Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Lược Giảng Hán dịch: Dao Tần, Tam-tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành, Hoa Kỳ. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA gồm có bảy quyển, chia thành hai mươi tám phẩm. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ hai mươi lăm, nhưng trong bản kinh văn xưa thì là thứ hai mươi bốn, vì trong đó thiếu một phẩm Ðề-Bà-Ðạt-Ða (phẩm thứ mười hai). Phẩm Phổ Môn diễn bày công đức thần thông diệu dụng và cảnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Có mười nhân duyên nói phẩm Phổ Môn này; đó là 1) Nhân Pháp, 2) Từ Bi, 3) Phước Huệ, 4) Chơn Ứng, 5) Dược Châu, 6) Hiển Mật, 7) Quyền Thật, 8) Bản Tích, 9) Duyên Liễu, và 10) Trí Ðoạn. 1. Nhân Pháp: "Nhân" có nghĩa là người, và ở đây chính là Bồ Tát Quán Thế Âm; còn "Pháp" chính là pháp môn Phổ Môn Thị hiện. Bồ Tát Quán Thế Âm có thể cứu chúng sanh thoát khỏi bảy thứ tai nạn, giải trừ ba thứ độc, và đáp ứng hai điều mong cầu của chúng sanh; cho nên Ngài là một nhân vật không thể nghĩ bàn. Ngài lại nói pháp Phổ Môn Thị Hiện, có cầu tất ứng, vô cảm bất thông. "Pháp" này là một pháp môn không thể nghĩ bàn; vì không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu-pháp. Vì Nhân (người) ở đây cũng không thể nghĩ bàn, cho nên cũng có thể gọi là Diệu nhân. Là Diệu nhân, Diệu-pháp mới đáng gọi là Phổ Môn, mới có thể xưng là Thật-tướng-phù. Vậy, do nhân duyên của Nhân và Pháp, nên nói Phẩm Phổ Môn. 2. Từ Bi: do nhân duyên của Từ và Bi nên Bồ Tát Quán Thế Âm nói Phẩm Phổ Môn này. Sao gọi là "Từ?" Từ hay ban vui. Sao gọi là "Bi?" Bi hay cứu khổ. Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh. Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc. Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si. Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. Trong mọi chúng sanh đều có ba thứ độc tham, sân, si. Tuy nhiên, nếu người nhiều tham, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì được lìa tham. Nếu người nhiều sân, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì được lìa sân. Nếu người nhiều si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì được lìa si. Thứ tham này nếu kể hết ra thì rất nhiều, sân cũng không ít, còn si thì không nhiều mà cũng chẳng ít. Nói nó nhiều thì cũng không hẳn là nhiều, nói nó ít thì cũng không phải là ít. Sao gọi là si, hoặc ngu si? Do thiếu trí huệ, không am hiểu sâu xa, không lãnh hội được hàm ý, thấy lý mà thấy không đúng (kiến lý bất chân), nên gọi là ngu si. Vì ngu si, dầu thấy được lý luận ấy không chính xác, biết nó là thế mà không biết tại sao như thế. Căn cứ vào học thuyết của Vương Dương Minh, một học giả người Trung Hoa, thì người ngu si là người không thể tri hành hợp nhất. Theo ông, người ấy sở dĩ không làm là bởi người ấy không biết; nếu biết, thì người ấy sẽ làm ngay. Ông lại cho rằng, kẻ biết mà không làm, đó là do chưa thật biết; nếu kẻ ấy biết thật, thì nhất định sẽ làm ngay. Vương Dương Minh là một học giả rất nổi tiếng ở Trung Hoa, học thuyết của ông là Tri Hành Hợp Nhất - biết và làm là một - nếu người thật biết thì nhất định sẽ thật hành; chỉ vì không biết, người ấy mới không làm. Ðiều này cũng có nghĩa là kẻ chân chánh hiểu biết, thì không làm những việc ngu si. Tại sao có người làm việc ngu si? Bởi vì người ấy không hiểu, không biết rõ. Cho nên tôâi nói đây là thấy không đúng lý. Có bài thơ về người ngu si như sau: Hoa đẹp sáng sáng đều xinh tươi, Trăng sáng ngại gì mỗi đêm tròn, Ðại địa có suối đều thành rượu, Rừng già không cây chẳng lay tiền. Người ham thích hoa sanh tâm ngu si nói: "Tôi muốn đóa hoa này mãi mãi xinh tươi, chẳng tàn phai; sáng sáng đều đẹp như thế này." Người tham trăng tròn thì nói: "Trăng sáng nào ngại mỗi đêm tròn? Tối hôm qua trăng tròn thật đẹp, nếu trăng mỗi đêm đều tròn như thế cả thì tốt biết bao! Mỗi đêm ra ngoài trời ngắm trăng, ánh trăng sáng ngời cũng đủ, không cần phải dùng đèn điện, vừa bớt tốn tiền, mà dùng ánh sáng thiên nhiên còn tốt nữa!" Như thế không phải là ngu si sao? Trăng có tròn có khuyết, hoa có nở có tàn. Hoa nở thì phải có lúc hoa tàn, trăng tròn thì phải có lúc trăng khuyết, đó là luật tuần hoàn của trời đất. Người thích uống rượu lại nghĩ: "Mỗi ngày tôi đều đi mua rượu, mà whisky hoặc brandy thì rất đắt. Nếu tất cả ao nước trên trái đất này đều biến thành ao rượu, để khi nào tôi thèm rượu thì chỉ việc đến ao múc lên uống, thật tiện lợi biết bao!" Còn kẻ tham tiền thì mơ mộng: "Mình bây giờ phải đi làm kiếm tiền, thật là quá sức vất vả. Ước gì tất cả cây cối đều biến thành 'cây tiền,' trên cây kết toàn những đĩnh vàng đĩnh bạc và tiền đô-la, để khi mình cần tiền thì chỉ việc hái xuống tiêu xài, thật tiện lợi biết bao!" Những ước muốn không thể thực hiện được ấy đều là những ảo tưởng ngu si. Lại lấy một ví dụ dễ hiểu nhất. Như có người không có đi học, thậm chí cũng chưa học tiểu học-trung học thì khỏi nói rồi-nhưng lại muốn được một học vị Tiến sĩ ở đại học. Quý vị nói việc này có hợp lý không? Chưa học qua tiểu học, thì học vị Tiến sĩ làm sao cấp cho anh ta được? Lại còn có những người, không làm ruộng bao giờ, song đến vụ mùa lại muốn thu hoạch như thiên hạ! Ðó đều là ngu si! Thậm chí có người không mua vé số mà lại mong trúng lô độc đắc, quả là một ý tưởng quá ngu si! Thế nhưng, đa số người đời đều mắc phải chứng bịnh vọng tưởng "không làm mà muốn có ăn." Vậy thì phải làm sao? Có thứ bịnh này thì cần phải sửa đổi đi mới được. Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều mong cầu, đó là đại bi. Ngài lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui, đó là Ðại từ. Vì nhân duyên đại từ đại bi, nên Ngài nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này. 3) Phước Huệ: Bồ Tát Quán Thế Âm sở dĩ có thể "tầm thanh cứu khổ," phân biệt được mọi âm thanh khác nhau của thế gian-tiếng thiện, tiếng ác, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phải, tiếng quấy-là vì Ngài có trí huệ chơn chánh. Trí huệ của Ngài do đâu mà có? Là vì Ngài bố thí Phổ Môn, nhờ đem pháp ấy ban phát cho chúng sanh, cho nên Ngài được phước báo này-phước đức trang nghiêm. Vì thế nói là do nhân duyên Phước Huệ mà nói Phẩm Phổ Môn. 4) Chơn Ứng: "Chơn" là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng diệu lực của chơn thân Ngài để giải cứu bảy nạn, giải trừ ba độc, thỏa mãn hai điều mong cầu của chúng sanh. Ngài lại thị hiện ba mươi hai Ứng hóa thân-cũng gọi là Ứng thân-để giáo hóa chúng sanh; vì thế nên có nhân duyên Chơn Ứng này. 5) Dược Châu: Tại sao gọi là "Dược?" "Dược" đây chính là Dược-vương-thọ. Sao lại gọi là Dược-vương-thọ? Cách đây thật lâu xa, có một người lên núi đốn củi gánh về bán ở chợ. Một vị thầy thuốc nọ thấy trong gánh củi của anh ta phát ra ánh sáng, bèn mua hết gánh củi đó. Về nhà, vị ấy dở củi ra xem thì thấy bên trong có một khúc cây Dược-vương. Sau khi vị thầy thuốc được Dược-vương-thọ rồi, gặp bất cứ bịnh gì, chỉ cần lấy Dược-vương-thọ gõ nhè nhẹ trên thân người bịnh, hoặc đánh nhẹ một cái thì bịnh liền hết, cứu được không biết bao nhiêu người. Chính vì thế mà gọi là Dược-vương-thọ. Tại sao gọi là "Châu?" "Châu" đây chính là Như Ý bảo châu. Sao gọi là Như Ý bảo châu? "Như ý" là vừa lòng toại ý, cũng chính là khiến cho quý vị vui thích vừa ý, thỏa mãn sự yêu cầu của quý vị, đáp ứng mọi ước muốn của quý vị. Nếu quý vị muốn ăn món chi thì Như Ý châu liền hiện ra món ấy, quý vị chẳng cần phải đi mua. Nếu muốn mặc bộ đồ đẹp, chỉ cần đối với Như Ý châu mà nghĩ rằng: "Tôi muốn có một bộ đồ thật đẹp, ít có trên đời," bấy giờ Như Ý châu liền hiện ra bộ đồ đúng như ý quý vị mong muốn. Thậm chí quý vị muốn có nhà ở, nó cũng có thể hiện ra được. Quý vị ao ước: "Tối nay tôi muốn ở một căn nhà thật sang trọng" thì bảo châu này liền hiện ra căn nhà như ý quý vị muốn. Sau khi ở một đêm, sang ngày thứ hai, căn nhà tự động trở về lại trong Như Ý châu. Quý vị muốn ăn thức gì, Như Ý châu liền hiện ra thức ấy, phân lượng vừa đủ, không thừa không thiếu. Về y phục, quý vị cũng không cần phải sắm giá áo, chỉ cần cởi ra thì y phục ấy tự động trở về trong Như Ý châu. Vì thế, hạt châu ấy được gọi là "Như Ý," toại lòng vừa ý, thật là mầu nhiệm. Như Ý châu bao lớn? Hạt châu này rất nhỏ, có thể tùy tiện đem theo bên mình; nó lại không nặng và không choán chỗ. Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm cũng giống như Dược-vương-thọ và Như Ý châu vậy, có thể làm cho mọi người được toại nguyện, vừa lòng. Chỉ cần quý vị đọc tụng Phẩm Phổ Môn thì cầu mong việc chi cũng sẽ được mãn nguyện. Nhưng không phải là hôm nay tụng niệm, ngày mai liền có hiệu quả. Cần phải trước tiên sửa soạn một cơ sở thật ổn định, giống như cất nhà lầu, trước tiên phải làm nền móng cho thật chắc chắn; nền móng không vững chắc thì nhà lầu không có cách gì xây lên được. Phổ Môn Phẩm tuy có cảm ứng linh thiêng chẳng khác gì Dược-vương-thọ và Như Ý châu, cũng mầu nhiệm không thể nghĩ bàn như thế, nhưng trước tiên quý vị cần phải trì tụng Phẩm Phổ Môn. Quý vị phải mỗi ngày mỗi tụng niệm, tụng niệm cho đến chừng nào Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn nhận là quý vị hợp cách, có lòng thành, thì sau đó quý vị cầu điều chi cũng đều được như ý mãn nguyện. Không thể nào lúc bình thường chẳng hề tụng niệm, đến khi muốn cầu cảm ứng thì tức khắc có cảm ứng ngay được. Do vậy, lúc bình thường quý vị cũng phải nhất định dụng công tu hành, để đến khi cần thì Phẩm Phổ Môn sẽ thị hiện những sự vi diệu không thể nghĩ bàn giống như cây Dược-vương và ngọc Như Ý vậy. Nhưng trước hết, chính bản thân quý vị cần phải thường xuyên trì tụng mới được! Có người nói: "Trong Phật giáo có quá nhiều điều phải học! Ðã tụng chú Lăng Nghiêm, chú Ðại Bi, bây giờ lại phải tụng thêm Phẩm Phổ Môn nữa. Thế thì nhiều thời khóa quá, chúng tôi làm sao có đủ thời giờ?" Quý vị không cần quá nhiều thời gian, chỉ cần mỗi ngày quý vị ngủ ít đi một tiếng đồng hồ, bớt nói chuyện một tí, thì công khóa này có thể thực hiện được ngay. Nếu quý vị không muốn được toại lòng vừa ý, nói rằng: "Tôi không mong cầu điều chi cả. Tôi không có tâm tham, cũng không có tâm sân hoặc tâm si!" Với những lý do đó, quý vị chẳng cần phải tụng niệm và như thế thì không còn gì để nói nữa! Tuy nhiên, nếu quý vị cảm thấy trong tương lai, mình có thể sẽ gặp một biến cố nào đó, muốn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Phật giúp đỡ cho, thì quý vị phải học nhiều Phật-pháp hơn một tí nữa. Phật-pháp ví như biển cả mênh mông, quý vị một giọt cũng chưa uống mà vội sợ nhiều, thì tương lai nhất định không thể nào uống hết nước trong biển cả ấy được. Nhưng chỉ cần quý vị cố gắng hết sức mình, cần bao nhiêu thì cứ uống bấy nhiêu. Phật-pháp là kho báu vô tận, dùng hoài không hết, cho nên quý vị hãy cố đem hết sức mình mà vận dụng Phật-pháp. Vậy, do ý nghĩa Dược Châu nên nói Phẩm Phổ Môn. 6) Hiển Mật: "Hiển" là hiển lộ rõ ràng; "Mật" là bí mật kín đáo. Quý vị trì tụng Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm thì có lúc được sự cảm ứng rõ ràng, và cũng có lúc được sự cảm ứng âm thầm. Cảm ứng rõ ràng tức là sự cảm ứng mà mọi người đều có thể nhìn thấy, đều biết được. Ví như việc Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp chúng sanh, trong Phẩm Phổ Môn có nói: "Dầu vào lửa lớn, lửa chẳng đốt được." Trong Kinh Lăng Nghiêm, khi Quán Thế Âm Bồ Tát thuật về Nhĩ căn Viên thông, có nói: "Lửa không thể đốt vì tánh lửa là chơn không, tánh không là chơn hỏa." Ví dụ như quý vị đang ngồi trong phòng, nhất tâm nhất ý niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, bất ngờ có hỏa hoạn xảy ra. Lúc ấy, chỉ cần quý vị có thể thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dù cho nhà bên cạnh có bị cháy, nhà của quý vị vẫn được vô sự. Nhưng đó phải là vô ý chứ không phải cố ý! Nếu quý vị cố ý nổi lửa đốt thử để xem nhà mình có bị cháy không, thì nhất định phải cháy rồi! Tại sao thế? Vì quý vị vốn có ý muốn thử Quán Thế Âm Bồ Tát! Bởi quý vị không có lòng tin chắc chắn nên mới thử Ngài như thế. Giống như quý vị có một người bạn chẳng hạn, vì muốn biết người bạn ấy có thật tâm với mình không, có phải là hạng người tốt, "gặp vàng không chóa mắt" hay chăng, bèn đợi khi người bạn đến chơi rồi cố ý đánh rơi dưới đất năm trăm đô-la và tự nhủ: "Nếu anh ấy là người tốt thì dù biết mình không trông thấy, anh ấy cũng sẽ không lấy số tiền kia." Tại sao quý vị lại muốn thử thách bạn của mình? Chính là vì quý vị chưa có được sự nhận định đúng đắn về người bạn ấy, không biết anh ta có phải thật là người tốt không, cho nên mới thử nghiệm như vậy. Trong kinh, Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, có nói rằng: Dầu vào lửa lớn, lửa chẳng đốt được. Về việc này, nếu quý vị không tin chút nào, thì Quán Thế Âm Bồ Tát cũng chẳng để ý đến những chuyện không đâu của quý vị. Quý vị muốn nhảy xuống biển tự tử, nói rằng: "Tôi nhảy vào trong biển lớn để xem có gặp chỗ cạn hay không?" Quý vị muốn thử nghiệm để xem thần thông diệu dụng của Quán Thế Âm Bồ Tát, điều đó chứng tỏ rằng quý vị không có lòng tin đối với Ngài. Nếu đối với Bồ-tát mà quý vị không có lòng tin, thì Ngài có thể cũng chẳng muốn để ý đến những việc không đâu của quý vị. Quý vị ngụy biện: "Nếu không thử nghiệm, làm sao tôi biết được việc ấy là thật hay giả?" Quý vị biết việc ấy là thật, thì thế nào? Mà không biết việc ấy là thật, thì đã làm sao? Quý vị biết rồi, thì ngày ngày cũng vẫn phải ăn cơm, mặc quần áo, mới có thể sống được; thế thì quý vị cần gì phải làm thêm một việc thừa nữa? Sự cảm ứng hiển lộ rõ ràng thì mọi người đều biết. Như nhà kế bên cháy mà nhà mình không cháy; đó không phải là hiển lộ rõ ràng sao? Ai nấy đều biết rõ: "A! Người ấy nhờ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát nên được sự cảm ứng đấy! Tin Phật thật là có sự mầu nhiệm." Ðó là sự cảm ứng hiển lộ. Lại còn có sự cảm ứng bí mật nữa. Ví dụ đáng lẽ quý vị phải gặp tai nạn hoặc té xuống biển bị nước cuốn, nhưng trong vô hình, được sự cảm ứng từ Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị không phải gặp sự nguy hiểm ấy nữa. Trong thầm kín, Ngài làm cho tai nạn của quý vị tiêu mất đi, mà ngay cả quý vị cũng hoàn toàn không hay biết; đó gọi là sự cảm ứng bí mật. Như có người đáng lẽ bị chết thiêu trong trận hỏa hoạn, nhưng nhờ người ấy tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài bèn âm thầm giải trừ tai nạn cho. Ðó cũng là sự cảm ứng bí mật. Thậm chí quý vị đang ngồi trên phi cơ, lẽ ra phi cơ bị trục trặc - giao thông hiện nay tuy rất tiện lợi, song số người tử vong do phi cơ, xe lửa, xe taxi... gây ra cũng rất nhiều-nhưng quý vị nhờ tụng phẩm Phổ Môn, nhờ niệm chú Ðại Bi, nhờ tin tưởng ở Quán Thế Âm Bồ Tát, nên Ngài âm thầm, không để cho ai biết, lặng lẽ giúp quý vị "chuyển rủi thành may." Ðó gọi là "gặp hung hóa kiết, biến nguy thành an." Nhân có sự quan hệ Hiển Mật cho nên nói Phẩm Phổ Môn. Phẩm này có Hiển Mật Viên thông-Hiển cũng viên thông mà Mật cũng viên thông; bởi Hiển Mật đều viên thông cả, nên công đức của Phẩm Phổ Môn là không thể nghĩ bàn. Phẩm Phổ Môn có vô số diệu dụng, chú Ðại Bi cũng có những diệu dụng như thế. Bây giờ tôi kể một việc cảm ứng xảy ra ở quê tôi cho quý vị nghe. Ở Ðông Bắc (Mãn Châu) quê tôi, có một người nông dân rất giàu có. Mùa thu năm ấy, ông chất nông phẩm lên xe đem ra chợ bán; bán xong mang tiền về nhà. Khi còn cách nhà độ ba dặm đường, bất ngờ gặp phải đám thổ phỉ chặn đường đánh cướp. Người nông dân này thấy phía trước có cướp thì hốt hoảng than thầm: "Phải làm sao đây? Chạy trốn ư?" Nhưng bọn thổ phỉ nhìn thấy rồi, muốn trốn cũng không được; nếu không trốn thoát thì nhất định phải bị cướp. Ngay lúc ấy, ông ta niệm chú Ðại Bi, và chiếc xe ngựa của ông ta cứ thẳng đường tiến tới trước. Khi xe ông tiến gần đến chỗ bọn thổ phỉ, thì từ trong đám thổ phỉ có một người bước ra, đi đến trước xe và nói: "Ông đưa roi cho tôi để tôi đánh xe cho!" Ông nghe lời, đưa roi đánh xe cho người kia. Xe ông đi ngang qua chỗ đám thổ phỉ mà bọn họ dường như không thấy không nghe gì cả, cho nên ông không bị cướp. Ðợi xe chạy tới chỗ bọn thổ phỉ không còn thấy được nữa, người đánh xe giùm ấy trả roi lại cho ông và nói: "Bây giờ ông hãy đi đi, không có việc gì nữa đâu." Ông nông dân ấy vì nhìn thấy người đánh xe giúp mình vốn từ trong đám thổ phỉ đi ra, nên cứ đinh ninh anh ta cũng là thổ phỉ, mới nói: "Thưa tiên sinh, hôm nay nhờ tiên sinh cứu giúp mà tôi khỏi bị nạn cướp, dám hỏi quý danh tiên sinh là chi? Hiện ở đâu? Tương lai tôi sẽ đến quý phủ hầu bái tạ." Người kia đáp: "Tôi tên là A Thệ Dựng." Quý vị niệm chú Ðại Bi ắt đều biết rõ, trong chú Ðại Bi không phải có một vị Hộ pháp tên là A Thệ Dựng sao? Trong đồ hình, vị Hộ pháp ở phía sau vai có hai cánh, tên là A Thệ Dựng. Nhưng đương lúc ấy, người nông dân lại tự hỏi: "Ồ, A Thệ Dựng là ai vậy kìa?" Bấy giờ ông ta quên bẵng rằng "A Thệ Dựng" chính là một câu trong chú Ðại Bi và là tên của một vị Hộ pháp. Tới chừng vị A Thệ Dựng ấy đi rồi, không còn nhìn thấy nữa, người nông dân mới sực nhớ ra: "À, đây không phải là vị Hộ pháp A Thệ Dựng trong chú Ðại Bi hay sao?" Song, khi ông nhớ ra thì tìm không thấy "A Thệ Dựng" nữa, chẳng biết là đã đi về đâu! Trên đây là một trong những cảnh giới không thể nghĩ bàn của chú Ðại Bi. Nếu như người nông dân ấy nghĩ: "Ðể mình thử niệm chú Ðại Bi xem có linh nghiệm không," tất A Thệ Dựng sẽ không hiện thân đến cứu ông ta. Chính nhờ ông ta không có ý muốn thử nghiệm, mà chỉ một lòng tin tưởng: "Trì niệm chú Ðại Bi thì sẽ có thể gặp hung hóa kiết, đổi nguy thành an"; và quả nhiên ông ta được toại ý nguyện, không bị thổ phỉ cướp bóc. 7) Quyền Thật: Bồ Tát Quán Thế Âm dùng sức của Pháp thân mà lặng lẽ, bí mật cứu giúp chúng sanh, ấy là "Thật." Ngài lại dùng ba mươi hai Ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh, ấy là "Quyền." "Quyền" là phương tiện quyền xảo, cũng là phương pháp tạm thời, không phải là vĩnh viễn. Lại vì Bồ Tát Quán Thế Âm dùng nhân duyên Quyền Thật này, nên mới nói Phẩm Phổ Môn. 8) Bản Tích: Sao gọi là "Bản?" "Bản" là căn bản, "Tích" là dấu tích. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một Pháp thân mà độ khắp tất cả chúng sanh; Pháp thân ấy chính là "Bản." Ngài lại dùng Ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh; các thân đó chính là "Tích." Pháp thân của Bồ Tát Quán Thế Âm ví như vầng trăng sáng; còn "tích" của Ngài ví như bóng trăng soi trên ngàn sông nước. Ấy gọi là: "Nước đẫy ngàn sông ngàn ánh trăng." Chỉ có một vầng trăng sáng chiếu soi các dòng sông, mà tất cả những bóng trăng trong các dòng sông đều là từ bản thân của một mặt trăng duy nhất này huyễn hiện ra. Trăng trong nước chính là nước, là "tích;" còn mặt trăng trên trời chính là "bản." Do nhân duyên Bản Tích mà nói Phẩm Phổ Môn. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một Pháp thân mà thị hiện khắp trong tâm của tất cả chúng sanh, khiến cho họ đều cải quá tự tân, hồi tâm hướng thượng, lìa khổ được vui, rốt ráo thành Phật. Giảng đến đây có người nói: "Hèn gì! Sở dĩ tôi không cải quá tự tân là vì Bồ Tát Quán Thế Âm không thị hiện ở tâm tôi, khiến tôi gây ra biết bao lỗi lầm, lại còn không chịu sửa đổi nữa." Người nghiện thuốc lá thì nghĩ rằng: "Có lẽ là vì Bồ Tát Quán Thế Âm không gia bị tôi, không muốn giúp tôi cai thuốc." Người thích uống rượu thì nói: "Tôi muốn học Phật pháp, nhưng đáng tiếc là tôi cai rượu không được. Ðó là lỗi của Bồ Tát Quán Thế Âm, vì Ngài không chịu giúp đỡ tôi." Họ nghĩ như thế rồi sanh lòng oán trách Bồ Tát Quán Thế Âm: "Bồ Tát Quán Thế Âm thật bất công! Tại sao Ngài giúp đỡ người ta mà không giúp đỡ tôi?" Ðiều này thật là ngu lại càng ngu, thành ra hai cái ngu si chồng chất lên nhau. Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại không gia bị quý vị? Ðó là do quý vị không chịu nghe lời giáo hóa của Ngài đấy thôi. Quý vị nghe thấy danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì phải cải quá tự tân, phải thanh lọc đầu óc của mình đi. Ðồng thời, cần phải hiểu rằng: Hiểu dĩ vãng là không kể đến, Biết vị lai có thể truy tìm. Mọi người đều phải biết rằng việc quá khứ thì đã qua rồi, kể như xong; còn tương lai thì sắp đến, chúng ta có thể sửa đổi để đi theo con đường chân thiện. Nhưng quý vị rõ biết mà cố phạm thì tội ấy càng chồng chất thêm. Vì thế, oán trách Bồ Tát Quán Thế Âm không bảo hộ quý vị là một điều quá lầm lạc! Bồ Tát Quán Thế Âm lúc nào cũng muốn bảo hộ quý vị, nhưng tiếc thay, cửa lòng quý vị đóng chặt, không để cho Ngài tiến vào. Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ có nước thở dài: "Ôi! Chúng sanh này thật là đáng thương biết bao!" Vì thế quý vị không nên trách Bồ Tát Quán Thế Âm, mà phải tự trách mình đã thiếu nhiệt tâm. 9) Duyên Liễu: "Duyên" là duyên nhân, "Liễu" là liễu nhân. Sao gọi là "Liễu nhân?" Ấy là cái nhân này đã kết liễu, đã dứt hết. Cũng có thể nói "liễu nhân" tức là hiểu rõ nguyên nhân. Trong khóa tu học mùa hè năm nay (1968), mọi người đều thức dậy rất sớm và tận dụng từng giây từng phút để học Phật-pháp. Những người ở xa thì thức dậy từ lúc bốn giờ khuya để có thể đến đây tham Thiền và nghiên cứu kinh điển. Có những người đang theo học Cử nhân, Tiến sĩ tại trường Ðại học Washington ở Seattle, cũng đến tham gia khóa tu học này. Ðiều đó chứng tỏ rằng họ đã nhận thức được tầm quan trọng của Phật-pháp. Tại sao họ từ những nơi quá xa xôi như vậy mà chịu khó đến tận đây (San Francisco) để tham Thiền, học tập kinh tạng, nghiên cứu Phật-pháp? Chính là vì họ muốn "liễu" cái "nhân" ấy. Nghe kinh chính là chủng tử của "liễu nhân;" quý vị có nhân duyên nghe kinh, đó là "duyên" của nhân. Vậy, vì nhân duyên Duyên Liễu nên nói Phẩm Phổ Môn này. 10) Trí Ðoạn: Bồ Tát Quán Thế Âm dùng trí huệ, trí đức trang nghiêm của Ngài để giáo hóa chúng sanh, quả vị của Ngài là trang nghiêm trí huệ. "Trí" là Trí đức của Huệ, tức là đức hạnh của trí. "Ðoạn" là Ðoạn đức, tức là đoạn trừ, cắt đứt tất cả vô minh. Ðoạn đức còn được gọi là Phước đức. Nhân vì Ngài đoạn trừ được vô minh, nên có được phước đức trang nghiêm chân chánh. Ðức Phật thì đầy đủ cả phước lẫn huệ; Bồ Tát Quán Thế Âm mặc dù là Bồ-tát, nhưng Ngài có phước đức trang nghiêm và cũng có huệ đức trang nghiêm. Cho nên, "Trí huệ" cũng gọi là "Phước huệ."
Trên đây là mười nhân duyên nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, phẩm thứ hai mươi lăm của bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Trước khi nghiên cứu phần kinh văn, chúng ta hãy tìm hiểu về danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi tin rằng Quán Thế Âm Bồ Tát rất quen thuộc đối với tất cả quý vị, bởi Ngài là một vị Bồ-tát đại từ đại bi và rất có nhân duyên với chúng sanh chúng ta. Quán là "năng quán chi trí"- trí huệ năng quán, trí huệ dùng để quán xét. Thế Âm là cảnh giới sở quán-các âm thanh của thế gian chính là cảnh giới được quán xét. Bất luận âm thanh nào của thế gian, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng đều nghe biết cả. Ngài biết rõ từng âm thanh một của mỗi chúng sanh; vì sao? Vì Ngài không ngừng quán sát các âm thanh đó. Suốt ngày, Ngài hết xem xét nơi này lại xem xét nơi khác, tìm xem có âm thanh gì hay không. Âm thanh vốn phải lắng nghe mới phải, vì sao ở đây lại nói là "xem?" Âm thanh mà có thể "xem," có thể "thấy" được ư? Chúng ta thì không thể, song Quán Thế Âm Bồ Tát thì có thể "thấy" được âm thanh. Ngài nhìn thấy âm thanh như thể chúng được ghi nhận trên màn ra-đa, và mỗi chúng sanh được ký hiệu bằng một ánh chớp nhỏ (blip) trên màn ảnh ra-đa. Ngài có thể theo dõi từng âm thanh của quý vị. Ðó là một cách giải thích. Lại có thể giải thích rằng: Quán Thế Âm Bồ Tát có khả năng nghe bằng mắt và thấy bằng tai! Mặc dầu chúng ta nói là Ngài quán sát các âm thanh của thế gian, Ngài cũng có thể nghe bằng mắt được! Ngài không chỉ dùng mắt để nhìn mà còn có thể dùng mắt để nghe nữa. Vì sao ư? Bởi vì Ngài có thần thông Lục căn Hỗ dụng. Những người tu hành theo Kinh Pháp Hoa, đạt được cảnh giới Pháp Hoa Tam Muội, hoặc Lục căn Thanh tịnh, đều có được khả năng Lục căn Hỗ dụng; huống hồ là Quán Thế Âm Bồ Tát! Cho nên, tai của Quán Thế Âm Bồ Tát có thể nói chuyện, có thể ăn uống; mắt của Ngài có thể nghe và cũng có thể suy nghĩ được nữa. Ðó là cảnh giới Lục căn Hỗ dụng mà Quán Thế Âm Bồ Tát đã chứng được từ lâu xa về trước; và nhờ vậy, Ngài có thể quán xét âm thanh của thế gian. Có lẽ có người thắc mắc: "Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát lại đa sự, muốn ôm đồm nhiều việc quá vậy? Từ sáng đến tối nhọc lòng quán xét âm thanh? Ðể làm gì kia chứ?" Quán Thế Âm Bồ Tát làm như thế là vì Ngài không thể bỏ mặc chúng sanh như quý vị, tôi, và bao người khác nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh như con vậy. Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng khác nào một người mẹ luôn quan tâm đến con cái Ứ luôn để ý xem đứa này có khóc không, đứa kia có đói không, đứa nọ có lạnh khôngẨ, suốt ngày Ngài bận rộn trông nom chúng sanh chúng ta. Có người thắc mắc: "Như thế thì Ngài giống như baby-sitter sao?" Ðúng, cũng gần như là vậy. Có điều là Ngài không được trả lương! Ðó là điều thiệt thòi nhất cho Quán Thế Âm Bồ Tát! Chính vì không thể bỏ mặc chúng sanh, nên Ngài muốn quán xét các âm thanh của thế gian, để xem có chúng sanh nào đang chịu khổ sở thì Ngài giải trừ sự thống khổ cho chúng sanh đó, hoặc có loài chúng sanh nào gặp nạn thì Ngài giải trừ tai nạn cho loài chúng sanh đó. Quán Thế Âm Bồ Tát "tầm thanh cứu khổ"Ứ Ngài lắng nghe tiếng kêu của chúng sanh mà đến cứu họ thoát khỏi khổ nạn. Nếu quý vị đang chịu khổ sở, thì chỉ cần niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, tất quý vị sẽ được "gặp rủi hóa may," và mọi sự được thuận lợi đúng như quý vị mong muốn. Ða số người đời không biết đến diệu pháp này, cho nên khi gặp chuyện nguy hiểm, bất trắc, họ không biết niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu lúc gặp hiểm nguy mà quý vị có thể nhớ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị sẽ được bình yên vô sự. Nếu quý vị ở trong đám cháy, lửa sẽ không thiêu đốt quý vị. Nếu quý vị té xuống chỗ nước sâu, nước không nhận chìm quý vị. Nếu quý vị không biết bơi, quý vị sẽ thấy mình tự nhiên được tấp vào chỗ cạn. Ðó là do sức cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Lúc nguy cấp, chỉ cần quý vị có thể niệm danh hiệu của Ngài, chắc chắn sẽ được sự cảm ứng và được cứu thoát. Tuy nhiên, quý vị cần phải thật sự có lòng tin; không thể lưỡng lự, bán tín bán nghi được. Giả sử quý vị bị ở trong đám cháy và vừa niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát vừa hoài nghi: "Có thật là Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ đến cứu mình không? Không có đâu! Làm gì có chuyện mầu nhiệm linh thiêng như thế được!" Vì một niệm nghi ngờ đó, Ngài không thể đến giải nguy cho quý vị được. Tại sao vậy? Bởi vì quý vị không tin, không có tín tâm đối với Ngài! Quý vị cần phải một lòng một dạ thiết tha tin tưởng: "Mình niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài chắc chắn sẽ đến cứu mình!" Hoặc nếu sắp bị cọp dữ vồ bắt ăn thịt, quý vị liền nhắm nghiền hai mắt và niệm "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát..."; bỗng nhiên cọp sẽ không thể hả miệng ra được nữa. Ðó chính là nhờ thần lực của Quán Thế Âm Bồ Tát vậy. Bồ-tát là "giác hữu tình," kẻ đi giác ngộ chúng hữu tình, giúp họ trở nên giác ngộ. Các ngài cũng là "hữu tình giác," những chúng hữu tình đã giác ngộ. Bồ-tát cũng còn được gọi là "Ðại Ðạo tâm chúng sanh, Khai sĩ, hoăc Hữu thượng sĩ." --- Notes: He has 14 kinds of fearlessness, 19 ways of speaking Dharma, and 32 response bodies. 14 năng lực Vô úy của Quán Thế Âm Bồ Tát: giải cứu 7 thứ nạn + giải trừ 3 thứ độc + đáp ứng 2 thứ mong cầu + chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát + chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằng niệm tất cả các danh hiệu khác. 1/. Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát; 2/. Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt; 3/. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm; 4/. Chúng sinh vào xứ ác quỉ, dạ xoa, la-sát…, ác quỉ không thể làm hại; 5/ Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy; 6/ Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trông thấy; 7/. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích được tháo ra; 8/. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thể cướp đoạt; 9/. Chúng sinh tham dục…, liền dứt khỏi tham dục; 10/. Chúng sinh nóng giận…, liền dứt hết nóng giận; 11/. Chúng sinh mê ám…, liền dứt hết mê ám; 12/. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai; 13/. Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái; 14/. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằng niệm tất cả các danh hiệu khác. 32, 33 Ứng thân: Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Đức Phật Thích Ca đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì bèn tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát. Cũng theo kinh này thì Quán Thế Âm Bồ tát có 32 hóa thân khác là thân Phật, Bích Chi, Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan,Bà-la–môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thần chấp Kim Cang. Sau này lại có thêm 33 hóa thân khác của Quán Âm, những hóa thân này không dựa vào Kinh sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 Ứng hóa thân trên pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản và Trung Hoa mà tạo thành, đó là các hồng danh: Dương Liễu Quán Âm, Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán Âm, Thí Dược Quán Âm, Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thủy Nguyệt Quán Âm, Nhất Diệp Quán Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Chúng Bảo Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Vô Úy Quán Âm, Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly Quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục Thời Quán Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm, Nhất Như Quán Âm, Bất Nhị Quán Âm, Trì Liên Quán Âm, Sái Thủy Quán Âm. 1. Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của Ngài là bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương. Dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức. 2. Long Đầu Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát; Long Vương đến mang mây mưa sấm chớp chiếu diệu khắp trời đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả đều tán thán uy lực của Long vương. Ngài hiện thân ngồi kết già trên mình rồng thuyết pháp cho chúng sanh. 3. Trì Kinh Quán Âm: còn gọi là Thanh Văn Quán Âm. Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia. “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường. 4. Viên Quang Quán Âm: đây là Quán Thế Âm Bồ tát lòng từ ái viên mãn, biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. 5. Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh. 6. Bạch Y Quán Âm: còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng, ngồi kết già trên hoa sen trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết dữ nguyện ấn. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái Ngài để cầu tiêu tai, trường thọ. 7. Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài hiện thân Tiểu Vương trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu Vương tôn quý ngồi trên lá sen. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh. 8. Lang Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi nhìn dòng thác, nhưng tâm tư Ngài như tinh thần của dòng nước. 9. Thí Dược Quán Âm: ngoài việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế Âm Bồ tát còn ban bố cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. 10. Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá và nhánh lá. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. 11. Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ cõi trời sắc giới, công đức rất lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng thông thường trong nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già, tay phải cầm nhánh lá, tay trái để trên đầu gối. 12. Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát trong Thai Tạng Mạn trà la, mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên hoa sen nổi trong đại hải, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết thí vô úy ấn, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng nên gọi là Thủy Nguyệt Quán Âm. 13. Nhất Diệp Quán Âm: nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn. Có thể thấy hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát hiện trên nước. Ngài ngồi trên hoa sen nổi trên mặt nước, ngắm nhìn nước tâm suy nghĩ sâu sắc đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục). 14. Thanh Cảnh Quán Âm: có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá. 15. Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài là tay trái cầm kim cang xử biểu hiện uy thế để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên bệ đá. 16. Diên Mạng Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Có thể tiêu trừ chú thuật nguyền rủa và độc dược thêm tuổi thọ, cho nên gọi là Diên Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan, mặc Thiên y, anh lạc trang nghiêm, 20 cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh. 17. Chúng Bảo Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. “Nếu có chúng sanh vì tìm cầu báu vật như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu... vào trong thâm sơn đại hải, giả sử gió lớn thổi trôi dạt đến nước quỷ La Sát, nếu có một người xưng danh hiệu Ngài, thì đều được giải thoát”. Hình tượng của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn. 18. Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm Phổ môn chép: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều chướng khí và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Quán Thế Âm Bồ tát hiệp chưởng tĩnh tọa trên hoa sen, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng. 19. Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu giúp thủ hộ những người gặp nạn được an ổn. “Hoặc trôi dạt biển lớn, các nạn quỷ cá rồng, do sức niệm Quán Âm, sóng mòi chẳng chìm đặng”. Quán Thế Âm Bồ tát là thần thủ hộ trên biển. Hình tượng của Ngài biểu hiện tướng tĩnh lặng. 20. A Nậu Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên bệ đá quán sát mọi động tĩnh của đại hải. Thệ nguyện của Ngài như bài kệ: “ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương. 21. Vô Úy Quán Âm: Hình tượng của Ngài rất đặc thù có ba mắt bốn tay, ngồi trên lưng sư tử trắng, đội bảo quan, hai tay bên phải, một tay cầm hoa sen trắng, một tay cầm con chim cát tường trắng; hai tay bên trái, một tay cầm pháp khí hình con phượng 3 đầu, một tay cầm con cá. Khắp thân có ánh sáng, mặc thiên y đeo anh lạc, diên mạo rất đoan nghiêm. 22. Diệp Y Quán Âm: Ngài hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa thân Vô Lượng Thọ Phật. Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong suốt khắp thân. Có bốn tay, hai tay bên phải, một tay cầm quả cát tường để trước ngực, một tay kết thí nguyện ấn; hai tay bên trái, một tay cầm rìu, một tay cầm sợi dây, ngồi trên hoa sen. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc. 23. Lưu Ly Quán Âm: Tương truyền vào thời Bắc Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ. Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh “Diên Mạng Thập Cú Quán Âm”, lúc tử hình ông ba lần chém nhưng không chút thương tích, nên ông được tha chết. Vì phụng thờ lễ bái Quán Thế Âm Bồ tát mà đầu ông còn hiện ba vết sẹo. Hình tượng Ngài cầm bình lưu ly xanh, đứng trên cánh hoa sen du hóa trên mặt nước. 24. Đa La Quán Âm: dùng vật báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh; quanh thân có hào quang thanh tịnh, đầu búi tóc. Trước ngực đeo anh lạc ngồi trên bệ đá ngắm nhìn chúng sanh. 25. Cáp Lỵ Quán Âm: Vua Đường Văn Tông thích ăn thịt con hàu, một ngày nọ vua bắt được một con sò lớn, vua dùng dao mổ hoài mà không mở được vỏ sò, ông mới đốt hương cầu nguyện, con sò hóa thành Quán Âm Đại Sĩ. Nhà Vua triệu vị thiền sư đến nói: người đáng dùng thân đặng được độ, thì hiện thân này mà nói pháp. Hiện thân Đại Sĩ là việc hy hữu không tin hay sao. Nhà vua rất vui liền ban chiếu chùa chiền trong khắp thiên hạ tạo tượng Đại Sĩ để tôn thờ. Đây là sự tích của Cáp Lỵ Quán Âm. 26. Lục Thời Quán Âm: là vị Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền Bắc Ấn Độ một ngày đêm chia làm sáu thời, một năm cũng chia làm sáu thời là: “nắng ít, nắng nhiều, mưa, mát, lạnh ít, lạnh nhiều”; Do đó mà nói thành “Quán Thế Âm thường trông chúng sanh”. 27. Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. 28. Mã Lang Phụ Quán Âm: Đời Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh nhau cưới, nàng nói trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng, đêm ấy có hai mươi người thuộc, lại một đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang cũng sẽ lấy làm chồng, đêm ấy còn lại mười người, sau ba ngày có thể tụng thuộc Kinh Pháp Hoa thì sẽ kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh niên họ Mã được chọn. Ngày kết hôn người con gái bỗng dưng chết biến thành ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình tượng Ngài cầm quyển Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu. 29. Hiệp Chưởng Quán Âm: là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. “Nếu có chúng sanh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly dục, nếu người nhiều sân nhuế, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly sân, nếu người nhiều ngu si thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, thì liền được ly si.” Tâm không vô niệm thì liền hiển hiện cảnh giới tam muội. Ngài mặc y trắng chấp tay ngồi trên bệ đá. 30. Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất Như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. “Quán Âm diệu trí lực” chính là pháp quán nhất như. 31. Bất Nhị Quán Âm: là biểu tượng “bổn” và “tích” bất nhị của Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn chép: “người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì bổn và tích đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài ngồi trên bệ đá hai tay chấp trì kim cang xử. 32. Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa để biểu trưng cho bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa nở nên còn gọi là liên hoa thủ. Vì hoa sen có nhiều nhơn duyên đặc thù nên cũng lấy hoa sen làm đài. Hình tượng Quán Âm đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm. 33. Sái Thủy Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát đứng trên tường vân tay cầm chén nước rưới xuống. “Lòng bi răn như sấm, ý từ diệu dường mây, như mưa pháp cam lộ, dứt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là rưới một loại nước thơm, là pháp tu tụng niệm gia trì làm cho thanh tịnh. Đây là bổn thệ của Quán Thế Âm để khai ngộ Phật tánh của tất cả chúng sanh. (Ngư Lam Quán Âm): Trong Quán Âm Cảm Ứng Truyện ghi: Vào niên hiệu Nguyên Hòa, thứ hai, Vua Đường Hiến Tông, ở Thiểm Hữu người ta còn chưa biết gì đến Tam Bảo. Một hôm bỗng nhiên từ trên bãi cát vàng xuất hiện một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần, tay cầm xâu cá đến Thiểm Hữu rao bán. Bấy giờ, có rất nhiều thanh niên bị sắc đẹp kiều diễm của cô gái bán cá làm ngây ngất lòng, họ một mực xin cầu hôn với cô ta. Cô gái nói: “Chỉ một mình tôi thế nào có thể cùng một lúc kết hôn với nhiều người như thế này được? Nếu trong vòng một đêm ai có thể đọc thuộc phẩm Phổ Môn thì tôi sẽ kết hôn với người đó”. Qua ngày hôm sau có tới hai mươi người đọc thuộc. Cô gái lại nói: “Tôi cũng không thể cùng một lúc kết hôn với hai mươi người được. Vậy, nếu trong vòng một đêm mà ai đọc thuộc kinh Kim cang thì tôi sẽ đồng ý kết hôn với người ấy”. Kết quả, qua một đêm trì tụng cuối cùng còn lại mười người thuộc lòng kinh Kim Cang. Vì thế, cô gái cũng chưa thể thuộc về ai được. Cô gái lại nói: “Nếu trong một đêm ai có thể đọc thuộc lòng kinh Pháp Hoa thì người ấy là chồng tôi”. Cuối cùng chỉ có một thanh niên họ Mã đọc thuộc lòng kinh Pháp Hoa. Nhưng thật không sao ngờ được, vào ngày tân hôn trọng đại ấy, khi người con gái vừa mới bước vào đến cửa nhà chồng nàng bỗng nhiên phát sốt nặng và tử vong. Chốc lát sau thân thể nàng thối rã, không ai dám nhìn, chỉ có người thanh niên họ Mã kia một mình vội vàng tẩm liệm và mai táng thi thể của nàng. Nhưng trong lòng chàng ta vô cùng đau buồn. Mấy ngày sau, có một vị tăng đến khuyên anh ta mở quan tài ra xem thử. Khi quan nấp tài được mở ra thì anh ta hết sức ngạc nhiên vì trong quan tài không có tử thi của vợ mình. Vị tăng kia liền nói cho anh ta biết: “Đây không phải là nương tử bán cá mà ngươi từng gặp, thật sự nàng ta là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm đấy!” Nói vừa dứt lời vị tăng kia cũng biết mất. Trong các hình tượng ứng hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm có hình tượng người nữ mang tên Ngư Lãm Quán Âm mà trong kinh Pháp Hoa Hiển Ứng Lục gọi là Mã Lang Quán Âm. Ngoài ra, trong các tác phẩm ghi lại sự tích ứng nghiệm của Bồ-tát Quán Thế Âm kể về Bồ-tát hiện thân người nữ còn có rất nhiều. Vì sao Bồ-tát Quán Âm thường hay hiện thân người nữ? Thứ nhất: Vì từ trước đến nay những khổ nạn của người nữ so với người nam bao giờ cũng nhiều hơn. Thứ hai: Bản tính của người nữ là từ hòa và nhẫn chịu. Ví dụ như tình thương bao la của người mẹ không bao giờ tìm thấy có ở nơi người cha. Vì thế Bồ-tát Quán Thế Âm ứng hiện thân người nữ chính là nhờ vào tánh hay chịu khó, chịu khổ của người nữ để nói tinh thần nhẫn nại của Bồ-tát Quán Thế Âm; mượn lòng yêu thương bao la của người mẹ để thể hiện cho sự từ bi vô bờ bến của Bồ-tát. Đặc biệt là chính vì hiện thân người nữ mới dễ dàng len lõi vào quần chúng phụ nữ rộng độ cho những phụ nữ nhiều khổ nạn. Đồng thời, trong Kinh nói: “Trước dùng móc ham muốn kéo ra, rồi sau mới làm cho vào trí Phật”. Thị hiện thân người nữ thì có thể dễ dàng độ cho người nữ và trẻ em. Ngoài ra thị hiện thân người nữ xinh đẹp cũng có thể độ người nam. Điển hình như trường hợp hiện Ngư Lam Quan Âm vừa nói trên là một ví dụ. Thị hiện thân người nữ lớn tuổi mới có thể gần gũi với mọi người.