các năm 45, 46, Huỳnh Phú Sổ đã thấy rõ tất cả những hậu quả tàn khốc của nó, đối với cuộc kháng chiến trước mắt và cả hàng thập niên sasu đó. ông, với lòng yêu nước, yêu đồng bào vô hạn, đã thiết tha lên án và kêu gọi mọi người hồi tâm, hòa giải và đoàn kết để chống xâm lăng. "Người đồng đảng giết người đồng đảng, Ai Việt Minh, Cộng Sản là ai? đương cơn quyền lợi đắm say, Anh hùng, chí sĩ râu mày thế ư? đường muôn dặm lời thư một khúc, Giờ giặc đà tá túc nhà ta. Ai ra nưng đỡ sơn hà? Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy? Phát Xít sẽ tầm truy tàn sát, Không đảng nào mà thoát tai ương. Nghĩ càng bực tức đau thương, Giết nhau để lợi cho phường xâm lăng. (đồng đảng Tương Tàn, miền đông, 1946) Huỳnh Phú Sổ, một thanh niên 25 tuổi, đương đầu với cả một guồng máy giết người có tính cách quốc tế và mức độ phi nhân vượt qua sự tưởng tượng của dân tộc Việt Nam, đã rất đau buồn vì thấy rõ những hành động vô minh, hận thù, chém giết, vu cáo chỉ làm lợi cho giặc pháp và tay sai của chúng. Vì những người yêu nước không Cộng Sản tham gia kháng chiến đều bị Cộng Sản sát hại thì những kẻ sống sót và còn lực lượng sẽ chỉ là những thế lực tay sai của Pháp, dựa vào quân xâm lăng để tồn tại và dựa vào chiến tranh để thủ lợi và phát triển lực lượng. Cho nên chẳng lấy làm lạ khi Pháp rút đi, những thế lực tay sai này đã lãnh đạo miền Nam trong suốt 20 năm sau đó. Và những lực lượng tôn giáo, chính trị dân tộc, dân chủ tiếp tục bị đàn áp, tù đày, thủ tiêu, hảm hại... Nhìn thấy tương lai đen tối đó của quê hương, ông làm bài "Tự Thán" thật u buồn. Từ chân trời 1945, ông đã thấy những đám mây đen dày đặt phủ kín non sông cho đến cuối thế kỷ 20. "Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ, Nhìn non sông đượm vẽ tang thương. Mối tình chủng loại vấn vương, Thấy quân xâm lược hùng cường căm gan. Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc, Bỗng họa đâu gieo rắc bất kỳ. Cường quyền một lũ ngu si, Oan nầy hận ấy sử nghi muôn đời. Truyền khắp nước muôn lời vu cáo, Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân. Làm cho trong nưoơc rẽ phân, Làm cho giặc Pháp một lần sướng rang. Vậy cũng gọi an bang định quốc, Rồi rút lui bỏ mất thành trì. Giống nòi nở giết nhau chi? Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông. đoàn hậu tấn có lòng yêu nước, Khá nhìn xem gương trước răn mình. Riêng ta hai chữ nhục vinh, Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen. Lòng dân chớ khá xem khinh, Bạo tàn giết mất nhân tình thì thua" (Miền đông, cuối năm ất Dậu 1945) Quân xâm lăng Pháp tái chiếm miền Nam, dù là người tu hành, Huỳnh Phú Sổ vẫn "rứt áo cà sa khoác chiến bào", nhưng chủ trương độc tài chính trị, độc quyền yêu nước và khủng bố, thủ tiêu những người không cùng phe đảng, chính kiến của Việt Minh, đã làm biết bao người yêu nước phải chết oan hay phải nghẹn ngào rơi lệ. "Rứt áo cà sa khoác chiến bào, Hiềm vì nghịch cảnh quá thương đau. Bên rừng tạm gởi thân cô quạnh, Nhìn thấy non sông suối lệ trào. Nhín thấy non sông suối lệ trào, Lòng nguyền giữ vững chí thanh cao. Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ? Hậu thế muôn thu xét thử nào? Hậu thế muôn thu xét thử nào? Lòng này yêu nước biết là bao, Vì ai gieo rắc điều hồ mị. đành ngó non sông nhuộm máu đào, Thời cơ độc nhất cứu đồng bào. Muôn ngàn chiến sĩ chờ ra trận, Bỗng vướng gông cùm chốn ngục lao. (Riêng Tôi, miền đông, đầu năm 1946) Dù bị giết hại, bị bôi nhọ bởi "kẻ độc tài', nhưng Huỳnh Phú Sổ vẫn không ngừng tha thứ, không ngừng kêu gọi hòa giải và đoàn kết mọi người Việt Nam. đây là hành động của người thấm nhuần tinh thần từ bi của đạo Phật, và cũng là hành động của người lãnh đạo có đức độ và lòng nhân ái: "Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến sĩ, Mở lòng ra thương nghĩ sanh linh. đồng bào ai nỡ dứt tình, Mà đem chém giết để mình an vui. Dù lúc trước nếm mùi cay đắng, Kẻ độc tài đem tạng cho ta. Sau này tòa án nước nhà, Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình. Lúc bây giờ muôn binh xâm lược, đang đạp vày non nước Việt Nam. Thù riêng muôn vạn cho cam, Cũng nên gạt bỏ để làm nghĩa công. Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống, Tha thứ nhau để sống cùng nhau. Quý nhau từng giọt máu đào, để đem máu ấy tưới vào địch quân. đấng anh hùng vang lừng bốn bể, Các sắc dân đều nể đều vì. đồng bào nở giết nhau chi, Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông. Hỡi những kẻ có lòng yêu nước, Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê. Anh em lớn nhỏ quay về, Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly. đả đảo bọn Nam Kỳ nô lệ, Kiếp cúi lòn thế hệ qua rồi. Lời vàng kêu gọi khắp nơi, Anh em chiến sĩ nhớ lời ta khuyên" (Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh, miền đông, đầu năm 1946). Tổ chức chính trị đầu tiên ông thành lập là Việt Nam độc Lập Vận động Hội, hay tham gia yểm trợ, như là cố vấn danh dự, như Việt Nam ái Quốc đảng chỉ được công khai hoạt động một thời gian ngắn, trong vài tháng, sau đó, do nhu cầu thời cuộc, phải hòa tan vào các tập hợp lớn hơn. Ngay sau khi Nhật đảo chánh Pháp, Huỳnh Phú sổ trở về Hậu Giang củng cố PGHH và thành lập hệ thống Bảo An tại các vùng nông thôn miền Tây Nam phần. đây là tổ chức quân sự của PGHH. Sau đó, vào tháng 8/ 45, Nhật đầu hàng, ông, thay mặt PGHH, cùng với các tôn giáo, đoàn thể, tổ chức yêu nước khác tại miền Nam Cao đài, Việt Nam Quốc Dân đảng, Việt Nam Quốc Gia độc Lập đảng, đại Việt... thành lập một lực lượng chính trị - quân sự quan trọng tại miền Nam, là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, đoàn thể đứng ra tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại đầu tiên tại Việt Nam với 200.000 người tham dự vào ngày 21/8/1945 và thành lập bốn sư đoàn dân quân cách mạng: đệ nhất sư đoàn do lực lượng Bình Xuyên đảm trách thành lập, đệ nhị sư doàn do Cao đài thành lập, đệ tam sư đoàn do Việt Nam Quốc Dân đảng thành lập và đệ tứ sư đoàn do Phật Giáo Hòa Hảo thành lập. Tuy có lực lượng quần chúng và lực lượng quân sự nhưng Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã không cướp chính quyền trong cuộc biểu tình vĩ đại ngày 21/8/1945 Và chỉ bốn ngày sau, chính quyền, bị bỏ trống vì Pháp đã bị Nhật lật đổ, Nhật đã đầu hàng, rồi chính quyền Việt Nam đương nhiệm là chính phủ Trần Trọng Kim đ4 từ chức, đã bị Việt minh cướp lấy bằng một cuộc biểu tình và một bản thông cáo liệt kê danh sách của 9 ủy viên thuộc Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Lâm Thời, gọi tắc là Lâm Ủy Hành Chánh, trong đó có 8 ủy viên thuộc đảng Cộng Sản hay các tổ chức ngoại vi của Cộng Sản và chỉ một người độc lập. Trần Văn Giàu là chủ tịch kiêm ủy trưởng quân sự của chính quyền lâm thời này tại miền Nam. Thế là tất cả các tôn giáo, đảng phái, tổ chức, đoàn thể yêu nước tại miền Nam lúc đó bị ở thế ngoài chính quyền, thế đối lập với chính quyền và bị tiêu diệt. Và đây là điều không ai ngờ đến, mọi người yêu nước đều có thiện chí cộng tác, đoàn kết để chống kẻ thù chung không ai nghĩ đến chức tước, địa vị, quyền lợi các nhân phe đảng riêng tư. Tâm trạng chung cũng là tâm trạng của Nguyễn Thái Học khi Việt Nam Quốc Dân đảng chuẩn bị khởi nghĩa, ông nhận được báo cáo là các đảng viên Cộng Sản đã mật báo cho Thực Dân Pháp các hoạt động của đảng ông, ông đã đập tay xuống bàn nói: "Tôi không tin những người anh em Cộng Sản lại muốn ám hại chúng ta". Chính trị truyền thống Việt Nam đã hoàn toàn bị đảo lộn với sự du nhập vào Việt Nam của chủ nghĩa và đảng Cộng Sản, lấy nguyên tắc độc quyền chính trị và tiêu diệt đối lập chính trị làm mục tiêu chính trị quan trọng nhất. Nguyên tắc bá đạo này về sau được anh em Ngô đình Diệm, Nhu và Cẩn, cũng là những kẻ bị đầu độc bởi một ý thức hệ cực đoan, cuồng tín, bất khoan dung khác của Tây Phương, triệt để áp dụng để tiêu diệt đối lập và nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các hoạt động và các tổ chức Huỳnh Phú Sổ tham gia trong các năm 1945, 46, 47 như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, Việt Minh, Mặt Trận quốc Gia Liên Hiệp... đều không đi ngoài mục đích tranh đấu cho sự độc lập, thống nhất của Việt Nam, hy sinh tất cả cho sự hòa giải và đoàn kết dân tộc. Như ông, tuy là Giáo Chủ một tôn giáo và đã từng làm Chủ Tịch của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, quy tụ tất cả các lực lượng kháng chiến chống Pháp lúc đó tại miền Nam, trong đó có cả Việt Minh, nhưng về sau ông đã "tham chính" với một chức vụ rất khiêm tốn là "Ủy Viên đặc Biệt" của Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ (do Việt Minh lãnh đạo), việc "tham chính" rất nhún nhường này chỉ nhằm mục đích tạo sự hòa giải và đoàn kết để chống Pháp. Trong khi đó, cùng thời, Giám Mục Lê Hữu Từ cũng "tham chính" với chức vụ "Cố Vấn Chính Phủ" trung ương, tức chính phủ Hồ Chí Minh. Việc "tham chính" này của Huỳnh Phú Sổ có một ý nghĩa hòa giải và đoàn kết rất lớn lao nếu ta biết rằng chính ông đã bị Việt Minh mưu hại, chính em ruột của ông và các tín đồ thân tín nhất của ông bị xử tử tại sân vận động Cần Thơ, chính các đồng chí thân thiết nhất của ông bị Việt Minh sát hại hàng loạt. Thế nhưng, mãi cho đến 50 năm sau của thời điểm 45 và 20 năm sau của thời điểm 75, ngày hôm nay, năm 1995, những người Cộng Sản giáo điều vẫn không một chút xúc động, hồi tâm trước thiện chí hòa giải, đoàn kết tột cùng của ông và cho mãi đến hôm nay, họ vẫn cấm chỉ Phật Giáo Hòa Hảo, một tôn giáo đặc thù Việt Nam, kết tinh trong sáng của truyền thống văn hóa, đạo đức Việt Nam, với một vị Giáo Chủ tràn đầy lòng yêu nước, tinh thần nhân ái, khoan dung, hòa giải, đoàn kết dân tộc, sinh hoạt như một tôn giáo bình đẳng tại Việt Nam, với một Giáo Hội hợp pháp như các tôn giáo khác, trong khi họ vẫn cho phép Thiên Chúa giáo, một tôn giáo Tây Phương cấu kết chặt chẽ với Thực Dân Pháp suốt hơn 80 năm trời, được tự do sinh hoạt, có một Giáo Hội hợp pháp, và nhất là giáo hội này được hưởng nhiều đặc quyền mà tất cả các tôn giáo khác tại Việt Nam, kể cả Phật Giáo, đều không có.[/TD] [TD][/TD] [/TR] [TR] [TD] [/TD] [/TR] [/TABLE]
B/ Nổ lực đoàn kết, thống nhất Phật Giáo. Nổ lực kết hợp Phật Giáo là điều mà tất cả tăng, ni, Phật tử có ý thức đều thấy là quan trọng, cần thiết. Khởi đi từ các tăng sĩ Khánh Hòa, Thiện Chiếu cuối thập niên 20, các nổ lực kết hợp Phật Giáo Việt Nam đều thất bại. Cho mãi đến ngày 6 tháng 5 năm 1951, một sự kết hợp tương đối mới được hình thành qua việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Từ đàm, Huế, quy tụ ba tập đoàn cư sĩ và ba tập đoàn tăng già của Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc. đại Hội đã suy cử thiền sư Tịnh Khiết làm Hội Chủ (Ngài cũng là vị Tăng Thống đầu tiên của PHPGVNTN) và thiền sư Trí Hải làm Phó Hội Chủ. Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam công bố một bản tuyên ngôn lịch sử rất hào hùng, cảm động: "Bánh xe Phật Pháp xoay vần tren khắp quốc độ Việt Nam đến nay đã gần 20 thế kỷ. Nhân tâm, phong tục, văn hóa, chính trị trong nước đều đã chịu ảnh hưởng rất sâu xa của Phật Giáo. Tăng đồ và thiện tín từ Bắc vào Nam, một lòng quy ngưỡng đức điều Ngự Thích Ca Mâu Ni, sống trong tinh thần từ, bi, hỷ, xã và luôn luôn lo toan xây dựng hòa bình... Hỡi toàn thể Phật tử Việt Nam, chúng ta hãy san bằng những hình thức sai biệt, cùng chung sức chung lòng để làm tròn sứ mệnh kiến tạo hòa bình, gây mầm an lạc và nêu cao ngọn đuốc trí tuệ của đức thế Tôn". Tuy nhiên đây chỉ là sự kết hợp hình thức vì các tập đoàn Phật giáo vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và sự sinh hoạt độc lập của mình. Mãi cho đến cuối năm 1963 và đầu năm 1964, một sự thống nhất khá đầy đủ mới được thành tựu qua việc hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Gần 30 năm trước đó, Huỳnh Phú Sổ đã kêu gọi kết hợp và thống nhất PGVN qua việc thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội vào đầu năm 1945, ngay sau khi ách thống trị của Thực Dân Pháp bị lật đổ bởi cuộc đảo chánh của quân đội Nhật. Trong thòi Thực Dân, Phật giáo bị kỳ thị, đàn áp và không được tự do tổ chức, sinh hoạt như một giáo hội bình đẳng với Thiên Chúa Giáo. Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật Học chỉ thuần túy là một hội Phật học và phải do ông Trần Nguyên Chấn, một người làm việc ở Phủ Thống Soái Nam Kỳ, đứng ra xin phép mới được hoạt động, còn Phật giáo Hòa Hảo không được quyền sinh hoạt hợp pháp và Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ bị quản thúc, lưu đày. Nên sau khi chính quyền Thực Dân bị sụp đổ, với tư cách "một tín đồ trung thành của đức Phật Thích Ca Mâu Ni" và với tư thế Giáo Chủ PGHH, vào tháng tư năm ất Dậu 1945, Huỳnh Phú Sổ thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội để đoàn ngũ hóa Tăng, Ni, Phật tử toàn quốc. ông đã viết tôn chỉ của VNPGLHH như sau: "Liên hiệp các tôn phái đạo Phật, các nhà sư, các tín đồ, các nhà trí thức có xu hướng về Phật giáo để: - Tìm cách nâng cao tinh thần đạo Phật. - Tìm những phương tiện cứu gíp kẻ nguy nàn vì thời cuộc gây ra. - Giúp đỡ lẫn nhau trong việc hôn, quan, tang, tế. - Binh vực lẫn nhau trong sự tự do tín ngưỡng". Ông cũng nêu rõ điều kiện gia nhập Hội như sau: "Bất luận nhà sư hay cư sĩ, trí thức, bần dân hễ được vó xu hướng rõ rệt về Phật giáo, thành tâm chuẩn nhận cái tôn tôn chỉ trên đây, đều được gia nhập vào Hội, ở tôn phái nào cũng đặng, mặc dầu gia nhập Hội nhưng vẫn giữ được sụ tu hành và cúng kiếng của Thầy mình hay Tôn Phái mình. Các tôn giáo khác muốn liên hiệp, phải có sự bàn bạc riêng". Qua tên gọi lẫn tôn chỉ và điều kiện gia nhập, ta thấy rõ Huỳnh Phú Sổ tự coi mình là một tín đồ Phật giáo, coi Phật giáo Hòa Hảo do ông sáng lập và làm Giáo Chủ là một tôn phái của Phật giáo Việt Nam và ông bày tỏ nguyện vọng cũng như nổ lực vận động sư đoàn kết, hợp nhất Phật Giáo trên toàn quốc. Không những quan tâm việc thống nhất PGVN, ông còn quan tâm đến một vấn đề còn quan trọng hơn vấn đề thống nhất, đó là vấn đề đoàn ngũ hóa Phật Giáo đồ. Thật vậy, đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất, và cũng nan giải nhất của PGVN. Dù các Hội hay các giáo hội Phật Giáo có hợp nhất làm một mà tín đồ không được đoàn ngũ hóa thành một khối có tổ chức, có lãnh đạo, có kỷ luật thì PGVN không thể thích nghi với thời đại và khó phát triển trước sự bành trướng với những phương tiện dồi dào của các tôn giáo Tây Phương. Bởi vậy, trong phần ba của bản điều lệ, ông nhấn mạnh đến Hội Viên của Hội, ông viết: "hội viên phân làm hai hạng: hoạt động hội viên và tương trợ hội viên. a/ Hoạt động hội viên: gồm các nhà sư hay cư sĩ, trí thức có lòng hy sinh đời mình, tài sản mình, mong mở mang nền đạo nghĩa và giúp nhân loại trong sự lầm than. b/ Tương trợ hội viên: gồm tất cả đại chúng có lòng thiện từ, vì gia đình, vì sự nghiệp làm ăn, không thể hy sinh nhất thiết, nhưng có lòng tán dương ủng hộ công việc của Hội bằng tinh thần hay vật chất". Về hệ thống tổ chức, ông hy vọng hình thành một tổ chức Phật Giáo toàn quốc, theo công thức tổ chức chặt chẻ, quy cũ của PGHH, nghĩa là hình thành một nền Phật giáo được đoàn ngũ hóa và thống nhất hóa theo mô hình kim tự tháp, như các giáo hội Tây Phương, từ Nam ra Bắc. ông viết: "Về toàn quốc có Ban Trị Sự Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội cấp hành toàn quốc, về toàn xứ có Ban Trị Sự VNPGLHH chấp hành toàn xứ, về toàn tỉnh có Ban Trị Sự VNGPLHH chấp hành toàn tỉnh... " sau đó là ban trị sự cấp quận và cấp thôn". Các Ban Trị Sự ngoài việc hằng ngày ra, mỗi tháng phải hội họp... vào ngày 15 và 30 âm lịch trong mỗi tháng. Khi các BTS cử xong, phải khẩn cấp lập thêm ban ban: - Ban nghiên cứu đạo Phật - Ban huấn luyện và truyền bá đạo Phật - Ban Chẩn Tế, lo tìm phương giúp đỡ kẻ khốn cùng. 1/ Ban nghiên cứu đạo Phật: Gồm các nhà sư, những nhà thông thái, để hàng ngày tra cứu kinh điển, dịch sách, hay viết sách nói về đạo Phật. 2/ Ban huấn luyện và truyền bá: Gồm các nhà sư, cư sĩ, trí thức hoạt động, đặng Hội phái đi các nơi giảng dạy đạo Phật. 3/ Ban Chẩn Tế: Gồm các nhà hảo tâm từ thiện nam nữ hoạt động, chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo nàn, đói khổ, tật bịnh, hoặc giả thành lập các nhà dưỡng lão nuôi trẻ mồ côi, người tàn tật, nếu có thể được, nên mua trữ thuốc men, vải bô, lúa gạo để dành cho cuộc phước thiện". Cho đến thập niên 40, 50, tín đồ PGVN không được đoàn ngũ hóa và không có một hệ thống tổ chức thống nhất. Việc thiếu đoàn ngũ hóa là khiếm khuyết quan trọng nhất. Dù có thống nhất ở thượng tầng mà hạ tầng cơ sở rời rạc, tín đồ không được đoàn ngũ hóa trong một tập thể có kỹ cương thì việc thống nhất cũng không xiển dương hết được tiềm lực lớn lao của Phật Giáo. Ngược lại, dù không có một giáo hội thống nhất, có giáo quyền và uy tín lãnh đạo được mọi người tuân phục, nhưng nếu Phật Giáo đồ được đoàn ngũ hóa, có thể qua hàng ngàn hội Phật giáo ở địa phương, thì Phật giáo vẫn mạnh và có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Các hội Phật giáo của Nhật, Tàu được đoàn ngũ hóa chặt chẽ, có những hội có hàng triệu hội viên, ngay cả các hội Phật giáo của họ tại Hoa Kỳ cũng có hàng ngàn hội viên, nên có đủ nhân lực và phương tiện để làm việc hữu hiệu trong các lãnh vực tu học, đào tạo tăng tài, hoằng pháp, giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế, cũng như ảnh hưởng vào chính trị. Trong khi đó, từ cả hai ngàn năm nay, PGVN thiếu một truyền thống tổ chức, một kỷ luật sinh hoạt, một kỷ cương và một sức mạnh của một tập thể được đoàn ngũ hóa, có lãnh đạo, có tổ chức, có kỷ luật và có sinh hoạt đều đặn. Cụ thể, trong thời gian này, là các Phật tử phải tham gia vào một hội Phật giáo tại địa phương, đóng nguyệt liễm đều đặn và đến sinh hoạt đều đặn, ít nhất phải một tháng một lần. Tình trạng Phật tử một năm đến chùa 1, 2 lần hay có không đến lần nào, cũng không tham dự một đoàn thể Phật giáo hay một Phật sự nào, cũng không đóng góp định kỳ cho các chùa, các hội Phật giáo hay các Phật sự cần thiết là nguyên nhân chính của tình trạng suy yếu của Phật giáo và suy yếu ngay từ hạ tầng cơ sở, từ mỗi địa phương. Việc thống nhất trên thượng tầng, dù hoàn hảo đến mấy, mà hạ tầng không được xây dựng vững mạnh, tín đồ không được đoàn ngũ hóa chặt chẻ, thì sự thống nhất ở trung ương cũng sẽ không có sức mạnh bao nhiêu. Và dù trung ương không có cơ cấu thống nhất mà mỗi địa phương, mỗi vùng, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi làng, mỗi khu phố đều có các tổ chức Phật giáo, Phật tử tham gia mạnh mẽ các Phật sự tại địa phương thì toàn quốc cũng sẽ có một phong trào Phật giáo hưnh thịnh. Như thế ta thấy, Phật giáo thịnh hay suy chính yếu là tùy và do bởi mỗi tăng, ni, mỗi tín đồ chớ không phải tại hòan cảnh bên ngoài. Dù bị pháp nạn mà toàn thể tín đồ vẫn trung kiên, hết lòng vì đạo Pháp thì Phật giáo vẫn vững mạnh như thường. Dù không bị ai đàn áp, mà đa số tăng, ni, Phật tử đều lơ là, thiếu hiểu biết Phật Pháp, thụ động, bàng quan, chia rẽ thì Phật giáo vẫn suy đồi mà thôi. Thấy rõ nguyên nhân của tình trạng rời rạc, yếu ớt của Phật giáo trong xứ lúc bấy giờ, Huỳnh Phú Sổ, sau khi xây dựng thành công PGHH, một nền Phật giáo được đoàn ngũ hóa, có tổ chức, lãnh đạo, kỹ cương, đã muốn đem kinh nghiệm tốt đẹp này để đoàn ngũ hóa và thống nhất hóa PGVN. ông thấy rõ nhu cầu Phật tử phải tham gia vào một hội Phật giáo, phải có tư cách hội viên, phải đóng nguyệt liễm, phải sinh hoạt hàng tháng như các tôn giáo Tây Phương và các hiệp hội, đoàn thể, tổ chức hiện đại. ông cũng thấy hoàn cảnh kinh tế khác nhau của mỗi Phật tử nên ông quy định về nguyện phí: "Vì có kẻ đủ sức người không, nên nguyệt phí phân làm bốn hạng: - Hạng thứ nhất: 3 đồng - Hạng thứ hai: 2 đồng - Hạng thứ ba: 1 đồng - Hạng thứ tư: 50 xu" Đ[I][I][I]ây cũng là số tiền đáng kể.[/I][/I][/I] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=4] Hiện nay, nhiều Phật tử tại các nước trên thế giới mỗi năm thu vào hàng chục ngàn mỹ kim, mà cả năm không đóng góp được các Phật sự vài trăm đồng. Thật là kém cỏi, thiếu tinh thần, và thiếu ý thức. Theo nguyên tắc của một số tổ chức tôn giáo Tây Phương hay Nhật Bản, thì lý tưởng là mỗi gia đình Phật tử nên đóng góp khoảng 10 % lợi tức thu nhập của mình cho việc đạo, nếu họ không muốn Phật giáo suy yếu, bị dày xéo, chà đạp. Bởi vì việc gì, nhất là những việc nâng cao trình độ của tăng ni và tín đồ, cũng đều cần phải có phương tiện mới thực hiện được. Họ chê tăng, ni kém cỏi nhưng nếu họ không đóng góp vào việc đào tạo tăng tài, mở Phật học viện thì làm sao có tăng ni có trình độ cao? Họ chê Phật giáo không có tiếng nói nhưng báo chí Phật giáo họ lại không mua hay không ủng hộ thì làm sao có tiếng nói nào đưoọc duy trì lâu dài? Họ chê Phật giáo không có kỷ cương, sức mạnh nhưng họ lại không tham gia vào các hội, các chùa, không đóng góp tài chánh cũng không sinh hoạt đều đặn thì trách gì Phật giáo không rời rã, suy yếu? Huỳnh Phú Sổ cũng thấy rõ tình trạng PGVN, cũng như các nước khác, có nhiều tôn phái và tín đồ thường quy tụ quanh những vị tăng, ni có đức độ, uy tín. đây là sắc thái đặc thù của PGVN, ông thừa nhận và bảo vệ truyền thống sinh hoạt này. Hiện nay trên thế giới không nước nào Phật giáo có nhiều tông phái như Nhật Bản nhưng cũng không nước nào Phật giáo thật sự hưng thịnh, phát tiết trong toàn bộ đời sống quốc dân như Nhật Bản. Thật vậy, Nhật Bản bảo tồn nguyên vẹn, và không những thế phát triển đến cùng cực, tất cả tông phái Phật giáo, đa số đều xuất phát từ ấn độ và Trung Hoa nhưng lại thất truyền ngay tại hai quốc gia khởi xướng này, họ còn sáng tạo thêm nhiều tông phái mới, như Nhật Liên Tông, quy tụ cả 2, 3 triệu tín đồ. Ưu điểm của Phật giáo là có vô số pháp môn tu, thích hợp căn cơ, trình độ sai biệt vô cùng của đủ mọi hạng người. Phát triển các tông phái và mỗi tông phái đoàn ngũ hóa chặt chẽ tín đồ của mình, và trên cao hết có một giáo hội hay một tổ chức Phật giáo thống nhất để điều hướng phối hợp các sinh hoạt chung. đó là công thức tổ chức Phật giáo thích hợp nhất, mà Nhật Bản là một điển hình sáng lạn và đó cũng là công thức Huỳnh Phú Sổ đề nghị. Tuy nhiên thời điểm 45, 46 không riêng gì Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo Hòa Hảo, mà toàn bộ Phật giáo Việt Nam, kể cả những vị cao tăng, đã hy sinh tất cả cho cuộc kháng chiến giành độc lập, nên mọi nổ lực kết hợp hay phát triển Phật giáo, hay ngay cả những việc hoằng pháp, cũng đều ngưng trệ để Phật tử, thành phần đông đảo và gắn bó nhất với truyền thống yêu nước, dốc toàn lực chống thực dân Pháp. Bởi vậy Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội đã không thể hoạt động và tồn tại. Không riêng gì Huỳnh Phú Sổ và Phật Giáo Hòa Hảo phải hy sinh việc hoằng pháp và phát triển tôn giáo của mình cho công cộc kháng chiến chống Thực Dân pháp, mà toàn bộ Phật Giáo Việt Nam khắp suốt ba miền Trung, Nam, Bắc cũng đã hy sinh tất cả cho việc cứu nước. Trước 45 toàn quốc đã có gần 10 tạp chí Phật Học và các cơ sở văn hóa, giáo dục, xã hội, từ thiện... Sau 45, tất cả các tạp chí Phật Học đều đóng cửa, cả ngàn tăng sĩ "cởi áo cà sa khoác chiến bào" tham gia kháng chiến và trong tinh thần "tất cả cho kháng chiến cứu quốc", đa số tăng, ni, Phật tử đều tạm đình chỉ các Phật sự và dồn mọi nổ lực cho việc kháng chiến và yểm trợ kháng chiến. đáng tiếc là khác với Huỳnh Phú Sổ muốn xây dựng một phong trào kháng chiến dân tộc và Ađ4 có những nổ lực đáng kể để đoàn kết, hợp nhất các lực lượng kháng chiến quốc gia tại Nam Bộ, các đóng góp, hy sinh lớn lao của toàn thể tăng, ni, Phật tử cho công cuộc kháng chiến, cũng như hầu hết nổ lực kháng chiến của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ, đều được thể hiện trong khuôn khổ và thông qua mặt trận Việt Minh và dưới sự lãnh đạo của chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, quyển ba, cho biết không khí lúc bấy giờ như sau: "Từ Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham gia vào Cách Mạng. Các đoàn thể Tăng Già Cứu Quốc và Phật Giáo Cứu Quốc được thành lập khắp nơi... Báo đuốc Tuệ kêu gọi: "Tăng Ni các hạt mau mau lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc, theo mục đích mà tham gia vào công cuộc cách mạng hiện thời". Bìa sau của số đuốc Tuệ này đăng những khẩu hiệu và những lời kêu gọi sau đây: "Ủng hộ chính quyền Nhân Dân. Mau mau gia nhập đội Quân Giải Phóng Việt Nam. Chống mọi cuộc xâm lăng. Việt Nam độc Lập Hoàn Toàn... Số báo trên là số báo chót của tạp chí đuốc Tuệ, số 257-258 ra ngày 15/8/1945. Những tạp chí (Phật Học) khác ở Trung và ở Nam cũng đều nhất loạt đình bản. Quần chúng Phật tử chấp nhận sự đình trệ của công việc hoằng pháp để tham gia hết lòng vào việc nước. Các đoàn thể thanh thiếu niên Phật tử cũng không còn giữ được những buổi sinh hoạt riêng. Các khuôn Tịnh độ cũng không còn giữ được những buổi sinh hoạt riêng. Tất cả đều đi tham gia vào các tổ chức cứu quốc: Thiếu Niên Tiền Phong, Thanh Niên Tiền Phong, Phụ Lão Cứu Quốc, Tăng Già Cứu Quốc, Phật Giáo Cứu Quốc... Guồng máy hoạtn động của các sơn môn và các hội Phật giáo từ cấp trung ương đến cấp xã đều coi như tạm thời ngưng hoạt động".[/SIZE][/FONT][/I] [I][I][I]][/I][/I][/I]Đó[I][I][I]ng góp cho kháng chiến là tất cả nhân tài, vật lực và tiềm lực của Phật giáo: "Thích Mật Thể làm chủ tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Thừa Thiên... Thích Thiện Minh phụ trách Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc tại Quảng Trị, Thích Trí Quang phụ trách Phật Giáo Cứu Quốc tại Quảng Bình. Tại Bình định, Thích Huyền Quang phụ trách Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc ở đây suốt từ 1945 cho đến 1952" (sau đó ông bị Việt Minh giam cầm từ 52 đến 54).[/I][/I][/I] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=4]Sự hy sinh của Phật giáo, cũng như của toàn dân cho kháng chiến, thật là lớn lao: "Riêng về tăng sĩ, trên 400 thanh niên tăng ni đã bị Thực Dân bắn chết trong khoảng thời gian từ 47 đến 54". Ngay cả những danh tăng như Thích đôn Hậu cũng suýt bị Thực Dân chôn sống nếu không được bà Hoàng Thái Hậu Từ Cung can thiệp. Trước đó, trong thời gian 45/ 46 và trong suốt thời kỳ kháng chiến, hàng ngàn cán bộ Phật giáo, tăng sĩ cũng như cư sĩ, cũng đã bị Việt Minh giết hại, như Hòa Thượng Thích đức Hải, như Hòa Thượng Thích đại Hải, hay bị giam cầm như Hòa Thượng Thích Huyền Quang... Những trang sử đầy máu và nước mắt của Phật Giáo đồ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cực kỳ bi hùng và bi thương: hy sinh tất cả cho kháng chiến và bị giết hại bởi kẻ ngoại thù Thực Dân cũng như bị đâm sau lưng bởi những người Cộng Sản cuồng tín giáo điều. Phản ứng của giới Phật giáo là một số lớn vẫn tiếp tục hy sinh kháng chiến chống Pháp và đồng thời chỉ kêu gọi những người lãnh đạo Việt Minh có một chính sách cởi mở và dung hợp. Dù sự kêu gọi này rất nhẹ nhàng và được trình bày trong tinh thần từ bi, ôn hòa, nhẫn nhục và không thù hận nhưng vẫn không được đáp ứng. Một số khác, bất mãn trước chính sách độc tài, đảng trị, chèn ép, bức hại Phật giáo của Việt minh, đã trở về thành chuyển hướng cuộc tranh đấu cứu quốc của Phật giáo vào môi trường văn hóa, giáo dục và thuần túy tôn giáo. Tất cả các lực lượng dân tộc, từ Phật giáo truyền thống đến Phật giáo Hòa Hảo đã hy sinh hết sức mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và đã gánh chịu những thiệt hại, tổn thất vô cùng to lớn. Truyền thống gắn bó keo sơn giữa dân tộc và đạo pháp suốt 20 thế kỷ đã được khẳng định bi hùng thêm một lần nữa trong giai đoạn kháng chiến cứu quốc 1945-1954. 3/ Xây dựng một Việt nam tự do dân chủ, công bằng và nhân bản qua nổ lực thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng. Tham gia tích cực, quyết liệt vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đó là truyền thống hành động của PGVN và là một điều rất tự nhiên, rất bình thường của một tôn giáo có 2.000 năm lịch sử cùng sống chết, thịnh suy với dân tộc. Huỳnh Phú Sổ không những đã đi tiền phong trong truyền thống yêu nước này, mà còn đi xa hơn nữa: ông đã thành lập một chính đảng vừa có chức năng một đoàn thể chính trị kháng chiến cứu quốc và đồng thời có chức năng của chính đảng đấu tranh cho tự do dân chủ và công bằng xã hội, cách đây gần đúng 50 năm. Ngày 21/9/1946, Huỳnh Phú Sổ và một số trí thức có tinh thần dấn thân, cách mạng và có khuynh hướng dân tộc, tiến bộ, đã công bố việc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng. đây là một bước ngoặc quan trọng trong lịch sử PGVN cũng như trong cuộc đời của Huỳnh Phú Sổ. Qua việc sáng lập Phật giáo Hòa Hảo, qua việc tham gia các lực lượng kháng chiến, và qua việc lập đảng chính trị, Huỳnh Phú Sổ đã đề xướng một lúc ba cuộc cách mạng: cách mạng tôn giáo, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng chính trị - xã hội. ông đã đi trước thời đại rất xa và đi trước cả những nền Phật giáo tiến bộ nhất, như Phật giáo Nhận Bản chẳng hạn mãi đến giữa thập niên 60 mới thành lập Komeito (Công Minh đảng). ông từ giữa thập niên 40 đã hình thành một chính đảng và một chính đảng cấp tiến. Những đầu óc Phật giáo cấp tiến nhất của Việt Nam trong giai đoạn này, như Thích Thiện Chiếu (người đã tham gia rất tích cực cuộc đấu tranh cách mạng chống Pháp) hay Thích Mật Thể (tăng sĩ đầu tiên đã ra ứng cử Quốc Hội trong năm 1946) cũng không thể nào hình dung hay tưởng tượng chính mình có thể thành lập một chính đảng: họ chỉ tham gia một chính đảng do người khác lập ra, hay chỉ tham gia một cơ quan quyền lực do người khác xây dựng. Nhưng điểm đáng kể của Huỳnh Phú Sổ không phải là lập ra một chính đảng, mà ở điểm ông đã xây dựng những nền móng đầu tiên của một chế độ dân chủ đích thực cho Việt Nam và khai mở một phương trời chính trị dân chủ chân chính cho Việt Nam, sau hàng ngàn năm độc tài. Những đóng góp này lại càng quý, càng đáng trân trọng và càng có giá trị khi quốc dân hàng chục năm nay tiếp tục bị lừa dối và bị chà đạp bởi những nền dân chủ giả mạo. Và đó là nguyên nhân chính của mọi sai lầm, mọi tai họa mà dân tộc chúng ta phải gánh chịu suốt trong nửa thế kỷ nay. Thiếu dân chủ, hay nói cách khác nếu chủ quyền đất nước không ở trong tay nhân dân, mà chỉ ở trong tay một thiểu số độc tài, đảng trị, bất khoa dung về ý thức hệ và chính kiến, đó chính là nguồn gốc của mọi thảm trạng nguy hiểm nhất và khủng khiếp nhất. Huỳnh Phú Sổ đã cảm nhận, đã tiên tri số phận đen tối của quốc dân trong độc tài chuyên chế, nên ông đã phải bất đắc dĩ phất lên ngọn cờ tự do dân chủ để gây một ý thức và một phong trào tự cứu. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên đã đưa ra một phương thức sinh hoạt chính trị dân chủ cho Việt Nam và đưa ý thức dân chủ vào hành động chính trị. Trước ông, Phan Chu Trinh đã cổ võ dân chủ nhưng quan niệm dân chủ của Phan Chu Trinh còn mơ hồ, còn là lý thuyết có tính cách mơ tưởng hơn là thực tế. Chính Huỳnh Phú Sổ đã trình bày lý thuyết dân chủ một cách rõ ràng, cụ thể và đưa quan niệm dân chủ vào trong đảng chính trị và sinh hoạt chính trị đương thời. Dù chỉ phôi thai và bị phá hủy bởi các chính thể độc tài của Việt Minh Cộng Sản đệ Tam Quốc Tế, cũng như sau đó của đảng Cần Lao Nhân Vị Thiên Chúa giáo, nhưng tư tưởng và chính đảng Dân Chủ Xã Hội mà ông hình thành là những viên đá đầu tiên của chế độ chính trị dân chủ tại Việt Nam. Huỳnh Phú Sổ đả giải thích việc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng như sau, theo cuốn PGHH Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc: ]"Ngày 21/9/1946, đức Huỳnh Giáo Chủ loan báo một tin quan trọng: Ngài thành lập một đảng chánh trị lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, gọi tắt là Dân Xã đảng. Lý do thành lập: Vài ngày trước khi công bố, đức Huỳnh Giáo Chủ có đòi một số tín đồ tín cẩn từ miền Tây lên, và Ngài dạy rằng: 1. Việt Minh tranh đấu chánh trị, nếu Thầy đem đạo (Phật Giáo Hòa Hảo) ra tranh đấu thì không thích hợp. Vì đạo lo tu hành chơn chất. Nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị, mới thích ứng nhu cầu tình thế nước nhà. 2. Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặt dầu nhận Thầy là một nhà ái quốc nhưng không hề cùng hiệp chung với Thầy dưới danh nghĩa PGHH để lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không thể bỏ đạo quy y PGHH. Vì vậy, Thầy phải tổ chức chánh đảng để anh em ấy có điều kiện tham gia. Họ chỉ phải giữ kỷ luật của đảng mà thôi, còn tôn giáo thì riêng ai nấy giữ. 3. Vậy tất cả anh em tín đồ, nếu thấy mình còn nặng nợ với Non Sông, Tổ Quốc, thương nước thương dân, hãy tham gia đảng (VNDCXHđ) mà tranh đấu. đây là phương tiện để anh em hành xử tứ ân". Chỉ với thông điệp truyền khẩu này, trong một thời gian cực ngắn, phần lớn tín đồ PGHH đều nhất tề tham gia VNDCXHđ và đảng có ngay một lực lượng đảng viên hàng chục ngàn người. đây là hiện tượng hiếm có trong lịch sử chính trị Việt Nam. Xuất phát từ truyền thống từ bi, tự do, bình đẳng của đạo Phật và từ thuyết tứ ân, VNDCXHđ đã vượt qua truyền thống để đến hiện đại: đảng đã dung hòa và tổng hợp hai khuynh hướng chính trị-kinh tế lớn nhất thế kỷ là khuynh hướng tự do dân chủ và chủ nghĩa tư bản với khuynh hướng chính trị-kinh tế xã hội hóa, bảo vệ quyền lợi của giới lao động, nghèo yếu. Quan điểm dân chủ xã hội đươc hoan nghênh và áp dụng rộng rãi trên thế giới từ sau thế chiến đến nay, không những ở các quốc gia trong thế giới thứ ba, các nước Bắc Ấu, Tây Ấu, mà còn có ảnh hưởng sâu đậm tại các quốc gia tư bản khác cũng như tại các nước Cộng Sản. Và hiển nhiên đó là chế độ chính trị-kinh tế thích hợp nhất cho Việt Nam. So với tất cả đảng phái không Cộng Sản đã có mặt lúc đó, không có một lý thuyết chỉ đạo và chỉ nhắm mục tiêu chống Pháp, đòi độc lập, thì đảng của Huỳnh Phú Sổ là đảng tiến bộ nhất vì đã đưa ra một đường lối xây dựng quốc gia thích hợp với thời đại, bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân, đồng thời bảo vệ quyền lợi căn bản và lâu dài của đất nước. điểm đặc biệt hơn nữa là trong bối cảnh mọi người sợ hãi im lặng, dù bất mãn, phẩn nộ trước chính sách độc tài chuyên chế và nhũng sự hát hại tàn nhẫn những người yêu nước khác chính kiến của Cộng Sản đệ Tam, núp bóng trong mặt trận kháng chiến Việt Minh, Huỳnh Phú Sổ và các đồng chí sáng lập VNDCXHđ đã khẳng định một cách chắc nịch và hào hùng: "Việt Nam Dân Xã đảng là một đảng dân chủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: "chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân". đã chủ trương "Toàn Dân Chánh Trị" thế tất đảng chống độc tài bất cứ hình thức nào". điểm đặc biệt hơn nữa là ông đã chống độc tài trong tinh thần khoan dung, từ bi, nhân ái của đạo Phật. Như thế ta thấy rõ những người đầu tiên chống độc tài để xây dựng tự do dân chủ cho Việt Nam chính là những Phật tử, mà Huỳnh Phú Sổ là biểu tượng. Những người Thiên Chúa Giáo La Mã cũng chống Cộng Sản, cùng thời và sau đó, nhưng không phải để xây dựng tự do dân chủ cho Việt Nam, mà rất giống những người Cộng Sản đệ Tam, họ chống Cộng để thiết lập một chế độ độc tài đảng trị, bất khoan dung chính kiến và tàn sát tất cả đối lập chính trị. đảng Cần Lao Nhân Vị và chế độ Diệm-Nhu-Thục-Cẩn từ 1955 đến năm 1963 là một bằng chứng đầy máu và nước mắt. Ta thử nhìn lại khung cảnh hình thành Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng, mà linh hồn là Huỳnh Phú Sổ khi đó chỉ mới 26 tuổi, theo lời tường thuật của ông Trần Văn Ấn, sáng lập viên và uỷ viên trung ương, đặc trách chính trị, đăng trong PGHH Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc: "đức Thầy và chúng tôi đã thảo luận về nguyên tắc thành lập chánh đảng, tức chánh trị hóa quần chúng của đức Thầy, để phần nào chuyên hành đạo thì không trực tiếp tham gia việc đảng, và phần khác thì sanh hoạt hẳn theo công tác đấu tranh của quần chúng. Bây giờ nhắc lại khó được người tin về chuyện chúng tôi thường gặp nhau thảo luận trong những bữa cơm dùng tại các tiệm ăn Tàu ở đường Marins Chợ Lớn, như tiệm Băng Gia Tửu Lầu. Tôi có hỏi qua về chuyện ăn uống của đức Thầy trong bưng, có khi phải ăn mặn, nhưng với chúng tôi, đức Thầy vẫn dùng cơm chay. Tiệm Tàu nào cũng có đồ chay. Bữa đó chúng tôi năm sáu người có hẹ nhau ở tiệm Băng gia vào buổi trưa, không đi chung mà cùng tới một lúc. Bên chúng tôi có ba người, bên đức Thầy cũng có ba người. Sở dĩ hẹn ăn trưa, vì mật thám ít đi lùng bắt... Dùng cơm xong, chúng tôi tỏa ra một người đi một hướng, để rồi hẹn tụ tập ở một địa điểm ở đường Palikao, Chợ Lớn... đức Thầy ở trên một cái lầu dành thờ Phật và tụng niệm của chủ nhà... Xin nói ngay, ông chủ nhà, ông Hội đồng Nhiều tức Nguyễn Văn Nhiều... sau đó đương đêm bị Việt minh vào nhà bắt đi và giết chết, chặt thành nhiều khúc, xác bỏ dọc mương... Chỉ có bảy người, nói chuyện rất nhỏ tiếng, trọn hai ngày như vậy. Chiều ngày thứ ba mới giản tán. Vì ngày thứ ba là ngày xong cả giấy tờ, sau khi đã quyết định. Cả bảy người, người nào cũng nghiêm nghị. đức Thầy là người nghiêm chỉnh hơn cả. Hai đệ tử của đức Thầy cũng ít nói, Nguyễn Văn Sâm vốn sẵn tính bình, suy tư. Nguyễn Bảo Toàn là người có tánh động hơn cả. Kẻ viết bài này thì động tịnh như nhau, vì là người thuyết trình và soạn thảo tài liệu. Người đọc cũng nên để ý về tâm trạng của bốn người chánh yếu để nhận chơn tình trạng cuộc nói chuyện. đức Thầy là người "không học mà biết", người tự sáng, tức là illuminé. Sâm và tôi là người có ngồi ở nhà trư2ơng khá lâu và có đọc sách cũng khá nhiều. Nguyễn Bảo Toàn là người đã làm báo, đóng vai chủ nhiệm (Dân Mới) có ngồi tù Côn đảo chung với Phạm Văn đồng, Phạm Hùng v.v... Vẫn biết đã có nhiều lần nói sơ qua trước, nhưng đây là lần quyết định, nên có quy định ngày giờ, vì không thể ở đây lâu ngày. Ngày thứ nhất, thảo luận tổng quát. Ngày thứ nhì, đi sâu vào vấn đề. Tối lại, giao cho người soạn thảo Tuyên Ngôn và Chương Trình. Sáng ngày thứ ba, hoàn chỉnh chung nhau. Chiều ngày thứ ba, quyết định và giải tán. Mấy câu hỏi của đức Thầy nêu lên về hoàn cảnh nước nhà có thực hiện chánh trị xã hội và dân chủ được chăng? Sự khác biệt giữa nước mình và Tây Ấu? Có tổn thương tôn giáo không? Làm sao đề cao nhân phẩm v.v... Nhơn đây tôi xin bạn đọc chớ quên rằng đức Thầy Huỳnh Phú Sổ là một vị Giáo Chủ. Ưng nghe và thảo luận suốt ba ngày, ưng chánh trị hóa quần chúng của mình, không chấp nhận sự cuồng tín như ta đã thấy ở nhiều tôn giáo từ xưa và hiện nay, không chấp nhận độc tài đảng trị, không bỏ rơi người nghèo khổ, ưng làm những gì để thủ tiêu bất công xã hội, chống Cộng mà không ưng tàn sát, thương người, thương tất cả mọi người: quả tình là hiếm có. Mà sở dĩ có, theo tôi nghĩ, là nhờ truyền thống Phật giáo, nhứt là miền Tây Nam Việt, như đạo Phật Thầy Tây An Bửu Sơn Kỳ Hương..."[/SIZE][/FONT][/I] [I][I][I]Điều đáng nói hơn nữa là trong danh sách 9 ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đầu tiên của Dân Xã đảng, Huỳnh Phú Sổ và 2 tín đồ PGHH là Trần Văn Tâm và Lê Văn Thuận chỉ nhận làm ủy viên có tính cách hổ trợ, còn 6 ủy viên khác nắm giữ hết tất cả những chức vụ quan trọng đều không phải là tín đồ PGHH, mà chỉ là những trí thức, nhân sĩ yêu nước: Nguyễn Bảo Toàn, tổng bí thơ, Nguyễn Văn Sâm, ủy viên ngoại giao, Trần Văn Ấn, ủy viên chính trị, Lê Văn Thụ, ủy viên tuyên huấn... Khi các tín đồ PGHH lo ngại về việc giao trọn quyền lãnh đạo, điều khiển Dân Xã đảng cho những trí thức, nhân sĩ ngoài đạo. Huỳnh Phú Sổ đã trả lời rằng:[/I][/I][/I] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=4] "Phàm đã hợp tác thì nên thành thật. đã tín nhiệm thì phải giao phó nhiệm vụ, đặt để đúng chỗ, xứng với tài năng. Việt cứu nước là việc mình nên ủng hộ người ta làm, chớ đừng tỵ hiềm, tranh giành địa vị mà hư việc lớn. Mình nên thực tâm đem khối quần chúng hùng hậu của Phật Giáo Hòa Hảo mà ủng hộ các chiến sĩ cách mạng tranh đấu cho đất nước". Huỳnh Giáo Chủ không những có tư tưởng lớn, viễn kiến xa rộng, mà còn có nhân cách lớn và tâm hồn thênh thang như hư không, cả khi ông dấn thân vào hoạt động chính trị. Thật là điều hy hữu trong thế kỷ nầy. Chính trị Việt Nam, trong suốt 50 năm nay, là một vũng bùn và vũng máu khổng lồ, bởi sự thống trị hoành hành của những ý thức hệ bất khoan dung và những thủ đoạn lưu manh, tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Với tâm nguyện bồ tát, "Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh", ông đã đi vào địa ngục ác thú đau khổ nhất để cứu nguy đất nước, cứu độ đồng bào nhưng nhân cách trong sáng, độ lượng, đạo đức siêu phàm của ông đã không làm ông bị ô nhiễm, trái lại, đã bừng nở thành một đóa hoa sen khổng lồ, trang nghiêm quốc độ Việt Nam và che bóng cho biết bao thế hệ vững tin và đi tới trên con đường tự do, dân chủ, nhân đạo và công bằng xã hội mà ông đã khai mở qua Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng. Nếu các nhà lãnh đạo quốc gia tại hai miền Nam, Bắc, trước 75, hay toàn nước Việt Nam, sau năm 75, thi hành một chế độ dân chủ xã hội, với tinh thần khoan dung, khai phóng, độ lượng như Huỳnh Phú Sổ đề nghị thì dân tộc đã tránh được biết bao nhiêu tai họa và đất nước đã không "tụt hậu" thê thảm như ngày hôm nay.[/SIZE][/FONT][/I]