Học phật tịnh yếu luật

Thảo luận trong 'Pháp-Luận' bắt đầu bởi Ngoctruc, 7/10/14.

  1. Ngoctruc

    Ngoctruc Member

    HỌC PHẬT TỊNH YẾU LUẬT
    --oOo--

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nam Mô Đại Từ Kim Sơn Phật

    LỜI NÓI ĐẦU

    Thành tâm khấn lạy các đấng Đại Từ, vì thương xót chúng sanh đã lâm phàm khai cơ giáo độ...Pháp vũ đã thấm nhuần vạn loại, hữu tình chủng thảy hồi sinh.
    Riêng về con người bởi quá mê muội tạo nhiều nghiệp chường, phải báo nặng nề; ngỡ là chìm sâu trong bể khổ. Phúc đức thay! gặp được thuyền từ tế độ, nên cố dốc tu hành, vượt qua bể khổ hầu tiến thẳng về cực lạc.
    Nhưng nghĩ đến đồng loại và sanh linh còn biết bao kẻ trầm mình trong biển nghiệp tình thương thúc giục... nay xin đem hạt cát hiểu biết tô bồi vào tòa nhà Phật Pháp để tỏa lòng quyết báo ơn Tam Bảo và cũng để đáp lại lòng chiếu cố của đồng đạo xa gần trong tình:
    …“Thương yêu lẫn nhau như con một cha,
    Dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức’.
    Khi soạn ra tập: “Học Phật Tịnh Yếu Luận’’ nầy, thâm tâm của chúng tôi không mong gì hơn là chúng ta đồng nhận chân giáo lý siêu thượng của Tổ Thầy, rồi cùng nhau tiến tu làm lợi ích cho chúng hữu tình. Nhưng đối với giáo lý uyên thâm mà sự trình bày còn trong suy luận, tin rằng không khỏi có phần kém khuyết, mong các bực cao minh và chư đạo hữu khi xem qua xin vui lòng góp ý, chúng tôi mong đón nhận.
    Chân thành đa tạ quí huynh đệ đã đóng góp lớn lao để hoàn thành tập sách nầy.
    Thành khẩn cùng các đấng thiêng liêng, xin chiếu trì gia hộ cho toàn thể đều chóng thành Đạo quả và tập sách nầy nếu không trái lại với chân lý, nhờ oai lực Từ Bi, khiến cho nó được lưu hành để làm lợi ích quần sinh.


    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    LƯỢC THUẬT NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1
    TU CẦU YẾU THÍCH

    Định nghĩa chữ Tu Cầu​

    Dẫn giải và phân tích phương pháp Tu Cầu
    Khuyến khích Tu cần phải Cầu
    Nhận thức đại khái lợi ích của phương pháp Tu Cầu

    CHƯƠNG II
    CÁCH THỜ CÚNG

    Những ngôi thờ cúng của người Tín đồ P.G.H.H
    Minh dẫn thế nào là mê tín và trí tín
    Sự tôn thờ
    Lý tôn thờ
    Pháp tướng cúng dường
    Pháp tánh cúng dường
    Cách cúng Phật có cả sự lẫn lý

    CHƯƠNG III
    CÁCH LỄ BÁI

    Những lý do lễ Phật
    Đại Bồ Tát cũng chưa bỏ qua sự Lễ Bái
    Tướng Lễ
    Tánh Lễ

    CHƯƠNG IV
    Ý NGHĨA CÁC BÀI NGUYỆN

    Đại khái có 4 phần .
    1- Định ngĩa chữ nguyện, những trường hợp phát nguyện, ba trình độ của người nguyện
    2- Định nghiã những từ ngữ trong các bài nguyện
    3- Giải rộng ý nghĩa các bài nguyện
    4- Phần tóm đại ý các bài nguyện

    CHƯƠNG V
    BIẾT NIỆM DI ĐÀ

    Đại khái có 5 phần
    Niệm Phật phải có lòng lành
    Niệm Phật phải có những Đức hạnh như Phật
    Niệm Phật phải biết phát tâm Bồ Đề
    Niệm Phật phải nhứt tâm Tín Nguyện
    Chú giải đoạn phương pháp niệm Phật, trong bài “ Chư Phật có bốn đại đức’’.

    CHƯƠNG VI
    PHƯƠNG THỨC TỊNH NIỆM

    Những cách Tịnh tọa
    Những phương thức trì niệm lục tự
    Những cách đối trị chứng hôn trầm
    Những phương pháp đối trị lòng vọng tưởng
    Chọn cảnh tu niệm
    Niệm Phật trọn đời
    Ba hạng người có niệm Phật mà không được vãng sanh
    Tứ chưởng vãng sanh
    Phân tách đạo khái những trường hợp nhồi quả của người tu
    10-Bốn giai đoạn tu chứng của người niệm Phật

    CHƯƠNG VII
    LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI NIỆM PHẬT

    Người niệm Phật định tâm sẽ được sự mầu nhiệm
    Người tu niệm mong linh nghiệm sẽ tai hại
    Phân tách đại khái 3 trường hợp nội tâm và ngoại cảnh phát hiện
    Những điều lợi ích của người niệm Phật thể theo kinh
    Mười cách chết không thể niệm Phật được, nếu không sớm tu niệm.
    Người niệm Phật đại khài có 16 điều lợi ích thế gian, và 4 điều lợi ích xuất thế gian theo giáo lý PGHH.

    CHƯƠNG VIII
    HỘ NIỆM VÃNG SANH

    Những điều cần dự bị trước lúc lâm chung
    Mười khoảng hộ niệm cần yếu cho người lâm chung .

    CHƯƠNG 1
    TU CẦU YẾU THÍCH

    “ Tu cầu trăm họ hiền lương,
    Đồng thinh niệm Phật tai ương chẳng còn ’’.

    (Lời của Đức Huỳnh Giaó Chủ)

    HỎI: Xin cho biết hai chữ TU CẦU có ý nghĩa như thế nào, mà chúng tôi thường nghe, thấy trong Sám Thi của Đức Huỳnh Giáo Chủ?
    ĐÁP: Thưa, chữ Tu Cầu có ý nghĩa sâu rộng vô cùng, khó thể minh giải hết ý trong đoạn văn ngắn,
    nhưng thể theo sự tham khảo... chúng tôi xin đem khả năng hiểu biết có hạn để trao đổi mà thôi. Danh từ nầy theo Hán học thì chữ TU, có nghĩa trau sửa; CẦU: là mong muốn. Còn theo Phật Học, TU: là bỏ dữ về lành, bỏ mê về giác; CẦU: là cầu vãng sanh cho mình cho người và nguyện cầu báo đáp tứ đại trọng ân như (trong bài Tây Phương ngũ nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ đã dạy). Đó là ý nghĩa đại khái của hai chữ TU CẦU.


    HỎI: Vừa nghe qua định nghĩa chữ TU là bỏ dữ về lành bỏ mê về giác: Nhưng thế nào là bỏ dữ về lành, bỏ mê về giác? xin giải rõ.

    ĐÁP: Bỏ dữ về lành là bỏ tất cả những điều ác, do ba nghiệp: thân, khẩu và ý phát sanh. - Sát sanh, 2- Đạo tặc, 3- Tà dâm, 4- Lưỡng thiệt, 5- Ỷ ngôn, 6- Ác khẩu, 7- Vọng ngữ, 8- Than lam, 9- Sân nộ, 10- Mê si. Khi đã dứt xong mười điều ác là ta trở về lành rồi đó, như Đức Thầy có nói:
    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp ’’.
    (Khuyến thiện)

    Chúng ta cũng nên hiểu rằng, trừ mười điều ác là để vạn đền bốn ân lớn: - Ân Tổ tiên cha mẹ - Ân đất nước – Ân Tam Bảo – Ân đồng bào nhân loại.
    Đạo lý nầy thiết tưởng con người ai ai cũng phải biết và phải làm. Đức Huỳnh Giaó Chủ dạy: “Sanh ra ở đời, con người dầu muốn dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên, định luật ấy gồm vào một chữ Đạo, Đạo của con người kêu bằng Đạo nhân, và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết. Muốn làm tròn nhân đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập ác’’.
    Làm theo lời chỉ giáo nầy mới thật là người có tu và hiểu được một phần ý nghĩa của danh từ “HỌC PHẬT TU NHÂN’. Còn bỏ mê về giác là bỏ tất cả những điều ưa thích mê lầm, chẳng hạn như Tứ đổ tường (tửu, sắc, tài, khí ). Đức Thầy dạy:

    “Người tu phải lánh hơi men,
    Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình’’.

    hay là
    “Chốn hồng trần nhiều cảnh nhuốc nhơ,
    Rán hiểu rõ huyền cơ mà tránh
    Chốn tửu điếm ta nên xa lánh
    Tứ đổ tường đừng có nhiễm vào
    Người tránh xa mới gọi trí cao
    Sa bốn vách mang điều nhơ nhuốc ’’.


    Lại còn biết bao biết ưa thích mê lầm khác đã làm cho con người sống say chết ngũ. “Ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đằm lục trần; ý thức lầm lạc ấy khiến các tró nhận lấy cái thân ô trược nầy là thật, cái cảnh phú quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân cô thường tạm mượn do tứ đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn. không chi bền chắc, còn tội chướng thì linh hồn phải chịu luân chuyển báo đền’’
    (Trong bài Lời Khuyên bổn đạo)

    Vậy bõ mê về giác là bỏ những ý thức mê lầm, để trở về với chánh niệm quang minh. Thế mới gọi là người tu. Tới đây ta mới bước vào ngõ tôn chỉ “HỌC PHẬT TU NHÂN’’ của Phật Giáo Hòa Hảo.

    HỎI: Qúi vị đã thử làm thỏa mãn chúng tôi về nghĩa chữ TU. Xin cho hỏi tiếp: Đã biết bỏ dữ về lành bỏ mê về giác mà không thoát luân hồi và thành Phật được hay sao? lại còn phải nguyện cầu lễ bái cho lao nhọc.
    ĐÁP: Tới đây chúng tôi trình bày về ý nghĩa hàm xúc của hai chữ TU CẦU. Tu Cầu là danh từ rất đặc biệt, trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo được Đức Huỳnh Giaó Chủ thường áp dụng việc giáo hóa nhân sinh trong thời Hạ Ngươn Mạt Pháp nầy. Theo chỗ nhận biết TU CẦU là danh từ dành cho cả Thiền lẫn Tịnh.
    TU: Là chỉ môn tự lực (Thiền Tông) sức mình tự độ. Nói rõ hơn thiền giả phải tự tu tập cho đến khi nào nghiệp sạch tình không, mới thoát được sanh tử luân hồi sáu nẻo.
    CẦU: Là chỉ về phần tha lực (Tịnh Độ Tông). Tha lực: là sức Phật tiếp độ. Vậy tu cầu là gồm có tự lực và tha lực. Thử hỏi có cách tu nào có thể so sánh kịp.
    Ngài Vĩnh Minh Đại Tổ thứ sáu của Liên Tông rất tán thán về cách tu nầy, được bộc hiện qua bài Kệ sau đây:
    Hữu Thiền hữu tịnh Độ.
    Du như đái dác Hổ.
    Hiện thế vi nhơn sư.
    Lai sanh tác Phật Tổ.

    Nghĩa:
    Có Thiền có Tịnh Độ.
    Như thêm sừng Cọp mạnh.
    Hiện đời làm Thầy người.
    Đời sau làm Phật Tổ.

    Còn đứng riêng về môn Tịnh Độ, căn cứ vào tông chỉ (Tín, Nguyện, Hạnh) mà phân tách, chữ TU thuộc về hành môn (niệm Phật làm lành), chỉ cho tự lực, CẦU: gồm có Tín và nguyện môn. Đây là phần nương về tha lực. Nếu niệm Phật mà không có lòng Tín, Nguyện thì không thể vãng sanh. Còn bỏ dữ về lành là chỉ có phước báo ở cõi Nhơn Thiên mà thôi, nếu không nhứt tâm niệm Phật và có lòng Tín Nguyện chân thiết thì không làm sao thoát khỏi luân hồi để sanh sang Tịnh Độ. Nên tu cần phải cầu, có thể nói là cầu lý tưởng, vì nếu tu mà không có mục đích giải thoát (Niết Bàn) làm lý tưởng thì việc tu đâu có tinh tấn chuyên cần, Đức Giáo Chủ có viết:

    “Nhìn Phật Giáo mà tìm cái lý,
    Coi tại sao ta phai tu hành
    Vì yêu dân Ta kể ngọn ngành
    Khuyên lê thứ làm lành mà tránh
    Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh
    Về Chốn ni xa lánh hồng trần’’.

    (Quyển 4)

    Còn những tu tự lực đã giác ngộ được, không còn sanh tử luân hồi trong Tam giới, nhưng còn cái khổ biến dịch và chỗ mê lầm (Trần Sa hoặc). Cho đến các vị Bồ Tát đã vượt trên chỗ mê lầm của phàm phu và nhị thừa, tức là chấp hữu và thiên không, nhưng vẫn còn vô minh vi tế. Nên các bực Thánh từ Thinh Văn cho đến Bồ Tát đều cũng phải cầu sanh Tây Phương mau chứng vô sanh nhẫn, nhứt sanh Bổ Xứ, để rộng độ chúng sanh hầu có tiến thẳng lên ngôi Phật. Các bậc Thánh mà còn như thế, chúng ta há lại không cầu sanh?
    Vả lại trong lý nhứt thể bình đẳng, thì dầu có cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Quốc của Đức Phật Di Đà, cũng là sanh về thế giới của tâm mình chớ đâu có chi khác mà ngần ngại không chịu TU CẦU.
    Lời minh huấn của Đức Giáo Chủ Kim Sơn Phật về pháp TU CẦU:

    “Tu cầu thuận gió hòa mưa
    An hòa nhơn vật phước thừa trời ban
    Tu cầu thoát chốn gian nàn
    Cầu trong chư quốc chư bang giao hòa
    Tu cầu yêu nước lợi nhà
    Cửu Huyền Thất Tổ Diêm La thoát hình
    Tu cầu Phật hóa tánh tình
    Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao
    Tu cầu cửa Phật đặng vào
    Gót sen thong thả xiết bao thanh nhàn
    Tu cầu bịnh tật tiêu tan
    Từ bi hỷ xả Phật ban phép lành
    Tu cầu thoát khỏi tử sanh
    Nương theo Phật Quốc lời lành hằng nghe".


    HỎI: Qua pháp “Tu Cầu’’ thật là mầu nhiệm, đem đến sự an lạc; cùng lợi ích hiện tại và tương lai cho mình, cho người và muôn loài vạn vật; kẻ sống người thác đều được siêu hóa. Chẳng những lợi ích thế gian mà còn được lợi ích xuất thế gian (Liễu sanh tử), thật vô cùng quí báu không thể nghĩ bàn
    Chúng tôi lấy làm hạnh hỉ, quyết chân thành phát tâm để phụng hành theo giáo lý nầy, nhưng chưa hiểu đường lối và cách tu ra sao? Vậy mong nhờ quí vị giải rõ cho chúng tôi được biết.
    ĐÁP: Phương pháp tu cầu do Đức Huỳnh Giáo Chủ đã dạy thì hiện nay có quyển “Sấm Giảng Thi Văn toàn bộ’’, trong đó gồm có:
    QUYỂN 1 – SẤM GIẢNG KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM,
    QUYỂN 2 – KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG,
    QUYỂN 3 – SÁM GIẢNG,
    QUYỂN 4 – GIÁC MÊ TÂM KỆ,
    QUYỂN 5 – KHUYẾN THIỆN,
    QUYỂN 6 – CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO
    cũng gọi là TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO, và các bài văn, bài thi... Nhưng riêng quyển “TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO” thì Đức Giáo Chủ có dạy rất rõ về nghi thức THỜ PHƯỢNG, SỰ LỄ BÁI,CÁCH TU HIỀN từ thấp đến cao, chúng ta muốn vào đạo hãy tìm đọc sẽ hiểu đầy đủ hơn.
    Ở đây chúng tôi xin đại lược dẫn ra những yếu chỉ của cách tu và nghi thức thường hành để trao đổi cùng quí vị mà thôi. Đó là: - CÁCH THỜ CÚNG – CÁCH LỄ BÁI – Ý NGHĨA CÁC BÀI NGUYỆN – CHÁNH HẠNH VÀ TRỢ HẠNH CỦA MÔN TỊNH ĐỘ - PHƯƠNG THỨC TỊNH NIỆM – LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI NIỆM PHẬT – CÁCH HỘ NIỆM CHO NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG.

    TÓM LƯỢC DIỄN CA

    Tu là bỏ dữ về lành
    Bỏ mê về giác thiệt hành mới tu
    Cầu là nguyện Diêm Phù mới khỏi
    Cầu là sanh về cõi Di Đà
    Tứ ân nguyện đáp phận ta
    Tu cầu theo pháp mới là trả xong
    Tu: tự lực; cầu mong tha lực
    Có con đường Học Phật tu nhân
    Lợi ích siêu xuất vô ngần
    Đức Thầy giáo hóa nhiều lần Sám Thi.


    CHƯƠNG 2
    CÁCH THỜ CÚNG

    “Thờ Phật đạo tỉnh cơn ác mộng,
    Thoát mê đồ thường phóng quang minh’’

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    HỎI: Sau khi đã qui y, người tín đồ PGHH thờ phượng như thế nào cho đúng?
    ĐÁP: Thể theo sự chỉ dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ, quyển “TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO’’, về cách thờ phượng, người tại gia cư sĩ gồm có các ngôi thờ cúng như sau:
    Thờ Cửu Huyền Thất Tổ, (ngay chính giữa nhà).
    Thờ Tam Bảo (ở trên, ngay chính giữa nhà).
    Thờ bàn Thông Thiên (trước sân nhà).
    Nếu hoàn cảnh hay chỗ ở không đủ tiện nghi để thờ phượng thì chỉ một bàn thông thiên cũng được.

    HỎI: Chúng tôi thấy có người thờ ba ngôi nói trên mà còn thờ thêm ông độ mạng, bà mẹ sanh, thần tài. v.v…Như vậy có được hay không?
    ĐÁP: Theo nghi thức của PGHH thờ như vậy không thể được. – Tại sao vậy? – vì Đức Thầy đã có dạy “Ngoài sự thờ Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà không rõ căn tích’’.
    Qua lời thánh huấn ta thấy có hai điểm quan trọng thờ kính cần phải biết:
    Là căn tích của vị mình thờ ở đâu? vào thời nào?
    Tu chứng ra sao? có công hạnh gì đối với đời và có cứu khổ được cho nhân loại chúng sinh không?
    Chẳng hiểu được như vậy mà vội đi thờ cúng thì dầu là thờ Phật cũng trở thành mê tín. Bởi Đức Thầy có dạy: Cũng đừng thấy người ta thờ Phật, rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô đạo nhắm đó mà bài bác, nhạo chê hủy bang và cũng rất uổng cho cái công trình thành kính lễ bái cũa ta vậy.
    Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học đạo nào… hay theo ông thầy nào, ta hãy suy ngẫm phán đoán kỹ càng; chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo đạo ấy Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả’’.
    (Trong việc tu thân xử kỷ)

    Vì vậy thờ Phật là để biểu lộ lòng tin, nhưng lòng tin kia phải là trí tín mới thật là người biết tin Phật. Kinh bảo: Lòng tin làm nên đạo, là mẹ sanh ra các công đức, lòng tin hay nuôi lớn các căn lành, lòng tin hay vượt lên các đường ma, lòng tin hay ra khỏi biển sanh tử, lòng tin hay thành tựu đạo Bồ Đề, lòng tin hay đắc nhập tam muội “Tín vi đạo, nguyên công đức mẫu; tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn, tín năng siêu việt chúng ma lộ, tín năng ly xuất sanh tử hải, tín năng thành tựu đạo Bồ Đề, tín năng đắc nhập Tam Ma địa.’’
    (Hoa Nghiêm Kinh)

    Lòng tin có công năng và công đức như thế, nên người thờ Phật cần phải có lòng thành kính thành. Tóm lại, thờ Phật có hai phần: Sự tôn thờ và lý tôn thờ.
    1- SỰ TÔN THỜ: là thờ kính sự tướng có thấy được. Như thiết lập bàn thờ Phật, lên cốt tượng Phật để thành kính lễ bái.

    2- LÝ TÔN THỜ: là đem đức tin trong sạch để thờ Phật, đem lòng thành để nghe theo lời dạy, không đợi đến chổ thờ mới kính, gặp Phật mới vâng lời; mà nơi nào, giờ phút nào cũng kính Phật, cũng vâng làm. Để làm sáng tỏ đạo lý nầy chúng ta hãy nên nghe lời dạy của Đức Phật và hãy đem lòng lành mà hành động y theo lời phán dạy của Đức Phật. (Trong việc tu thân xử kỷ)

    Sự tôn thờ thuộc về tín, lý tôn thờ thuộc về thành; mà gồm cả sự lý thì mới được gọi là tín thành.
    Đã thờ Phật ta hãy thận trọng đối với chỗ thờ cúng. Nên để tâm săn sóc cho sạch sẽ chỗ tôn kính từ Ngôi Tam Bảo, bàn Thông Thiên không nên để bụi bám nhện giăng, bàn thờ ông bà cũng như thế. Vì có sự mới hiểu được lý, có lý thì mới thành, mà sự lý viên dung ấy gọi là Đạo.
    HỎI: Vừa qua đã biết được cách thờ Phật, xin cho biết thêm về cách cúng Phật như thế nào cho hợp lẽ?
    ĐÁP: Về cách cúng Phật đại khái cũng gồm có 2 phần: pháp tướng cúng dường, và pháp tánh cúng dường.

    1- PHÁP TƯỚNG CÚNG DƯỜNG: là đem tài vật sở hửu của mình hiến dâng cho Phật và đệ tử Phật để chi dụng. Như tứ sự cúng dường: 1- Thức uống ăn, 2- Đồ mặc, 3- Thuốc men, 4- Gường nghỉ. Đó là thời Đức Phật trụ thế; còn như nay, người tại gia cư sĩ sớm chiều cũng có bổn phận cúng dướng ngôi Tam Bảo và bàn Thông Thiên bằng hoa đăng, hương, nước. Và đồng thời ủng hộ các sư tu hành chân chính.
    2- PHÁP TÁNH CÚNG DƯỜNG: Đem lòng thành để tinh tấn tu hành, lại còn sẵn sàng hy sinh cho Phật Pháp được tỏa sang làm lợi ích cho quần sanh. Hành được Pháp tướng cúng dường là phát được Huệ tâm. Nên cúng Phật ta cũng cần phát triển cả tướng lẫn tánh.
    Chúng tôi cón nghe một câu chuyện như thế nầy: có một nữ tín đồ của Đức Thầy ở quận Tân Châu (Châu Đốc), bà có lòng muốn cúng dường cho Thầy một bộ đồ, nên chịu khó chọn hang rất tốt, thuộc loại cẩm tự dệt bằng tơ, y theo đồ cũ bà cắt may rất cẩn thận. Khi có dịp đi Sài Gòn để thăm Đức Thầy bà mang theo, lúc bấy giờ Đức Thầy ở đường Lefève. Khi đến nơi ra mắt Đức Thầy và thăm hỏi xong, bà liền trình bày bộ đồ đã gói kỹ trong nhiều lớp giấy và xin Thầy thọ nhận.
    Đức Thầy ngó ngay bà với sắc mặt không vui, Đức Thầy nói:
    - Tôi đâu có mặc đồ hàng, vì nó bằng tơ bà biết không, bộ đồ nầy có rất nhiều chúng sanh đã thiệt mạng trong chảo nước sôi mới làm ra đặng!!
    Nghe Đức Thầy nói, trên gương mặt bà lộ sự buồn khổ thất vọng , bà gắng gượng nói thêm:
    - Xin Thầy nhận giùm cho con.
    Thấy thế, Thầy không nỡ khước từ, liền bảo một người khác đem cất vào trong. Được Đức Thầy nhận bộ đồ bà vô cùng vui mừng rồi từ tạ ra về. Mấy hôm sau, có người theo hầu Thầy mặc đồ đã rách, Thầy liền kêu lại và lấy bộ đồ hàng hôm trước để cho người nầy.
    Qua mẫu chuyện trên ta thấy có vài điều cần lãnh hội:
    - Một là cúng Phật, ngoài sự cung kính cón cần phải hiểu ý Phật để làm theo – thiệt lòng tinh tấn tu hành – mới thật là người biết cúng dường cho Phật. Kinh Pháp Hoa bảo: “Thị chơn tinh tấn thị danh chơn pháp, cúng dường Như Lai’’. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:

    “Tới với Ta chớ đem đồ cúng
    Chỉ đem theo hai chữ thành lòng .
    Chẳng có cần trà, quả, hương, nồng,
    Mong sanh chúng từ lòng sám hối’


    - Hai lãnh hội Đức Thầy qua lòng từ bi vô lượng vô biên. Ngài từ chối không nhận bộ đồ hàng bằng tơ. Đó là vì lòng đại bi nên không nỡ ăn mặc trên sự đau khổ của chúng sinh. Còn nhận bộ đồ là vì lòng đại từ không nỡ nhìn sự thất vọng cùa nữ tín đồ. Nên nói Bồ Tát và Phật vì chúng sanh mà ăn, vì chúng sanh mà mặc, vì chúng sanh mà ở; chớ thật ra Ngài không có ý muốn ăn, muốn mặc, muốn ở cõi Ta Bà.
    Chúng ta hãy nghe Pháp cúng dường vô giá qua bốn câu tứ tuyệt sau đây:

    “Phận tớ xác phàm tớ sẽ dưng
    Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng.
    Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,
    Cũng nguyện Đạo mầu sẽ chấn hưng ’’.

    (Hiến Thân sãi khó)

    HỎI: Vừa nghe giải qua cách cúng Phật rất rõ ràng, nhưng chúng tôi còn có điều hoang mang, vì cũng có người trong tín đồ PGHH mà cúng Phật bằng những món trà, bánh, dưa, quả… Như vậy có hợp lý theo lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ chăng?
    ĐÁP: Để giải quyết vấn đề này cho minh bạch, chúng ta hãy nghe lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Về cách cúng Phật chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, cón nhang dùng đặng báng mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng’’.
    (Tôn Chỉ Hành Đạo)

    Lời dạy trên chúng ta cũng nên hiểu “tiêu biểu’’ là thể hiện... bài tỏ: “Sự trong sạch’’ tức là không tham ái, sân nộ và mê si. Còn chữ “Tinh khiết’’ là tấm lòng trong trắng không chút bợn nhơ vì trần cảnh.

    TÓM LƯỢC DIỄN CA

    Tin Phật phải hiểu lời Phật dạy
    Sao theo Ngài sao lại phượng thờ?
    Người tu không thể mù mờ
    Mới là hợp lẽ tôn thờ Phật gia
    Thờ cúng Phật nếu là thành tín
    Sự tôn thờ, lý kỉnh bến trong
    Tưởng đâu tánh đó song song
    Cúng thờ thì phải cả trong lẫn ngoài .


    CHƯƠNG 3
    CÁCH LỄ BÁI

    “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai’’.

    (Lời Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    HỎI: Đã biết qua về cách thờ cúng Phật, xin cho biết thêm về cách cúng bái, nhờ quí vị cho chúng tôi biết tại sao tín đồ nhà Phật phải lạy Đức Phật?
    ĐÁP: Người tín đồ nhà Phật lạy Đức Phật, vì có bốn lý do chánh sau đây:
    1- Vì ân đức cao rộng khôn cùng của Phật nên phải lạy,
    2- Vì muốn học theo hạnh Đức Phật nên phải lạy,
    3- Vì muốn sám hối tội chướng nên phải lạy Phật,
    4- Vì muốn trừ tánh cống cao ngã mạn, nên phải lạy Phật.

    1- Đối với ân đức Phật, dầu ta có lễ lạy suốt kiếp hay trải qua vô lượng hằng sa kiếp cũng không thể đền đáp trọn. Tại sao vậy? – Vì lòng từ bi quảng đại vô cùng tận của Đức Phật đối với chúng ta, thiết tưởng người Phật tử cần phải biết. Trước hết, xin trình bày lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca. Đức Thích Ca sau khi thành Phật, vì lòng thương xót chùng sanh mà Ngài không vội nhập Niết Bàn, trụ thế 49 năm vân du giáo độ, thiết lập tam thừa giáo pháp đưa chúng sanh đến chỗ giải thoát hoàn toàn đễ lên ngôi chánh đẳng chành giác. Trong khi thuyết giáo để giáo độ chúng sanh, vì lòng từ bi, Đức Phật đưa ra pháp môn tối thắng để quảng độ ba căn (thượng căn, trung căn và hạ căn). Đó là Pháp môn Tịnh Độ. Ngài lưu ý; nhứt là đối với chúng sanh đời sau trong thời mạt pháp, khi các Kinh đã bị diệt, vì căn cơ thiển bạt của chúng sanh. Trong “Vô Lượng Thọ Kinh’’. Ngài cho biết: “Đương lai chi thế, Kinh Đạo diệt tận. Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử Kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư Kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ ”. Nghĩa: Đến đời sau nhằm thời mạt pháp các Kinh đều diệt, ta vì lòng thương xót, đặc biệt để lại Kinh nầy trụ thế 100 năm. Nếu chúng sanh nào may mắn gặp được, tùy ý theo chỗ nguyện đều được đắc độ cả.
    Chẳng những để lại Kinh giáo độ đời mà cho đến thời kỳ tiêu diệt, lòng từ bi Ngài không nỡ nhìn chúng sanh bị xử tiêu, nên nhứt quyết xin Ngọc Hoàng hoãn lại và đồng thời ra sắc lịnh cho chư Phật và Bồ Tát lâm phàm để giáo độ chúng sanh. Như Đức Thầy đã cho biết:

    “Đức Phật Tổ tâm Ngài nhứt quyết,
    Tâu Ngọc Hoàng để Phật dạy trần.
    Nên ra Kinh cơ giảng nhiều lần,
    Mà dương thế chẳng cần xát đến”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    và câu:
    “Thừa vưng sắc lịnh của Trời,
    Cùng ông Phật Tổ giáo đời khuyên dân ” .

    (Bài viếng làng Mỹ Hội Đông)

    Hôm nay chúng ta được tỉnh ngộ, có Phật Pháp để tu hành, để khỏi tiêu diệt và còn thoát được sanh tử, nên phải kính thờ lễ lạy các Ngài.
    Ngoài lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca, chúng ta còn phải biết thêm tình thương vô hạn của Đức Phật A Di Đà và Đức Thầy Kim Sơn Phật. Khi đọc qua Kệ giảng, chúng ta thấy tình thương ấy biểu lộ qua nhiều đoạn như sau:

    “Đời Ngươu Hạ nhiều người hung dữ,
    Nên xảy ra lắm sự tai ương.
    Đức Di Đà xem thấy xót thương,
    Sai chư Phật xuống miền dương thế”.

    Ngài còn triệu tập một phiên đại hội cùng chư Bồ Tát để cứu chùng sanh:
    “Di Đà mở cuộc hội đàm,
    Cùng chư Bồ Tát quyết đem phép lành.
    Tịnh bình rước khắp chúng sanh ,
    Làm cho giác ngộ hiền lành như Ta.
    Công đồng hoạch định san hà,
    Nước ai nấy ở nhà nhà tự do ”.

    (Bài đi Khuyến Nông)
    Đặc biệt là Ngài ra sắc lệnh cho Đức Kim Sơn Phật lâm phàm truyền bá đạo lành, để nhiếp thọ chúng sanh về nơi an dưỡng:
    “Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc
    Đức Di Đà truyền mở Đạo lành.
    Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
    Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy”.

    (Kệ Dân Quyển nhì)
    Còn trở lại tình thương cao cả của Đức Thầy, chúng ta sẽ nghe những đoạn sau đây:
    “Cảnh Thiên trước thơm tho nồng nặc,
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.
    Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
    Nên chẳng kể tấm thân lao khổ”.

    và câu:
    “Vì bác ái nên thân Cuồng Sĩ,
    Phải chịu điều khổ hạnh sâu xa”.

    Nhằm mục đích để cứu chúng sanh, Đức Thầy cũng thuyết ra pháp môn tối thắng:
    “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Độ
    Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh”.
    Ngài còn ân cần nhắc nhở chúng ta rán phụng hành:
    “Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa ”.

    (Khuyến Thiện)

    Được biết qua tình thương vô lượng ân đức vô biên, dầu có lễ lạy đến bao cũng chưa mãy may đền đáp . Sách Minh Tâm có câu: “Lễ Phật giả kỉnh Phật chi đức, niệm Phật giả cảm Phật chi ân”. Nghĩa: Lạy Phật là vì kỉnh đức của Phật, niệm Phật là cảm ân của Phật.
    2- Người tín đồ nhà Phật, khi biết được ân đức của Phật, nên sanh lòng cảm kính và quyết hành theo hạnh Phật để làm lợi ích cho chúng sanh; phải nghiêng mình lễ kính để cầu học, đó cũng là chỗ biểu lộ sự thành thật biết ơn “Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quãng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sung bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền đạo đức được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài đạo hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi cới hậu thế”.
    (Ân Tam Bảo)
    3- Chúng sanh đối với Phật, thật không biết bao nhiêu điều lầm lỗi kể chẳng xiết, với những kiếp đã qua và hiện tại. Đó là lỗi không qui y đầu Phật Pháp; chẳng những không qui y đầu Phật Pháp, mà còn chống đối Phật Pháp; chẳng những chống đối Phật Pháp, mà còn hại Phật, hại Thầy; ngoài ra còn giết hại và làm khổ chúng sanh, khiến cho chư Phật đau lòng. Nay muốn từ bỏ hành vi tội lỗi phải sám hối nên mới lễ Phật. Đức Thầy khuyên:

    “Chẳng sớm về nhà lo sám hối,
    Cầu trên Phật Tổ giải mê căn.
    Ắt là hồn trẻ còn chi nữa,
    Địa ngục trầm luân cách thượng tằng”.

    (Bài cho Cô năm Võ Thị Hợi)

    4- Vì muốn trừ tánh cống cao ngã mạn, nên phải lạy Phật Chúng sanh vốn tánh hay nghi ngờ và ngã mạn mới bị che lấp chơn tâm; có tài năng biện bác thông suốt được việc đời (thế trí biện thông) nên sanh kiêu căng ngã mạn, chẳng chịu cầu học đạo xuất thế. Hôm nay biết được Phật là đấng toàn thiện toàn mỹ, toàn trí, toàn năng, toàn giác nên phải lễ lạy cầu học.
    Xưa Ngài Pháp Đạt đến ra mắt Đức Lục Tổ Huệ Năng. Khi làm lễ tổ, Phát Đạt lạy đầu không cúi sát. Thấy thế, Tổ hỏi:
    - Duyên cớ sao lạy nữa chừng rồi ngóc dậy?
    Pháp Đạt thưa:
    - Thưa Ngài, tôi đã tụng kinh Pháp Hoa đến 3.000 biến.
    Tổ thương tình liền ngâm lên bốn câu kệ:
    “Lạy vốn phá màn kiêu,
    Đầu sao không sát đất
    Hữu ngã tội liền sanh
    Quên công phước lớn thật”.

    Qua lời dạy của Đức Lục Tổ, thấy rằng việc lạy Phật ngoài sự cung kính học hỏi; sửa lỗi còn triệt hạ tánh cống cao ngã mạn của mình để tỏ ngộ chơn tâm. Thế mà có người chịu tu không chịu lễ bái. Sau đây là câu chuyện bân Thầy “Chịu qui y không chịu lễ bái” của ông Đào Thành Đô ở xã Tân An.
    Ông nầy vốn thâm uyên về nho học, đã từng được tham quan nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo các nơi. Sau khi nghe Đức Thầy thuyết pháp ở Hòa Hảo, ông nhiều lần tới lui để tham vấn thử Đức Thầy. Khi đến độ hoàn toàn kính phục Đức Thầy, liền xin qui y. Ông thưa:
    - Thưa Thầy, hôm nay con xin qui y, vậy nhờ Thầy chứng nhận cho con và cho con xin một điều là: miễn cho con cúng lạy.
    Đức Thầy nhìn ông cả tươi cười nói:
    -Được, miễn ông chịu qui y thiệt hành là có thể được
    Sau ngày qui y, ông Đào Thành Đô thường lui tới học hỏi nghe Đức Thầy thuyết pháp. Một hôm Đức Thầy thuyết pháp... Một hôm Đức Thầy kêu ông Cả:
    - Ông Cả, hôm nay Tôi muốn nhờ ông một việc.
    Ông Cả thưa:
    - Thưa Thầy, có việc chi xin cho biết.
    - Tôi muốn nhờ ông thay Tôi khi về xã Tân An, ông chỉ cúng lạy cho bổn đạo ở đó, vậy có được không?
    - Thưa Thầy, việc đó làm được.
    Liền khi ấy Đức Thầy chỉ dẫn cách cúng lạy cho ông Cả . khi tập lạy xong, ông cả từ giã Thầy về xã Tân An. về đến anh em đồng đạo gặp ông Cả rất vui mừng, đón đường hỏi rối rít. ông đi vào nhà của một đồng đạo, nhiều người đến nghe ông cả trình bày mọi việc . Ông nói:
    - Lần này tôi được lịnh của Đức Thầy chỉ dẫn cho anh về cách cúng lạy sớm chiều.
    Liền đó ông đứng dậy đến trước bàn thờ Cửu Huyền để kiểu mẫu cho anh em lạy theo, rồi đến Ngôi Tam Bảo và ra bàn Thông Thiên; nơi nào ông cũng làm lễ đúng cách để cho anh em thực tập theo. Chỉ dẫn cách cúng lạy xong, anh em rất vui mừng, ông Cả từ giã... Trên đường về đến nhà, ông còn ghé rất nhiều chỗ để chỉ dẫn cách cúng lạy cho nhiều người trong bổn đạo của Đức Thầy.
    Về đến nhà nằm nghỉ mệt, ông trực nhớ lại: hồi qui y mình có xin với Đức Thầy miễn cho sự cúng lạy hằng ngày, thế mà ngày nay mình lạy gần cả làng. Ông chợt tỉnh, mới biết mình theo Thầy mà chưa làm hết bổn phận. Liền khi ấy, ông ngồi dậy đi sửa soạn buổi cúng chiều.
    Qua mẫu chuyện trên, ta thấy có vài phần cần bình xét:
    1- Đức Thầy vì lòng từ bi giáo độ chúng sanh, nên Ngài tùy căn cơ trình độ và tánh cách của mọi hạng người, để khéo dắt dẫn và đưa dần họ trên đường Phật Pháp. Thật là lòng đại bi vô hạn hay khéo vô cùng.
    2- Ở ông Cả, là bổn phận tín đồ phải thừa hành những gì của Phật, của Thầy đã chỉ giáo.

    “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
    Thường hằng như vậy nhớ lời đừng sai”.

    (Bài Từ giã Làng Nhơn Nghĩa)
    hoặc giả:
    “Phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào đường đạo đức” .

    Thế mà, hôm nay đồng đạo chúng ta cũng có người bỏ đi sự lễ bái sớm chiều, còn nói rằng: “Tu không cần lạy cần quỳ”, cho lễ bái là điều phụ thuộc , không cần thiết , lại vịn vào đoạn văn của Đức Thầy: “Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc , là món trợ đạo, để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm”. Là tín đồ muốn làm hết phận sự của mình đối với tứ đại trọng ân, thì không thể thiếu nguyện cầu lễ bái hằng ngày. Nếu không có trợ đạo để nhắc nhở, thì chánh đạo làm sao chóng thành?

    Cho nên chánh đạo cần phải có trợ đạo thì chánh mới thánh. Chánh đạo ví như hạt giống lúc, đậu, bắp…trợ đạo tỉ như nhân công, phân, nước, nắng, gió v.v…Như có hạt giống tốt đem gieo xuống đất mà không có sự trợ duyên của phân nước, thì hạt giống kia làm sao có thể nẩy mầm, lên cây, đơm hoa, kết trái cho đặng. Thế đủ biết, chánh thiếu trợ thì chánh khó thành; còn trợ thiếu chánh thì trợ vô dụng. Nên sự lễ bái tuy phụ thuộc nhưng không thể thiếu với người tu .
    Chẳng những đối với người tu chưa tỉnh ngộ, mà cả đến bậc Thánh trong tam thừa (Thinh Văn, Duyên Gíac, Bồ Tát ) cũng chưa bỏ qua sự lễ bái. Đọc kinh Hoa Nghiêm, phẩm 81 chúng ta thấy Ngài Phổ Hiền dạy Thiện Tài Đồng Tử cùng các vị Bồ Tát trong Pháp hội Hoa Tạng, nên phát 10 đại nguyện vương để mau chứng quả vô Thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Mười nguyện vương là:
    1- Lễ kính chư Phật
    2- Khen ngợi Đức Như Lai
    3- Rộng tu cúng dường
    4- Sám hối các nghiệp chướng
    5- Tùy hỉ các công đức
    6- Thỉnh Đức Phật thuyết pháp
    7- Thỉnh Đức Phật trụ thế
    8- Thường học đòi theo Phật
    9- Hằng tùy thuận chúng sanh
    10- Hồi hướng khắp tất cả

    Thiện Tài Đồng Tử là bậc đẳng giác Bồ Tát mà còn không rời công đức lễ bái để cầu thành Phật. Ngài Di Lặc Bồ Tát ở công Trời Đâu Suất là vị Bồ Tát bổ Xứ sẽ là Phật ở vị lai thay cho Phật hiện tại là Đức Phật Thích Ca, thế mà một ngày đêm còn lễ bái sáu thời, mau tiêu trừ nghiệp chướng để vào ngôi Phật.
    Xem đó chúng ta nên xem xét lấy hầu tinh tấn lễ bái tu hành.

    HỎI: Đã biết được lý do lễ Phật, xin hỏi thêm lạy Phật có mấy cách?
    ĐÁP: Lể Phật gồm có hai phần: tướng lễ và tánh lễ.
    A- Tướng Lễ: là đem thân tướng để lạy Phật. Lạy cũng có hai cách:
    1- Lạy đứng
    2- Lạy quỳ
    Đó là tùy theo trong lúc cơ thể khỏe mạnh hay đau yếu mà áp dụng, nhưng dầu lạy cách nào cũng cho đúng phép là ngũ thể đầu địa (năm vóc sát đất). Năm vóc là đầu, hai tay và hai chân. khi lạy Phật phải cho sát xuống để tỏ lòng chí kính đối với Phật. vì có câu: “Dĩ kỷ tối thắng chi đảnh. lể Phật tối ti chi túc, kính chi chí dả ”. Nghĩa: lấy trán của mình là chổ cao nhất trong thân, lạy đến chân là chổ thấp nhất của Phật để tỏ hết lòng thành kính đó vậy.

    HỎI: Khi lể Phật chắp tay xá ba xá hoặc chính giữa và hai bên là ý nghĩa chi? Lể Phật thường hay bốn lạy có ý gì?
    ĐÁP: Chắp hai tay lạy cho sát đó là tỏ dấu nhất tâm qui mạng, còn xá ba xá chính giữa cũng hàm có nhiều ý.
    a- Để cung kính tam thân của Phật: Vì Đức Phật đã hoàn toàn tu chứng tam thân và thường dùng các thân này để tiếp độ chúng sanh (tam thân là: pháp thân, báo thân, hóa thân).
    b- Ba xá đây cũng có nghĩa cung kính tam bảo (Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo) là ba ngôi quí báo để độ đời. chúng sanh theo về với Tam-Bảo là khỏi sa vào ba ác đạo (Địa Ngục - Ngạ-Qủi - Súc Sanh) lại còn được tiến hóa lên đến chỗ giải thoát hoàn toàn, nên phải cung kính ba xá.
    Còn ba xá chính giữa và hai bên, đó là cung kính Phật và thị giả của Phật. Như Đức Phật A-Di-Đà có hai vị Bồ-Tát để hầu cận
    1- Đức Đại-Thế-Chí-Bồ-Tát ở phía mặt Đức Phật.
    2- Đức Quan-Thế-Âm Bồ-Tát ở phía trái.
    Nên chúng ta thường xá và niệm các Ngài.
    Lạy Phật bốn lạy cũng có nhiều ý nghĩa:
    a- Kỉnh bốn đức của Phật : “Đức Từ, Đức Bi, Đức Hỉ, Đức Xả”. Phật vì lòng từ bi, hỷ xả mà cứu độ chúng sanh trong mười phương pháp giới. Vì cảm đức cao rộng kia nên mới lạy 4 lạy.
    b- Vì cảm đại thệ của Phật mà phải lạy bốn lạy.
    Chư Phật khi mới phát tâm tu, vị nào cũng đều có phát đại thệ nguyện hoặc nhiều hoặc ít lời thệ, nhưng tụ trung cũng vào bốn phần nguyện chính gọi là tứ hoằng nguyện như sau:
    1- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
    2- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
    3- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
    4- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

    Chúng ta hôm nay được gặp Phật Pháp để tu hành, cũng chính nhờ các Ngài y theo bản nguyện lớn lao, nên chúng ta lạy 4 lạy.
    c- Bốn lạy còn có ý nghĩa đặc biệt, là để bái tạ ân đức: “Bửu Sơn Kỳ Hương” đã dày công giáo hóa nhơn sinh. nên bốn lạy đây vừa có nghĩa tạ ơn, vừa biểu lộ hết lòng thiệt thi theo giáo lý tứ ân. Thi văn Đức Thầy có câu:

    “Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông gia.
    Bàn tay lật ngửa vậy mà,
    Chớ đừng lật sấp vì thầy tái sanh.
    Đi xa thì phải dặn rành,
    Bàn thông thiên cũng thiệt hành như y.
    Bốn phương đều đọc vậy thì,
    Cúi đầu bái tạ từ bi Phật Trời’’.

    (Bài Từ giã Làng Nhơn Nghĩa)

    B- Tánh Lễ: cũng là nơi tướng lễ kia, tiến xa thêm một mức nữa đến chỗ không còn năng lễ và sở lễ, thì gọi đó là tánh lễ.
    Năng lễ là thấy có tướng ta hay lạy phật; sở lễ là thấy có tướng phật để ta lạy.
    Dứt hết năng sở là đi vào nhứt thể bình đẳng, nên thấy chúng sanh và Phật không khác, tâm cùng cảnh không hai. Vậy nếu biết kính trọng Phật thì cũng phải biết không khinh rẽ chúng sanh, vì đó là nhứt thể. Nên lạy mà không có tướng phân biệt, đó là không (tánh không); không lìa tự tánh (giác ngộ) để lễ Phật, đó gọi là tịch. Nên có câu: “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch” được như thế thì: “Cảm ứng đạo giao nan nghị”. Nghĩa là: “Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh, đạo cảm giao khó tính khôn bàn”.
    Còn tâm và cảnh không hai, là cảnh không ngoài tâm, tâm không rời cảnh, tâm tức là cảnh, cảnh tức là tâm; tâm cảnh để lễ Phật thì uế-độ cũng là tịnh-độ, nơi nào, nơi nào cũng là đạo-tràng trang nghiêm; thân tuy ở một chỗ mà tâm lễ Phật khắp mười phương.
    Vậy ta nên hiểu, khi đối trước ngôi Tam Bảo và Bàn Thông Thiên để hành lễ; đó cũng như chúng ta lễ phật mười phương có khác gì. Để chứng minh về lý nầy chúng ta hãy nghe:

    “Nay tôi ở trong đạo tràng,
    Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.
    Mười phương Phật hiện bầu hình ảnh,
    Có bóng tôi cũng sánh các ngài.
    Từ chơn cho cúi mặt mày,
    Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy y”.

    (Lời Dịch của Đức Thầy Bài Chú Lễ Phật )

    TÓM LƯỢC DIỄN CA
    Lạy Phật bởi lý do Học Phật,
    Vì ơn từ cứu vật độ người.
    Ăn năn lầm lỗi phải trừ,
    Học theo hạnh Phật khiêm từ quên ta.
    Sự lễ bái tuy là phụ thuộc,
    Nhưng chánh cần có trợ mới xong.
    Sở năng dứt hết không,
    Chứng vào nhứt thể tận trông Phật Đà.


    CHƯƠNG 4
    Ý NGHĨA CÁC BÀI NGUYỆN

    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
    Thì sẽ được tòa chương dựa kế”

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    HỎI: Xin tham khảo về ý nghĩa của chữ Nguyện. Vậy Nguyện là gì? Có bao nhiêu trường hợp phát nguyện? Người Nguyện trình độ có giống nhau không?
    ĐÁP: Để bàn giải về điểm nầy, chúng tôi xin lần lượt trình bày cùng quí vị qua ba phần sau đây:

    A- Nghĩa của NGUYỆN : Nguyện là muốn, là van vái khẩn cầu, những điều mong muốn ưa thích tự đáy lòng, thầm van vái hoặc đến trước bàn thờ Phật để nguyện lên, đó gọi là phát nguyện.
    B- Những Trường Hợp PHÁT NGUYỆN: Trường hợp nguyện có rất nhiều kể chẳng xiết, đại loại có thể chia làm hai phần: 1- Thế gian nguyện, 2- Xuất thế gian nguyện.
    1- Thế Gian Nguyện: là nguyện cầu những điều lợi ích trong thế gian, cho mình hay cho những người thân của mình. Người ta cầu nguyện cho mình được mua may bán đắt, được giàu có phát đạt, học giỏi thi đậu hoặc tình duyên xuôi thuận, cầu cho tai nạn khỏi, được khỏe mạnh sống lâu và được qua cơn đau ốm v.v…
    Để tỏ lòng tha thiết, người ta nguyện ăn chay, làm công quả hay xuống tóc là để cho sở nguyện được đắc thành. Những sự nguyện vái như thế có tánh cách riêng tư và hữu hạn, nên cũng gọi là thế gian hữu lậu nguyện.
    2- Xuất Thế Gian Nguyện: Nguyện cầu những điều nhắm về mục đích xuất thế, cho mình cho người cùng tất cả chúng sinh. Đứng về mặt tế nhị mà phân tách thì có bốn phần nguyện như sau:
    a/- Nguyện bỏ
    b/- Nguyện làm
    c/- Nguyện cầu sanh
    d/- Nguyện độ sanh

    a- Nguyện Bỏ: Bỏ Ta Bà thống khổ để cầu sanh Tịnh Độ an vui; bỏ tất cả những điều ưa thích mê lầm để trở lại với tâm chánh niệm (lục tự di đà). Tâm chúng sanh đã trải qua nhiều đời ô nhiễm theo các việc thế trần, nay muốn dứt bỏ đi những tập quán lâu đời, thật không phải dễ, phải có lòng cương quyết phát thệ nguyện mới có thể bỏ được. Cổ Đức có câu: “Vô thệ bấy lập, vô nguyện bất thành, vô thệ nguyện bất thành Phật Đạo”
    Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cũng thức tỉnh tín đồ:

    “ Trót đã qui y giữa Phật đài,
    Nguyện rằng đệ tử dứt trần ai.
    Mong nhờ đuốt huệ soi đường tối,
    Chớ nhiễm nghiệp phiền chớ đắm say”
    .

    Có nhớ được, hành được Thánh giáo trên thì ta mới thật lòng yếm ly Ta Bà cầu sanh Tịnh – Độ.
    b- Nguyện Làm: Làm cả chánh hạnh và trợ hạnh. Chánh hạnh là nhứt tâm tín nguyện để trì danh; trợ hạnh là làm tất cả hạnh lành rồi đem hồi hướng cầu sanh. Có trợ hạnh thì chánh hạnh mới dễ thành, ngược lại có chánh hạnh thì trợ hạnh mới trở thành phương tiện xuất thế. Nên người tu biết cách, phải gồm cả hai. Đức Thầy Kim Sơn có dạy:

    “Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét ,
    Rán cần chuyên niệm Phật làm lành .
    Thường trau giồi chí hướng cao thanh ,
    Cho khỏi thẹn con lành Phât Giáo ”.

    Muốn đạt được mục địch cao quí nầy, hành giả phải nhớ sanh tử là việc lớn, cần phát tâm Bồ-Đề, muốn Bồ Đề tâm chóng thành tựu nên phát thệ để tu. Kinh văn có câu:
    “ Nhập đạo yếu môn phát tâm làm trước,
    Yếu dụ tu hành phát thệ làm đầu ”.

    c- Nguyện Sanh: Nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A DI ĐÀ.
    Người tu Phật muốn được bất thối chuyển, chóng thành đạo vô lượng để thực hiện bổn thệ cứu độ chúng sanh, nên phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
    Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca kêu ông Xá Lợi Phất Ngài dạy rằng: “Nếu có người nào đã phát nguyện, hiện phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật, thời các người ấy đều được chẳng thối chuyển nơi vô thượng, Chánh đẳng, Chánh giác, và hoặc đã sanh về Cực Lạc, hoặc đương sanh hoặc sẽ sanh.
    Xá Lợi Phất! vì thế các thiện nam tín nữ nếu có lòng tin nên phải phát nguyện sanh về cõi đó’’
    Trở lại giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài cũng dạy:

    “ Cầu linh hồn cho đuợc vãng sanh,
    Đây chỉ rõ đường đi nước bước”.

    (Quyển 2 )
    hay là
    “Có người tu niệm đáng thương,
    Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh”.

    (Quyển 1 )

    d – Nguyện Độ Sinh: Nguyện độ tất cả chúng sinh thoát khỏi đường sang tử để sanh về cõi nước An Dưỡng.
    Chư Phật và Bồ Tát đều có bản nguyện độ sinh, riêng Đức Phật A DI ĐÀ có 48 lời đại thệ. Khi còn làm vị Pháp Tạng Tỳ Kheo, Ngài có đối trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai mà phát ra 48 lời hoằng thệ, Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai thọ ký cho Ngài, sau sẽ thành Phật hiệu A DI ĐÀ thì tất cả những lời nguyện được như ý
    (Đây là căn cứ theo lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca trong Kinh Vô Lượng Thọ).
    Qua 48 lời thệ, thệ nào Phật cũng nhằm lợi ích cho chúng sanh. Chúng tôi xin trích dẫn một số tượng trưng để trình bày cùng quí vị gồm có:
    1- Những lời nguyện để trang cõi nước.
    2- Những lời nguyện để thành tựu cho chúng sanh.
    3- Những lời nguyện để tiếp độ chúng sanh.

    1./-NHỮNG LỜI NGUYỆN ĐỂ TRANG NGHIÊM CÕI NƯỚC.
    NGUYỆN THỨ NHỨT: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 16: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 27: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên hình sắc đều sáng đẹp sẽ rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn, Nếu có người biện danh số các đồ ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 31: Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh , nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thới giới ở mười Phương , như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 32: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước, hoa cỏ, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập Phương thế giới: Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy thời tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 38: Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng phát liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên chân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt , thời tôi ở không Chánh giác.

    2./-NHỮNG LỜI NGUYỆN ĐỂ THÀNH TỰU CHO CHÚNG SANH Ở CÕI CỰC LẠC:
    NGUYỆN THỨ 3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên nhơn trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn (trừ người có bổn nguyện riêng) thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 21: Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi tất cả đều chẳng đầy đủ 32 đại nhơn tướng thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 22: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bực Nhứt sanh Bổn Xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài đi khắp các thế giới tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bực thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 26: Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ Tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân Kim Cương Na La Diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 48: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhứt âm hưởng nhẫn, đệ nhị nhu thuận nhẫn, đệ tam vô sanh Phát nhẫn, ở nơi Phật Pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

    3./- NHỮNG LỜI NGUYỆN ĐỂ TIẾP ĐỘ CHÚNG SANH.

    NGUYỆN THỨ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.
    NGUYỆN THỨ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó , thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    NGUYỆN THỨ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi, và tu các công đức chí tâm hời hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện , thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài có nhiều lời minh thệ để tiếp độ chúng sanh, mà chúng ta không thể quên được:

    “Hương đăng nghi ngút lễ vọng cầu,
    Cảm lòng bá tánh nguyện từ câu.
    Chí quyết một lời Ta độ tận,
    Dắt chúng lánh xa cảnh mộng sầu”.

    (Tối mùng một).
    Chẳng những độ hết loài Người mà Ngài còn hứa hẹn sẽ độ thoát muôn loài vạn vật.
    “Nhân loại sẽ khỏi chìm bể khổ,
    Khắp muôn loài nguyện độ siêu thăng”.

    (Bài thu đã cuối)
    Theo bản nguyện rộng lớn của Ngài thì sẽ độ hết chúng sanh trong ba cõi sáu đường về An Lạc quốc, thì Ngài mới trở về nơi yên nghĩ.
    “ Bể trầm luân khô cạn sáu đàng
    Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”

    (Bài trao lời cùng ông Táo)

    C- TRÌNH ĐỘ CỦA NGƯỜI NGUYỆN

    Trình độ người nguyện cũng có đồng mà cũng có điểm dị đồng. Nói có đồng là nói tất cả tín đồ Phật Giáo Hóa Hảo đều nguyện một bài nguyện thống nhứt từ bàn thờ Cửu Huyền cho đến ngôi Tam Bảo. Tuy nhiên xét về trình độ cũng có điểm dị đồng, chúng tôi xin mạn phép tạm chia ra có 3 hạng như sau:
    1- Hạng giữ nguyện
    2- Hạng biết nguyện
    3- Hạng thiết nguyện

    HẠNG GIỮ NGUYỆN: là giữ y theo nghi thức thường hành để nguyện cầu lễ bái sớm chiều, đối với ý nghĩa của bài nguyện thì chưa hiểu trọn. Hạng người nầy nhờ ở lòng thành mà được kết quả.
    HẠNG BIẾT NGUYỆN: Cũng từ nơi lòng thành kia để nguyện cầu, họ còn thấu hiểu được ý nghĩa của bài văn mà họ đã nguyện, lấy đó làm trọng tâm để nguyện và cố thực hành.
    HẠNG THIẾT NGUYỆN: Thiết nguyện là tâm nguyện tha thiết không bị gián đoạn, không chỉ đợi đến giờ cúng mới nguyện, mà lúc nào tâm cũng vẫn tha thiết với bản nguyện. Do đó mà họ không bị xen tạp và dễ được nhứt tâm.

    HỎI: Chúng tôi thấy cứ mỗi buổi chiều, người tín đồ PGHH cũng đều đến trước bàn thờ Cửu Huyền, ngôi Tam Bảo và bàn Thông Thiên để lễ bái nguyện cầu. Vậy ý nghĩa của những bài nguyện ấy như thế nào? Xin chú thích và giải rõ.
    ĐÁP: Để làm thỏa mãn câu hỏi nầy, xin trao đổi cùng quí vị bằng cách chú giải như sau:
    A- Nguyên văn của bài nguyện , gạch dưới những chữ quan trọng.
    B- Chú thích những từ ngữ đã gạch trên, đồng thời giải rộng vể ý nghĩa.
    C- Tóm đại ý của bài .

    A- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ CỬU HUYỀN

    “Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền,
    Cầu trên Thất Tổ chứng lòng thiềng.
    Nay con tỉnh ngộ qui y Phật,
    Chí dốc tu hiền tạo phước duyên.

    *
    Cúi đầu lạy tạ Tổ Tông,
    Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc nhằn.
    Rày con xin giữ Đạo hằng,
    Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật Đài.
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
    Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên.
    Mong nhờ Đức cả bề trên
    Độ con yên ổn vững bền cội tu”.


    B- CHÚ GIẢI
    Cúi kính: Cúi là nghiêng mình, cúi đầu làm lễ đễ tỏa lòng cung kính.
    Dưng hương: Dưng là đưa, trình lên một cách cung kính; hương là mùi hương. Hương có hai thứ: Trần hương – Tâm hương.
    Trần hương: là thứ nhang người ta làm ra bằng bột của cây, lá có mùi thơm. Đức Thầy giải thích: “Còn nhang dùng đặng báng mùi uế trược”.
    Tâm hương: là tâm không quấy lỗi không ô tạp, chẳng trái lại điều giới cấm của Phật, đó gọi là giới hương. Giới hương là một phần trong ngũ phần chơn hương (giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương), thứ hương nầy có giá trị tuyệt đối dù muôn thuở vẫn còn thơm. Đức Thầy có câu:

    “Tỉnh tâm đốt nén tâm hương
    Nguyện rằng đệ tử một đường lo tu”,

    (Bài Phụ nữ ca)

    Nay đến trước bàn thờ Cửu Huyền Thất tổ cúi đầu dưng hương là dâng trình lên cả trần hương và tâm hương, để cầu xin chứng nhận.
    Cửu Huyền Thất Tổ: Danh từ nầy hàm ẩn ý nghịa sâu kín vô cùng, chúng tôi cũng không đủ khả năng để giải thích cho rõ rang, chỉ tạm giải qua vài thuyết sau đây:
    Cửu: Chín, chỉ cho con số chín đời.
    Huyền: Thuộc về bí từ , chì cho sâu kín. Vậy Cửu Huyền là khởi đầu từ Cao tổ cho đến huyền tôn, cộng chung là chín đời đó là lấy thân mình làm bản vị kể lên bốn đời và kể xuống bốn đời.
    1- Cao tổ; 2- Tằng Tổ; 3- Tổ; 4- Khảo; 5- Kỹ; 6- Tử; 7- Tôn; 8- Tằng Tôn; 9- Huyền Tôn.
    Cao tổ: Ông sơ; Tằng Tổ: Ông cố; Tổ: Ông nội; Khảo: Cha; Kỷ: mình; Tử: con; Tôn: Cháu; Tằng Tôn: Cháu chắt; Huyền tôn: Cháu chít)
    Thất Tổ: thất là bảy; Tổ là ông bà.
    Giải thích theo thuyết nầy là nghĩa của cửu tộc thì sẽ gặp ý kiến của khách quan phản đối rằng: con, cháu, chít, sao ta lại đi cúi đầu dâng hương. Vả lại chúng nó chưa qua đời thì đâu có nghĩa là thờ phượng.
    Bây giờ chúng tôi xin trình bày một lý thuyết thứ hai giải thích về Cửu huyền Thất Tổ; là lấy cao tổ làm bản vị để kể lên bốn đời và kể xuống bốn đời, cộng chung là chín đời:
    1- Cao cao tổ; 2- Cao tằng tổ; 3- Cao tổ tổ;
    4- Cao khảo tổ; 5- Cao tổ; 6- Tằng tổ; 7- Tổ.
    Đây là bảy đời ông ; 8- Phụ thân; 9- Mẫu thân.
    Lại còn một thuyết khác giải thích về Cửu Huyền Thất tổ như thế nầy .
    Cửu: là danh từ thay cho số 9, đai biểu chỉ cho bên nữ.
    Thất: là danh từ thay cho số 7, đại biểu chỉ cho bên nam.
    Tổ: nói đủ là Tổ Tông, là chỉ cho ông bà Tổ Tiên trong dòng họ.
    Huyền: là mờ tối, sâu kín. Không thể nói rõ và nói hết ra được.
    Vậy Cửu Huyền Thất Tổ là đại danh từ chỉ chung cho ông bà Tổ Tiên, số nhiều người đã quá vãng trong đời hiện tại va nhiều kiếp đã qua.
    Lòng thiềng: là lòng thành, tức lòng chơn thật không xảo trá, không dời đổi. Lòng thành là gốc của đạo Trời và đạo làm người. Kinh dịch có câu:

    “Thành chi dã, thiên chi đạo dã,
    Thành chi dã, nhơn chi đạo dã”.

    Đức Thầy cũng có câu :
    “Phật Tiên dụng kẻ lòng thành,
    Đạo chơn thì ít ai hành thiện tâm”.

    (Bài Dặn Dò Bổn Đạo)

    Nay: là chỉ cho thời gian hiện tại trở đi.
    Tỉnh ngộ: Xét biết, gặp được chỗ sang suốt (Phật Đà) nên mới qui y để lìa bỏ chỗ mê lầm đầy tội lỗi; nào là rượu trà, cờ bạc, nghiện ngập, điếm đàng; nào là lợi danh, tài sắc làm cho mờ ám chơn tâm.
    Nay tỉnh ngộ là trở về với Đạo lý của con người, để tiến lên con đường thành cao Phật Pháp. Sau đây là Kim Ngôn từ huấn:

    “Trần thế lợi danh giấc mông tràng,
    Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
    Hỡi ai tâm trí mau tầm đạo,
    Tầm đấng hiền từ cứu thế gian”.

    (Bài Lộ chút cơ huyền)

    “Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát,
    Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân.
    Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
    Thân trí cực, nợ lần khan chẳng dứt”.

    (Bài Thức Tỉnh một nữ tín đồ)

    Chí dốc: Chí là tận đến thâm tâm; dốc là hết lòng. Chí dốc là dốc lòng để làm phận sự.
    Tu hiền: Trau sửa thân tâm trở thành người hiền nhân quân tử . theo thuyết của Khổng Giáo, chữ tu hiền là: “Tiên chánh Kỹ, hậu hóa nhân”, rèn cho mình có một lương tâm đạo đức để cư xử với mọi người theo Đạo lý nhơn luân.
    Trở lại chổ triết minh của Đức Huỳnh Giáo Chủ về chữ tu hiền lại còn đặc biệt hơn nữa. Ta hãy nghe lời vấn giáo của Ngài:

    “Tu là tu Phật tu Tiên,
    Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao”.

    Câu nầy để ý thức và đánh mạnh những quan niệm cho rằng làm hiền là tiêu cực, không còn biết chi tới việc đời.
    Thật ra, người hiền biết rõ lẽ phải trái, đúng hay sai đối với việc đời hay đạo đức, hiểu biết một cách minh bạch:
    “Người hiền tâm trí thông minh”
    (Bài Thiên Lý ca)
    Vậy người hiền là người thức thời, biết kiên nhẫn, hay xử sự cho tròn bổn phận thì mới là người hiền;
    “Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế,
    Là người hiền khó kiếm trên đời.
    Lập thân danh từng trải nơi nơi,
    Chờ thời đại mới là khôn khéo”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Qua lời dạy trên, ta thấy người hiền phải có tài năng có đức hạnh hay nhẫn nhục để cư xử cho tròn phận sự của con người, lại còn khôn khéo biết tùy thời để làm nên đạo nghĩa.
    Tạo phước duyên: Tọ là làm ra: phước duyên: phước cũng gọi là phúc, làm phước tức là làm cho người và vật được an vui và hạnh phúc. Ấy là làm việc bố thí giúp đời, sâu hơn một chút là diệt lòng ích kỹ.

    “Kẻ tu hành đa phước thì nên”
    (Khuyến Thiện)
    Duyên là các điều trợ trưởng bên ngoài. Vậy phước duyên là lấy phước đức mà trợ duyên cho các thiện căn (cái tâm niệm Phật) được phát triển thêm lên:
    “Tây Phương đua nở hoa liên,
    Chờ người hữu phước thiện duyên từ hòa”

    (Từ giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

    Tổ tông: Tổ là ông bà Tổ Tiên; Tông là tộc họ. Vậy cúi đầu lạy Tổ Tông là lễ cử để tỏ lòng tạ ơn Tổ Tiên. Vì có Tổ Tiên mới có ra cha mẹ. “Nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn Tổ Tiên nữa”.
    Báo ơn: Đền đáp những ân nghĩa mà ta đã thọ nơi cha mẹ Tổ Tiên.
    Sanh dưỡng: Sanh ra và nuôi lớn.
    Dày công nhọc nhằn: Sự lao nhọc không thể kể xiết. Về ơn sanh dưỡng của mẹ cha, Kinh Văn có câu: “Phụ hề sanh ngã! Mẫu hề cúc ngã! Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao! Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực”.
    Nghĩa: Cha sanh ta! Mẹ nuôi ta! thương thay cha mẹ sanh ta ra khó nhọc! Ta muốn đền ơn trả thảo cho cha mẹ, vì ơn nghĩa cha mẹ bằng trời mênh mông không cùng.
    Đây cũng chỉ là lược kể một vài điều quan trọng trong ơn nghĩa sanh thành. Còn Phật Giáo lại rõ hơn, Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu ân, Đức Phật có dạy con người thọ ơn của cha mẹ gồm có 10 điều trọng ân:
    1- THẬP NGOẠT HOÀI THAI: mười tháng mang thai khó nhọc vô cùng, do đó gọi là ơn .
    2- LÂM SẢN THỌ KHỔ: đến lúc sanh con chịu khổ vô cùng, đau đớn và hiểm nguy cho mạng sống, do đó gọi là ơn.
    3- SANH TỬ VONG ƯU: Sanh được con vui mừng mà quên cả sự lo buồn, do đó gọi là ơn.
    4- HỒI CĂN TỰU THẤP: Nhường chỗ khô cho con, mẹ nằm chỗ ướt , do đó gọi là ơn.
    5- YẾN KHỔ THỔ CAM: Vì con mà chịu uống đắng phổ ngọt , do đó gọi là ơn.
    6- TẨY TRẠC BẤT TỊNH: Giặt rửa điều chẳng sạch cho con mà không chút nhờm chán, do đó gọi là ơn.
    7- NHŨ BỘ DƯỠNG DỤC: Dưỡng nuôi bú mớm dạy dỗ, giữ gìn nhiều năm khó nhọc, do đó gọi là ơn.
    8- VỊ TẠO ÁC NGHIỆP: Vì con mà làm ra các nghiệp, phải chịu luân hồi thọ khổ, do đó gọi là ơn.
    9 – VIỄN HÀNH ỨC NIỆM: Đi xa lòng thương nhớ con không dứt, do đó gọi là ơn.
    10- CỨU CÁNH LÂN MẪN: Thương con hơn hết không thể xa lìa, nên lúc nào cũng gần bên để săn sóc cứu hộ, do đó gọi là ơn.
    Mười ân trọng như thế, nên bổn phận làm con phải nguyện báo đền. Đức Huỳnh Giáo Chủ phán dạy:

    “Vẹn mười ơn mới đạo làm con ,
    Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc’’

    hay là:
    “ Ở ăn cho vẹn mười ơn,
    Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn”.


    Rày: Từ nay về sau
    Đạo hằng: Đạo là bổn phận: hằng là thường. Đạo hằng gồm có ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Muốn làm tròn bổn phận của đạo nhân luân thì ta không thể thiếu Đạo lý ngũ thường. Đức Thầy có câu:

    “Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,
    Tam cang trung trực người rằng ngu si”.


    Đạo nhân luân gồm có:
    1- Quân thần; 2- Phụ tử; 3- Sư đệ; 4- Phu thê; 5- Bằng hữu.
    Muốn cư xử năm mối đạo nghĩa nầy cho hoàn mỹ, thì đối với mình phải nguyện giữ cho được đạo hằng.
    1- KHÔNG TRÁI LẠI VỚI LÒNG NHÂN: là không sát sanh hại mạng; mà phải biết thương người mến vật rộng lượng háo sanh.
    2- KHÔNG TRÁI LẠI VỚI NGHĨA: là không trộm cướp vô lương ; mà phải giúp đời trong cơn hoạn nạn.
    3- KHÔNG TRÁI LẠI VỚI LỄ: là không tà dâm hoa nguyệt; mà phải giữ đạo lý luân thường.
    4- KHÔNG TRÁI LẠI VỚI TRÍ: là không chè chén say sưa; mà phải giữ đạo lý luân thường.
    5- KHÔNG TRÁI LẠI VỚI TÍN: là không tráo chác thất lời; mà phải giữ gìn ngôn ngữ cho chơn thật.
    Có được ngũ thường rồi thì ta mới có thể làm xong cái đạo ngũ luân một cách trọn vẹn.

    “Đạo tôi Chúa chặt gìn câu chung thủy
    Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương

    Đạo cha con chặt chẽ chữ miên trường
    Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác
    Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác
    Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì
    Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri
    Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo tra
    Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã
    Chữ nghĩa tình sắc đá mãi bền gan”

    (Bài không buồn ngũ)

    Tu cầu: Tu cầu ở đây là đem tất cả hạnh lành để hồi hướng cha tổ tông cha mẹ được siêu thăng Phật Đài . Những hạnh lành mà người tu hiền đã làm như: bố thí , phóng sanh lợi vật, làm nghĩa giúp đời ăn chay, giữ giới, niệm Phật v.v… đem hồi hướng cho cha mẹ tổ tông nương theo công đức nầy mà được siêu thoát.
    Trong khi hành xử đạo nhân , phải biết đặt tâm qui hướng về Phật để cầu sanh, đó mới đúng với đường lối: “HỌC PHẬT TU NHÂN” mà thành ý Đức Thầy đã dạy.
    Siêu thăng: Vượt lên ba đường ác và ba đường thiện để thẳng đến Phật Đài (Ba đường ác là Địa ngục – ngạ quỉ - súc sanh ; ba đường thiện: A tu la – Nhơn – Thiên ).
    Phật Đài: Nơi Phật ngự trên tòa sen, là cảnh giới của Phật. Đến đây không còn sanh tử khổ đau mà còn được thường nghe lời lành của Phật. Nên mới có lời khuyến giáo:

    “Sớm về cõi Phật an thân,
    Kẻo kiếp phong trần dày gió dạn sương.
    Phật đài phưởng phất mùi hương,
    Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.
    Từ vi oai lực nhiệm sâu,
    Độ con thoát chốn u sầu trần ai”.

    (Khuyến Thiện)

    Nguyện làm: Làm những điều đạo nghĩa giúp đời, cho cha mẹ tổ tông được điều thơm đẹp. Nho có câu: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế , dĩ hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi chung dã”. Nghĩa: Lập thân hành đạo danh để đến đời sau, làm sáng đẹp cha mẹ là đạo hiếu vậy.
    Đức Thầy có viết:

    “Thân hành đạo ba giềng năm mối
    Dầu gặp cơn gió thổi mưa tuôn
    Bại rồi thành lại nên tuồng,
    Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma Ha”

    hay là :
    “Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

    Thoát nơi khỗ hải: Ra khỏi nơi biển khổ.
    Sao gọi là biển khổ?
    Chúng sanh trong ba cõi, sáu đường chịu sự khổ não không cùng tận, không bờ mé không thể đo lường , nên mới gọi la khổ hải.

    “Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi
    Lao với khổ , khổ lao chẳng xiết”.

    (Kệ Dân)

    Chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử mà không có ngày ra được, trong đó có Tổ Tiên cha mẹ và thân quyến của ta.
    Riêng về sự khổ của con người kể cũng chẳng xiết. Đức Phật Thích Ca Ngài nhiếp lại đại cương có tám điều trọng khổ, hôm nay được Đức Thầy diễn tả rất rỏ ràng trong quyển Khuyến Thiện.
    Xin sơ lược về tám điều trọng khổ:
    1- SANH KHỔ: Hồi còn trong bụng mẹ đã chịu khổ tối tăm tồi túng , đến lúc sinh ra theo cửa sản môn quá chật và quá dơ bẩn, thử hỏi có chi đáng hãnh diện mà ta không biết nhàm chán.
    2- LÃO KHỔ: Gìa cả lụm cụm, mắt lờ, tai điếc, chơn mỏi, gối dùn là khổ. Nỗi khổ nầy chắc không ai ưa thích, nhưng không một ai được, vì hễ có trẻ tất phải có già.
    3- BỊNH KHỔ: Đau yếu, tàn tật. Trong đời có ai từ trẻ đến già lại không đau, hễ có mạnh khỏe là phải có ngày yếu, nên gọi là khổ.
    4- TỬ KHỔ: Lúc sắp chết thì lăn lộn vật mình ngột hơi rất khổ; khi chết làm cho quyến thuộc bị khổ. Cài khổ nầy không một ai thoát khỏi, ta nhớ rằng hễ có sống là phải có thác.
    5- CẦU BẤT ĐẮC KHỔ: Lòng tham muốn hằng ước ao mà chẳng được toại ý là khổ. Như đói lạnh thí cầu có ăn, có mặc; no đủ lại cầu giàu sang.
    6- ÁI BIỆT LY KHỔ: Kẻ thương yêu mà phải sống xa cách làm cho hằng ngày mong nhớ; mà cón phải vĩnh viễn chia lìa đễ cho khổ đau cùng cực.
    7- TĂNG HIỀM HỘI KHỔ: Kẻ thù nghịch không thích, không ưa mà phải sống gần, phải gặp gỡ, làm cho tâm hồn ray rứt khó chịu nên gọi là khổ.
    8- NGŨ ẤM (UẨN) XÍ THẠNH KHỔ: Năm món hiệp lại làm người (sắc – thọ - tưởng – hành – thức) nấu không đều hòa lại với nhau, có món nào quá lắm cũng khổ. Như hình thể (sắc) mà phải tốn công săn sóc lắm cũng khỗ; cảm động (thọ) cho mệt trí cũng khổ; tư tưởng (tưởng) mơ ước quá lắm cũng khổ; nhọc nhằn tâm trí tính mưu liệu kế (hành) quá lắm cũng khổ; cố ý mà nhớ mà biết (thức) cho lắm cũng khổ.
    Đã nhận biết được sự khổ như thế, nếu ta không quyết chí để tu cầu thì biết bao giờ tổ tiên, nòi giống mới thoát khỏi.
    Liên đài: Tòa sen báu, là nơi cửu phẩm Liên hoa ở cõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.
    Đức Thầy có giới thiệu:

    “Liên hoa chín phẩm ở ngọc tòa”.

    Chúng sanh khi được Đức Phật tiếp độ về cỏi nước Cực Lạc thần thức nhập vào thai sen, không còn tám điều trọng khổ, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ giới thiệu trong quyển Khuyến Thiện. Đó la mới là hoàn toàn thoát nơi khổ hải va liên đài được lên.
    Để hiểu thêm về Cửu phẩm Liên hoa, chúng tôi xin trình bày cùng quí vị đại khái có 3 phần:
    1- Thượng bối; 2- Trung bối ; 3- Hạ bối.
    THƯỢNG BỐI: có thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, và thượng phẩm hạ sanh.
    Trung bối và Hạ bối cũng thế.
    Ba phẩm bực thượng thời liên hoa bằng chất Kim cương, bằng tử Kim hay huỳnh kim. Thời gian hoa nở: thời vừa chắc sanh liền nở, hay cách đêm hoặc một ngày đêm . Đây là phần của những vị trước khi vãng sanh tu hành đại thừa phát Bồ Đề tâm, thâm ngộ diệu lý vô sanh, tự hành hoa tha, công đức dày, trí huệ sâu mà hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.
    Sáu phẩm dưới, thời liên hoa bằng chất chất bảo (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, và xích châu). Thời gian hoa nở: hoặc nở liền , hoặc 7 ngày đêm, hoặc 21 ngày, hoặc 49 ngày v.v…
    Ba phẩm bực trung là phần của những người trai giới tinh nghiêm cùng người hiếu thảo; những nhà từ thiện mà dốc lòng cầu về Cực Lạc thế giới.
    Ba phẩm bực hạ là phần của những người không biết tu tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ ở đời gian ác khi sắp chết; lúc hấp hối mà biết ăn năn tội lỗi rồi chí tâmưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, thiết tha cầu sanh Cực Lạc thế giới.
    Căn cứ nơi chín phẫm liên hoa, thời thấy rằng: Cực Lạc thế giới là chỗ đông về của tất cả Thánh và phàm ở mười phương.
    Đức cả: Đức độ rộng lớn.
    Bề trên: Bề trên ở đây ta có thể hiểu ngầm hiểu là Tổ Tiên ông bà cho mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ.
    Cội tu: Cội ở đây là gốc lành, cũng gọi là thiện căn.
    Đức Thầy có những những câu:

    “Biết gốc lành sao cội không gìn”
    hay là:
    “Có thiện căn sớm lại cửa thiền,
    Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc”.

    C- TÓM Ý.
    1- Tóm ý từng đoạn
    2- Đại ý của bài
    1- Tóm ý từng đoạn:
    Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền,
    Cầu trên Thất Tổ chứng lòng thiềng.
    Ta thấy có 2 điểm về ý:
    a- Đem cả thân tâm hết lòng cung kính và lấy hương làm lễ Cửu Huyền Thất Tổ xin chứng giám lòng chơn thật.
    Nay con tỉnh ngộ qui y Phật,
    Chí dốc tu hiền tạo phước duyên
    Ta thấy có ba điểm về ý:
    a- Biết được đời có nhiều chỗ mê lầm, và đạo là con đường sáng suốt.
    b- Trình bày rõ với Cửu Huyền : nay mình đã theo về với Phật.
    c- Hứa hết lòng lo tu hiền và tạo phước duyên.
    Cúi đầu lạy tạ Tổ Tông
    Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc nhằn
    Hai câu nầy ta thấy có hai điểm về ý:
    a- Biết được ân đức sâu nặng của tổ tiên ta phải lạy tạ.
    b- Cha mẹ đối với ta có ơn sanh dưỡng lớn lao, nên phải đền đáp.
    Rày con xin giữ đạo hằng,
    Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài .
    Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
    Thoát nơi khổ hải Liên đài được lên.
    Qua bốn câu nầy ta thấy có bốn điểm về ý:
    a- Hứa sẽ giữ tròn nhân đạo.
    b- Hứa sẽ các công đức hồi hướng cho tổ tông siêu thăng về cõi Phật.
    c- Hứa làm điều đạo nghĩa cho cha mẹ và tổ tiên được vui đẹp.
    d- Hứa tu cầu cho cha mẹ tổ tông ra khỏi biễn khổ và được đến Liên đài.
    Mong nhờ đức cả bề trên,
    Độ con yên ổn vững bền cội tu.
    Hai câu nầy là ý cầu Cửu Huyền Thất Tổ gia hộ cho thiện căn được vững chắc (cái tâm niệm Phật) và bản nguyện sớm thành.

    2- Đại ý của bài.
    Gồm có bốn ý chính:
    a- Đối trước Cửu Huyền Thất tổ lễ kính và trình bày mọi lý do mình đã thức tỉnh qui y Phật lo tu hiền.
    b- Đối với ơn Tổ Tiên cha mẹ phải lạy tạ và phải biết báo đền.
    c- Hứa với cha mẹ Tổ Tông sẽ làm tròn đạo nghĩa công đức hồi hướng tu cầu cho khỏi bể khổ và siêu sanh về miền Lạc cảnh.
    d- Cầu xin tha lực gia hộ cho tâm đạo được vững bền để bản nguyện sớm thành.

    A- BÀI QUI Y TAM BẢO
    Nam Mô , Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư
    Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
    Nam Mô Thập phương Phật
    Nam Mô Thập phương Pháp
    Nam Mô Thập phương Tăng

    Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy , Quan Thượng Đẳng Đại Thần , Chư Quan Cựu Thần, Chư vị Sơn Thần, chư vị Năm Non, Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dử, Qui y theo mấy Ngài tu hiền theo Phật Đạo.
    B- Những chữ khó.
    Nam mô: Phiên âm tiếng Phạn, Tàu dịch có rất nhiều nghĩa. Ở đây chúng tôi đưc ra có ba nghĩa:
    1- Kính lễ; 2- Qui mạng; 3- Qui y. Tức chí tâm hướng Phật (quyết chí vâng theo), tôn kính Phật, gởi đời mình cho Phật.
    Ta bà: Phiên âm tiếng Phạn; Tàu dịch kham nhẫn; là kham chịu sự khổ não. Thế giới Ta Bà gồm có một ngàn triệu thế giới nhỏ.
    Một thế giới nhỏ có một núi Tu Di, một nặt trời, một ặt trăng, cùng tứ đại bộ châu.
    1- Đông Thắng Thần Châu: cũng gọi là Phất Vu Đại hay Phất Bà Đề.
    2- Tây Ngưu hóa châu: Cũng gọi là Cồ da ni.
    3- Nam thiệm bộ châu: Cũng gọi là Diêm phù đề
    4- Bắc cu lư châu: Cũng gọi là Uất Đan Việt
    (Năm châu thế giới của chúng ta ở đây là Nam Thiệm Bộ Châu)
    Gọi chung, một núi Tu Di, mặt nhựt, mặt nguyệt cùng bốn châu thiên hạ là một quả tứ thiên địa hay một Thái dương hệ. Một ngàn Thái dương hệ gọi là một tiểu thiên địa, một ngàn tiểu thiên địa gọi là một đại thiên (gọi là tam thiên đại đại thiên thế giới). Có ba lần con số ngàn cộng chung một ngàn triệu thế giới, đó là Thế giới Ta Bà Đức Phật Thích Ca làm Giáo Chủ.
    Giáo Chủ: Người chủ trương một giáo thuyết để dạy đời, không theo thuyết nào khác và không bị các thuyết khác đánh đổ. Nói rõ hơn đấng giáo chủ là vị sáng lập ra một nền đạo hay Tôn giáo. Đây chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phât Người chủ trương một giáo thuyết để dạy đời, không theo thuyết nào khác và không bị các thuyết khác đánh đổ . Nói rõ hơn đấng giáo chủ là vị sáng lập ra một nền đạo hay Tôn giáo . Đây chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật . Bởi Ngài là giáo chủ Đạo Phật toàn cõi Ta Bà. Ngài có đủ phương pháp dạy dỗ chúng sanh từ phàm phu (nhơn và thiên) cho đến đại thừa (Thinh Văn và Duyên Giác) cả đến Bồ Tát và Đại Bồ Tát (Đại Bồ Tát là Bồ Tát Bổ Xứ) đều phải học và làm theo, nên gọi là Đấng Giáo Chủ. Đức Thầy minh huấn:

    “Nam Mô Thích Ca Như Lai,
    Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh”.

    (Khuyến Thiện)

    Bổn sư: Cũng được gọi là Bản Sư. Có nghĩa ông thầy căn gốc. Đức Thích Ca là vị Tổ sư, trước hết của Đạo Phật, là bực thầy của cửu giới chúng sanh.
    Thích ca: Phản ngữ là Sakya, họ của Phật. Tàu dịch Là Năng Nhơn. Có nghĩa: “người có năng lực Từ Bi rộng lớn. Kinh Di Đà sớ sao có câu: “Năng dã thiện quyền phương tiện khúc trực cơ nghi. Nhơn dã trí đức hồng ân phổ triêm vạn loại. Thị đại từ lợi vật dã”. Nghĩa: Chữ Năng là hay dùng Pháp phương tiện quyền xảo tùy theo cho thích hợp căn cơ đễ hóa độ; chữ Nhơn là lấy trí đức hồng ân bủa nhuận thuận khắp muôn loài. Thật la lòng từ bi tế nhơn lợi vật của Đức Thầy vậy.
    Mâu ni: Tịch mặc. Tịch là vắng; mặc là lặng. Có câu: “Tịch tắc trừng nhiên bất động đốn vạn duyên. Mặc tắc mạc nhỉ vong ngôn vĩnh ly hí luận. Ấy là đại trí hợp với chơn lý vậy.
    Phật: Tiếng Phạn gọi Bouddha. Tàu lịch là Phật Đà. Phật Đà là đấng giác ngộ hoàn toàn, đủ ba hạnh giác.
    1- Tự giác; 2- Giác tha; 3- Giác hạnh viên mãn.
    - Tự giác là mình đã giác ngộ hoàn toàn không còn mê lầm theo ý thức.
    - Giác tha là mình đã giác ngộ mà còn giác ngộ cho người.
    - Giác hạnh viên mãn là hạnh giác tha đã tròn đầy; tức là làm cho tất cả chúng sanh đều giác ngộ.
    Và mỗi vị Phật đều có đủ 10 hiệu
    1- Như Lai; 2 – Ứng cúng; 3 – Chánh biến tri; 4 – Minh hạnh túc; 5 - Thiện thệ; 6 – Thế gian giải; 7 – Điều ngự trượng phu; 8 – Vô Thượng Sĩ; 9 – Thiên Nhơn Sư; 10 – Phật Thế Tôn.
    Thập phương: Mười phương hướng. Lấy chỗ ta ở làm trung tâm mà kể ra.
    1- Phương Đông; 2- Phương Tây; 3- Phương Nam; 4- Phương Bắc; 5- Đông Bắc; 6 – Tây Bắc; 7- Đông Nam; 8- Tây Nam; 9 – Hạ Phương; 10 – Thượng Phương.
    Phương nào cũng có Phật và vô số hằng sa thế giới chư Phật nên gọi là thập phương Phật.

    HỎI: Lấy gì làm bằng chứng sự giải thích về ý nghĩa mười Phương của quí ông là đúng ?
    ĐÁP:
    1- Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu:
    “ Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát ’’.

    2- Lời thế thiệu của Đức Phật Thích Ca trong thập Phương Phật đặt biệt khó hiểu nhất là Hạ Phương và Thượng Phương, nếu không có học Phật tin Phật, thì ta không làm sao có thể biết được những thế giới nầy.
    Theo lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà về Hạ Phương thế giới. Đức Phật kêu ông Xá Lợi Phất dạy.
    “Xá Lợi Phất, Hạ Phương thế giới hữu sư tử Phật, Danh văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp tràng Phật, Trì pháp Phật. Như thị Đẳng, hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên thế giới thuyết thành thiệt ngôn: Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị: “Xưng tán bất khả tư nghị công đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh”.
    (Nầy Xá Lợi Phất thế giới Hạ Phương cũng có chư Phật: Phật su tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng , Phật trì Pháp, còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng cũng như thế nữa đều ở nước mình, tướng lưỡi rộng dài che khắp ba nghìn đại thiên thế giới, nói lời thành thiệt rằng chúng sanh ngươi nên tin Kinh nầy là một quyển Kinh: “Tán than công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm”).
    Về Thượng phương thế giới Đức Phật Ngài cũng kêu ông Xá Lợi Phất mà dạy:
    “Xá Lợi Phất, Thượng Phương thế giới hữu Phạm âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diện Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến nhất thiết nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Như thị Đẳng Hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại tiên thế giới thuyết thành thiệt ngôn: Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị: “Xưng tán bất khả tư nghị công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh”.
    Lời dịch: Nầy Xá Lợi Phất, thế giới Thượng Phương cũng có chư Phật: Phật Phạm âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa , Phật như Tu Di Sơn , còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng cũng như thế nữa đều ở nghìn đại thiên thế giới nói lời thành thật rằng: chúng sing ngươi nên tin Kinh nầy là một bản Kinh: “Tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm”.
    Sau đây là lời giải thích của Ngài Ngẫu Ích Đại Sư về Hạ Phương thế giới và Thượng Phương.
    - Thế nào là Hạ Phương.
    - Là cái phương ở bên dưới quả đất của ta ở đây, nghĩa là ở dưới cái vòng phong luân, Thủy luân, Kim luân của quả đất nầy, lại có các tầng trời cao nhất, như là cõi Trời phi phi tưởng v.v… và xuống mãi, xuống mãi còn có trùng trùng điệp điệp vô cùng tận hằng hà sa số thế giới nữa.
    - Thế nào là Thượng Phương?
    - “Là cái phương ở bên trên quả đất của ta ở đây; nghĩa là ở trên quả đất của ta đây đã có các cõi trời cao nhất, như là cõi trời phi phi tưởng v.v… thế mà ở trên các tầng trời ấy, lại có vô số quả đất khác cũng có đủ các vòng kim luân, thủy luân, phong luân và tam giới v.v… lên mãi, lên mải còn có trùng trùng điệp điệp vô cùng tận, hằng hà sa số thế giới nữa” (Thế là ở trên chỗ các ông Trời ở lại có vô số trái đất và người ở, thế có lạ không? Người không có Phật học tin làm sao, hiểu làm sao được? Mắt Phật soi thấu triệt đến là tuyệt đối, chỉ vì Phật đã triệt để dùng được tâm Bồ Đề vô Thượng của Phật).
    Sự tiến bộ của loài người trong cơ giới khoa học thời nay đã khám pha không gian, tìm ra được thế giới bên trên quả đất là nguyệt cầu; còn du hành tận nơi và đem vể nhiều cụ thể cho ta biết.
    Sự kiện nầy chứng minh cho thuyết của nhà Phật nói về thế giới vô cùng , đó là một sự thật không còn chối cải.
    Thập Phương Pháp: Mười phương đều có giáo pháp của Phật lưu hành. Chữ Pháp: tiếng Phạn là Đạt Ma. Pháp dịch là phép tu; là phương pháp do Đức Phật thuyết giáo: chúng sanh nương theo giáo pháp cụa Phật để tu hành phá tận vô minh phát khai trí huệ.
    Nơi nào có Phật thuyết giáo, có chúng sanh để phụng hành thì nơi đó có Kinh điển của Phật lưu truyền.
    Kinh của Phật gồm có 3 tạng:
    1- Kinh tạng, 2- Luật tạng, 3- Luận tạng.
    Kinh và Luật là do lời nói từ kim khẩu của Phật thuyết ra, còn tạng luận là do các vị Tổ sư theo ý của Phật giải ra cho người đời dễ lãnh hội.
    Hôm nay Đức Thầy tôn kính, Ngài viết ra kệ giảng đễ dạy đời và cũng y cứ theo Kinh. Luật của Phật:

    “Rút trong các Luật các Kinh”
    (Bài dặn dò Bổn Đạo)

    Nhưng chỗ tối thắng, về giáo lý của Ngài là tùy trình độ cơ cảm của con người thời nay. “Nên phương pháp của Ta tùy trình độ cơ cảm của tín nữ, thiện nam, trên thì nói Phật Pháp cho kẻ có lòng mộ đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ”, Do đó mà Ngài thuyết minh Kinh Luật của Phật bằng lời lẽ rất giản dị.

    “Quyết dạy trần nên nói lời thường,
    Cho sanh chúng đời nay dễ biết”.

    và Ngài còn:
    “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,
    Chấp bút thần tả ít bổn Kinh”.


    Ta cũng nên ý thức rằng các quyển kệ giảng cùng thì bài, nói chung giáo lý của Đức Thầy là Kinh Luật của Phật vậy. Người tín đồ của Phật, nếu biết tôn kính kính Phật, kính Thầy thì cũng phải biết tôn kính giáo Pháp như tôn kính Phật.

    HỎI: Đệ tử Phật cóp bổn phận như thế nào đối với giáo pháp của Phật?
    ĐÁP: Là môn đồ của Phật muốn đáp ơn Phật, ơn Thầy thì phải tích cực đối với Phật Pháp:
    1- Phải học hiểu .
    2- Phải thiệt hành .
    3- Phải truyền bá .
    Khi Đức Phật còn trụ thế Ngài có kêu A NAN cùng các đệ tử mà dạy rằng: “Các ngươi muốn đền ơn Ta ư! Thì giáo Pháp của Ta đó , cố mà học đi, rán mà học đi, quyết mà truyền đi, các công đức cúng dường tán Phật đều không bằng đem giáo pháp của Ta mà quảng bá”.
    Trở lại Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy:

    “Ra đời dạy dỗ anh em ,
    Xem qua ít bận rán đem vào lòng”

    hay là :
    “Nghe cạn lời chớ có mơ hồ ,
    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo”.

    Khi đã đọc hiểu rồi, chúng ta còn phải thật tâm để thiệt hành.
    “Lòng dục tu thì phải thiệt hành,
    Chớ đừng có ham điều sung sướng”.

    và:
    “Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng”

    Có học hiểu, có thiệt hành, ta còn phải làm thêm cái bổn phận duy nhứt để báo ơn Phật như lời truyền dạy của Đức Thầy: “Nhứt là phải tiếp tục khai thông nền đạo đức đặng cái tinh thần tư bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy”.
    Chúng ta có làm được những đặc điểm vừa kể, thì mới thật lòng biết tôn trọng Phật Pháp .
    Thập phương Tăng: Nơi nào có Phật giáo hóa, có kẻ phụng hành thì có chư Thánh Tăng ở đó. Cho nên mười phương có Phật tất phải có mười phương Tăng. Đức Thầy cho biết: “Các chư Tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy”.

    Chư Tăng nói đủ là Tăng già, dịch là hòa hợp chúng. Những người xuất gia hay những vị tu hành chơn chánh giữ tịnh hạnh cụ túc giới ,đó gọi là Tăng; và khi có sống chung nhau từ 2, 3 người trở lên là phải căn cứ vào tinh thần lục hòa để đối xử lẩn nhau.
    LỤC HÒA: Nói đủ là lục hòa kính , tức là sáu niềm hòa đồng ái kính của các vị Tăng, các vị tu sĩ, bên ngoài đối với điều lành của người thì hòa thuận; bên trong tự mình khiêm nhường, ấy là kính. Đó kêu là lục hòa.
    1-THÂN HÒA ĐỒNG TRỤ: Trong khi đông người tụ lại môt chỗ mà ăn ở và tu học, chỗ chật người nhiều; vậy cần phải từ hòa và kính nhường nhau trong mọi cử động: Đi, đứng, ngồi, nằm.
    2 – KHẨU HÒA VÔ TRANH: Khi sống chung với nhau, cần phải nhường nhịn nhau trong lời ăn tiếng nói, nhờ vậy mà được niềm tự hòa ái kính ở chốn thiền môn.
    3 - ÁI HÒA ĐỒNG DUYỆT: Chẳng những các vị tu hành chung đụng nhau một cách hòa lạc, nói năng một cách hòa lạc; lại còn hòa lạc nhau về ý tứ nữa, vui cùng chia sớt với nhau, yêu mến nhau, không mích lòng nhau.
    4 – GIỚI HÒA ĐỒNG TU: Các nhà tu sĩ thảy đều tu chung giới luận nhà Phật, cho nên hòa thuận nhau, ái kính nhau.
    5 – KIẾN HÒA ĐỒNG PHẢI: Thảy đều thờ Phật thi hành Pháp giáo của Phật, của Thầy, nhơn đó kiến thức hòa nhau.
    6 - LỢI HÒA ĐỒNG QUÂN: Trong khi ở chung nhau mà tu học, nếu đồng đạo hay bá tánh có cúng dường mọi thứ như: Thức ăn, Đồ mặc, Thuốc men hoặc những thứ tiện nghi ngủ nghỉ v.v…thì các vị tu hành chung hưởng một cách hòa thuận ái kính và đồng đều.
    Có giữ được những điều hòa kính như trên thì mới gọi là: Tăng hòa hợp chúng.
    Rút yếu chỉ tinh thần lục hòa của nhà Phật, Đức Giáo Chủ PGHH, đưa ra một khuôn vàng thước ngọc để cho người cư xử lẫn nhau trong tình khoan dung hòa ái:

    “Đạo Pháp thường hay dung với hòa,
    Xét người cho tột xét thân ta.
    Nếu người rã phận vui lòng thứ
    Ta thứ được người , người thứ ta”.

    (Bài Lời Khuyên Bổn Đạo)

    Phật Tổ: Là vị đầu tiên khai sáng đạo Phật. Thế giới chúng ta trong cõi Ta Bà có Đức Phật Thích Ca là Phật Tổ; còn thế giới Cực Lạc ở Phương Tây thì có Đức A Di Đà là Phật Tổ; Đức Thầy cho biết:
    “Hồi thuở trước Thích Ca Phật Tổ,
    Ngồi tham thiền bị nó ghẹo hoài”.

    hay là :
    “Khùng vưng lịnh Tây Phương Phật Tổ,
    Nên giáo truyền khắp cả Nam Kỳ”.

    hoặc :
    “Đức Di Đà Phật Tổ ngóng trông ,
    Chờ sanh chúng tìm nơi diệt khổ”.

    Phật Thầy: Là Đức Kim Sơn Phật lâm phàm giáo độ chúng sanh. Qua những lời thố lộ trong Sám Thi, mà chúng ta lấy làm sự chứng minh; trong bài Ông Bán Chiếu có câu:
    “Kim Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành”,
    và ở cuối bài còn ghi rõ:
    “Bán lộ giang hồ kính tặng Kim Sơn Phật”.
    hơn thế nữa thi văn Đức Thầy cũng cho biết:
    “Danh sơn khai bút dìu sanh chúng”.
    và trong bài thi Đức ông có những câu :
    “Kim Sơn thương mãi toàn lê thứ,
    Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng”.

    Truy nguyện về tiền tích, thì Đức Kim Sơn Phật cũng chẳng ai đâu xa lạ mà chính là Đức Phật Thầy Tây An tái sanh, đã được Ngài cho biết qua đoạn văn sau đây:
    “Lời của người di tịch núi Sam,
    Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc
    Cảnh thiên trước thơm tho nồng nặc,
    Chẳng ở yên còn xuống phàm trần
    Ấy vì thương trăm họ vạn dân
    Nên chẳng kể tấm thân lao khổ”.


    Đức Phật Thầy Tây An chính danh là Đoàn Minh Huyên. Viên Tịch ở núi Sam vào lúc 12 giờ ngày 12 tháng 8 âl năm Bính Thìn (1856).
    Nhận xét qua những đoân văn kể trân , ta có thể hiểu Đức Phật Thầy Tây An ở cảnh thiên trước đã được thành Phật hiệu là Kim Sơn, ngự ở cựu phẩm Liên Hoa. Được tiết lộ qua những câu sau đây:

    “Thiên trước toa sen có chỗ ngồi,
    Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi”

    (Lộ chút cơ huyền)
    và câu :
    “Tây Phương Cực Lạc Khùng ngồi Tòa Sen”
    Nay vì thương chúng sanh, vì vưng sắc lịnh của Đức A Di Đà mà Phật “Bửu Sơn Kỳ Hương” phải tái lai thị hiện để cứu độ chúng sanh.
    “Sắc của A Di là Phật Tổ,
    Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu”.

    (Đức Thầy họa cho ông Tùng)
    Vậy chữ Phật Thầy ở đây là Phật Bửu Sơn Kỳ Hương ở Cực Lac quốc, hiệu Ngài là Kim Sơn Phật. Đây là bài thi có bốn chữ khoán thủ “Bửu Sơn Kỳ Hương” được Đức Huỳnh Giáo Chủ chuyển bút cho biết.
    “Bửu Ngọc vãng lai rõ Đạo mầu,
    Sơn tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
    Kỳ giả thức tâm tìm Đạo lý,
    Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu”.

    Sự tích của Đức Phật Thầy Tây An trong tập “Thất Sơn Mầu Nhiệm” của ông Nguyễn Văn Hầu và quyển “Đức Phật Thầy Tây An” của ông Vương Kim đã có ấn hành. (Qúy độc giả muốn hiểu đầy đủ ý nghĩa hơn hãy tìm đọc 2 quyển sách nói trên)
    Quan Thượng Đẳng Đại Thần: Quan Thượng Đẳng là một chức vụ của vua ban, là một vị quan ở cấp cao; đại thần là người tôi có công lớn với nhà vua, với quốc gia dân tộc.
    Có rất nhiều vị Quan Thượng Đẳng, riêng gần đây có Ngài Nguyễn Trung Trực đứng ra kháng Pháp. Trong khi người Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta, Ngài chiêu mộ nông dân thành lập nghĩa quân chống Pháp có rất nhiều chiến công đáng ghi nhớ. Chẳng hạn: trận đánh ờ vàm Nhật Tảo (địa phận Long An) đã đốt chìm chiếc tàu giặc “ESPÉRANCE” sau đó còn dùng lối du kích tấn công Pháp ở Kiên Giang, đã hoàn toàn chiến thắng và làm chủ tình hình trong mấy hôm.
    Những trận thư hùng nầy, đã làm cho giặc Pháp tán đởm kinh tâm. Nên người đời còn ca ngợi những chiến công trên qua mấy câu:
    “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
    Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỉ thần”.


    Lịch sử sau cùng của đời ông là tự nạp mình cho người Pháp để cứu mẹ và hằng trăm người dân vô tội. Bọn Pháp được ông rồi liền đem về Sài Gòn nhiều lần khuyến dụ, nhưng chúng hoàn toàn thất vọng vì lòng cương trực của ông. Cuối cùng chúng phải đem ông về Kiên Giang tử hình.
    Tương truyền trước khi ông bị hành quyết còn ngâm lên bốn câu thơ tuyệt mệnh, lời lẽ khí khái và thống thiết như sau:
    “Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
    Yêu Gian đảm khí hữu long tuyền.
    Anh hung nhược ngộ vô dung địa,
    Thù hận tâm cừu bất đái thiên”

    Thi sĩ Đông Hồ dịch:
    Theo việc binh nhung thuở trẻ trai
    Phong trần hăng hái tuốt gươm mài
    Anh hùng gặp phải thời không đất
    Thù hận chan chan chẳng đội Trời.


    Sau ngày tử hình Nguyễn Trung Trực, Triều đình Huế (vua Tự Đức) hay tin liền gởi sắc phong cho ông là “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”. Những người ưu quân ái quốc hất lòng trung nghĩa sẽ được lịch sử ghi chép và có thể vào địa vị của bực “Thượng Đẳng Đại Thần”.
    Đức Thầy có câu :

    “Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
    Nhớ hai chữ trung quân ái quốc”.

    Trong bài Ông bán Chiếu lại có câu :
    “Ngưỡng cầu Thượng Đẳng Đại Thần,
    Phải ra trị nước bảo toàn lê dân”

    Đức Thầy còn giới thiệu rõ Ngài Quan Thượng Đẳng là :
    “Trung Trực phò nguy đãi lịnh thiên”

    Chư Quan Cựu Thần: Chư là nhiều, chỉ số đông; quan cựu Thần: là các vị quan trung thần từ xưa đến nay, Đức Thầy cho biết:
    “Đến hội trăm quan còn hiện được,
    Thì ra xác thịt có cần đâu?”
    Chư vị sơn thần: Các vị Thần trên núi.
    Tháng giêng năm Canh Thìn (1940) trong dịp Đức Thầy dẫn tín đồ du sơn trở về đến núi ông Két, lúc sắp xuống núi, Đức Thầy có ngâm lên mấy bài thi, trong đó có lời kêu sơn thần theo Thầy xuống núi câu:
    “Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
    Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”.


    Chư vị Năm Non Bảy Núi: Là nhiều vị Thần ở Bảy Núi và
    Bảy Núi cũng gọi là Thất Sơn.
    Thất Sơn gồm có:
    1- Thủy đài sơn (Núi nước)
    2- Phụng hoàng sơn (Núi Tô)
    3- Liên Hoa sơn (Núi Tượng)
    4- Ngũ Hồ sơn (Núi dài năm giếng)
    5- Ngọa Long sơn (Núi Dài Giang Liên)
    6- Anh Vũ sơn (Núi Két)
    7- Thiên Cẩm sơn (Núi Cấm)
    Còn Năm Non là ở ngay trên núi Cấm, có 5 vồ lớn mà người ta quen gọi là Năm Non:
    1- Vồ Bò Hong: cao 716 thước, ở về hướng Tây.
    2- Vồ Đầu: cao 583 thước, ở về hướng Tây Bắc.
    3- Vồ Bà : cao 570 thước, ở về hướng Nam.
    4- Vồ ông Bướm: cao 480 thước, ở về hướng Bắc.
    5- Vồ Thiên Tuế: cao 514 thước, ở về hướng Đông.
    Đức Thầy nhắc nhớ:

    “Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
    Miền Bảy Núi mà sau báu quí”.

    hay là :
    “Rừng lâm cây đá thấy ngày nay
    Mà ruột năm non có các đài.
    Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
    Tới thời Thượng Cổ điểu hòa mai”.

    Đức Thầy dặn chúng ta nên nhớ lời minh thệ với Phật với Thần:
    “Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
    Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh”


    Cảm ứng chứng minh: cảm là mến; ứng là hiện đến. Nói rõ: có thật lòng kính mến y lời nguyện cầu tha thiết mới cảm đến các đấng thiêng liêng và Phật Ngài, nên mới có sự ứng hiện để chứng minh gia hộ và cứu vớt. Còn chữ chứng minh là chứng thật một cách rõ ràng.
    Nay con nguyện: Ngay trong giờ phút nầy con thật lòng tuyên hứa thực hiện.
    Cải hối ăn năn: Cải là sửa đổi. Hối là chừa bỏ; ăn năn là hay hối tiếc việc lầm lỗi đã qua, thật lòng lo tránh lỗi sắp tới.
    Kinh văn có câu: “Sám dã, sám kỳ tiền khiên; hối dã, hối kỳ hậu quá”. Nghĩa: Thật lòng ăn năn lỗi trước và nguyện chừa bỏ lỗi sau.
    Ta cũng nên hiểu phép sám hối có công năng đình chỉ các nghiệp, để đi đến chuyển nghiệp hoàn toàn.
    Con người trước khi tỉnh ngộ, chưa qui y Phật có rất nhiều tội lỗi với cha mẹ, đối với Phật Trời và chư Thánh Tăng. Nay biết được lỗi lầm, nên phải nguyện cải hối ăn năn thì những tội trước sẽ được ơn trên ân xá và cứu vớt ch . Như Đức Thầy cho biết :

    “Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc đạo.
    Đua một lòng làm bạo làm xằng.
    Ai mà xét đến ăn năn ,
    Quày đầu hướng thiện bần Tăng dắt giùm”.

    (Bài Bóng Hồng)

    HỎI: Thưa, chúng tôi thấy có nhiều người làm lỗi chi đó, rồi đem lễ vật vào Chùa làm lễ sám hối như: dưng hương đăng, trà quả hoặc lạy nhiều lạy hay cậy các sư tụng kinh sám hối cho tiêu tội. Những việc làm như thế có thể được kết quả không? Nhờ phân minh cho chúng tôi được biết.
    ĐÁP: Cũng có kết quả và không kết quả. Nói kết quả là nói hành nhân ấy có thật lòng sám hối; còn trái lại thì lễ vật kia, công sức lạy quì và sự tụng kinh cũng không thể chuộc tội được.
    Đức Phật vì lòng từ bi mà dạy pháp sám hối, để cứu người nghịch ác (ngũ nghịch, thập ác) biết thật lòng cải sửa không tái phạm.
    Sau đây là lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ về pháp sám hối:

    “ Cuộc sám hối vô chùa thường thấy,
    Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.
    Thấy dương gian lường gạt Thánh Thần,
    Mà chua xót cho đời Ngươn Hạ.
    Chữ tự hối nào ai có lạ,
    Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
    Chớ nào dụng hương, đăng, trà, quả’’.

    (Quyển 2)

    Làm lành lánh dữ: làm lành “ Làm hết các việc từ thiện’, lánh dữ “Tránh tất cả điều độc ác’’.
    Chúng ta cũng nên hiểu pháp tu làm lành, lánh dữ, Đức Thầy rút đại yếu trong Kinh A Đàm: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý; thị chư Phật Giáo”.
    Làm lành là làm những điều gì có lợi ích cho mình, cho người và vật đều được an vui tiến hóa. Đó là đại khái của nghĩa làm lành.

    HỎI: Đã biết được ý nghĩa đại khái, xin dẫn rõ phải chừa bỏ những gì gọi là lánh dữ? Phải làm những gì mới gọi là làm lành?

    ĐÁP: Để trao đổi tri tiết, xin nêu lên 3 phần:
    1- Thân nghiệp bỏ dữ làm lành.
    2- Khẩu nghiệp dữ về lành.
    3- Ý nghiệp bỏ dữ về lành.
     
  2. Ngoctruc

    Ngoctruc Member

    1- THÂN NGHIỆP BỎ DỮ, LÀM LÀNH
    a - Thân không tự sát sanh, không giúp người sát sanh, không vui theo sự sát sanh của người, đó là lánh dữ; mà còn đem thân cứu người, giúp vật, phóng sanh, đó gọi là làm lành.
    b - Không làm việc trộm cướp, cũng không chủ trương chỉ bảo và vui theo, đó là lánh dữ; mà còn đem thân làm nghĩa giúp người trong cơn hoạn nạn, đói khổ, không nài sự hiểm nguy, đó gọi là làm lành.
    c- Không làm việc tà dâm, không chủ trương mai mối, không chỉ điều phi đạo vô luân, đó là lánh dữ; mà còn ở theo đạo lý vô thường, chỉ dạy người điều lễ nghi tôn kính, đó gọi là làm lành.

    2 – KHẨU NGHIỆP BÕ DỮ VỀ LÀNH
    a – Không nói lời đâm thọc, bất chánh, không nói những điều thêm bớt sự phải quấy, đó là lánh dữ; mà nói lời chánh đáng ngay thẳng khiến người không giận hờn thù choảng lẫn nhau, đó gọi là làm lành.
    b – Không ỷ lại chỗ quyền thế, sự giàu có, sự khôn lanh, chỗ học thức mà xài xỉ kẻ lỗi lầm dốt nát, đó là lánh dữ; mà còn dùng những cam ngôn mỹ từ, những ời êm dịu chỉ bảo, chẳng khá bao biếm , đó gọi là làm lành.
    c – Không nói lời thô tục, ngang tàng, không chửi mắng mẹ cha, không hăm he đánh giết kẻ yếu hèn, đó là lánh dữ; mà nói lời đoan chánh trong sạch, hiếu kính hiền từ, dịu dàng chỉ bảo, đó gọi là làm lành.
    d – Không nói lời thuê dệt, bào chửa điêu ngoa xảo trá, đó là lánh dữ; mà nói lời chơn chất, đó gọi là làm lành.

    3- Ý NGHIỆP BỎ DỮ VỀ LÀNH
    a – Ý không bảo thủ, tham lam, mong chiếm đoạt của người, ấy là lánh dữ; mà lòng biết thương người bố thí giúp đời không sống riêng ích kỷ, ấy gọi là làm lành.
    b – Không nóng giận, thù oán mong giết hại, đó là lánh dữ; mà lòng hay nhẫn nhục khoan dung, ôn hòa chỉ dạy, đó gọi là làm lành.
    c – Lòng mê si vật chất quá trọng huyễn thân, không tin bướng nghe càn theo dị đoan mê tín, ấy là lánh dữ; mà phải biết suy nghĩ phán đoán lẽ phải trái, nhìn nhận chân lý tin sâu nhân quả, qui đầu Phật Pháp để tìm đến chỗ bất diệt bất sanh, ấy gọi là kẻ biết làm lành.
    Có hiểu được và làm được như thế là ta mới chuyển được nghiệp, mới thật là người dốc lòng báo đáp tứ đại trọng ân và đúng với ý nghĩa của lời nguyện: “Cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ”.
    Qui y: Qui là về, y là hành đúng theo. Theo về với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ giải thích: “…Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về; mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu.
    Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời”.
    Qua lời giải thích, chúng ta thấy có ba phần quan trọng mà người tín đồ cần phải lưu ý để thiệt hành.
    a- Đức Phật có những hạnh từ thiện như thế nào đối với chúng sinh, chúng ta phải có như thế nấy, đó mới gọi là có qui y Phật.
    b- Đức Phật chỉ dạy phương pháp tu như thế nào đễ giải thoát, chúng ta cũng phải thiệt hành y theo cách ấy, mới gọi là có qui y Pháp.
    c- Đức Thầy tôn kính có chỉ dạy răn nhắc điều gì chánh đáng, chúng ta phải thiệt hành cho được, đó mới gọi là có qui y Tăng.

    “Qui y thì khá làm y,
    Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

    (Thức tỉnh một nữ tín đồ)

    Qui y Tam Bảo lại có hai phần:
    1 – Ngoại qui y Tam Bảo (Xuất thế Tam Bảo).
    2 – Nội qui y Tam Bảo (Tam tự qui).
    1- NGOẠI QUI Y TAM BẢO: Theo về với Phật sống theo hạnh ngộ; sống theo đạo Pháp Chơn chánh; sống theo hạnh thanh tịnh của Đức Phật và chư Tăng.
    2- NỘI QUI Y TAM BẢO: Sống trở lại với tự tánh Tam Bảo của mình sẵn có, là sống theo lòng giác ngộ, lòng chơn chánh, lòng thanh tịnh sẵn có. Đó gọi là tam tự qui.
    Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Ngài Lục Tổ Huệ Năng cũng có dạy về ba pháp Qui y như sau:
    QUI Y PHẬT:
    “Phải giác ngộ học theo hạnh Phật,
    Bằng muội mê súc vật trần gian .
    Được vẻ vui thiệt nẻo thiên đàng,
    Chác phiền não là hàng địa ngục”.

    QUI Y PHÁP:
    “Làm việc chánh gọi là Pháp vậy,
    Theo bàng môn nẻo ấy là tà.
    Đạo vô vi thiệt pháp cao xa,
    Hữu vi ấy sanh ra dối giả”.

    QUI Y TĂNG:
    “Tánh ở chơn ấy gọi là Tăng,
    Lòng thanh tịnh mới rằng tu niệm.
    Còn mê muội chưa tường lý nhiệm,
    Lóng sạch lòng thúc liễm tu hành”.

    Giữ lòng GIÁC NGỘ tức là qui y Phật .
    Giữ lòng CHƠN CHÁNH tức là qui y Pháp .
    Giữ lòng THANH TỊNH tức là qui y Tăng .

    HỎI: Vậy muốn qui y vào Đạo chúng ta phải làm thế nào mới đúng phép, trong khi chúng tôi là đoàn hậu tấn hoặc ở xa miền Thánh địa Hòa Hảo không mau mắn được gặp Đức Thầy. Vậy chúng tôi có qui y được không? Có được Đức Phật, Đức Thầy chứng nhận không? Xin cho biết.
    ĐÁP: Theo sự chỉ dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong giáo lý và Sấm Giảng dạy về cách qui y, không bắt buộc phải thề thốt chi, hay đợi có mặt Thầy mới được qui y. Về cách qui y Ngài có chỉ rõ trong quyển “Tôn chỉ Hành Đạo và Sấm Giảng” quí vị tìm đọc sẽ hiểu đầy đủ hơn.
    Xin kể chuyện sau đây để chứng minh cho việc qui y:
    Vào khoảng năm 1972, chúng tôi có đến Xã Định Yên, Quận Lấp Vò, Tỉnh Sa Đéc. Chuyến đi làm Phật sự nầy, chúng tôi may mắn được gặp ông Năm (ông cũng thứ năm). Ông nầy là chú của ông Phó Hội Trưởng Tỉnh Sa Đéc. Ông Năm kể lại chuyện ông qui y với Đức Thầy cho chúng tôi nghe:
    Mùa xuân năm Canh Thìn (1940) vào khoảng tháng giêng, ông đến xã Hòa Hảo ở nhà Đức ông (Thân sinh Đức Thầy); trót mấy hôm ông đợi chờ, vì lúc nầy có rất nhiều người đến qui y và nghe Thầy thuyết pháp. Một hôm có cơ hội may khi Đức Thầy được rảnh. Ông bước đến thưa Thầy:
    - Bạch Thầy, con đến đây đã mấy hôm và hôm nay là ngày rằm tháng giêng, xin Thầy chứng nhận cho con được qui y.
    Đức Thầy nhìn ông Năm vui vẻ bảo:
    - Ông đã qui y rồi. Sao còn xin qui y nữa?
    Đức Thầy nói tiếp:
    - Ông đã thượng trang thờ Phật ở nhà và đã có nguyện qui y rồi, thì cứ thiệt hành theo giáo lý đi, bộ ông tưởng Phật không hay biết hay sao, mà còn xin chứng nhận.
    Ông vô cùng vui mừng, liền xá Đức Thầy và lui ra.
    Ông cho chúng tôi biết, vì ông đã thượng ngôi Tam Bảo và phát nguyện qui y, sớm chiều lễ bái từ ngày rằm tháng 10 năm Kỷ Mão (1939) nhưng ông vẫn hoài nghi, nên sau đó ông mới lên tận Đức Thầy, được Đức Thầy hiểu rõ ông đã có qui y thờ cúng và chỉ dặn ông y theo giáo lý mà tu hành. Ông vô cúng tin tưởng sự mầu nhiệm của ơn trên.
    Câu chuyện của ông Năm đạ cởi mở cho ta về quan niệm gặp Đức Thầy mới được qui y, và làm cho chúng ta càng đặt trọn niềm tin vào những câu:

    “Kẻ xa xôi có lòng ái mộ,
    Xem kệ nầy tu tỉnh tại nhà.
    Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà
    Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    Mấy Ngài: Chữ mấy Ngài là đại danh từ; chỉ cho các đấng thiêng liêng: Phật, Trời, Thần, Thánh. Chứ không phải biệt từ chỉ riêng cho một vị nào.
    Có người cho rằng theo “mấy Ngài” đây là qui y theo trăm Quan cựu Thần mà thôi; chứ không có qui y Phật. Sự hiểu biết nầy không xác thực ý nghĩa của 2 chữ “mấy Ngài”. Vì chữ Ngài không chỉ riêng cho các vị Thần, mà Đức Thầy còn cho biết, chữ Ngài là đối với Ngọc Hoàng, đối với Phật Tổ Thích Ca và Phật A Di Đà cũng đều qua những câu sau đây:

    “Chúng sanh ngang ngược làm liều,
    Ngọc Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi”

    (Quyển 3)
    “Đức Phật Tổ tâm Ngài nhứt quyết,
    Tâu Ngọc Hoàng để Phật dạy trần”

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    “Đức Di Đà truyền mở đạo lành,
    Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
    Ra sắc lịnh bảo ta truyền dạy”.

    (Kệ Dân)

    Qua những phần chứng minh trên , ta có thể hiểu chữ qui y theo mấy Ngài là qui y cả Phật , Tiên , Thần , Thánh .
    Qui y theo Thần thì sẽ được sách sử chép biên và dân gian thờ cúng .
    Qui y theo Tiên là không vị lợi danh , sắc , tài trói buộc : mà còn được sống trường sanh .
    Qui y theo Thánh (xuất thế gian Thánh) sẽ được ra khỏi luân hồi sống trường sanh bất tử .
    Qui y theo Phật sẽ được giác ngộ hoàn toàn , được thành Phật .
    Qui y theo mấy Ngài có lợi ích như thế , mà chúng ta còn ngần ngại gì lại chẳng chịu qui y, vì:
    “Kể từ nay Tiên, Phật, Thánh, Thần,
    Lo dạy dỗ dương trần chẳng xiết”.

    (Giác Mê Tâm Kệ”

    Tu hiền: Chữ tu hiền có nghĩa rất rộng , ngoài nghĩa Hiền nhơn chữ Hiền còn chỉ cho bậc Thần, Tiên và Thánh nữa . Với những câu :
    - “Hiền nhơn bổn phận tu mi,
    Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền cơ.”
    - “Hiền Thần sách sử nêu ghi,
    Miễu son lạc để tu mi trung Thần”

    (Quyển Ba)
    - “Bực tiên hiền đều trọng Phật gia”
    (Khuyến Thiện)
    và câu :
    - “Thánh hiền chẳng biết sao vừa lòng dân”
    (Bài cảm tác)

    Phật Đạo: Phật là giác; Đạo là đường lối chơn cính , là chân lý tuyệt đối . Phật Đạo là con đường giác ngộ chơn chính , có công năng diệt nghiệp , giải thoát cha tất cả chúng sinh từ phàm phu cho đến nhị thừa và Bồ Tát, để thẳng lên ngôi Diện giác (tức là Phật). Nên chúng ta hằng ngày phải nguyện tu theo Phật Đạo .

    HỎI: Xin ông cho biết thêm: Phật Đạo có công năng siêu việt như thế nào mà phàm phu cùng nhị thừa và Bồ Tát đều phải nguyện tu theo?
    ĐÁP:
    A- ĐƯỜNG LỐI GIÁC NGỘ CHƠN CHÁNH GIẢI THOÁT CHO PHÀM PHU.
    Phàm phu (Nhơn và Thiên): Vì nương theo sự phân biệt của ý thức để sống, chấp lấy các pháp hữu vi cho thân là thật ngã, nên mới bị hai mối phiền não: Kiến hoặc và Tư hoặc trói buộc sanh ra vọng tưởng đảo điên ; phải chịu sanh tử luân hồi trong tam giới. Hôm nay gặp được chân lý soi đường mới biết được các Pháp cũng không, mà ngã cũng không; không còn đắm say theo ngũ dục vượt hẳn khỏi tam giới chứng được lẽ ngã không vào bực Thánh nhị thừa, dứt đường sanh tử của phàm phu .
    B- PHẬT ĐẠO CỞI MỞ CHO CÁC BẬC NHỊ THỪA.
    Nhị thừa Thánh là từ Thinh Văn cho đến Duyên Giác, đã thoát được chỗ mê lầm của ngũ ấm (Sắc, Thọ, Tưởng, hành, thức) không còn tự ngã, nhưng lại trầm không thủ tịch (đắm vào cảnh không), chịu cái khổ biến dịch và sự trói buộc của mối phiền não trần sa hoặc.
    - Sao gọi là Trần Sa hoặc?
    - Mắt Thánh của các bậc Nhi Thừa, đã thấy rõ nghiệp mê lầm của chúng sanh nhiều như số cát sông Hằng, nhiều như hạt bụi vi trần không sao kể xiết, khó bề thức tỉnh cho đặng, nên không chịu xông ra cứu vớt. Bởi lẽ ấy nên gọi là Trần Sa hoặc. Đối với những hạng Thánh nầy, Đức Phật phải đem Đạo lý đại thừa giảng nói để có tiến lên tu Bồ Tát hạnh, phá tận chỗ mê lầm của Trần Sa, dùng chân lý diệu huyền để rọi sáng cho nhị thừa thấy rõ nghiệp mê của chúng sanh phát khởi từ vọng tưởng. Vọng tưởng lại nương vào tâm vô minh , nhưng tâm vô minh vốn không thật thể , một khi bị ánh sáng của trí tuệ chiếu phá không thể tự tồn. Ví như bóng tối của ban đêm gặp ánh sáng của mặt Trời liền bị tan mất.
    C- CHÂN LÝ PHÁ TRỪ NHỮNG MÊ LẦM VI TẾ CHO HÀNG BỒ TÁT.
    Các vị Bồ Tát đã giải thoát được mói phiền não kiến tư của phàm phu ( chấp sắc) và trần sa hoặc của nhị thừa (đắm vào cảnh không) các Ngài đã thấy rõ được sắc tức là không ,không tức là sắc .Không và sắc vốn cùng một thể chẳng phải hai, tức là thoát được chổ tà kiến của nhị biên, không còn chấp pháp. Các Ngài đã phá được vô minh nhưng chưa dứt, đã chứng được lý nhưng chưa viên. Đối với các bậc Thánh này. Đức Phật phải đem chơn lý tuyệt đối để giảng nói, khiến cho họ hoàn toàn được tri kiến Phật.
    Chữ Phật Đạo thật cao rộng vô cùng, vừa có nhiếp mà vừa quảng bác ý nghĩa, nên hạng nào, trình độ nào cũng phải nguyện tu theo. Vì đó là chân lý là đường lối giải thoát chung từ phàm đến Thánh.
    Trong Sám Thi Đức Huỳnh Giáo chủ có viết:

    “ Dù gian lao dạ sắt chẳng sờn ,
    Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”

    hay là :
    “ Tỏ ít câu cầu chúc cho đời ,
    Mong sanh chúng thông đường giải thoát ”.


    HỎI: Nghe qua ý nghĩa cao rộng của chữ TU HIỀN THEO PHẬT ĐẠO”, chúng tôi lấy làm vinh hạnh .Để hiểu biết một cách tường tận , vậy trong Đạo Phật có bao nhiêu Pháp, bao nhiêu môn để tu ? Xin ông trình bày rõ để chúng tôi chọn một môn thích hợp với căn cơ của mình, hầu tiến tu trong một kiếp mà ra khỏi sanh tử luân hồi.
    ĐÁP: Pháp giáo nhà Phật có rất nhiều không thể nói hết, nên thường tỉ số lượng có tám muôn bốn ngàn Pháp. Đó là tùy theo bịnh phiền não của chúng sanh mà nói Pháp có nhiều. Chung qui dầu pháp tu nào cũng đưa con người đến chỗ giác ngộ để thành Phật.
    Chúng tôi xin lược kể pháp tu của 10 tông phái được thành lập ở Trung Hoa.
    1 - LUẬT TÔN:(Thuộc cả tiểu thừa và đại thừa): Chủ trương giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì tâm sẽ được định. Tâm được định thì trí huệ phát khai, chân tâm hiện bày, Phật sẽ phát lộ.
    2 – THIỀN TÔN: (Thuộc cả tiểu thừa và đại thừa) lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành .
    Thiền là tiếng Phạn, do chữ “Thiền na” Trung Hoa dịch là định tự (định các tư lự), hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa thành ra chữ Thiền định.
    Thiền, xưa dịch là “Tư duy”, nay dịch là “Tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm nghiên cứu, suy tầm những đối tượng của tâm thức (tức là quán). Tịnh lự có nghĩa là để tâm vắng lặng không cho khỏi các vọng tưởng (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.
    Chữ “Định” nguyên tiếng Phạn là SAMADHI, người Trung Hoa phiên âm là tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.
    Hợp hai chữ Thiền và Định, có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ mạnh mẽ, hầu quan sát và suy nghiêm chân lý.
    3- PHÁP TƯỚNG TÔN CŨNG GỌI LÀ DUY THỨC TÔN: (Thuộc đại thừa) cho biết rằng vũ trụ vạn hữu hay là tất cả các pháp trong thế gian đều do duy thức biến hiện, ngoài thức không có một yếu tố nào khác nữa. Nên tôn nầy chủ trương tu duy thức, nghĩa là qui các Pháp trở về duy thức tướng, đem duy thức tướng trở về duy thức tánh để chứng Đạo đi đến thành Phật.
    4- MẬT TÔN: (Thuộc đại thừa) tôn nầy thờ Đức Đại Nhựt Như Lai (Tỳ Lô Giá Na) làm giáo chủ bí mật. Mật tôn cũng gọi là chơn nhơn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật). Mật tôn chủ trương trì chú cho tam mật tương ứng với Phật.
    a- Thân Mật: Tức là thân ngồi trì chú, tay bắt ấn nên thân không làm các điều tội ác, vì thế mà thân nghiệp được thanh tịnh.
    b- Ngữ Mật: Miệng đọc thần chú , nên miệng không nói những điều tội lỗi , vì thế mà khẩu nghiệp được thanh tịnh .
    c- Ý Mật: Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng các điều tội lỗi, vì thế nên ý nghiệp được thanh tịnh. Nếu được:

    “Tam nghiệp hằng thanh tịnh,
    Đồng Phật vãng Tây Phương”.

    (Bài chú xúc miệng)
    - “Cầu Tịnh ba nghiệp xong xuôi,
    Tây Phương quyết đấu chung vui Phật Đài”

    - Lời dịch của Đức Huỳnh Giáo Chủ

    5- THIÊN THAI TÔN CŨNG GỌI LÀ PHÁP HOA TÔN:(Thuộc đại thừa) tôn nầy chủ trương “Nhứt tâm tam quán” là quán “Nhứt là tam; tam tức nhứt”. Nghĩa: một tức là ba; ba tức là một. Ba ấy: vật, tâm và chơn như.
    6- HOA NGHIÊM TÔN CŨNG GỌI LÀ HIỀN THỦ TÔN: (Thuộc đại thừa). Tôn nầy chủ trương rằng chúng sanh và Phật không sai cách: Không sai là nói Phật và chúng sanh không khác, tức đồng một thể; còn nói không khác là nói Phật không ngoài tâm, đó là lý: Tâm tức Phật, Phật tức tâm vậy.
    7- TAM LUẬN TÔN CŨNG GỌI LÀ TÁNH KHÔNG TÔN: (Thuộc đại thừa). Tôn nầy chủ trương “lấy phá làm lập” là phá tất cả những sự chấp trước của ngoại đạo, của tiểu thừa tỳ đàm. Muốn tu môn nầy phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đoạn, nhất, dị .v.v…
    8- CÂU XÁ TÔN: (Thuộc tiểu thừa cũng gọi là Hữu Tôn) chủ trương “Nhơn không pháp hữu”.
    9- THÀNH PHẬT TÔN: (Thuộc tiểu thừa) chủ trương “Nhơn không pháp không”.
    10- TỊNH ĐỘ TÔN: Tôn nầy thuộc về đại thừa , chủ trương dạy người niệm Phật để cầu vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà . Do đó , tôn nầy mới có tên là Tịnh Độ Tôn . Tịnh Độ tôn lấy: TÍN, NGUYỆN, HẠNH, làm tông chỉ tu hành.
    Đó là mười pháp tu được thành lập ở Trung Hoa, thường gọi là mười tông của Đạo Phật.
    Đặc biệt nhất là Tịnh Độ Tôn, được Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài giới thiệu và chỉ dạy rất nhiều.

    “Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa”.

    hay là :
    “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Độ,
    Đặng
    dắt dìu tất cả chúng sanh.
    Nếu như ai cố chí làm lành,
    Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.
    Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật.
    Dầu Tiên, Phật, Ma, Qủi, súc sanh,
    Cứ nứt tâm tín, nguyện, phụng hành.
    Được cứu cánh về nơi an dưỡng,
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê hồ dứt cuộc luân hồi”.

    (Khuyến Thiện)

    C- ĐẠI Ý BÀI QUY Y TAM BẢO
    Bài nguyện Qui y Tam Bảo có những phần quan trọng sau đây:
    1- Thỉnh Phật chứng minh để phát nguyện
    - Chúng ta đã tỉnh Đức Phật Thích Ca là giáo chủ cõi Ta Bà.
    - Mười phương chư Phật, Pháp, Tăng .
    - Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Thầy và chư Thần các cấp đồng chứng minh cho chúng ta phát thệ qui y.
    2- Chúng ta phát nguyện: cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ trước chư Phật và chư Thần.
    3- Nguyện qui y theo mấy Ngài, Phật, Tiên , Thần, Thánh.
    4- Nguyện tu hiền theo Phật đạo, tu đến mục đích giải thoát hoàn toàn .
    Để tóm kết phần đại ý, chúng tôi xin đưa ra một vài câu hỏi chung.
    1- Chúng ta nguyện qui y tu hiền theo Phật đạo của Đức Thầy dạy, nó có đầy đủ và giải thoát không? Nếu đã đầy đủ và được giải thoát, thì ta chẳng nên tìm cầu và qui y thêm một nơi nào nữa.
    2- Khi đã phát nguyện qui y rồi ta có nên thiệt hành không? Nếu đã có thiệt hành đúng theo lời nguyện qui y thì có lo gì trong một kiếp không thoát đường sanh tử để trọn vẹn đáp đền tứ đại trọng ân.

    A- BÀI NGUYỆN VỀ TÂY PHƯƠNG

    Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi phổ độ chúng sanh A Di Đà Phật .

    B- Những chữ khó.
    Nam mô: Cung kính, cứu ngã và độ ngã. Nam Mô là hết lòng cung kính cầu xin cứu độ mình.

    ‘Cứu khổ Nam Mô vô lượng phước”
    (Tỉnh Bạn Trần Gian)

    Tây Phương: Phương Tây, người ta thường gọi hướng mặt trời là phương Tây. Tây Phương đối với Đông Phương; Tây Phương là một phương trong mười phương thế giới của Chư Phật. Tây Phương sở dĩ được chú tâm và để ý đến là do theo lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca, và Đức Thầy Kim Sơn Phật. Xin sẽ lần lược dẫn ra sau đây:
    1- Lời giới thiệu trong kinh A Di Đà:
    Đức Phật kêu ông Xá Lợi Phất mà dạy rằng: “Xá Lợi Phất ơi! thế giới Tây Phương cũng có chư Phật: Phật vô Lượng Thọ, Phật vô lượng Tướng, Phật vô lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang, còn nhiều Phật khác như cát sông hằng”.
    Phật vô lượng Thọ mà Đức Thích Ca giới thiệu ở đây, chúng ta có thể hiểu đó là Đức Phật A Di Đà. Ngoài Đức Phật A Di Đà còn rất nhiều vị Phật khác mà Đức Thích Ca ví như cát sông Hằng; nói cát sông Hằng là không thể tính được, lường được, tức là có vô lượng Chư Phật .
    2- Lời giới thiệu trong sám giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ về cõi Tây Phương:
    Cũng như Đức Phật Thích Ca, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:

    “Tây Phương Cực Lạc Phật hằng hà,
    Ta rán bền lòng Phật chẳng xa”.

    Ngài còn cho biết chư Phật ở Tây Phương đang trông chúng sanh sớm tỉnh tu hành rủ nhau niệm Phật .
    “Ở Tây Phương chư Phật ngóng trông,
    Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật”.

    Người niệm Phật , chẳng nên lo sợ cái chết, vì có hằng hà sa số chư Phật ở Tây Phương đang chờ đợi ta lúc lâm chung:
    “Đến lâm chung quả lành đâu mất
    Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ”.

    Đức Thầy còn giới thiệu ở phương Tây có năm vầng mây lành:
    “Mây lành năm sắc ở phương Tây”
    Hơn thế nữa Đức Di Đà đang trông chờ:
    “Đức Di Đà Phật Tổ ngóng trông,
    Chờ chúng sanh tìm nơi diệt khổ”.


    Nương theo thánh ý trên, chúng ta thấy sự quan trọng của phương Tây. Cho nên trong khi cầu nguyện dù tứ phương cũng đều nguyện về Tây phương trước hết. Bởi lẽ, những hành giả tu tịnh nghiệp (niệm Phật) trong khi: đi, đứng, nằm, ngồi thường để tâm hướng về Tây phương, đó là chỗ nhứt tâm qui hướng cầu sanh.
    Cực lạc thế giới: Cực lạc là tột vui; thế giới la cõi nước riêng của Đức Phật A Di Đà. Theo lời giới thiệu của Đức Bổn Sư Thích Ca trong Kinh Vô lượng Thọ.
    Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo có lời thỉnh cầu Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai xin cho thấy thế giới của Chư Phật. Đức Phật liền dùng thần thông hiện đủ 210 ức thế giới của chư Phật, để cho Ngài Pháp Tạng quan sát và chọn lọc; sau đó Bồ Tát Pháp Tạng phát ra 48 lời hoằng thệ trang nghiêm cõi nước và tiếp độ chúng sanh. Trải qua vô lượng kiếp, Ngài tu các công đức, khi được thành chánh quả hiệu là A Di Đà Phật, Ngài dùng các công đức mà trang nghiêm cõi nước, nên thế giới của Ngài đặc biệt hơn hết trong các thế giới của chư Phật.
    Cực Lạc thế giới còn có tên là An Dưỡng Quốc, thường gọi là Tây Phương Tịnh Độ. Cõi Tịnh Độ nầy gọi là phàm thánh đồng cư. Tuy một cõi đồng cư mà vẫn có đủ ba cõi Tịnh Độ: phương tiện hữu dư, thật báo trang nghiêm và Thường tịch Quang. Đó là điểm đặc biệt hơn các cõi Tịnh Độ ở mười phương.
    Để hiểu về cương của thế giới Cực Lạc , chúng tôi xin dẫn ra trong Kinh và Kệ giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
    1- Kinh: Đức Phật kêu ông Xá Lợi Phất để giới thiệu về cõi nước Cực Lạc. Ngài bảo: “Này Xá Lợi Phất, từ đây đi về bên Tây Phương kia trải qua hết mười muôn ức Phật độ, có một thế giới gọi là Cực Lạc; cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà hiện đang thuyết pháp”.
    Đức Phật còn đại cương giới thiệu và thích nghĩa hai chữ Cực Lạc như sau:
    “Xá Lợi Phất, cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc? Chúng sinh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng những vui. Bởi thế cho nên gọi là Cực Lạc”. Phật dạy tiếp: “Lại còn đây nữa Xá Lợi Phất ơi, cõi nước Cực Lạc, bảy lần giậu rào, toàn bằng tứ bảo khắp cả chung quanh. Bởi thế nước kia gọi là Cực Lạc”.
    Đức Phật còn giới thiệu rất nhiều về cảnh giới Cực Lạc, chúng tôi không tiện dẫn ra hết.
    Lời giới thiệu về cảnh giới Cực Lạc trong Kệ giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

    “Ta Bà khổ, Ta Bà lắm khổ.
    Có bao người xét cho tột chỗ,
    Tịnh Độ vui, Tịnh Độ nhàn vui.
    Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi
    Nào ai rõ các vui triệt đáo”.

    (Khuyến Thiện)

    Thật không ai dễ gì biết được cảnh báu lạ của thế giới Cực Lạc , nếu không phải là người ở đấy sang đây thì không thể biết và nói được .
    May mắn cho chúng ta , được Đức Thầy từ cảnh giới Cực Lạc sang đến đây dạy bảo một cách tinh tường .

    “Tây Phương trở gót quá xa đàng,
    Thương xót Nam Kỳ lại An Giang”.

    (Lộ chút cơ huyền)
    và câu :
    “Tìm Cực Lạc đây rành đường ngõ,
    Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu”

    (Quyển 2)
    Ở Cực Lạc có điều đặc biệt là mùi hương xông ra khắp cả nước :
    “Cảnh thiên trước thơm tho nồng nặc”

    Kinh cũng cho biết: Mùi hương nầy còn lan ra khắp mười phương thế giới của Chư Phật. Bồ tát các nơi khi ngửi được đều phát tâm tu Phật hạnh. Đó là đúng theo lời nguyện thứ 32 của Đức Phật.
    Còn nhiều và rất nhiều điều vui đẹp khác, chúng tôi xin dẫn một vài phần đại cương để so sánh về cái khổ của Ta Bà và điều vui ở Tịnh Độ.
    Cái khổ của con người ở cõi Ta Bà cũng không sao kể xiết, nhưng Đức Phật tóm lại có tám điều trọng khổ.
    Trái lại trong khi đó ở Tịnh Độ sự an vui cũng không sao kể xiết: đặc biệt là ngược lại tám điều khổ của con người ở Ta Bà, thì Tịnh Độ có tám điều vui công đức (bát công đức lạc). Đó là theo lời giới thiệu của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong quyển Khuyến Thiện.
    1- Vui thai sen. 2- Vui bất lão. 3- Vui vô bịnh. 4- Vui đồng thọ. 5- Vui như ý. 6- Vui hải hội. 7- Vui hòa thuận. 8- Vui thanh nhã.

    HỎI: Sao gọi là vui thai sen?
    ĐÁP: Con người ở cõi Ta Bà phải chịu sự sanh khổ, là khổ khi còn trong bụng mẹ phải chịu sự tối tăm nhơ nhớp , đến khi mẹ sanh phải chịu đau đớn vô ngần mới được mở mắt chào đời với tiếng khóc oa oa …Trong khi đó người niệm Phật được vãng sanh Cực Lạc, thì thần thức ra vào thai sen bằng chất tinh hảo vi diệu hương khiết, nghĩa là: thơm sạch , báu lạ vô cùng. Hoa sen bằng chất vàng kim cương, tử kim, huỳnh kim và bảy báu chung hợp; chứ đâu như bào thai của con người ở Ta Bà bằng tinh huyết nhước nhơ:

    “Thần thức nhập thai sen tinh hảo,
    Nên khỏi màng lo nổi khổ sanh”


    HỎI: Sao gọi là vui bất lão?
    ĐÁP: Con người ở Ta Bà sanh ra rồi lớn, lớn rồi phải già, dầu không muốn cũng không được, thử hỏi các bạn trẻ trung chúng ta có chịu già không nhỉ? Thế mà cái già nó vẫn đến không phương từ chối. Trong khi đó ở cõi Cực Lạc, thân từ hoa sen nở ra, tự nhiên lớn sẵn khỏi cần nuôi dưỡng, đã không già xấu mà còn hưởng được trường xuân.
    “Thân thì thân công đức hiền lành,
    Bất di dịch khỏi vì khổ lão”.


    HỎI: Sao gọi là vui vô bịnh?
    ĐÁP : Sống ở đời con người không mấy ai mà chịu đau, chịu tật nguyền xấu xí. Ôn lại từ thuở nhỏ cho đến già, thì không biết bao nhiêu lần bịnh hoạn ốm đau hành hạ thân xác, cũng bởi do nơi tứ đại bất hào với thời khí bốn mùa. Trong khi ở cõi Tịnh Độ thân người bằng hoa sen bảy báu, công đức, thanh tịnh; lại không có bốn mùa tám tiết thì có lo chi bịnh hoạn ốm đau:
    “Thể thanh tịnh thường không huyên náo,
    Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
    Khổ bịnh kia bởi đó hết chừa,
    Ta thoát cuộc vui lao đao vì nó”.

    HỎI: Sao gọi là vui đồng thọ?
    ĐÁP: Đồng thọ là vui đồng mạng sống với Đức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà, Ngài sống vô lượng vô biên a tăng lỳ kiếp, không thể tính lường. Chúng sanh một khi được vãng sanh về cõi nước của Ngài thì mạng sống cũng lâu dài như Ngài vậy. Ôi! Thương hại cho kiếp người trăm tuổi có mấy ai? Bảy mươi còn hiếm có. Muốn sống mà sống chẳng chẳng đặng, sợ chết mà lại chết đành, nếu như được vãng sanh còn lo gì khổ tử:
    “Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
    Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
    Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
    Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử”.


    HỎI: Thế nào gọi là vui như ý?
    ĐÁP: Than ôi! con người có biết bao nhiêu sự ham muốn, nhưng sự ham muốn đâu phải dễ thành. Muốn có ăn, không đủ ăn; muốn mặc, không đủ mặc; muốn có chỗ ở lại bơ vơ không nơi nương tựa. Còn biết bao điều ham muốn khác…nhưng chung qui chỉ được có hai chữ “thất vọng” mà thôi. Khi đó ở cõi Tịnh Độ muôn điều như ý:

    “Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
    Không nhọc nhằn lo việc sanh nhai.
    Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật Đài,
    Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc”.


    HỎI: Sao gọi là vui hải hội?
    ĐÁP: Ở Ta Bà có sanh phải có tử, có gặp gỡ thì phải có chia lìa; hiệp tan, tan hiệp; không một ai thoát khỏi ngày vĩnh biệt với thân nhân. Khi đó ở Tịnh Độ Thánh chúng đông như biển, không có khổ chia lìa và tử biệt. Vì ai cũng từ hoa sen mà ra, không có cha mẹ, tình lục thân quyến thuộc; cửu phẩm Liên hoa là phụ mẫu, bạn lành thánh chúng là họ hàng:
    “Cả hải chúng thảy đều vững chắc,
    Toàn dân lành đâu có đắn đo.
    Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò,
    Thoát sống khổ thương yêu, ly biệt”.

    HỎI: Sao gọi là vui hòa thuận?
    ĐÁP: Thế thường của con người hễ có thương là có ghét; thương vắng mặt trời nhớ nhung, ghét gặp mặt thì khó chịu. Khi ấy Cực Lạc quốc:
    “Chữ hòa thuận kể sao cho xiết,
    Tâm đồng nhau thương thiện vui vầy.
    Cảnh như như chẳng có đổi thay,
    Không màng biết phân chia nhân ngã
    Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
    Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau”.


    HỎI: Sao gọi là vui thanh nhã?
    ĐÁP: “Ôi! cả sang hèn chẳng ai thong thả” chí lý thay lời thánh giáo, nghèo thì buồn rầu vì thiếu thốn, lo sợ vì nợ nần; trái lại giàu hằng lo sợ mất của, buồn rầu vì không khỏi chết. Khi ấy:

    “Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã,
    Khổ, buồn, rầu, lo, sợ chẳng còn,
    Chốn Ta Bà tim lụn dầu mòn,
    Thân tứ đại của người cũng thế”.

    (Khuyến Thiện)

    Đã biết được Ta Bà khổ, Tịnh Độ vui, thử hỏi chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không phát nguyện cầu vãng sanh Tây Phương, để đẹp lòng mong muốn của Đức Phật và Đức Thầy:
    “Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh,
    Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh”.

    (Quyển 2)

    Đại Từ Đại Bi: đại là lớn, nhưng lớn ở đây không phải là lớn đối với nhỏ mà gọi là lớn. Chữ đại ở đây là Thể Đại; cái thể nầy ngang là trùm khắp mười phương, dọc là suốt hết ba đời (quá khứ, hiện tai, vị lai) là cái thể của chư Phật cùng chúng sanh vậy. Chúng sanh và Phật cùng một thể ví như một bản thân. Từ bi là tánh của thể đại, nên mới gọi là đại từ, đại bi. Hai chữ từ bi theo nghĩa đen của chữ Hán: Từ là lành; Bi là thương. Còn theo nghĩa của Phật học: Từ là lòng lành vô lượng; Bi là lòng thương vô lượng. Kinh giải thích về Từ Bi. “Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc. Bi năng bạt nhất thiết chúng sinh chi khổ”. Nghĩa: Lòng từ hay ban vui cho hết thảy chúng sanh, lòng bi hay nhổ tận cái gốc khổ của hất thảy chúng sanh.
    Đức Huỳnh Giáo Chủ giải thích ý nghĩa của từ bi như sau:
    “Đức Từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dùi dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.
    Đức Bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót khôn cùng”.
    Tình từ bi của Phật đối với chúng sanh ví như mẹ với con. Nên chi con đau thì mẹ khổ, con mạnh thì mẹ vui mừng, tình thương nầy giao cảm gắn liền không rời trong gang tấc. Nên nói chúng sanh, là chúng sanh ở trong tâm của Chư Phật. Vì chư Phật và chúng sanh cùng một thể, ví như một xác thân của ta, nếu như đầu nhức thì toàn thân đều đau; còn chân vập đau thì toàn thân đều nhức. Cũng như thế, nếu chúng sanh còn khổ thì Phật còn chịu khổ để cứu độ chúng sanh, đến khi nào tất cả chúng sanh đều nhập Niết Bàn, thì lòng từ bi mới thôi cứu độ. Nếu có một chúng sanh nào lâm cảnh khổ , rồi kêu than cầu cứu thì Phật và Bồ Tát liền đến nơi cứu; giống như trẻ thơ bị rơi vào hầm bẩn kêu mẹ than khóc, thì mẹ liền nhảy vớt không cần suy nghĩ. Tình từ bi của Phật đối với chúng sanh cũng giống như thế.
    Mười phương chúng sanh nếu đã phát tâm Bồ Đề, có lòng tín nguyện sâu thiết cầu vãng sanh thì Phật Ngài liền biết: khời tâm niệm Phật, Đức Phật liền nghe. Vì lòng từ bi của Đức Phật không giây phút nào rời khỏi chúng sanh:

    “Các chư Phật không khi nào rảnh,
    Tâm Từ Bi vẫn nhớ chúng sanh”


    Phổ độ chúng sanh: Phổ là cùng khắp; độ là cứu đưa; chúng sanh là một số đông còn chịu sự khổ sanh tử: phân đoạn và biến dịch (Phân đoạn là bỏ xác thân nầy để thọ sanh vào một xác thân khác; Biến dịch: là trạng thái thay đổi trong tâm hồn). Phổ độ chúng sanh là đưa khắp chúng sanh cửu giới về cõi Cực Lạc. Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết :
    “Phật từ bi độ tử độ sanh,
    Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.


    Đức Phật đem đạo lý giác ngộ để giáo hóa chúng sanh, ví như đem thuyền bè để đưa hành nhân vượt biển sang bên kia bờ Tịnh Độ. Nên mới dùng chữ phổ độ chúng sanh. Phật đã hết lòng nguyện độ, chúng sanh cửu giới phải hết lòng nguyện sanh thì mới có sự cảm giao tiếp độ.

    “Bây giờ Lão lại thúc đò,
    Đưa qua bến giác giông to tới nhà”

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)

    (Sở dĩ ba bậc Thánh mà còn gọi là chúng sanh vì đối với Phật còn có chỗ ngăn ngại, và chưa thấu hiểu, nghĩa là chưa đạt được quả diệu giác. Nên Đức Phật cũng gọi các Ngài là chúng sanh).
    A Di Đà Phật: Chữ A Di Đà Phật có vô lượng nghĩa, vô lượng công đức không thể nghĩ bà . Chư Phật mười phương nghe đến danh hiệu của Ngài thảy đều xưng tán, đó là do công đức hoằng thệ của Ngài.
    Điều nguyện 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế giới chẳng đều khen ngợi xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi chánh giác.
    Do đó mà danh hiệu của Ngài được gọi là hồng danh, người nhứt tâm niệm A Di Đà Phật cũng được công đức không thể nghĩ bàn. Tại sao vậy? – Vì niệm danh hiệu A Di Đà là niệm chỗ xưng tán của chư Phật mười phương, niệm chỗ xưng tán là niệm chỗ trọng tâm của chư Phật. Nên chỉ niệm có danh hiệu là “Nam Mô A Di Đà Phật” là niệm hết hồng danh của chư Phật mười phương, chỉ có một câu niệm A Di Đà mà được vô số lượng bất khả tư nghị hồng danh của chư Phật mười phương. Thật là nhiệm mầu! nhiệm mầu! Không thể nghĩ được. Nhứt tâm niệm hồng danh của một vị Phật mà công đức còn không thể nghĩ bàn, huống chi niệm mỗi câu lục tự là niệm hết cả thảy trong cửu giới chú tâm nghe hồng danh A Di Đà Phật liền được thoát khổ; nhứt tâm để niệm liền được thành đạo vô thượng bồ đề. Đó cũng do bản nguyện công đức lớn lao của Ngài A Di Đà.
    Điều nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi mà không được vô sanh Pháp nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi chánh giác.
    Điều nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở mười phương nghe đến danh hiệu của tôi liền vui mừng tin mến phát bồ đề tâm nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi chánh giác.
    Điều nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh, mãi đến thành Phật. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi chánh giác.
    Nghe qua những bản nguyện lớn lao của Phật, làm cho chúng ta thật vô cùng vui mừng, vì chỉ có chú tâm nghe đến hồng danh mà còn được những lợi ích lớn lao chưa từng có, huống là người nhứt tâm niệm lục tự Di Đà suốt đời, thảo nào mà không vượt hẵn tam giới vào vị bất thối để thẳng lên quả A Nậu Đa La tam miệu tam Bồ Đề.
    Chữ A Di Đà được Đức Phật Thích Ca giải thích trong Kinh như sau : “Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà? Nầy Xá Lợi Phất, Đức Phật đó quang minh vô lượng chiếu suốt mười phương không bị chướng ngại nên hiệu là A Di Đà. Đức Phật đó và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp nên gọi là A Di Đà”.
    Vì quang minh vô lượng và thọ mạng vô lượng, nên trong các kinh gọi Đức Từ phụ A Di Đà Phật là vô lượng Quang Phật (Kinh Hoa Nghiêm v.v…), mà cũng có nơi gọi là vô lượng thọ Phật (Kinh vô lượng Thọ v.v…)
    Kinh “Phật thuyết vô lượng Thọ”Đức Bổn Sư bảo Ngài A Nan. Đức Phật A Di Đà có oai thần quang minh tối tôn đệ nhứt; quang minh của chư Phật không sánh kịp, vì thế nên Đức vô lượng thọ phải có những hiệu:
    1/- Vô lượng Quang Như Lai .
    2/- Vô biên Quang Như Lai.
    3/- Vô Ngại Quang Như Lai.
    4/- Vô Đối Quang Như Lai.
    5/- Diện vương Quang Như Lai.
    6/- Thanh Tịnh Quang Như Lai.
    7/- Hoan hỷ Quang Như Lai.
    8/- Trí huệ Quang Như Lai .
    9/- Nan Tư Quang Như Lai.
    10/- Bất Đoạn Quang Như Lai.
    11/- Vô xưng Quang Như Lai.
    12/- Siêu nhựt nguyệt Quang Như Lai.

    Đã biết được ý nghĩa danh hiệu lớn lao của Phật, thiết tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu về thân tướng tốt đẹp của Đức Phật A Di Đà.
    Thể theo trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, thân của Đức A Di Đà như trăm nghìn muôn ức lần sắc vàng Diêm phù đàn của Trời Dạ Ma, cao sáu mươi muôn ức nadotha hằng hà sa do tuần. Lông trắng giữa đôi mày uyển chuyển xoáy tròn về phía hữu như năm trái núi Tu Di. Đôi mắt trắng và xanh biếc phân minh như bốn đại hải. Các lỗ chân long nơi thân đều phóng ánh sáng như núi Tu Di, viên Quang của Phật như trăm ức cõi đại thiên . Trong viên Quang có trăm muôn ức Nadotha hằng hà sa vị hóa Phật, mỗi hóa Phật lại có vô số hóa Bồ Tát theo hầu.
    Thân mình của Đức Phật có tám muôn bốn nghìn tướng tốt, mỗi tướng có tam muôn bốn nghìn tùy hình hảo. Mỗi hình hảo có tám muôn bốn nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng chiếu khắp thập phương thế giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không bỏ rời.
    A Di Đà Phật có oai lực lớn lao thần thông mầu nhiệm như thế, nên chúng ta phải hằng niệm và cầu Ngài tiếp độ.

    C- ĐẠI Ý BÀI NGUYỆN SANH TÂY PHƯƠNG
    CỰC LẠC THẾ GIỚI

    Có những ý chính sau đây:
    1- Nhứt tâm qui hướng cầu sanh Cực Lạc thế giới.
    2- Chẳng những cầu riêng cho mình, mà còn tha thiết cầu xin Đức Phật Di Đà phổ độ cửu giới chúng sanh đồng sanh Tịnh Độ.
    3- Nếu như ai chí tâm để nghe hay hiệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, thì được công đức vô lượng và chắc chắn được Ngài tiếp độ.
    4- Nguyện vãng sanh Tây Phương là nguyện thành tựu đạo vô thượng Bồ Đề, nguyện thành đạo vô thượng tức là nguyện độ khắp chúng sanh.
    A- CÂU NHỨT NGUYỆN CẦU
    Nam mô nhứt nguyện cầu: Thiên hoàng , Địa hoàng , Nhơn hoàng , Liên hoa hải hội, Thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng thế giới bình an.
    B- Những chữ khó.
    Nhứt nguyện cầu: Thật lòng cung kính muốn cầu điều thứ nhứt.
    Thiên hoàng: là vị vua ở cõi Trời, ta có thể hiểu đó là “Đức Ngọc Hoàng”, cũng gọi là “Thích đề Hoàng Nhân”, là vị vua ở cõi Trời Đao Lợi cai quản rất nhiều cung Trời cùng Tứ Thiên Vương. Cung Trời Đao Lợi ở chót núi Tu Di tức là ở chỗ cao nhứt của mặt đất nầy (Tứ Thiên Vương là 4 vị vua Trời ở 4 góc của núi Tu Di.
    1- Trì Quốc Thiên Vương, ở hướng Đông.
    2- Quảng mục Thiên Vương, ở hướng Tây.
    3- Tăng trưởng Thiên Vương, ở hướng Nam.
    4- Đa văn Thiên Vương, ở hướng Bắc )
    Đức Thầy có câu:

    “Chúng sanh đắc tội với Thiên hoàng,
    Đạo lý chẳng gìn ở dọc ngang”.

    và Ngài còn viết :
    “Đức Ngọc Hoàng mở cửa thiên môn,
    Đặng ban thưởng Phật, Tiên với Thánh”.


    Xưa nay người ta thường nghe nói đến Ngọc Hoàng, chớ chưa một ai được thấy bằng sự thật. Thế mà hôm nay Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài còn cho biết:

    Khuyên bổn đạo lập thân nuôi chí,
    Đặng chờ ngày yết kiến Phật Trời”.


    Địa hoàng: Địa hoàng ở đây, ta có thể là các vị Diêm Chúa, nói rõ hơn là thập điện Diêm Vương thay mặt cho Ngọc Hoàng để xử án cõi âm. Căn cứ theo chỗ tạo thiện, ác của con người mà định việc tội phước rồi đi đầu thai ở các cõi. Sám giảng Đức Thầy có đoạn:

    “Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
    Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
    Chỉ có tội phước hỡi còn,
    Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài.
    Phước nhiều Tiên cảnh lên rày,
    Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê.
    Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
    Ăn năn chẳng kịp khó bề tính toan”.

    hoặc là :
    “Xuống Diêm Đình thấy tội hỡi ôi !
    Đó mới biết có nơi Địa Ngục”.

    Nhơn hoàng: Là vị vua ở cõi người, có đủ đạo đức để trị dân. Nên hiểu đây là bực vua Thánh cũng gọi là “Thánh Hoàng”. Đức Thầy có câu:
    “Trăm họ đầu đê trước Thánh Hoàng.
    Nguyện giữ cang thường gìn Phật đạo,
    Giao hòa mãi mãi với lân bang”
    .
    (Bài Dụng Kinh Quyền)
    Đức Thầy đã nói về Tam Hoàng như sau:
    “Đến đó ta mới mừng cười,
    Nhìn xem Ngọc Đế giữa Trời định phân.
    Thiên Hoàng mở cửa các lân,
    Địa Hoàng cũng mở mấy tầng ngục môn.
    Mười cửa xem thấy ghê hồn,
    Cho trần coi thử có mà hay không.
    Nhơn hoàng cũng lấy lẽ công,
    Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian
    Ấy là đến lúc xuê xang,
    Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Ngươn”.


    Theo Đức Thầy cho biết, cuộc họp của Tam Hoàng có rất nhiều khách trong ba cõi tham dự và sau cuộc cộng đồng thưởng phạt của Tam Hoàng, thì bổn phận cứu đời của Đức Thầy kể như tạm xong, nên Ngài thành thơi trở gót về nơi ngôi vị.
    “Hòa mặt Trung Ương tam điệp khách,
    Đợi chờ thiên luật mới về ngơi”

    (Bài cho ông Tham Tá Ngà)
    hay là :
    “Trung Ương tam cõi đều hòa mặt,
    Ta mới thảnh thơi trở gót hài”.

    (Thi Xuân)

    Liên Hoa Hải Hội: Liên hoa là hoa sen, cũng kêu là Liên đài; Hải: là biển. Nghĩa bóng chỉ cho sự rộng lớn không bờ mé, không đo lường được; Hội: là qui hợp lại. Vậy Liên Hoa hải hội là cuộc qui hợp rất đông không thể tính biết, mà mỗi người đều có phẩm vị ngự trên Liên Đài. Nói rõ hơn là cuộc đại hội của Phật Tiên lập ra để chọn người tu chơn chính. Sám giảng có câu:

    Bây giờ kẻ Sở người Tề,
    Hiền lương đến Hội cũng kề với nhau”.

    Chữ Hải Hội ta có thể hiểu thêm là chỉ cho Thanh Tịnh Hải Hội ở cõi Cực Lạc, thể theo trong Kinh Đức Phật cho biết cõi Cực Lạc có chư Bồ Tát và Thánh chúng rất đông không thể tính biết, lại cùng ở một chỗ nên kêu là “Hải chúng Thanh Tịnh”. Thanh Tịnh Hải Hội là một phần trong ngũ phần Thanh Tịnh, cũng gọi là ngũ thiện, đối lại với cõi Ta Bà là Ngũ Trược. Chúng sanh ở cõi Ta Bà khi được vãng sanh về Tịnh Độ thì Ngũ Trược sẽ đổi lại là Ngũ Thanh.
    1- Kiếp trược đổi lại là Thanh Tịnh Hải Hội .
    2- Kiến trược đổi lại là Vô Lượng Quang .
    3- Phiền não trược đổi lại là Thường Tịch Quang.
    4- Chúng sanh trược đổi lại là Liên Hoa hóa thân .
    5- Mạng trược đổi lại là Vô lượng Thọ .
    Thượng Phật: Thượng là cao, nhưng từ cao ở đây không phải đối lại với thấp mà gọi là cao. Từ cao ở đây là cao công đức.
    Vậy Thượng Phật là vị Phật có công đức cao rộng không thể nghĩ bàn, mà các vị Phật khác không so sánh được. Thượng Phật ở cõi Ta Bà là Đức Phật Thích Ca ; còn ở thế giới Cực Lạc Phương Tây thì có Đức Di Đà là Thượng Phật.
    Đức Thầy có viết:
    “Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

    (Đó là vị Thượng Phật mà chúng ta hằng cầu)

    Phật vương: Phật là đấng giác ngộ; Vương là vua. Chữ Phật Vương là vua trong hàng giác ngộ. Trong Kinh luận thường gọi Đức Phật Thích Ca là vị Pháp Vương hay Y Vương. Pháp Vương là vị vua Pháp, ý nói Đức Phật Thích Ca có đầy đủ Pháp giáo để làm thầy giáo hóa trong cõi Nhơn, Thiên. Nên đại đệ tử của Phật, Ngài Văn Thù Bồ Tát thường được gọi “Pháp vương Tử”. Nghĩa là con trưởng của vị vua Pháp. Phật Vương chúng ta có thể hiểu thêm là Phật vị lai ở cõi Ta Bà (Di Lặc Tôn Phật).
    Để chứng minh về lý nầy, chúng tôi xin dẫn ra bài kệ tán Phật.
    “Pháp vương Vô Thượng Tôn,
    Tam giái vô luân thất.
    Thiên nhơn chi Đạo sư,
    Tứ sanh chi Từ phụ.
    Ngã kim tự qui y,
    Năng diệt tam kỳ nghiệp.
    Xưng dương nhược tán thán,
    Ức kiếp mạc năng tận”.
    Đức Thầy giải thích:
    “Ngài là vua Pháp tột cao,
    Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
    Tiên , người đồng kính đạo Thầy,
    Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh.
    Nay tôi qui mạng thiệt hành,
    Ngõ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời
    Tỏ ra khen ngợi những lời,
    Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng”.


    Độ chúng: Độ là cứu đưa; chúng là một số đông không thể tính . Độ chúng là cứu độ chúng sanh đến bấn bờ an lạc.
    Thế giới: Thế là đời; giới là riêng. Thế giới là cõi nước riêng, không chung liền với thế giới khác, như địa cầu mà chúng ta đang ở đây gọi là năm châu thế giới (1- Âu Châu, 2- Á Châu, 3- Phi Châu, 4- Mỹ Châu, 5- Úc Châu).
    Bình an: Bình là bằng lặng; Nghĩa bóng là không còn song gió, chiến tranh; An: Yên ổn không còn biến động dời đổi.
    Định nghĩa chung Thế giới bình an là năm châu thế giới được hòa bình yên ổn để sống theo đạo đức.
    Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải,
    Những ước ao thế giới hòa bình.
    Nên khuyên đời truyền bá sử kinh,
    Cho sanh chúng sửa mình trong sạch”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)

    C- ĐẠI Ý CÂU NHỨT NGUYỆN CẦU
    Câu nhứt nguyện cầu có những điểm đại ý như sau:
    1- Nhứt tâm để cầu Tam Hoàng công đồng thưởng phạt.
    2- Cầu Thượng Phật chuyển lập Liên Hoa Hải Hội để người lành được tham dự.
    3- Cầu Phật Vương độ chúng cho thế giới được bình an.
    Đây là bổn phận cũa người tu báo ân cần phải biết và phải cầu.

    A- CÂU NHỊ NGUYỆN CẦU VÀ
    TAM NGHIỆP CẦU

    Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu Huyền Thất Tổ Tịnh Độ siêu sanh.
    Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ , phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây phương.
    B- Nh
    ững chữ khó.
    Tịnh độ: Cõi nước trong sạch, đối với uế độ là cõi nước dơ xấu. Mặt đất bằng vàng, bảy báu và vô số trân bảo hợp thành, có lâu các, ao thất bảo, nước bát công đức, hoa sen 4 màu. Đây là do theo lời Đức Phật Thích Ca giới thiệu trong Kinh A Di Đà.
    - Hoa sen bốn mùa: xanh, đỏ, vàng, trắng. Hoa sen xanh hào quang xanh, hoa sen đỏ hào quang đỏ, hoa sen vàng hào quang vàng, hoa sen trắng hào quang trắng. Có đủ 4 chất: vi, diệu, hương, khiết, nhiệm mầu thơm đẹp.
    - Nước bát công đức có nghĩa như sau:
    1- Trừng thanh (lặng trong), khác với nước cõi ta bà đây vẫn đục .
    2- Thanh lãnh (man mát), khác với nước lạnh quá , nóng quá.
    3- Cam mỹ (ngon ngọt) , khác với nước mặn quá, nhạt quá.
    4- Khinh nhuyễn (mềm nhẹ), khác với nước nặng chìm.
    5- Nhuận trạch (được nhuần bóng nhoáng) khác với các thứ ướt át, thối nát, phai mầu, nhợt nhạt.
    6- An hòa (yên ổn, hòa nhã), khác vời thứ nước mau và dữ tợn.
    7- Trừ cơ khát (trừ hết đói khát) , khác với thứ nước sinh ra lạnh bụng.
    8- Trưởng dưỡng chư căn (nuôi lớn mọi căn), khác với mọi thứ nước làm tổn hoại mọi căn, làm rối loạn tăng bệnh, làm chìm đắm…
    - Lâu các bằng thất bảo:
    1- Vàng, 2- Bạc, 3- Lưu ly, 4- Pha lê, 5- Xà cừ, 6- Mã não, 7- Xích châu.
    Lâu các “nhà nhiều tầng là lâu, lầu cao chót vót là các. Lâu các bằng thất bảo, khác với ở đây làm bằng gỗ đá sơn xanh đỏ. Lâu các là chỗ ở và chỗ hội họp thuyết pháp. Những thần thức được vãng sanh , ở trong thai sen trên ao thất bảo nở ra, lên ngay bờ ao, đi vào pháp hội, thấy Phật, nghe Pháp”.
    Siêu sanh: Siêu là vượt hẳn ra khỏi tam giới; sanh là được sanh qua cõi nước Cực Lạc từ trong hoa sen nở ra rồi sanh sống ở đấy.
    Vậy siêu sanh Tịnh Độ là vượt ra khỏi sáu đường luân hồi trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) để sanh sống ở Tịnh Độ hưởng nhiều điều báu đẹp yên vui.
    Người tu hành thường nghĩ đến công ơn lớn lao của Tổ Tiên, nên cố gắng tạo tác phước điền, tu công đức (niệm Phật) để đem hồi hướng cho Cửu Huyền Thất Tổ sớm chiều, được siêu sanh Tịnh Độ.

    “Muốn cho tội lỗi mòn tiêu
    Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay”

    (Sám giảng quyển 3)
    Phụ mẫu: Phụ: cha, mẫu: mẹ .
    Tại đường: Cha mẹ hiện còn đang sống.
    Tăng long: Tăng là thêm lên; long là sung thịnh cao tốt. Ý cầu cho cha mẹ được sống lâu thêm tuổi.
    Phước thọ: Phước báo tuổi thọ.
    Vậy cầu cho phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ là cầu cho cha mẹ được nhiều phước báo sống lâu và mạnh khỏe.
    Ta cũng nên hiểu , đó là hiếu đạo muốn nuôi dưỡng mẹ cha.
    “Nếu ai biết chữ tu trì
    Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn”
    (Sấm giảng quyển 3)
    Quá khứ: Đã qua. Ý chỉ cha mẹ đã qua đời (cũng có thể hiểu là cha mẹ nhiều kiếp qua).
    Trực vãng Tây Phương: Trực là thẳng; vãng là qua.
    Vậy cầu phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây Phương là cầu cha mẹ đã qua đời được thẳng qua cõi Cực Lạc thế giới phương Tây, chớ không cầu về cõi nào khác .

    C- ĐẠI Ý CÂU NHỊ NGUYỆN CẦU
    VÀ TAM NGUYỆN CẦU

    1- Người tu hằng nhớ đến ơn Tổ Tiên, để tu các công đức hồi hướng cho Cửu Huyền Thất Tổ được siêu sanh.
    2- Bổn phận làm con phải hết lòng đối với cha mẹ khi còn sanh tiền.
    3- Khi cha mẹ qua đời phải rán hết sức tu cầu để báo hiếu xuất thế gian.
    Đây là bổn phận của người muốn báo ơn cha mẹ và Tổ Tiên cần phải biết và phải cầu.
    A- CÂU TỨ NGUYỆN CẦU
    Nam Mô tứ nguyện cầu: Bá tánh vạn dân từ tâm bác ái , giải thoát mê ly .
    B- Những chữ khó.
    Bá tánh: Trăm họ, chỉ cho nhiều người. Ta có thể hiểu hầu hết đồng bào dân tộc.
    Vạn dân: Muôn dân vạn dân nói chung cả nhân loại.
    Từ tâm: Bác ái rộng lớn, ái là lòng thương yêu. Nói chung là lòng thương yêu rộng lớn đối với vạn loại chúng sanh.
    Vậy cầu cho “bá tánh vạn dân từ tâm bác ái” là cầu cho đồng bào dân tộc và nhân loại trên quả địa cầu trở lại với lương tâm đạo đức, mở rộng tình thương giúp đỡ lẫn nhau; đó cũng là điều mà Đức Thầy hằng mong.

    “Mong sanh chúng học điều thông thái,
    Rèn tâm lành bác ái trau tria”.

    (Bài Nang thơ Cẩm Tú)

    Giải thoát: Giải, do Phạn Ngữ Môksha, phiên âm là Mộc đề hay Mộc xoa dịch là giải. Có nghĩa là lìa khỏi sự trói buộc hoặc nghiệp phiền não; Thoát: là ra ngoài tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Vậy giải thoát là cởi mở sự trói buộc của nghiệp luân hồi sanh tử mà chứng đắc từ quả A La Hán lên Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Cho nên chữ giải thoát đồng nghĩa với chữ Niết Bàn (bất sanh bất diệt). Đức Thầy từng dạy: “Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”.
    Mê ly: Tối tăm lầm lạc, lưu luyến đắm đuối mãi theo một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Nói rõ là lìa bỏ giác tánh (tánh chơn như), theo vọng trần sống với ý thức mê lầm (ý, phân biệt), đem tâm đắm nhiễm vật chất, cho các pháp thế gian là thật. Nên mới gọi đó là mê ly.
    Con người thời nay đang đấu tranh về văn minh vật chất. Nhưng than ôi! nếu văn minh vật chất càng nhiều thì chiến tranh càng lan rộng giết hại lẫn nhau:

    “Đời vật chất văn minh tranh cạnh,
    Chữ lợi quyền giựt giết lẫn nhau”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Con người nếu đắm say vật chất nhiều chừng nào , thì khổ lụy nhiều chừng nấy , dễ đi vào chỗ hư hèn ; hiếm có người giữ theo đạo lý nhân luân :
    “Đời văn vật say mê khổ thảm,
    Người nào đà tường lãm nho văn.
    Xưa nay mèo mã lung lăng,
    Làm cho quên mất đạo hằng thánh nhơn”.

    (Bài cho Ông Lương Văn Tốt)
    Chúng sanh vì quá mê ly vật chất, mà phải xa lìa đạo đức chịu nhiều thê thảm, động lòng Tiên Phật nên phải lâm phàm giáo độ:
    “Thảm thương thế sự lắm ôi,
    Dẫy đầy thê thảm lắm hồi mê ly.
    Dạo chơi lục tỉnh một khi,
    Rước đưa người tục tu trì xa khơi”.

    (Sấm giảng quyển 3)
    Hôm nay ta đã tỉnh, được học đạo tu hành, còn biết bao đồng loại đang lặn hụp trong biển đời tăm tối , nên lòng hằng nghĩ đến để nguyện cầu.

    C- ĐẠI Ý CÂU NGUYỆN THỨ TƯ
    1- Mình đã gặp được đạo lành để tiến hóa, nghĩ tới ơn đồng bào và nhân loại, nên phải cầu cho bá tánh vạn dân từ tâm bác ái.
    2- Hôm nay mình được tỉnh, biết bao kẻ còn mê, nên phải cầu cho tất cả đồng quay về giác ngộ.
    Đây là bổn phận của người tu muốn đáp ơn, cần phải biết và phải cầu.

    A- CÂU NGŨ NGUYỆN CẦU
    Nam Mô ngũ nguyện cầu: Phật Tổ, Phật Thầy, từ bi xá tội đệ tử tiêu tai tịnh sự, trí huệ thông minh giai đắc đạo quả.

    B- Những chữ khó.
    Phật Tổ: Ở đây tức là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Phật Thầy: Đức Thầy Kim Sơn Phật.
    Xá tội đệ tử: Xá tội là tha thứ; đệ tử là tín đồ, là con Phật. Người Phật tử chúng ta cũng nên tự hỏi: Cầu Phật Tổ, Phật Thầy xá tội đệ tử đó là những tội gì? Thiết tưởng chúng ta cần phải biết được chúng ta mới thấy ân từ của Thầy Tổ và mới hết lòng phụng sự Phật Pháp.
    Thử hỏi, Đức Thích Ca Ngài vì ai? mà lìa đền đài điện ngọc, lìa cha già vợ đẹp con cưng, vào rừng sâu núi thẳm khổ hạnh sáu năm, thân xác ốm gầy sống với màn trời chiếu đất, quyết tầm đạo cứu đời. Lại còn phải 49 ngày nhập định dưới cội Bồ Đề thệ rằng: “Nếu không đắc được đạo vô thượng để độ chúng sanh, thì quyết không dời chỗ”; lại còn bị Ma Vương khuấy nhiễu lắm lần, khi đã hoàn toàn thành Đạo vô thượng Ngài không vội nhập Niết Bàn, còn trụ thế 49 năm vân du thuyết giáo, lời lẽ ôn từ kinh điển còn đành rành dễ đâu ta quên được. Trở lại Đức Thầy tôn kính, Ngài vì ai? mà lìa cảnh Niết Bàn tịch tịnh, vì ai mà chẳng ngồi an nơi ngôi vị: “Hưởng quả Bồ Đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần đặng chịu sự chê khen?” (Bài Sứ Mạng)
    Vì ai mà Ngài phải xa lìa thân sinh.
    “Từ mang một tấm áo dà,
    Mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai”.

    (Bài Tự Thán)
    Lại còn phải chịu:
    “Bá nhựt thân nầy chịu nạn tai”
    (Hiến Thân Sãi Khó)

    Người ta còn đem Ngài đến nhà thương Chợ Quán để chích thuốc độc cho uống acid; sau đó còn đưa vào chuồng cọp cho thú dữ mặc tình …thế mà cũng chưa vừa bụng , lại còn lụu Ngài đi các nơi. Than ơi! sau cùng họ còn tìm cách ám hại làm cho Ngài cách biệt đến ngày nay. Ngài ra đi còn để lại vạn lời giáo hóa, trong sám thi Kệ giảng còn ý thức cho tín đồ rằng: “Đạo Phật là Đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ, tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi”. Thật còn chi tôn kính cho bằng tình từ bi cao cả của Đức Phật và Đức Thầy, vì chúng sanh mà chịu điều khổ hại . Nếu chúng ta chẵng sớm tỉnh , hết lòng thừa hành Phật Pháp thì đối với ân đức cao dày tội ta biết mấy.
    Cảm kính vô cùng khi nghe đến câu:

    “Vậy mà còn ghét kệ ca,
    Không gây tình cảm để già nhọc khuyên”

    (Từ giã làng Nhơn Nghĩa)
    Tiêu tai: Dứt hết ạn tai.
    Con người từ trước đến nay (nhiều kiếp qua và hiện tại) tạo ra chẳng biết bao nhiêu điều nghịch ác. Nay đã đến thời lỳ chung cuộc báo đền.

    “Trải một lúc cuồng ba sóng dậy,
    Chắc nhơn sanh sẽ thấy việc chi ?
    Trời đà sắp đặt ly kỳ,
    Tới ngày trả quả ầm ì biết bao”

    (Bài Thu Đã Cuối)
    Những nạn tai hãi hung mà chúng ta sắp phải gặp:
    “Nước kia lửa nọ tưng bừng,
    Thảm cho thế sự lẩy lừng nạn tai.
    Thời cũng tại không ai tu niệm,
    Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang.
    Đến nay là buổi tai nàn,
    Tam thiên lục bá khắp tràn hại dân”

    (Bài Thiên Lý Ca)
    Lại còn những nạn đau chết, nạn tà ma yêu quái, thêm cửa nhà tan nát và cảnh biến di thương hải :
    Lớp đau chết kể thôi vô số,
    Thêm tà ma yêu quái chật đường.
    Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương,
    Làm sao cứu những người hung ác.
    Khắp thế giới cửa nhà tan nát,
    Cùng xóm lành thưa thớt quạng hiu
    Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
    Nay tận diệt lập đời trở lại,
    Khắp lê thứ biến di thương hải
    Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn”

    (Kệ Dân)
    Những nạn tai như thế thử hỏi chúng ta có tài nào để vượt qua, nếu không có sự cứu độ của ơn trên. Bởi lẽ nên phải cầu tiêu tai:
    Tịnh sự: Sạch hết các việc. Đức Thầy có viết:

    “Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên,
    Bát nhã từ đây gặp cửa Thiền
    Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
    Lánh đời tục lụy rứt tiền khiên”.

    (Đến làng Nhơn Nghĩa)
    Trí huệ: Trí hiểu biết; Huệ: sáng suốt.
    Trí Huệ là trí sáng suốt hiểu biết rốt ráo. Trí Huệ đây không phải là cái trí hiểu biết thông minh của người có học (Thế Trí biện thông)
    Chữ trí theo duy thức lại có 4 trí:
    1- Thành sở tác trí: Trí nầy là do công tu hàng phục được : nhãn thức ; nhĩ thức ; tỉ thức ; thiệt thức ; thân thức mà được Trí thành sở tác .
    2- Diệu quan sát trí: Trí nầy là do công tu hàng phục được ý thức mà được trí Diệu quan sát.
    3- Bình đẳng tánh trí: Là do triệt hạ được bản ngã (Mạt Na thức hay ý căn) mà chứng ngộ trí bình đẳng.
    4- Đại viên cảnh trí: Trí nầy do gội sạch thức A Lại Da (chơn vọng hoà hợp) trở thành Bạch tịnh thức mà được trí Đại viên cảnh.
    Khi thành Phật, có đủ các loại trí nên gọi là nhứt thiết chủng trí.
    Về Huệ nếu phân tách cũng có ba thứ:
    1- Văn huệ; 2- Tư huệ; 3- Tu huệ .
    * Văn huệ là nói hành giả nhờ học rộng nghe nhiều mà được trí sáng suốt.
    * Tư huệ là nhờ có tu tập suy ngẫm, chiêm nghiệm mà được sáng suốt hiểu biết về đạo lý.
    * Tu huệ là nhờ có công phu tu hành diệt trừ được vô minh phiền não mà trí huệ hiện bày. Như hành giả có tu các môn:
    - Tam vô lậu là ba món vô lậu, đó là nhân giữ giới mà sanh định, nhân tâm định mà phát huệ.
    - Hoặc tu môn niệm Phật được nhứt tâm bất loạn mà có được trí huệ, hoặc tham thiền nhập định v.v…
    Môn tu về Huệ , Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài có dạy như sau.
    1/- Văn huệ Ngài dạy:
    “Khá chí tâm học hành Kinh sám,
    Thoát nơi miền hắc ám phong ba”.

    hay là :
    “Trí huệ trau giồi khán kệ kinh”.
    2/- Tư huệ Ngài dạy:
    “Định tâm thần như mặt nước hồ,
    Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối”.

    hay là :
    “Coi rồi phải nhận cho hiểu lý
    Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy”.

    hoặc giả: “Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy”.

    3/- Tu huệ Đức Thầy dạy: “Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội). Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhất của mối đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn , tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gỗ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”.
    hoặc là:
    “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
    Tâm bình định được thì phát huệ”.


    Có trí huệ mới chiếu phá được vô minh, trừ lòng tham ái, không còn tạo ra cái nhân: sanh tử, luân hồi (nghiệp thiện ác). Đây là mục đích tối thượng mà người tu phải cần đạt cho được.
    Trong sám thi Đức Thầy thường tỉ dụ trí huệ giống như gươm để giết giặc, cắt đứt tâm nhiễm trần luyến ái:
    “Lũ tam bành trong bụng còn đeo,
    Đoàn lục tặc tam au sớm giết.
    Mài gươm trí cho tinh cho khiết.
    Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    hoặc :
    “Bể ái hà gươm linh sớm dứt,
    Lòng Bồ Đề sắt đá dám kình”.

    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Gươm trí còn có công năng trừ diệt được nội ma và ngoại ma:
    “Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,
    Rứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.

    và:
    “Hươi gươm trí huệ ma vương hãi hùng”.

    Kinh Kim Cang gọi trí huệ là “Bát Nhã Ba La Mật Đa” – Trí huệ rốt ráo đáo bỉ ngạn . Trí huệ Bát Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa chúng sanh từ bên nầy bờ mê muội triền phược của phàm phu, đến bên kia bờ giác ngộ của chư Phật.
    Đức Thầy dạy:
    “Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn”.
    hay là:
    “Chúc ông thoàn nhã vững lèo
    Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu”.

    Người tu hành khi được thật tường Bát Nhã rồi, chẳng những giải thoát cho mình mà còn dùng trí nầy để giáo hóa và tiếp độ chúng sanh .
    “Thuyền Bát Nhã ta cầm tay lái,
    Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Thông minh: Thông là hiểu biết suốt không ngăn ngại; minh là sáng tỏ. Thông minh là hiểu biết về chân lý một cách sáng tỏ không ngăn ngại; tức là hiểu biết về chân lý nhân quả hữu lậu cho đến vô lậu một cách rõ ràng.

    HỎI: Vừa nghe trình bày qua về nhân quả hữu lậu và vô lậu, chúng tôi chưa được biết, xin phân tách và giải rõ thêm.
    ĐÁP: A- NHÂN QUẢ HỮU LẬU
    1- Nhân quả của ba đường ác.
    2- Nhân quả của ba đường thiện .
    1- NHÂN QUẢ CỦA BA ĐƯỜNG ÁC.
    a- NHÂN VỀ ĐỊA NGỤC: Lòng cực sân đốt hết trí huệ, dứt cả thiện tánh, tạo tội ngũ nghịch, thập ác đó là nhân; phải sanh về địa ngục là quả, chịu sự hành phạt không gián đoạn, nóng hoặc lạnh cùng cực, mới có tên là địa ngục vô gián (tội ngũ nghịch: 1- Giết cha , 2- Giết mẹ , 3- Làm thân Phật ra máu , 4- Giết hại A La Hán , 5- Khuấy rối chúng Tăng).
    b- NHÂN SANH VỀ NGẠ QUỈ: Lòng cực tham, bỏn xẻn, bao gồm tạo nhiều điều nghịch ác, đó là nhân; phải sanh làm ngạ quỉ, chịu sự khổ não đói khát, bẩn thỉu lâu đời.
    c- NHÂN SANH VỀ SÚC SANH: Lòng cực si tạo nhiều ác nghiệp; dâm dật, sác sanh, đó là nhân; phải sanh về súc sanh là quả, chịu sự khổ não của nước sôi, lửa đốt, cảnh giết hại dao thớt chặt bằm.
    2- NHÂN QUẢ CỦA BA ĐƯỜNG THIỆN:
    a- NHÂN VỀ ĐƯỜNG ATULA: Có hành thiện nghiệp mà còn ngã chấp sân hận, đó là nhân; phải sanh làm thần ATULA là quả, thường hay tranh đấu với chư thiên.
    b- NHÂN VỀ ĐƯỜNG NGƯỜI: Có giữ đạo luân lý tam cang ngũ thường, lòng còn luyến ái đó là nhân; phải sanh làm người là quả, chịu cái khổ: sanh, già, bịnh, chết …
    c- NHÂN VỀ ĐƯỜNG TRỜI: Chuyên hành nghiệp thiện, tạo phước là nhân; nên sanh về cõi Trời là quả, hưởng điều khoái lạc của ngũ dục thắng diệu hơn cõi người, nhưng mãn phước cũng phải luân hồi.
    B- NHÂN QUẢ VÔ LẬU
    1- NHÂN TU CỦA QUẢ THÁNH THINH VĂN.
    Nương theo pháp tứ để tu tập, ngộ lý ngã không, đó là nhân tu, chứng được Thinh Văn thánh là quả. Thinh văn gồm có 4 vị phần.
    a- TU ĐÀ HOÀN: Cũng gọi là quả nhập lưu, lên xuống cõi Trời, cõi người bảy lần để tu tập mới chứng đạo A La Hán, nên gọi Tu Đà Hoàn thất lai.
    b- TƯ ĐÀ ĐÀM: Nhứt lai, vì chỉ còn trở lại cõi người một lần để tu tập.
    c- A NA HÀM: Bất lai, vì không trở lại cõi người, mà chỉ ở cõi Trời Ngụ Tịnh Cư để tu tập chứng đạo A LA HÁN.
    Ba hạng nầy đều có lục thông.
    d- A LA HÁN: Có được lục thông:
    1- Thiên nhãn thông: Thấy mọi vật trong vũ trụ.
    2- Thiên nhĩ thông: Nghe mọi tiếng khắp nơi.
    3- Thần túc thông: Phép đi khắp nơi trong nháy mắt và muốn biến hóa chi tùy ý.
    4- Túc mạng thông: Biết rõ nhiều kiếp trước và kiếp sau của mình cùng của chúng sanh một cách rành rẽ.
    5- Tha tâm thông: Biết rõ được tâm niệm của kẻ khác.
    6- Lậu tận thông: Sạch cả phiền não Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng được ngã không

    2- NHÂN TU CỦA QUẢ THÁNH DUYÊN GIÁC.

    Từ nơi xuất Thiền định để suy nghiệm mà tỏ ngộ lý duyên sanh, phát khởi từ nhân vô minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh sắc, danh sắc sanh lục nhập, lục nhập sanh xúa động, xúc động sanh thọ cảm, thọ cảm sanh ái, ái sanh bảo thủ, bào thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão tử. Đó là nhân tu; chứng Duyên Giác thánh là quả. Qủa thánh nầy cũng gọi là Bích Chi Phật.

    3- NHÂN TU CỦA QUẢ BỒ TÁT.

    Phát tâm rộng lớn, nghĩ đến chúng sanh khổ, lấy lợi tha làm chủ đích, tu lục độ vạn hạnh: Bố Thí, Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Đó là nhân tu; chứng được Bồ Tát là quả.

    4- NHÂN TU ĐỂ CHỨNG LÊN PHẬT QUẢ.
    Tu hạnh tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), hạnh giác ngộ viên mãn (Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn) và chuyên niệm Phật, chuyên làm hạnh Phật, đó là nhân tu; để chứng lên bực Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác (Phật). Phật đối với Bồ Tát gọi là Vô Thượng, đối với nhị thừa gọi là Chánh Đẳng, đối với phàm phu gọi là Chánh Giác.
    Người tu khi có được trí huệ dẽ được thông minh, chớ không bao giờ có thông minh mà không có trí tuệ; nên muốn được thông minh thì lẽ tất nhiên phải tu trí tuệ, và nếu đã có trí tuệ suốt thông được chân lý nhân quả hữu lậu cho đến vô lậu một cách sáng tỏ để tu trì; thì mới đi đến chỗ giac đắc đạo quả
    Giac đắc đạo quả: Giac đắc là đều đặng; đạo quả là các quả tu chứng trong đạo Phật, đại khái như đã nói ở phần nhân quả vô lậu. Còn lấy riêng về hai chữ đắc đạo để bàn giải thì đặc biệt vô cùng, khó thể luận bàn cho nốt được. Đắc đạo là tự tỏ ngộ đắc được lý tánh tuyệ đối, đến chỗ nầy đã hoàn mãn cuộc hành trình của người tu Phật. Các Kinh gọi không giống nhau:
    - Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là Như Lai Tàng hay chơn tâm. Như Lai tang là kho tang Như Lai của chúng sanh, đó là tâm thể chơn thật.
    - Kinh Đại viên Giác: gọi là viên giác tánh, là tánh giác tròn đầy.
    - Kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí huệ Phật.
    - Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật hay Phật thừa. Bởi vì nó là cái thấy biết Phật, là cổ xe đưa người đến Phật quả.
    - Đức Phật lại cũng gọi là chánh Pháp nhãn hay Phật tánh v.v…
    Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ gọi là Bổn Lai Diện Mục; hay Giác tánh chơn như.
    Trong Pháp hội ở Linh Sơn Đức Phật Thích Ca Ngài đưc cành hoa sen lên, để tỏa ý hỏi tất cả đệ tử trong Pháp hội, nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp tiếp nhận được ý Phật mà thôi, nên ông tỏ ý bằng cách chím miện cười. Đức Phật tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tang, Niết Bàn diệu tâm, vô tướng thật tướng, nay phú chúc Ma Ha Ca Diếp”.
    Trường hợp truyền pháp đắc đạo nầy thật khó nói ra, thế là Ngài Ca Diếp được làm Tổ thứ nhứt của dòng Thiền từ Ấn Độ, chỗ đắc ngộ nầy không thể mà chỉ giáo được, chỉ dùng tâm ý mà truyền nhau thôi. Kinh gọi: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”. Nếu còn dùng lời mà kêu gọi hay để chỉ thì thật không đúng với Đạo chút nào. Bởi lẽ nên Lão Tử cũng bảo: “Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi thường danh”. Nghĩa: Đạo mà có thể nói được thì không phải Đạo chơn thường, tên mà có thể kêu được là không phải tên chơn thường.
    Lão Tử còn nói rằng: “Ngô bất tri kỳdanh, cưỡng tự chi viết Đạo, cưỡng nhi chi danh viết đại”. Nghĩa : Thật ta không biết gọi bằng tên chi cho đúng , nên gượng kêu là Đạo, mà gượng kêu là lớn.
    Kinh Luận cũng bảo: “Lý viên, ngôn thiên, ngôn sanh lý tán, phàm hữu ngôn thuyết giai thành hí luận”. Nghĩa: Chân lý y nhiên thì tròn, bằng dùng lời mà kêu thì đã lệch, còn đem nói ra lời thì chơn lý không còn y nhiên, phàm đem lời nói luận bàn về chân lý tuyệt đối đều trở thành hí luận cả.
    Nên Đạp chỉ dùng tâm ý mà truyền nhau thôi.
    Chúng tôi xin dẫn ra câu kệ của Đức Huỳnh Giáo Chủ huấn thị về trường hợp nầy.
    “Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
    Danh ngôn chép để rạch đàng Tiên.
    Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn,
    Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”.


    Qua hai câu đầu trong bài kệ chúng ta thấy Đức Giáo Chủ cho biết: những danh từ lời lẽ giảng nói được ghi chép là để vạch đường chỉ lối mà thôi. Trong Kinh Đức Phật thường tỉ dụ là cánh tay chỉ mặt trăng. Cánh tay dụ cho lời lẽ giãng nói về đạo lý; mặt trăng sáng là dụ cho chỗ chứng đạo. Nên Đức Thầy cho biết cái đạo vô thượng thậm thâm, nghĩa là cao không chỗ cùng, sâu không chỗ tận, chỉ lấy ý ma truyền thôi. Nếu Thầy và Phật lấy ý mà truyền Đạo, thì ta cũng phải lấy ý mà tiếp nhận. Đó mới gọi là Đắc Đạo.
    Còn hai câu:
    “Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn,
    Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên”


    Đức Thầy vì qua thương chúng ta hết lòng khuyên dạy, dùng lời nói chỉ bảo tận tường, dù ở nhà mà tu pháp môn Tịnh Độ miễn tâm được viên mãn thì chỗ đứng đạo cũng hoàn toàn.
    - Nói tâm viên mãn là như thế nào?
    - Tu Tịnh Độ mà tâm viên mãn là tâm tròn đủ. Nghĩa là một lòng tin sâu, nguyện thiết, nhứt tâm trì danh không tán loạn.
    Xin nói rõ câu: “Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn” là chỉ cho hữu môn (Pháp môn Tịnh Độ) đi vào chơn không diệu hữu; còn câu “ Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền” là chỉ cho không môn (Thiền Tông) đi vào thật tướng. Thiền Tông và Tịnh Độ sẽ gặp nhau ở cuối đường (Chỗ Chứng Đạo).
    Đến đây chúng tôi mới nhớ lại hai câu:
    “Kỳ giã thức tâm tìm đạo lý,
    Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu”.

    Đó là cửa vào nhà chứng ngộ, thế mà cũng có người quan niệm rằng: “Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu” là đến thời kỳ dẹp hết nhang đèn không còn cúng lạy.
    Hoặc giả cho rằng: hễ tu cao khi trở về tâm rồi, là không còn giữ tướng cúng lạy nhang đèn.
    Thật là vô cùng đáng tiếc cho chúng ta, có những quan niệm sai lầm đến thế. Nếu đạo mà còn thiên hữu, chấp vô, luận tướng nói tánh thì đâu phải là viên dung trung đạo, người tu đến chỗ chứng đạo hoàn toàn thì hữu vô bất nhị, tướng tánh không hai; bất cứ lúc nào hay nơi nào: tới, lui, qua, lại, trên, dưới, trước, sau, động, tịnh , nói, nín, vẫn không lìa tự thể (tánh chơn), đến đây rồi tâm và Phật đã tương ưng, thì đâu còn nói: có câu hay không cầu, có lễ hay không lễ.

    C- ĐẠI Ý CÂU NGŨ NGUYỆN CẦU
    1/- Tín đồ Phật phải biết ơn Phật, ơn Thầy hết lòng lo tu, phải tự thấy lỗi cầu xin xá tội để được tiêu tai tịnh sự.
    2/- Trí huệ là mục đích tối yếu đối với người tu giải thoát, là điều quyết định vấn đề sanh tử , nên không thể thiếu.
    3/- Đã nói trí huệ thông minh thì người tu sẽ đi đến giai đắc đạo quả.
    Để tóm phần đại ý, chúng tôi xin mạng phép cùng toàn thể đưa ra một vài câu hỏi chung .
    Câu hỏi thứ nhứt: Những bài nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy, nó có đầy đủ đạo lý siêu việt không?
    Câu hỏi thứ hai: Chúng ta có nên nguyện cầu để báo ơn, để thiêng liêng gia hộ, và vãng sanh Tây Phương không?
    Câu hỏi thứ ba: Những bài nguyện chúng ta có nên tìm hiểu ý nghĩa để thực hành không?
    Nếu tất cả những bài nguyện mà Đức Thầy đã dạy đó, nó có đủ đạo lý siêu việt và phải hằng cầu để báo ơn, để thoát sanh tử, thì ta y cứ thiệt hành đi, khuya sớm chuyên cần lo công phu bái sám suốt đời; y nhiên không dời đổi; y nhiên không dời đổi, thì lo gì đạo khong đắc, quả nào không thành, chỉ sợ e cho chúng ta là:
    “Ít tai giữ đặng chí bền,
    Tu theo nước lớn, ròng bèn thả trôi”.
    Vừa qua chùng tôi đã tạm làm xong bổn phận chú giải những bài nguyện mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã dạy.

    TÓM LƯỢC DIỄN CA

    Nguyện cầu phải hiểu thông nghĩa lý,
    Có thiết tha nguyện chí mới thành
    Nguyện rồi y cứ thiệt hành,
    Những điều đã hứa đành rành sớm khuya
    Trước Tông Tổ nguyện kia đã hứa,
    Lo cầu hiền hứa giữ Đạo hằng.
    Tu cầu Tông Tổ siêu thăng,
    Cầu sanh Lạc quốc vị tăng Liên đài.
    Trước Tam Bảo hằng ngày nguyện hứa ,
    Hứa ăn năn cải sửa làm lành,
    Qui y Phật Đạo phải hành,
    Tây Phương Cực Lạc cầu sanh kiếp nầy.
    Bốn ơn lớn tròn đầy ngũ nguyện,
    Muốn đáp đền thực hiện sớm chiều.
    Lòng thành tội nặng cũng siêu,
    Chí bền giữ vẹn Phật độ ta .
     
  3. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    CHƯƠNG 5
    BIẾT NIỆM DI ĐÀ

    Niệm Di Đà rán niệm cho rành,
    Thì mới được sống coi Tiên Thánh”

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)​

    HỎI: Vừa qua chúng tôi lý hội rất nhiều về cách tu hiền, nên chúng tôi đã quyết định niệm Phật cầu vãng sanh, nhưng về cách tu chưa hiểu rõ. Vậy xin ông cho biết thêm những câu giảng mà chúng tôi được nghe trong giáo lý của Đức Thầy dạy về phương pháp tu Tịnh Độ. Trước hết xin hỏi câu:
    “Niệm Di Đà rán niệm cho rành ,
    Thì mới được sống coi Tiên Thánh ’’.


    Niệm như thế nào mới gọi là niệm rành ? “ Nam Mô A Di Đà Phật ’’ niệm đủ sáu chữ như vậy, có được gọi là rành không?
    Đáp: Niệm lục tự Di Đà mà không thiếu chữ nào, thì đó gọi là niệm đủ chữ, chớ đâu có thể gọi là niệm rành. Vì người tu hay không tu đều niệm được 6 chữ, thậm chí những em nhỏ còn có thể niệm được kia mà. Thế là câu “ Niệm Di Đà rán niệm cho rành ’’ có hàm xúc ý nghĩa sâu rộng, nên Ngài mới bảo chúng ta rán niệm cho rành.
    Thể theo trong Sám kệ của Đức Thầy, thì câu: “ Niệm Di Đà rán niệm cho rành’’ có 4 ý nghĩa đặc biệt sau đây:
    A - Niệm Phật phải có lòng lành.
    B – Niệm Phật phải có những đức hạnh như Phật.
    C – Niệm Phật phải biết phát tâm Bồ Đề .
    D – Niệm Phật phải nhứt tâm Tín, Nguyện.

    A –NIỆM PHẬT PHẢI CÓ LÒNG LÀNH.
    “ Nam Mô miệng niệm lòng lành ,
    Bá gia phải rán biết rành đường tu ’’.

    Người tu niệm Phật biết rành đường lối là không thể thiếu lòng lành đối với mọi người và các sinh vật. Tại sao vậy? – Có 3 lý do chính sau đây:
    Lý do thứ nhất: Vì tin sâu vào luật nhân quả.
    Người niệm Phật Di Đà là mục đích cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu lòng bất lành tạo ra nghiệp ác, đó là ta đã gieo cái nhân luân hồi trả quả, thì làm sao có thể vãng sanh. Bõi lẽ niệm Phật phải có lòng lành. “ Cần tu thập thiện thì sự niệm mới hiệu quả, tu thập thiện dứt được thập ác ( cũng gọi là tịnh tam nghiệp )”. ( Trong bài Chư Phật có bốn đại đức )
    “ Cầu tịnh ba nghiệp xong xuôi ,
    Tây Phương quyết đến chung vui Phật đài ’’.

    Lý do thứ hai: Vì muốn đều bốn ân lớn, nên cần phải có lòng lành cho lời nói và hành động của mình không phạm vào nghiệp ác, thì mới gọi là người biết hành sử theo đường lối “ HỌC PHẬT TU NHÂN ’’ . Đức Thầy có câu:
    “ Tu thân thiện tín rán chuyên cần ,
    Lục tự Di Đà giữ tứ ân .’’


    Lý do thứ ba: Vì muốn hợp với ý Phật, nên phải có lòng lành.
    Đức Từ phụ A Di Đà là Cha lành của tất cả chúng sanh , nếu ta niệm danh hiệu của Ngài mà không có lòng lành đối với chúng sanh, thì đâu có hợp tình với Phật, bỡi lẽ người niệm Phật phải có lòng lành là thế.
    “ Bá gia hãy rán làm lành,
    Niệm Phật cho rành đặng thấy Thần Tiên ’’.

    (Sấm giảng quyển nhứt)

    HỎI: Phải làm lành như thế nào và làm lành với ai?
    ĐÁP: Để trao đổi cùng quí vị câu hỏi nầy, chúng tôi xin tạm chia làm 3 phần:
    - Một là phải biết làm lành đối với cha mẹ Tổ Tiên.
    - Hai làm lành đối với mọi người.
    - Ba làm lành đối với các sinh vật.

    1- LÀM LÀNH ĐỐI VỚI CHA MẸ TỔ TIÊN.
    Người tu Phật có lòng lành, đối với tất cả mọi người lúc nào cũng sẵn sàng quan tâm giúp đỡ, huống lại là cha mẹ Tổ Tiên là những người có ơn lớn nhứt đối với đời ta. Đức Thầy dạy: “ Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu’’.
    Theo Phật giáo thì báo hiếu có 2 phần:
    A- Thế gian hiếu.
    B- Xuất thế gian hiếu.
    A- Thế gian hiếu: Báo hiếu tương đối trong thế gian. Đại khái gồm có 7 lẽ, bổn phận làm con cần phải đền đáp.
    1/- Phải biết vâng lời dạy bảo của cha mẹ.
    2/- Phải biết khuyên cha mẹ khi có điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo.
    3/- Phải biết bổn phận nuôi dưỡng viếng thăm.
    4/-Phải biết vì cha mẹ mà hòa thuận với anh em.
    5/-Phải biết nhượng tùy cha mẹ để được vui lòng.
    6/-Hãy cầu cho cha mẹ được mạnh khỏe và sống lâu .
    7/-Muốn đền ơn Tổ Tiên , cần phải làm điều đạo nghĩa .

    HỎI: Những điều hiếu đạo mà ông vừa kể qua, trong giáo lý của Đức Thầy có đoạn nào để chứng minh không?
    ĐÁP: Có chứ, trong phần dạy về báo ơn Tổ Tiên cha mẹ Đức Thầy viết: “Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo , ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ ’’.
    “Còn đền ơn Tổ Tiên, đừng làm điều gì tội tệ điếm nhục tông môn, nếu Tổ Tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường ’’.
    B- Xuất thế gian hiếu: Báo hiếu một cách tuyệt đối , cũng gọi là cứu cánh báo hiếu . Có bốn phần sau đây:
    1/- Nên khuyên cha mẹ qui y Tam Bảo ( nếu chưa quy y ) và khuyến khích niệm Phật cầu vãng sanh.
    2/- Khi cha mẹ Tổ Tiên qua đời phải rán tu các công đức để hồi hướng, và thành tâm cầu nguyện sớm chiều. “ Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh.
    (Trong đoạn Ân Tổ Tiên Cha Mẹ)
    3/- Những ngày kỷ niệm của cha mẹ Tổ Tiên nên cúng chay cho hợp với tinh thần Phật Giáo. Trường hợp nầy ta chẳng nên đặt nặng về hiếu sự mà cho rằng: - Cha mẹ mất nhằm ngày chay thì cúng chay, ngày mặn cúng mặn. Hoặc nói: - Lúc cha mẹ còn sống không có ăn chay trường, nếu nay cúng chay sợ e ăn chẳng đặng; ai quan niệm như thế, thật đáng tiếc vì chưa nhận được chân lý.
    Để hiểu rõ lẽ nầy chúng tôi xin dẫn ra 8 câu thi “Báo hiếu đạo nhà” của Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Quảy đơm cúng tế lệ xưa nay,
    Sát vật trâu heo đứa mị bày.
    Kẻ mất cho ăn suy khó hiểu,
    Người còn bạc đãi lạ lùng thay.
    Cháu con báo hiếu theo nhà Phật.
    Cha mẹ qua đời thủ lễ chay.
    Trong sạch nghĩa nhơn vầy mới đáng,
    Hồn linh siêu thoát nhẹ cao bay”.

    (Bài Báo hiếu đạo nhà)

    4/- Phải rán tu đắc đạo để đền ơn cha mẹ tổ tiên.
    Vì chỉ có đắc đạo mới báo hiếu một cách rốt ráo mà thôi. Đức Kim Sơn Phật từng khuyên dạy:
    “Rán tu đắc Đạo cứu Cửu Huyền,
    Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.
    Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,
    Cho ta hình vóc học cơ huyền”

    (Giải thoát Cửu Huyền)

    2- LÀM LÀNH ĐỐI VỚI MỌI NGƯỜI
    Đó là phận sự của người niệm Phật cần nên làm. Đối với họ hàng quyến thuộc, với đồng bào chủng tộc và nhân loại trên quả địa cầu, người niệm Phật phải có lòng lành để cư xử với họ ở hai phương diện:
    1/- Về đời sống vật chất.
    2/- Về đời sống tinh thần .
    1- Đời sống vật chất: Nên giúp đỡ họ về cơm ăn, áo mặc, nhà ở và khi hoạn nạn, đau yếu v.v… đó cũng là thiệt thi theo lời kêu gọi của Đức Thầy:
    “Cả kêu bổn đạo ai thiệt tu.
    Muốn cho rắn đặng hóa cù,
    Xả thân làm phước Diêm Phù vượt qua”.
    hoặc là :
    “Việc nhà quí bạn đã xong,
    Hiệp lòng làm phước rõ lòng hiền nhơn”

    2- Đời sống tinh thần: Nên nở rộng tình thương đối với mọi người, không phân nhân ngã, chỗ cư xử cần lấy sự khoan dung. “Lời Khuyên Bổn Đạo” Đức Huỳnh Giáo Chủ có phán dạy: “Hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư xử với mọi người” và nhứt là:
    “Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm
    Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới”
    (Bài gởi Bác sĩ Cao Triều Lợi)

    3- LÀM LÀNH ĐỐI VỚI SINH VẬT
    Người niệm Phật không nỡ giết hại các sinh vật, vì có 6 lý do chính sau đây:
    1- Lòng lành không nỡ giết hại các gia súc để ăn, vì chúng đã giúp ích cho ta rất nhiều trong công việc sinh hoạt. Đức Thầy đã dạy: “… Nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo…chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sinh hoạt hằng ngày”.
    2- Lòng lành không nỡ giết hại các sinh vật. Vì chúng cũng có thân xác và linh hồn, cũng tham sống sợ chết như ta, chúng đâu chịu lìa bầy xa bọn; cũng như ta không chịu lìa vỏ thân nhơn. Vậy nỡ nào đành giết hại để bồi bổ cho mình. Lại nữa đấng nghiêm từ hằng cảnh giáo : “…Chẳng những vậy thôi , họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng , quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy”.
    Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng”.
    Cũng chính vì động lòng trắc ẩn mà Ngài Mạnh Tử viết: “Kiến kỳ sanh bất nhẫn kiên kỳ tử, văn kỳ thinh bất nhẫn thực kỳ nhục”. (Thấy sự sống không nở thấy cái chết của sinh vật, nghe tiếng kêu la khi bị giết nên không nỡ ăn thịt).
    Để suy luận rộng thêm một phần nữa, ta thữ hỏi tại sao có chiến tranh đau khổ giết hại lẫn nhau ? – Nếu không nói từ nguyên nhân sát sanh mà ra? Cổ đức có câu: “Dục tru thế thượng đao binh kiếp, đản thính đồ môn bán dạ thanh”. (Muốn biết trên đời tại sao có chiến tranh, kìa nữa đêm hãy nghe tiếng thú vật bị làm hàng).
    Hai câu trên là nói rõ cái nguyên nhân của sự luân hồi trả quả. Vậy muốn dứt chiến tranh , muốn không chiêu khổ quả. Cổ Đức cho biết: “Dục miễn thế thượng vô binh kiếp, trừ phi chúng sanh bất thực nhục”.
    Tạm dịch:
    Trên đời muốn chẳng đao binh, Xin đừng giết hại chúng hữu tình để ăn.

    Muốn được những hạnh phúc: sống lâu, gia đình ly tán, thiên hạ thái bình. Kinh giáo cho biết:
    “Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp,
    Thập phương hà xứ động đao binh.
    Gia gia hộ hộ đồng tu thiện,
    Thiên hạ hà sầu bất thái bình”.

    Tạm dịch:
    Hết thảy chúng sanh không nghiệp sát,
    Mười phương nào có họa đao binh.
    Nhà nhà thảy thảy đều tu thiện,
    Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

    3/ - Lòng lành không nỡ giết hại. Vì biết được có sự chuyển luân:
    “Chuyển luân trong nhân vật các loài,
    Căn mờ ám làm điều dạy dột’’.

    (Khuyến Thiện)
    Hai câu nầy đã khai sáng cho chúng ta thấy được giữa người và vật có sự chuyển luân quay lộn lẫn nhau. Than ôi! biết đâu trong đó có biết bao nhiêu tình thân quyến! Ngài Phổ Am Đại sư cũng nói rõ về điều nầy:
    “ Súc sanh bổn thị nhơn lai tố,
    Nhơn súc luân hồi cổ đáo kim .
    Bất yếu phi mao tin đái dác,
    Khuyến quân hưu xử súc sanh tâm”.

    Bài dịch :
    Súc sanh vốn thiệt người trở lại,
    Người vật luân hồi tự xưa nay.
    Muốn khỏi mang long cùng đội gạc,
    Khuyên người chớ để trả cùng vay.

    4/- Lòng lành không nỡ giết hại chúng sanh. Vì đó là chư Phật vị lai và cha mẹ của ta nhiều tiền kiếp. Kinh dạy: “Noãn, thai, thấp, hóa, phi, tẩu, trùng, ngư giai vị lai chư Phật chi lưu, hoặc quá khứ đa sanh phụ mẫu”.
    Nghĩa: Loài sanh trứng, loài sanh thai, loài thấp sanh, loài hóa sanh, loài biết bay, loài chạy mặt đất, loài côn trùng, loài cá đều là những chư Phật vị lai, hoặc cha mẹ của ta ỡ nhiều tiền kiếp.
    Bởi thế nên người niệm Phật cần phải có lòng lành, không sát hại.
    5/- Lòng lành không giết hại chúng sanh :
    Vì nếu giết hại chúng sanh , chẳng khác gì làm thân Phật ra máu . Kinh có câu : “Sát kỳ mạng dã, thị xuất Phật thân chi huyết”. Tình thương của Phật đối với chúng sanh nào khác tình mẹ thương con. “Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”.
    Hôm nay ta là Phật tử, biết kính Phật, niệm Phật, thì lẽ đâu ta lại giết con của Phật khiến cho Phật Ngài phải đau lòng! Thì ta đâu phải là người biết niệm Phật rành .
    6/- Không giết hại chúng sanh. Vì giết hại chúng sanh là giết lòng từ bi và Phật tánh của mình. Kinh có câu: “Sát hại chi thâm vưu, đoạn từ bi chi chủng tánh”.
    Nên người niệm Phật phải giữ giới ăn chay, không giết hại.
    “Chữ Nam Mô trì giái giữ trai,
    Chay được tánh chay tâm mới quí”

    (Bài Sa Đéc)
    Người niệm Phật ăn chay mà được có lòng từ bi, tánh thiện, dù có nghèo nhưng không khổ , đạm bạc mà vẫn thanh nhàn:
    “Tương với muối cháo rau đạm bạc,
    Nghèo lương hiền biết niệm Di Đà.
    Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
    Lại được thấy cảnh Tiên nhàn hạ”.

    (Kệ Dân)
    Tóm lại người niệm Phật phải có lòng lành, là lòng không tham lam bảo thủ, không giận oán giết hại, không đắm nhiễm si mê, giữ lòng trong sạch, xa lìa nghiệp ác, làm hết việc lành, để đền đáp bốn ơn. Đó mới thật là người biết niệm Di Đà.

    B- NIỆM PHẬT PHẢI CÓ NHỮNG ĐỨC HẠNH NHƯ PHẬT

    “Nhớ từ bi hai chữ ngâm nga
    Dầu làm lụng cũng là trì chí”

    Người niệm Phật có được lòng lành là cũng khả quan lắm rồi, nhưng đối với Phật Đạo vô thượng, ta còn phải tiến và tiến lên bước ngay đến quang minh, để làm phận sự soi đường dẫn lối cho nhân sinh. Bởi vì: “…Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tính cao cả và thực hành trên thiệt tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thõa mãn trong đời hành đạo.
    (Trong Bài trả lời cho ký giả Hồn Quyên)

    Những đức hạnh cao cả mà Phật Giáo luôn nhắc đến là: Đức Từ - Đức Bi – Đức Hỉ - Đức Xả v.v… Nay chúng ta là người lòng luôn nhớ đến Phật, tất nhiên những Đức hạnh cao cả kia ta phải biết và cần phải có. Bởi Đức Thầy có dạy: “Chư Phật có bốn đại đức. Vậy ta niệm danh hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại đức của Phật đặngngày sau chứng quả như Ngài”.
    (Đức Thầy có giải thích bốn đại đức, xin miễn dẫn ra)
    Ở đây chúng tôi chỉ toát yếu những ý chính trong bốn đại đức để đề cập với hạnh niệm Phật mệnh danh là: “Niệm Phật với Tứ vô lượng tâm”.
    1- Tâm Từ vô lượng niệm Phật.
    2- Tâm Bi vô luọng niệm Phật.
    3- Tâm Hỉ vô lượng niệm Phật.
    4- Tâm Xã vô lượng niệm Phật.

    HỎI: Thế nào gọi là tâm Từ vô lượng niệm Phật?
    ĐÁP: Nói tâm từ vô lượng niệm Phật: là nói hành giả niệm Phật lòng thường nghĩ đến chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử, chịu sự quả báo; lại còn đang tạo ra không biết bao nhiêu cái nhân, để phải luân hồi mà nhận lấy cái quả khổ đau tiếp nối, khiến nên từ tâm phải: “Hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh vào đường tội lỗi mà chịu khỗ não”. Nếu tự thấy mình chưa đã khả năng để tiếp độ khắp, thì phải vì chúng sanh mà niệm Phật nhứt tâm, rồi đem công đức hồi hướng cho khắp chúng hữu tình và cầu vãng sanh về Cực Lạc thế giới; để được bất thối chuyển, chứng vô sanh Pháp Nhẫn; sớm trở lại Ta Bà ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Đó gọi là người niệm Phật với tâm từ vô lượng.

    HỎI: Thế nào gọi là tâm Bi vô lượng niệm Phật?
    ĐÁP: Là hành giả niệm Phật, tâm hằng nghĩ đến chúng sanh vì lòng mê si mà tạo ra ác nghiệp, phải chịu khổ 3 đường, nên lòng thương xót khôn cùng. Nhớ đến chúng sanh ở Địa Ngục chịu cái nóng cùng cực của bát nhiệt địa ngục, cái lạnh cùng cực của bát hàn địa ngục, và sự hành phạt triền miên không dứt. Lòng thương lại nhớ đến chúng sanh đường ngạ quỉ, chịu cái khổ đói khác, thân tướng xấu xa, bụng to, cỗ nhỏ, sống trong bẩn thỉu lâu ngày; lại nhớ đến chúng sanh trong đường súc sanh chịu cái khổ giết hại: vật lớn ăn vật nhỏ, còn bị loài người giết hại để ăn, đun vào lửa đỏ, nước sôi, và cảnh dao thớt chặt bằm.
    Hành giả niệm Phật lại còn nhớ đến chúng sanh trong ba đường thiện: ATULA vì chấp ngã sanh tâm sân hận làm mất trí huệ, nên thường tranh đấu với chư thiên; lại nhớ đến chúng sanh trong cõi người chịu nỗi kh: sanh, già, bịnh, chết, khổ vì thất vọng, khổ vì chia lìa, khổ vì oán ghét, khổ vì: buồn, rầu, lo, sợ .v.v… lại còn nhớ đến chúng sanh ở cõi Trời tuy có hưởng phước báo được sự khoái lạc, nhưng cũng có ngày mãn , bị cái khổ ngũ suy tướng hiện rồi phải theo nghiệp mà luân hồi.
    Nghĩ đến tất cả chúng sanh trong sáu đường khiến lòng đại bi thương xót khôn cùng, nên lo cứu vớt không giờ ngưng nghỉ. Nếu tự thấy mình chưa đủ khả năng để tiếp độ khắp, thì nên vì tình thương chúng sanh mà niệm Phật nhứt tâm, rồi hồi hướng cho khắp chúng hữu tình và cầu vãng sanh Cực Lạc thế giới, để được bất thối chuyển chứng vô sanh Pháp nhẫn, cỡi thuyền đại nguyện trở lại Ta Bà cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Đó gọi là người niệm Phật với tâm Bi vô lượng.

    HỎI: Thế nào gọi là tâm Hỉ vô lượng niệm Phật?
    ĐÁP: Là hành giả niệm Phật lòng thường an vui để làm việc lợi ích cho chúng sanh, dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch; dầu chúng sanh bạc đãi, biếm nhẽ khinh khi hoặc giả giết hại, nhưng lòng vẫn an vui thương xót chúng sanh, vì mê si mà làm điều ác nghịch nên sẵn lòng hoan hỉ, lo tìm phương cứu độ mà thôi. Đó gọi là người niệm Phật với tâm Hỉ vô lượng.

    HỎI: Thế nào gọi là tâm Xả vô lượng niệm Phật?
    ĐÁP: Hành giả niệm Phật, lòng buông xả không chấp một pháp nào ở thế gian, nên không bị vật chất và hoàn cảnh làm thất chánh niệm. Đối với nghiệp tiền trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) sẵn lòng xa lìa không ô nhiễm, rõ biết vì không chơn thật , chỉ tạm giả trong một thời , nên không để tâm phân biệt sanh ái hoặc ố, đó cũng gọi là hàng phục vọng tâm, chỉ có nhứt tâm chánh niệm (niệm Phật). Đây cũng gọi là an trụ chơn tâm, rồi lại sanh tâm thương xót chúng sanh vì vô minh mà che lấp chơn tâm, nên sẳn lòng tha thứ những lỗi lầm.
    Hành giả niệm Phật chỉ còn nhớ Phật, không còn nhớ đến thân tâm và ngoại cảnh, không bố thí mà tự xả thí hết: danh, lợi, sắc, tài, nhìn cõ đời không sanh tâm luyến ái, không chao động móng khởi, thường tinh tấn không lui sụt hạnh tu, không để tâm phân biệt: cao, thấp, ngã, nhân; dứt sạch lòng thị phi, tâm không tham lam độc ác , trí tuệ làu làu, niệm trước niệm sau, niệm nay, niệm nào cũng đều là chánh niệm lục tự; dứt hết ba lòng chứng vào chơn tánh, đối với chúng sanh sẳn lòng từ, bi, hỉ, xả ; mà không thấy mình có: hỉ, xả, từ, bi. Đó gọi là người niệm Phật với tâm xả vô lượng.
    Tóm lại niệm Phật mà có lòng: từ, bi, hỉ, xả thì mới có thể gọi là người niệm Phật rành. Nên Đức Tôn Sư mới bảo: “Vậy ta niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta có thể đắc được bốn đức ấy”.
    (Bài chư Phật có bốn đại đức)

    C- NIỆM PHẬT PHẢI BIẾT PHÁT TÂM BỒ ĐỀ.
    “Chí toan gieo giống Bồ Đề,
    Kiếm người lương thiện dắt về Tây phang”.


    Nghe qua hai câu nầy, ta bình tâm lãnh hội Thánh ý cho biết: Người niệm Phật Di Đà muốn được tiếp độ về Tây Phương, thì phải phát tâm Bồ Đề, ý nầy rất hợp với Thánh giáo; trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật Thích Ca dạy: “Vong phát Bồ Đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”.
    Nghĩa: Quên phát tâm Bồ Đề, dù tu các việc lành, cũng đồng với nghiệp ma.
    Phát tâm Bồ Đề cũng hợp với bản nguyện của Đức A Di Đà trong lời nguyện thứ 19.
    Khi Ngài thành Phật, chúng sanh trong mười phương phát Bồ Đề tâm tu các công đức, hết lòng nguyện sanh về cõi nước Ngài; đến lúc lâm chung thì đức A Di Đà cùng Thánh chúng sẽ y lời hiện đến tiếp độ.

    HỎI: Tâm Bồ Đề như thế nào, mà Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Thích Ca và Đức Thầy lại đặt trọng tâm giáo hóa?
    ĐÁP: Bồ Đề là chánh giác; nghĩa rộng là tầm Đạo để giác ngộ cho mình, giác ngộ cho người, trên cầu thành Phật dưới nguyện độ khắp chúng sanh. Đó gọi là phát tâm vô thượng Bồ Đề.
    Tại sao ta cần phát tâm Bồ Đề. Vì ta cùng chúng sanh chịu khổ sanh tử đã nhiều đời, và hiện nay cái chết cũng sẽ đến với chúng ta không biết lúc nào. Nếu không phát tâm Bồ Đề và niệm Phật cầu sanh, thì vấn đề sanh tử không có cách nào có thể giải quyết. Bởi Đức Thầy hằng khuyên:
    “Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
    Được tâm phát Bồ Đề vững chắc”.

    (Khuyến Thiện)
    hay là :
    “Lòng Bồ Đề sắt đứt dám kình.
    Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ huynh,
    Noi chí ấy sửa sang thời thế”.


    D- NIỆM PHẬT PHẢI NHỨT TÂM TÍN NGUYỆN.

    HỎI: Vừa qua đã nghe trình bày người niệm Phật phải có lòng lành, phải có lòng từ bi hỉ xả, phải biết phát tâm Bồ Đề. Như thế mà chưa rành sao lại còn phảicó lòng tín nguyện? Và người niệm Phật không có lòng tín nguyện có được vãng sanh không?
    ĐÁP: Người niệm Phật giữ lòng lành để cư xử vơi mọi người và chúng sinh, đáp đền tứ đại trọng ân. Đó là biết tu trợ hạnh giúp cho chánh hạnh dễ thành, nên chưa trọn đủ cái nghĩa rành niệm Phật. Còn niệm Phật mà có lòng từ bi hỉ xả là biết phát tâm rộng lớn, tu hạnh lợi tha làm việc lợi ích cho chúng sanh mà coi là tư lợi, đó là hạnh tu đại thừa của Bồ Tát niệm Phật với đời sống vị tha. Người niệm Phật biết lấy sanh tử làm việc lớn, phát tâm Bồ Đề để tu là chánh lý theo Đạo Phật, đó là bước đầu của hành trình mà tịnh giả biết nhắm đúng hướng trên lối đi về xứ Phật . Điều kiện tất yếu phải một lòng tin sâu, nguyện thiết để niệm Phật thì mới đạt được mục đích (nhứt tâm bất loạn) là yếu kiện để vãng sanh; bằng ngược lại, tức là niệm Phật không có lòng tín, nguyện thì chỉ được cái nhân duyên đắc độ về sau mà thôi, chứ không thể thoát luân hồi trong một kiếp.
    Người xưa gọi tín, nguyện, hạnh là ba món tư lương của hành giả về Tịnh Độ. Cổ Đức có thi rằng:
    “Tùng thị Tây Phương quá,
    Thiều thiều thập vạn trình.
    Tư lương nhược cụ tú,
    Hà sầu khứ bất thành’’.

    Nghĩa :
    Thiệt theo qua Tây Phương,
    Đường xa mười vạn ức .
    Tư lương nếu đầy đủ ,
    Lo gì chăng đến nơi.

    Trở lại lời dạy của Đức Thầy, Ngài cho biết:
    “Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật.
    Dầu Tiên, Phàm, Ma, Qủi, Súc sanh.

    Cứ nhứt tâm Tín, Nguyện, phụng hành,
    Được cứu cánh về nơi An dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”.


    HỎI: Phải tin như thế nào mới gọi là tin sâu và lòng tin có công năng lợi ích ra sao?
    ĐÁP: Tin sâu là một lòng tin tưởng hoàn toàn không còn nghi ngờ, không dời đổi. Có những lẽ phải tin sau đây:
    1/- Tin ở lời dạy của Đức Phật và Đức Thầy giới thiệu cõi Cực Lạc cùng Đức Phật A Di Đà là có thật và Đức Phật A Di Đà không bao giờ Ngài quên lời nguyện, ta cứ tin cho chắc, rồi niệm Phật cầu sanh về cõi nước của Ngài thì Ngài sẽ tiếp độ ngay. Thậm chí là kẻ ngũ nghịch, thập ác mà biết cải hối chơn thật, rồi nhứt tâm niệm Phật cầu sanh, dù chỉ có 10 niệm Ngài cũng vẫn tiếp độ không bỏ sót. Có tin chắc được như vậy mới gọi là tin sâu.
    2/- Tin chắc Pháp môn Tịnh Độ mà Đức Phật và Đức Thầy dạy đây là pháp tối thắng đệ nhứt trong các pháp tu . Nói gần hơn một chút là tin ngay cái chỗ nhứt tâm niệm Phật cầu sanh của mình đây là cái nhân để vãng sanh ; mà sanh về Cực Lạc thế giới vào vị bất thối là quả . Nếu có gieo nhân thì tất nhiên có hái quả , đừng nghi ngờ mà hỏng việc . Chúng sanh ở cõi Ta Bà chí tâm niệm Phật thì ao thất bảo ở cõi Tây Phương Liên Hoa nở rộ :
    “Ao sen báu Tây Phương đua nở,
    Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm”.

    (Khuyến Thiện)
    Nếu chúng ta chí tâm tinh tấn niệm Phật chừng nào, thì hoa sen ở Tây Phương càng lớn thêm nhiều chừng ấy. Người niệm Phật nếu chưa tin được lý nầy, chưa phải là tin sâu.
    3/- Tin mình có Phật tánh, chuyên niệm Phật sẽ được nhứt tâm bất loạn, nếu thiệt tu sẽ được giải thoát, được thành Phật cũng như chư Phật đã thành. Phải tin chắc, đừng nghi ngờ mà bị che lấp chơn tâm.
    - Xin quí vị dẫn dụ đề cập một vấn đề nào đó, để thuyết minh cho chúng tôi dễ hiểu về lý nầy.
    - Đáp ứng nhu cầu nầy, chúng tôi xin đưa ra một tỉ dụ. Ví như hôm nay chúng ta cầm hai cái bình, thẳng đến sông để múc đầy nước, khi đem lên ta lại thấy phèn, chua vào một bình để long; rồi đem để một nơi lặng yên. Thời gian sau đó nước đã trong, ta lượt bỏ hất cặn bẩn, chỉ còn lại toàn là nước trong. Lúc bấy giờ ta mới đem hai bình để so lại, thử hỏi bình nước long phèn đã lọc trong so với bình nước không long kia có khác nhau không? Chắc quí vị đồng ý với chúng tôi là khác hẳn.
    Bình xét: Nước đục cùng một giòng sông là tỉ cho chúng sanh và Phật bản giác giống như nhau không khác; còn phèn quậy vào bình nước đục để lóng trong là tỉ cho câu niệm Phật A Di Đà. Một khi chúng sanh chấp trì rồi thì tâm sẽ được an định, cũng như bình nước đục kia nhờ có phèn mà được lóng trong vậy. Nên nói tin mình có Phật tánh, nếu chuyên trì hiệu Phật cho được nhất tâm bất loạn thì cũng giống như thế.
    Chúng tôi xin liên dẫn ví dụ tiếp theo: bình nước đã lọc trong ví như tâm Phật đã giác ngộ hoàn toàn. Bình nước còn cặn đục ví như tâm chúng sanh còn chơn vọng hòa hợp, tuy không giống nhau chứ nước vẫn là một nguồn; nếu ta ra công lóng trong và lọc cặn, thì nước trong hai bình có khác gì nhau. Nên nói thiệt tâm tu sẽ được giải thoát, được thành Phật cũng như chư Phật đã thành là lý đó vậy.
    Tới đây, chúng tôi xin mở rộng thêm phần trao đổi để thấy rõ cái bản tâm thanh tịnh là diệu hữu. Xin ví dụ tiếp theo: Ta hãy đem bình nước trong kia để dưới ánh mặt trăng, lúc bấy giờ nhìn vào nước ta sẽ thấy rõ có ánh trăng trong đấy. Đó là ví dụ chúng sanh một khi trở lại với bản tâm thanh tịnh rồi, thì mười phương pháp giới , quốc độ hằng sa của chư Phật, và cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà cũng hiện rõ trong cái bản tâm thanh tịnh ấy. Cái bản thể thanh tịnh nầy nếu luận về không gian thì nó bao trùm hết cả mười phương pháp giới của chư Phật, không có một Phật độ nào ở ngoài nó được. Còn nói về bề sâu của thời gian thì dọc suốt ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) nó đều có mặt không thiếu sót. Vậy muốn đến cõi Tịnh Độ, thì cứ hồi hướng trở ngay lại cái bản tâm thanh tịnh của mình , chớ còn tìm đâu khác nữa . Nên Kinh Duy Ma bảo: “Dục đắc Tịnh Độ, đương tịnh kỳ tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”.
    Nghĩa: Muốn được quốc độ thanh tịnh, thì hãy tịnh ngay cái tâm của mình. Theo tâm mình thanh tịnh, tức cõi Phật thanh tịnh.
    Cũng đồng với lý nầy Đức Thầy cho biết:
    “Phật nhơn tạo hóa một bầu,
    Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau”.


    Hai câu nầy rất sáng tỏ, mở quát cho ta thấy rõ chúng sanh và Phật không khác, xé tung cái màn lưới nghi ngờ cho chúng sanh để cho ta nhận chân được cái lẽ: Tâm, Phật, chúng sanh không khác nhau. Nhưng chưa được như như nhau cũng chỉ vì kẻ thanh người trược mà thôi.
    Đức Phật Thích Ca trước kia cũng là một con người như chúng ta, cũng sanh trong quả đất nầy, cũng có cha mẹ, vợ con quyến thuộc như ta vậy; chỉ nhờ có tu mà ngộ tánh Bản Lai Thanh Tịnh.
    Khi đã trở lại với chơn tâm thanh tịnh rồi thì công đức vô lượng tự nhiên có đủ, đem cái công đức có đủ nầy mà trang nghiêm quốc độ. Đức Từ phụ A Di Đà lập ra cõi nước Cực Lạc cũng không ngoài lý do đó. Nên Đức Phật Thích Ca gọi Ngài Xá Lợi Phất bảo: “Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị, công đức trang nghiêm”.
    Qua mấy lẽ dẫn luận trên ta thấy, uế độ hay Tịnh Độ không thể ngoài tâm mà có đươc. Uế độ là do tâm vong tưởng đảo điên mà có; Tịnh độ do chơn tâm thanh tịnh mà hiện. Vậy hôm nay chỉ dùng nhứt tâm Tín, Nguyện, trì danh để chứng cái thể thanh tịnh kia thì Cực Lạc quốc độ cũng đâu ra ngoài được. Nên nói sanh về thế giới Cực Lạc là sanh về thế giới trong tâm ta, chứng ngộ được lý nầy là chứng đến chổ sanh mà vô sanh.
    Lại trong khi chứng ngộ cái chơn tâm Thanh Tịnh rồi, chưa ra khỏi cõi Ta Bà, chưa bỏ thân tứ đại mà đã có mặt ở Tịnh Độ rồi. Thật chứng đến chỗ nầy là chứng đến chỗ sanh mà sanh.
    Để kết luận phần nhứt tâm thâm tín có sáu lẽ tin thật sau đây:
    a/- Tin cái bản tâm thanh tịnh của mình ba trùm hết mười phương pháp giới, không có Phật độ nào ở ngoài nó được. Đó gọi là tin vào lý thật.
    b/- Tin tất cả quốc độ của chư Phật, Cực Lạc quốc của Đức A Di Đà đều có thật, là do cái bản thể thanh tịnh có đủ công đức kia. Tin như thế gọi là tin vào sự thật.
    c/- Tin cái chỗ nhứt tâm Tín, nguyện niệm Phật của ta là cái chánh nhân vãng sanh Tịnh Độ. Tin như vậy gọi là tin vào nhân thật.
    d/- Tin vãng sanh về Cực Lạc sẽ được vào quả vị bất thối, lại còn ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân. Tin như vậy gọi là tin vào quả thật.
    đ/- Tin lời dạy của Đức Phật và Đức Thầy không hư dối, lời nói của các Ngài là chơn thật ngữ; nói Ta Bà khổ là khổ thật, nói Tịnh Độ vui là vui thật. Tin như vậy gọi là tin vào lời thật.
    e/- Tin vào tánh mình có đủ trí huệ hiểu biết như Phật, có đủ cong đức để trang nghiêm Tịnh Độ, có đủ tướng hảo thần thông không thể nghĩ bàn. Tin như vậy gọi là tin vào tánh thật.
    Người tu niệm Phật có tin được tất cả những điều đã nói qua, thì mới gọi là tin sâu; nếu đã được tin sâu thì trì danh không gián đoạn và tâm nguyện cũng sẽ được chí thành.

    HỎI: Vừa qua chúng tôi thỏa mãn chỗ giải bày của ông về lòng tin, khiến cho chúng tôi dứt được lòng nghi , nay muốn phát nguyện , nhưng chưa hiểu thế nào là nhứt tâm nguyện, mà chúng tôi đã nghe ở câu: “Cứ nhứt tâm Tín, Nguyện, Phụng hành”. Xi giải rõ cho chúng tôi được lãnh hội.
    ĐÁP: Vinh hạnh thay! cho câu hỏi nầy có ý nghĩa rất quan trọng. Câu “Cứ nhứt tâm Tín, Nguyện, Phụng hành” là lời nhiếp giáo kiêm toàn ý nghĩa mầu nhiệm vô cùng, thật không sao tán dương cho hết được.
    Pháp môn Tịnh Độ đã được xương minh từ xưa; lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tôn chỉ đường lối tu hành. Cổ đức thường ví ba điều kiện nầy giống như cái đảnh có 3 chân mới đứng vững, không thể thiếu môt; ba điều nầy có sự liên hệ để trợ tiến lẫn nhau. Vì có tin mới phát nguyện, vì có nguyện nới chịu thiệt hành. Nếu tin mà không phát nguyện là tin suông, nếu phải nguyện mà không đặt nguyện vẹn tròn là không có tích cực với việc làm, hay có làm có nguyện mà không tin tưởng là không đạt được mục đích, sẽ bán đồ nhi phế (bỏ dở nữa đường).
    Vinh hạnh thay! hôm nay lại được Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa ra điều kiện nhứt tâm, để thống lãnh Tín Nguyện Hạnh khiến cho có đủ ngị lực để đạt đến thành công một cách viên mãn. Có tí mà không có nhứt tâm thì không thể tín thành hay thâm tín đặng; còn có nguyện mà không có nhứt tâm thì không thể gọi là nguyện thiết hay chí nguyện đặng; đến hạnh là việc trì danh, nếu không có nhứt tâm thì không thể đạt đến chỗ bất loạn để chứng tam muội tại tiền (tam muội là chánh định). TÍN - NGUYỆN - HẠNH mà có nhứt tâm để lãnh hội thì chắc chắn sẽ thành công, có thể nói Tam thừa Thánh nhơn cho đến Như Lai tối Thượng Thừa, cũng không thể thiếu nhứt tâm để hành đạo và chứng đạo. Nên nhứt tâm là điều tối yếu; có nhứt tâm mới học đạo, hành đạo và chứng đạo đặng. Bởi lẽ Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài dạy:
    “Theo đạo lý nhứt tâm mới kịp,
    Ngày nay đà gặp dịp tu hành”.


    HỎI: Xin quí vị tỉ dụ so sánh bằng cách nào cho chúng tôi được hiểu sự quan trọng của nhứt tâm đối với TÍN - NGUYỆN - HẠNH?
    ĐÁP: Chúng tôi xin đưa ra một tỉ dụ như thế nầy. Có một vị Quốc vương kia có 3 đại tướng để bảo hộ, và gìn giữ nước non bờ cõi. Ba đại tướng nầy có tài: Đông xông, Tây đục, Nam tảo, Bắc trừ. Một hôm có giặc ngoại xâm lấn, chiếm biên cương lãnh thổ, nhà vua liền xuống lịnh cho ba vị đại tướng điểm quân xuất trận, chỉ thị phải phản công quân giặc. Ba vị đại tướng liền tấn công đuổi giặc đến biên cương, có lịnh đình quân, thì ba đại tướng liền phải dừng; rồi lại có lịnh nhà vua rút quân. Ba đại tướng phải kéo quân về phục lịnh.
    Xin phân tách rõ vấn đề tỉ dụ. Ba tướng tài của nhà vua là tỉ cho TÍN, NGUYỆN HẠNH. Còn vị quốc vương là tỉ cho điều kiện nhứt tâm. Ba kiện tướng tuy có tài giết giặc, có mặc ở chiến trường, nhưng không có quyền lãnh đạo tuyệt đối; nhà vua kia tuy không ra mặt trận, nhưng có quyền điều hành ba kiện tướng. Điều kiện nhứt tâm đối với TÍN - NGUYỆN - HẠNH cũng quan trọng như thế. Tín tuy có công năng phá nghi, trừ lòng giải đãi, niệm gián đoạn, nhưng nếu không có nhứt tâm thì không đủ nguyện lực để trừ. Cho đến Hành là trì danh có công năng phục diệt phiền não, trừ loạn tưởng, nếu không có nhứt tâm thì không đủ niệm lực để trừ.
    - Xét đó ta thấy Nhứt tâm là điều kiện quan trọng tối yếu của người tu Tịnh Nghiệp. Thế nên Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài dạy: “Cứ nhứt tâm Tín-Nguyện-Phụng hành”.
    - Còn định nghĩa chung NHỨT TÂM NGUYỆN: là môt lòng muốn sanh vể cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, lòng mong muốn kia van vái lên, gọi là phát nguyện. Cõi Tịnh Độ mà ta nguyện sanh là cõi phàm thánh đồng cư. Lòng nguyện sanh nầy không lui sụt, không dời đỏi, không lúc nào bị gián đoạn hay xen tạp thì đó gọi là nguyện thiết; và lòng mong muốn ưa thích sanh về Tịnh Độ thấy Phật A Di Đà, không có sự mến ưa nào ở hồng trần có thể đánh đổ nó được; lại hay siêng năng tu tập nguyện cầu, được như thế gọi là chí nguyện. Nói rõ hơn chí nguyện là dùng đến cái tâm chơn thật mong muốn ưa thích để cầu sanh. Nên Kinh văn có câu: “Nguyện dã: dục dã, nhạo dã; dục tắc Tây Phương Tịnh Độ, nhạo kiến bi Phật Di Đà. Tất tu phát nguyện phương đắc vãng sanh, nhược vô nguyện tâm, thiện căn trầm một”.
    Nghĩa: Nguyện ấy: là lòng mong muốn, lòng ưa thích, ưa thích được thấy Phật A Di Đà. Thì phải tu môn phát nguyện là phương pháp vãng sanh, nếu không có tâm phát nguyện, thì thiện căn sẽ bị chìm lấp.
    Nguyện thật rất quan trọng, nên Đức Thầy mới ân cần khuyên nhắc.
    “Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
    Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
    Đuốc Thiền lâm phương Đông chói ánh,
    Dắt hồn người vượt khỏi sông mê”.

    HỎI: Vừa qua đã hiểu được ý nghĩa của Nhứt tâm nguyện , xin hỏi thêm: Tại sao chúng ta nguyện sanh về cõi Tịnh Độ, đành bỏ cõi Ta Bà? Nếu có học hiểu đạo lý thì ở đây tu đắc đạo không được hay sao? Xin ông trình bày rõ lý do cho chúng tôi được biết.
    ĐÁP: Người biết nghĩ đến sanh tử là việc lớn, phát Bồ Đề chí dốc tu hành giải thoát, cầu hành đạo vô thượng để cứu độ chúng sanh, thì phải cầu sanh về cõi nước An Dưỡng. Đại khái có sáu điều quan trọng sau đây:
    1- Vì cõi Ta Bà có dẫy đầy trược ác (ngũ trược, thập ác), lại nhiều tà sư ngoại giáo dễ thất chánh tín. Nên phải cầu sanh về Tịnh Độ cùng ở một chỗ với chư thượng thiện nhân (các vị Bồ Tát), được ấm thiện chí thanh không còn trược ác .
    2- Cõi Ta Bà đầy thống khổ kê chẳng xiết, nào: Tam khỗ, lục khổ, bát khổ và vô số sự khổ.
    * Tam khổ:
    1/- Khổ khổ: Cái khổ chồng thêm lên cái khổ. Còn người vì lòng ham muốn mà tạo ra nhiều cảnh khổ, nên hằng ngày hết bị sự khổ nầy đến sự khổ khác, nào: đao, trượng, đạn, tên; nào đói khát, bệnh tật, nắng lạnh gió mưa làm cho thân tâm chịu nhiều khổ não.
    2/- Hoại khổ: Khổ vì hư hoại. Những chơn và vật mình ưa thích yêu mến thì lần lần hư hoại đi, nhân đó cảm thấy khổ.
    3/- Hành khổ: Nỗi khổ nơi lòng khi nhận ra vạn vật ở cõi thế là vô thường, cứ chuyển dời biến đổi mãi, vì vậy mà làm tâm sanh khổ não.
    * Lục khổ:
    1/- NHƠN KHỔ: Cái duyên cớ tạo ra sự ác, gây cảnh ác.
    2/- QUẢ KHỔ: Cái kết quả khổ não đưa đến.
    3/- CẦU TÀI VỊ KHỔ: Cái nỗi khổ vì xu hướng theo tiền của, danh vị, chức phận .
    4/- VÔ YỂM TÚC KHỔ: Sự khổ vì lòng tham, có món nầy cầu món khác, không biết chán.
    6/- BIẾN HOẠI KHỔ: Khổ não lo rầu vì các sự hư hoại; nơi thân thể, vợ con, nhà cửa tài vật, danh vị của mình.
    * Bát khổ: (Đã có nói ở phần trước)
    Còn vô số sự khổ não kể chẳng xiết, nên phải cầu sanh về Tịnh Độ là cõi Cực Lạc yên nhàn. Cực Lạc là tột vui, không có các điều khổ như cõi Ta Bà; Yên nhàn là an ổn rảnh rang, không có khổ não làm náo loạn tâm trí.
    3- Thân người ở cõi Ta Bà bất tịnh xấu xa, còn ở Cực Lạc thì tướng hảo trang nghiêm, lại có phép thần thông không thể nghĩ bàn.
    Thân bất tịnh là thân chẳng sạch, chẳng tinh khiết chút nào, thật dáng nhàm chán. Có 7 điều bất tịnh:
    1/- Chủng tử bất tịnh: Thân nầy do nơi nghiệp dâm dục, từ hạt giống tham ái mà sanh hay thọ sanh.
    2/- Thọ sanh bất tịnh: Mầm sanh khởi của bản thân; do tinh huyết cha mẹ hòa hợp mà thành.
    3/- Trụ xứ bất tịnh: Thai thân ở trong tử cung nhơ nhớp.
    4/- Thực đạm bất tịnh: Khi còn ở trong thai, huyễn thân lại thọ dụng huyết phần của người mẹ.
    5/- Sơ sanh bất tịnh: Khi đã đủ tháng ngày, thai thân đầu hướng về sản môn, ra khỏi mình người mẹ cùng một lúc với máu huyết hôi nhơ dẫy đầy.
    6/- Cử thể bất tịnh: Thân người bên ngoài được lớp da bọc che đậy, nhưng bên trong là tất cả sự hôi nhơ của các chất: thịt, xương, máu, đàm, đại, tiểu.
    7/- Cứu cánh bất tịnh: Đến khi chết rồi, thân nầy làm mồi cho ruồi lằn, hoặc quạ diều tha mổ.
    Thân mỗi người đều bất tịnh; về tướng thì kẻ xấu, người tốt, tật nguyền không giống như nhau. Đó là thân người ở Ta Bà. Còn ở Cực Lạc thân người từ hoa sen nở ra có đủ 32 tướng tốt, ai ai cũng đều tốt đẹp như nhau, không có người xấu, sắc da đều là màu vàng không có nữ tướng; còn phép thần thông thì người ít nhứt cũng có ngũ thông.
    Xin kể ra một thứ mầu nhiệm của thần thông như: Thần túc thông, chỉ trong một niệm là sẽ lướt qua trăm ngàn ức na-do-tha thế giới của chư Phật, để cúng dường đảnh lễ chư Phật mười phương, trở về nước không trễ buổi ăn sáng.
    4- Ở Ta Bà đầy ác duyên chướng đạo, thị dục (danh-lợi-tình) mạnh mẽ dễ làm thối thất tâm Bồ Đề, lại có 3 đường ác sẵn chờ người thối hóa. Còn ở Tịnh Độ có đủ duyên thắng diệu để tiến tu, bất thối chuyển, không có 3 ác đạo.

    BẤT THỐI CÓ 3 HẠNG
    1/- VỊ BẤT THỐI: Đã dựa vào địa vị Tứ Thánh rồi, chẳng sa đọa xuống địa vị lục phàm nữa.
    2/- HẠNH BẤT THỐI: Đã tu hạnh Bồ Tát thường hóa độ chúng sanh, chẳng sa xuống địa vị nhị thừa nữa.
    3/- NIỆM BẤT THỐI: Tâm tâm niệm niệm giờ phút nào cũng như dòng nước chảy vào “Bể Tát Bà Nhã” (Bể nhứt thiết trí). Được bất thối chuyển như đã kể là nhờ các duyên thắng diệu sau đây, khiến cho tâm đạo Bồ Đề chóng thành tựu.
    * Đại bi nhiếp trì bất thối : Nói một khi chúng sanh sanh về cõi Cực Lạc thì được nguyện lực đại bi của Phật A Di Đà nhiếp trì, nên không thối chuyển tâm Bồ Đề.
    * Phật quang chiếu xúc bất thối: Nói người sanh về cõi Cực Lạc thì thường nghe nước, chim, cây, rừng phát ra những âm điệu tuyên thuyết các pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã, thường khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Nên không thối chuyển tâm Bồ Đề.
    * Thường văn phát âm bất thối: Nói người sanh về cõi Cực Lạc, thì được các bực Thượng thiện Bồ Tát làm bạn, nhờ đó mà bên trong không bị phiền não hoặc nghiệp làm lụy; còn bên ngoài thì không có cảnh tà ma ác duyên nhiễm loạn. Nên không thối chuyển tâm Bồ Đề.
    * Thọ mạng vô lượng bất thối: Nói người ở cõi Cực Lạc thì thọ mạng vô luông, nên không thối chuyển tâm Bồ Đề.
    5- Ở cõi Ta Bà Đức Phật Thích Ca đã nhập diệt; còn ở Cực Lạc Quốc thì Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, để giáo hóa cho tất cả đều tu chứng lên vô sanh nhẫn , cùng nhứt sanh Bổ xứ để thành Phật.
    1/- Vô Sanh Pháp Nhẫn: là đức nhẫn nhục của người nhập chơn lý, vạn pháp vốn vô sanh nên vô diệt. Nhờ đắc lý chơn thật vô sanh, vô diệt của các pháp mà người tu học dứt được sự buồn rầu, lo giận, phiền não, ác cảm; nhẫn chịu mọi sự vật, mọi hoàn cảnh đối với tất cả mọi sự vật được bản tâm thanh tịnh tự nhiên. Đức Nhẫn chịu ấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn hay Vô Sanh Nhẫn.
    2/- Nhứt Sanh Bổ Xứ: là một tên riêng của một bậc Bồ Tát ngang hàng với Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Quan Thế Âm, nghĩa là vị ấy chỉ một lần sinh ở đấy là được bổ lên ngôi Phật. Thế thì dân ở Cực Lạc, hết thảy đều (Người nhất sinh thành Phật) người nào cũng là thực chứng ngôi “Nhất sanh Bổ Xứ”.
    6- Muốn đền ơn cao cả của Đức Thầy đã giáo hóa, phải cầu sanh về Cực Lạc thế giới. Tại sao vậy? – Vì nếu chúng ta còn trong biển khổ sanh tử, thì lòng từ bi vô lượng của Đức Thầy không thể ngồi yên nơi Cực Lạc; mà còn phải nhiều lần lâm phàm cứu độ chúng ta:
    “Nếu thế gian còn chốn mê tân,
    Thì Ta chẳng an vui Cực Lạc”

    (Giác Mê Cực Lạc)
    Lại nữa, Đức Thầy cũng tỏ ý trông chúng ta phát cầu sanh về Cực Lạc.
    “Trông chúng sanh nghĩ tận đuôi đầu,
    Về Cực Lạc mới là hết khổ”.

    Là tín đồ học đạo theo Thầy, mà không nhận được Thánh ý và hoài bão lớn lao của Đức Thầy, thì đâu gọi chúng ta là người biết theo Thầy:
    “Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
    Đồng bay về Cực Lạc một đàng.
    Thì thân Thầy hết phải gian nan,
    Đâu có chịu mang câu nhạo báng”.

    (Bài Sa Đéc)
    Vì những lý do vừa kể qua mà chúng ta phải rời bỏ cõi Ta Bà, Nhứt tâm nguyện sanh về Tịnh Độ.

    HỎI: Nguyện vãng sanh về Tịnh Độ phải lập văn nguyện như thế nào? và có bài nguyện nào để nguyện không?
    ĐÁP: Câu chuyện Tây Phương trước ngũ nguyện của Đức Thầy dạy mà chúng ta nguyện hằng ngày, đó chính là bài nguyện vãng sanh, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa siêu mầu; dù bực hạ căn, trung căn hay thượng căn, dù kẻ thông người dốt đều nguyện được. Đây là bài văn thông lập của Đức Thầy để cho tất cả tín đồ nguyện chung, có đủ ý nghĩa tự nguyện trong đó. Nghĩa là nguyện cho mình và cho tất cả chúng sinh đều được đắc độ , đó mới đúng với tâm hạnh Đại thừa của Bồ Tát, hợp với đạo Bồ Đề, hợp với đạo Bồ Đề Vô Thượng.
    Nên khi nguyện bài Tây Phương, ta chỉ nhứt tâm nương theo văn nguyện, có ý cầu sanh là chúng ta nguyện vãng sanh rồi. Còn quí vị muốn tự lập văn để nguyện theo sở cầu của mình thì điều đó tùy hỉ.

    HỎI: Vừa qua chúng tôi đã tiếp nhận được thế nào là tin sâu nguyện thiết và các món trợ hạnh, chỉ chờ hội đủ niệm Phật Nhứt Tâm Bất Loạn là hoàn bị môn tu tịnh nghiệp. Vậy xin tham khảo cùng quí vị, bài giáo lý được Đức Thầy Kim Sơn Ngài dạy về pháp niệm Phật. Nay xin đem hỏi từng đoạn quí vị bài giải tiện hơn. “Còn phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh”. Đoạn nầy ý nghĩa như thế nào? Xin dẫn luận cho biết.

    ĐÁP: Đoạn nầy vừa giới thiệu phép tu niệm Phật, vừa cho biết nguyên nhân sanh tử luân hồi. Pháp niệm Phật là một pháp tối thắng trong tất cả các Phật Pháp.
    Đức Phật thuyết ra có rất nhiều pháp môn. Vì bởi chúng sanh cò nhiều vô minh phiền não. Đức Phật Thích Ca Ngài giống như một Y Vương. Hễ bịnh nào là cho hết thuốc nấy, mà niệm Phật là món thuốc trị tất cả bịnh phiền não. Thật là một phương pháp thù thắng đệ nhứt tối cực viên đốn; nên Đức Văn Thù Bồ Tát dạy Ngài Pháp Chiếu rằng: “Niệm Phật là vua của các Pháp”. Ngài Long Thọ Tôn Giả cũng bảo: “Niệm Phật Tam muội” có đại trí huệ, có đại phước đức, hay đoạn trừ tất cả phiền não, hay độ tất cả chúng sanh . “Niệm Phật tam muội” hay sanh vô lượng tam muội cho đến “Thủ Lăng Nghiêm Tam muội”. Ấn Quang Pháp Sư là một nhà sư cận đại, thâm nhập về lý niệm Phật, nên ông mới khẳng khái rằng: “Bỏ đường tắt Tây Phương Cửu Giới chúng sanh khó tròn nên quả giác; lìa pháp mầu Tịnh Độ mười phương chư Phật khó thể độ khắp hàng mê”.
    Niệm Phật là pháp tu siêu thắng, nên các vị Tổ sư và chư Bồ Tát đều công nhận và tán thán như nhau. Thật may mắn cho chúng ta, được Đức Thầy thuyết giáo, còn cho biết đây là phương pháp đối trị vọng niệm của chúng sanh.
    Vọng niệm chúng sanh: Vọng niệm là tưởng nhớ những điều hư dối, không chơn thật. Chính nó là nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật Thích Ca có kêu ANAN cho biết: Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chịu cái khổ sanh tử nối liền đều do không biết chơn tâm không sanh diệt, cái thể trong sạch sáng suốt. Lại dùng các vọng tưởng mà cho là tâm mình; nhớ nghĩ chuyện đảo điên không chơn thật tạo ra các nghiệp hữu lậu phải trôi lăn theo sanh tử, chuyển luân trong ba cõi sáu đường.
    Kinh văn: “Nhứt thiết chúng sanh, tùng vô thỉ lai, sanh tử tương tụ giai do bất trị, chơn tâm thường trụ, tánh tịnh minh thế”. Dụng chư vọng tưởng, thử tưởng bất chơn , cố hữu lưu chuyển”. Cũng đồng với lý nầy Đức Thầy viết:
    “Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
    Nên quay lộn Ta Bà cõi khổ”.


    Muốn chấm dứt cái nỗi khổ cho chúng sanh và đưa tất cả ra khỏi biển sanh tử; Phật Ngài mới thuyết giáo nhiều pháp môn để đối trị những bịnh mê lầm điên đảo của chúng sanh. Chẳng hạn như chúng sanh có bịnh loạn tưởng thì Phật có pháp tu quán số tức để đối trị; còn bịnh mê sắc dục thì có phép quán từ bi để đối trị; tâm mê si chấp pháp thì có pháp quán giới phân biệt để đối trị. Lại còn nhiều pháp khác không kể xiết để đối trị vọng niệm của chúng sanh.
    Nhưng pháp tu niệm Phật đây có công năng trừ được tất cả vọng niệm mê chấp của chúng sanh, chỉ dùng có một phương pháp mà khai ngộ được hết thảy chúng sanh dù ở trình độ cao hay thấp đều đắc ngộ đặng. Thật là mầu nhiệm vô cùng. Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát cũng cho biết: không cần dùng phương pháp nào, chỉ niệm Phật mà cũng tự khai ngộ được tâm linh của mình. “Bất dã phương tiện tự đắc tâm khai”. Nên Đức Kim Sơn Phật viết:
    “Lục tự trì tâm là phương pháp,
    Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời”.

    HỎI: “Vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt”. Xin cho biết niệm niệm mê lầm là niệm những gì, mà niệm quá lắm vậy?
    ĐÁP: Niệm là tưởng nhớ, mà niệm niệm là không ngừng nghĩ, không gián đoạn. Mê là tối tăm; lầm là sai lạc. Vây niệm niệm mê lầm là trong tâm chúng sanh nhớ nghĩ liên tục những điều sai lầm tăm tối: “…Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng thưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng …” Sanh ra thất tình lục dục lìa bỏ tánh chơn. Than ôi! Nào là: “Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí… được hằng ngày ghi nhớ, vì vậy con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử”. Những điều nói trên chúng sanh cứ niệm niệm nối liền trong khi: đi, đứng, nằm, ngồi, ngũ, thức, nói, nín, tư tưởng không lúc nào ngừng sinh hoạt; có thể gọi đây là “nhứt tâm bất loạn niệm chúng sanh”. Nếu không có tối thắng chi pháp thì không có cách nào cứu được cái bịnh tối ư trầm trọng nầy. Nên Kinh bảo: “Sanh tử hải trung, niệm Phật đệ nhứt”.

    HỎI: Vì cái vọng niệm về việc thế trần ấy mà không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che chơn tâm mờ ám”. Vậy niệm thế trần là niệm cái gì mà cõi lòng không an lạc, và phiền não có thế lực đến đâu, chúng nhiều hay ít mà che lấp đặng chơn tâm?
    ĐÁP: - Thế là đời, là cuộc sống của con người hay bị dời đổi biến diệt; trần là bụi bặm, nhơ nhớp. An lạc: an là yên lặng; lạc là vui tươi.
    Không cho cõi lòng an lạc tức là tâm hồn chao động buồn khổ, không an. Lý do là vì đem tâm vọng tưởng theo việc thế trần. Trần nói cho dễ hiểu hơn là sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc và Pháp.
    1/- Sắc trần: Là những vật có hình sắc, có bóng dáng ngó thấy được như: sắc đẹp, sắc xấu, sắc nam, sắc nữ; các sắc: xanh, trắng, đỏ, vàng, đen .v.v…
    2/- Thinh trần: là tiếng vang động của loài vô tình, tiếng nói của loài hữu tình, tiếng âm nhạc, tiếng ca hát v.v…
    3/- Hương trần: Mùi thơm tự nhiên của các loài hoa; mùi hương do sự bào chế hòa hợp như: dầu sáp, nước hoa .v.v…
    4/- Vị trần: vị do bản chất sanh, vị hòa hợp bào chế hoặc chung nấu, vị cay, vị đắng, vị ngọt, vị béo .v.v…
    5/- Xúc trần: Những vật chất: mềm, mịn, láng, mát, nóng, lạnh .v.v…
    6/- Pháp trần: Bóng dáng của năm trần, mà ý có tưởng nhớ và phân biệt dược gọi là pháp trần.
    Chúng sanh để tâm giong ruổi hướng ngoại theo sáu trần, xa lìa bản giác, không lúc nào ngừng nghỉ, nên kinh luận thường tỉ là “Tâm viên ý mã”.
    Phiền não: Biệt danh là vô minh. Phiền não lại có những tên như: Độn sử, Lợi sử, Tư hoặc, Kiến hoặc .v.v… Phiền não có thứ chậm chạp, có thứ lanh lợi, nên Đức Phật mới gọi là Độn sử hay lợi sử.
    Phiền não có thứ mãnh liệt ân sâu gốc rễ đến tang thức khó diệt trừ. Đức Phật gọi nó là Tư hoặc (Tham, sân, si, mạn nghi) cũng kêu là “Câu sanh hoặc” ; lại cũng có thứ yếu ớt chỉ ăn bạ trên ý thức dễ diệt trừ; thứ phiền não nầy Đức Phật gọi là Kiến hoặc, cũng kêu là “Phân biệt hoặc”. Nói rõ hơn Kiến hoặc là chỗ mê lầm về sự.
    Phiền não có cơ cấu thế lực rất lớn, có cấp lãnh đạo thượng từng; có nhân viên phụ thuộc và quần chúng rất đông. Phiền não cấp dẫn đầu có 10 tên cũng gọi là căn bản phiền não; phiền não ở cấp nhân viên phụ thuộc 20 tên, cũng kêu là tùy phiền não; ngoài ra còn vô số quần chúng phiền não; trần lao phiền não.
    Xin liệt tên các loại phiền não đã kể qua.

    A- CĂN BẢN PHIỀN NÃO

    1/- THAM: lòng ham muốn bao gồm, giữ chặt.
    2/- SÂN: Tánh nóng giận bạo tợn.
    3/- SI: Mê muội đắm say vật chất.
    4/- MẠN: Ngã mạn, tự cao khinh người.
    5/- NGHI: Ngờ vực bất tín.
    (Năm thứ nầy cũng gọi là Ngũ độn sử hay Tư hoặc).
    6/- THÂN KIẾN: Thấy thân nầy là thật , rồi chấp lấy cho là thân ta.
    7/- BIÊN KIẾN: Thấy một bên, là thấy thường hay thấy đoạn. Thấy thường là thấy người là người, vật là vật. Thánh nhơn là Thánh nhơn không có chuyển luân. Đoạn kiến chấp theo cái thấy rồi là mất.
    8/- KIẾN THỦ KIẾN: Chấp giữ theo chỗ thấy của mình cho là đúng, mặc dù có người biết sai chỉ bảo lại cũng không nghe.
    9/- GIỚI CẤM THỦ: Giữ giơi theo tà sư ngoại giáo và chấp theo những tục lệ không hay.
    10/- TÀ KIẾN: là chấp theo chỗ thấy tà vay theo các việc mê tín dị đoan.
    (Năm món sau nầy cũng gọi là Ngũ lợi sử hay Kiến hoặc)
    Mười món phiền não nầy Đức Phật gọi chung là Thập Kiết Sử.
    Kiết là trói buộc; sử là sai khiến. Vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sanh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
    Những thứ phiền não nầy khi niệm Phật đến nhứt tâm bất loạn sẽ trừ được.

    B- TÙY PHIỀN NÃO
    Tùy Phiền não có 20 tên xin liệt kể:
    1- Phận: giận; 2- Hận: tính hờn; 3- Phú: che giấu; 4- Não: buồn buồn;
    5- Tật: tật đố ganh ghét; 6- Xan: bỏn xẻn;
    7- Cuốn: dối; 8- Siểm: bợ đỡ nịnh hót; 9- Hại: tổn hại; 10- Kiêu: kiêu căng; 11- Vô tàm: tự mình không biết xấu hổ; 12- Vô quí: không biết thẹn với người; 13- Trạo cử: lao chao.
    Thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh: Lời dạy nầy rất sáng tỏ và quả quyết, cho biết mỗi câu niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật” có công năng diệt trừ được niệm chúng sanh. Thật là chí huyền, chí diệu không thể nghĩ bàn. Chúng tôi có thể nói ngắn gọn đây là phép bỏ phàm làm Thánh; chỉ trong một niệm chí tâm mà vượt tắt khỏi Ta Bà, lướt qua mười muôn ức Phật Độ, thẳng vào An Dương, ngự ngay ở Liên Đài.
    Mỗi câu niệm Phật bỏ được một niệm chúng sanh; còn bằng trái lại mỗi niệm chúng sanh cũng có công năng đi sâu vào Ta Bà, thẳng đến súc sanh, sa vào ngạ quỉ , rơi xuống địa ngục A Tỳ. Bởi vì hột giống của địa ngục, của ngạ quỉ, súc sanh cả đến ATULA, nhơn và thiên cũng không phải là niệm Phật. Nên nói niệm Phật, bỏ niệm chúng sanh thì vượt tắt ba cõi sáu đường là lý do đó vậy.
    Sở dĩ được vượt tắt khỏi Ta Bà, vì trong mỗi câu niệm Phật chí tâm có công đức vô lượng, nên mới diệt trừ được nhiều tội chướng. Theo trong Quán Kinh Đức Phật Thích Ca cho biết: Kẻ nghịch ác mà biết niệm Phật chí tâm, mỗi câu trừ được tám mươi ức kiếp tội trọng sanh tử. (Nhược nhơn chí tâm niệm nhứt thinh A Di Đà Phật, diệt bát thập ức kiếp tội trọng sanh tử). Mỗi câu niệm Phật có công đức không thể nghĩ bàn, mỗi niệm chúng sanh có vô số trần lao không thể tính; nên phải nhiếp tâm niệm Phật mới trừ được niệm trần lao phiền não kia.

    HỎI: Niệm sao gọi là niệm trần lao hay niệm chúng sanh? Nhờ ông trình bày một cách xác thực cho chúng tôi hiểu được.
    ĐÁP: Niệm trần lao là niệm như thế nầy, đem tâm phân biệt hợp với các căn, xúc chạm với ngoại trần rồi sanh tâm tưởng nhớ, đó gọi là niệm trần lao. Như lấy mắt nhìn sắc đẹp, sắc xấu rồi sanh tâm ái hoặc ố mà nhớ tưởng, đó gọi là niệm chúng sanh. Lấy tai nghe tiếng êm diệu, tiếng xẳng chát, tiếng bổng trầm ma sanh tâm ưa hoặc ghét, rồi nhớ tưởng, đó gọi là niệm chúng sanh. Lấy mữi ngửi các mùi hôi hoặc thơm mà sanh tâm ái hoặc ố rồi nhớ tưởng đó gọi là niệm chúng sanh. Lấy lưỡi nếm các vị: ngon, ngọt, béo, bùi, đắng, chát, chua, cay mà sanh tâm ưa hay ghét, rồi nhớ tưởng đó gọi là niệm chúng sanh. Đem thân va chạm với xúc trần: êm mịn hoặc nhám cứng mà sanh tâm ái ố rồi nhớ tưởng, đó gọi là niệm chúng sanh. Lấy ý phân biệt ngũ trần rồi sanh tâm ưa hay ghét mà tưởng nhớ, đó gọi là niệm chúng sanh.
    Nói rõ hơn, đem sáu thức hợp với sáu căn tiếp nhận sáu trần rồi sanh ra xúa động, rồi mến chịu, rồi yêu thích, rồi gìn giữ. Khi chết đi còn luyến tiếc nên nới sanh trở lại; có sanh trở lại thì phải có già, rồi có chết nữa, nguyên nhân cũng chính vì cái niệm trần lao sanh diệt kia; hôm nay không cho nó niệm trần lao hay niệm chúng sanh nữa. Nghĩa là nhiếp hết cả sáu căn lại để niệm Phật nối luôn không cho gián đoạn, trong khi: đi, đứng, nằm, ngồi, ngũ, thức, nói, nín, thấy, nghe, hay biết điều không rời lục tự, không quên Phật, đó gọi là trì tâm hay nhiếp tâm niệm Phật. Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát cũng chính tu pháp nhiếp tâm niệm Phật nầy mà chứng bực Đẳng Giác. Trong Pháp hội Lăng Nghiêm Đức Phật hỏi về pháp tu sở chứng. Ngài Đại Thế Chí liền đứng lên trình bày chỗ sở đăc của Ngài là: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối liền; chứng Tam Ma Địa pháp nầy là hơn hết”.
    Pháp nhiếp tâm chuyên trì hồng danh, Đức Thầy đã nhiều lần khuyên nhắc trong sám thi:
    “Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,
    Di Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn”.

    hay là :
    “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.

    Lục tự trì tâm là yếu pháp để vọng tưởng , thế mà ít kẻ chuyên lành.
    “Trì tâm thì quá ít oi,
    Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào”.


    Pháp trì tâm niệm Phật, chúng ta mạnh dạn tuyên dương đó là pháp “Trì Tâm Tam Muội” trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo.
    Xin giải thích “Trì Tâm Tam Muội”. Trì tâm là lòng chỉ giữ một hiệu Phật không rời; Tam muội là chánh định. Vây lục tự trì tâm tam muội là lòng chỉ giữ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trong tất cả poai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi); trong tất cả thời khắc (ngũ, thức, nói, nín) khiến cho lòng được an định, trí huệ phát khai; nên gọi lục tự trì tâm là môn Tam muội.
    Hành giả đắc được niệm Phật tam muội rồi, thì sẽ được vô lượng tam muội, cho đến Thủ Lăng Nghiêm tam muội; chừng ấy sẽ phá tan vô minh tận diệt phiền não, phước đức mãn túc chứng ngộ hiện tiền; sau khi mạng chung vãng sanh cao thăng Thượng phẩm. Còn nếu trong hiện đời niệm Phật mà chưa đắc được tam muội tại tiền, thì phải có lòng tín, nguyện sâu thiết, rồi cũng được đới nghiệp vãng sanh. Khi được vãng sanh sẽ vào bậc bất thối chuyển, tiến tu cho đến khi thành đạo vô thượng, hầu có trở lại cứu vớt chúng sanh. “Mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh” Niệm niệm Phật: là niệm đến chỗ thuần nhứt không còn tạp niệm hay gián đoạ . Đó gọi là niệm niệm Phật.

    A- TẠP NIỆM
    Đại khái là có hai thứ: 1/ Ác niệm; 2/ Thiện niệm.
    1-ÁC NIỆM: Tâm nhớ những điều: Danh, lợi, sắc, tài, quyền thế, nhớ những chuyện giận tức oán ghét; cùng các việc ưa thích cõi trần và những điều gì đoan mê tín (những chuyện linh nghiệm khác lạ). Các việc nầy làm cho tâm niệm Phật của hành giả không được thuần nhứt, nên gọi là ác niệm xen tạp.
    2- THIỆN NIỆM: Nhớ nghĩ các điều lành mình đã làm hay đang làm, những câu kinh hoặc câu giảng đã học, lại nhớ ra trong khi niệm Phật, làm cho chánh niệm lục tự không được chuyên thuần.
    Chúng ta nên hiểu, bỏ hết các niệm (ác niệm và thiện niệm) là để đạt đến chỗ niệm Phật nhứt tâm bất loạn, chớ không phải trái lại với thiện niệm. Vả lại niệm Phật là niệm đấng hoàn thiện, và trong lúc niệm Phật cũng chính là lúc “Đem tâm hồi hướng gốc lành” thì còn phải niệm thiện nào hơn nữa. Nên nới cho là thiện niệm xen tạp.

    B- VÔ GIÁN
    Vô gián có 2 phần: Lục tự vô gián và ý niệm vô gián.
    1- LỤC TỰ VÔ GIÁN: Sáu chữ hồng danh nối liền, không phút giây nào bị dừng đứt. Thính giác lúc nào cũng nghe, cũng biết vào câu niệm Phật trong tâm mình, không bỏ sót câu nào, tiếng nào, ngoài ra không còn nghe biết chi khác; hành giả chỉ biết tha thiết vào sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà mà thôi. Đây gọi là sự vô gián, người xưa kêu là sự trì.
    2- Ý NIỆM VÔ GIÁN:
    Lòng nhớ Phật không phút nào lãng quên. Hay nói khác hơn là không lìa tự tánh (tánh giác) để niệm Phật. Lại còn thấy còn biết tâm mình là Phật, tâm mình làm nên Phật; nên không lìa tâm (thật tướng), không rời niệm Phật để thành Phật. Đây gọi là lý vô gián. Xưa Ngài Ngẫu Ích Đại Sư kêu là lý trí.
    Niệm Phật chuyên thuần không còn tạp niệm và gián đoạn, thì tất cả niệm chúng sanh dứt ngay. Đến đây đã phục diệt được phiền não, hành giả đạt đến chỗ “Nhứt tâm bất loạn”. Nên Đức Thầy cho biết: “…mà niệm niệm Phật thì lia tất cả niệm chúng sanh…”.

    HỎI:Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nảy sanh ra được ?” Tại sao phải nhứt tâm và nhứt tâm bất loạn như thế nào? Xin qúi vị phân tách rõ.
    ĐÁP: Nhứt tâm bất loạn là chỗ tuyệt đích của môn Tịnh Độ. Chứng ngộ đến đây rồi là thành công viên mãn của người tu tịnh nghiệp. Trước khi bàn đến phần quan trọng nầy xin trở lại ý hỏi của quí vị. – Tại sao phải nhứt tâm?
    - Thưa, là vì có tam tâm và nhị tâm nên phải nhứt tâm.

    HỎI : Tam tâm là như thế nào? Chúng tôi thường nghe nói mỗi người có một tâm hồn kia mà, sao nay lại nói tới ba tâm thì làm sao ở chung một xác cho đặng? Xin nói rõ để chúng tôi lãnh hội.
    ĐÁP: Phàm con người khi còn mê thì tâm còn sanh diệt không sao kể xiết. Nói ba tâm là theo lời Phật dạy trong Kinh Kim Cang. Ba tâm: 1- Tâm quá khứ; 2- Tâm vị lai; 3- Tâm hiện tại.
    Nói tâm quá khứ là đem tâm nhớ nghĩ chuyện đã qua: Chuyện lợi hại, chuyện thương ghét, chuyện ân oán đã qua rồi mà tâm cứ nghĩ mãi; nên Phật gọi là: “Quá khứ tâm bất khả đắc”. Còn nói vị lai tâm là đem tâm lo nghĩ đến thì không bao giờ đúng theo ý muốn, nên Phật gọi “Vị lai tâm bất khả đắc”. Hiện tại tâm là đem tâm tính toán lo lường những việc trong cảnh hiện tại, nhưng cảnh hiện tại thì dời đổi không dừng, thế mà cứ đem tâm lo nghĩ mãi, nên Phật gọi “Hiện tại tâm bất khả đắc”.
    Thương ôi cho chúng ta! Sống ngày nay không biết được ngày mai thế nào? Nay sống đây, mai chết ở đâu? rồi về đâu? sáng ngày còn ăn uống, chiều lại có uống ăn chăng? Thế mà vẫn lo, rồi lo và lo mãi. Nên Tổ Đạt Ma bảo: “Phàm phu đương sanh ưu tử, lâm bảo sầu cơ, giai danh đại hoặc. Sở vị trí nhơn bất mưu kỳ tiền, bất lự kỳ hậu, vô biến đương kim, niệm niệm qui đạo”.
    Nghĩa: Phàm con người đương sống sợ chết, đang no lo đói, đều là lầm lạc lớn cả. Còn chỗ người hiểu đạo không mưu tính việc qua, không lo lường việc chưa đến, cảnh hiện tại cũng không làm rối lòng, niệm niệm đều trở về với Đạo.
    Để giác tỉnh con người sớm trở lại nhứt tâm, Đức Thầy Kim Sơn viết:
    “Ta là cư sĩ canh điền,
    Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
    Xa nơi tranh đấu lợi danh,
    Giữ lòng thanht ịnh tánh lành trau tria.
    Gắng công trì niệm sớm khuya,
    Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.

    HỎI: Đã biết được nghĩa của tam tâm, xin cho biết luôn nhị tâm là như thế nào?
    ĐÁP: Nhị tâm là người đã có niệm Phật mà lòng nữa mến Ta Bà, nữa ham Cực Lạc. Nếu tâm trạng thế đó sợ e cho lúc lâm chung sức nghiệp hoành hành khó thể giữ chánh niệm để vãng sanh. Vậy nên nhứt tâm niệm Phật trong lúc bình sanh là bảo đảm hơn hết.
    Sách có câu:
    “Ái bất trọng bất sanh Ta Bà,
    Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh Độ”.

    (Lời Dương Kiệt)
    Nghĩa:
    “Yêu không nặng không sanh Ta Bà,
    Niệm chẳng nhứt chẳng sanh Tịnh Độ”


    - Vậy Nhứt tâm và Bất loạn ra sao?
    - Nhứt tâm là một lòng tinh chuyên nhớ Phật, niệm Phật không gián đoạn, không một niệm trần lao xen tạp, lòng được yên tĩnh tự nhiên. Đây cũng gọi là đắc được định. Bất loạn là bản tâm hằng lặng lẽ sáng soi, không bị trần cảnh làm chao động não loạn; lại còn thấy rõ các pháp trần không có tướng chơn thật, do nhơn duyên hoà hợp mà có, khi nhơn duyên hết thì không. Nên sanh, mà không thấy có tướng sanh; Diệt, mà không thấy có tướng diệt. Đây cũng gọi là đắc được phần huệ. Nói chung, Nhứt Tâm Bất Loạn là chứng đủ cả 2 phần Định và Huệ; hai phần nầy thường hỗ tương cho nhau không thể tách rời mà có đặng, nếu có được nhứt tâm thì mới được bất loạn, mà có được bất loạn thì mới dễ nhứt tâm. Nên nói đắc được định thì mới phát huệ, có phát huệ thì định mới được hoàn toàn. Đến chỗ chứng Định Huệ nầy cũng có phần sâu và cạn, mà Ngài Ngẫu Ích Đại Sư phân tách là sự nhứt tâm và lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm là đắc được phần Định Huệ cạn, nên chỉ trừ 2 thứ phiền não: Kiến hoặc Tư hoặc thôi; còn lý nhứt tâm là chứng được phần Định Huệ sâu. Có đủ lực dụng trừ được kiến chấp của phàm phu và nhị thừa; tức là thấy sắc không thật sắc, thấy không chẳng phải không; mà không tức là sắc, sắc tức là không, sắc không cùng một thể như nhứt. Về điểm đặc biệt nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ có dạy:
    “ Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
    Sắc không, không sắc chớ lìa xa.
    Diệu huyền chơn lý noi đường sáng,
    Ảo thuật tà tâm kiếm nẻo ra”.

    Ngài còn nói rõ hơn nữa là:
    “ Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
    Bụi hồng trần rứt sạch cửa không.
    Chuông linh ngân tiếng đại đồng ,
    Ta Bà thế giới sắc không một màu”.


    Một màu: tức nói một thể chơn như. Hành giả niệm Phật khi được Định Huệ rồi thì lần lượt diệt trừ các phiền não: Kiến hoặc, Tư hoặc ,trần sa hoặc, vô minh hoặc. Có thể nói, nếu chứng được sự nhứt tâm; và sao khi phá được các thứ vô minh phiền não rồi sẽ chứng được tam thân của tự tánh.
    Tam thân có: 1 – Pháp thân, 2-Báo thân, 3-Hoá thân .
    1/- Pháp Thân: Là chơn thân của vạn pháp, thể tánh hoàn toàn thanh tịnh, trạm tịch, linh minh. Đức Huệ Năng Ngài cũng bảo: “ Thanh Tịnh Pháp thân Phật ”.
    Pháp thân nơi nào lúc nào cũng có mặt trong các pháp hữu vi .Nên Kinh Văn có câu : “ Thanh thanh thuý trúc tận thị Pháp thân ” .Nhưng Pháp thân hằng lặng lẽ , mà hằng sáng soi ; nên gọi tịch , mà thường chiếu , Pháp thân vốn không sanh ,không diệt ; không khứ , không lai ; không trước , không sau ; nhiểm mà chẳng nhiễm ; động , mà chẳng động ; chẳng phải có chẳng phải không ; cũng không , mà cũng có . Thoát ngoài vòng đối đãi không thể luận bàn ,nhận được Pháp thân hằng sống với nó là giải thoát , là thành Phật .
    Sở dĩ chúng ta chưa nhận được Pháp thân là vì còn có quá nhiều nghiệp duyên triền phược , nhiều sự ô nhiễm che lấp . Nếu một khi cỡi mở và gội rửa xong thì Pháp thân thanh tịnh hiện bài một cách tự nhiên không thêm không bớt . Đức Thầy cũng có chỉ cách cho chúng ta để nhận được Pháp thân .
    “ Tính xong món nơ lần khân ,
    Thoát vòng cương toả pháp thân nhẹ nhàng .
    Tiêu diêu đạo đức luận bàn ,
    Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao ” .

    ( Bài Hoài Cổ )

    2 - BÁO THÂN:
    Thân chơn như tròn đầy công đức: tựi lợi và lợi tha, chẳng nhiễm điều dữ cũng không nhiễm điều lành, niệm niệm không lìa giác thể. Ngài Lục Tổ Huệ Năng cũng kêu : “ Viên mãn báo thân Phật ”. Báo thân hằng sáng soi thấy rõ được thật tướng của Pháp, nhưng hằng lặng lẽ, nên gọi chiếu, mà thường tịch. Báo ở với các Pháp nhưng rất tự tại không bị chi phối, bởi: Thành , Trụ , hoại , không, nên không còn sanh tử. Đức Thầy có viết:
    “ Thân thì thân công đức hiền lành ”
    và câu :
    “ Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh ”

    3 HOÁ THÂN: Thân biến hoá do chơn tâm hoá hiện ra các tướng, nhưng không lìa thể thanh tịnh. Tổ Huệ Năng cũng cho biết: “ Thiên bá ức hoá thân Phật ”. Lòng từ bi giáo hoá muốn độ hết chúng hữu tình, nên phải hoá thân các loài, hiện ra các tướng; tuy nhiên vẫn hằng lặng lẽ. Ở trong các tướng hiện đủ các loài, nhưng hằng sáng soi; nên gọi tịch, mà không tịch; chiếu , mà không chiếu; không chiếu, mà chiếu; không tịch, mà tịch.
    Về trường hợp hoá thân, Đức Thầy Kim Sơn Phật có viết qua những đoạn sau đây:
    “ Đến đây Thầy Tớ hoá mười,
    Nói nói cười cười bán thuốc sơn đông ’’

    hay là:
    “ Đến nơi thiên hạ còn đông,
    Giả gái không chồng đi bán cao tươi ’’.

    hoặc giả:
    “ Khi già lúc lại trẻ thơ,
    Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.
    Đi nhiều càng thảm càng phiền,
    Lên doi xuống vịnh nào yên thân già ’’.

    ( Sấm giảng quyển nhứt )

    HỎI: “Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai ” Chữ Bản lai thanh tịnh nghĩa lý mầu nhiệm như thế nào mà chúng sanh nương theo đó được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm? Nhờ minh giải.
    ĐÁP: Bản lai: bản là bổn thể , là tánh chơn như; cũng kêu là bản giác. Gọi chung là giác tánh chơn như; Lai: lại, là trở lại giác tánh, nói trở lại là ta hiểu đã có bỏ đi rồi. Khi mê là lìa giác tánh hiệp với trần lao, lúc tỉnh là bỏ trần lao trở lại với giác tánh chơn như; nên gọi là Như Lai hay Phật vậy. Đức Thầy giải thích chữ Phật, và còn cho biết khi trở lại với giác tánh chơn như là không còn sanh tử luân hồi:
    “ Phật giả là giác giả, Giác giả là tỉnh giả ”.
    và :
    “ Đem về giác tánh chơn như,
    Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh ”.

    Thanh tịnh: Thanh là trong; tịnh là sạch. Thanh tịnh là nói nguồn tâm được long trong và lọc sạch; chỉ cho thể tánh hoàn toàn thanh tịnh của Đức Phật tự nhiên có đủ công đức vô lượng. Nói về bản giác thì chúng sanh cũng có Phật tánh như chư Phật, nhưng thể tánh chưa được thanh tịnh hoàn toàn, nên chưa có công đức.
    Giống như cái bình nước kia, đã long trong gạn sạch hết cặn bụi, chỉ còn toàn là nước trong, dầu có bị ai quấy động nước cũng vẫn tự nhiên không đục; lại còn hiện rõ hình bóng những hiện tượng trên không gian như: trăng, sao và mặt trời. Đó là tỉ cho tâm Phật được hoàn toàn thanh tịnh, không còn trược nhiễm trần ai, lại còn có đủ công đức vô lượng; giống như nước trong kia các hiện tượng trên không gian tự nhiên hiện đủ trong nước. Lại cũng một cái bình nước chưa gạn lọc, chỉ để yên, cặn long xuống, thì nước kia liền đục màu, đó là tỉ cho tâm chúng sanh còn trược nhiễm. Nên nói bản giác thì chúng sanh và Phật đều có như nhau, nhưng về thỉ giác thì chúng sanh chưa được như Phật, vì chưa có viên giác tánh ; nên còn bị động.
    Biển lòng của chúng sanh một khi gió trần cảnh thổi vào, thì sóng thất tình lục dục bắt đầ diêu động, bao nhiêu cặn cáu phiền não đều nổi lên. Còn thể tánh thanh tịnh của Phật dầu có bị gió lục trần hay bát phong thổi đi nữa cũng vẫn tự nhiên không chao động.
    Bát phong: 1- Lợi: các điều lợi ở thế gian; 2- Suy: suy bại; 3- Huỷ: nói xấu; 4- Dự: được khen; 5- Xưng: khen tặng; 6- Cơ: chê; 7- Khỗ: hoạn nạn ; 8- Lạc: vui sướng.
    Còn lục trần là sáu trần. Tất cả những thứ nầy không làm chao động được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chỗ côt yếu để chứng đạo Vô Thượng. Nên Đức Thầy Tôn Kính hằng giáo hoá.
    “Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.
    hay là:
    Giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn giận , chẳng dạ ghét ganh , chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỹ, gây mối thiện duyên, lần lần trí huệ mở mang, cõi lòng sáng suốt, thì màn vô minh sẽ bị diệt mất”. Khi trở lại đươc với giác tánh thanh tịnh rồi thì vô lượng công đức trí tuệ, bao nhiêu diệu pháp của chư Phật tự nhiên có đủ trong đấy. Đức Lục Tổ Huệ Năng khi tỏ ngộ được tánh nầy rồi thì Ngài liền nói lên: “Nào dè tánh mình vốn tự thanh tịnh, nào dè tánh mình vốn không sanh diệt, nào dè tánh mình vốn khong diêu động, nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ, nào dè tánh mình hay sanh vạn pháp”.
    - Xin cho biết, chỗ luận giải của chúng tôi quí vị có nhận được không?
    - Cảm ơn quí ông. Chúng tôi đã lãnh hội , nhưng còn một điều thắc mắc , xin quí vị cho biết: Bản giác như thế nào? Tại sao chúng sanh có bản giác mà chưa giác ngộ như Phật? Hãy giải thích và tỉ dụ bằng nhiều cách cho chúng tôi dễ lãnh hội.
    ĐÁP: Bản giác là nguyên tố căn bản để thành Đạo giác ngộ , chớ chưa phải là giác ngộ hoàn toàn, vì chỉ có tánh đức mà chưa có tu đức. Tánh đức là nói trong tánh giác có đủ đức: thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng chưa được phát hiện; còn nói tu đức là nói Phật nhờ có tu, mà nguyên tánh căn ban kia được phát hiện, mới nhận được những đức tánh trong bản giác (thường, lạc, ngã, tịnh) nên gọi là Thỉ giác.
    Đức Phật Thích Ca cho biết “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” Hay là : “Ta là Phật đã thành còn các ngươi là Phật sẽ thành”.
    Đức Thầy Kim Sơn cũng cho biết:
    “Các chúng sanh đều có như Ta”
    (Khuyến Thiện)

    Chúng sanh và Phật cùng một bản giác ví như cùng một thứ giống. Tỉ dụ: như ta đem hạt dưa gieo xuống đất, rồi ra công chăm sóc dùng phân bón và các món cần thiết để trợ trưởng cho đến khi đơm hoa kết quả, quả chín, mọi người đều dùng được có lợi ích. Hạt dưa là tỉ cho bản giác, quả dưa là tỉ cho thỉ giác. Vậy muốn được quả dưa thì phải có hạt dưa để làm giống, nhưng còn phải trải qua giai đoạn ; gieo trồng, săn sóc mới gặt hái được hoa màu. Cũng như thế, chúng sanh muốn thành Phật thì phải trải qua thời gian khổ công tu tập, dứt hết mê lầm trược nhiễm, mới trở thành bực giác ngộ đặng.
    Tỏ dụ cách khác chúng sanh và Phật cùng một bản giác, giống như cùng một thứ vàng khối còn trong mỏ, đang lộn với các loại khoáng chất. Khi được thợ gia công lọc kỹ thì mới tở thành vàng y. Vàng khối còn trong nhỏ là tỉ cho Phật và chúng sanh cùng một bản giác, còn vàng y đã được lọc ra là tỉ cho Phật nhờ có công tu mà được viên giác tánh. Trường hợp nầy được Đức Thầy minh giáo.
    “Trí hiền tâm đức chùi lau,
    Ra công lọc lỹ thì thau ra vàng”.


    Để hiểu rõ viên đốn của Pháp môn Tịnh Độ chúng tôi xin tỉ dụ gần hơn là một cái đèn được đốt cháy có đủ ánh sáng để phá tan bóng tối, cũng đồng thời một cái đèn có đủ tim dầu nhưng chưa đốt lên; cái đèn cháy sẵn là tỉ cho Phật có đủ trí huệ để phá trừ màn vô minh, cái đèn chưa cháy là tỉ cho chúng sanh chưa được giác ngộ; hôm nay chỉ cần bưng cái đèn đã cháy kia, thì tự nhên sẽ được cháy lên có đủ ánh sáng phá sự tăm tối. Thay vì phải cọ cây cho đến khi phát hoả mới đốt được đèn, chúng sanh chỉ đem bản giác hợp cúng thỉ giác; thì sẽ được viên giác tánh, cũng giống như thế.
    Mầu thật, nhiệm thật, kho nghĩ, khó bàn thật. Nếu không phải pháp môn Tịnh Độ là không thể có được lợi ích như thế đâu.
    Chúng tôi xin nói trắng ra, chúng ta chỉ đem cái tâm tính chơn thật của mình (bản giác) mà niệm hồng danh của Đức A Di Đà (thỉ giác) có đủ công đức vô lượng tự nhên kia, rồi nhiếp lấy công đức vô lượng kia để làm công đức của mình, để vào ngôi bất thối, để thành Phật. Thử hỏi còn có cách tu nào mau hơn được nữa chăng? Bởi lẽ Đức Thầy Kim Sơn Ngài dạy.
    “Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng minh nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai”.

    TÓM LƯỢC DIỄN CA
    Niệm Phật phải có lòng lành như Phật,
    Phải từ bi ái vật mới rành.
    Bồ Đề tâm hãy phát sanh,
    Một lòng tín, nguyện, phụng hành cần chuyên.
    Lòng sáu chữ niệm liền chẳng dứt,
    Đi, đứng, nằm, ngũ, thức hay ngồi.
    Bao giờ đắc được mới thôi,
    Trì tâm tam muội đây rồi phải không.
    Niệm Phật quí một lòng bất loạn,
    Niệm cho bền đừng nản ắt thành.
    Ái ân mạnh dạn đoạn đành,
    Lâm chung Phật độ vãng sanh Liên đài.




    CHƯƠNG 6
    PHƯƠNG THỨC NIỆM PHẬT

    “Trau tâm luyện tánh cho minh,
    Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)​

    HỎI: Đến đây chúng tôi xin tham khảo về cách tịnh niệm, sau những giờ cúng thường lệ muốn ngồi niệm Phật có được không? Ngồi niệm Phật có mấy cách và cách hành trì niệm ra sao? Xin quí vị trình bày cho chúng tôi hiểu biết để áp dụng.
    ĐÁP: Tịnh toạ là chỗ công phu không thể thiếu đối với người chuyên tu tịnh nghiệp, chẳng những muốn ngồi niệm Phật sau giờ cúng thường lệ sớm chiều, mà ngoài ra hành giả nếu xét thấy mình rảnh rang có đủ khả năng để niệm Phật thì bất cứ lúc nào ngồi cũng đặng. Trong quyển “Tôn chỉ Hành Đạo” Đức Thầy có dạy cách ngồi niệm Phật: “Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật”.
    Hay niệm: “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A Di Đà Phật”.
    Ngồi bán già lại có 2 cách như sau:
    1- KIẾT TƯỜNG TỌA: Cũng gọi là “Đơn Tọa” là cách ngồi của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, lưng bàn chơn trái đặt trên vế mặt, bà hai đầu gối cùng bàn tọa cho sát mặt giường.
    2- HÀNG MA TỌA: Cũng gọi là “Đơn Tọa” là cách ngồi của Ngài Văn Thù Bồ Tát, lưng bàn chơn mặt đặt trên vế trái và hai đầu gối cùng bàn tọa cho sát mặt giường.
    Ngoài cách ngồi bán già còn có cách ngồi Kiết già: lưng bàn chơn trái đặt trên vế mặt, lưng bàn chân mặt đặt trên vế trái. Có thể tập ngồi cả hai chơn thì chơn nào để dưới cũng được, đặng thay đổi mỗi ngày đêm có nhiều lần ngồi lâu không tê mỏi. Lúc bấy giờ 2 đùi ta giao lại thành hình tam giác, hai bắp đùi bề dưới cho thẳng nằm sát giường. Ngồi cách nầy cũng kêu là “Toàn già hay chánh tọa hoặc kim cang tọa”. Ngồi thẳng lưng, cỗ ngay đầu hơi nghiêng tới, đôi mắt mở một phần ba.
    Cũng có những bài chú để đọc thầm trong khi vào ngồi và trước khi xả.
    Đây là bài chú khi mới ngồi:
    * Chú ngồi kiết già
    Kiết già phu tọa
    Đương nguyện chúng sanh
    Thiện căn kiên cố
    Đắc bất động địa.
    Án phạ tất ra a ni, bác ra ni, ấp đa da tá ha
    (3 lần)
    * Chú cầm chuỗi niệm Phật:
    Bồ Đề nhứt bá sát
    Diệt tội đẳng hà sa
    Viễn ly tam đồ khổ
    Xích sắc biến Liên Hoa
    Án phệ lô dá na, mạ lạ, ma lạ tá phạ hạ
    (3 lần)
    * Bài chú xả tọa:
    Xả già phu tọa
    Đương nguyện chúng sanh
    Quán chư hạnh pháp
    Tất qui tán diệt.
    (3 lần)
    Đọc xong, duỗi dài hai chơn ra độ 3 phút cho máu chạy đều rồi mới đứng dậy.
    Những bài chú trên đây nếu thấy khó nhớ thì chỉ niệm lục tự không cũng được.
    Đức Thầy có viết cho tín đồ bài kệ bốn câu để đọc trước khi niệm Phật:
    “Mắt nhìn trần đỏ niệm Di Đà,
    Nguyện vái thân nầy khỏi đọa sa.
    Muôn đạo hồng quang oai Đức Phật,
    Soi đường minh thiện đến Long Hoa”.

    Phương thức trì niệm lục tự thì có:
    - Niệm thầm cũng gọi là “Mặc niệm”.
    - Niệm khua môi lưỡi cũng gọi là “Kim cang niệm”.
    - Niệm ra tiếng gọi là “Cao thịnh niệm”.
    Ba cách nầy để cho hành giả tự tiện thay đổi.
    Trong khi niệm thầm nếu thấy bị hôn trầm, hay bị loạn tưởng thì niệm ra tiếng ít bị hôn trầm và tiếng ngoài không xâm nhập, dễ định tâm. Nhưng niệm lâu thấy phí sức nên đổi lại cách niệm se sẽ khua môi, niệm cách nầy ít phí sức có thể niệm lâu; nếu thấy tâm trạng được lắng yên thì nên niệm thầm để đi sâu vào tâm, cần yếu là phải tự niệm tự nghe. Phép nầy cũng gọi là: “Phản giác văn trì danh”. Nghĩa là: Xoay cái nghe biết trở lại nghe tiếng niệm Phật trong tâm mình, mỗi câu mỗi tiếng “Nam Mô A Di Đà Phật” mình phải tự nghe biết rành rõ, vừa niệm vừa nghe vừa nghe vừa niệm. Nghe không rời niệm niệm không rời tâm, tâm phát ra câu niệm tiếng niệm huân vào tâm; niệm niệm nối liền đừng cho gián đoạn (nhặt khoan tùy ý), đến khi thuần thục sẽ được vô niệm tự niệm mà chứng đến chỗ định tâm.
    Nên hiểu trong lúc trì niệm hồng danh của Đức A Di Đà là những giờ phút mà ta sống lại với chơn tâm. Khi niệm Phật đã được định tâm, đó cũng là lúc linh hồn nhập Liên Hoa rồi đấy. Vì trong mỗi câu niệm Phật chí tâm có đủ công đức tạo ra y báo, chánh báo cho ta; Hoa sen ở ao thất bảo kia bùng nở, đó là lúc đây đã niệm Phật chí tâm.

    HỎI: Trong khi ngồi niệm Phật hay bị hôn trầm hoặc sanh nhiều vọng tưởng, nên khó niệm Phật cho định tâm. Nhờ quí vị cho biết do đâu mà có những chứng nầy và có cách nào để đối trị chăng?
    ĐÁP: Hôn trầm là tâm hồn chìm lặng trong mờ tối, nên không thể định tỉnh; cuối cùng của nó là đi đến ngũ gục. Muốn trừ được chứng hôn trầm, ta hãy truy nguyên căn bệnh do đâu mà phát sinh? Đại khái có những lý do sau đây:
    1/- Là do ngủ nghỉ không điều hòa, tức là bỏ ngũ thái quá, nên sanh ra mê mệt rồi ngũ gật.
    2/- Đôi khi trong mình có bịnh mà không biết, kém sức khỏe, nên hay sanh ra hôn trầm.
    3/- Vì mới ăn no chưa kip tiêu hóa rồi lại ngồi niệm Phật, nên thường bị hôn trầm.
    4/- Vì làm lụng quá sức; phơi nắng, dầm sương, vất vả, nên khi ngồi niệm Phật hay bị uể oải sanh ra hôn trầm.
    Ngoài những nguyên nhân do nói trên mà còn bị hôn trầm thì đó là ma chướng bên ngoài đến nhiễu hại, vì đạo tâm đã lui sụt, giải đãi rồi đó; nên ma nghiệp oan khiên đến khuấy hại. Để trừ bịnh hôn trầm ác nghiệp nầy hành giả phải cố gắng tinh tấn lên, phải biết điều hòa sự ngũ nghỉ, việc làm lụng, cách ăn uống; khi thân có bịnh hoạn hãy lo điều trị. Trong khi ngồi niệm Phật, nếu bị hôn trầm hãy dùng phép niệm cao thinh để đối trị, trị cách nầy không hết thì hành giả hãy xã tọa, đi rửa mặt rồi đi kinh hành niệm Phật, nếu chỗ ở không có đường để đi kinh hành hoặc không đi được, thì hãy mặc áo tranng nghiêm đến trước bàn thờ Phật, làm lễ nguyện vái Phật lực gia hộ, rồi dùng phép lễ bái trì danh, nghĩa là vừa lạy vừa niệm Phật, lạy cho đến khi nào hết buồn ngũ mới thôi. Cách nầy tận dụng hết thân, khẩu, ý… để niệm Phật, lễ Phật; nên có công năng trừ nghiệp chướng và ma giải đãi; lại còn được công đức cung kính Phật, sám hối ba nghiệp, bào đảm trừ được chứng hôn trầm.
    Còn hành giả trong khi niệm Phật mà hay sanh nhiều vọng tưởng thì chắc chắn tâm còn bận nhiều việc, nên niệm Phật mà tâm chưa được an. Đại khái không ngoài ba lý do sau đây:
    Lý do thứ nhứt: Vì gia đình nghèo thiếu như có cha mẹ già, con cái đông, chật vật về sự sống, không đủ cơm ăn áo mặc, nên khi niệm Phật hay sanh nhớ tưởng.
    Lý do thứ hai: Vì giàu có sự nghiệp cơ sở lớn hoặc lãnh nhiều sự việc của người giao phó, nên niệm Phật hay sanh nhớ tưởng.
    Lý do thứ ba: Vì đời sống còn nặng nề vật chất, sợ thiếu thốn nên thường sanh tâm lo nghĩ tìm cầu, do đó mà niệm Phật khó định tâm.
    Vậy muốn niệm Phật nhứt tâm, không sanh vọng tưởng, nếu hành giả trong cảnh ngộ nghèo thiếu thì hãy tâm niệm lời dạy bảo của Đức Thầy để sống:
    “Chữ bần tiện khuyên dân đừng nại,
    Miễn cho ta trở lại ngay đàng.
    Chữ vinh hoa giờ chớ có màng,
    Bởi giả tạm của đời ngươn hạ”.
    Và cố gắng sống theo câu:
    “Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.

    Còn hành giả ở trong cảnh giàu có, hoặc lãnh nhiều duyên sự thì hãy nhớ lời Thánh huấn của Đức Thầy:
    “Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên”
    hoặc là:
    “Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
    Tham danh phế đạo chí đâu yên.
    Sao bằng cửa Phật vui thanh tịnh,
    Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên”.

    Còn hành giả không có gia đình, không có sự nghiệp lớn lao, chỉ có một bản thân mà niệm Phật còn hay sanh vọng tưởng, là mình chưa khắc phục được nội tâm, để nó cứ hướng ngoại tìm cầu theo vật chất, không chịu sống an nhàn biết đủ, nên niệm Phật khó được định tâm. Chúng ta hãy tâm niệm lời dạy bảo của Đức Thầy. “Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo bần, xả thân tu tỉnh”. Chúng ta hãy sống với quan niệm biết đủ. Nguyễn Công Trứ có câu: “Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc; Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”. (Biết đủ, thì bao nhiêu cũng đủ, nếu chờ đủ thì bao giờ mới đủ. Biết sống nhàn, thì được nhàn, nếu chờ rảnh bao giờ mới rảnh).
    Người biết đủ, sống an bần lạc Đạo dầu nằm trên cỏ hay gặp cảnh chiếu đất nhưng lòng vẫn lạc an; còn kẻ chưa biết đủ, nặng nề vật chất dầu có ở thiên đàng nhưng cũng chưa vừa bụng. Nên Kinh mới có câu: “Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng vu vi an lạc; bất tri túc chi nhơn, tuy xử thiên đàng diệc bất xứng ý”.
    Để trừ chung cho cái bịnh hoạn tưởng lăng xăng theo các việc thế trần, xin đưa ra có 3 cách sau đây:


     
  4. Ngoctruc

    Ngoctruc Member


    1/- THA THIẾT NIỆM: Hành giả hãy nhớ đây là cõi đời vô thường tâm giả, hãy buông bỏ hết muôn duyên thì niệm Phật mới có thể nhứt tâm. Trong khi ngồi niệm Phật bị vọng tưởng, lăng xăng thì hãy nhớ rằng ta đang ngồi niệm Phật và Đức Phật đang ngó đến chúng ta, đang phóng muôn đạo hào quang để nhiếp trì gia hộ; nếu chúng ta không chú tâm tha thiết niệm Phật lại sanh nhiều vọng tưởng thì Đức Phật làm sao nhiếp hộ cho được. Hãy nhớ đến cha mẹ Tổ Tiên đang chờ ta và vô số sanh linh đang đợi ta, nếu chúng ta không nhiếp tâm niệm Phật tha thiết, thì chính ta và tất cả những người đợi chờ ta cứu vớt không biết bao giờ mới ra khỏi đường sanh tử luân hồi: Nhớ nghĩ như vậy, rồi tinh tấn để niệm.

    2/- TỰ CHỨNG NIỆM: Nghĩa là phải lắng nghe từ tiếng, từ câu niệm Phật của mình cho rành rẽ rõ ràng; dầu niệm đến bao lâu cũng không bỏ sót một câu, một chữ nào. Cần lắng nghe cho được tiếng niệm tâm linh. Âm thinh nầy rất huyền diệu, không khua môi lưỡi mà tiếng vẫn vang dội khắp mười phương. Nếu tánh nghe chưa nhận rõ được tiếng niệm thì tạm áp dụng cách: nhứt cao thinh nhì mặc niệm (1 câu ra tiếng 2 cầu thầm).

    3/- THẬP KÝ NIỆM: Dùng cách nhớ số để buộc tâm, niệm một câu lục tự là nhớ một, niệm tiếp là nhớ hai, cứ mỗi câu mỗi nhớ số chồng lên cho đến mười câu rồi xả. Lưu ý đừng cho lộn. Niệm tiếp và bắt đầu nhớ trở lại số một, rồi nhớ chồng lên cho đến mười, cứ như thế mà niệm. (Nếu có dùng chuỗi để ghi thì 10 câu lần một hột) Vừa qua là những cách niệm để trừ loạn tưởng trong khi niệm Phật , muốn được thành công thì xin quí Liên hữu hãy cố gắng đừng nản chí, chúng ta hãy niệm bốn câu sau đây của Đức Thầy để làm phương châm:
    “Dặn lòng lục tự mựa đừng sai,
    Qua bể về quê ngõ chuốc hài
    Tiên cảnh kìa kìa lộ vẻ.
    Chờ người hữu phước đến Liên Đài”.


    HỎI: Thưa quí vị, chúng tôi muốn tìm cảnh thanh vắng để tu niệm có được không? Vì có quan niệm cho rằng: tu hành là những người rảnh rang không bận nợ đời . Ý nghĩ như thế có đúng không?
    ĐÁP: Theo chỗ xét thấy của chúng tôi thì đều đó rất tốt, chỉ sợ e cho chúng ta bị hoàn cảnh buộc ràng hoặc mình chưa dứt bỏ được đấy thôi . Nếu đủ điều kiện để đi hành đạo, tìm cảnh thanh vắng hoặc ở độc thân để chuyên niệm Phật cho được nhứt tâm, thì quả thật là người có chí lớn, biết tự liệu lắm đấy. Chúng ta đâu dễ quên lời cảnh tỉnh của Đức Thầy:
    “Khuyên niệm Phật, than rằng chưa rảnh,
    Lúc bắt hồn , mắc việc cũng đi”.


    “Chắp tay niệm Phật Di Đà,
    Lòng ta, ta biết ai mà mặc ai”.


    Thật không ai biết ta bằng ta. Ta phải, ta quấy, ta dứt bỏ được việc đời chưa? Ta niệm Phật nhứt tâm chưa? Những điều nầy chính mình biết lòng mình hơn ai hết.
    Lên đường tu niệm, đó mới thật sự biết mưu cầu cho lẽ sống của linh hồn. Người niệm Phật ở một mình đừng sợ cô tịch, vì hằng ngày ta đang sống với Phật, với Bồ Tát và Thánh chúng không rời ta. Đức Thầy luôn gia hộ chúng ta thì đâu còn sợ lẽ loi, chỉ sợ ta không được chí thành, chí tín đó thôi.
    Trong bài “Lời Khuyên Bổn Đạo” Đức Thầy viết: “Cửa trường sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí huệ ly xuất phàm trần, chán cảnh phồn hoa, tìm nơi tịch tịnh”.
    “Tỉnh Bạn Trần Gian” cũng có câu:
    “Nên chọn một nơi thanh tịnh ấy,
    Rứt trần bất nhiễm mới là yên”.

    HỎI: Chúng tôi nghe trong Kinh nói niệm Phật bảy ngày được nhứt tâm bất loạn, Phật sẽ tiếp độ. Vậy người tu niệm muốn định Kỳ niệm Phật có được không? Trong giáo lý của Đức Thầy có chỉ không?
    ĐÁP: Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có kêu ông Xá Lợi Phất mà dạy rằng: “Nầy Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tín nữ nghe nói danh hiệu của A Di Đà Phật, rồi nhớ giữ chuyên niệm từ một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hoặc bảy ngày được nhứt tâm bất loạn, người kia khi lâm chung Phật Di Đà cùng thánh chúng hiện đến trước mặt; người ấy lâm chung không điên đảo tức được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà”.
    Vậy hành giả tu tịnh nghiệp, muốn định kỳ để niệm Phật cho sớm được nhứt tâm thì điều đó xét thấy rất tốt, vì hạp với lời dạy của Đức Phật. Nhưng xin lưu ý, nếu bảy ngày mà chưa được nhứt tâm thì đừng nản chí, vì việc tu niệm không chỉ có bảy ngày hay mấy lần bảy ngày mà thôi; nếu bảy ngày mà chưa được nhứt tâm, thì ta cứ tiếp tục tu và tu cho đến suốt đời.
    Trong giáo lý của Đức Thầy không áo qui định về thời gian niệm Phật, có lẽ là Đức Thầy Ngài đã thấy được trình độ cơ cảm của thiện nam, tín nữ thời bấy giờ ít có người hành đạo theo thời gian qui định, mà Ngài chỉ nhấn mạnh, nếu tu niệm là phải giữ cho trọn đời:
    “Sống sanh ra phận râu mày,
    Một đời một đạo đến ngày chung thân”.

    và câu :
    “Có thiện căn sớm lại cửa thiền,
    Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc”.


    Nếu ta giữ được chí bền, lấy suốt đời làm thời khóa niệm Phật, để tu theo Pháp trì tam tâm muội của Đức Thầy đã dạy, thì chắc chắn sẽ thành công. Ngài Thiện Đạo là tổ thứ hai trong phái Liên tông cũng khẳng định quả quyết về điều nầy. Ngài nói “ Nếu có thể giữ mỗi niệm nối nhau, lấy suốt đời làm thời hạn, mười người tu. Tại sao thế? Vì không có duyên tạp nên được chánh niệm, vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau, vì không trái với Kinh giáo, vì thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên niệm mà tạp tu, trong trăm người may ra đươc một hai người, trong ngàn người hy vọng được ba bốn người vãng sanh mà thôi

    HỎI: Xin cho biết có ai niệm phật mà không được vãng sanh không?
    ĐÁP: Có chứ! Có ba hạng người niệm phật không được vãng sanh:
    1/- Hạng người trước tu niệm phật, sau đổi ý tu theo pháp khác; tự phá hoại tịnh nghiệp của mình nên không được vãng sanh. Cũng giống như người kia lập một thửa vườn trồng những loại cây lâu năm mới kết trái, anh ta ra công săn sóc cũng khá lâu, chờ đợi nhiều năm, không thấy đơm hoa kết trái, anh rất nóng lòng; lại thêm có người cho anh là dốt tính đi trồng những thứ cây lâu năm, đã không có quyền lợi chi mà còn tốn công chăm sóc. Anh chủ vườn nhẫn nại không được nữa, nên tự đốn phá hết vườn cây ăn trái của mình; để trồng loại hoa màu khác. Thật đáng thương hại cho anh chủ vườn, chỉ vì không bền chí để giữ lập trường ban đầu; lại thiếu trí nghe lời chê bai của kẻ khác mà phá hoại sự nghiệp của mình. Thai vì anh kiên nhẫn thêm một thời gian nữa thì gặt hái nguồn lợi to rồi.
    Người trước tu pháp niệm Phật sau tu theo pháp khác; cũng giống như anh chủ vườn kia vậy, nguyên do vì thiếu lòng tin.
    Đức Huỳnh Giaó Chủ cũng có khuyên dạy cho hạng người ấy:
    “ Trồng cây lành nhị quả thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
    Dầu ai có cười ta khờ khật,
    Cũng đừng phiền não lãng chơn tâm ’’.


    2/- Hạng người niệm Phật mà còn theo mê tín dị đoan nên không được vãng sanh. Như tin theo những chuyện: đồng bóng, ông lên bà xuống, ông độ mạng, bà mẹ sanh độ cho mạnh giỏi và sống lâu, tin ông tướng, ông tà .v.v… khi có đau yếu bịnh hoạn thì lại đặt bàn van vái, sát sanh hại vật để cúng, cầu cho bịnh tật tiêu trừ. Làm như thế đã mất chánh tín mà còn tạo cái nhân để luân hoài trả quả, thì làm sao được tiếp độ vãng sanh. Đó cũng chỉ vìthiếu trí tín và chí nguyện. Nên Đức Thầy cho biết:
    “Học tả đạo làm điều tà mị,
    Theo dị đoan cúng kiếng tin tà.
    Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu ’’.


    3/- Hạng người niệm Phật mà không có ý nguyện sanh, nên không được vãng sanh. Hạng người nầy dầu có niệm Phật cho đến chết cũng không được tiếp dẫn về Tây Phương. Tại sao vậy? Vì niệm Phật mà không có ý cầu vãng sanh, chỉ cầu cho mạnh giỏi qua cơn đau ốm; nhưng chẳng may lại hết phước phải theo quỉ vô thường, chớ đâu có ý cầu sanh mà được tiếp độ.
    Người niệm Phật cần nên ý thức điều nầy, những lợi lạc phước báo ở thế gian không phải là chỗ sở cầu của người tu Tịnh Độ.
    Trong quyển Khuyến Thiện Đức Thầy dạy:
    “Nếu như cố chí làm lành,
    Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc”.

    hay là:
    “Khuyên trong nam nữ chợ quê,
    Cúi đầu thiện niệm trong về Tây Phương”.

    (Bài Thu Đã Cuối)

    Vây ta nên nhứt tâm cầu vãng sanh dầu trong lúc bình thường hay lúc đau yếu cũng thế, nếu như mãn phước thì vẫn được sống lâu. Xin dẫn ra một câu chuyện để chứng minh về điều nầy. Trong tập “Tây Qui Trực Chỉ” có kể chuyện ông La Doãn Mai ở huyện Lâu Đông (Trung Quốc) cũng có hiệu là Vô Thiên cư sĩ, ông chuyên tu niệm Phật lại hay làm các việc lành, đến năm 40 tuổi nặng sợ e khó sống, nên ông gắng gượng viết tờ di chúc để lại cho gia quyến. Trong khi đang ngời viết bỗng nghe trên hư không có tiếng kêu lớn: “Nầy Thắng Liên cư sĩ khoan viết di chúc , chưa chết đâu hãy còn sống 12 năm nữa”. Những người thân quyến xung quanh đều nghe rõ như ông, sau đó bịnh ông bớt từ từ rồi được hết. Ông La Doãn Mai từ đây lại có thêm cái hiệu là Thắng Liên cư sĩ, đến 52 tuổi là mãn thời kỳ ơn trên đã tăng thọ cho, người thân quyến trong nhà rất lo âu vì sợ ông bỏ xác. Đêm lại nằm nghĩ, ông Thắng Liên được thấy Phật cho biết: “Ông hãy còn sống ở đời, vì có công tu niệm Phật và khuyến hóa người hành pháp môn Tịnh Độ , đến 71 tuổi mới mãn kiếp và được vãng sanh”.
    Đến năm 71 tuổi ông lại biết được ngày bỏ xác, đi từ giã bạn đạo các nơi, khi trở về nhà đúng ngày Phật rước. Đến giờ ngọ ông đi lễ Phật, trở lại ngồi làm kệ bốn câu rồi thoát hóa. Sau một tiếng đồng hồ ông mở mắt trở lại vì thân quyến khóc than kể lể. Ông quở rằng: “Các người làm trở ngại ta quá, hôm nay nếu không được theo Phật thì phải ở lại 7 bữa nữa Phật mới rước”. Đúng bảy ngày sau ông kêu thân nhơn dặn: “Lần nầy đừng làm quấy rầy ta nữa”. Bỏ xác nầy có các bạn trong liên hũu đến hộ niệm, qua giờ Thìn cư sĩ ngồi dậy nói rằng “Đại sĩ đến rồi”, liền chắp tay niệm Phật ra đi…
    Bài kệ từ thế của ông Thắng Liên cư sĩ:
    “Thất thập nhứt liên, tha trước vi tai.
    Kim nhựt tê hạ, hà đẳng tự tại”.

    Thích nôm:
    “ Bảy mươi mốt năm, mang cái xác phàm,
    Ngày nay cổi đặng , vui vẻ dư trăm”.


    Qua câu chuyện ông Thắng Liên cư sĩ, ta thấy ông đâu có ý cầu sống nhưng vẫn được sống lâu, vì do niệm Phật cầu vãng sanh mà có phước lớn như thế. Người tu tịnh nghiệp khi bỏ xác là lịch sử Phật Giáo. Chẳng hạn như trường hợp của Ngài Mục Kiền Liên bị bọn côn đồ đánh vập xương chết rồi thẩy xuồng hầm, Ngài Sư Tử Tôn Giả Tổ thứ 23 bị cắt đầu, và còn nhiều trường hợp khác nữa cũng giống như vậy. Bởi do túc nghiệp của mỗi người.
    Cũng gần như vậy, trường hợp vãng sanh của ông Lê Văn Phú tự Tho (Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo). Ông có nhiều năm phục vụ cho đạo trong công việc truyền bá giáo lý, thế mà trước khi bỏ xác ông lại đau ốm liên miên, cuối cùng 10 ngày không ăn, nằm trên giường bịnh với thân xác tiều tụy ốm gầy, ai trông qua đều cũng khó ngăn được cảm xúc. Nếu chẳng hiểu lý nói trên chắc không khỏi sự hoang mang rằng: làm Đạo như ông mà còn phải chịu đau ốm, khỗ não đến thế, chớ có biết đâu người tu trước khi về cõi Phật:

    “Trả cho rồi cái nợ tiền khiên”
    hay:
    “Tu đền nợ thế cho rồi,
    Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.


    Những đặc điểm của ông Lê Văn Phú trong lúc lâm chung:
    Điểm thứ nhứt: Những ngày nằm trên giường bệnh, trong một cơn thiếp ông thấy Đức Thầy từ ngoài cửa đi vào nhà đến chỗ ông nằm rồi bồng lên dời đi một chỗ khác, ông day lại định thi lễ hỏi Thầy, thì bỗng nhiên không còn thấy. Ông mở mắt ra hỏi những người chung quanh có thấy chi không?
    Mọi người đều trả lời không thấy chi lạ. Ông thuật lại chuyện vừa rồi ông đã thấy cho mọi người nghe. Trường hợp nầy làm cho chúng ta càng tin tưởng hơn ở Đức Thầy và Đức Thầy không bao giờ các Ngài bỏ rơi kẻ có lòng nhiệt hành đối với Đạo Pháp, thật đúng như câu:

    “Tấm lòng thành gian truân chớ khiếp,
    Đức Từ Bi tiếp dẫn linh hồn”.
    (Bài Nang Thơ Cẩm Tú)

    Điểm thứ hai: Khi bịnh nặng trước ngày lâm chung, ông thường nói lên chỗ qui hướng duy nhứt, ông tha thiết cầu xin với Đức Phật A Di Đà, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát , Quan Thế Âm Bồ Tát, tiếp độ hồn ông được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ để học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh. Ông lại nói: “Khi trở lại cõi Ta Bà bằng thân Liên Hoa, chừng ấy nếu tôi không nói ra thì không ai biết được”.
    Điểm thứ ba: Tuy thân tàn kiệt sức, nhưng ông vẫn định tỉnh, khi đồng đạo các nơi đến thăm, ông thường có lời khuyên tấn tu hành và còn giải thích về cách tu Thiền và Pháp môn Tịnh Độ, cùng tám điều răn cấm của Đức Thầy cho mọi người nghe, đồng thời căn dặn về phần lễ tang: “Sau khi mạng chung để xác tôi trên một tấm ván khiêng đến huyệt rồi an tang, không làm núm mộ, mà chỉ khỏa đất cho bằng phẳng để canh tác”. Ông còn lưu ý nhấn mạnh với gia quyến cùng huynh đệ hiện diện rằng: “Nếu không giữ đúng theo lời dặn của tôi, thì tôi không gia hộ”.
    Điểm thứ tư: Sau khi ông tắt hơi huynh đệ và đồng đạo hộ niệm cho ông suốt một tuần hương , sau đó ông Nguyễn Văn Bửu rờ vào xác ông đều lạnh chỉ còn nóng ở đỉnh đầu , lúc ấy cũng có một ít người được chứng nghiệm . Ở đây ta thấy đúng với chỗ thoại ứng mà trong Kinh cho biết:
    “Đảnh thánh, nhãn sanh thiên,
    Nhơn tâm, ngạ quỉ phúc.
    Bành sanh tất cái ly,
    Địa ngục cước bản xuất”.

    Nghĩa:
    Nóng ở đỉnh đầu sanh về cõi Thánh,
    Nóng ở mắt thì sanh về Trời,
    Nóng ở ngực thì sanh làm người,
    Nóng ờ bụng sanh về ngạ quỉ,
    Nóng ở đầu gối sanh về súc sanh.
    Nóng ở bàn chơn sanh về địa ngục.

    Ông Lê Văn Phú bỏ xác vào ngày rằm tháng 5 âl, lúc 1giở 45 phút (đêm) năm Kỷ Mùi (1979).
    HỎI: Ông có thể cho chúng tôi biết Đức Phật tiếp độ người vãng sanh có mấy cách?
    ĐÁP: Theo chỗ chúng tôi nghe biết và trong Kinh cũng nói Đức Phật thường tiếp độ bằng 3 cách:
    1/- Phật hiện bằng chơn thân cùng nhị vị Bồ Tát và Thánh chúng rất đông để tiếp độ.
    2/- Hóa Phật cùng với hóa Bồ Tát hiện đến để tiếp độ.
    3/- Phật dùng hào quang lành để nhiếp độ.
    Đây là 3 cách tiếp độ mà chúng ta thường nghe biết . Tuy nói có 3 cách nhưng có một là có tất cả.

    HỎI: Có câu giảng nào của Đức Huỳnh Giáo Chủ để chứng minh chỗ trình bày của quí vị đó không?
    ĐÁP: Có chứ!

    - CHƠN THÂN PHẬT ĐỘ:
    “Tây Phương tuy ở cõi xa,
    Thành tâm thì có Phật mà đáo lai”

    (SG. q. 3)
    - HÓA THÂN PHẬT ĐỘ:
    “Mắt nhìn thấy thần biến hóa,
    Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

    (Bài Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
    - HÀO QUANG NHIẾP ĐỘ:
    “A Di Đà nhìn xem khắp cõi,
    Đặng trông chờ mong mỏi chúng sanh.
    Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành,
    Đặng tìm kiếm những người hiền đức”.

    (Kệ Dân Quyển 2)

    HỎI: Xin cho biết Phật thường dùng cái gì để nhiếp độ thần thức người vãng sanh?
    ĐÁP: Theo như trong Quán Kinh thì Đức Phật thường dùng: một là đài Kim cương, hai là Đài vàng, ba là Đài sen vàng, cùng các loại hoa sen báu hay những đài báu bằng thất bảo, để tiếp độ thần thức đem về Cực Lạc mau lẹ bằng thời gian một niệm, bằng cất dầu hay bằng co duỗi cánh tay.

    HỎI: Người mới phát tâm tu Tịnh Độ cho đến khi hoàn toàn chứng được nhứt tâm bất loạn cả sự lẫn lý, có bao nhiêu giai đoạn chứng ngộ? Xin trình bày cho chúng tôi được nắm vững, và cũng để biết coi cuộc hành trình của mình đã đi đến đâu.
    ĐÁP: Câu hỏi nầy chúng tôi cũng khó thể có đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu của quí vị, nhưng cũng cố gắng trao đổi theo cái biết của chúng tôi.
    Thưa quí vị, sự chứng ngộ của mỗi người không thể giống nhau, đó là di nơi trình độ cơ cảm có cao, có thấp, có lợi, có độn và sự tu tập sâu cạn không đồng. Về trình độ thì có hạ căn, trung căn, thượng căn và thượng thượng căn; nên sự chứng ngộ mau chậm. Ở đây chúng tôi trình bày theo lối từ thấp lên cao, người niệm Phật từ khi mới bắt đầu cho đến khi hoàn toàn chứng ngộ. Có thể tạm chia ra 4 giai đoạn tu chứng sau đây:
    1/- Thời kỳ vọng tâm niệm Phật.
    2/- Tâm chơn vọng niệm Phật.
    3/- Tâm chơn thật niệm Phật.
    4/- Niệm Phật biết Phật.

    HỎI: Sao gọi là vọng tâm niệm Phật?
    ĐÁP: Là nói người niệm Phật, tâm còn chao động quá nhiều, nên hay quên niệm Phật và không có sức để niệm lâu. Đây là giai đoạn đầu mà người niệm Phật thường gặp phải, vì chưa được tin sâu nguyện thiết để niệm Phật. Lại cho rằng: Chắc mình không hạp pháp tu niệm Phật, nên càng niệm càng vọng, rồi lại đi tìm pháp môn khác, hoặc giả buông công phu, không chịu niệm Phật, vì sợ niệm rồi tâm sanh vọng nhiều. Đáng tiếc cho chúng ta, bởi không hiểu mà hoang mang như thế!
    Thật ra, không có gì lạ hơn là: “Tâm viên ý mã” nên mới vọng động. Nói tâm viên là tỉ vọng tưởng giống như vượn chuyền cây lâu ngày đã quen; ý mã là nói ý phân biệt, nhớ nghĩ chuyện ngoại trần giống như ngựa chạy rong. Hôm nay ta kềm nhốt tất cả lại nên chưa quen đấy thôi, ta rán cố gắng tinh tấn niệm cho bền thì lần lần sẽ hàng phục được vọng tâm, đừng bôn ba đi tìm pháp khác. Những người niệm Phật chứng được nhứt tâm bất loạn thì trước kia vọng tâm niệm Phật, nhưng nhờ cố gắng lâu ngày mới được thành công.

    HỎI: Sao gọi là tâm chơn thật niệm Phật?
    ĐÁP: Tâm chơn thật niệm Phật thì đối với cảnh vui buồn, cảnh thuận cảnh nghịch, khi động khi tịnh; cho đến mắt thấy sắt, tai nghe thính, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc không làm gián đoạn được tâm niệm Phật. Đến đây hành giả đã đạt đủ 3 điều kiện: Tin sâu, nguyện thiết và hành cần, tâm đã được chuyên nhứt, nên niệm lực có đầy đủ. Càng niệm càng tinh tấn niệm, không sanh chán mõi, diệt trừ phiền não (Kiến hoặc, Tư hoặc) mà đạt đến chỗ nhứt tâm bất loạn. (Đây cũng gọi là sự nhứt tâm).

    HỎI: Sao gọi là niệm Phật, biết Phật?
    ĐÁP: Niệm Phật là niệm Phật A Di Đà, mà biết , đó chính là niệm bản thể; mà niệm bản thể tức là niệm chơn tâm của mình. Thường niệm Phật mà không thấy mình niệm, nên dứt tâm năng niệm. Còn biết Phật là biết ông Phật tự tâm cũa mình cùng Đức Phật Di Đà không phải hai; không phải một; mà cũng một cũng hai; hai mà chẳng phải hai; một mà chẳng phải một. Ấy là nhứt thể bình đẳng viên dung tuyệt đối, nên niệm Phật mà không thấy có ông Phật để mình niệm, đó gọi là dứt sở niệm; tự chứng vào lý nhứt tâm (thấy rõ được Phật tự tâm). Đến đây đã ngộ tán bản lai, đem bản lai thanh tịnh mà hợp với bản lai thanh tịnh; thì không thêm mà cũng không ngại; còn để riêng ra thì không bớt mà cũng không cách. Nên nói niệm đồng với vô niệm, cầu sanh mà không trái với lý vô sanh. Có tức không, không tức có. Nói gần hơn là câu niệm Phật kia chính từ tâm mình niệm ra, nên niệm mà chẳng thấy tướng niệm, ấy gọi là chơn không; lại còn biết Phật và cảnh giới của Phật mà mình niệm mình quán kia chính là tâm mình; thì đâu thể gọi là không có được. Ấy là Diệu hữu, nên nói Di Đà, là Di Đà trong tâm chúng sanh; mà chúng sanh là chúng sanh trong tâm Di Đà. Vì tâm, Phật, chúng sanh không sai khác.
    Mỗi người đều có tự tánh Vô Lượng Thọ Quang (Di Đà tự tánh) và sẵn có tâm độ “Thường tịch Quang” (nơi Pháp thân Phật an trụ), nhứt tâm niệm Phật vọng tưởng không còn sanh, vì bởi không sanh nên không có diệt, ấy là tánh Vô lượng Thọ; tâm niệm Phật không bị các thị dục cám dỗ lôi cuốn, những thói quen (tập quán) ưa thích theo các việc thế trần không còn che mờ được trí tuệ, lại còn bị phá tiêu. Vì bởi sức niệm Phật, ấy là tánh Vô Lượng Quang; sống trong trần cảnh mà tâm như như bất động, ấy là tự tánh Vô Lượng Thọ. Niệm niệm không còn mê lầm “một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại”, ấy là tự tánh Vô Lượng Quang. Sống với căn (6 căn) mà biết toàn thể các căn do tứ đại hợp thành. Sống với thức (6 thức), song biết các thức duyên theo 6 trần mà sanh; sống trong trần (6 trần) , nhưng biết các pháp trần do vọng duyên hòa hợp mà có, nên thể tâm hằng an nhiên không biến dịch, ấy là nghĩa thường của tự tâm. Bản thân hằng vắng lặng, sạch trong không một vật như thiên bất biến; ấy là nghĩa tịch của tự tâm. Trí chiếu suốt các ấm bên trong; tức là: tham, sân, si. Hoặc: thọ, tưởng, hành, thức; và những ấm bên ngoài là: tướng ngã, tướng nhơn; hoặc sắc ấm, tất cà đều không phải thật ngã (thiệt ta), và cũng chẳng có ấm thật, ấy là nghĩa Quang tự tâm; đúng với câu: “Tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ”. Để chứng đắc mục đích tối hậu nầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy:
    “Đường đạo lý chớ nên chán nản,
    Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.
    Phật Tây Phương thiệt quá xa xăm,
    Phải tìm kiếm ở trong não trí”.

    Hành giả nếu đã chứng ngộ trọn vẹn các lý nói trên, thì lúc bấy giờ tùy ý nói sanh hay không sanh; nói niệm hay chẳng niệm đều đặng cả. Nếu chẳng được như vậy, mà nói: “tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ”; rồi không niệm Phật, không cầu sanh, thì luống uổng cho một đời hành đạo.

    TÓM LƯỢC DIỄN CA
    Ngồi niệm Phật nhớ điều cần thiết,
    Mỗi câu nên nghe biết rõ ràng.
    Niệm Phật nhưng vẫn nghe vang,
    Hành trì lớn nhỏ nhặt khoan tùy mình.
    Nhưng cần phải chuyên tinh liên tục,
    Niệm đến khi thuần thục định tâm,
    Trì danh Phật Pháp diệu thâm,
    Trong câu niệm Phật chơn tâm phục hồi.
    Khi trì niệm chưa thôi hôn vọng,
    Ấy mình chưa chủ động được lòng.
    Hôn trầm , lễ niệm trừ xong,
    Vọng sanh ,tha thiết niệm trông Phật Ngài.
    Mỗi câu niệm mình hay biết rõ,
    Tự lắng nghe không bỏ tiếng nào.
    Dầu cho niệm đến là bao,
    Từ nghe , tự niệm huân vào thâm tâm.
    Hoặc dùng cách niệm thầm ghi số,
    Đến mười câu rồi nhớ lại đầu.
    Chú tâm đừng để lộn câu,
    Hôn trầm , vọng tưởng , niệm lâu tiêu trừ.
    Nương cảnh vắng tà tư phải tịnh,
    Niệm bảy ngày chưa định được niệm hoài.
    Suốt đời nếu chẳng đổi thay,
    Dù chưa tam muội có ngày vãng sanh.


    CHƯƠNG 7
    LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI NIỆM PHẬT

    “Đến sau khổ hạnh khỏi lâm,
    Nhờ công tu niệm âm thầm quá hay”.

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    HỎI: Người niệm Phật khi đã được định tâm thì có đặng sự mầu nhiệm không?
    ĐÁP: Nếu chuyên tâm trì niệm đắc được định rồi, thì tự nhiên sẽ có được sự nhiệm mầu. Giác Mê Tâm Kệ Đức Thầy viết:
    “Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
    Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm”.


    Đây là kết qủa đầu tiên mà người tư niệm sẽ được gặt hái, giống như những trường hợp say đây: ví như ta đem cây quí để trồng, rồi ra công chăm sóc. Khi đúng thời kỳ cây tự nhiên đơm hoa, đó là dấu hiệu báo tin sẽ gần đến ngày gặt hái trái. Người niệm Phật thấy được sự mầu nhiệm cũng giống như thế. Lại cũng giống như biển nước lặng trong thì bóng trăng và sao sẽ hiển hiện rõ rằng trong nước. Và cũng giống như Trời cao mà được thanh bạch thì sẽ thấy tận màu xanh. Người niệm Phật khi diệt được hết vọng lòng thì mầu nhiệm sẽ ra, giống như cảnh nói trên vậy. Trường hợp nầy Đức Thầy có ứng khẩu qua 2 câu sau đây:
    “Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt;
    Vạn lý vô vân vạn lý thiên”

    Nghĩa :
    “Ngàn sông có nước trăng đều rọi ;
    Muôn dặm không mây thấy tận trời”.

    (Lời dịch của Thiện Tâm)

    Cảnh mầu nhiệm quí báu nầy, không thể nói trước được, bởi do công tu của hành giả mà có.

    HỎI: Người niệm Phật mà có lòng muốn thấy sự linh nghiệm, thì có hại chi không?
    ĐÁP: Niệm Phật mà có dụng tâm muốn vội thấy sự linh nghiệm thì tai hại rất lớn. Tại sao vậy? – Vì chúng ma khi biết được tâm niệm nầy, sẽ hiện hóa ra cảnh Phật hoặc tướng Phật, lại còn thuyết pháp cho nghe. Người nghe khó thể biệt được ma hay Phật, lầm tưởng mới cung kính phải bị lạc ma lộ. Hoặc chúng ma dùng thần thông chuyển sang cho người ham linh nghiệm, nên người kia biết trước được nhiều việc lại còn làm cho tâm trí được sáng suốt, có thể làm thơ bài một cách lưu loát; khi ấy ngỡ rằng mình đã chứng đạo rồi lại buông bỏ công phu không niệm Phật, không bái sám. Sau khi chúng ma bỏ đi thì người ấy trở lại tăm tối không biết cho cả, khó trở lại con đường chánh đạo. Ôi! đành phí uổng một đời. Thương cho cảnh ngộ nầy mà Đức Huỳnh Giáo Chủ viết:
    “Phật Trời đâu dụng phép linh,
    Chỉ dùng Đạo đức mặc tình ghét ưa”.

    và:
    “Ai ham linh theo nó tập tành,
    Sa cạm bẩy khó mong sống sót”.


    HỎI: Xin quí vị cho biết, có bao nhiêu cảnh mầu nhiệm phát hiện? và khi gặp cảnh ấy phải giữ tâm như thế nào?
    ĐÁP: Cảnh giới mầu nhiệm phát hiện, đại khái có 3 trường hợp mà người tu niệm thường gặp như sau:
    1/- Cảnh giới nội tâm phát hiện: Đây là do công tu, niệm đã thuần thục mà có được.
    2/- Ngoại cảnh Phật hiện: Đó là do tâm của hành giả đã tương ưng với Phật, cảnh nầy cũng thật hiếm có.
    3/- Ma cảnh biến hiện để phá hoại tâm Đạo của người tu: Sở dĩ có cảnh nầy là do nhơn không giữ được chánh niệm, chúng ma biết được mới xâm nhập làm hại.
    Người niệm Phật dầu thấy được cảnh nào, ta cũng cứ giữ lòng định tỉnh và luôn niệm Phật. Nếu ma cảnh thì lần lần chúng sẽ lui mất, còn nếu cảnh nội tâm phát hiện hoặc ngoại cảnh Phật hiện thì càng ngày càng tỏ rõ, không mất cũng không hại. Nếu chẳng biết giữ tâm chánh niệm (niệm Phật) lại vội buông bỏ công phu, thì dầu cảnh Phật hiện cũng sẽ mất và không đến được nữa.
    Người niệm Phật thấy được sự mầu nhiệm mà lòng quá chao động vội vàng, thì giống như kẻ trồng cây mới có trái lần đầu vội mừng; lại đốn cây hái trái, nên tuyệt mất không còn hưởng được nữa. Và cũng gần giống như người nọ bơi thuyền qua sông lớn, khi gần đến trông thấy bờ vực hiện ra, anh ta quá mừng, vội buông bỏ cả dằm chèo, khiến cho thuyền anh không thể cặp bờ mà còn trôi theo tràng giang đại hải. Người tu niệm mà lòng chao động mất chánh niệm cũng giống như thế.
    Xưa bên Trung Hoa có Ngài Huệ Viễn ở núi Lô Sơn tu hành, mười một năm thấy Phật hiện đến 3 lần mà ông vẫn trầm hậu không nói ra. Trước ngày viên tịch lại được thấy Phật A Di Đà cùng nhị vị Bồ Tát và Thánh chúng chật nức cả hư không, hào quang sáng rực, Phật thọ ký cho ông 7 ngày sau được vãng sanh. Thế mà ông còn không nói. Sau đó có Thần nhơn đến nói với ông, nên ghi lại sự mầu nhiệm mà ông đã thấy, để khích lệ người đời.
    Người xưa tu hành chứng ngộ được như vậy mà vẫn điềm tĩnh không nói, ta cũng nên lấy đó làm gương để cẩn thẩn.
    Đức Thầy há chẳng dạy:
    “Đã tu hành đừng cho bôn chon,
    Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán”

    và Ngài còn dặn bào chúng ta nên cẩn mật :
    “Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
    Mặc sức dương trần chữ đắng cay.

    Có báu thì ta gìn của báu,
    Ai tầm cho giỏi mới được hay”.


    HỎI: Qúi vị có thể cho chúng tôi biết những người vãng sanh từ xưa đến nay có nhiều hay ít?
    ĐÁP: Những người đả được vãng sanh, có nhiều và rất nhiều kể chẳng xiết; tiếc vì chúng tôi không đủ tài liệu ghi vào tập sách nầy, để đáp ứng cầu. Xin giới thiệu một vài tập sách mà chúng tôi đã biết, đó là quyển “Đường về Cực Lạc” của Thượng Tọa Thích Trí Tịnh biên soạn đã phát hành; và tập “Hương Quê Cực Lạc” do Đại Đức Thích Thiền Tâm phiên dịch. Những tập sách nầy có nhiều mẫu chuyện vãng sanh mà người niệm Phật nghe qua rất hân hoan và thém lòng thâm tín. Còn chuyện vãng sanh về thời nay có tập “Đạo pháp Nghi vấn” của ông giảng viên Bùi Văn Ưởng biên tập đã có phát hành, trong ấy cũng có một số mẫu chuyện đáng khích lệ cho người tu. Theo chúng tôi biết thì sẽ có nhiều tập sách nói về chuyện vãng sanh sắp phổ biến, do các nhà Thiện Tri Thức đang sưu tầm và biên soạn.

    HỎI: Người niệm Phật có lợi ích như thế nào? Trong kinh có nói về những điều lợi ích của người niệm Phật không?
    ĐÁP: Người tu pháp môn Tịnh Độ có đủ Tín, Nguyện để trí danh, dầu định tâm niệm Phật hay tán tâm niệm Phật đều cũng được lợ ích không thể nghĩ bàn. Tất cả những lợi bạc phước báo ở thế gian, từ nhơn cho đến thiên không có sự tôn quí nào có thể so sánh đặng. Chúng tôi xin dẫn một câu chuyện do Đức Phật Thích Ca truyền phán để so sánh giữa niệm Phật được vãng sanh, cùng các sự tôn quí nhứt thế gian.
    Đức Phật kêu Anan phán rằng:
    - Nầy Anan đâu ông thử nghĩ, một trăm ngàn lần gã ăn mày so sánh bằng vị quốc vương chăng?
    Anan bạch Phật:
    - Bạch Thế Tôn, trăm ngàn lần gã ăn mày không thể so sánh bằng vị Quốc Vương.
    Đức Phật phán:
    - Đúng thế, nhưng nầy Anan, một trăm ngàn lần vị quốc vương đem so cũng không bằng một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Nhưng nầy Anan, một trăm ngàn lần vị Chuyển Luân Thánh Vương lại không bằng một vị Trời Đế Thích. Nhưng Anan ơi, một trăm năm ngàn lần vị Đế thích cũng không bằng người dân ở nước Cực Lạc của Đức Di Đà.
    Nghe qua lời dạy so sánh của Đức Phật ta thấy tất cả sự phước báo của các nhà tôn quí trong thế gian, không thể so sánh được người niệm Phật chí tâm. Nói rõ hơn niệm Phật thuộc về phước báo vô lậu cũng kêu là công đức, còn rất cả những sự hưởng phước ở thế gian thuộc về phước hửu lậu; nên không thể sánh kịp. Phước báo hửu lậu sẽ có ngày mãn hết ,dù là bực chư thiên cũng theo nghệp mà luân hồi ; còn mỗi câu niệm Phật chí tâm là cái nhân giải thoát trong một kiếp khỏi luân hồi, thì lợi ích làm sao có thể nói hết được.
    Các kinh có nói về sự lợi ích của nệm Phật rất nhiều, ở đây chúng tôi xin trích dẫn một vài phần để trình bày cùng quí vị nà thôi.
    Trong Kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật; sẽ được mười công đức lợi ích như sao:
    1/- Thường được chư Phật ngày đêm hộ nệm, đức A Di Đà phóng quang nhiếp thọ.
    2/ - Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
    3/ - Ngày đêm thường được chư thiên cùng đại lực thần tướng ẩn hình ủng hộ.
    4/- Tất cả dạ xoa, ác quỉ, rắn độc, rồng độc đều không thể làm hại.
    5/- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gong, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
    6/- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
    7/- Ban đêm nằm ngũ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Đức Phật A Di Đà.
    8/- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
    9/- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính, hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
    10/- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ hưởng sự an vui không cùng!”
    Trong Kinh lại có nói: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà, ánh sáng phát ra xung quanh mình 40 dậm, loài ác ma đều sợ hãi xa lánh”.
    Kinh Đại Tập nói chí tâm niệm Phật cao thinh sẽ có 10 điều lợi ích như sau:
    1/- Trừ được chứng hôn trầm.
    2/- Thiên ma kinh sợ.
    3/- Vang dội mười phương.
    4/- Ba đường ác dứt khổ.
    5/- Tiếng ngoài không xâm nhập.
    6/- Niệm tâm không tán loạn.
    7/- Thường được tinh tấn.
    8/- Chư Phật hoan hỉ.
    9/- Được tam muội hiện tiền.
    10/- Vãng sanh Tịnh Độ.
    Đó là lợi ích của niệm Phật cao thinh, tuy nhiên dầu niệm thầm mà được chí tâm đều cũng có lợi ích như nhau.

    HỎI: Nếu có lợi thì chắc phải có hại, vậy người không sớm lo niệm Phật có hại chi không?
    ĐÁP: Chỗ nhận định của quí vị rất đúng rồi đó, kẻ sớm lo niệm Phật thì được lợi ích; còn trái lại dĩ nhiên có hại chứ gì!
    Trong Luận quần nghi nói : có 10 hạng người khi lâm chung không niệm Phật được :
    1/- Khó gặp bạn lành, nên không người khuyên niệm Phật.
    2/- Bịnh khổ buộc than, không rỗi rảnh để niệm Phật.
    3/- Trúng phong cứng họng, nói không ra tiếng.
    4/- Cuồng loạn mất sự sáng suốt.
    5/- Thình lình gặp tai nạn nước lửa.
    6/- Thoạt bị hùm sói ăn thịt.
    7/- Bị bạn ác phá hoại lòng tin.
    8/- Hôn mê, mà chết.
    9/- Thoạt chết giữa quân trận.
    10/- Từ nơi chỗ cao té xuống.

    HỎI: Thưa quí vị, vừa qua đã nghe trong Kinh nói về lợi ích; chúng tôi muốn tìm hiểu trong sám kệ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài có ghi nói về lợi ích của người niệm Phật như thế nào? Xin cho biết.
    ĐÁP: Trong sám kệ, thi bài của Đức Giáo Chủ có nói rất nhiều về lợi ích của người niệm Phật, ở đây chúng tôi sưu kết trình bày đại lược, tạm chia có 16 điều lợi ích thế gian hiện tại và tương lai.
    1/- Niệm Phật trừ được bịnh khổ và nghiệp chướng.
    2/- Niệm Phật trừ được quỉ tà.
    3/- Niệm Phật được qua tai nạn.
    4/- Niệm Phật được cứu lúc lâm chung.
    5/- Niệm Phật được khỏi lửa thiêu và sống đời thượng cổ.
    6/- Niệm Phật được coi đời.
    7/- Niệm Phật tất cả sẽ được bình an.
    8/- Niệm Phật được khỏi cảnh máu đào.
    9/- Niệm Phật được khỏi luật hình xử phạt.
    10/- Niệm Phật dứt được lòng sầu , còn thấy được cửa nhà Tiên Thánh.
    11/- Niệm Phật trừ được lòng tà còn có nhiều phước đức.
    12/- Niệm Phật dẽ được thanh nhàn và hạnh hưởng cảnh đời vinh hoa.
    13/- Niệm Phật được Diêm chúa kính yêu và được kề bệ ngọc.
    14/- Niệm Phật được dự hội Long Hoa.
    15/- Niệm Phật được Phật thần cứu trợ.
    16/- Niệm Phật được coi Tiên Thánh và có mặt trong ngày chung cuộc.

    LỢI ÍCH THỨ NHỨT: Niệm Phật trừ được bịnh khổ và nghiệp chướng.
    “Từ rày hay ốm hay đau,
    Rán tu đem được Phật vào trong tâm”.


    Có người làm thơ đến hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ về cách trị bịnh, mà nhứt là bịnh của thời bấy giờ. Đức Thầy đáp cho 4 câu sau đây:
    “Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
    Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi.
    Lục tự trì tâm là phương phép,
    Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời”

    (Cho Thầy Ba Đạo)

    Còn nói về nghiệp chướng chúng sanh đã gây ra trong nhiều đời quá khứ và hiện tại, số nhiều không thể tính lường Kinh Phật thường nói: “Tội chướng của chúng sanh đã làm ra, nếu như có hình tướng, thì hư không cũng không thể chứa hết”. Nếu không có pháp môn niệm Phật có công năng trừ tội chướng một cách mau lẹ, thì chúng sanh nghiệp nặng không biết bao giờ mới ra khỏi vòng sanh tử.
    “Niệm chữ Di Đa tan chướng nghiệp,
    Thuyền từ Thầy rước lại Non Bồng”.

    (Cho ông Phan Châu Bá)

    LỢI ÍCH THỨ HAI: Niệm Phật trừ được quỉ tà. Sở dĩ niệm Phật có công năng trừ được quỉ tà yêu quái nhiễu hại, vì hành nhơn trong khi niệm Phật tâm không mông khởi điều ác, trí không tính việc tà,chỉ còn chí tâm niệm “ Nam Mô A Di Đà Phật ” nên không có nhân duyên nào chúng làm nhiễu hại được.
    “ Di Đà lục tự rán ghi,
    Niệm cho tà quỉ vậy thì dang ra ”.
    (Sấm Giảng quyển nhứt)
    Thật là rùng rợn khi nghe đến câu:
    “Sau tà tinh ăn sống nuốt tươi,
    Mà bà tánh chẳng lo cải thiện.

    Nếu không nhờ phương pháp niệm Phật nhiệm mầu, thì khó mong thoát khỏi cảnh trạng nói trên:
    “Tương với muối cháo rau đạm bạc,
    Nghèo lương thiện biết niệm Di Đà
    Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
    Lại được thấy cảnh Tiên nhàn hạ”.

    (Kệ Dân quyển nhì)

    LỢI ÍCH THỨ BA: Niệm Phật được qua tai nạn:
    “Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
    Thì nạn tai cũng thoát như không”.

    (Bài SaĐéc)
    Đó là nhờ ánh từ quang của Đức A Di Đà thường chiếu trì gia hộ cho những ai có thành tâm cảm niệm đến Ngài, ánh từ quang của Phật có công năng chiếu khắp mười phương không chi ngăn ngại, nên khi lâm tai bất cứ ờ nơi nào, một người hay là bao nhiêu người đi nữa, nếu thành tâm đồng niệm Phật đều được thoát khỏi tai ương.
    Tu cầu trăm họ hiền lương,
    Đồng thinh niệm Phật tai ương chẳng còn”.


    LỢI ÍCH THỨ TƯ: Niệm Phật được cứu lúc lâm nguy.
    “Chữ lục tự trì tâm bất viễn,
    Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”.

    Theo ý chỉ dạy của hai câu này, ở chữ Trì tâm bất viễn là mình không lúc nào rời sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, dầu đi đứng, nằm, ngồi cũng thế; dầu gặp hoàn cảnh tai biến hổn loạn như cảnh bom đạn tới tấp dữ dội, cảnh nước dưng lửa cháy, cảnh sấu bắt hùm tha, cảnh mãng xà ăn nuốt, mà lòng cũng không rời lục tự Di Đà , thì chắc chắn sẽ được qua, vì có người đến cứu , mà người đó là ai?
    “Đến lâm cảnh khổ có Ta,
    Với lịnh Phật Bà cứu vớt giùm cho”

    (Sấm Giảng Quyển 1)

    “Văn Thù Bồ Tát Từ Bi,
    Chèo thuyền Bát Nhã cứu thì trần gian
    Gió đưa lướt sóng buồm loan,
    Rước người tu niệm xuê xang phì tình”

    (Sấm Giảng Quyển 3)

    LỢI ÍCH THỨ NĂM: Niệm Phật được khỏi lửa thiêu và sống đời Thượng Cổ; ngững tai biến sẽ xảy ra cho con người trong thời kỳ tận diệt, không có gì đáng ghê sợ hơn cảnh lửa thiêu.
    “Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
    Dòm lừng trời lửa cháy liên miên.
    Tiêu điều sản vật điền viên,
    Thần thông biến hóa dưới miền Trung Ương”.

    (Đến làng Nhơn Nghĩa)
    Nhưng may thay! trong cảnh khốn cùng ấy chỉ có người niệm Phật mới được khỏi lửa thiêu và sống đời Thượng Cổ mà thôi:
    “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
    Người tu niệm sống đời thượng cổ”.

    (Quyển 2)

    LỢI ÍCH THỨ SÁU: Niệm Phật được coi đời:
    “Khuyên chúng sanh niệm Phật coi đời,
    Cõi hạ giái rồng mây chơi giỡn”

    (Quyển 2)
    Niệm Phật được coi đời:
    “Khuyên hạ giái niệm Phật coi đời,
    Cõi hạ giái rồng mây chơi giỡn”.

    (Quyển 2)
    Lại còn được thấy những điều mà xưa nay chưa từng thấy:
    “Coi là coi được Phật được Trời,
    Coi phép la của Tiên của Thánh”.


    LỢI ÍCH THỨ BẢY: Niệm Phật tất cả sẽ được bình an .
    Một người niệm Phật thì mọi người hưởng phước lợi đã đành rồi, mà còn gây ảnh hưởng lớn lao cho bao nhiêu người khác. Vậy ta cứ kiên tâm trì chí niệm Phật thì phước lạc biết là bao:
    “Từ đây đến buổi thanh bình,
    Muôn người niệm Phật quả mình biết bao”.

    Còn nếu như tất cả mọi người đồng tâm niệm một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì có lo gì mà chẳng được cảnh thái hòa:
    “Biết khôn tìn kiếm Ma Ha,
    Một câu lục tự nhà nhà bình an”.

    (Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

    LỢI ÍCH HỨ TÁM: Niệm Phật được khỏi cảnh máu đào.
    “Nam mô sáu chữ Di Đà,
    Từ bi tế độ vậy mà chúng sanh
    Xưa nay sáu chữ lạnh tanh,
    Chẳng ai chịu khó niệm rành thử coi
    Trì tâm thì quá ít oi,
    Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào.
    Rạch tim đem để nó vào,
    Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi”.

    (Sấm Giảng quyển 3)
    Những thảm trạng xưa nay chưa từng thấy, sẽ đến với nhân loại mà phần tử gian tà phải gánh chịu:
    “Khổ với thảm ngày nay có mấy,
    Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
    Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
    Cảnh sông máu núi xương tha thiết”.

    (Quyển 4)
    Thật đáng thương hại cho kẻ dọc ngang hung dữ, chừng chứng kiến cảnh hãi hung của máu đổ thịt rơi chúng mới chịu quày đầu:
    “Hung đồ với lũ dọc ngang,
    Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu”.

    Nếu để đến cảnh ngộ nầy rồi mới tu hành niệm Phật, sợ e cho ta khó được có phần lợi ích:
    “Để nước đến trôn mới nhảy đùng,
    Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu.

    Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu,
    Rồi sao lo liệu tu cho kịp.
    Bập bẹ Nam Mô cũng nhọc cầu”.

    (Thi Hai Mươi chín Tháng Chạp)

    LI ÍCH THỨ CHÍN: Niệm Phật được khỏi luật hình xử phạt.
    “Kẻ gian ác bị gươm ba thước,
    Nơi pháp tràng trị kẻ hung đồ.
    Được thảnh thơi mà chữ Nam Mô,
    Khuyên bổn đạo rán mà trì chí”.

    (Kệ Dân quyển nhì).
    Phải biết qui mạng với Phật Đà, phải rán phụng hành theo lời chỉ giáo cho trọn đạo làm lành , mới tránh được cái cực hình lìa khỏi cổ.
    “Con nào hiền thì vẹn tháo ngay,
    Đứa ngỗ nghịch một mai đứt cổ”.

    (Nang thơ Cẩm Tú)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI: Niệm Phật dứt được lòng sầu còn thấy cửa nhà Tiên Thánh. Lòng vọng tưởng của chúng sanh mãi miên man trong não phiền, trong sầu khổ, không lúc nào dừng nghỉ. Nếu không có phép niệm Phật để diệt trừ lòng sầu muộn, thì con người làm gì có sự an lạc; đừng nói chi sống đến cảnh đời có Tiên có Thánh dìu dắt vào nhà Phật Pháp nhiệm mầu.
    “Chữ Nam mô dẹp được lòng sầu,
    Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh”.

    (Kệ Dân quyển nhì)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI MỘT: Niệm Phật trừ được lòng tà còn có nhiều phước đức.
    “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà
    Thì hiền lương quên mất điều tà
    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.

    (Giác Mê Tâm Kệ)
    Niệm Phật sẽ dẹp được lòng tà lại còn đầy đủ phước đức nhân duyên, và nhiều thiện căn để sanh về thế giới Cực Lạc:
    “Tây Phương đua nở hoa liên,
    Chờ người hữu phước thiện duyên từ hòa”.

    (Từ Giã Bổn Đạo khắp nơi)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI HAI: Niệm Phật sẽ được thanh nhàn và hạnh hưởng cảnh đời vinh hoa.
    Giảng xưa của ông Ba Thới cho biết:
    “Chớ đem lòng lo đói lo no,
    Làm lành niệm Phật, Phật lo cho mình”.

    Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài dạy, người niệm Phật dầu gặp cảnh nghèo đói, bữa cháo, bữa rau phải rán giữ lập trường đạo đức cho vững chắc thì sẽ được hạnh hưởng về sau:
    “Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
    Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn”.

    (Sấm Giảng quyển 3)
    và Ngài còn cho biết:
    “Khổ đà đi đến như tên,
    Rán lo tu niệm tìm nền vinh hoa.
    Vinh nầy của Đức Phật Bà,
    Của ông Phật Tổ ban mà cho dân”.

    (Sấm Giảng quyển nhứt)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI BA: Niệm Phật được Diêm chúa kính yêu và được kề bệ ngọc.
    Chúng tôi xin kể ra một câu chuyện, người niệm Phật được những đặc điểm quan trọng nói trên.
    Có một vị Tăng ở Phủ Châu, khi đến tháp của Diên Thọ Thiền sư, vị Tăng cung kính đi nhiễu xung quanh. Có người hỏi lý do, vị Tăng ấy đáp:
    - Nhân lúc tôi bị bịnh nặng thần thức đi vào minh giới, Diêm vương xét thấy thọ số chưa mãn đua trở về. Khi ấy tôi thấy bên phía tả đại diện có thiết bàn thờ di tượng một vị đại đức, Diêm vương lễ bái ân cần. Hỏi ra thì quan chủ lại bảo:
    - Đó là chân dung của Vĩnh Minh Thọ Thiền sư, vì Ngài tu hành tinh tấn được sanh về thượng phẩm ở Cực Lạc, nên Diêm Vương họa tượng để thờ.
    Nghe qua câu chuyện nầy làm cho lòng thêm kỉnh tin ở lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ:
    “Đức Diêm Chúa yêu người hiền thảo,
    Trọng những ai biết niệm Di Đà.
    Lại được gần bệ ngọc long xa,
    Coi chư quốc tranh giành châu báu”.

    (Kệ Dân quyển nhì)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI BỐN: Niệm Phật được dự Hội Long Hoa. Đức Thầy có viết:
    “Thiện duyên ấy cũng tại nơi ta,
    Hộ niệm oai linh Đức Phật Đà.
    Sớm, tối, nằm y chánh pháp,
    Thầy nguyền dắt đến cảnh Long Hoa”.

    (Cho Ông Hạnh)

    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI NĂM: Niệm Phật được Phật Thần cứu trợ.
    Giảng xưa ông Sư Vãi Bán Khoai cũng cho biết:
    “Niệm Phật Phật độ ân cần,
    Lâm cơn nguy hiểm có Thần cứu an”.

    Trở lại giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Ngài dạy :
    “Ai mà tu tỉnh chuyên cần,
    Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.
    Thương đời hết dạ cần lo,
    Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì”.

    (Sám Giảng quyển 3)
    Còn rõ hơn nữa:
    “Ngày nay thế cuộc đổi xây,
    Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho”.


    LỢI ÍCH THỨ MƯỜI SÁU: Niệm Phật được coi Tiên Thánh và có mặt trong ngày chung cuộc.
    Thật là việc hy hữu xưa nay chưa từng có trong thế gian, cũng thật hân hạnh cho ai có mặt trong trường hợp nầy. Vì kẻ phàm phu trần tục không dễ gì thấy được Phật, Trời, Tiên, Thánh , cái diễm phúc nầy chỉ dành cho người tu niệm mà thôi.
    “Niệm Di Đà rán niệm cho rành,
    Thì mới được sống coi Tiên Thánh”.

    (Kệ Dân quyển nhì)
    Ngày quang đảng đầy diễm phúc lớn lao ấy, được Đức Thầy cho biết như sau :
    “Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp,
    Khắp hết thế gain thoát chốn tù”.


    HỎI: Thật vinh hạnh cho chúng tôi được nghe những điều lợi ích đặc biệt mà từ xưa tới nay chưa có kinh sách nào nói đến; đó là 16 điều lợi ích thế gian. Còn lợi ích xuất thế gian như thế nào? Xin vui lòng trình bày luôn cho chúng tôi được rõ.
    ĐÁP: Lợi ích xuất thế gian cũng kêu là lợi ích cứu cánh của người tu niệm Phật. Đại khái gồm có 4 điều sau đây:
    A – Được thoát khỏi luân hồi trong tam giới.
    B – Được sanh về cõi An Dưỡng.
    C – Được ngự ở Liên Đài.
    D – Được trở lại cứu vớt Tổ Tông và độ khắp chúng sanh.

    A- LỢI ÍCH ĐƯỢC THOÁT KHỎI LUÂN HỒI TRONG TAM GIỚI

    “Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”.

    (Khuyến Thiện)

    Bánh xe luân hồi quay tròn từ bao giờ cho đến bây giờ, không có một ai được biết và không có một chúng sanh nào thoát khỏi được; nếu nghiệp chưa sạch tình chưa dứt. Than ôi! cái cuộc quay lộn nầy thậm chí cho đến cõi trời phi thường, phi phi tưởng mà cũng không ra ngoài được.
    “Gây ra lắm nợ phong trần,
    Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.


    Nếu không có pháp niệm Phật nhiệm mầu nầy, thì làm gì một kiếp mà được ra khỏi luân hồi. Chúng ra cũng nên tìm hiểu coi do đâu mà có được sự lợi lạc lớn lao như thế? Nghiệm xét cho đúng, thì không ngoài 4 lẽ sau đây:
    1/- Do lòng từ bi của Đức Phật A Di Đà ì bản nguyện độ tha nên người niệm Phật mới thoát luân hồi, dầu là chúng sanh còn nghiệp nặng mà biết ăn năn chơn thật, có tín tâm niệm Phật cầu sanh thì Phật Ngài vẫn không bỏ.
    “Kẻ hiền đức sau nầy được hưởng,
    Phép thần linh của Đức Di Đà.
    Lại được thêm thoát khỏi Ta Bà ,
    Khỏi luân chuyển trong vòng lục đạo”.

    2/- Nhờ ân từ của Đức Phật Thích Ca và Đức Thầy tôn kính, chúng ta mới thoát được luân hồi: Cũng vì lòng thương vô hạn đối với chúng sanh nên Đức Phật ra sắc lịnh cho Đức Kim Sơn Giáo Chủ lâm phàm để hóa độ chúng sanh.
    “Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giái truyền khai đạo Pháp”.

    3/- Nhờ sức hộ niệm của chư Phật mười phương, mà chúng ta sớm được thoát ra khỏi luân hồi, Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết:
    “Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
    Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát”.

    4/- Lại cũng do ta thuận theo lời giáo hóa của Đức Thầy là:
    “Cứ nhứt tâm tín , nguyện , phụng hành” nên mới “Được cứu cánh về nơi an dưỡng”, mà thoát luân hồi trong một kiếp.

    B- LỢI ÍCH ĐƯỢC SANH VỀ CÕI AN DƯỠNG
    “Kíp nương theo trực chỉ Tây Phang,
    Đến Cực Lạc tìm nơi An dưỡng”.

    (Diệu Pháp Quang Minh)

    Khi sanh về cõi nước an dưỡng thì tâm Bồ Đề khỏi thối thất, lại còn được an ổn học đạo tiến tu cho đến khi thành quả Vô thượng Bồ Đề. Vì có 10 điều thuận lợi sau đây mà cõi Ta Bà không có được:
    1/- Không có tà sư ngoại giáo làm thất chánh tín của người tu.
    2/- Không có chúng ma nhiễu hại khảo đảo phá hoại đạo tâm.
    3/- Không có người ác và những thú ác làm hại , nên được yên ổn không lo sợ.
    4/- Không có 3 đường ác để thối đọa, nên không còn bị mê si còn được tiến tu bất thối.
    5/- Không có sắc đẹp nữ nhơn, không có các thứ thị dục cám dỗ và làm chao động, nên tâm dễ an định.
    6/- Được an dưỡng nơi lâu đài bằng bảy báu để học đạo:
    “Cảnh Tây Thiên báu ngọc đầy lầu.
    Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng”.
    7/- Được Đức Phật A Di Đà cùng nhị vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí làm Thầy giáo hóa .
    8/- Tất cả các pháp môn thậm thâm vi diệu, không có pháp nào mà không được nghe, biết, hết thảy các thừa từ tiểu thừa, trung thừa, đại thừa và Như Lai tối thượng thừa, không có thừa nào mà không chứng ngộ đặng .
    9/- Cùng ở chung làm bạn với các vị Bồ Tát. Nên kinh có câu: “Chư thượng thiện nhân, cưu hội nhứt xứ” và Đức Thầy cho biết:
    “Tâm đồng nhau thượng thiện vui vầy,
    Cảnh như như chẳng có đổi thay.
    Không màng biết phân chia nhân ngã”.
    10/- Có đủ điều kiện đạo đức để hóa độ chúng sanh .
    a/- Có đủ tướng hảo (32 tướng tốt , đó là do bản nguyện 21 của Đức Phật đã thành tựu)
    b/- Có đủ phép thần thông (kẻ ít nhứt cũng có được ngũ không, đó là Đức Phật thành tựu những lời nguyện 5,6,7,8,9)
    c/- Trí huệ không hạn lượng.
    d/- Biện tài vô ngại (đó là do Đức Phật thành tựu được lời nguyện 29 và 30).
    đ/- Có công đức phước báo vô lượng:
    “Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc quốc,
    Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.
    Được những lợi ích đại khái như đã kể trên, nên gọi là an dưỡng. Ngoài ra còn không biết bao nhiêu điều lợi ích khác, mà người sanh về an dưỡng sẽ hiểu đầy đủ hơn.

    C- LỢI ÍCH ĐƯỢC NGỰ Ở LIÊN ĐÀI
    “Cầu cho già trẻ gái trai,
    Rủ nhau niệm Phật Liên đài ắt lên”.


    Đây là điều lợi lạc lớn của người niệm Phật và tương lai xán lạn của những ai có Tín, Nguyện, Trì danh; thì sẽ được ngự ở Liên Đài rực rỡ.
    Theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ đức bổn sư có giới thiệu và diễn tả rất rõ ràng về đài sen báu như sau: “Hoa sen ấy trên mỗi một cánh làm ra trăm màu báu; có 84.000 mạch dường như bức học mỹ miều trên thiên đình. Mỗi mạch có 84.000 hào quang, rành rẽ làu làu, đều khiến cho mình đặng thấy hết. Cái cánh nhỏ của hoa sen, dài rộng 250 do tuần. Những hoa sen như vậy có 84.000 cánh; cách nhau mỗi một cánh có trăm ức chơn châu như ý, đặng làm trang sức chiếu sáng. Mỗi một hột châu như ý tuôn ra ngàn ánh quang minh. Ánh quang ấy như chiếc lọng, là bảy món báu hợp lại mà thành ra che khắp trên đất. Dùng thứ châu báu Thích Ca Tỳ Lăng già làm đài, đài hoa sen ấy dùng tám muôn kim cang, châu báu Kiên Thúc Ca, châu báu Phạm ma ni, lưới diệu chơn châu làm trang sức lan can. Ở trên đài ấy , tự nhiên mà có 4 cột cây cờ báu. Mỗi cột cây cờ báu như trăm ngàn muôn Ức núi Tu Di. Màn báu trên cây cờ như cung Trời Dạ Ma. Lại có 500 ức hột bảo châu vi diệu đặng làm trang sức chiếu sáng. Mỗi một hột bảo châu có 84.000 màu vàng khác nhau. Mỗi một màu vàng túa ra khắp bảo độ, nơi nơi biến hóa, đều làm ra tướng lạ: hoặc làm đài kim cang, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây bằng nhiều thứ hoa, tùy ý biến hiện ra ở mười phương diện, làm ra Phật sự.
    Những Liên Đài báu lạ nói trên, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng cho biết rất nhiều, nhiều đến nỗi không thể tính đếm hết được. Trong hai đôi liễn ở chùa “Linh Quang Tự” của ông Chung Bá Khánh, Ngài viết:
    a . Phật Pháp khai thông khổ hải trùng trùng tâm bất khiếp.
    Trần duyên bế tắc, liên đài điệp điệp đạo vô cùng.
    b . Phật Pháp hoằng khai, chẩn tế thương sanh đăng giác ngạn .
    Trần tâm tịnh tận, siêu thăng Cực Lạc tọa Liên đài.

    D- LỢI ÍCH CỨU ĐƯỢC TỔ TÔNG VÀ ĐỘ KHẮP CHÚNG SANH

    Đức Thầy cho biết : “Nếu ai giữ đặng trọn lành, trọn sáng, về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”.
    Đây là phần lợi lạc thỏa mãn nhứt tâm đạo Bồ Đề, vì chữ học đạo hoàn toàn ở đây là tu học chứng vào bực A La Hán trở lên, đến vô sanh pháp nhẩn, nhứt sanh bổ xứ, và thành Phật có đủ sáu phép thần thông. Đó là lúc chúng ta có đủ phương tiện để cứu độ cha mẹ Tổ Tông nhiều đời:
    “Ngày nào đắc được lục thông,
    Vớt hồn cha mê , tổ tông bảy đời.
    Về Cực Lạc thảnh thơi an dưỡng,
    Ấy là ngày ban thưởng công tu”.

    Chẳng những cứu được cha mẹ Tổ Tiên bảy đời, mà còn cứu được giống dòng và tộc họ số đông không thể kể xiết; lại còn độ được chúng sinh, độ cả muôn loài vạn vật:
    “Nguyện đem công quả tu hành,
    Cứu trong Tông Tổ vãng sanh Liên đài,
    Về Phật quốc ngày ngày an lạc,
    Cả giống dòng giải thoát luân trầm.
    Rồi đem đạo pháp huyền thâm,
    Độ trong sanh chúng hết lầm hết mê.
    Cả vạn vật đồng về Phật cảnh,
    Chẳng luyến trần ảo ảnh gạt lường.
    Nguyện cầu chư Phật mười phương,
    Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.


    TÓM LƯỢC DIỄN CA.
    Trì tâm niệm đã định rồi,
    Tự nhiên mầu nhiệm đến hồi lộ ngay.
    Đừng tìm chuyện lạ bên ngoài,
    Quá ham linh nghiệm có ngày mang tai.
    Chí thành ắt Phật đến ngay,
    Giữ tâm chánh niệm Phật Ngài tự nhiên.
    Niệm Phật lợi ích vộ biên,
    Ấy lời Phật dạy lưu truyền trong Kinh.
    Ai nghe chẳng để ý tin,
    Tây Phương Cực Lạc ắt mình khó qua.
    Khuyên cùng huynh đệ gần xa,
    Sớm lo niệm Phật hưởng mà sau đây.
    Cứ theo lời dạy Đức Thầy,
    Những người tu niệm sau này quí thay.
    Chúng tôi đại khái trình bày,
    Hai mươi lợi ích xưa nay chưa tường.


    CHƯƠNG 8
    HỘ NIỆM VÃNG SANH

    “Đến lâm chung quả lành đâu mất,
    Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ”.

    (Lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ)
    HỎI: Người tu niệm Phật có cần dự bị những gì trước phút lâm chung hay không?
    ĐÁP: Người niệm Phật phải dự bị sẵn các phương tiện để chờ phút lâm chung, giống như kẻ tha phương đã lâu; nay muốn trở về quê cũ, nên họ dự bị sẵn sàng, nào là giả kẻ xung quanh, chuẩn vị hành lý và lộ phí đi đường; chỉ còn chờ đò đến họ sẽ xuống ngay để sang sông trở về quê cũ. Người niệm Phật muốn về Cực Lạc cũng giống như thế.
    Những điều kiện cần yếu mà người niệm Phật phải dự bị trước lúc lâm chung, gồm có:
    1/- Phải có đủ ba món tư lương.
    2/- Phải biết âm thầm từ giã.
    3/- Phải biết lên tiếng giã từ.
    1/- Tín, Nguyện và Hạnh, mà người đi đò Tịnh Đô không thể thiếu .
    2/- Phải biết âm thầm từ giã: dùng gươm trí mà cắt cho đứt những mối dây luyến ái lâu đời, thì phen nầy mới mong vỗ cánh tung bay.
    a/. Phải biết âm thầm từ giã cõi đời mà ta đang sống quen thuộc đây. Hãy nhớ đây là cảnh giới vô thường sanh diệt, tuy thấy có mà vạn sự giai không, có khác gì là chiêm bao ảo mộng, không có chi đáng lưu luyến. Hãy tâm niệm qua lời dạy của Đức Thầy trong Giác Mê Tâm Kệ:
    “Cảnh dương gian muôn thảm ngàn sầu,
    Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
    Sông với núi trước kia mắt ngó,
    Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
    Ai biết đường hãy tẩu đào,
    Kiếm đạo lý mà nhờ mà nhõi”.

    b/- Phải biết từ giã của tiền: Phải nhớ rằng tiền của dù nhiều đến đâu cũng không thể cứu ta khỏi chết; ví như có vàng bạc chất đầy nhà một khi tử thần gõ cửa, chúng vẫn nằm trơ không tiếp cứu, thế nên phải âm thầm từ giã. Chúng ta hãy nhớ lời dạy bảo của Đấng cha lành:
    “Tham tiền tái thường vướng nạn eo,
    Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
    Lúc tận số nằm trơ một xác,
    Gẫm kim tiền bội bạc bất tài.
    Không làm cho ta được sống dai,
    Lại chẳng bước tiễn đưa một bước”.

    c/. Phải biết từ giã lục thân quyến thuộc; lục thân là: 1/- Cha, 2/- Mẹ, 3/- anh, chị, 4/- con, 5/- vợ hoặc chồng, 6/- Em. Hãy nhớ rằng tất cả những người nầy lần lượt họ cũng sẽ lên đường, kẻ trước người đi về cõi chết. Nếu ta để tâm luyến ái, không chịu xa lìa thì lâm chung có dễ gì giữ được chánh niệm mà vãng sanh. Chúng ta hãy tâm niệm qua 2 câu sau đây:
    “Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò
    Thoát sống khổ thương yêu, ly biệt”.

    (Khuyến Thiện)

    d/- Phải biết từ giã xác thân: cái thân mà ta đang mang đây, đang sống với nó đây, thật không có gì đáng quí mà phải bận tâm luyến tiếc. Nếu sống với nó thì càng ngày càng già, nào là đau ốm, bịnh tật, lấy xác thân ta làm hang ổ; nếu ta không chịu buông bỏ mà còn quyến luyến xác thân, thì quả thật ta còn tiếc già, cái bịnh tật, cái bật tịnh và khổ đau. Nên phải âm thầm sẵn sàng buông bỏ, thì mới giữ được chánh niệm để vãng sanh.
    Chúng ta hãy nhớ những lời dạy sau đây của Đức Thầy:
    “Tạo duyên giả phàm gian thân giả”
    (Cho Ông Tham Tá Ngà)
    và: “Phải nhớ rằng xác thân do thân tứ đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã”.
    (Trong Bài Luận về Bát Chánh)
    3/. Phải biết lên tiếng giã từ: Chết! chết! danh từ nầy ai ai cũng ghê sợ cả, mà không ai thoát khỏi cả. Sợ mà không khỏi, lại đem tâm lo sợ, ngớ ngẩn thật! Ta cứ nói thẳng lên: “Rồi đây ta sẽ chết!” đó là lẽ đương nhiên đâu có gì phải ngại; chỉ ngại là mình không có tu:
    “Phải rán tu đặng mà chết,
    Chớ đừng có chết mà chẳng có tu”.

    a/. Nếu là cư sĩ có tiền của và con đông thì hãy nên tác phần chia trước, hoặc muốn làm tờ di chúc thì phải làm trước khi đau yếu. Đừng để đến lúc lâm chung bận tâm nhớ nghĩ , sợ e khó niệm Phật nhứt tâm.
    b/- Nếu còn cha mẹ già yếu, thì nên ý thức khuyên bảo con và em hoặc anh, chị nhớ phận sự hiếu đạo để thay cho mình (nếu mình có mãn phần trước) để khỏi bận tâm lo nghĩ đến mẹ cha.
    c/- Phải lên tiếng trước, căn dặn tất cả người thân, nếu mình có đau yếu hoặc chết bằng cách nào đi nữa cũng chẳng nên kêu réo khóc than; nếu có thương là nên hộ niệm hoặc mời đồng đạo đến hộ niệm; đó cũng đủ rồi. Nhứt là chẳng nên nghe lời ai xúi bảo sát sanh hại vật để cúng kiếng và làm những điều bất thiện để chữa trị cho lành bịnh hoặc bỏ chay dùng mặn để được mạnh; đó là điều tối kỵ chẳng nên làm , cần phải căn dặn trước.
    Nhờ học Phật mà chúng ta hiểu sở dĩ có cuộc luân hồi là do chúng sanh tạo ra các nghiệp (thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp) trong lúc sanh tiền, đó là nguyên nhân phải luân hồi. Và trong lúc sắp chết lòng còn tham luyến giận tức, nhiễm ái xác thân và các việc thế trần; nên sau khi bỏ xác thần thức phải luân hồi trở lại trong sáu nẻo, đầu sanh trong bốn loài: noãn, thai, thấp, hóa, đó gọi là cận tử nghiệp. Lại còn có những thứ nghiệp nữa là: tập quán nghiệp, cực trọng nghiệp và tích lũy nghiệp.
    - Tập quán nghiệp: là những nghiệp tạo ra trong lúc sanh tiền trở thành thói quen, lúc nào cũng mơ màng ước muốn. Những thói quen nầy khi khởi lên có đủ sức mạnh dẫn thần thức đi luân hồi.
    - Cực trọng nghiệp: là do nghiệp tạo của người quá đỗi thậm trọng nó đến một sức mạnh vô song, vì thế mà mỗi khi tâm vừa tưởng niệm đến việc đó là nghiệp lực ấy, nó phát mạnh lên dẫn dắt thần thức đi đầu thai.
    - Tích lũy nghiệp: là do nghiệp tạo của người chất chứa từ lâu, đã huân vào tàng thức; các nghiệp ấy đợi khi có cơ hội khêu gợi đến, kích thích đền tức thì cái nghiệp lực ấy nó phát mạnh lên lôi kéo thần thức đi đầu thai.
    Nghiệm xét qua các lẽ của Phật giáo về luân hồi, nên người tu Tịnh Độ cần có một sức niệm Phật mạnh mẽ để diệt các nghiệp trước khi lâm chung.

    HỎI: Vừa qua là tự mình dự bị. Hãy cho biết thêm cách hộ niệm cho đồng đạo sắp lâm chung, phải biết như thế nào, để giúp cho người bịnh giữ được chánh niệm vãng sanh?
    ĐÁP: Đối với người sắp lâm chung, chúng ta phải hết lòng hộ niệm và còn phải biết cách mới có thể đem lại kết quả. Hãy nhớ rằng cả cuộc đời của người niệm Phật quan trọng hơn hết là giờ phút lâm chung mà tâm không tán loạn. Trong Kinh A DI Đà, Đức Phật Thích Ca Ngài cho biết về điểm quan trọng nầy: “Thị nhơn chun thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh; A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ”.
    Thể theo chỗ chỉ dạy của Đức Phật và Đức Thầy, cùng những kinh nghiệm qua nhiều lần hộ niệm; chúng tôi xin đưa ra có 10 lẽ cần nên biết của những khoảng hộ niệm cho người sắp và đã lâm chung.
    1/- Cần giữ yên tịnh: Đừng để cho thân nhơn quyến thuộc kêu hỏi hoặc khóc than, có thể làm cho người bịnh xúc động khó giữ được chánh niệm.
    2/- Phải khéo trợ giúp cho bệnh nhân: Chẳng nên làm điều gì trái ý bịnh nhân để phải sanh tâm giận tức, nhưng cũng đừng chìu ý bịnh nhân đòi hỏi những điều không hợp với đạo giải thoát, và phải bình tĩnh đừng tỏ ra lo sợ thái quá, để cho người bịnh biết được phải bận tâm, vì bên ngoài mà quên niệm Phật.
    3/- Phải biết giảng giải và nhắc cho bịnh nhân niệm Phật: Nếu bịnh nhân còn nghe biết được thì nên nhắc lại những lời đại nguyện của Đức Phật A Di Đà cho người bịnh nghe để vững lòng tin; nếu biết người bịnh còn có lòng hoài nghi thì phải giải thích cởi mở cho được và khuyên nhứt tâm niệm Phật. Trợ niệm cũng nên hỏi ý người bịnh coi: niệm lớn hoặc niệm nhỏ, niệm chậm hay niệm mau, để vừa với người bịnh có thể nương theo tiếng trợ niệm của mình.
    4/- Phải nhứt tâm hộ niệm khi sắp tắt hơi: Đến lúc người bịnh không còn nghe biết, thời cứ tổ chức luân phiên để hộ niệm.
    LƯU Ý: Ngoài hộ niệm nên thành tâm tha thiết để niệm, đừng để ý đến việc bên ngoài. Hãy nhớ rằng người bịnh kia đang hy vọng nơi ta, cần phải nhứt tâm niệm hộ. Không nên đem máy xả băng để hộ niệm vào lúc nầy.
    5/- Cách hộ niệm khi đã dứt hơi: Khi người bịnh tắt hơi, hãy đốt hương lên và niệm bài “Tây Phương tiếp dẫn”. Nên trấn tỉnh thân quyến của người chết, đừng khóc than trở ngại sự siêu thoát. Điều nầy Đức Thầy có dạy: “Nên lưu ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại sự siêu thoát anh linh của người chết”.
    6/- Thân trọng đối với xác của người đã lâm chung : Cứ để tự nhiên, không nên sửa xác của người chết khi còn nóng. Đợi đến khi nào toàn thân đã lạnh hết thì hãy sửa tay chân. Thời gian nầy khoảng độ 8 tiếng đồng hồ trở lại, khi xác còn ấm đó là thần thức. Thời gian 8 tiếng đồng hồ trở lại, khi xác còn ấm đó là thần thức chưa hoàn toàn ra khỏi xác. Nếu ta rờ sửa, di động sẽ có hại cho người quá cố; có thể làm trở ngại cho sự vãng sanh. Muốn sửa thân xác cho ngay thẳng thì hãy chờ khi xác lạnh hoàn toàn, nếu tay chân bị co rút hãy lấy khăn nhúng nước nóng, quấn vào những lắc léo của khớp xương, rồi từ từ cho ngay thẳng.
    7/- Tang lễ: Trong quyển “Tôn Chỉ Hành Đạo” Đức Thầy có chỉ rõ:

    TANG LỄ
    “Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ; chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:
    Bây giờ chúng ta đã qui y đầu Phật thì phải di sự thành tâm cầu nguyện và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy tiền vàng bạc xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chon cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện chứ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn”.
    8/- Cách cầu nguyện và an tang: Đức Thầy cũng dạy rõ:

    CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT
    Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (3 lần) và “Nam Mô A Di Đà Phật” (3 lần).
    Vái : “Phật Tổ, Phật Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên… (tên người chết) nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong linh được thoát chốn mê đồ, vãng sanh miền Cực Lạc!”. Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang cũng vậy, nếu có tổ chức sắp hàng chắp tay niệm “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi tiếp dẫn vong linh A Di Đà Phật” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật).
    Khi di chuyển quan tài, nếu có thể nên tổ chức khiêng bàn Phật đi trước, và phát hương hoa cho tất cả những người đưa tang để hộ niệm lần cuối cùng rồi làm lễ tuyệt bàn Phật.
    9/- Hộ niệm cho thân trung ấm: Phải biết hộ niệm cho hương hồn người quá cố trong những ngày làm tuần theo trong tập “Liễu sanh thoát tử”. Đức Phật có cho biết thời gian từ 49 ngày trở lại, thì thân trung ấm của người quá cố phải chịu 7 lần thay đổi, và hay lui tới ở bàn thờ tang. Đó là những người ở bực trung chưa được siêu, và cũng không có nghiệp nặng để đọa liền; nên phải sống với trung ấm 49 ngày. Trong tang quyến cần hộ niệm và cầu nguyện cho vong linh trong những ngày làm tuần, hoặc ngày thường đến trước bàn thờ tang niệm Phật hộ nhắc cho vong linh; chớ chẳng nên khóc lóc kể lể, có thể làm cho vong linh xúc động luyến ái mà phải chịu luân hồi.
    10/- Phải biết hồi hướng cho vong linh: Nếu nghĩ đến người quá cố, thì nên thành tâm cầu nguyện và tu các công đức để hồi hướng cho vong linh như: bố thí, phóng sanh, ăn chay, làm lành, niệm Phật .v.v… những ngày làm tuần hay kỹ niệm nên làm chay để giữ theo hạnh từ bi, thì việc cầu siêu mới có phần kết quả. Trong sám giảng Đức Thầy có dạy:
    “Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
    Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
    Mục Liên cứu mẹ bằng nay,
    Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ bi.
    Ai ai hãy rám mà suy,
    Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ ràng.
    Làm tuần trà rượu xình xoàng.
    Rồi thì chưởi lộn mà an nỗi gì ?”

    (Sám Giảng quyển 3)

    TÓM LƯỢC DIỄN CA
    Người niệm Phật muốn về an dưỡng,
    Như tha hương vọng tưởng hồi quê.
    Họ sẵn sàng dự bị ra về,
    Chỉ chờ đợi đò kề bước xuống.
    Về Cực Lạc chắc ai cũng muốn,
    Nhưng làm sao bước xuống Tịnh Đò?
    Có nguyện, tin yên trí đừng lo,
    Bằng trái lại khó sang Tịnh Độ,
    Đã quyết định vượt qua bể khổ,
    Hãy âm thầm từ giã sẵn sàng.
    Cảnh thế trần dâu bể hợp tan,
    Thân nhân lại trước sau đều tử.
    Tiền của vốn vô tình thật sự,
    Xác thân nầy khó giữ bền lâu.
    Nó lại là cái ổ u sầu,
    Sống với nó càng lâu càng khổ.
    Suy nghĩ kỹ bắt thêm tỉnh ngộ,
    Nên phải đành lên tiếng giã từ.
    Muốn trối trăn dặn trước bây chừ,
    Nếu để đến lâm chung tán loạn.
    Có học Phật luân hồi đã hãn,
    Đừng để cho cận tử nghiệp sanh.
    Hoặc thói quen , cực nghiệp khởi hành,
    Nghiệp tích lũy cũng sanh lục đạo.
    Muốn một kiếp Tây Phương trực đáo,
    Thì ở ngay trong lúc bình sanh,
    Khá chí tâm lục tự chuyên hành,
    Diệt các nghiệp để sanh Cực Lạc.


    ***
    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Nam Mô A Di Đà Phật.
    Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát.
    Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
    Nam Mô Đại Từ Kim Sơn Phật.
    Nam Mô thanh tịnh hải hội Thánh Chúng Bồ Tát.
    Nay con thành tâm hồi hướng công đức của việc làm nầy cho tất cả: ba cõi, bốn loài, mười phương pháp giới khắp chúng hữu tình; nương theo công đức đều được siêu sinh. Cầu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A Di Đà Phật.

    HH
     

Chia sẻ trang này