PHẬT GIÁO HÒA HẢO NGHĨA CHỮ KHÓ Trong SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ Của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ Tu sĩ THÁI HÒA và Cư sĩ HỒMINH CHÂU ÍT DÒNG TRÂN TRỌNG Trong quyển SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ có rất nhiều tiếng lóng, ngôn ngữ dân gian địa phương, danh từ Phật học, danh từ Hán Việt cũng như thành ngữ và điển cố, chắc chắn thế hệ em cháu chúng ta không sao hiểu hết, nếu chẳng có tài liệu tra cứu, vì thế, chúng tôi cố gắng thực hiện tập sách này. Quyển SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ, ấn bản 1998, tái bản kỳ 8 ở Hải ngoại, chúng tôi chép lại nguyên văn và in đậm những chữ cần giải nghĩa. Riêng về các bài thơ chữ Nho của Đức Thầy - tất cả là Phật ngôn, là Thánh ý - hơn nữa, không có bản chữ Nho đối chiếu, thì với tâm trí phàm tục cũng như sự hiểu biết giới hạn về Nho học, chúng tôi chỉ cố gắng suy luận mà “phỏng dịch” - việc làm này - cũng như phần chú giải nhũng chữ khó - chắc chắn có nhiều sai thiếu, kính mong được quý vị cao minh và quý đồng đạo rộng dung mà vui lòng chỉ giáo, chúng tôi vô cùng tri cảm. Pháp quốc, đầu thu Kỷ Sửu Ngày 31 tháng 10 năm 2009. Tu sĩ Thái Hòa Cư sĩ Hồ Minh Châu THAY LỜI TỰA Sứ mạng của Đức Thầy do chính tay Ngài viết. Ngày 18 tháng 5 năm Kỹ-Mão, vì thời-cơ đã đến, lý Thiên-Đình hoạch-định, cuộc nguy-cơ thảm-họa sắp tràn-lan. Ta đây tuy không thể đem phép huệ-linh mà cứu an tai-họa chiến-tranh tàn khốc do loài người tàn-bạo gây nên, nhưng mà thử nghĩ: Sinh trong vòng đất Việt-Nam nầy, trải qua bao kiếp trong địa-cầu lăn-lộn mấy phen, tùy cơ pháp chuyển kiếp luân-hồi ở nơi hải-ngoại để thu-thập những điều đạo-học kinh-nghiệm huyền-thâm, lòng mê-si đã diệt, sự vị-kỷ đã tan mà kể lại nguồn gốc phát sinh, trải bao đời giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh-cư nơi đất Việt. Những tiền kiếp dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác, cũng quỉ thần đất Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may mắn gặp minh-sư, cơ truyền Phật-pháp, gội nhuần ân-đức Phật, lòng đã quảng-đại từ-bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền-cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ. Nghĩ lúc còn làm người trong biển tục, lăn-lộn chốn mê đồ, mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mầu đà thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ-hải, dạo khắp Tiên-bang, cảnh an-nhàn của người liễu-đạo, muôn ngày vô sự, lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ-đề trường thọ mà còn len-lỏi xuống chốn hồng-trần, đặng chịu cảnh chê khen ? Vì lòng từ-ái chứa-chan, thương bách-tính tới hồi tai-họa. Phật-Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập hội Long-Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện-căn để giáo truyền Đại-Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa-Bình cho vạn quốc chư bang. Thiên-Tào đà xét định, khắp chúng sanh trong thế-giới trong cái buổi Hạ-Nguơn nầy, say mê vật-dục, chìm đắm trong biển lợi-danh, gây nên nghiệp-quả, luật trời đà trị tội xét kẻ thiện-căn thì ít, người tội-ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ-bi cùng các vị Chơn-Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ-huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên Đình ân xá bớt tội căn để kíp đến Long-Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn-Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái-bình, bởi đời nầy pháp-môn bế mạc, Thánh đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-Vương khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc-độ nào thì cũng phải trở về quốc-độ ấy mà trợ tế nhân dân, vì thể lòng từ-bi bác-ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, Ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh. Tuy là nhơn-dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế. Nên phương-pháp của Ta tùy trình-độ cơ cảm của Tín-nữ Thiện-nam, trên thì nói Phật-pháp cho kẻ có lòng mộ Đạo qui căn, gây gốc thiện-duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền-diệu của Tiên-gia độ bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ-bi của Chư Vị với Trăm Quan, thảm-thiết lê dân lầm than thống-thiết, mà lời lành nghe tựa hồ như nhớ như quên, nên kẻ xa-xôi từ-văn chẳng tới, người láng-diềng tiếng kệ nhàm tai. Đến trung tuần tháng tám, Ta cùng Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy Thiên-cơ, truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn-năn cải quá làm lành, còn kẻ chẳng tỉnh tâm sau đền tội cũng chẳng trách Phật Tiên không chỉ bảo. Vẫn biết đời Lang-sa thống trị, phép nước nghiêm-hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hiềm khích: nhưng mà Ta nghĩ nhiều tiền kiếp Ta cũng hy sinh vì Đạo, nào quản xác thân. Kiếp chót nầy đây há lại tiếc chi thân phàm tục, song vì tình cốt- nhục tương thân, cũng ủng-hộ, chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình. Bạc-Liêu, ngày 18-5 Nhâm-Ngũ (1942). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Sứ mạng: sứ giả lãnh lịnh ra đi. Nghĩa bóng: nhận một nhiệm vụ gì đó do cấp trên giao phó. Nghĩa ở đây: nhiệm vụ tinh thần, nhiệm vụ thiêng liêng. - Thời cơ: cơ hội, hoàn cảnh thuận lợi để làm một việc quan trọng được kết quả tốt. - Thiên đình: triều đình ở trên Trời. - Hoạch định: vạch rõ, định rõ. - Nguy cơ: cảnh suy sụp ngặt nghèo, nguy hiểm. - Thảm họa: tai họa gây nhiều đau thương, chết. - Huệ linh: sáng suốt, thông đạt, đầy đủ huyền năng (huyền diệu và năng lực). - Diệu huyền - Huyền diệu: sâu kín, linh nghiệm, mầu nhiệm. Có tánh cách thần bí như phép mầu. - Năng lực: tài năng; đủ điều kiện làm tốt công việc. - Tai họa: điều gây ra sự đau khổ và mất mát lớn. - Chiến tranh: giặc giã, cuộc đánh nhau giữa hai hoặc nhiều nước. - Tàn khốc: tàn bạo và dữ dội đến mức đáng sợ. - Tàn bạo: ác độc, hung dữ. - Cơ pháp: cơ duyên đối với Phật pháp. Cơ: cái máy, cái mối, căn, tánh chất riêng của con người. Cơ duyên: chúng sanh nếu có căn lành thì được duyên may thọ lãnh Giáo pháp của Thánh nhơn. - Cơ duyên - Cơ: đã giải ở trên. Duyên: tức sự dính líu, níu kéo, liên lạc, nương vịn với nhau. Như nước có liên lạc với gió, có sức hổ trợ của gió mà thành sóng. Cũng như hột giống nhờ sự hổ trợ của đất, nước, công chăm sóc vun bón phân mà lớn lên, sau mới có quả. Duyên có thiện duyên, ác duyên, duyên đã qua, duyên hiện tại, duyên sẽ tới. Duyên dính níu với nhau làm cho người ta luân hồi mãi mãi. - Chuyển kiếp: từ kiếp này đến kiếp khác. Tùy theo nhơn duyên mà linh hồn chuyển biến đến nơi đầu thai. Sự luân hồi. - Luân hồi - Luân là bánh xe, quay vòng tròn. Hồi: hết vòng, quay vòng trở lại. Luân hồi theo nhà Phật, con người mãi lẩn quẩn trong vòng: Sanh, Già, Bịnh, Chết, rồi đầu thai cũng vẫn trong 6 đường: Tiên, Thần, Người, Địa ngục (nhà tù dưới đất), Quỉ đói và Súc sanh.(thú vật). - Kinh nghiệm: điều hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống nhờ tiếp xúc nhiều và học hỏi trên trường đời. - Huyền thâm: cao sâu không thể lấy tâm ý người trần mà hiểu và giải thích được. - Mê si: tối tăm, ngu muội; không tin luân hồi, nhân quả, nghi ngờ chánh pháp. - Vị kỷ: ích kỷ, chỉ lo riêng mình, chỉ vì mình. - Nguồn gốc: nơi bắt đầu phát sanh sự việc. - Phát sanh: bắt đầu sanh ra những điều mới. Cái gì bắt đầu sanh sôi nảy nở. - Vùa dân: giúp đỡ dân, giúp sức cho dân. - Sinh cư: nơi sanh sống. Nơi ăn chốn ở. - Tiền kiếp: kiếp trước. - Bao lìa: có nghĩa không bỏ, không rời. - Minh sư: vị thầy sáng suốt, tài giỏi. - Cơ truyền: mật truyền điều huyền bí; việc sắp xếp của máy Trời. - Phật pháp: phép tắc, lề luật của đạo Phật. - Gội nhuần: nhận được nhiều ân đức của ơn trên ban rải. - Quảng đại: rộng rãi, to lớn. - Từ Bi: Phật thương yêu tất cả chúng sanh, sẵn sàng giúp cho tất cả được an vui, được lợi ích về vật chất và tinh thần. Phật đối với chúng sanh như mẹ với con nên gọi là Từ. Phật thấy chúng sanh chịu các nỗi khổ mà động lòng thương, muốn cứu vớt họ ra khỏi các tai nạn, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não nên gọi Bi. - Hềm vì: tiếng dân gian, có nghĩa: bị, tại vì. Ví dụ: Hềm vì tôi đã lỡ lời ... - Quốc phá gia vong: nước mất nhà tan. - Huyền cơ: máy trời mầu nhiệm người thường không thể đoán biết trước được. - Trăm họ - Bá tánh: chỉ tất cả người trong nước. - Đồ lao - Đồ: trống không. Lao: nhọc mệt. Nghĩa là khó nhọc nhiều mà không kết quả gì. - Chúng sanh: các loài có mạng sống, biết đau khổ. Có chết, chết rồi lại sanh. Như con người. - Vạn khổ: vô cùng đau khổ (Vạn: mười ngàn). - Biển tục: chỉ số người còn vướng Tham - Sân - Si, còn lăn lộn trong vòng luân hồi khổ não nhiều như nước biển. - Mê đồ: con đường lầm lạc, nẻo mê tối. - Vong thân vị quốc: yêu nước, vì nước quên thân mình. Chết vì nước. - Cơ mầu: sự hay ho mầu nhiệm của máy Trời. - Ngao du tứ hải: thong thả dạo chơi bốn biển. - Tiên bang: cõi Tiên, cảnh Tiên. Nơi hoàn toàn trong sạch, yên vui, không hận thù, chết chóc ... - An nhàn: bình yên, thong thả, khoẻ trí, không phiền hà lo nghĩ chuyện gì. - Liễu đạo: hiểu thông suốt Đạo lý. - Phàm tâm: lòng trần, lòng người trần tục. - Bồ đề: trí tuệ hay giác ngộ. Nghĩa nhà Phật là thông suốt đạo lý, không vướng mắc lợi danh, tình cảm; hết mê là Giác. - Trường thọ: sống lâu. - Len lỏi: chen vào, lách mình vào giữa đám đông, cố chen vào chỗ khó đi. - Hồng trần: bụi hồng, bụi cát đỏ hồng, chỉ cõi đời, nơi con người đang sống. Nghĩa bóng chỉ cõi đời dơ bẩn, khổ cực. - Từ ái: lòng thương yêu. - Chứa chan: đầy dẫy, tràn trề, linh láng. - Bách tính hay Bá tánh: trăm họ, chỉ chung người trong nước. - Long Hoa: đại hội chọn người hiền đức. Hội Long Hoa do đức Phật Di Lạc khai hội dưới cội Long hoa. (Long hoa: hoa giống hình rồng). - Công quả-Công: làm việc lành. Quả: quả báo tốt. Làm việc không nhận thù lao. Công tu có kết quả tốt. - Thiện căn: căn lành, gốc rễ lành. Kiếp trước có làm điều lành. - Giáo truyền: dạy dỗ làm cho nhiều người cùng hiểu biết lý lẽ của nền Đạo. - Hòa bình: an bình, yên ổn, không chiến tranh. - Vạn quốc: rất nhiều nước trên thế giới. - Chư bang: các nước, nhiều nước. - Thiên Tào: triều đình nhà Trời. Nơi làm việc trên Trời. Nghĩa rộng: chỉ Ông Trời, Ngọc Hoàng. - Hạ-nguơn hay Hạ-nguyên: thời kỳ chót. Theo lịch số - một huyền bí của phương Đông - có 3 thời kỳ, hay 3 nguơn: Thượng-nguơn, Trung-nguơn và Hạ-nguơn. Mỗi nguơn là một thời kỳ, tức một khoảng thời gian ngày, tháng, năm, mà trong đó, đời sống con người có một nền văn hóa, đạo đức, tánh tình cũng như thời tiết khác biệt với các nguơn khác. Mở đầu là Thượng nguơn, tức nguơn gây dựng càn khôn (Trời Đất) cùng muôn loài vạn vật. Con người thời bấy giờ hiền lành, trong sáng, rất đạo đức, đời sống an vui, khí hậu điều hòa, cỏ cây tươi tốt. Tiếp đến là Trung nguơn, con người không còn hoàn toàn như thời Thượng nguơn, bắt đầu nhiễm hư xấu, cậy mạnh hiếp yếu, tranh giành danh lợi. Sau cùng là Hạ nguơn, thời kỳ đen tối, người đời tham ác, vì tiền của, danh lợi giết nhau không chút xót thương, là thời kỳ chúng ta đang sống. - Vật dục: lòng ham muốn về vật chất. - Lợi danh - Lợi: chỉ cái có ích thu được. Danh: tiếng tăm. Lợi danh là lợi ích và tiếng tăm, chỉ sự ham lợi và ham danh. - Nghiệp quả: quả báo của nghiệp. Cũng gọi là Nghiệp báo, là cái nghiệp trong thời kỳ báo đáp, trả lại (báo) bằng sự vui vẻ hay khổ sở tùy theo đời trước mình đã làm lành hay làm ác. - Nhủ lòng từ bi: ban bố tình thương. - Chơn Tiên: Tiên chơn chánh. - Lâm phàm: xuống trần, xuống thế gian. - Độ thế: cứu đời. Giúp, cứu giúp đời. - Cơ huyền - Huyền cơ: máy trời mầu nhiệm người thường không thể đoán biết trước được. - Hướng thiện: quay về đường lành, theo đường lành, làm việc hiền. - Cải tà qui chánh: từ bỏ, sửa đổi những sai lầm, những thói hư tật xấu để trở thành người tốt, người lương thiện, sống theo lẽ phải. - Ân xá: tha tội hoặc giảm hình phạt. - Chầu: hầu. Chỉ nói chầu Trời,Phật, vua chúa. - Hữu duyên: có duyên. Gặp gỡ nhau mà hòa hiệp nhau gọi là hữu duyên. Kẻ hữu duyên hễ thấy Phật, thấy Kinh thì vui thích, tôn kính, quí mộ nên được lợi ích về đạo đức. Còn kẻ vô duyên có gặp cũng như không, không mến, không thích, không quí trọng nên mất phần lợi ích về đạo đức. - Nhiệm mầu - Mầu Nhiệm: kín đáo, cao siêu; tâm trí người thường không thể tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc của máy trời. - Kiến diện: thấy mặt, giáp mặt. - Chơn sư: vị Thầy tài đức, vị Thầy chơn chánh. - Tu hành - Tu: sửa, sửa tánh, rèn lòng cho tốt và khép mình theo luật đạo. Hành: tập, làm theo điều Phật dạy, giữ đúng cách người tu. - Đắc quả: công tu được thành, được đắc đạo. - Thái bình: yên ổn, không còn giặc. - Pháp môn: cách dạy tu học. Lý lẽ đức Phật dạy được các đệ tử của Phật lấy đó làm phép tắc, gọi là pháp, do pháp đó mà tu học và thành Đạo, gọi là môn, tức cửa vào đạo. - Bế mạc: chấm dứt, kết thúc hội nghị, cuộc lễ ... - Thánh đạo trăn vu: có nghĩa đạo Thánh Hiền, tức đạo Khổng bị lu mờ, bị che khuất (vị đoan phong khởi Thánh đạo trăn vu “Tứ thư’). - Ma Vương: chúa loài ma. - Quốc độ: nơi người tu đắc đạo ở quốc gia, nước ... - Trợ tế: cứu giúp, giúp đỡ. - Thể lòng: nghĩa thông thường là Thể lòng từ bi bác ái: vì lòng thương vô cùng bao la, rộng rãi. - Thù đáp: báo đáp, làm lại việc gì cho cân xứng đối với người đã giúp mình. - Trợ duyên: duyên cớ phụ tiếp sức với duyên cớ chánh. Trong việc tu hành cần phải có nhơn và duyên nương cậy nhau. Ví dụ, dốc lòng tu hành nhưng phải nhờ ân sư chỉ dẫn, phải nhờ hoàn cảnh thuận tiện chung quanh trợ giúp. - Hóa hiện: dùng thần thông hiện thân ra. - Thượng xác cỡi đồng: một vị khuất mặt - một linh hồn - nhập vào thân xác một người nào đó . - Trợ thế: cứu giúp người đời. - Phương pháp: cách thức để làm một việc gì cho có hiệu quả tốt. - Trình độ cơ cảm: mức độ hiểu biết tùy duyên lành được chư Phật cảm ứng. - Tín nữ thiện nam: nữ, nam lòng lành, tin Phật, tin Đạo, ở nhà vừa làm ăn vừa tu học. - Mộ đạo qui căn: người tu mến chuộng đạo quay trở về nguồn gốc. - Thiện duyên: duyên lành, duyên tốt. - Thảm thiết-Thảm: đau xót.Thiết:cắt.Đau như cắt. - Lê dân - Lê: đông đúc, chúng, Dân: dân. Cũng có nghĩa dân đen, tức dân không chức quyền. - Lê Thứ như chữ Lê nguyên - Lê: giải ở trên. Nguyên: lành (thiện). Ngày xưa, con người thường được gọi là người lành (thiện nhân) hay thứ dân. - Lầm than: đói khổ, chịu nhiều cực nhọc. - Thống thiết: hết sức đau đớn; xót xa vô cùng. - Tựa hồ: hình như, in như là ... giống như là ... - Xa xôi: rất xa, đi lại khó khăn, cách trở. - Từ văn: lời lành; lời nói và chữ nghĩa, văn thơ... Xa xôi từ văn chẳng tới: người ở xa xôi, đường xá cách trở nên không được nghe lời giảng dạy đạo đức, lời nhắc nhở khuyên tu hành. - Láng diềng - Láng giềng: người ở nhà bên cạnh, chung quanh nhà mình. - Nhàm tai: chán không muốn nghe nữa vì phải nghe nhiều lần. - Trung tuần: khoảng thời gian mười ngày giữa tháng - tức ngày thứ 11 đến ngày thứ 20. - Tá hiệu Khùng Điên: mượn danh Khùng Điên. - Tiết lộ: để lộ, để hở ra điều cần giữ kín. - Ăn năn: hối hận, tiếc vì đã lỡ làm nên tội lỗi. - Cải quá: sửa đổi, thay đổi những lầm lỗi. - Tỉnh tâm: hết mê, hết say, xét lòng biết được tốt xấu, hư nên mà cải sửa. Tỉnh: thức giấc, hiểu biết. - Lang sa: nước Pháp, nước Pháp Lan Tây. - Thống trị: nắm hết quyền hành cai trị một nước. - Nghiêm hình: hình phạt gắt gao. - Hiềm khích - Hiềm: ghét bỏ. Khích: oán giận. Không ưa, không thích. - Hy sinh - Hi sinh: Hi: con vật dùng tế Trời Đất, Thần linh. Sinh: sống. Nghĩa thường dùng: không kể đến quyền lợi, danh dự, tính mạng để làm một điều gì cao đẹp, như hi sinh vì Tổ quốc. - Nào quản: không nài, không ngại, không để ý tới, không kể, không nệ hà ... - Cốt nhục: xương-thịt. Tình thân thiết giữa cha mẹ, anh em ruột. - Tương thân - Tương: cùng. Thân: gần gũi. Cùng thân thiện với nhau, thương yêu gắn bó với nhau. - Ủng hộ: nâng đỡ, giúp đỡ; đồng tình đóng góp. - Cực hình: hình phạt nặng nề làm đau và nhục. -- oOo -- Xin xem Luận Giải Năm Quyển Sấm Giảng 1-2-3-4-5 Đã ấn tống - và trên mạng: NGUYỆT SAN LONG HOA PHẬT GIÁO HÒA-HẢO (QUYỂN SÁU) CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO -- oOo -- LỜI NÓI ĐẦU Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải bày tường tận tôn-chỉ hành Đạo của tôi. Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Đạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xảy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát. Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật HOÀ - HẢO NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chánh (chính) sách - Chính: chính trị. Sách: mưu lược, kế hoạch. Đường lối, chủ trương về chính trị. - Áp bức: dùng sức mạnh đè nén, ép buộc. - Tôn chỉ: nguyên tắc chánh của một tổ chức, đoàn thể, theo đó mà hoạt động. - Hành Đạo: làm bổn phận của người tu đối với tôn giáo mình. Tôn chỉ hành Đạo: đường lối, cách thức tu hành của một tín đồ. - Cường quyền: bọn người dựa vào sức mạnh của quyền thế hiếp đáp dân đen, bóc lột kẻ yếu thế. - Trực tiếp - Trực: thẳng. Tiếp: gặp nhau, giáp mặt nhau. Hai bên giáp mặt nhau không có sự ngăn cách hay người môi giới ở giữa giúp. - Thiện nam tín nữ: xin xem Tín nữ thiện nam, tr. 15. - Tinh thần: phần thiêng liêng, sáng suốt, những hoạt động thuộc nội tâm, lý trí của con người, như ý nghĩ, tình cảm, ý chí ... Ý nghĩa đẹp của việc làm. - Đạo đức - Đạo: - a.- lẽ phải, con đường đúng đắn, phép tắc của người xưa đặt ra được xã hội thừa nhận làm mẫu mực trong quan hệ đối xử. - b.- nền tảng của tôn giáo dạy người đời sửa tâm tánh, làm lành xa dữ, ở ngay thật. - Đức: ưa thích làm điều lành; giàu lòng thương, tha thứ và giúp đỡ người; ăn ở phải đạo. Thương người, trọng tánh mạng sanh vật; làm hết những điều lành. - Chủ nghĩa: tư tưởng về xã hội, chánh trị, tôn giáo có nền tảng trên một lý thuyết vững chắc. - Bác Ái - Bác: rộng. Ái: thương yêu. Bác ái: lòng yêu thương rộng rãi, bao la đối với người đời cũng như với sanh vật. - Từ Bi: (giải ở THAY LỜI TỰA). - Cao thượng: xử sự cao quí khác hẳn người thường. - Giáo pháp: lời dạy của Phật, phép tắc, lề luật của đạo Phật. - Sơ lược: chỉ tóm tắc những nét lớn, nét chánh mà bỏ qua các điểm nhỏ. - Trí huệ - Trí tuệ: thấy xa, hiểu biết rộng; sự thông minh sáng suốt, tường thông đạo lý. - Suy gẩm: xét kỹ, ngẫm nghĩ gần xa rồi tìm hiểu. - Quy tắc: những điều lệ đặt ra cho mọi người tuân theo trong công việc chung của một tổ chức hay một đoàn thể. - Danh giá: danh tiếng, giá trị của con người. - Khai sáng: sáng lập, gầy dựng một sự nghiệp. - Quần sanh: chỉ chung con người và sanh vật. - Giải thoát - Giải: cởi mở, tháo ra, cứu ra. Thoát: vuột, khỏi, khỏi sự ràng buộc hay tai nạn. Có nghĩa cứu khỏi cảnh khổ của cuộc đời. - Nam-Mô: Namah (scr) tiếng Phạn, có nghĩa qui y, qui mạng, chí tâm hướng về Phật, quyết vâng lời Phật dạy, cung kính nương theo và gởi đời mình cho Phật, xả bỏ hết mọi lo rầu. - Bổn-sư: thầy chánh. Phật Giáo kính Đức Thích-Ca Mâu-Ni là vị giáo sư căn bổn, nên gọi bổn sư. - Mâu-Ni: Mouni (scr) tiếng nói tắt để gọi Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni (Sakya Mouni) Mâu-Ni có nhiều nghĩa: Năng (năng lực) Mãn (hoàn mỹ) Nhơn từ. -- ··· -- NHỮNG ĐIỀU SƠ-LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN Đây là quyển thứ sáu mà ĐỨC THẦY đã viết hồi tháng 5 dl 1945, tại SaiGon. -- ··· -- Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người: 1.- Hạng xuất gia. 2.- Hạng tại gia. HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn toàn ly khai với gia-đình, quê-hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am-cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau-luyện đức lành, dồi-mài trí-tuệ hầu giảng-giải cho bá-tánh, thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình nhà-cửa của nhà sư là cả thế-gian, thân-quyến nhà sư là khắp cả nhân-loại đại-đồng. Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật-quả, thoát kiếp luân-hồi. HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại-chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ-quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và luật Nhân-Quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện quy-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các nhà sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát. Đây là hạng người học Phật tu Nhân. Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại-gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy. Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy-y đầu Phật tu niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa. Đức Phật Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn. 1.- Ân Tổ-Tiên cha mẹ, 2.- Ân Đất-Nước, 3.- Ân Tam-Bảo, 4.- Ân Đồng-Bào và Nhơn-loại (với kẻ xuất gia thì ân đàn-na thí-chủ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ly khai: rời bỏ, tách ra, rẽ ra ... - Núi non: dãy núi cao thấp liền nhau. Non:chót núi. - Am cốc: chùa nhỏ. Cốc: chùa nhỏ trong hốc núi, phần nhiều dành cho ni cô. - Dà lam - Già lam: Samgha (scr) Gọi tắt từ Tăng Già Lam Ma. Tàu dịch Chủng viện. Cảnh vườn, rừng, nơi các vị sư ở tu học. Ngày nay gọi ngôi chùa. - Thập phương: mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc - Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc - Thượng phương, Hạ phương. Chỉ khắp nơi. - Hướng thiện: xin xem tr. 14.- Phật pháp: xem tr. 10. - Quy y: nương theo, làm y lời Phật dạy, hết lòng tin và quyết gởi đời cho Phật. - Thân quyến: bà con, họ hàng thân thiết. - Đại đồng - Đại: lớn, khắp nơi. Đồng: như nhau. Chỉ một thế giới mà tất cả con người đều bình đẳng, không phân biệt màu da, không phân biệt giai cấp. - Phật quả: tu thành Đạo, được chứng quả Phật. - Đại chúng: nhiều người, số lớn dân chúng. - Hoan nghinh: vui vẻ đón chào, vui vẻ tiếp nhận. - Ca tụng: được khen ngợi, được mến mộ. - Lý tưởng: ý nghĩ, mục đích tốt đẹp cần đạt tới. - Luân hồi: xin xem trang 10. - Từ bi: xin xem tr. 11. - Bác ái: xin xem trang 20. - Ủng hộ: xin xem trang 17. - Nhân quả - Nhân: nhân duyên, lý do, nguyên do. Quả: chỗ kết cuộc do việc lành hay việc ác đã làm. Nhà Phật gọi là nghiệp. Nghiệp có hai bề: khởi sự gọi nghiệp nhân, hay nhân duyên; kết cuộc gọi nghiệp quả hay quả báo. Con người dùng thân, miệng, ý của mình làm, nói, nghĩ việc lành thì sau hưởng quả lành là phước, là sự an vui; còn dùng thân, miệng, ý làm, nói, nghĩ việc dữ thì sau bị quả dữ là nạn khổ. Quả liền với nhân không hề sai chạy. Nhân là cớ sanh ra quả, Quả là do nhơn sanh ra. Nhơn ắt sanh quả, quả ắt do nhơn. Nhơn lành thì quả lành, nhơn ác thì quả ác. Như người ta gieo hột giống ngọt thì sanh ra trái ngọt, gieo hột giống đắng thì sanh ra trái đắng. Trồng lúa ăn lúa, trồng đậu ăn đậu. Nhơn quả là luật định tự nhiên, quả theo nhơn như bóng theo hình, không ai chạy thoát được. - Phát nguyện: lời cầu nguyện do lòng mình phát ra, không bị ai bắt buộc. - Giới luật: điều cấm của Đạo, người tu phải tuân. - Tại gia cư sĩ: người vừa làm ăn vừa tu học ở nhà. - Hiếu nghĩa - Hiếu và Tiết nghĩa. Hiếu: hết lòng chăm sóc, dưỡng nuôi, không để Ông Bà Cha Mẹ buồn. Tiết nghĩa: tiết trinh, tiết tháo và trung nghĩa. - Tiết trinh - Tiết: mắt tre, có chừng đổi như những mắt tre, ngay thẳng trong sạch. Chỉ giá trị, danh dự con người. Trinh: trong sạch. Tiết trinh: chỉ chung sự trong sạch, giá trị đạo đức của phụ nữ. - Tiết tháo: tánh cứng cõi, không dời đổi. - Trung nghĩa: trung cang và nghĩa khí. - Trung cang: hết lòng với cấp chỉ huy, với tổ quốc, ngay thẳng và cứng cỏi. - Nghĩa khí: chí khí của người hay làm việc nghĩa. - Chí khí: có chí lớn, dám làm. Mạnh về tinh thần gọi là chí khí, mạnh về thể chất gọi là huyết khí. - Tu niệm - Tu: sửa tánh, răn lòng, khép mình theo luật đạo. Có nghĩa cải sửa thân tâm. Niệm: tưởng nghĩ công đức của Ông Bà, Cha Mẹ; của Phật, miệng niệm lòng thành kính đọc thầm danh hiệu đức Phật, học và cố gắng làm theo 4 đức lớn của Phật: Từ-Bi-Hỷ-Xả. Từ-Bi: xin xem trang 10. - Hỷ: mang niềm vui đến cho người và vui cái vui của người, thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã. - Xả: Phật chẳng chấp một pháp nào, sẵn sàng tha thứ những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng bận lợi danh, tài sắc, không luyến ái cõi đời, buông thả ra – bỏ đi. Dứt bỏ mọi vật của mình cho chúng sanh, không phân biệt kẻ oán người thân, người thương kẻ ghét, để lòng an tịnh, thanh thản. Cũng gọi Tứ vô lượng tâm, ấy là bốn mối lòng vô lượng, bốn đức vô lượng mà Phật và Bồ tát thi hành để làm lợi ích, an lạc, độ khổ não hoạn nạn cho vô lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới. Gọi riêng từng danh từ: Từ, Bi, Hỷ, Xả.(Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả) - Khuyến khích: giục lòng cho người vui mà cố gắng hơn. - Môn nhơn - Đệ tử: học trò. - Gắng gổ: cố gắng. - Tam bảo: ba ngôi báu: Phật - Pháp - Tăng. Phật: Bouddha, (scr) là bực sáng suốt. Pháp: đạo lý, lời dạy của Phật. Tăng: nam tu sĩ rời gia đình, vào chùa học đạo rồi mang lời Phật dạy rao truyền cho nhiều người hiểu biết. Lục tổ dạy: "Phật ở lòng mình, tìm kiếm ở núi non vô ích, nên trau sửa, giữ Tâm luôn ngay thẳng, trong sạch không chấp mắc, khi biết rõ Tâm mình, thấy được Tánh mình là thành Đạo". -- ··· -- ÂN TỔ-TIÊN CHA MẸ.- Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ-tiên nữa. Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh-tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải, ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh-hoạn ốm-đau; gây sự hòa-hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình cho cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm-luân. Còn đền ơn tổ-tiên, ta đừng làm điều gì tồi-tệ điếm nhục tông-môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau-thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ-đường. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hoạt động: vận động, không chịu ngồi yên. - Trưởng thành: khôn lớn, đến tuổi hiểu biết. - Bổn phận: phần mình, phần việc mình phải làm. - Sanh tiền: người đang sống. - Chăm chỉ: chú ý làm việc nào đó, không lo ra. - Nhơn đạo: đạo làm người; lý lẽ đứng đắn, chánh đáng để người đời noi theo. - Khuyên lơn: phân trần, giải thích thiệt hơn cho người nghe làm theo lẽ phải. - Hòa hảo: hoà thuận tốt đẹp. - Đệ huynh – Huynh đệ: anh em. - Hạnh phúc: may mắn, phước lành đến với mình. - Thỏa mãn: hoàn toàn bằng lòng, đúng ý muốn. - Phước thọ - Phước: được may, vui, tốt, nghịch nghĩa với họa. Làm việc tốt; được hưởng cuộc sống an vui, nhiều may mắn là Phước. Thọ: sống lâu. - Quá vãng: đã chết. - Siêu thăng miền Phật cảnh: hồn về cảnh Phật. - Thoát đọa trầm luân: thoát khỏi biển khổ, thoát khỏi luân hồi. - Tồi tệ: quá xấu. - Hy sinh: xin xem trang 17. - Điếm nhục tông môn: nhục nhã dòng họ. - Đạo nghĩa: điều hợp với lẽ phải và đạo lý. -- ··· -- ÂN ĐẤT NƯỚC.- Sanh ra, ta phải nhờ Tổ-tiên, cha-mẹ, sống ta cũng nhờ đất-nước, quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ-dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm-lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống-trị. Bờ-cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giàu mình ta mới ấm. Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy-inh cho xứ-sở. Thảng như không đủ tài-lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến đổi làm cho nước nhà đau-khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất-nước. Đó là ta đền ơn đất-nước vậy. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Truyền thụ: truyền lại, dạy lại sự hiểu biết, kinh nghiệm cho người khác. - Nghiêng nghèo: ở tình thế nguy hiểm ngặt nghèo. - Cường thạnh: mạnh mẽ và phát đạt giàu có. - Thống trị: xin xem tr. 16. - Thời cơ: xin xem trang 8. - Nỗ lực: ráng hết sức. Hết sức cố gắng. - Đảm đương - Đảm: gánh vác. Đương: gánh lấy một việc gì. Nhận gánh vác một việc gì. -- ··· -- ÂN TAM BẢO.- Tam Bảo là gì ? - Tức Phật, Pháp, Tăng. Con người nhờ tổ-tiên, cha mẹ sanh ra, nuôi dưỡng, nhờ đất-nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương-diện vật chất. Về phương-diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp-đỡ của Phật, Pháp, Tăng, khai mở trí óc cho sáng-suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu-vớt sanh-linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo-pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần-thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ-tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ-dẫn và cứu-vớt quần-sanh thoát miền mê-khổ, nên ta hãy kính-trọng Phật, hãy tin-tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-Tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng-sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi-đắp cho nền Đạo được phát-triển thêm ra, xây-dựng một toà lầu đài Đạo-hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu-thế. Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí-tuệ minh-mẩn đặng đi đến con đường giải-thoát, dẫn-dắt giùm kẻ sa-cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai-thông nền Đạo-đức để cái tinh-thần từ-bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế mới chẳng phụ công-trình vĩ-đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phương diện: một mặt nào đó của sự việc. Còn có nghĩa trách nhiệm của tướng soái một vùng nào đó. Ví dụ: về phương diện đạo đức thì ông ấy rất kém. - Vật chất: của cải. Các thứ sờ mó được. - Tinh thần: xin xem tr. 19. - Quần sanh: xem tr. 20. - Toàn thiện toàn mỹ: trọn lành và hoàn toàn tốt. - Sanh linh: chỉ chung con người đang sống. - Trầm luân khổ hải: luôn đắm chìm trong biển khổ. - Truyền giáo pháp: chỉ bảo lại cho người đời lời dạy của Phật, và phép tắc, lề luật của đạo Phật. - Chư tăng: những vị nam tu sĩ rời gia đình vào chùa tu học Phật pháp. - Ban bố - Ban: làm cho người người được biết. Bố: truyền ra rộng rãi. Bày tỏ cho khắp nơi được biết. - Trần thế: cõi đời con người đang sống. - Mê khổ: vì mê muội tối tăm mới khổ sở. - Tín nhiệm: tin cậy mà giao phó việc quan trọng. - Sự nghiệp: làm nên việc to lớn có ích lợi cho người đời. Nghĩa hẹp: tài sản tạo được trong đời người. - Nhiệm mầu: xin xem tr. 14. - Chúng sanh: xem tr. 11. - Quảng ái: tình thương bao la, rộng rãi. - Sùng bái: hết sức kính trọng, tôn thờ. - Khuôn khổ: kích thước, mực thước ấn định. - Vun trồng: trồng trọt và chăm sóc, nói chung. Gây dựng, bồi đắp. - Bồi đắp: bồi thêm cho dày hơn, cao hơn. - Phát triển: mở rộng thêm, lớn mạnh thêm. - Vô thượng: cao nhứt, không còn gì cao hơn. - Vô song: không có tới hai, hơn hết, không ai bì kịp. - Roi truyền: để lại đời sau và tiếp nối dài dài. - Hậu thế: đời sau. - Chí đức: đạo đức rất cao. - Tiền nhân: người đời trước. - Trí tuệ minh mẫn: trí óc sáng suốt. - Sa cơ: rơi vào tình thế nguy hiểm. - Khai thông: mở mang để được thông suốt. - Công trình vĩ đại: việc lớn tốn nhiều công sức. -- ··· -- ÂN ĐỒNG-BÀO VÀ NHÂN-LOẠI.- Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh, và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy. Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn- nạn: họ cùng chịu với ta. Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc-Gia đó. Họ là ai ? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy. Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp-đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một. Chẳng những thế thôi, ngoài đồng-bào, ta còn có thế-giới người đang cặm-cụi cần-lao cung-cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào ? Ta có đủ vật-liệu để dùng chăng ? Ta có thể tự-túc một cách đầy đủ chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy-biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng ? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình. Vả lại cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận-thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xoá bỏ hết các từng lớp đẳng-cấp xã-hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân-Loại Chúng Sanh. Thế, ta không có lý do gì chánh-đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình, gây ra tai hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hoà, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn-nạn. Đối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo-tâm cung-cấp những vật dụng cần-thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại, họ phải nhờ sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng. Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu dắt sinh-linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của Thiện tín. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đồng bào: cùng một bọc sanh ra – anh em ruột - người cùng nói một thứ tiếng và ở chung một nước. - Nhân loại: loài người. Chỉ chung con người sống trên mặt đất. - Niên kỷ: dùng nói về tuổi tác. - Nhờ nhõi: nhờ, nói chung; nhờ nhau, giúp nhau. - Phong vũ: gió và mưa. Chỉ việc rủi ro xảy ra. - Hoạn nạn: những điều khốn khổ nguy nan. - Roi truyền: để lại đời sau và tiếp nối dài dài. - Chủng tộc: người cùng nguồn gốc, cùng màu da. - Lịch sử: sự việc quan trọng xảy ra của một nước, đời người, đời vua ... được ghi chép lại. - Vẻ vang: rỡ ràng, được đời khen và kính phục. - Oanh liệt: lừng lẫy, mạnh mẽ, rực rỡ. Khí thế mạnh mẽ khiến người đời kiêng nể. - Tương trợ: giúp đỡ lẫn nhau. - Nguy biến: tình thế ngặt nghèo bất ngờ xảy đến có thể gây ra tai họa lớn. - Phận sự: phần việc mỗi người phải làm và phải chịu trách nhiệm. - Đào tạo: dạy dỗ, rèn luyện để nên người tài, đức. - Tương lai: sẽ đến. Thời gian tới, việc sau này. - Rực rỡ: chói sáng ra, bừng sáng lên; lộng lẫy. - Tiền đồ: con đường phía trước, chỉ tương lai. - Giang san (sơn): sông và núi. Chỉ chung sông, núi, đất đai của một nước. Tượng trưng cho quốc gia. - Liên quan mật thiết: dính líu chặt chẽ với nhau. - Thọ: sống lâu. - Muôn một: một phần muôn, trong muôn phần có một phần. Họa chăng, họa hoằn (rất hiếm). Ví dụ: hy vọng trong muôn một. - Cặm cụi hay Cắm cúi: chăm chú làm việc không nghỉ tay, không để ý tới chung quanh. - Cần lao: chuyên cần lao lực; làm việc bằng tay chân. Ý ở đây: siêng làm việc. - Nhu cầu cần thiết: sự vật rất cần dùng. - Địa cầu: trái đất. - Vật liệu: vật dùng để chế tạo món đồ khác, như vật liệu xây dựng ... - Tự túc: chính mình làm để có ăn, có mặc, có các thứ cần dùng, không phải nhờ cậy vào ai hết. - Đương đầu: đối đầu, đối phó, chống lại. Tự đứng ra gánh vác công việc trước cảnh khó khăn. - Phong vũ nhiệt hàn: gió mưa ấm lạnh. Nghĩa ở đây chỉ những khó khăn trong cuộc sống. - Nguy biến: tình thế ngặt nghèo bất ngờ xảy đến có thể gây ra tai họa lớn. - Đồng chủng - Chủng tộc: xin xem trang 34. - Nhận thức: nhận xét, hiểu biết. Hiểu biết sâu xa. - Thâm huyền quảng huợt: chỉ sự hiểu biết sâu rộng bao la của Đức Phật. - Đẳng cấp: thứ, bực, từng hạng cao, thấp. - Chánh đáng: đúng, phải lẽ. - Tư tưởng nhân hòa: ý nghĩ thương người và sống hòa hợp với người đời. - Tinh thần hỷ xả: ý nghĩ sống yên vui và tha thứ. - Hoạn nạn: xin xem tr. 33. - Trực tiếp: xin xem tr. 19. - Ân huệ: chỉ sự chăm sóc, giúp đỡ từ lòng thương của các nhà từ thiện. Được người ban ơn. - Đàn na: Dâna (scr) tiếng Phạn, là bố thí, cúng dường. Tức đem vật dụng, thức ăn cho các nhà tu. - Thí chủ: Dânapati (scr): người tu tại gia có lòng thương người, tự nguyện bố thí các vị tu hành, giúp đỡ nhà chùa. - Thiện nam tín nữ: xem tr. 15.- Sinh linh: xem tr. 30. - Hảo tâm: người có lòng tốt, hay giúp đỡ người. - Chân lý: lẽ thiệt, lẽ đúng đắn, lý chánh đáng của sự việc. - Thiện tín: người hiền, người tin Đạo, tin Phật. -- oOo -- LUẬN VỀ TAM NGHIỆP.- Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay không, cũng phải chịu sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một chữ Đạo. Đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân”, và nó là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật tất chết. Muốn làm tròn Nhân-Đạo, phải giữ vẹn tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam-Nghiệp và chừa Thập-Ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng thiếu nợ. Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây: - Thân-nghiệp: tội lỗi do xác-thân gây nên. - Khẩu-nghiệp: tội lỗi do miệng-lưỡi gây nên. - Ý-nghiệp: tội lỗi do ý-tưởng gây nên. Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây: - Thân-nghiệp sanh 3 điều ác: 1.- Sát-sanh, 2.- Đạo-tặc, 3.- Tà-dâm. - Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác: 1.- Lưỡng-thiệt, 2.- Ỷ-ngôn, 3.- Ác-khẩu, 4.- Vọng-ngữ. - Ý-nghiệp sanh 3 điều ác: 1.- Tham-lam, 2.- Sân-nộ, 3.- Mê-si. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tam nghiệp: ba thứ nghiệp báo (xin xem trang 36). - Nghiệp báo: nghiệp quả hay quả báo. Cái nghiệp trong thời kỳ báo đáp, trả lại bằng sự vui vẻ hay đau khổ tùy theo đời trước mình đã làm lành hay làm ác. - Chi phối: chịu sự phân phối, chịu sự xếp đặt. - Định luật - Định: quyết chắc chắn. Luật: phép tắc. Một phép tắc chắc chắn không thay đổi. - Thiên nhiên: tự nhiên, không do người làm ra. - Tứ Ân: bốn ơn. Lời dạy về ý nghĩa của 4 ơn lớn: 1.- Ơn Tổ Tiên Cha Mẹ. 2.- Ơn Đất Nước. 3.- Ơn Tam Bảo (Phật - Pháp - Tăng). 4.- Ơn Đồng Bào và Nhơn Loại. (với kẻ xuất-gia thì ơn đàn-na thí chủ). - Thập ác: mười điều ác. - Nghiệp chướng: sự ngăn trở của nghiệp, tức chướng ngại từ nghiệp do mình đã tạo ra. -- oOo -- SÁT-SANH.- Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung-chạ với thế-giới người hung-tàn bạo-ngược, tánh-nết liền ô-nhiễm những sự xấu-xa hèn kém, trở nên độc-ác dữ-dằn. Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi-danh, vì quyền-thế, vì thù-hềm, vì háo-thắng … nghĩa là họ giết nhau vì sự ích-lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân-loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả. Tại trào-nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên-nhân cho biết bao cuộc tương-tàn tương-sát. Ngoài lê-thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu-xé. Những cuộc tương-tàn rất thường xảy ra trong nhân-loại không ngoài các lý-do đã kể trên. Đó là người đối với người. Người đối với thú cầm, sanh vật còn tàn-nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị-đoan mê-tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo ...) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu-cầu cần-thiết của các món thực-phẩm mình thôi và không nên hoang-phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế-lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời Đất có thể sát sanh hại vật cúng tế cầu cho tội-quả tiêu-trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm, huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu-hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc-thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên-nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai-biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn-năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế-lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền các tội ác trước được. Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú-vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao-hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh-hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân-loại vậy. Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung-dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia-súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo … chẳng khá sát-hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh-hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát-sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cử hẳn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chung chạ: sống xô bồ (lẫn lộn, không phân biệt) với nhau đến độ không còn phân biệt của ai. - Hung tàn bạo ngược: hung dữ và tàn ác, không cần biết lẽ phải trái; ham chém giết, đối xử ác độc với người cũng như với sanh vật. - Ô nhiễm: dính dơ, nhuộm dơ. - Độc ác: ác, độc, tánh không biết thương người, hay ngầm hại người và sanh vật. - Dữ dằn: hung bạo rất khiến người ta sợ. - Lợi danh: xin xem tr. 13.- Đẳng cấp: xin xem tr. 35. - Quyền thế: quyền hành và thế lực. - Quyền hành: có quyền định đoạt, sai sử mọi việc. - Thế lực: sức mạnh của kẻ có quyền (người sai khiến được kẻ khác). - Thù hềm (hiềm) - Thù: căm ghét. Hiềm: không thích, nghi ngờ. Thù ghét nghi ngờ. - Háo thắng: thích tranh đua, muốn tỏ ra hơn người, không khiêm nhượng. - Nhân loại: chỉ chung con người trên mặt đất. - Nguyên nhân: nguồn gốc, cớ chánh của sự việc. - Tương tàn tương sát: giết hại lẫn nhau. - Lê thứ: xin xem tr. 16. - Hy sinh: xin xem tr. 17. - Xâu xé: anh em ruột tranh giành danh lợi không nhường nhịn, giết, hại nhau. - Thú cầm: chỉ chung thú và chim. - Tàn nhẫn: làm điều ác không ngần ngại, xót thương. - Thực phẩm: thức ăn, vật làm món ăn. - Mê tín: tin tưởng mù quáng, không thực tế; thiếu suy xét. - Dị đoan: chuyện khó tin, không hợp lý, không thực tế. - Quá đáng: nặng nề quá mức, hơn mức thường khó có thể chấp nhận được. - Nhu cầu cần thiết: xin xem trang 34. - Hoang phí: xài quá lớn cho việc không đáng xài - Tế lễ: chỉ chung việc cúng tế. - Tội quả: tội lỗi và quả báo. - Tiêu trừ: triệt bỏ, làm cho mất hết. - Huyễn hoặc: chuyện không có thật, khó tin. - Siêu hình: thuộc về hư vô, không hình tượng; vượt ra ngoài thế giới vật chất. - Cốt - đồng: do niềm tin dị đoan, tin những người cho là được các vị khuất mặt, hay hồn người chết, nhập vào chữa bịnh hay nói lên điều bí mật nào đó. - Họa hoạn: tai họa nói chung, chỉ việc không may, xấu, xảy ra có nguy hại tới tài sản hay sanh mạng. - Tai biến: việc không may gây thiệt hại lớn.Việc xảy ra thình lình không biết trước. - Căn tiền báo quả hậu: làm việc ác kiếp trước gây quả báo cho kiếp sau. - Tạo tác phước điền: tạo ruộng phước. Bố thí, cúng dường cho các vị tu hành, tức là tạo phước điền (ruộng phước).Ví như nhà nông gieo giống trên ruộng đất tốt thì sẽ thâu được nhiều lúa. - Bố thí: giúp của tiền cho người nghèo đói, hay bị tai nạn do lòng tốt không nghĩ đến sự hồi báo, không nuôi hy vọng được trả ơn, hay sẽ được phước đức. - Cao hứng: hứng thú ở mức độ cao. Lúc tinh thần rất sảng khoái có thể nghĩ ra nhiều điều hay. - Sảng khoái: rất khoan khoái, thích thú. Rất sáng suốt. - Dung dưỡng: tha thứ và nuôi dưỡng. Nghĩa ở đây là nuôi dưỡng mà không giết hại chúng. - Gia súc: thú vật nuôi trong nhà, như heo, gà, chó, mèo, trâu, bò, ngựa ... - Sanh hoạt: làm ăn nuôi sống - Cữ hẵn: việc không được làm, dứt tuyệt, không châm chế. -- oOo -- ĐẠO-TẶC.- Câu: “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chửa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ này ngày vẩn-vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn-bã của xã-hội này, sống ngoài vòng pháp-luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an-ninh của dân-chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài- sản lương-dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội-nhân gây ra những tai-biến trong những gia-đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá-hoại hạnh-phúc của con người. Cơ-hàn đói khổ, thay vì phải làm-lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới Trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu ăn-năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô-nghì, lánh điều phi-nghĩa. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đạo tặc: trộm cướp. - Bần cùng sanh đạo tặc: nghèo sanh trộm cướp. - Bất lương: không ngay thẳng, gian, xấu. - Vô Đạo: không biết đạo đức. - Vẩn vơ: đi lui tới như suy nghĩ việc gì; đi tới lui mà không có ý định rõ ràng. - Vẩn vơ đầu đường xó chợ: chỉ những kẻ không nhà cửa, không nghề nghiệp, không việc làm, đi lang thang đầu đường góc chợ kiếm sống. - Khoét vách đào tường: lén lút vô nhà người. - Cặn bã: chỉ thứ thừa thãi vô dụng đáng bỏ đi; chỉ hạng người thấp hèn nhứt. - Trốn nhủi trốn chui: chui trốn hết nơi này đến chỗ kia, không dám ra mặt. - Lương dân: dân thường hiền lành, ngay thẳng. - Sâu làm rầu nồi canh: một kẻ hư xấu, làm xấu lây, mất uy tín một tập thể, ví như phát hiện con sâu trong nồi canh, làm mất ngon cả nồi canh. Như Ca dao: “Một người làm đĩ xấu danh cả làng”. - Cần lao kiệm tiết: siêng năng làm ăn, xài tiền đúng chỗ, không xài việc vô ích. - Nguyên nhân: xin xem trang 40. - Cơ hàn: đói và lạnh. - Bất lành: việc không hiền, không tốt, điều dữ, xấu. - Nhân chủng: tất cả con người, không phân biệt màu da. - Hành vi: việc làm của một người nào. - Vô nghì: việc sai trái với đạo lý làm người. -- oOo -- TÀ-DÂM.- “Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế. Lần dở (giở) xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan-diễn khắp nơi, từ trào-nội cho đến thứ-dân, từ trong gia-đình đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-Lộc-Sơn với Dương-Quý-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế ? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng-bức đám dân hèn. Gian-phu, dâm-phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có. Muốn tránh sự bại-hoại nền luân-lý nước nhà, muốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục-tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau-giồi lòng hiếu- trung, trinh-tiết. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tà dâm: ham muốn về xác thịt bất chánh. Giao tiếp xác thịt với người không phải vợ, chồng mình, mà với vợ, hay chồng người khác. - Hiếu thuận: kính yêu cha mẹ, thuận hòa anh em. - Lan diễn: việc xảy ra nhiều nơi như nước chảy lan rộng thêm ra. - Trào nội: chuyện xảy ra bên trong triều đình. - Thứ dân: chỉ dân không chức quyền trong nước. - Thảm trạng: tình hình thê thảm, vô cùng đau khổ. - Vua Tề với vợ Thôi-Tử: thời Đông Châu liệt quốc (Tàu) Thôi Tử, một đại công thần nước Tề, vợ Thôi Tử rất đẹp, vua Tề cùng nàng dan díu. Thôi Tử hay được buộc vợ gạt Tề Trang Công tới nhà rồi giết. - An-Lộc-Sơn – Dương-Quí-Phi: An Lộc Sơn, viên quan đời vua Đường Huyền Tông (Tàu), làm con nuôi Dương Quí Phi, vợ vua Đường. An Lộc Sơn cùng Quý phi dan díu rồi cất quân làm phản đánh Trường An, mong chiếm đoạt Dương Quí Phi. Sau An Lộc Sơn bị Quách tử Nghi đánh bại và bị chính con mình là Khánh Tự giết. Đây là chuyện tình tội lỗi, gọi là tà dâm. - Lưu liên: còn hoài, không dứt. - Hiếp dâm - Cưỡng bức: dùng sức mạnh chiếm đoạt thân xác, trinh tiết của người phụ nữ. - Gian phu: đàn ông gian dâm với vợ người. - Dâm phụ: người đàn bà có chồng còn lấy trai. - Bại hoại: hư hỏng, tồi tàn, mất hết đạo đức. - Luân lý: lẽ phải, đạo lý ở đời dạy con người sống theo luật lệ tốt của xã hội, của gia đình; làm phải, tránh quấy; đối xử phải đạo giữa người với người. Chữ luân có nghĩa: lẽ phải, đạo lý, lẽ chánh đáng. - Gia thế: danh tiếng của dòng họ, của gia đình. - Dục tình: sự ham muốn về thể xác. - Trau giồi: sửa sang, tô điểm làm cho ngày càng tốt đẹp hơn. - Hiếu: chăm sóc, dưỡng nuôi, không làm điều xấu để ông bà, cha mẹ buồn lòng. - Trung: hết sức thành thật; một lòng với người chỉ huy tài đức không kể nguy hiểm đến thân mình. - Trinh tiết - Tiết trinh: xem tr. 24.- Hậu thế: tr. 31. -- oOo -- LƯỠNG-THIỆT.- Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt này đã làm duyên-cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi-vã, gây-gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân yêu giữa nhân-loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất hoà, hiềm-khích. Để giải-trừ những tai-vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành-thật, chánh-đáng, được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác-cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lưỡng thiệt: nói thêm bớt, chuyện có nói không, chuyện không nói có gây cho người hiểu lầm và thù hận nhau. - Duyên cớ: lý do, căn nguyên, nguồn gốc sự việc. - Cãi vã: cãi chơi, cãi cho có chuyện để cãi, cãi một chuyện không đâu, không ăn nhằm gì. - Phân tranh: tranh giành giữa các phe phái. - Đoàn kết: đồng lòng với nhau kết hợp lại thành khối, thành nhóm. - Nhân loại: xin xem tr. 33. - Hiềm khích: xem tr. 17. - Nguồn cội: nơi bắt đầu phát sanh sự việc. - Bất hòa: xích mích, không hoà thuận nhau. - Giải trừ: bãi bỏ, hủy bỏ, ngưng hẳn. - Tai vạ: gánh chịu oan uổng việc không may. - Hương đảng: xóm làng. - Chánh đáng: xin xem trang 35. - Xích mích: gây gổ, không đồng ý nhau. - Ác cảm: cảm tình xấu với người không ưa thích. - Miệt khinh: khinh thường, coi rẻ, khinh khi. -- oOo -- Ỷ-NGÔN.- Nói đến tội này tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi (chửi) dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài-xỉ (xể) người nghèo, kẻ xảo-quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học-thức ỷ sự khôn-ngoan dùng lời nói hạ-nhục người dốt nát. Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy-dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang-nghiêm êm-dịu chỉ bảo, không khá bao-biếm mà mang điều tội-lỗi. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ỷ ngôn: người trên dùng lời nặng mắng kẻ dưới. - Xài xể: mắng nhiếc, nói nặng lời, làm nhục. - Xảo quyệt: gian dối một cách khéo. - Thất thiệt: không đúng sự thật. - Hạ nhục: làm cho nhục, bị xúc phạm nặng nề. - Bạc phước vô phần: phước mỏng, ít phước đức, thiếu may mắn nên phải chịu nhiều khổ sở. - Lụy mình: có hại tới mình. Chịu hạ mình, chịu cho người sai khiến. - Cam ngôn mỹ từ: lời nói dịu dàng, ngọt ngào. - Trang nghiêm: nghiêm chỉnh. - Bao biếm: nhạo báng. Lời khen chê. -- oOo -- ÁC-KHẨU.- Những tiếng thề-thốt, lỗ mãng, chưởi (chửi) mắng tục-tằn làm ra tội nầy; con chưởi (chửi) mẹ mắng cha, không kể luân-thường thảo-hiếu, mạnh-bạo hăm-he đánh giết những kẻ yếu-hèn, hiếp-đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chửi gió mắng mây, trù rủa gia-đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội-lỗi càng thêm chồng-chập. Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô-lỗ, làm cho đời sống được êm-dịu thanh-bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ-độ, với gia-đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan-trang nghiêm-chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác-đức, phải dùng lời nói dịu-dàng hiền-hậu dạy-dỗ chúng. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thề thốt: đem tánh mạng cam kết với đấng thiêng liêng về lời hứa của mình. - Lỗ mãng: thô lỗ, mất lịch sự; thiếu lễ độ. - Tục tằn: không lịch sự; lời tục tỉu, dâm ô. - Hăm he: dọa cho người ta sợ phải nghe theo; dọa sẽ đánh ai đó, dọa làm hại người nào đó. - Trù rủa: vái, trù ếm; mời Thần Thánh hại người mình thù phải đau nặng, bị tai nạn hay mau chết. - Long cung: cung điện của các vị vua biển. Theo người xưa, vua biển là rồng. - Chồng chập: chồng chất nhiều thêm lên. - Thô lỗ: không lịch sự, vụng về. - Thanh bai: lịch sự, dịu dàng. - Lễ độ: giữ phép lịch sự; phép tắc, cách đối xử đúng phép tắc, lời lẽ dịu dàng. - Đoan trang: nghiêm chỉnh, đứng đắn. - Nghiêm chỉnh: việc làm, đi đứng, nói chuyện đều giữ phép tắc, đúng lệ luật. - Ác đức: cách ăn ở, đối xử xấu, ác, không thương người, không đạo đức. - Dạy dỗ: chỉ bảo với lời dịu ngọt, êm ái. --- oOo --- VỌNG-NGỮ.- Thêm thừa huyễn-hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên-nhân cho những sự bất-công của nhân-loại. Thương người nào kiếm cách bào-chửa, giấu-giếm sự quấy và thêu-thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che-đậy cái điều phải của họ. Khoe-khoang tự-đắc, xảo-trá đa-ngôn, những kẻ điêu-ngoa làm cho thiên-hạ khinh-khi miệt-thị. Muốn tránh những điều khiến cho tư-cách nhân-quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân-chánh, bỏ lối láo-xược trớ-trêu. Chẳng nên tráo-chác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Huyễn hoặc: xin xem trang 41. - Vọng ngữ: nói dối, lời nói nhiều nghĩa. - Bào chữa: tìm đủ lý lẽ binh vực kẻ mình thương để được cho là hay, đúng hầu mong khỏi bị tội. - Thêu thùa - Thêu: dùng kim và chỉ màu tạo nên những hình, chữ lên mặt vải. Thùa: thắt, kết tơ lụa để chưng bày cho đẹp mắt. Nghĩa bóng: bày chuyện thêm bớt, đặt điều. - Khoe khoang: kể cái hay, giỏi, bày sự giàu sang quyền thế để người nghe thấy. - Tự đắc: tự cho mình hay giỏi rồi khi người, xem dưới mắt không ai bằng mình. - Xảo trá: giả dối một cách khéo léo. - Đa ngôn: lắm lời, nhiều chuyện, hỗn hào, một trong bảy tội (thất xuất) của người vợ mà người chồng có thể viện cớ để xin ly dị. - Điêu ngoa: đặt điều, có nói không, không nói có. - Miệt thị: khi dể; xài xể, nói nặng lời. - Tư cách: cử chỉ, dáng điệu, cách ăn ở đời. - Nhân quần: người đời, thiên hạ trong đời. - Giảm hạ: bớt xuống, thấp xuống, xuống thấp. - Chân chánh: ngay thẳng, thật tình, không dối gạt. - Trớ trêu: như chọc ghẹo, làm phiền người. - Tráo chác (trác): bịa đặt, lừa dối. - Xảo ngôn: nói dối một cách khéo. - Chơn chất: hiền lành, thật thà, ngay thẳng. -- oOo -- THAM-LAM.- Tánh tham-lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến-tranh, cướp bóc, giết người ... tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế ... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến-đấu ác-liệt, gây nên những thảm-họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối-lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu-linh trong vòng tai-nạn khốc-hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự-sát chỉ vì sự ham muốn không được thực-hiện; người ta quyên-sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận ... Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những cuộc nồi da xáo thịt, những tương-sát tương-tàn, những điều hung-hăng bạo-ác cũng do sự tham-lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không thì ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm-đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên-hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng – Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích-đáng lắm ru ? Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-kỷ tham-lam, lo vun-trồng phước-đức, bố-thí kẻ nghèo hèn, rán công-phu sám-hối để có thể yên vui nơi miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thảm khổ: đau đớn khổ sở vô cùng. - Tham tài: ham tiền của. - Ác liệt: dữ dội, kịch liệt. - Thảm họa tày trời: điều đau khổ vô cùng ghê gớm, nỗi thiệt hại hết sức to lớn. - Sát nhơn: giết hại mạng người. - Nhân sanh: đời sống của con người. - Điêu linh - Điêu: tàn héo. Linh: tàn tạ. Nghĩa bóng: khổ cực, long đong, vất vả. - Khốc hại - Khốc: bạo ngược. Hại: làm điều hại. Làm điều bạo ngược. - Khóc đứng than ngồi: rầu buồn khóc than không dứt. Hết khóc tới than. - Tự sát: tự mình giết mình, tự giết mình có chủ ý. - Quyên sinh: tự tử, tự giết mình có chủ ý. - Cấu xé: dùng móng tay mà bấu xé. Nghĩa ở đây là cướp giựt, tranh giành, đến đánh giết nhau. - Nồi da xáo thịt: ngày xưa, ngoài trận địa người ta dùng da ngựa làm nồi nấu thịt ngựa. Thợ săn giết được thú, lấy da thú làm nồi nấu thịt thú. Nghĩa bóng chỉ cảnh anh em ruột thịt hoặc người cùng một nước vì tranh giành quyền lợi, giết hại lẫn nhau. - Tương sát tương tàn: xin xem trang 40. - Hung hăng: nóng nảy, dữ tợn. - Bạo ác: hung dữ và độc hiểm. - Thăng trầm chìm nổi: lúc thạnh lúc suy. Cảnh lên voi xuống chó, mới giàu đó liền tiêu tan sự nghiệp, mới có quyền thế đó, liền bị mất hết chức quyền. - Bày mưu tính kế: tính toán kế hoạch, sắp đặt mưu mẹo kỹ lưỡng. - Chiếm đoạt: dùng thế lực, tiền bạc, sức mạnh cướp giựt của người. - Thiên hạ: dưới bầu trời; loài người, tất cả con người trên đời. - Thạch Sùng - Vương Khải: Thạch Sùng tự Quý Luân, đời Tấn (Tàu) nhà thật giàu, thường lấy sáp làm củi, lấy mỡ chùi nồi để khoe sự giàu. Một hôm, cùng với một nhà giàu khác, tên Vương Khải thách nhau, coi ai giàu hơn ai, hễ bên này đưa ra món gì thì bên kia phải có món ấy, từ ngọc ngà, vàng, không ai kém ai. Cuối cùng, Vương Khải đưa ra cái mẻ ơ (loại nồi đất bể) của nhà nghèo dùng kho cá, Thạch Sùng không có, đành chịu thua, dâng hết tài sản cho Vương Khải. Quá tiếc của, Thạch Sùng buồn rầu đến chết, hồn hóa ra con thằn lằn, cứ chắt lưỡi luôn. - Bài học đích đáng lắm ru: bài học hoàn toàn xứng đáng với những gì đã làm ra - không phải sao ? - Ru: sao, chăng, hay sao, dùng đặt sau câu nói nghi ngờ. Ví dụ: công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru ? - Vị kỷ: xin xem tr.10. - Bố thí: xin xem tr. 42. - Vun trồng phước đức: có nghĩa ráng làm nhiều điều tốt lành, làm việc thiện, giúp đỡ, bố thí cho người nghèo khổ, hoạn nạn ... - Công phu: chịu cực khổ làm việc gì. Ở đây chỉ sự dày công bền chí tu hành. - Sám hối: xưng tội và quyết ăn năn cải sửa. - Cực Lạc: an vui tột cùng. Nước cực lạc là thế giới yên vui của Đức Phật A Di Đà. - Giả tạm: không bền bỉ. Mới đó liền mất đó. - Cõi trần: cõi đời cát bụi con người đang sống. -- oOo -- SÂN-NỘ.- Tánh nóng-nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém-giết oán-thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ-ngươi nên sự hiềm-thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo-tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công-bình, lẽ phải trái. Diệt được nó tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở lượng khoan-hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn-nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm-khích. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bất công: không công bình, thiên vị; bỏ lẽ phải. - Kiêu hãnh: cậy giàu, tài giỏi coi thường người khác; coi không ai bằng mình. - Hổ ngươi: mắc cở. - Hiềm thù: thù ghét, oán giận nhau lâu ngày. - Cuồng trí: điên khùng, trí óc không bình thường. - Tự chủ: tự mình làm chủ lấy mình, không bị ai sai khiến, không bị ai chi phối; không dựa vào ai, không nhờ cậy ai. - Dữ dằn bạo tợn: hung dữ, ác độc. - Công bình: tánh ngay thẳng; ngay và bằng. - Thảnh thơi: an nhàn, không có gì phải lo nghĩ. - Khoan hồng: xét suy rộng rãi; đối xử rộng lượng với người có tội. - Cãi cọ - Cãi: dùng lời lẽ chống lại ý kiến khác. Cọ: hai vật chạm nhau. Cãi cọ: cãi nhau rồi gây lộn. - Hiềm khích: xin xem trang 17. -- oOo -- MÊ-SI.- Tội ác này do sự thiếu óc phán-đoán, thiếu sự suy nghĩ mà ra; vì vậy, con người ít hay phân-biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển-kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân-lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê-man theo những vật chất nhỏ nhen, mau tan mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải-thoát. Hãy xoá bỏ các điều mê-tín, qui-thuận theo tinh-thần đạo-đức, lánh chốn mê-lầm tỉnh cơn mộng-huyễn, phá tan màn vô-minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo-hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phán đoán: xem xét, đoán coi phải trái thế nào. - Thiển kiến: sự thấy biết hẹp hòi nông cạn. - Chân lý: xin xem trang 36. - Tin bướng làm càn: bạ đâu tin đó không suy nghĩ đắn đo, việc làm thì chẳng để tâm, chú ý, miễn sao xong việc thì thôi. - Giải thoát: xin xem tr. 20.- Mê tín: xin xem tr. 41. - Qui thuận: đầu hàng, thuận theo đối phương. - Mê lầm: mê muội, tối tăm mới lầm lạc. - Mộng huyễn: giấc mơ, chuyện chiêm bao, chuyện không có thật. - Vô minh: tâm trí tối tăm, không hiểu sự việc và lý lẽ, là đầu mối của mọi buồn phiền: a.- không biết thân xác này không phải của mình, b.- không biết rằng vạn vật đều không, c.- không biết tất cả đều giả, không gì bền vững. Con người vì vô minh nên phạm nhiều tội ác rồi phải chịu khổ, phiền nhiều kiếp. Người hiểu Đạo như cầm đuốc vô nhà tối, bóng tối tan hết chỉ còn ánh sáng. - Đạo hạnh - Đạo: a.- lẽ phải, đường ngay chánh, phép tắc làm khuôn thước cho người đời noi theo. b.- nền tảng của tôn giáo, dạy con người trau sửa tâm tánh, sống hiền lành ngay thật. - Hạnh: tánh nết tốt, cư xử đẹp, siêng học kinh kệ, tu hành nghiêm chỉnh, giữ đúng giáo luật, giữ thân tâm luôn trong sạch, lòng dạ yên lặng, dốc lòng tu đến thành đạo. - Bất diệt bất sanh: chẳng diệt thì chẳng sanh, không sanh thì không chết mất. Đó là lý vô vi - Có sống thì có chết - có hình thì có hoại. Bất diệt bất sanh là Thường trụ, là đạo lý Tối thượng thừa. -- oOo -- LUẬN VỀ BÁT-CHÁNH.- Trừ xong ba nghiệp-chướng hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Những sự tấn-bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục-đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn-triển trên đường Giải-Thoát. Bát Chánh gồm có: 1.- Chánh kiến - 2.- Chánh tư-duy - 3.- Chánh nghiệp - 4.- Chánh tinh-tấn - 5.- Chánh mạng - 6.- Chánh ngữ - 7.- Chánh niệm - 8.- Chánh định. -- oOo -- CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật. Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán-đoán không công-bình chánh-đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực-điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh-bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng, công-bình. Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà-mị, bỏ các sự say-mê, trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tấn bộ - tiến bộ: bước lên, bước tới, tăng thêm, giỏi hơn, tốt hơn. - Mục đích: cái mốc đặt ra để hướng tới, đạt tới. Sự việc nhìn vào để theo đuổi đến thành công. - Kinh nhựt tụng: kinh đọc hằng ngày. Nghĩa bóng: luôn ghi nhớ trong lòng. - Nghiệp chướng: xin xem tr. 37. - Mê đồ: xem tr. 11. - Tấn triển - tiến triển: nới rộng, nảy nở tốt đẹp. - Bản ngã: tánh mỗi người. Cái ta của con người. - Tư thù: thù riêng. - Lợi kỷ: lợi ích riêng tư. - Phán đoán: xin xem tr. 56. -Công bình: xin xem tr. 55. - Chánh đáng: xem tr. 35. - Trí tuệ - Trí huệ: tr. 20. - Oan tình: bị hàm oan. Bị oan ức. - Trí năng - Trí: thông minh, biết xét đoán sự việc. Năng: cái đảy. Cái đảy chứa thông minh, khôn ngoan. Chỉ người thông minh có nhiều ý nghĩ khôn ngoan. - Thông minh – Thông: suốt. Minh: sáng. Sáng suốt. - Truy cứu - Truy: đuổi theo. Cứu: xét. Xét một việc đã qua. - Rắc rối: việc khó giải quyết. - Cẩn thận: dè dặt, cân nhắc kỹ lưỡng. Chăm chú kỹ lưỡng, không để sơ xuất. - Phê đoán: xem xét kỹ rồi phê bình quyết đoán. - Quan sát: xem xét tìm hiểu. - Cực điểm: mức độ cao nhứt. Mức cuối cùng. - Xét đoán: xem xét và đoán định. - Tận tường: rõ ràng, rành rẽ thấu đáo từ chi tiết. - Mịt mờ u ám: tối tăm, bị che phủ mất ánh sáng. - Minh bạch: sáng tỏ, rõ ràng đâu ra đấy. - Tục lụy: những ràng buộc với cuộc đời trần tục. Những khốn khổ, đau buồn của con người ở cõi đời. - Nhiệm mầu - Mầu nhiệm: xin xem trang 14. - Tà mị: chuyện dối gạt người; không ngay thật. - Đọa hồng trần: chịu đày đọa khổ sở ở cõi đời. - Lạc lầm: đi sai đường; hiểu sai làm trật. -- oOo -- CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh. Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi-danh, quyền- tước, nghĩa vợ tình chồng ...; cái tư-tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà. Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thị dục: lòng ham muốn về vật chất tầm thường. - Cám dỗ: làm cho người ta ham muốn đến mức mê muội, tin và làm theo một cách mù quáng.Dùng lời dịu ngọt hay tiền của, chức vị dụ dỗ cho người ham, làm theo ý mình. - Tư tưởng: lý lẽ đề ra từ suy nghĩ của mình. - Rù quến: dùng lời dịu ngọt dụ dỗ, rủ rê đi theo. - Thoát ly: lìa khỏi, tách khỏi, rời ra. - Bình tịnh - Bình: yên lặng. Tịnh: sạch trong. - Thanh cao - Thanh: thanh sạch. Cao: cao. Người không chịu uốn mình làm một điều gì trái với lương tâm; người có một nhân cách cao quí. - Chân lý: xin xem tr. 36.- Sanh linh: xin xem tr. 30. - Trầm luân: chìm trong biển khổ, trong luân hồi. - Oan nghiệt: điều đau khổ phải chịu ở kiếp này. - Nhân chúng: một số người đông đúc. - Lạc Đạo an bần: sống trong sạch, vui với Đạo lý, Đạo pháp. - Xả thân tu tỉnh: xả bỏ mọi vướng bận để rảnh rang tâm trí, yên tịnh tu hành. -- oOo -- CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng. Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham-thiền nhập-định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công-quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả. Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh-nhai, mưu cuộc sống còn: kẻ buôn tảo bán tần, người việc nầy việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh-nhai chi-phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề-nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á-phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ ... v...v... Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề-nghiệp ấy, con người mới bị hư-hỏng, trụy-lạc, hoang-đàng, trà-đình tửu-điếm … Họ là đồng-loã mà phạm-nhân là những kẻ nghiện-ngập say-sưa. Thế nên mục Chánh-nghiệp răn-cấm chúng ta làm các nghề ấy. Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát-hại vô cớ các sanh-vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội-lỗi. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Xuất gia đầu Phật: rời gia đình vô chùa tu học Phật pháp. - Tham thiền - Tham: suy xét, quan sát. Thiền: Dhyana (scr). Thiền na, có nghĩa chiêm nghiệm, suy nghĩ, nghiên cứu tìm lý đạo. Tham thiền: ngồi yên lặng dứt bỏ mọi nhớ tưởng vẩn vơ, trí suy nghĩ nghiền ngẫm tìm lý đạo. - Nhập định: có nghĩa vào thiền định, tức tu sĩ ngồi lặng yên tập trung ý nghĩ. - Trì tụng: bền lòng không xao lãng kệ kinh. - Kinh hành: đi chậm bước niệm kinh, hay niệm Phật. - Công quả: xin xem trang 12. - Ác nghiệp: kết quả của những việc làm dữ, làm ác của chúng sanh - làm từ kiếp trước - cũng có nghĩa là nhận hậu quả, vì có nhơn mới có quả. - Tại gia cư sĩ: người tu tại nhà, vừa làm ăn vừa học Phật tu nhân. - Sinh nhai: làm kiếm miếng ăn nuôi sống. - Tảo tần: dậy sớm thức khuya làm việc hết lòng. Tảo hoặc Táo, giống như loại rong. Tần, tên một thứ rau mọc dưới nước. Kinh thi:“Thái tần thái tảo” (hái rau tần hái rau tảo), chỉ người xoay xở làm nhiều việc nhọc nhằn. - Chi phối: xin xem tr. 37. - Xảo trá: xin xem tr. 51. - Gian tà đạo tặc: gian dối, tà vạy, trộm cướp. - Mưu cầu: lo liệu cho được việc. - Bất nhơn: ác, độc hiểm, thiếu lòng nhơn,không thương người. - Nuôi điếm: dụ dỗ gái nhà lành bán thân xác. - Đầu cơ: giấu hàng hóa chờ giá lên cao mới bán. - Cho vay cắt cổ: cho mượn tiền lấy lãi (lời) nặng. Ví dụ cho mượn một ngàn đồng, người vay tiền phải trả một ngàn hai trăm đồng, hay nhiều hơn ... - Trụy lạc: sa ngã vào lối sống thấp hèn, xấu xa. - Hoang đàng: hư hỏng, luông tuồng, vô phép tắc, bỏ phế cửa nhà, sống lang thang nay đây mai đó. - Trà đình: quán bán các thứ ăn uống. - Tửu điếm: quán bán rượu. Nghĩa bóng của Trà đình - Tửu điếm: chê hạng người sống chỉ biết ăn chơi; cuộc sống không đứng đắn, không đàng hoàng. - Đồng lõa: kẻ dự vào, chung một nhóm, cùng một bọn làm điều gian xảo, tội lỗi. - Nghiện ngập: chỉ người ghiền thuốc phiện nặng. - Say sưa: uống rượu và say mãi, say thành tật. --oOo --
CHÁNH TIN-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới. Phái vô-thần-luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả-báo luân-hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân-xác con người, sống là tranh-đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo-trá, bao nhiêu tàn-bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy. Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức-tin cho mạnh-mẽ. Dầu các thị-dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám-dỗ hay bức-bách bỏ lòng tín-ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm-đắm trong bể hồng-trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ, thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần-gian bỏ những oan-trái luân-hồi cay-nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc-thành Đạo-quả hầu dắt-dìu bá- tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà- vạy, dẹp lục-căn, lục-trần và rán làm cho tinh-thần được thêm sáng-suốt, rèn luyện các đức-tánh cho thiện-mỹ, yên-tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công-phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế-độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Vô thần luận: lý luận của phái vô thần, tức phái không tin có Trời, Phật, Thánh, Thần…Không có luân hồi quả bảo. - Vía: khác với linh hồn. Phần vô hình phụ vào thể xác khiến con người có sự sống. - Tranh đấu: dùng hết ý chí, sự khéo khôn, sự bền bỉ lẫn sức lực giành cho được điều mình muốn. - Mánh khoé: mưu mẹo, tính làm có lợi cho mình. - Gian hùng: người tài giỏi nhưng nhiều mưu mô, xảo trá. Kẻ biết lợi dụng quyền lực để thực hiện ý muốn của mình, dầu ý muốn ấy không chơn chánh. - Điêu ngoa xảo trá: đặt điều, bịa chuyện dối gạt một cách khéo, có nói không, không nói có. - Tàn bạo: xin xem tr. 9. - Thị dục: xin xem tr. 60. - Ngược ngang - ngang ngược: không kể phải trái, chẳng kiêng nể một ai. - Đức tin: niềm tin vững chắc, niềm tin tôn giáo. - Cám dỗ: xin xem tr. 60. - Quần sanh: xin xem tr. 20. - Bức bách: bị bắt buộc, bị dồn ép vào thế phải làm trái ý mình muốn. - Tín ngưỡng: lòng tin tưởng và ngưỡng mộ (hâm mộ, mến chuộng với ý kính trọng) một tôn giáo hay một chủ nghĩa. - Khổ hải: biển khổ. Nhà Phật ví nỗi khổ đời người nhiều như nước biển. - Đức Thế-Tôn: Lokanatha, Bhagavat (scr) hiệu của Phật Thích Ca. Ngài có đầy đủ đức hạnh, là đấng tôn trọng hơn hết trong các bực chúng sanh, nên được tôn xưng là Thế Tôn. - Hồng trần: xin xem tr. 12. - Luân hồi: xin xem tr. 9. - Giác ngộ trần gian: giúp cho người thế gian giác ngộ. Giác - Giác ngộ: sáng suốt, thông suốt đạo lý, không còn vướng mắc những tình cảm tầm thường: buồn vui, thương, yêu, giận, ghét, ham muốn ... - Oan trái: những điều phải gánh chịu trong kiếp này để trả quả bất lành đã gây từ kiếp trước. - Cay nghiệt: tánh người không tình cảm, độc ác, khắt khe, hay hành hạ kẻ khác. - Tự giác: tự hiểu biết điều hay dở của mình. - Niết Bàn: Nirvana (scr), tình trạng vắng lặng của người tu dứt sạch phiền não, không bị ràng buộc tình cảm thường tình: thương yêu, danh lợi, sắc dục. Niết: ra khỏi. Bàn hay Bàn na: rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não. - Đắc thành Đạo quả: công tu đã thành, đạt kết quả, đắc đạo. Có nghĩa thấy được con đường giải thoát. - Bá tánh thập phương: trăm họ khắp nơi, chỉ chung con người trên mặt đất. - Điều tà vạy: điều không ngay thật, không chánh đáng; không đúng. - Lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân và Ý, tức 6 cảnh ở thân tâm ta, là sáu căn cội có sức nảy sanh, như mắt (nhãn) nảy sanh sự thấy, là nhãn căn; nhĩ căn là căn của tai; tỉ căn là căn của mũi; thiệt căn là căn của lưỡi; thân căn là căn của thân thể; ý căn là căn của ý nghĩ. - Lục trần: Sắc – Thinh – Hương - Vị - Xúc và Pháp, là 6 cảnh ở ngoài thân tâm ta. Sáu cảnh bên ngoài này có thể nhiễm dơ thân tâm ta, kêu là lục trần: sắc là màu sắc; thinh, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng hát ca, lời ngon ngọt dụ dỗ…; hương, mùi thơm; vị, vị ngon béo của thịt cá …; xúc, sự đụng chạm với da thịt mịn màng mà mình ưa thích …; pháp, những phương thế, những tư tưởng xâm nhập ý, khiến cho tâm ý sanh ra những phán đoán, phân biệt, có ưa có ghét, khen chê theo sở thích của mình. - Tinh thần: xin xem tr.19. - Tục lụy: xin xem tr. 60. - Đức tánh: tánh tốt; giữ gìn đạo lý làm người. - Thiện mỹ: tốt, đẹp. Đẹp đẽ tốt lành. - Yên tịnh: yên ổn, không việc gì xảy ra. - Hỉ lạc: vui và mừng. - Tế độ: cứu giúp và đưa qua khỏi nơi khổ cực, nguy hiểm, đến chốn an vui. - Quả báo: có nghĩa lãnh lấy kết quả. Do nhơn lành, tức trước đã làm việc tốt, điều lành, sau hưởng kết quả lành như gặp những điều may, vui, tốt. Nếu do nhơn dữ, tức trước đã phạm tội lỗi bằng thân, bằng miệng, bằng ý, thì kết quả dữ trả lại, mình phải lãnh chịu các việc không may, tai họa, khổ sở. Đời xưa quả báo thì chầy. Chầy: chậm, muộn. Đời nay quả báo một giây nhãn tiền. Giây: mỗi phút: 60 giây, là đời nay quả báo đến rất mau, thấy liền trước mắt. -- oOo -- CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chơn chánh, trong sạch. Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao. Người ta tìm đủ phương-thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu-đần, không còn lo-lắng đến sự tiêu-diệt. Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen tối, bỏ tất cả đài-các xa-hoa, thân mình tự-chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền-định đặt làm thể, trí-tuệ đặt làm mạng, linh-hồn nhập liên-hoa, siêu-sanh vào cõi Niết-Bàn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nhãn: mắt - Nhĩ: tai - Tỉ: mũi - Thiệt: lưỡi - Thân: thân thể - Ý: ý nghĩ. - Phương thế: cách thức, kế hoạch. - Trí tuệ: xin xem tr. 20. - Tự chủ: xin xem tr. 55. - Ngu đần: ngu si, đần độn, rất ngu, rất tối tăm. - Tiêu diệt: trừ cho dứt hẳn, không sót chút nào. - Đài các - Đài: nền cao. Các: lầu, gác cao. Đài các: Chỉ nhà cao cửa rộng của người giàu. Chỉ điệu bộ của kẻ quyền quý giàu sang. - Xa hoa: áo quần đẹp, xài tiền không đúng chỗ. - Bất diệt bất sanh: xin xem trang 57. - Thiền định - Thiền: Dhyana (scr), đủ chữ: Thiền na.Thiền: lòng nghiền ngẫm nghiên cứu sự lý. Định: tĩnh niệm vào một cảnh. Nhà tu lúc mới ngồi trầm tư mặc tưởng là ở cảnh thiền, tới khi tâm trí tập trung vào một cảnh cao viễn, là vào cảnh định. Thiền định: chỉ chung hai trạng thái liên tiếp nhau. - Thể: thể tánh, là tánh chơn thật, hay Phật tánh. - Mạng: mạng sống. - Liên hoa: hoa sen. - Siêu sanh: hồn về cõi an vui, không phải đầu thai. -- oOo -- CHÁNH-NGỮ.- Lời nói chơn thật. Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần. Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn-cội các tội-lỗi. Trong những tội-lỗi ấy cũng có nghiệp-chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt: làm cho thiên-hạ bất hoà nhau. Ỷ-ngôn: lời chửi mắng kẻ dưới tay. Ác-khẩu: tiếng độc-ác tục-tằn, chửi rủa Thần Thánh. Vọng-ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc (nói chuyện không có thật). Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo-ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cộc-cằn. Phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền-lương đức-hạnh, những sự khuyên-dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích-lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ham hố: ham muốn quá mức. - Nghiệp chướng: xin xem trang 37. - Nghiệp: là sức mạnh sâu kín trong con người, chính nó làm cho con người tốt hay xấu, hiền hay dữ, yên vui hay khổ. Theo nhà Phật, đó là việc làm của Thân (thân xác), của Ngữ (lời nói), của Ý (ý nghĩ, lòng mơ tưởng) các thứ ấy nương nhau, hiệp với Duyên (duyên: sự dính líu, níu kéo) liên lạc với nhau, giúp nhau làm thành kết quả. Kết quả có tốt, xấu, hiền, dữ, tạo thành nghiệp tốt hay xấu, lành hay dữ của ta. Tóm lại, mỗi chúng sanh đều có nghiệp riêng và phải nhận lãnh kết quả tốt hay xấu do những việc đã làm. Ví dụ: trồng lúa thì ăn lúa, trồng đậu ta ăn đậu. Nghiệp là kết quả việc làm thiện hay ác của Thân - Miệng - Ý. - Chân chánh: xin xem tr. 51. - Thô lỗ: xin xem tr. 50. - Xảo ngôn: xin xem tr. 51. - Tráo chác: xem tr. 51. - Cộc cằn - cục cằn: người có lời nói không khéo dễ làm buồn lòng người nghe. - Tỏ tường: rõ ràng thấu đáo từng chi tiết. - Hiền lương: hiền lành, rộng lòng tha thứ, thương người, xử sự tốt với mọi người, thương sanh vật. - Đức hạnh - Đức: đạo đức nghiêm chỉnh, ngay thẳng, lòng dạ hiền hoà, ưa làm việc lành. Hạnh: nết tốt, cố gắng sửa mình, giữ đạo lý, thương giúp người nghèo khổ, tánh hoà dịu, lễ độ. -- oOo -- CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân-chánh. Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng ... Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm-cơ, bao nhiêu trí-não phụng-sự cho nó. Danh-lợi, cảm-tình, uy-quyền, phú-quý ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử. Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm-than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương-pháp hành Đạo, bỏ các điều phù-phiếm, ghi nhớ công-lao Đức Phật đối với quần-sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc-động các mối dục-tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thất tình: 7 thứ tình: mừng - giận - thương - vui - yêu - ghét - ham muốn. - Lục dục: 6 sự ham muốn của con người: 1.- Sắc dục: ham muốn màu sắc tươi tốt hay sắc đẹp của kẻ nam người nữ, 2.- Hình mạo dục: mê hình tướng tốt tươi, xinh đẹp của người khác phái, 3.- Oai nghi tư thái dục: mê tướng đi, đứng, nằm, ngồi, nụ cười, dáng điệu của người khác phái, 4.- Ngữ ngôn âm thanh dục: nghe lời êm dịu, câu ca tiếng hát rồi mê say, ham muốn, 5.- Tế hoạt dục: thấy da thịt mịn, trắng của người khác phái mà ham muốn, 6.- Nhơn tướng dục: thấy cốt cách cao sang lịch sự của người mà ham mê. - Tâm cơ: sắp sẵn cơ mưu sâu kín trong lòng. Cũng có nghĩa lo lắng. - Sáu đường - Lục đạo: sáu đường luân hồi: 1.- Thiên (Tiên). 2.- A tu la (Thần). 3.- Nhơn (Người) 4.- Địa ngục (Nhà tù cõi âm phủ). 5.- Ngạ quỉ (Ma đói). 6.- Súc sanh (Thú vật). - Danh lợi: xin xem tr. 13. - Lầm than: xin xem tr. 16. - Cảm tình: tình cảm tốt đối với người. - Uy quyền - Oai quyền - Oai: vẻ tôn nghiêm đáng kính. Quyền: thế lực lớn khiến người nể sợ. - Hoạn họa: tai họa nói chung, việc không may, chuyện xấu có thể nguy tới tài sản, sanh mạng. - Phương pháp: xin xem tr.15. - Dục tình: xem tr. 46. - Phù phiếm - Phù: trôi nổi. Phiếm: thuyền đi không nơi nhứt định. Nghĩa bóng: những gì không thực tế, không thiết thực. - Bia tạc - Bia: miếng đá hay sạn đúc nên. Tạc: đục hay khắc lên gỗ, lên đá, nhằm ghi danh để lưu lại ngày sau. - Xúc động: động lòng trước việc đau buồn. - Lụy khổ: rơi nước mắt vì đau khổ. -- oOo -- CHÁNH-ĐỊNH.- Suy gẫm chơn-chánh. Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung-sướng thêm lên ... nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ-nhen, thấp-thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của-cải gia-tài như đám phù-vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác ... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống-cuồng tâm trí theo bả lợi-danh, mùi phú-quý, đi theo những vặt-vụn, tiểu-ti, eo-hẹp. Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù-du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u- minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn hết khổ, hết quả- báo luân-hồi. Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao-động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lạc luân - Luân lạc: dời đổi, thay đổi. Thân thế lạc luân, có nghĩa cuộc đời lâm cảnh khổ cực, không ổn định, nay đổi mai dời. - Phù vân: đám mây mới nổi đó rồi tan ngay. Chỉ việc đời không có gì lâu bền. - Cuống cuồng: gấp rút, quýnh quáng, quýnh lên. - Tiểu ti: lượng rất nhỏ, số nhỏ không đáng kể. - Phù du: con phù du: một thứ côn trùng nhỏ có cánh, đầu như đầu con chuồn chuồn, hay bay gần mặt nước, tối đến bay quanh và nhào vô bóng đèn, mau chết. - Kiếp phù du: chỉ kiếp sống con người thật là ngắn ngủi. - Di dịch: dời đổi, thay đổi. - Vĩnh viễn: còn hoài. - Trường tồn: còn lâu dài, còn mãi. - Thiền định: xin xem tr. 69. - Giải thoát: xem tr. 20. - Màn u minh: bức màn che làm tối tăm, mù mịt. - Thị dục: xin xem trang 60. - Xao động: khua động, lay động. Mặt nước bị gió làm xao động, gợn sóng. - Nhiễm ô cảnh ngoại: bị cảnh bên ngoài nhiễm dơ. - Phàm trần - Phàm: tầm thường. Trần: cát bụi. Nghĩa bóng chỉ cõi đời, cũng chỉ con người. -- oOo -- CÁCH THỜ PHƯỢNG, HÀNH LỄ VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO HÒA-HẢO.- THỜ PHƯỢNG.- Từ truớc đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình-tượng. Đành rằng vì tôn- kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều- kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng-ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm-hồn hơn ở vào sự hào-nháng (nhoáng) bề ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần điều là di-tích của Đức PHẬT THẦY TÂY-AN để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu-sắc khác, nên có thể tượng-trưng cho sự hòa-hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng-tộc và cá-nhân. Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô-thượng của nhà Phật. Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ-bái ở ngoài. Còn người nào có cốt Phật trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng. Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu-biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu-biểu cho sự tinh-khiết, còn nhang, dùng đặng bán mùi uế-trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng. Ngoài sự thờ Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh-hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hủy báng: chê bai, đặt điều nói xấu. - Sùng ngưỡng: kính trọng và tin tưởng. - Cư sĩ: người tu tại nhà, vừa làm ăn vừa học Phật tu nhân. - Đơn giản: đơn sơ, giản dị, không rườm rà. - Hào nhoáng: màu mè bóng láng bên ngoài. - Trần điều: bức vải đỏ màu trái điều, căng thẳng sau bàn thờ lên trên cao và kéo choàng ra phía trước che phần trên bàn thờ Phật. Đây là di-tích của Đức Phật Thầy. - Di tích: dấu vết của người xưa để lại. - Phật Thầy Tây An: vị sáng lập nền Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. BSKH. là nguồn gốc của PGHH. - Tôn chỉ: xin xem tr.19. - Chủng tộc: xin xem tr. 34. - Màu dà: các màu sắc pha trộn lại thành màu dà. Màu dà tượng trưng sự hoà hợp và cũng tượng trưng cho tinh thần thoát tục. - Biểu hiện: hiện ra, bày ra rõ rệt. - Thoát tục: không vướng bận chuyện thế trần. - Tượng trưng: dùng vật có hình thể thay thế vật không hình thể. Quốc kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc. - Hoà hiệp: hiệp lại với nhau một cách êm đẹp. - Cá nhơn: riêng một người, mỗi người. - Tiêu biểu: hình ảnh để người nhìn, tư cách gương mẫu để người nhắm vào. - Tinh thần vô thượng của nhà Phật: ý nghĩa sâu xa, cao cả, tình thương yêu bao la của nhà Phật. - Bàn thông Thiên: bàn thờ đặt trước sân nhà, nơi cầu nguyện với Trời-Phật. Thông Thiên có nghĩa thông suốt đến Trời, lòng thành cầu nguyện sẽ thấu đến lòng Trời. - Trau tâm trỉa tánh: tập luyện tánh tình cho tốt, sửa bỏ thói hư tật xấu. - Niệm Phật: có nghĩa tưởng nhớ công đức của Phật, của Ông Bà, Cha Mẹ, thành kính đọc thầm danh hiệu, và ráng noi theo 4 đức lớn của Phật: Từ-Bi-Hỷ-Xả. 4 đức này còn gọi Tứ vô lượng hay Tứ vô lượng tâm: xin xem trang 10 và trang 25. - Tinh khiết: trong sạch, không chút dơ. - Uế trược: dơ bẩn, nghịch nghĩa với tinh thiết. - Anh hùng: chỉ người có tài nổi bật, trội hơn mọi người đồng thời; người làm nên những chuyện có ích lợi lớn mà ít ai làm được - Tà thần: vị thần không chánh. - Căn tích: nguồn gốc, lý lịch. -- oOo -- HÀNH LỄ.- Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu-quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy-lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi. Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính-toán một cách cẩn-thận, đừng làm chuyện ngông-cuồng vô-ý-thức. Một đừng ỷ-lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ-lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ-lại sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn-Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn-thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn-thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đổi thất bại đem đến sự khó-khăn, khổ-não rồi trách-cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm-lạc ấy rất đáng thương hại. Mỗi người hãy nên lấy trí thông-minh nhận xét Đạo-lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn-hóa trên con đường Đạo-đức. Những điều sơ-lược giải-thích trên đây, mong rằng toàn-thể trong Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực-hiện để bài-trừ sự mê-tín ngông-cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau chóng. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hành động: làm ra, ra tay, việc làm, cử chỉ. Việc làm của một người nào. - Tính toán: tính toán sổ sách; bàn soạn, lo liệu. - Ngông cuồng: suy nghĩ hay hành động ngược với lẽ thường, không nghe lời khuyên phải. - Vô ý thức: không ý thức; không có sự cảm nhận để hiểu biết rõ một sự việc. - Ỷ lại: nhờ cậy, nương dựa vào người khác. - Nhơn quả: xin xem tr. 23. - Cẩn thận: xin xem tr. 59. - Toàn thiện: trọn lành. - Suy xét: suy nghĩ, xét nét, xem xét. - Khổ não: buồn rầu, suy nghĩ lo lắng, không yên. - Độ: đưa qua sông, cứu giúp. Nghĩa của Phật giáo là đưa qua khỏi nơi khổ. Nhà Phật xem đời là biển khổ, đạo pháp Phật như chiếc thuyền đưa người tu hành qua biển khổ đến bờ an vui. - Thông minh -Thông: suốt. Minh: sáng. Sáng suốt. - Đạo lý: nghĩa lý chơn chánh của tôn giáo; những lệ luật hay từ xưa lưu lại, được xã hội thừa nhận như khuôn thước trong cách đối xử ở đời. - Đức tin: xin xem tr. 66. - Tư tưởng: xin xem tr. 61. - Thọ lãnh: chịu nhận một thứ gì, nhận một việc gì. - Tường tận: hiểu biết rành rẽ, cặn kẽ. - Tấn hóa: biến đổi lần theo hướng đi lên; bỏ cái cũ để lấy cái mới tốt hơn, cao hơn, hay hơn. - Đạo đức: xin xem tr. 19. - Mê tín: xin xem tr. 41. - Sơ lược: xin xem tr. 20 .- Suy gẫm: xin xem tr. 20. - Kỹ càng: vén khéo, tỉ mỉ, không hời hợt. - Bài trừ: gạt bỏ, loại trừ, tiêu diệt hoàn toàn. - Thiện hòa: thuận thảo, yên vui. - Phát triển: xin xem trang 31. -- oOo -- TANG LỄ.- Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ; chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây: Bây giờ chúng ta đã quy-y đầu Phật, thì phải do sự thành-tâm cầu-nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong-linh người chết được siêu-sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận-định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu-sự do hồi còn sanh-tiền và do sự tu hành, sự thành-tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu-nguyện, rồi im-lặng đi chôn. Việc cúng kiếng ông bà, cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ-niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Từ trần: từ bỏ cuộc đời, chết. - Cổ lệ: lề lối quen cũ, lề lối có từ xưa. - Quy y đầu Phật: về với Phật, nương theo, làm y lời Phật dạy; hết lòng tin, quyết gởi đời cho Phật. - Thành tâm cầu nguyện: lòng thành cầu xin với Trời, Phật, Thánh, Thần, khấn xin với đấng bề trên. - Vong linh: linh hồn người chết. - Siêu sinh nơi cõi thọ: linh hồn về cõi an vui, khỏi phải đầu thai xuống trần chịu khổ cực. - Thầy dưng bông: chỉ "thầy cúng" có thêm trò "dâng hoa" trong lễ cúng, tiếng người miền Nam nói "dưng bông" rồi lần hồi thành ra "nhưn bông". - Thầy cúng: mặc áo nhà tu nhưng không hẳn là các vị tu ở chùa, chuyên nhận mối tụng kinh mướn các đám cúng, các tuần chay của những người không hiểu biết gì về Đạo Phật. Chính bọn thầy đám này làm cho đạo Phật bị người đời hiểu lầm không ít. - Xá phướn - lầu kho - Xá: xá mã, xá hạc (ngựa giấy, hạc giấy) để mang sớ về Tây phương ? Phướn hay Phan, Tràng phan: lá cờ lớn treo trước chùa. Trong các đám cúng, người ta đốt cờ giấy như lá phướn để hướng dẫn hồn người chết về Tây phương? Lầu kho: nhà lầu, nhà kho chứa tiền, lúa gạo bằng giấy, cho hồn người chết xài !!! - Hiếu sự: việc làm báo hiếu cho ông bà, cha mẹ. - Sanh tiền: xin xem tr. 27. - Hiếu thuận: xin xem tr. 45. - Nhơn nghĩa: có tình thương người, thương sanh vật, tánh thẳng ngay, thấy việc trái tai gai mắt là sẵn sàng giúp đỡ không ngại khó khăn, không sợ quyền thế, xử sự đúng theo đạo lý. Nhơn nghĩa ở đây chỉ sự đền đáp ơn nghĩa. Trong cuộc sống luôn luôn xử sự theo đường ngay thẳng; sẵn sàng cứu giúp người yếu thế, hoạn nạn, nghèo khổ. Đối đãi tốt với người giống như người đã đối đãi tốt với mình. Người ta làm điều phải, tốt, ích lợi cho mình thì mình phải làm lại cho người ấy giống như vậy, đó là nghĩa. (Ở có nghĩa với nhau). - Cúng kiếng - Cúng: dâng lễ vật lên Trời, Phật, Thánh, Thần, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ đã chết. Kiếng: một mâm để riêng trên bàn thấp hơn, dành những vị khuất mặt ngoài Ông Bà, Cha Mẹ, như vị Thổ Thần, tức thần giữ đất... - Kỷ niệm: việc đáng nhớ, ghi khắc trong lòng. Ngày kỷ niệm là ngày ghi nhớ luôn luôn. - Tục lệ: thói quen tốt thành lệ, tất cả phải tuân theo. - Hương đảng: xin xem trang 47. - Giản tiện: dễ dàng tiện lợi; sơ sài, không rườm rà. - Lãng phí: xài tiền sai chỗ, không cần thiết. -- oOo -- CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT .- Mỗi người đứng trước bàn thờ Phật niệm: “Nam-mô Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT” (ba lần) và “Nam-mô A-DI-ĐÀ PHẬT” (ba lần). Vái: “PHẬT TỔ, PHẬT THẦY, nay mình thành-tâm cầu nguyện cho tên ... (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu-độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-Lạc ! ” Trong lúc ở nhà hay lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chấp tay niệm: “Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-DI-ĐÀ PHẬT”. Nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp-dẫn đạo-sư A-DI-ĐÀ PHẬT”. NÊN LƯU-Ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: xem 20. - Phật: Bouddha (scr): Giác: tức bực sáng suốt. - Phật A Di Đà: theo niềm tin, Ngài thường hiện thân đón tiếp những người tu hiền về cõi tịnh độ. - Cứu độ - Cứu: giúp đỡ đưa ra khỏi chỗ đau khổ, nguy hiểm. Độ: đưa qua sông, cứu giúp. Theo nhà Phật, đời là biển khổ, đạo pháp Phật như chiếc thuyền đưa người tu hiền đến bờ bến an vui. - Mê đồ: xin xem trang 11. - Vãng sanh miền cực lạc: sanh về nơi thật an vui. - Tiếp dẫn: cách cứu độ người tu của Phật, Bồ tát. - Siêu thoát: vượt qua và thoát khỏi. Về cảnh Phật. - Anh linh: gọi tôn kính hồn người chết. Anh: trong sạch, sáng đẹp rực rỡ. Linh: linh ứng, linh thiêng. - Siêu thoát anh linh: linh hồn người chết được về cõi an vui, khỏi đầu thai xuống trần chịu khổ cực. -- oOo -- HÔN NHƠN.- Bổn phận cha mẹ phải chọn-lựa đôi-bạn cho con một cách xứng-đáng bằng sự quan-sát tường-tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép-uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng. Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ-vật. Thông-gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Quan sát tường tận: xem xét, tìm hiểu một cách cặn kẽ, rõ ràng và rành rẽ. - Đức tánh: xem tr. 67. - Kinh nghiệm: xin xem tr. 10. - Ép uổng: bắt phải làm theo cho bằng được dầu người ta không bằng lòng. - Tự do: được hành động theo ý muốn của mình không bị kềm hãm, bó buộc. - Thách giá: đòi hỏi nhà trai phải nộp tiền hay lễ vật tới mức nào đó mới chịu gả con gái cho. - Thông gia: sui gia. Nhà trai và nhà gái trao đổi lẫn nhau trong việc gả cưới con mình. - Linh đình - tiệc lễ linh đình: tiệc lễ thật to, mời nhiều người dự, nhằm khoe khoang sự giàu có. -- oOo -- NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC (PHẢI) TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM.- UỐNG RƯỢU.- Phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay-lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội-lỗi. THUỐC PHIỆN.- Phải cử tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo, phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm-chế đặng. CỜ-BẠC.- Phải cử tuyệt; những kẻ cờ-bạc muốn vào Đạo, phải thệ-nguyện bỏ cờ-bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự nầy, chẳng có cuộc vui nào có thể châm-chế đặng. -- oOo -- ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ .- Tất cả bổn-đạo nên cung-kính các tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh-lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng-giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ. -- oOo -- ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN.- Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều). Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy-báng. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bổn đạo: đạo của mình; người cùng một đạo. - Cung kính: kính cẩn, lễ phép. - Tăng sư: chỉ người nam rời gia đình vào chùa tu. - Chân chánh: xin xem tr. 51. - Tà mị: xin xem tr. 60. - Chánh lý: lý lẽ đúng đắn, chánh đáng. - Bài trừ: xin xem tr. 80. - Hủy báng: xin xem tr. 76. - Triệt để - Triệt: suốt. Để: đáy. Nghĩa bóng: đến mức độ tột cùng, tột độ, hết sức. - Ngày vía: lễ ngày sanh của các Đức Phật. - Tôn trọng: kính trọng, quý mến. -- oOo -- ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHƠN SANH .- Đối với những người theo tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn họ. Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng, phải rán hết sức giúp-đỡ họ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nhẫn nhịn: dằn lòng không nóng giận, vui vẻ nhường cho người hơn mình. - Hòa hợp: cùng vui vẻ sống chung, hợp lại với nhau một cách êm đẹp. - Thiện cảm: cảm tình tốt; ưa thích, mến người nào. ĐỂ TÓC.- Tất cả bổn-đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ-Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh-hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn-đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu-hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong-trào tiến-hoá của nước nhà. Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách hầu hòa-hợp với lương dân cùng tôn-giáo khác. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phong tục: lối sống, thói quen lâu ngày thành nề nếp được đời công nhận. - Cổ: xưa, cũ. - Kỷ niệm: xin xem tr. 82. - Tu hành: xin xem tr. 14. - Ảnh hưởng: hậu quả của sự việc này chuyển sang sự việc khác do gần gũi, quen thuộc. Ví dụ: Phim Hồng Kông gây ảnh hưởng cho thanh thiếu niên. - Văn minh - Văn: sự học hỏi, lời văn, lễ phép, dáng vẻ bên ngoài. Minh: sáng sủa, nghĩa rộng là ánh sáng của văn hoá. Nói chung, văn minh là những hay, đẹp về cách ăn ở, nói chuyện, lối ứng xử dịu dàng của người học cao hiểu rộng. - Cặn bã: xin xem tr. 43. - Lương dân: xin xem tr. 43. - Trau tâm sửa tánh: giồi mài, trau sửa tâm tánh, có nghĩa từ bỏ nết hư thói xấu, sửa cách đi, tướng đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng nghiêm chỉnh, nói năng dịu dàng, lễ độ, hiền hoà. - Phong trào - Phong: gió. Trào hay triều: tình trạng nước sông, nước biển dâng lên, rút xuống. Chỉ những hoạt động chánh trị, văn hóa, xã hội lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia. - Tiến hóa: biến đổi lần theo hướng đi lên; bỏ cái cũ để lấy cái mới tốt hơn, cao hơn, hay hơn. - Cải cách: thay đổi cách thức, lề lối cho hợp lý, hợp tình hình, cho tốt đẹp hơn. -- oOo -- SỰ HỌC.- Sự học hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn-hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn …) Vậy, hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật Đạo một cách rành-rẽ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Giáo lý: điều Phật dạy và nghĩa lý trong Kinh. - Cao siêu: quá cao xa, người thường khó hiểu nổi. - Dị đoan: xin xem tr. 41 .- Mê tín: xin xem tr. 41. - Huyễn hoặc: xin xem trang 41. - Tiên đoán: đoán trước việc chưa xảy ra. - Khoa học: gồm các môn học: toán, lý, hóa, vạn vật. Học thuật tổ chức có hệ thống, có phương pháp.. - Nghiên cứu: tìm tòi, tra cứu, nghiền ngẫm nắm vững vấn đề để nhận thức, để tìm cách giải quyết. -- oOo -- THỂ DỤC.- Người trong bổn-đạo, nam nữ bất-luận, phải giữ-gìn thân-thể cho khoẻ-mạnh. Như thế nên luyện-tập những môn thể-dục nào hợp với sức khoẻ nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khoẻ mạnh tinh-thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc-lực. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thể dục: các hoạt động nhằm tập luyện cho thân thể nở nang, khoẻ mạnh. - Bất luận: không kể người, việc, nơi nào, bất cứ ... - Đạo nghĩa: xin xem trang 27. - Đắc lực: thực hiện công việc rất tốt. -- oOo -- ĂN Ở.- Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon sống nấu toàn đồ độc cho cơ-thể, ăn vào sanh bịnh. Phải giữ-gìn thân-thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ-sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác-thịt dơ dáy thì tinh-thần không thể nào mở-mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Điều độ: đều đặn và đúng chừng mực. - Cơ thể - Cơ: gân và thịt. Thể: thân hình con người. - Vệ sinh: biện pháp phòng bịnh, giữ gìn và tăng cường sức khoẻ. - Tinh thần: xin xem tr. 19. - Vật chất: xin xem tr. 30. - Tiếp độ: tiếp dẫn và cứu độ. Cách cứu độ người tu hiền của Phật, của Bồ tát. -- oOo -- CÁCH LÀM ĂN.- Cách làm ăn phải y như trong mục Bát Chánh đã dạy: - Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, bán rượu, bán thuốc phiện, ... - Làm những nghề lương-thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bất chánh: gian dối, không đàng hoàng. - Lường cân: mua bằng cân già (cân được nhiều), bán với cân non (cân ít hơn). - Tráo đấu: vật đo lường, mua đong bằng đấu lớn, bán ra đong bằng đấu nhỏ. - Buôn lậu: mua bán các loại hàng luật pháp cấm. - Đầu cơ: xin xem trang 63. -- oOo -- l.- ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO.- Người nào muốn quy-y phải có hai người bổn-đạo cũ, có đức-hạnh tiến-cử và bảo-lãnh, đến Ban Trị-Sự trong làng cho người làm đầu biết, và người làm đầu phải đọc hết thể-lệ về sự tu hành cho người quy-y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy-y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ-tiên rằng: Ngày … tháng … con chịu quy-y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu (Hội-Trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị-Sự, hai người bổn-đạo cũ phải dìu-ắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị-Sự gần đó, không bắt-buộc thề-thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến-cử hay để bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật-lệ trong sự đạo-đức, dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách-nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo. Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu-dắt và ủng-hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo-lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng-hộ những kẻ gian-tà xảo-quyệt, làm các việc hung-ác ngông-cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy. NGHĨA CHỮ KHÓ .- - Điều kiện: điều bắt buộc phải có trong trong một sự cam kết (sự giao ước). - Quy y: xin xem tr. 23. - Bổn đạo: xin xem tr. 86. - Đạo - Đạo hạnh: tr. 57. - Ngông cuồng: xem tr. 79. - Đức hạnh: xin xem trang 71. Ở đây chỉ người đứng đắn, có uy tín trong đạo. - Tiến cử: đề cử người xứng đáng cho cấp trên dùng. - Bảo lãnh: nhận trách nhiệm về người mình tiến cử. - Ban Trị-Sự: bộ phận nhơn sự điều hành công việc của Đạo ở địa phương. - Thể lệ: cách thức, điều kiện chung. - Tu hành: xin xem tr. 14. - Phát nguyện: xem tr. 24. - Nguyện: nghĩa thường là điều mong muốn, điều quyết chí làm cho được. Với tôn giáo, là cầu xin với Trời, Phật, Thánh, Thần. Cầu xin với ơn trên. - Luật: luật đạo, là những phép tắc của đạo mà mỗi tín đồ phải tuân theo. - Trách nhiệm: điều phải làm, nhận về mình phần việc được giao và phải làm cho thật tốt. - Ủng hộ: xin xem tr. 17. - Giáo lý: xin xem tr. 90. - Gian tà xảo quyệt: gian dối một cách khéo. -- oOo -- SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ-SĨ TẠI-GIA.- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ .- Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán nguyện: Cuí kính dưng hương trước Cửu-Huyền, Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng. Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật, Chí dốc tu hiền tạo phước-duyên. Cấm hương rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp: Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông, Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn. Rày con xin giữ Đạo hằng, Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài. Nguyện làm cho đẹp mặt mày, Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên. Mong nhờ Đức Cả bề trên, Độ con yên-ổn vững bền cội tu”. (lạy 4 lạy). BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ PHẬT.- Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán đọc bài Quy-Y: Nam-Mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm). Nam-Mô Thập Phương Phật. Nam-Mô Thập Phương Pháp. Nam-Mô Thập Phương Tăng. Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng chứng- minh, nay con nguyện cải-hối ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo. Cắm hương, lạy 4 lạy cũng được, hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp: Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ Đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật. Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ chúng, thế-giới bình-an. Nam Mô nhị nguyên cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh. Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương. Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát mê-ly. Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thông-minh, giai đắc đạo quả. Lạy 4 lạy rồi xá: 1 xá chính giữa, niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật. 1 xá bên trái, niệm: Nam-Mô Đại-Thế Chí Bồ-Tát. 1 xá bên phải,niệm: Nam-Mô Quan Thế-Âm Bồ-Tát. BÀN THÔNG THIÊN .- Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai. Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện, đọc bài Quy-Y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-phương ngũ nguyện. (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy - Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá) Lạy đứng hay lạy quỳ tùy theo lúc yếu mạnh. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Cửu Huyền: 9 đời: Cao - Tằng - Tổ - Cha - Mình - Con - Cháu - Chắt - Chít. - Thất Tổ: 7 ông tổ: Cao - Tằng - Tổ - Cao Cao - Tằng Tằng - Tổ Tổ - Cao Tổ. Chín thế hệ trên, nếu phiên âm bằng chữ Hán: Cao - Tằng - Tổ - Khảo - Kỷ - Tử - Tôn - Tằng - Huyền. Bảy đời ông tổ: là Ông Nội của đời mình đi ngược lên sáu đời nữa, gọi là Thất Tổ. Một giải thich khác: thờ Cửu Huyền Thất Tổ là thờ Tổ Tiên Ông Bà quá vãng nhiều đời. - Lòng thiềng: lòng thành. Dân gian Nam Bộ kiêng tiếng Thành, vì kính trọng Đức Cố Quản Trần Văn Thành, đại đệ tử của Phật Thầy Tây An, người có công kháng chiến chống Pháp, lập trại ruộng tự túc kinh tế nuôi quân ở vùng Thất Sơn, làm sáng danh Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Đức Phật Thầy Tây An. - Tỉnh ngộ: hết mê, hiểu biết mà sửa điều sai trái. - Phước Duyên - Phước: nhờ làm việc tốt, được hưởng cuộc sống yên vui, may mắn, đó là Phước. Duyên: tạo phước để gây duyên lành, ví như hột giống tốt là nhơn tốt rồi nhờ nương vào đất, nước, phân bón và sự chăm sóc, những thứ đó là duyên, mới được hột tốt là quả tốt. Nhơn với duyên tốt nương tựa nhau, giúp nhau mới thành kết quả tốt. - Tổ Tông: chỉ Thất Tổ. - Đạo hằng: có 5 đạo lý, 5 phép tắc mà Đạo Nho gọi là Luân thường, thời bấy giờ xem như khuôn thước trong cuộc sống, trong cách xử thế: - Luân thường là 5 Luân hay Ngũ luân và 5 Thường hay Ngũ Thường. - Ngũ luân: 5 điều: 1.- Đạo vua tôi (Quân Thần) 2.- Đạo Thầy trò (Sư Đệ) 3.- Đạo Cha con (Phụ Tử) 4.- Đạo Chồng vợ (Phu Thê) 5.- Đạo Anh em và bạn bè (Huynh Đệ - Bằng Hữu). - Ngũ thường: a.- Nhơn: lòng thương người, rộng lượng tha thứ, thương mạng sống sanh vật. b.- Nghĩa: theo đường ngay chánh, sẵn sàng giúp đỡ người yếu thế, hoạn nạn, nghèo khổ; đã chịu ơn thì bằng mọi cách phải lo đền trả. c.- Lễ: nhã nhặn với mọi người, lịch sự, ôn hòa (ôn hòa có nghĩa ấm áp dễ chịu, ở vào mực ai cũng chịu được) kính trọng người tuổi cao. Nói chung, chữ lễ là phép tắc đặt ra khép con người vào khuôn khổ, trật tự, có nền nếp. d.- Trí: sự hiểu biết, phân biệt tốt, xấu, hay dở. đ.- Tín: tin cậy, giữ lòng tin của người với mình. - Siêu thăng Phật đài: được về cảnh Phật. - Khổ hải: xin xem tr. 66. - Nam-Mô: xin xem tr. 20. - Liên đài: đài sen, nơi Phật ngồi, chỉ cảnh Phật. - Ta Bà: một thế giới bụi dơ rất khó tu, do đó cần có đức kiên nhẫn chịu đựng được mọi sự khổ. Theo nhà Phật, phải Kham nhẫn. Kham: có thể chịu đựng được. Nhẫn: nhận chịu, cam chịu. - Giáo Chủ: vị sáng lập ra nền đạo. - Phật Tổ: Phật bổn sư, tức đức Thích Ca Mâu Ni, Ngài tu thành chánh quả, nên gọi Ngài là Phật. Ngài lập ra đạo Phật nên xưng Ngài là Phật Tổ. Tức Ngài thành Phật và là tổ của nền đạo. - Phật Thầy: xin xem Phật Thầy Tây An, trang 77. - Quan Thượng Đẳng Đại Thần: vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, Ngài anh dũng chống thực dân Pháp, triều đình truy phong Thượng Đẳng Đại Thần. - Chư quan cựu thần: chỉ các quan ngày xưa. - Năm Non: 5 chỏm cao của Núi Cấm, còn gọi vồ: 1.- Vồ Bò Hong, ở hướng Tây, cao 716 mét (nơi đây ít người lui tới nên giống bò hong - giống như con muỗi, nhưng nhỏ hơn - sanh nở nhiều). 2.- Vồ Đầu, cao 584 mét, ở hướng Tây Bắc (phải chăng là cái vồ đầu tiên mà người ta gặp được, khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn ?). 3.- Vồ Bà, cao 579 mét, hướng Nam (có điện thờ bà Chúa Xứ). 4.- Vồ Ông Bướm, cao 480 mét, hướng Bắc (xưa có hai nhân vật: Ô. Bướm và Ô. Vôi trú ngụ). 5.- Vồ Thiên Tuế, cao 514 mét, ở hướng Đông (có nhiều cây thiên tuế). - Bảy Núi (Thất sơn): 7 ngọn núi ở tỉnh Châu Đốc: 1.- Anh Vũ sơn: núi Kéc, 2.- Ngũ Hồ sơn: núi Giài 5 giếng, gần núi Kéc, 3.- Thiên Cẩm sơn: núi Gấm hay núi Cấm, 4.- Liên Hoa sơn: núi Tượng, 5.- Thủy Đài sơn: núi Nước, ở gần núi Tượng, 6.- Ngọa Long sơn: núi Dài, 7.- Phụng Hoàng sơn: núi Tô. - Cảm ứng: cảm động và ứng hiện. Cảm, về phần chúng sanh, Ứng, về phía Phật, Bồ tát, Linh thần. Cảm tức là nhơn, Ứng tức là quả, nhơn quả dung hợp, ấy là cảm ứng. Chúng sanh có lòng thành tin tưởng Phật, lòng chí thành ấy động đến Phật, Phật hiển thị bằng nhiều cách ủng hộ, đó là cảm ứng. - Chứng minh: xin chứng, nhìn nhận sự thật. - Cải hối ăn năn: hối hận, giận mình đã làm sai nên quyết lòng sửa đổi và làm cho đúng. - Cực lạc thế giới: thế giới thật an vui ở phương Tây của Đức Phật A Di Đà. - Phổ độ: cứu giúp tất cả chúng sanh. - Chúng sanh: xin xem trang 11. - Thiên Hoàng: vua cõi Trời, tức Ngọc Hoàng. - Địa Hoàng: vua cõi Âm (cõi người chết), tức Địa-Tạng Vương Bồ tát. - Nhơn Hoàng: vua cõi người, tức Minh-Vương, vị vua sắp ra đời. - Liên-Hoa hải hội: hội lớn của Đức Phật Di-Lạc. - Tịnh độ siêu sanh: hồn được sanh về cõi tịnh độ. - Tịnh độ có hai nghĩa: a/- Pháp môn dạy niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà, cầu được sanh về cõi tịnh độ. b/- Cõi đất trong sạch ở Tây phương của Đức Phật A-Di-Đà, nơi yên lành. - Phụ mẫu tại đường: cha mẹ đang sống. - Tăng long phước thọ: nhiều phước và sống lâu. - Phụ mẫu quá khứ: cha mẹ đã chết. - Trực vãng Tây phương: đi thẳng về Tây phương, thế giới của Phật A-Di-Đà. - Bá tánh: trăm họ, chỉ chung người trong nước. - Giải thoát mê ly: thoát khỏi mê tối và lầm lạc. - Tiêu tai tịnh sự: hết tai nạn, an vui. - Giai đắc đạo quả: được thành đạo. - Đại Thế-Chí Bồ Tát - Quan Thế-Âm Bồ Tát: hai vị Bồ Tát chầu bên cạnh Đức Phật A-Di-Đà. -- oOo -- NIỆM PHẬT.- Cúng xong, muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Hay niệm: Nam Mô Tây-Phương Cực-lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật. (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên, không đợi gì thời-khắc. PHỤ GIẢI.- Ý nghĩa của Niệm Phật là để trừ tạp niệm, bởi trong tâm con người quá nhiều tạp niệm nên lòng chẳng an vui mới bị phiền não ngăn che làm cho chơn tâm mờ ám. Nên, hễ thành tâm niệm Phật thì tâm không còn loạn, dứt được lòng ham muốn và các niệm chúng sanh cũng bị tiêu diệt. -- oOo -- KHI ĂN CƠM.- Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy, đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu-thảo. -- oOo -- ĂN CHAY.- Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy. Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29-1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không. Hàng năm, đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi. -- oOo -- ĐI XA NHÀ.- Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa thì nguyện tưởng trong tâm cũng được. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đơm quảy (quải): sắp thức ăn cúng. - Xuân nhựt: ngày xuân - ở đây: ngày đầu năm. -- oOo -- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO.- Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa-sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn-cấm sau đây: Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ-bạc, á-phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân-lý tam-cang ngũ-thường. Điều thứ nhì: Ta chẳng nên lười-biếng, phải cần-kiệm, sốt-sắng, lo làm ăn và lo tu-hiền chơn chất, chẳng nên gây-gổ lẫn nhau, hãy tha-thứ tội-lỗi cho nhau trong khi nóng giận. Điều thứ ba: Ta chẳng nên ăn-xài chưng dọn cho thái-quá và lợi-dụng tiền tài mà đành quên nhơn-nghĩa và đạo-lý, đừng ích-kỷ và xu-phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó. Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền-rủa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát-sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối-lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta. Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng-bạc, giấy quần-áo mà tốn tiền vô-lý, vì cõi Diêm-Vương không bao giờ ăn hối-lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng-phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường, đói rách, tàn tật. Điều thứ bảy: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo-đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán-đoán việc ấy. Điều thứ tám: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu-dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây-phương an-dưỡng mà học Đạo cho hoàn-toàn đặng trở lại cứu vớt chúng-sanh. Tất cả thiện-nam tín-nữ trong Tôn-giáo nhà Phật lúc rảnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ-gìn phong-hóa nước nhà, giữ những tục-lệ chơn-chánh, bỏ tất cả những sự dị-đoan mê-tín thái quá mà làm cho đạo-đức suy-đồi. Đạo-pháp thường hay dung với hoà, Xét người cho tột, xét thân ta. Nếu người rõ phận vui lòng thứ, Ta thứ được người, người thứ ta. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tam cang hay Tam cương là ba giềng mối theo quan niệm của Khổng giáo, chỉ về trật tự, khuôn phép để giữ gìn đạo lý nước nhà: 1.- Giềng vua tôi: (Quân thần cương) Vua: lấy lễ đãi bầy tôi. Tôi: hết dạ trung với vua. 2.- Giềng cha con: (Phụ tử cương) Cha: dạy dỗ, chăm sóc đời sống vật chất lẫn tinh thần cho con; con lớn lên lo dựng vợ gả chồng cho chúng. Con: một lòng thờ kính, nghe lời dạy dỗ của Cha Mẹ, không làm điều gì hư xấu cho Cha Mẹ buồn phiền. 3.- Giềng chồng vợ: (Phu thê cương) Vợ Chồng: kính trọng lẫn nhau, giữ lòng thương yêu trước sau như một, không vì nghèo khổ hay giàu sang mà phụ bỏ nhau. - Cần kiệm - Cần: siêng năng. Kiệm: tằn tiện, không phung phí. Siêng năng và tằn tiện. - Sốt sắng: mau mắn, hăng hái, hết lòng giúp đỡ. - Chơn chất: xin xem tr. 51. - Nhơn nghĩa: xem tr. 82. - Mê tín - Dị đoan: xem tr. 41. - Luân lý: xem tr. 46. - Xu phụng: hùa theo tâng công, nịnh bợ kẻ có quyền thế, có tiền của để nhờ cậy. - Phụ: làm trái, hủy bỏ, không ngó ngàng tới nữa. - Can phạm: nghĩa ở đây là Thần - Thánh không đụng chạm đến ta. - Hối lộ: kín đáo đưa tiền của nhờ kẻ có quyền làm điều trái pháp luật nhưng có lợi cho mình. - Nhiễu hại: quấy rối, gây hại, làm cho đau ốm. - Diêm Vương: vua của thế giới người chết. - Tàn tật: một hay nhiều bộ phận trên thân hư, mất. - Minh lý: lý lẽ rõ ràng sáng tỏ, lý lẽ vững chắc. - Phong hóa: nếp sống của một xã hội. Thói quen hay, tốt trong đời sống lâu ngày thành nề nếp của đất nước, của xóm làng. - Tục lệ: xin xem tr. 83. - Lãng phí: xin xem tr. 83. - Suy đồi: hư hỏng, tàn tạ, tồi tệ, sa sút đến tồi tệ. - Đạo pháp: chánh pháp của nền Đạo. - Dung hoà: kết hợp được các điều trái ngược. -- oOo -- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM KỶ MÃO (1939 LỘ CHÚT CƠ HUYỀN Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng, Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian. Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo, Tầm đấng hiền từ cứu thế-gian. Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ. Đạo đức hiền lành kiến Tiên bang. -- ··· -- Thiên địa u-minh dĩ đạo tràng, Thập bát chư hầu lụy há khan. Đạo-lý tầm sâu sâu chẳng cạn, Đời cùng ly-loạn khắp chư bang. -- ··· -- Thương hải tang điền ắt chẳng yên, Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng. Cơ thâm họa diệc từ đây có, Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền. Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định, Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên. -- ··· -- Điên này vốn thiệt ở núi vàng, Thương đời nói rõ việc lầm than. Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh, Yên trí nghĩ suy biết đá vàng. -- ··· -- Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời, Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi ! Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời. -- ··· -- Bi-động từ tâm gọi mấy lời, Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi. Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết, Mà còn nhiều lắm, chúng sanh ôi ! -- ··· -- Nam-Việt cúi lòn dài dậm-dặc, Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời. Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm, Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi. -- ··· -- Cổ-ngữ hằng ghi thậm khổ đa, Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa. Lão giả hậu qui nhơn ấu giả, Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la. Phỏng dịch: - Lời xưa thường ghi, nỗi khổ người đời rất nhiều. - Nhân sanh phải diệt khỗ rồi mới thẳng lên bậc tiên. - Người già chết sau sinh trở lại thành đứa trẻ con. - Trời đã định trước và lưới trời hết sức ly kỳ. -- ··· -- Tây-Phương trở gót quá xa đàng, Thương xót Nam-kỳ lại An-giang. Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán, Yêu đời mê-muội luống bầm gan. -- ··· -- Thiên-Trước tòa sen có chỗ ngồi, Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi. Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối. Xá phướn tăng-sư tạo việc tồi. Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển, Từ rày trần-hạ lợi danh trôi. Tu hành giả dối khuyên khá đổi, Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi. Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Giấc mộng tràng (trường): giấc mộng dài. - Hạ phàm gian: xuống thế gian. - Kiến Tiên bang: thấy cảnh Tiên. - Thiên địa u minh dĩ đạo tràng: Trời đất tối tăm dùng đạo dạy truyền. - Lụy há khan: lệ chẳng khô. - Thương hải tang điền - từ thành ngữ: “Tang điền biến vi thương hải” – “Thương hải biến vi tang điền”, chỉ sự thay đổi lớn trong đời. Theo Truyện thần tiên, bà Ma Cô thấy ba lần biển xanh thành ruộng dâu và ngược lại. - Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng: Trời đất diệt trừ kẻ gian còn người hiền lành để riêng. - Cơ thâm họa diệc: tính mưu sâu hại người bao nhiêu thì họa theo ta cũng to dường ấy. - Đảo huyền: treo ngược. Nghĩa bóng: khốn khổ. - Giai tiền định: điều đã định trước. - Huờn lai thượng cổ: trở lại đời thượng cổ. - Lầm than: xin xem tr. 16. - Lê thứ: xin xem tr.16. - Bi động từ tâm: động mối đau trong lòng. - Kim Sơn: chỉ Đức Thầy. - Dài dậm dặc hay dài dằng dặc: dài tận đâu đâu, dài mút tầm mắt. - Đạo hạnh: xin xem tr. 57.- Huyền cơ: xin xem tr. 11. - Cổ ngữ: lời xưa. Lời người xưa truyền lại. - Thiên Trước: Ngày xưa các quốc gia chung quanh nước Tàu đều gọi Ấn Độ là Thiên trước. Hiện nay các nhà tu Phật vẫn gọi như vậy. Ngoài tiếng Thiên trước, hay Thiên trúc, Tây vực, Tây thiên, Tây trúc ... chỉ nơi Đức Phật ra đời, nơi phát xuất đạo Phật. - Xá phướn: xin xem trang 82. -- oOo -- CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan, Bửu sanh du-lịch Lục-Châu giang. Kim Sơn thương-mãi toàn lê-thứ, Thức tỉnh bá-gia giấc mộng tràng. (Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bàn thử!) Hòa Hảo, tháng 7 Kỷ Mão. Đại ý: “Thuyền nhỏ rời đi dĩ nhiên là khó, Phật Vương du lịch sáu Châu bằng đường sông, và Phật Kim Sơn (Đức Thầy) dạo trong dân gian giả bán buôn để đánh thức mọi người tỉnh giấc mộng dài”. -- oOo -- MẶC TÌNH AI (Nhơn việc người ngoại Đạo chỉ trích Đức Thầy) Bá gia mặn lạt mặc tình ai, Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày. Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi, Ai người tâm đạo nghĩ càng hay; Ai người thích đạo thấy chàng ray. -- ··· -- Thầm thầm tối tối gẫm ai hay, Mặc sức dương-trần chữ đắng cay. Có báu thì ta dành của báu, Ai tầm cho giỏi mới được hay. -- ··· -- Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần, Có một hội nầy rán lập thân. Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần. Hòa Hảo, tháng 6 năm Kỷ Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chàng ray - biến âm từ hai chữ “càng gay”: gay mắt, khó chịu. -- oOo -- BÁNH MÌ Mì kia gốc phải nước mình không ? Nghe thấy rao mì thốt động lòng. Chiếc bánh não-nùng mùi khách lạ, Bát cơm đau-đớn máu cha ông. Văn-minh những vỏ trưng ba mặt, Thấm-thía tim gan ứa mấy giòng. Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược, Say mì lắm kẻ bán non sông. -- ··· -- Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an, Dân mảng còn mê giấc mộng tràng. Thảm-thê thế sự mùi cay đắng, Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang. H.H. năm Kỷ Mão (tại nhà ông Nguyễn duy Hinh). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Não nùng: nỗi đau buồn xót xa, ray rứt. - Thấm thía: nhiễm sâu vào. - Khải hoàn: thắng trận trở về. - Thảm thê: thương xót, buồn vô cùng. - Ngoại bang: nước ngoài. -- oOo -- Ông LƯƠNG VĂN TỐT hỏi: (Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên) Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh, Xin ông phân cạn chúng nghe rành. Ba ngàn thế-giới ai là chủ ? Mở lượng từ-bi dạy chúng sanh. ĐỨC THẦY đáp họa: Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh, Ngặt vì pháp-luật khó phân rành. Càn-khôn muốn biết ai là chủ, Tu hành theo dõi đến mây xanh. -- ··· -- Vì sao thế-giới lại ba ngàn ? Học đã rành chưa đến hỏi han ? Đã lãm nho văn thì phải đối, Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang. -- ··· -- Đời văn-vật say mê khổ thảm, Người nào đà tường lãm nho-văn; Xưa nay mèo-mả lung-lăng, Làm cho quên mất đạo hằng thánh-nhơn. Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh, Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang. Tay xuống bút nói lang chuyện thế, Bày đạo mầu cứu-tế nhơn sanh; Kìa kia các bực công-khanh, Miễu son tạc để đành rành chẳng sai. Hỡi ai kẻ học hay lo liệu, Rứt bụi trần bận-biệu (bịu) làm chi. Làm cho rồi phận tu-mi, Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm Non. Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ, Thì người già hoá trẻ dân ôi ! Tu hành ắt được thảnh-thơi, Lại xem được Phật được Trời báu thay ! Thân hành đạo đắng-cay phải chịu, Phận làm người phải liệu cho xong. Cần chi gạn hỏi viễn-vông, Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi. Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa, Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong; Thấy đời trần hạ long-đong, Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia. Hòa Hảo, tháng 6 năm Kỷ Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Càn khôn: Trời đất, vũ trụ. - Tường lãm: hiểu biết tường tận, rành rẽ. - Văn vật: văn minh và vật chất. - Mèo mả: nguyên câu là Mèo mả gà đồng: chỉ hạng người lăng nhăng, đời sống tình cảm giữa trai và gái không đứng đắn. - Lung lăng: hung hăng, bướng bỉnh, ngang ngược, không chịu nghe lời chỉ dạy đúng. - Đạo hằng: xin xem trang 97. - Thánh nhơn: các vị tài đức nhiều công nghiệp với xã hội về văn hay võ, được đời thờ kính. - Thức tỉnh: nghĩa thông thường là tỉnh dậy sau cơn mê, thấy biết mình sai lầm mà cố sửa đổi. Nghĩa nhà Phật là Giác ngộ. - Thủng thỉnh-Thủng thẳng: từ từ, khoan thai. - Nói lang: nói sang qua, nói rộng ra. - Cứu tế: giúp đỡ người qua cơn nghèo ngặt. - Công khanh: Tam Công và Cửu Khanh, các chức quan to của triều đình xưa. Tam Công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Cửu Khanh: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Trung tể, Tư đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư khấu, Tư không. - Tạc để: khắc vào đá, vào gỗ để thờ. - Bận bịu: vướng víu vì tình cảm, muốn rời mà không rời được hay khó rời. - Tu: râu. Mi: chơn mày, chỉ đàn ông con trai. Nước Tàu ngày xưa đàn ông mới để chơn mày, đàn bà thì nhổ hết. Nghĩa bóng chỉ người đàn ông có tài. - Ly kỳ: lạ lùng, kỳ dị. - Năm Non: xem tr. 98.- Bảy Núi - Thất sơn: tr. 99. - Viễn vông: vu vơ, xa vời, không xác thật. - Xe lơi: chỉ sợi dây luộc có nhiều lớp dây nhỏ đánh xoắn lại, ôm chặt với nhau, trông đẹp mắt và chắc. Nếu những lớp dây nhỏ không xoắn lại, không ôm chặt với nhau, tức lơi ra – gọi là xe lơi - thì sợi dây luộc trông vừa xấu và nhứt định không chắc chắn. Chỉ tình nghĩa lợt lạt. - Trau trỉa: sửa lòng, luyện tập tánh sống trong sáng, ngay thẳng. - Long đong: lận đận, vất vả, có nhiều trở ngại. - Mây Rồng - Hội Rồng Mây hay Hội Long Vân: Cơ hội lập công danh. Theo niềm tin của tín đồ PGHH là Hội lớn của Trời Phật chọn người hiền đức. Theo điển tích văn học, là cuộc thi cá chép hoá thành rồng. Ví dụ hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ trong bài Chí làm trai: "Rồng mây khi gặp hội ưa duyên. Đem quách cả sở tồn làm sở dụng". Nghĩa bóng: người tu cũng phải trải qua cuộc "thi cử" gay go, những kẻ thiếu tài kém đức chắc chắn không vượt qua được cuộc thi này. -- oOo -- CÔ TƯ CỨNG Ở Hòa-Hảo (Châu-Đốc) mất đồ. Kích động thiện tâm lụy xót-xa, Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa. Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn, Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra. -- ··· -- Thương đó lòng đây rất thiết-tha, Thiên định số căn mới xảy ra. Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét, Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra. Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ- Mão. (Bài nầy Đức Thầy bảo cậu út Huỳnh Thạnh-Mậu, bào đệ của Ngài, đem trao cho cô tư Cứng nói rằng “của ông thầy bói mượn đưa cho cô”). LSG. Trong cuốn “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” có đoạn nói về cô tư Cứng mất đồ như vầy: “Con thuyền đương lướt gió sương, Bỗng nghe tiếng khóc tư-lương ai-hoài. Có người ở xóm bằng nay, Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn. Du-thần bày tỏ nguồn cơn, Rằng người nghèo khó đang hờn phận duyên. Điên nghe vội-vã quày thuyền, Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn. Coi rồi bày tỏ thiệt hơn, Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi ”. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Kích động thiện tâm lụy xót xa: nghe lời than mà xúc động lòng lành, xót xa rơi nước mắt. - Thoàn loan: thuyền loan, có ba cách giải thích: - buồm hình cánh chim loan dễ bọc gió, gió hướng nào thuyền cũng chạy được. - thuyền ngày xưa của các bực quyền thế thường vẽ hình chim loan trước mũi thuyền. - cũng gọi thuyền lan, thời Xuân Thu, người nước Lỗ đóng thuyền bằng gỗ lan hình giống chiếc lá lan. - Tư lương: tưởng nhớ tha thiết. Lo nghĩ sự thế. - Ai hoài: nhớ nhung thương xót. - Đồ đạc: tất cả vật dụng trừ thức ăn uống, rác rến. - Du thần: vị thần đi tuần, đi kiểm soát, luôn luôn có mặt ngày đêm. -- oOo -- CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ Chừng nào vết nọ liền da, (¹) Chuột kia mãn hạn khỉ vào vườn hoa. Ấy là thời đại của ta, Thầy ra cứu thế mới là hiển vinh. H.H. tháng 8 năm Kỷ-Mão 1.- Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về, Đức Ông đau bàn chơn trái ngót hai tháng. --- oOo --- “HỐ HÒ KHOAN” (²) Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh, Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế; Hò xang xự xế; Mắc kế Trương Lương, Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí. Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn, Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim. Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu. Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi, Chư bang hàng phục. Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế, Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn. Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến, Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ rán ghi, Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão 2.- Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa. Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi để vào dấu móc (entrecrochets). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Huỳnh long lộ vĩ: rồng vàng xuất hiện, lộ đuôi. - Trương Lương tức Tử-Phòng (?-188 TCN) dòng dõi sĩ tộc nước Hàn thời Chiến Quốc, là quân sư, giúp Lưu-Bang đánh đổ nhà Tần, thắng Hạng-Võ trong chiến tranh Hán Sở, sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung-Quốc. Trương-Lương qua đời, được đặt tên thụy là Văn Thành hầu. Tương truyền, Trương Lương lúc thiếu thời được tiên ông Huỳnh Thạch Công truyền dạy binh thơ. - Qui cổ diệt kim: bỏ cái mới trở về nguồn. - Qua dương cơ khí: Máy móc từ biển vào ..? - Cửu cửu y nhiên: 9 với 9 y như vậy. - -- oOo -- HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng: (Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên) Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành, Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh. Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi, Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành. ĐỨC THẦY họa: Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành, Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh. Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ, Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành. H.H. năm Kỷ-Mão NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bát nhã: Prajnâ (scr) là Huệ, Trí huệ. Danh từ đặc biệt về Phật pháp. Bát Nhã Thoàn là thuyền Bát nhã. Theo nhà Phật, đời là biển khổ, con người ngụp lặn trong biển khổ, Phật và Bồ Tát dùng thuyền Bát nhã cứu độ, đưa chúng sanh qua bến bờ an lạc. - Giác: sáng suốt, thông hiểu đạo lý, không còn nhiễm danh lợi tình cảm. - Mê: ngu dốt, tối dạ. -- oOo -- THANH-TÂN vấn gia-đình: Gia-đình kỷ cá hội long đàn, Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang. Phi vụ tiết phong tầm chánh lý, Nho tông vị bác hiệp tôn nhan. Phỏng dịch: - Mấy lần gia đình tôi dự đàn tràng cầu hưng thịnh. - Ngẫng trông lên tưởng nhớ ân đức cao dày và sự nghiệp sáng chói của tổ tiên, - Nên cố gìn giữ thanh danh và tìm lý lẽ chánh đáng, - Về tông chỉ cũng như vị thế quan trọng của Nho giáo trong xã hội. ĐỨC THẦY đáp: Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn, Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an. Bài trí năng soi chơn giáo-lý, Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan. H.H. năm Kỷ-Mão Phỏng dịch: - Nỗi buồn giấc mộng tan đi, bừng tỉnh dậy trước đàn hoa sen. - Nên tìm hiểu hai chữ từ bi để cuộc sống an vui. - Hãy siêng suy xét hầu sáng tỏ giáo lý chân chánh. - Rồi hưởng ứng trước Phật đài kính ngưỡng tướng tôn nghiêm của Ngài. -- oOo -- HIẾU NGHĨA VI TIÊN Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên, Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền. Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp, Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên. H.H. năm Kỷ-Mão. Phỏng dịch: Hiếu đạo và tiết nghĩa làm đầu. - Con người phải lấy hiếu đạo và tiết nghĩa làm đầu. - Thực hành điều thiện theo nghĩa lý kinh văn là người có học và có đức hạnh. - Dụng gươm trí huệ diệt tiêu tan nghiệp chướng. - Mới có ngày mãi mãi bình an vô sự trước Phật đà.* (Ông Thanh-Tân có họa lại bài trên đây, xin miễn chép). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hưng thạnh - Hưng: nổi lên. Thịnh: dồi dào, phát đạt. Trở nên phát đạt. - Tông chỉ: xin xem Tôn chỉ trang 19. - Hiếu đạo - Hiếu nghĩa: tr. 24. -Tiết nghĩa: xem 24. - Đức hạnh: xem tr. 71. - Nghiệp chướng: xem tr. 37. - Gươm trí huệ: trí thức của bực học Đạo chơn chánh như gươm bén cắt đứt mọi mê lầm, mọi quyến rũ của vật chất, mọi phiền não. -- oOo -- CÚC CUNG BÁI (cho ông Hương-lễ Ướng) Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài, Lui tới nhúng (nhún) trề, xướng lại dai. Ton tán, ton tờn thêm cóc xẻng, Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay. -- ··· -- Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài, Mến tríu hơ-hà thiệt rất dai. Sắp đến khó mong mà cóc xẻng, Thất mùa chẳng rước thật là gay. -- ··· -- Vóc-vạc trung trung béo mập người, Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi. Bụng to tai điếc ưa nghề lễ, Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi. -- ··· -- Khá khen cho đó ý như lời, Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi. Nhu sĩ lương từ thêm cảm mến, Nên làm thi phú ghẹo người ơi ! H.H. năm Kỷ-Mão (Ông Hương lễ Ướng túc Nguyễn-Thanh-Tân có đáp họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Cúc cung: cúi mình làm lễ. Chào cung kính. - Hưng bái: khởi lạy. Tiếng xướng của người chủ lễ để tất cả lạy cho ăn nhịp. - Xướng: hô to lên (cho mọi người làm theo). - Bồng: một loại trống nhỏ hai đầu bịt da. - Vác hất: vênh mặt lên có vẻ phách. - Mến tríu – Tríu mến: có tình cảm tốt, thương mến, thương yêu; quấn quít không rời nhau. - Hơ hà: những tràng tiếng đều đều, khi trầm lúc bổng, không rõ nghĩa. - Sồn sộn - sồn sồn: ở tuổi trung niên, chưa già. - Nhu sĩ lương từ: nhà nho học hiền tốt. -- oOo -- BÀI CẦU Cơ Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân, Đa công hoài luyện thập niên phần. Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá, Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân. (Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy). Phỏng dịch: - Ông họ Nguyễn nổi tiếng là một trong ba người tài giỏi. (Lấy ý câu “Tam phân đỉnh túc”- vạc ba chân). - Nhiều công phu tập luyện suốt mười năm ròng rã. - Vì chúng sanh, Ông truyền bá những điều hiểu biết về hay đẹp cúa tạo hóa cùng lạ kỳ trong vạn vật. - Và thân thế sẽ cao sang phước đức như đám mây ngũ sắc (báo hiệu điềm tốt lành). ĐỨC THẦY họa: Nải chí thi âm tất hữu phân, Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần. Vạn ninh hà hải vi vương bá, Viễn vọng thanh tân tảo phi vân. H.H. năm Kỷ-Mão. Phỏng dịch: - Cho đến âm điệu trong thơ ca vẫn cần sự biệt phân. - Như hoa sen, hoa huệ cũng góp phần tỏa hương thơm một cách tự nhiên. - Là vương bá phải làm sao cho muôn vàn sông yên biển lặng. - Để nhìn ra xa thấy quang cảnh xanh thẳm của bầu trời đã quét sạch mây. --- oOo --- NHỨC ĐẦU Nhức đầu rang óc bởi vì đâu, Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu. Nhứt dạ chờ ngày Trời trả phúc, Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu. -- ··· -- Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu, Nhứt quyết làm cho chúng thoát sầu. Nhứt thống dân sanh gầy hạnh-phúc, Nhứt tràng lê-thứ khỏi lo âu. H.H. năm Kỷ-Mão. --- oOo ---
KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng, Xác trần mê-mệt nỗi long-đong. Cậu, cô, chú, bác đừng coi bói, Theo lối dị-đoan mất bạc đồng. Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không, Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng. Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-pháp, Cho đời hiểu rõ lý chơn không. H.H. năm Kỷ-Mão. (Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chơn không: Niết Bàn của tông Tiểu thừa. Không phải ngụy nên gọi Chơn. Lìa khỏi tướng nên gọi Không. Với tông Đại thừa: cái có chẳng phải có, đối với cái không chẳng phải không là Chơn Không. - Niết Bàn: xin xem tr. 66. - Long đong: xem tr. 114. - Nâng niu: trân trọng, quí mến, chăm sóc kỹ. - Lạc Hồng: Lạc Long Quân và Hồng Bàng, tên Tổ Tiên và triều đại của dân tộc Việt Nam. --- oOo --- NGHĨ VIỆC HUYỀN CA Ngồi buồn nghĩ cạn việc huyền ca, Muốn rứt cho xong bể ái-hà. Phá bức tường mây nhìn vạn vật, Ngặt vì trướng lụa lấp đèn pha. Lôi-thôi quá chậm trong đường thẳng, Trễ-nải khó qua nẻo cọp-xà. Một bước leo bờ mà khỏi khổ, Nam nhân chi chí hỡi đâu là. -- ··· -- Đâu là ái-quốc với yêu đời, Phổ cứu cho rồi mới thảnh-thơi. Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ, Đất Bắc lòng lang nỗi thậm lời. Cố tưởng người trần, trần chẳng đoái, Tình sâu dân sự, sự xa vời. Rồng tiên mở mắt nhìn thi phú, Hiệp mặt tớ thầy sẽ nghỉ-ngơi. -- ··· -- Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời, Một bầu nhiệt huyết chẳng xa lơi. Mến yêu quốc-thủy tình đồng chủng, Phải tính sao xong nỗi cuộc đời. H.H. năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Huyền ca: lời ca huyền diệu (kín đáo, sâu xa). Lời ca ẩn chứa về máy trời. - Ái hà - Ái: yêu thương. Hà: sông. Theo nhà Phật: Sông thương tức sông mê. Ái hà tức ái dục hà. Có nghĩa: lòng thương mến, ham dục đày đọa, nhận chìm con người dưới sông mê, khó mà thoát ra được. - Quốc thủy – Quốc vương thủy thổ: vua và đất nước, quê hương. --- oOo --- THIÊN LÝ CA (Mấy bài dưới đây do ông Cả Châu ở Tân-Long (Châu-đốc) đem trình với Đức Thầy, nói rằng của “ông đò” cho ông). PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo, NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò. CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa, Núi truông qua đặng rán lần dò. Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít, Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o. Tường-tận đã nghe xê cống liếu, Hương thôn bỏ xế xự xang hò. Đọc ngược lại bốn câu chót (tứ tuyệt nghịch độc) Hò xang xự xế bỏ thôn hương, Liếu cống xê nghe đã tận tường. O-ó tiếng gà coi nguyệt cảnh, Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn. -- ··· -- Quỉ ma hay phá rối người tu, Đạo-đức chư nhu rán chí hành. Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh, Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh. -- ··· -- Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt, Nghe cho tường giọng bắc hòa nam. Thích-Ca còn phế tước-hàm, Đài cao cửa rộng mà ham tu hành. Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc, Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu. (Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẻ). Thiên ý không riêng mối đạo mầu, Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu. Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu, Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu. Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng, Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi ! Đêm ngày buồn-bã vô hồi, Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành. Đạo rải khắp năm canh tỏa bút, Dạy tận-tường chẳng chút nào sai. Cổ nhơn tích để phân bày, Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm. Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng, Thả ra khơi cứu dẫn khách trần. Phù-sanh lắm cuộc lao thân, Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau. Trông đợi người tài cao đức trọng, Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao. Chí tâm tường lãm thấp cao, Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu. Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế, Bởi ít ai cải chế đường tà. Sợ e nhiễm trược đọa sa, Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn. Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí, Quên những câu chánh kỷ hoá nhơn. Mảng lo tìm kiếm tước quờn, Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành. Trong buổi khổ mau mau tránh khổ, Rán tầm vào đến chỗ an cư. Học câu hỉ-xả đại từ, Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần. Câu bát-chánh rán mài chạm dạ, Tứ mục-điều người khá hành y. Muôn thu thiên định nhứt kỳ, Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-hoa. Rán vẹt phá sương mù trước mắt, Chớ để cho quỉ dắt linh hồn. Lão đây vưng lịnh Phật-Tôn, Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành. Khá chí tâm học hành kinh sám, Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba. Trở chơn cho kịp Long-Hoa, Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn. Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn, Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây. Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy, Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than. -- ··· -- Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển, Xứ “Hà-tiên” linh hiển cơ-quan. Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng, Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra. Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn, Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông. Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng, Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam. Phật chỉ dạy qui tam lập hội, Dựng cho rồi một cội thành ba. Chớ mong yến thử (tử) ẩm hà, Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con. Ta nhắc lại héo von cho trẻ, Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia. Cả kêu lớn nhỏ quày vìa, Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân. Long-Hoa hội ân-cần lo lập, Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn. Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn, Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo. Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc, Đứng sau lưng hình vóc dảy chưn. Nước kia lửa nọ tưng bừng, Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai. Thời cũng tại không ai tu niệm, Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang. Đến nay là buổi tai nàn, Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân. Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo động, Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang. Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn, Nạn tai dồn-dập xóm làng còn chi. Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo, Lòng hằng lo ngay thảo nghe con. Tương dưa giữ phận cho tròn, Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân. Trong một giáp ân-cần suy tính, Muốn làm hiền rán nhịn đừng than. Đến nay gần buổi khoa tràng, Minh-quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi. Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ, Hết đao binh qui cổ diệt kim. Gia vô bế hộ im-lìm, Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia. Thì dân-chúng danh bia hậu thế, Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành. Diệt tà lập chánh đành-rành, Ba màu nắm chặt Nam-thành xử phân. Trong tam giáo ân-cần mở Đạo, Trường ngoại bang phục đáo như xưa. Phật Tiên vận chuyển lọc-lừa, Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy. Trên cùng dưới sum vầy một buổi, Dựng mười hai may rủi mới hay. Làm cho rõ mặt râu mày, Thượng-nguơn hồi phục là ngày an cư. Cuối Thân-Dậu y như Thượng-cổ, Thời nhơn-sanh hết khổ đến may. Đế-Vương xuất thế là ngày, Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca. Phân chỉ rành gần xa để dạ, Chớ đảo-điên phải đọa phải sa. Nghĩ suy cho thấu mới là, Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi. Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ, Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng. Nhơn-sanh giữ phận chớ than, Minh-Vương xuất thế mới an dân lành. Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm, Xin giúp chí bền, chí dục tâm. Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực, Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần. -- ··· -- Từ-bi Trời Phật độ quần sanh, Cứu khỏi tai ương vạn sự lành. Đệ-tử gội nhuần ân đức cả, Chung thân quyết chí dốc làm lành. Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh) Buồn vơi mượn bút tay đề, Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang. Tay chèo miệng nói lang-mang, Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai. Lục châu ta dạo bằng nay, Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan. Động tình tá quốc an bang, Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh. Bây giờ ta mượn kệ kinh, Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an. Bữa xưa giảng kệ một nang, Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa. Ngày nay ta cũng nôm-na, Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi, Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. Chim Ô đà dựa cầu Ngân, Người xưa trở gót cho gần người nay. Người nay rồi vẹn thảo ngay, Thì là thấy tạn mặt mày người xưa. Nguyện cầu gắng chí sớm trưa, Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành. Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành, Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong. Đến chừng lập hội mới mong, Trở về chúa cũ mới hòng xuê-xang. Người hiền chư thể cỏ lan, Người hung chết rất chật đàng thảm thay. Cả kêu kìa hỡi là ai, Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau. Lui chơn ra khỏi cho mau, Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan. Theo ta đến chốn Tiên-bang, Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non. Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ, Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông. Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn, Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý. Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí, Rán nghĩ suy bền chí mới mầu. Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu, Đặng trở lợi với cha cùng chúa. Nếu chẳng lo cũng như lá úa, Lá úa vàng nó rụng người ôi ! Ngàn năm mới có một đời, Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân. Ai muốn gần bệ ngọc các lân, Thì phải rán lập thân nuôi chí. Ta cho đó ít câu hữu lý, Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn. Đục trong đà tỏ nguồn cơn, Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha. Mặc ai biếm nhẻ gần xa, Lòng ta ta biết ai mà mặc ai. Đây khuyên đó đắng cay rán chịu, Mặc người trên bận-bịu chẳng phê. Muốn cho thân vượt khỏi lề, Cắm sào trì chí một bề lo tu. Kim ngọc nan tri tường đông hải, Phật tà phàm tục tất nan tri. Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo, Mặc tình thế sự chúng khinh-khi. Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo, Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi. Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo, Kim thời bá-tánh gọi ngu-si. Nợ thế đền xong mong giai lão, Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi. Lâm sầu mộng ở trong trần thế, Việc tu hành như ế chợ đông. Mãng lo danh lợi não-nồng, Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai. Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng, Sửa tâm lành như miếng hoa thơm. Đến chừng hoa nở nhụy đơm, Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa. Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận, Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây. Kìa kìa súng nổ trời Tây, Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang. Hung-đồ với lũ dọc ngang, Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu. Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ, Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi ? Buồn đời xuống bút làm thi, Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân. Nào nào dân có biết ân, Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi. Lời châu ngọc khuyên ai để dạ, Nay gặp người quái lạ tỏ phân. Hãy mau khuya sớm chuyên cần, Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia. Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ, Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa. Phật-nhi tâm tánh thật-thà, Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi ? Dương-trần thường bạc như vôi, Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung. Lúc áo-não cội thung lo liệu, Gắng bền lòng bận-bịu vì ai. Thất-Sơn lộ vẻ đài lầu, Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta. Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí, Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây. Bây giờ nương bóng cờ tây, Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn. Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc, Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn. Ta khùng mà chẳng có cơn, Cũng không có tánh giận hờn bá gia. Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-bịu thê lương. Chẳng cần trà, quả, nồng hương, Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu. Nghe kệ sám như ru giấc mộng, Lo chê cười hầu họng reo vang. Ỷ mình nhiều của giàu sang, Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa. Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét, Lấy tâm thần xem xét thể nao ? Sấm vang thì lộ bảng vàng, Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi. Chữ thi gần chữ sầu-bi, Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi. Chừng đó mới trời ơi đất hỡi, Mang khổ hình vì bởi chẳng tu. Ham vui quyền quí dại ngu, Chữ sang danh vọng như mù đi đêm. Ta nào có nói thêm cho chúng, Quá yêu đời viết túng ít câu. Ít câu mà ý nhiệm sâu, Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan. Đây sắp đến lầm than khắp chốn, Việc tu hành đâu tốn tiền chi. Nầy nầy lời lẽ rán ghi, Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây. Ta mắc lánh tà-tây đa sự, Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni. Ai là đáng bực tu-mi, Thương đời ta mới làm thi khuyên đời. Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến, Nên phải làm kẻ mến người khinh. Người hiền tâm trí thông-minh, Người hung cứ mãi chống kình với ta. Theo học cổ nôm-na ít tiếng, Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm. Chữ nhu ta học âm thầm, Ai là người trí rán tầm cho ra. Để đến lúc phong-ba biến-chuyển, Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông. Mới là sợ chết ước-mong, Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian. Tiếng đờn hò liếu cống-xang, Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh. Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới, Ta ra đời nên mới đổi thay. Bởi vì lời lẽ thẳng ngay, Cho nên chúng nó ghét bài phú thi. Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ, Kệ khuyên trần nước đổ lá môn. Khắp cùng làng xóm hương thôn, Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu. Dạy đạo-đức người tu rạng lý, Mong cho người hữu chí làm theo. Không làm thì ắt mang eo, Làm xong vượt khỏi qua đèo chông-gai. H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phù sanh - Phù: nổi trên mặt nước. Sanh: sự sống, chỉ kiếp sống con người như cánh bèo trôi nổi trên mặt nước, nước cuốn, gió đẩy đâu thì giạt theo đó. - Lao thân: thân cực khổ, thân xác vất vả. - Ta thán: than thở và oán trách. - Thiên võng: lưới trời. - Thiên Tào: xin xem tr. 12. - Bân bịu: xin xem tr. 113. - Chánh kỷ hóa nhơn: mình có thẳng ngay mới cảm hóa được người. - Tước quờn: tuớc quyền. Tước: chức quan hồi xưa do vua phong. Quyền: thế, sức mạnh và lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận. - Tứ mục điều - Tứ diệu đề: 1.- Khổ đề: gồm các sự khổ trong đời. 2.- Tập đề: gồm các nhơn duyên sanh ra quả khổ. 3.- Đạo đề: gồm tám đường chánh. 4.- Diệt đề: cách diệt khổ để hưởng quả Niết Bàn. - Giáp: chữ đứng đầu thập can: Giáp - Ất - Bính – Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm – Quí. Một thời gian 12 năm. - Nói lang mang: nói kéo dài không dứt, điều nọ tiếp nối điều kia, thiếu hệ thống, không rõ ràng mạch lạc. - Lục châu: sáu Châu, do sắc lịnh năm 1831 của vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam có 6 Châu, sau này đổi thành tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, còn gọi là lục tỉnh. Thời Pháp cai trị, miền Nam mang tên Nam Kỳ lục tỉnh và chia ra làm 20 tỉnh: 1.- Gia Định. 2.- Châu Đốc. 3.- Hà Tiên. 4.- Rạch Giá. 5.- Trà Vinh. 6.- Sa Đéc. 7.- Bến Tre. 8.- Long Xuyên. 9.- Tân An. 10.- Sóc Trăng. 11.- Thủ Dầu Một. 12.- Tây Ninh. 13.- Biên Hoà. 14.- Mỹ Tho. 15.- Bà Rịa. 16.- Chợ Lớn. 17.- Vĩnh Long. 18.- Gò Công. 19.- Cần Thơ. 20.- Bạc Liêu. - Tá quốc – An bang: giúp nước - giữ yên đất nước. - Hằng hà: tên con sống lớn nhứt và có danh ở Ấn Độ vì là nơi phát tích của Phật giáo, đặc biệt, con sông này có rất nhiều cát, nên có tên Hằng hà sa, tức cát sông Hằng. Cho nên chỉ số nhiều khó đếm, Phật thường nói là Hằng hà sa - Hằng hà sa số. Lại nữa, chính Phật sanh trưởng ở lưu vực sông Hằng. Sau khi thành Đạo, trong 49 năm, Ngài thường đi giáo hoá trong vùng sông Hằng. Nên Ngài dùng cát sông Hằng mà thí dụ cho người ta dễ hiểu. - Chim Ô đà dựa cầu Ngân: Theo truyện Thần thoại: Trên trời, có đám sao giăng từ Nam cực đến Bắc cực, gọi là Ngân hà. Nơi đây, có nàng Tiên chuyên dệt vải, tên Chức nữ, gọi vua Trời Phạm Thiên bằng Cậu. Gần đó, một chàng tên Ngưu lang (tức Ngưu tinh) giữ trâu và làm công việc ở cõi Trời, rất siêng năng nên được Ngọc Đế thương yêu, tác hợp cho hai người thành chồng vợ. Nhưng sau 3 năm kết thành đôi bạn, Chức Nữ không còn chăm lo dệt vải và Ngưu lang cũng bê tha phận sự của mình, nên Ngọc Đế nổi giận, trị tội hai người bằng cách đày Chức Nữ ở đầu sông bên này còn Ngưu Lang ở đầu sông bên kia, mỗi năm chỉ cho phép gặp nhau một lần vào ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch. Tương truyền, vào ngày này, đám quạ đen (Ô thước) dưới trần bay lên, con nầy cắn đuôi con kia đội Ngân Hà làm thành Cầu Ngân để Ngưu-Chức từ hai bờ bước lên gặp nhau, vì nhớ thương tha thiết, mừng mừng tủi tủi, những giọt nước mắt của hai người rơi xuống trần biến thành đám mưa rắc rắc khoảng từ 15-20 phút, người đời gọi là mưa Ngâu (hay mưa Ngưu), như vậy, mưa Ngâu là mưa gặp gỡ. - Xuê xang: ăn xài rộng rãi, mặc hàng vải mắc tiền; sang trọng, quá đầy đủ; ăn mặc chải chuốt. - Lan: tên một thứ hoa có mùi thơm ở trong rừng sâu, thường ví với người quân tử. Hoa Lan không cần phải vì ai mà vẫn thơm, thì người quân tử không vì ngoại cảnh mà thay đổi đức tính tốt. - Bệ ngọc các lân: ngai vua ngồi cẩn ngọc và gác chạm hình lân. - Bá Nha: quan đại phu nước Tống (Tàu) đờn rất hay nhưng chỉ Tử Kỳ mới hiểu tiếng đờn của ông. Do đó hai người kết nghĩa anh em. Tử Kỳ chết, Bá Nha đến trước mộ bạn dạo một khúc nhạc buồn rồi đập cây đờn, quyết không đờn nữa, vì trên đời này chẳng còn có ai hiểu tiếng đờn của ông như Tử Kỳ. Đức Thầy hết lòng khuyên dạy dân, nhưng có mấy người biết nghe và hiểu được lòng Người như Tử Kỳ hiểu tiếng đờn của Bá Nha ! - Cội thung: gốc cây thung, một giống cây ở rừng sâu sống dai và giỏi chịu lạnh, dùng chỉ người cha. - Lịu địu: như Bận bịu, vướng víu không nở rời ra. - Thê lương: lạnh lẽo, vắng vẻ; buồn. - Tà tây: chỉ thực dân Pháp và bọn gian theo Tây. Nước Pháp ở về hướng Tây của Việt Nam, nên dân gian gọi nước Tây, người Tây. Tà tây theo nghĩa đen là lòng gian dối, xấu ác. - Nôm na - Nói nôm na: lời nói dễ --- oOo --- LUẬN VIỆC TU HÀNH Tu hành dương-thế cậy đồng tiền, Phật-giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng. Bát-nhã chẳng đưa người tội ác, Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên. Trần-gian đầy-dẫy người làm dối, Đạo cả nào trông đến cảnh thiền. Đoái thấy người đời lòng bắt chán, Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền. -- ··· -- Muốn đặng về Thần với Thánh-Tiên, Kỹ xem cõi thế thấy kia liền. Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền. Phú quí tạo đời thêm mệt xác Tham danh phế đạo chí đâu yên. Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh, Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên. -- ··· -- Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền, Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên. Bác-ái xả thân tầm đạo chánh, Độ người lao khổ dạ không phiền. Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ, Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền. Xem đó hỡi người mau lập chí, Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên. -- ··· -- Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên, Rán tu ân đức chớ tu tiền. Lợi danh chớp nháng (nhoáng) như luồng gió, Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền. Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh, Sau nầy về Phật với ngôi Tiên. Lập thân giúp thế nên công-quả, Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên. H.H. năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHHỮ KHÓ.- - Thuyền từ - Thuyền Giác - Bến Giác có nghĩa người giác ngộ nương thuyền vượt qua biển khổ. Nhà Phật ví cõi đời cát bụi này là biển khổ còn đạo Phật là phương tiện, như chiếc thuyền đưa người tu hiền qua bờ Giác. Thuyền Từ còn chỉ Phật pháp. - Tây Thiên: Trời Tây, hay Tây Trúc, Thiên Trúc, Tây vực, chỉ nơi Đức Phật giáng sanh. Nghĩa bóng: nơi hoàn toàn trong sạch, không lo buồn, đau khổ. - Cư trần bất nhiễm: ở cõi trần mà không mê, không nhiễm trần. - Lẫn tục: nghĩa ở đây là sống với người đời mà giữ tâm hiền lành, không bị nhiễm hư xấu của thói đời. - Thanh tịnh: trong trẻo, sạch sẽ; hoàn toàn yên lặng, theo nghĩa nhà Phật là rời khỏi các việc làm ác, việc lỗi lầm; không dính dáng những chuyện buồn phiền của tình đời. - Nghiệp duyên - Nghiệp: xin xem trang 70. - Thức tỉnh: xin xem tr. 113. - Công quả: xin xem tr. 12. --- oOo --- TAM HÙNG TRỔ MẶT Tam hùng trổ mặt ngỏ chào đời, Từ mẫu bé nhi cũng thảnh-thơi. Nam-Việt xuất thần ơn trên trước, Đó là việc nước với việc trời. H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão (Bài nầy viết trong khi người ta đồn bà Sáu ở núi Tượng sanh 3 người con: một mặt xanh, một mặt đỏ, một mặt trắng). --- oOo --- LỤY TAM CHÂU Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa, Thập bát chư bang động can qua. Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác, Lê-thứ hậu lai khổ thiết-tha. Tần bang hậu hận tiên diêu-động, Nam-quốc lương dân kiến linh-xa. Phồn hoa đô hội lưu giang huyết, Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha. H.H. tháng 8 năm Kỷ-Mão.NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tam châu hữu ngạn: ba châu có bờ mé: Âu châu, Á châu và Phi Châu biên giới liền nhau (theo đồng đạo Phú tự Tho). - Can qua - Can: cái mộc để đở. Qua: cái mác để chém, đâm, dùng đánh giặc; chỉ giặc giã. - Mãnh thú: thú dữ. - Diêu động: lay động, xao xuyến, lắc lư. - Lương dân kiến linh xa: dân lành thấy xe tang, nhà giàng đám ma. Chỉ cảnh chết chóc. - Phồn hoa: nơi đông người, ồn ào nhiều xe nhiều ngựa; chỉ chốn thị thành. - Lưu giang huyết: máu chảy thành sông. - Ma ha - Mahâ, (scr) có nghĩa rộng lớn. Ở đây chỉ nền đạo lớn, tức đạo Phật. --- oOo --- VÉN MÀN BÍ MẬT Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên, Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền. Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc, Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên. Đởm lực hà quê trung trực thử, Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên. Sơn-ly Phật-cảnh hồi Nam-Việt, Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên. Phỏng dịch: - Chư đồng đạo mong muốn sớm hòa đồng để thấy sự tốt đẹp an vui. - Thì các nước hãy điềm tỉnh chờ đợi những đấng hiền tài danh tiếng. - Nghe khúc nhạc Thiều ở bãi cát biển Đông. (Thiều nhạc, tên khúc hát của vua Thuấn đặt). - Đài ngọc ở đỉnh núi phía Nam xuất hiện mấy vị tiên. (chỉ cảnh tiên). - Bằng tấm lòng ngay thẳng, dầu quê mùa cũng tận dụng sức lực gánh vác trách nhiệm lên đôi vai. - Gương vườn đào kết nghĩa dưới trời để báo đền ơn nước với bản hùng ca. - Rời cảnh Phật trên núi trở về Nam Việt. - Giúp người đời diệt khổ kịp thời kỳ để sống còn như những vị đã làm từ trước. -- ··· -- BỬU- ngọc trường quan ẩn tích kỳ, SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi. KỲ thâm tá giả thi thành thủy, HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi. NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử, NON lịch đài mây rạng tu mi. BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ, NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi. Phỏng dịch: - Phật Vương đang đợi thời, đóng cửa ẩn tích. - Phật Thầy hiểu rõ lẽ huyền bí nhiệm mầu. - Bổn Sư tạm danh, thơ văn lưu loát như dòng nước. - Phật Trùm âm thầm tỏa hương như hoa mộc hương, hoa tường vi. - Năm tháng người đời khổ nghèo đói lạnh. - Non Lịch -“người non Lịch”- danh tiếng làm vẻ vang giới mày râu. (Non Lịch, chỉ nơi Ông Thuấn cày ruộng, được vua Nghiêu truyền ngôi). - Bảy năm hòa bình nhờ bực hiền tài tạo giữ. - Núi rực ánh sáng, người tột đỉnh tài danh xuất hiện. -- ··· -- Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang, Ngô giả tùng nhung khí đởm gian. Hồ thiên tiểu-ẩn quân tu ký, Lượng thứ dương-trần đạo dĩ an. Phỏng dịch: - Chừng thế giới hòa bình sẽ thấy cõi Thần Tiên. - Người theo việc binh nhung tinh thần phấn khởi vượt qua thử thách gian nguy. - Đức Thầy có thế giới riêng, Ông nên ghi nhớ lấy. - Lần thứ nhứt ra đời năm 1939 và một lần nữa Đức Thầy trở lại thì dương trần mới yên. (Câu này dựa theo lý giải của đồng đạo Lê văn Phú tự Tho). -- ··· -- Đào-nguyên di khả tứ hồ-văn, Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng. Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất, Vận thới thô trình trực bỉnh thăng. H.H. lối tháng 9 năm Kỷ-Mão. Phỏng dịch: - Đến Đào nguyên là chốn văn thơ và trà rượu. (Đào nguyên, nơi người nước Tần đến tránh lọan). - Hãy xét lòng có đủ khả năng đảm đương mọi việc ? - Khi thời cơ đến điều mong đợi tự nhiên xuất hiện. - Vận số thuận, gặp khó khăn cũng vẫn cao thăng. --- oOo --- THẦY BA ĐẠO ở H.H. hỏi thuốc: Nghe tiếng ơn trên dốc cúu đời, Dám xin khép nép ngỏ đôi lời. Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ, Tiên dược phương nào được thảnh-thơi. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời, Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời. Lục châu xao-xiếng (xuyến) nhơn dân khổ, Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi. -- ··· -- THẦY BA ĐẠO hỏi: Thảnh-thơi dầu đặng phước tại trời, Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi. Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép, Ngàn năm ơn đức nguyện y lời. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời, Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi. Lục tự trì tâm là phương-phép, Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời. -- ··· -- THẦY BA ĐẠO hỏi: Y lời dám hỏi lén một câu, Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu. Đạo đời bốn chữ đây là gốc, Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp: Trả lời ý-kiến đó một câu, Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu. Đạo đời mấy chữ đây là gốc, Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu. -- ··· -- Muốn đó gần đây giải mộng sầu, Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu. Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ, Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu. -- ··· -- Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời, Đó muốn tỏ tình có mấy hơi. Ra ngõ lên xe chừng một lát, (¹) Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi. H.H. năm Kỷ-Mão.1.- Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thành tâm khấn Phật: lòng thành cầu Phật. - Lục tự trì tâm: lòng không dứt niệm tưởng sáu chữ: Nam-Mô A-Di-Đà Phật. - Tâm trì -Trì tâm: luôn giữ trong lòng không quên. - Bốn chữ: Bửu - Sơn - Kỳ - Hương. - Khuyến khích: xin xem tr. 25. Tỉnh ngộ: xem tr. 96. --- oOo --- BÁT NHẪN Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền, Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên. Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ, Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên. Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc, Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền. Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự, Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên. H.H. năm Kỷ-Mão. ĐỨC THẦY dịch: Chữ thứ nhứt Nhẫn-Năng Xử-Thế, Là người hiền khó kiếm trong đời. Lập thân danh từng trải nơi nơi, Chờ thời đại mới là khôn khéo. Chữ Nhẫn-Giái trì tâm trong trẻo, Khuyên dương trần giữ phận làm đầu. Nhẫn-Hương-Lân cùng khắp đâu đâu, Trên cùng dưới đều hòa ý hỷ. Nhẫn-Phụ-Mẫu gọi trang hiền sĩ, Phận xướng-tùy chồng vợ nhịn nhau. Nhịn xóm-chòm cô bác mới cao, Nhẫn-Tâm nọ ngày ngày an lạc. Nhịn tất cả những người tuổi tác, Nhẫn-Tánh lành yên tịnh dài lâu. Giữ một lòng hiền hậu mới mầu, Quanh năm cũng bảo toàn thân thể. Chữ Nhẫn-Đức kể ra luôn thể, Thì trong đời vạn sự bình an. Chữ Nhẫn-Thành báu quí hiển vang, Khắp bá-tánh được câu hòa nhã … LƯỢC GIẢI.- - Thứ nhứt, biết nhẫn-nhường trong cách xử thế đó là đúng mẫu của người hiền, còn việc lập thân danh cũng vậy, biết chờ đợi đúng thời cơ mới là người khôn khéo. - Thứ hai: Nhẫn-Giái, người tu phải gìn giới luật, giữ tâm thẳng ngay, trong sáng. - Thứ ba: Nhẫn-Hương-Lân, ở với xóm chòm cô bác cùng khắp đâu đâu, trước hết nên giữ phận mình, lễ phép dịu dàng, biết nhường nhịn nhau để trên dưới cùng được sống an bình vui vẻ. - Thứ tư: Nhẫn-Phụ-Mẫu, hết lòng hiếu thảo, không làm cha mẹ buồn lòng đó là bổn phận con hiền; vợ chồng tương kính, trước cũng như sau, chồng nói vợ nghe, vợ khuyên chồng sửa tánh, gia đình đó mới thật hạnh phúc. - Thứ năm: Nhẫn-Tâm, kính trọng người cao tuổi, giữ tâm trong sáng, xa lánh lợi danh mới thanh thản an vui. - Thứ sáu: Nhẫn-Tánh, lúc nào cũng sống thẳng ngay, ăn ở hiền lành, giữ gìn thân thể. - Thứ bảy: Nhẫn-Đức, biết lấy đức báo oán, biết lấy đức dung thứ cho người, giúp đỡ người cũng như với sanh vật bằng tình thương chơn thật, đời sống đó chắc chắn lúc nào cũng an vui. - Thứ tám: Nhẫn-Thành, thành thật trong tư tưởng, thành thật với mọi người, tánh tình đó thật là cao quí, nếu ai ai cũng biết Nhẫn-Thành thì khắp mọi nhà đều thuận hoà vui vẻ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Xử thế: đối xử với người đời. - Nhẫn năng xử thế: vui vẻ, dịu dàng, nhường nhịn trong đối xử với người đời. - Thân danh: địa vị, danh giá của một người trong xã hội. - Thời đại: thời gian, cuộc sống vào lúc nào đó. - Nhẫn giái: giữ gìn giới luật. - Nhẫn hương lân: nhường nhịn xóm giềng. - Ý hỷ: sự vui vẻ, vui mừng. - Hiền sĩ: người học giỏi và có đạo đức. - Phận xướng tùy: chồng nói vợ nghe; vợ chồng kính trọng lẫn nhau; hoà thuận êm vui. - Nhẫn tâm: giữ lòng trong sáng. - Nhẫn tánh: lúc nào cũng giữ thẳng ngay. - iHiền hậu: hiền lành và trung hậu. - Bảo toàn: giữ nguyên vẹn, không để hư mất. - Nhẫn đức: lấy đức báo oán, bao dung, tha thứ. - Vạn sự bình an: muôn sự an lành. - Nhẫn thành: thành thật với mọi người. - Hiển vang: vinh hiển, vẻ vang, rạng rỡ. - Hòa nhã: nói năng, đối xử ôn hòa, dịu --- oOo --- Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở Hòa-Hảo. Tâm hành từ thiện vị an nhiên, Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền. Huỳnh long lộ vĩ năng kỳ diệu, Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên. Danh-Sơn khai bút dìu sanh-chúng. Trung-Trực phò nguy đãi lịnh thiên. Tạo xác phù vân khai nhứt điểm, Qui hồi tự lập diệt tiền khiên. Phỏng dịch: - Dầu làm việc thiện nhưng lòng chưa an bình. - Giáo hóa người hiền được thấy đức Phật Đà. - Rồng vàng chỉ thấy đuôi, điều lạ lùng sâu kín ... - Xuống thế gian dàn xếp chưa xưng danh Tiên ... - Nơi ngọn núi nổi danh khai bút dắt dìu dân chúng. - Lòng Trung Trực cứu giúp đời chờ đợi lịnh Trời. - Mượn thân tứ đại khai mở một giai đoạn mới. - Ta trở lại trần tiêu trừ lỗi lầm gây nhiều kiếp trước. -- ··· -- Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần, Cảm tình đồng loại lão khuyên dân. Thậm-thâm đây đó niềm liên ái, Hợp tác cùng nhau nối bút thần. -- ··· -- Vi lộ thiên oai bảo giác dân, Ngọc nam ẩn-sĩ dị-thường nhân. Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định, Tứ hải hòa giai tất hữu phân. Phỏng dịch: - Muốn thức tỉnh cứu người đời nên để lộ máy trời. - Người tài đức khác thường ẩn danh nơi đài ngọc phương nam, - Lãnh đạo núi sông theo lịnh trên xếp đặt. - Phải phân định rõ bốn biển mới hài hòa tốt đẹp. -- ··· -- Muốn thấy người xưa phải vẹn mày, Nam-nhân hữu chí kiến Bồng-lai. Nhìn xem hiệu lão trong thơ ấy, Tứ cú nho gia đã cạn bày. H.H. lối tháng 9 năm Kỷ-Mão. --- oOo --- SAY Say mùi tục lụy vẫn lao-đao, Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào. Say thấm đạo lành ban vạn vật, Say đời chưa rõ chuyện vàng thau. -- ··· -- Say ngọc bồ-đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng, Say chén quỳnh-tương chốn núi cao. -- ··· -- Say thời vận bĩ vẫn còn xa, Say chuyện trần gian lắm cáo-xà. Say lấy gậy thiền toan dẹp hết, Say chờ Thiên-lịnh phán cho ta. -- ··· -- Say đạo huyền-vi nước tịnh-dương, Say câu Bồ-Tát rưới cho thường. Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã, Say việc trần-gian lắm họa-ương. -- ··· -- Say-sưa chuyện cổ nhắc chừng đời, Say nói với trần việc tả-tơi. Say biểu trì tâm đừng vội-vã, Say buồn lũ chó sủa mùi dơi. -- ··· -- Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời, Say câu diệu lý hỡi người ơi ! Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu, Say thể Trần-Đoàn mới thảnh thơi. -- ··· -- Say mãi say hoài say vẫn say, Say cho bá-tánh tập xong bài. Say như Nhơn-Qúi thì mang họa, Say của lão Khùng ách nạn bay. -- ··· -- Say cho tiêu hết giống con buôn, Say của Thánh-nhơn xuất lập tuồng. Say tạo một nền qui vạn vật, Say dìu trăm họ vượt mây truông. (¹) H.H. lối tháng 9 năm Kỷ-Mão. 1.- Ông Nguyễn Thanh-Tân có họa tám bài thơ trên đây, nhưng xin miễn in vào tập nầy. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tục lụy: xin xem tr. 60. - Bồ đề: xin xin xem tr. 12. - Lao đao: những khó khăn trong đời sống. - Quỳnh tương - Quỳnh: ngọc quỳnh, loại ngọc quí. Tương: nước. Nước ngọc quỳnh. Nghĩa bóng: rượu ngon. Đường thi có câu:“Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh”. Có nghĩa: Uống một chén rượu quỳnh tương sanh 100 mối cảm tình. - Thiên lịnh: lịnh Trời. - Thời vận bĩ: vận xấu, rủi ro của một người hay của đất nước trong một thời gian nào đó. - Cáo xà: chồn và rắn. - Huyền vi: tinh vi huyền diệu. Có tính bí hiểm của tạo hóa, vượt ngoài trí suy nghĩ của con người. - Tịnh dương: nước ở tịnh bình và cành dương liễu của Đức Quan Thế Âm. - Bồ Tát: Boddhisattva (scr) tức Bồ đề tát đỏa. Tàu dịch: Giác hữu tình, bực đã chứng Phật quả song còn hạnh nguyện trở lại trần cứu độ chúng sanh. - Thanh nhã: đẹp và lịch sự; trong sạch. - Họa ương: tai nạn rủi ro. - Tả tơi: rách nhiều chỗ. Nghĩa là quá nghèo. - Diệu lý: giáo lý nhiệm mầu, nghĩa lý cao sâu. - Lưu Khánh: một trong năm tướng mạnh thời nhà Tống, đời vua Nhân Tông: Địch Thanh, Thạch Ngọc, Trương Trung, Lý Nghĩa và Lưu Khánh. Lưu Khánh được tiên cho“Tịch vân phách”, tức chiếu phép, bay nhanh. Lưu Khánh ưa rượu, hay say. Địch Thanh từng lãnh binh sang Việt Nam đánh Nùng Trí Cao. - Trần Đoàn: Người đời Tống, biệt hiệu Hi Di. Thời Ngũ Đại, ông ở ẩn núi Hoa Sơn, có nhiều phép tiên, nhiều khi ngủ một giấc đến trăm ngày mới dậy. - Bá tánh: xin xem trang 12. - Nhơn Quí: tức Tiết Nhơn Quý: viên tướng đứng đầu quân đội của vua Lý Thế Dân, nhà Đường (Tàu, 618 - 907) không tội vẫn bị ba năm tù mới được rửa oan. Nguyên nhơn: “Trương Huờn làm phản bị Nhơn Quí bắt sống, nên con gái của Huờn là Trương Mỹ Nhơn nuôi hận, vào làm thiếp cho Lý Đạo Tông, chú ruột vua Đường. Đạo Tông nghe lời Mỹ Nhơn, viết chiếu giả triệu Tiết Nhơn Quý về trào, Lý Đạo Tông cho người đón đường mời Nhơn Qúy về phủ rồi phục rượu mê, khiêng bỏ vào phòng Quận chúa – con gái Đạo Tông - làm Quận chúa xấu hổ tự tử, vì thế, Nhơn Qúy bị tội tử hình, giam chờ xử tử. Nhờ Từ Mậu Công minh oan, được khỏi tội”. - Mây truông – Truông mây: vùng đất hoang cây cỏ rậm rạp. Nghĩa bóng: vùng nguy hiểm. --- oOo --- Cho SUNG-BIỆN T. ở Hòa-Hảo Quan trường nhiều lũ sói tà, Miệng là mãnh hổ ý là sài lang. Vinh-quang đâu có vinh-quang, Tâm còn ích-kỷ tánh còn hại dân. Có thân chẳng liệu lấy thân, Cười người điên dại sao gần Tiên bang. Nực cười cho đứa võ-phu, Đui mù chẳng sợ cứ mà gièm pha. Sau nầy sẽ biết mặt ta, Tiên, Thần cũng chịu quỉ tà cũng cam. Dương-trần lắm nỗi đớn-đau, Tu hành chẳng chịu đạo mầu chẳng theo. Cứ lo ngửa mặt cười reo, Trước cười sau khóc khóc rồi lại than. Than rằng: tà quỉ ác-gian, Chẳng cho bá-tánh đặng toàn thây thi. Mấy năm trí óc còn ghi, Lời Thầy để lại có thì sai không. Hòa-Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Sài lang - Sài: tên một giống thú dữ ở rừng giống như chó sói. Lang: chó sói. - Sài lang: tiếng thường dùng chỉ hạng người ác độc. - Vinh quang: rạng rỡ, vẻ vang. - Ích kỷ: chỉ biết lo riêng mình, ai sao mặc kệ. - Võ phu: người có tánh cộc cằn, (cộc cằn: lời nói thô lỗ dễ làm mích lòng người) chỉ biết đấm đá để giải quyết việc không vừa ý. - Gièm pha: đặt điều nói xấu nhằm làm kẻ nào đó bị mất sự kính trọng, không còn được tin cậy. - Dương trần: cát bụi dưới trời, cõi đời nơi con người đang sống; cũng chỉ người đời. - Đạo mầu: nền đạo đầy lý lẽ cao sâu, khó có đủ lời giải thích rõ được. --- oOo --- Thơ của “Ông BÁN CHIẾU” Đại-Thánh là Phật Thích-Ca, Người còn khinh-báng huống ta phàm trần. Vàng thiệt lại nói vàng râm, Khúc nầy vận thới đá mài cũng an. Cơn buồn phải gượng làm càn, Cuộc đời rổn-rổn Phật mà phải kiêng. Trên đời ai tốt bằng sen, Quan yêu dân chuộng rã bèn sạch trơn. Bề ngoài coi thể cây sơn, Xét trong mối mọt ăn mà chẳng hay. Hiện tiền xem lại tốt thay, Mặt hậu ngó kỹ lạnh tanh không ngờ. Mau mau ta hãy bắt bờ, Đặng cho bá-tánh leo bờ nầy qua. Có xạ nào phải bán xa, Giấu trong chỗ kín cũng thơm đầy nhà. Nam-mô sáu chữ Di-Đà, Từ-bi tế độ vậy mà chúng-sanh. Xưa nay sáu chữ lạnh tanh, Kim-Sơn Phật ấy giáng sanh đành-rành. Ngưỡng cầu Thượng-Đẳng Đại Thần, Phải ra trị nước bảo toàn lê dân. Ở nhà tụng niệm đều xinh, Lục châu bát loạn nỡ nào ngó ngang. Bán lộ giang-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật. (¹)1.- Lời soạn giả: Bài thơ này không phải của Đức Thầy, mà chính là của một Dị nhơn (đang đi bán chiếu) viết và trao cho một người tín đồ Phât giáo Hòa-Hảo tại Kiến-An (Chợ Mới, thuộc tỉnh Long Xuyên) đem đến cho Đức Thầy. Theo lời người tín đồ này nói lại, thì trong lúc giữa đường, ông bán chiếu không có đem sẵn viết mực theo; thế mà chẳng biết tại sao không đầy một phút, ông viết được một bức thơ tuồng chữ sắc-sảo, giống hình chữ nôm, mà không một nho sĩ nào đọc được. Liền đó, Đức Thầy mới đọc cho anh em có mặt trong lúc ấy nghe. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Khinh báng: xem nhẹ, khi dể và chế nhạo, nói khích, chê bai. - Vàng râm - Vàng găm: kim loại màu vàng, tánh mát, mài với nước lã, uống giải nhiệt, trị phong. - Rã bèn: sút sổ ra, rớt ra từng mảnh; tan rã. - Xạ hương: chất có hương thơm ở các loài hưu và một số loại cầy (chồn hương) dùng làm thuốc hoặc nước hoa. - Bát loạn: Bát: trừ, dẹp cho yên, sai khiến cắt cử. Bát loạn: dẹp loạn, dẹp giặc. --- oOo --- HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH BỬU châu công luyện chốn non thần, SƠN thủy môn giang bảo giác dân. Kỳ quái chờ nơi Thiên nhứt định, HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân. Phỏng dịch: Hãy chờ Trời phân định. - Chữ Bửu là hiệu Phật Vương – Chốn non Tiên dày công tu dưỡng tinh thần. - Chữ Sơn Phật Thầy – Trách nhìệm phần dạy dỗ và tỉnh thức dân. - Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư – Phải chờ đúng thời cơ do Trời quyết định. - Chữ Hương Phật Trùm - Người tròn vẹn Tứ Ân được thưởng ban, danh thơm bay cùng khắp. -- ··· -- Từ-bi hai chữ sắc nâu sồng, Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công. Vận bĩ xa chờ câu thạnh-thới, Buồn ai châm-chích chữ cay nồng. Hòa-Hảo, năm Kỷ-Mão. --- oOo --- Hỏi HỘI LONG-HOA Long-Hoa hội ấy còn xa, Rán mà tu niệm đặng nhờ thân sau. Phải chi hội ấy hầu gần, Thì Ông hà tất xuống trần làm chi ? (¹) H.H. cuối năm Kỷ-Mão. 1.- Có một bà già 80 tuổi xin Đức Thầy cho biết coi bà có thể sống để coi Hội Long-Hoa chăng ? Đức Thầy đáp lại bằng mấy câu thơ trên đây. --- oOo --- KHUYÊN BỚT CHO VAY Một cuộc phù vân có mấy hơi, Cầu xin bá-tánh nhậm đôi lời. Cho vay mắt-mỏ (mắc-mỏ) từ nay bớt, Có hỏi nới tay để giúp đời. Nạn khổ đâu đâu đều túng rối, Tai ương chốn chốn khắp cùng nơi. Tiền ma gạo quỉ đừng nên trữ, Sau cũng tiêu theo luật của trời. H.H. năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phù vân: xem tr. 74 .- Tai ương -Tai họa: xem tr. 9. - Tiền ma gạo quỉ: tiền có được bằng những trò ma mảnh, gạo làm ra bằng thủ đọạn quỉ quyệt. Nghĩa bóng: tiền và gạo kiếm được bằng hành động không ngay thẳng, khó giữ được lâu bền. --- oOo --- Ông NGYỄN KỲ TRÂN tức Chín Diệm xướng: (¹) Ngàn dậm (dặm) nghe ông có phép tiên, Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền. Thanh manh đôi mắt đường không thấy, Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền. Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa, Ơn ấy bằng non dạ có thừa. Lượng rộng xin ông đừng có chấp, Ngàn vàng dám đổi một lời ừa. 1.- Ô. Nguyễn Kỳ Trân, người làng Định-Yên, tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm. ĐỨC THẦY đáp: Chí đại còn xa chửa phép tiên, Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền. Nhà tôi cũng có bà không thấy, Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền. Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa, Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa. Tríu-mến tâm thành đâu có chấp, Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa. Di-Đà lục tự ấy phương-châm, Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm. Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ. Máy Trời phò hộ phước cho thầm. Khuyên đó lòng son chớ vội buồn, Hữu thành Phật độ ắt qua truông. Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một, Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng. Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tứ khổ: Sanh - Lão - Bịnh - Tử. - Cổ kim: xưa và nay. - Tríu mến - Trìu mến: xin xem trang 121. - Phương châm: kim chỉ hướng bắc trong địa bàn. Đường lối, mục tiêu vạch sẵn của một công việc. --- oOo --- CHẲNG RA HƠI((Ô. Nguyễn-Kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây). Định-Yên cụ lão mới sang chơi, Tâm bịnh bất an khó cạn lời. Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác, Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi. Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão. --- oOo --- KHAN TIẾNG Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng, Mở giọng thi nhân gợi nỗi phiền. Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi, Mực tàu đã cạn ráo ngòi nghiên. Hoà-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão. --- oOo --- Tặng Ông Giáo XOÀI(Tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả, lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc) Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy, Vóc hình mập-mạp học khoa tây. Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ, Ạ, ẹ, a, b đủ một bầy. -- ··· -- Một bầy em trẻ muốn theo tây, Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy. Thương thảm tấm tình hay nóng-nảy, Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say. Hoà-Hảo, năm Kỷ-Mão. --- oOo --- Tặng Ông Giáo ĐÀNG (Lúc ấy ông này đang dạy học tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc) Tâm tánh ngày nay muốn việc lành, Tu hành miệng lưỡi muốn lanh lanh. Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ, Cố chí ngày kia sẽ đạt thành. Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh, Trần-thế lánh xa phải học rành. Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ, Nhân ngã, sân si hãy dẹp đành. H.H. cuối năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đạt thành: được kết quả tốt. - Cao thanh: cao thượng, thanh nhã (cao đẹp, trong sạch), không để ai coi thường mình. - Lục căn: xin xem trang 67. - Nhân ngã: người và ta. Sự phân biệt người và ta. Chỉ sự phân biệt, chia rẽ. - Sân: giận dữ trước nghịch cảnh; hận, ghét. Sau cơn giận dữ lòng còn nuôi oán thù. - Si: mê muội, ngu tối, không hiểu điều sai lẽ phải, không phân biệt lẽ chánh tà, làm sai lạc gây tội lỗi, gây nghiệp ác ... --- oOo --- THI XUÂN Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng, Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung. Áo quần loè-loẹt đi cùng xóm, Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc cung. Chúc mừng năm mới, mới buổi qua, Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà. Tre nêu phơ-phất không còn thấy, Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba. Kỷ-mão năm nay đã hết rồi, Tâm thần hoài tưởng chuyện xa-xôi, Đạo mầu Nam địa càng thâm-dìệu, Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi. Bước qua năm mới, mới mừng à, Khuyến-khích dân tầm đạo Thích-Ca. Tự giác, giác tha ta phải nói, Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa. Xa-hoa năm mới, mới khổ à, Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua. Đạo-lý xem tường âu mới hãn, Rán tìm cặn-kẻ (kẽ) nỗi ma-ha. Năm Thìn bước tới thiệt là rồng, Nanh-gút vẫy-vùng nỗi long-đong. Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ, Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng. Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi ! Thế-giới đao binh ruột rã-rời. Khốn nguy đa sự chào xuân mới, Dân chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi. Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng. Chạnh cám cha còn con chẳng biết, Phải nhờ đạo-đức mới tường thông. Phần ta thương chúng luống âu sầu, Dân sự nào tường nẻo cao sâu. Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối, Nhưng vì bổn-phận phải toan âu. Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi, Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có chơi. Lê-la chậm bước đàng bụi gió, Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời. Mãnh hổ đâu đua chí tang bồng, Rạng mày nở mặt với non sông. Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-thủy, Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông. Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão. (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chí-Diệp giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Loè loẹt: rực rỡ, sặc sỡ. Cách ăn mặc có nhiều màu sắc rực rỡ. - Dẫy đầy: thật nhiều, quá đầy, tràn trề. - Cội thung: xin xem tr. 139. - Cúc cung: xem tr. 121. - Tre nêu: cây tre róc nhánh chừa ngọn, treo mấy lá bùa, có nơi còn treo thêm cái khánh bằng đất nung hoặc các vật bằng kim khí để gió thổi va chạm phát ra tiếng kêu leng keng, dùng làm dấu hiệu đất có chủ, ma quỷ không được xâm nhập phá khuấy. - Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba: theo phép xưa, mồng ba là ngày đi lễ tết thầy học, nhưng về sau này ít ai còn giữ phép lệ cũ ấy. - Hoài tưởng: tưởng nhớ. - Thâm diệu: sâu sắc, hay ho. - Nhơn sanh: xem tr. 52.- Khuyến khích: xem tr. 25. - Tự giác: xin xem trang 66. - Xa hoa: xin xem tr. 69. - Giác tha: giác ngộ cho kẻ khác. Đó là hạnh cốt yếu để độ thế của Bồ Tát. Khi đã giác ngộ thì tùy tiện thuyết pháp khiến cho kẻ khác được khai ngộ, giúp họ rời chốn mê lầm, khổ não trong vòng luân hồi. - Dương thế: thế giới dưới mặt trời. - Chần chờ: dây dưa, lưỡng lự, kéo dài thì giờ. - Đạo lý: xin xem tr. 80. - Bá Nha: xin xem trang 139. - Âu: có lẽ, dễ thường; vậy thì. - Hãn: hẳn, chắc thật. Đạo-lý xem tường âu mới hãn: Có hiểu rành Đạo lý thì đường tu mới vững vàng chắc chắn. - Cặn kẽ: kỹ lưỡng, rành rẽ ; không dư, không thiếu, không bỏ sót. - Ma ha: xin xem tr. 143. - Long đong: xin xem tr. 114. - Nanh gút: nanh: răng nhọn cạnh răng cửa của loài thú dữ để xé thịt ăn. Gút: vút - vuốt: móng chơn bén nhọn của loài thú hay cầm (chim), loại ăn thịt. - Vẫy vùng: hoạt động ngang dọc một cách tự do, không bị kềm chế. Vùng vẫy, động đậy mạnh. - Đao binh: chỉ về giặc, về chiến tranh. - Rã rời: tan tác, tả tơi. - Khốn nguy: ngặt nghèo, khốn đốn, khổ sở. - Đa sự: nhiều chuyện, kẻ hay kiếm chuyện gây gổ.. - Hoàn cầu: thế giới, đủ các nước trên thế giới. - Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh Long: bay bay bổng xuất hiện rồng vàng. - Tường thông: hiểu biết thông suốt. - Luống âu sầu: phải buồn rầu. - Bôn Bắc tẩu Nam: ngược Bắc xuôi Nam, chân đi không ngưng nghỉ. - Cam khổ rối: chịu đựng ngọt đắng đủ điều. - Toan âu: lo lắng. - Nguơn hạ - Hạ-nguyên: xin xem trang 12. - Mấy nhiêu hơi: không có bao nhiêu hơi. - Lê la: la cà (đi) hết chỗ này tới chỗ khác. Đến chỗ này một lát, đến chỗ kia một hồi, chỗ nào cũng ghé. - Tang bồng: đủ câu là “Tang bồng hồ thỉ ”. Cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng. Theo tục xưa của người Tàu, khi sanh con trai thì lấy cung dâu, tên bồng bắn lên trời một phát, xuống đất một phát, và bốn phương bốn phát, hàm ý mong con trai mình sau này mang chí lớn, ngang dọc lo chuyện khắp bốn phương trời đất. - Mãnh hổ đâu đua chí tang bồng: ý chí của người trai ngang dọc trên đời dầu trước sức mạnh của cọp dữ cũng xem thường. - Quân tử: người tài đức, người xử sự cao đẹp. - Nhược thủy: Từ bốn chữ Non Bồng Nước Nhược: chỉ nơi Tiên ở. Bồng Lai, tên một hòn đảo trong biển Bột Hải. Bột Hải có ba hòn đảo: Bồng Lai, Bồng Sơn và Dinh Châu, tương truyền có Tiên ở, chung quanh ba đảo này bao bọc một biển nước rất yếu gọi là Nước Nhược (Nhược thủy), nước không đỡ nổi một hột cải. Nghĩa bóng: cảnh đẹp, nơi thoát tục. - Huyền thông: thông hiểu lý lẽ nhiệm mầu sâu kín của tạo hóa. --- oOo --- CÁM CẢNH DÂN NGHÈO Tết tết cùng năm tháng hết mà, Thằng bần công nợ chạy bôn-ba. Hẹn mai hẹn mốt chờ khai hạ, Con đòi áo tốt rối chàng ta. Năm nay ăn tết thật là nghèo, Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo. Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác, Cảnh đói buông lung nỗi giạt bèo. Nhắn nhủ khắp nơi hỏi một bài, Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai ? Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí, Chẳng biết lệ xưa của ai bày ? Tết rồi tết nữa, tết liền tay, Năm cuối mỗi năm cũng tết hoài. Làm cho dân-sự vui nha-nhớp, Chơi giỡn ba ngày rước xuân lai. Lòng ta cảm thấy nỗi u-buồn, Suy xét việc đời lụy muốn tuôn. Chào xuân chẳng thấy xuân mừng nói, Mê-mệt tâm can trí bắt cuồng. Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp năm Kỷ-Mão. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thằng bần: nghĩa bóng: nghèo - Bôn ba: người đi nơi này tới nơi khác, cực khổ. - Khai hạ: lễ hạ nêu mồng 7 tháng giêng. Hết tết. - U buồn: buồn dàu dàu. - Nạn eo: hoàn cảnh ngặt nghèo, hết sức khó. - Xơ xác: tan tành, tả tơi, trông thảm hại. - Buông lung: luông tuồng, làm hăng tới, không kể nền nếp, không sợ chê cười. - Dân sự: những việc của người dân. - Nha nhớp hay Nhẫn nha: ung dung thư thả tỏ ra không có gì phải vội vàng hoặc bận tâm tới. - Xuân lai: mùa xuân lại đến. - Mê mệt: mệt mỏi. Ví dụ:“Đi chơi thét cũng mê mệt”. - Cuồng: điên, ngông, khùng dại. Ngông nghênh, phóng túng. --- oOo --- HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP Buớc tới hùng ca bước tới hoài, Đạo đời hủy báng mặc tình ai. Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp, Bởi vì cốt-nhục cũng hoài thai. Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ hoài, Cuộc đời lao-khổ thấy chiều mai. Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc, Đến thời Thiên định lối bi ai. Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo mầu, Sao còn hoài tưởng chuyện đâu đâu ? Sự sống người đời, ôi ! thấy khổ, Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền sâu. Hùng ca chuyển pháp kiếm tôi hiền, Thiên-địa tuần huờn chẳng vị riêng. Gian nịnh phản thần, ôi ! nhơ-nhuốc, Gìn lòng trung hiếu sách ghi biên. Ghi biên những kẻ quá lương hiền, Một mực trung thành với Phật-Tiên. Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh, Hiếu hạnh gìn lòng chí ư thiên. Ư thiên Trời Phật chẳng dụng tiền, Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên. Mê-muội ác-hung về địa-ngục, Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên. Non Tiên ra sức tháo dây xiềng, Dân-chúng an nhàn dạ mới yên. Cám cảnh thương đời, ôi ! mê muội, Mong-ước ngày kia giải mộng phiền. Mộng phiền muốn khỏi phải làm sao ? Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào. Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến, Vậy mới rời xa cảnh máu đào. Máu đào khắp nước khổ vô cùng, Nam-Việt dân tình mãi thung-dung. Chẳng lo tu tỉnh cầu Phật-Thánh, Để nước đến chơn mới nhảy đùng. Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu, Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu. Làm sao lo liệu tu cho kịp, Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu. Nhọc cầu bịnh tật nổi nào đâu, Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước Tàu. Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ, Sao còn tranh-đoạt mảng mồi câu. Mồi câu danh lợi chúng dân rầu, Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu. Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc, Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm mầu. Nhiệm-mầu hạnh-đức quá thanh-thao, Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống kêu gào. Dương-gian mau tỉnh trong tràng mộng, Tìm kiếm nơi nào đạo siêu cao. Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta, Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái-hà. Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ, Chờ thời Thiên định thiết hùng ca. KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ, Tà, SƠN đài ra sức dẹp loài ma. THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển, ĐẲNG đẳng dưới trên sớm thuận-hòa. Mong ước ngày kia đặng khải hoàn, Địa cầu sanh-chúng được nhàn an. Bốn biển một nhà Cha: Phật, Thánh, Thì là dân sự hết tàn ngang. Năm tàn tháng cuối cảnh buồn teo, Đón rước bạn xuân lễ quá nghèo. Thượng cổ gần hồi nên sửa lối, Theo nhà Phật-Giáo phải như keo. Dân-chúng chớ nên đốt giấy tiền, Bởi vì Diêm-chúa chẳng tình riêng. Phán-quan tả hữu không dùng hối, Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền. Vàng bạc bởi tay khách trú làm, Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham. Giấy quần giấy áo không nên đốt, Nghĩa chuyện dối ma chẳng đáng làm. Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp Kỷ-Mão. (Chép thao bản chánh do Ông Nguyễn-Chí-Diệp giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hủy báng: xin xem tr. 76.- Nhiệm mầu: xem tr. 14. - Diệu pháp: giáo pháp nhiệm mầu, pháp không thể suy xét bàn luận cho cùng. Diệu pháp của Phật ví như chiếc thuyền cứu vớt chúng sanh khỏi biển sanh tử, ấy là Diệu pháp thuyền, hay Diệu pháp môn. - Cốt nhục: xin xem tr. 17. - Đạo mầu: xin xem tr. 156. - Hoài thai: mang thai, tượng hình trong bụng mẹ. - Diệu vợi: xa xôi, cách trở. - Lao khổ: cực khổ, tốn nhiều sức, mệt mỏi. - Bi ai: trong tình cảnh thật buồn, thật đau khổ. - Hoài tưởng: tr.165. -Huyền sâu-Huyền thâm: tr.10. - Miệt mài: chăm chú vào việc làm một cách say sưa, như không thể buông rời ra được; bền lòng, say mê, chăm chú, không bỏ cuộc. - Tuần huờn: xoay vần, đi giáp vòng rồi lại chỗ cũ, không ngưng nghỉ. Con người cũng vậy, sanh ra rồi chết, lại đầu thai làm người rồi lại chết. - Phản thần: viên quan trở mặt hại chúa, hại nước; kẻ bề tôi phụ bỏ chúa. - Nhơ nhuốc: nhơ nhớp, dơ dáy, bẩn thỉu. - Chí ư thiên: thấu đến Trời. - Nghiệp duyên: xin xem tr. 70. - Ái hà: xem tr. 125. - Nhu nhược: mềm yếu, yếu hèn. Thiếu cương quyết. Ở đây là biết ép lòng nhẫn nhịn. - Máu đào: máu đỏ như màu hoa đào. - Thung dung: thong dong, thong thả, nhàn nhã. - Chững - Chửng: chừng ấy. - Bập bẹ: lời nói chưa rành; mới tập nói. - Tranh đoạt mảng mồi câu: giành giựt miếng mồi (mồi câu cá). Có nghĩa tranh giành danh, lợi. - Kim chỉ: nghĩa ở đây là cần kiệm, dành để. - Vinh hoa phú quí: có chức quyền, giàu sang sống vẻ vang sung sướng. - Nho nhã: dáng điệu thanh bai, người lịch sự. - Hạnh đức - Hạnh: cố gắng sửa mình, giữ gìn đạo lý, xa điều dữ, giúp đỡ người nghèo khó hoạn nạn, lời nói và cách đối xử hiền dịu; dốc lòng tu đến thành đạo. Đức: nghiêm chỉnh, ngay thẳng, lòng dạ hiền, thích làm việc lành - Thanh thao - Thanh tao: lịch sự và xinh tươi. - Dương gian - Dương trần - Dương thế - Thế gian - Trần thế - Trần hạ: đều chỉ nơi con người đang sống, cũng chỉ con người. Xin xem tr. 30 và 166. - Tràng mộng - Mộng tràng: giấc mộng dài. - Siêu cao - Cao siêu: xem tr. 90.- Khải hoàn: tr. 111. - Thanh sắc trẻ: tiếng nói và sắc diện trẻ trung. - Nhàn an – An nhàn: xin xem trang 11. - Tàn ngang: tàn ác và ngang ngược. - Thượng cổ: nghĩa ở đây có thể là sắp trở lại đời thượng cổ - thời thái bình - thời Thượng nguơn. - Giấy tiền: tiền giả đốt cho người chết xài. - Diêm chúa: vua của thế giới người chết. - Phán quan tả hữu - Phán quan: vị quan ở âm phủ giữ sổ bộ ghi rõ ngày chết của mỗi người. Tả hữu: hai vị phán quan ngồi bên trái và phải Diêm vương. - Không dùng hối: không ăn hối lộ - của lo lót. - Vàng bạc: giấy phết màu vàng và màu bạc giả làm vàng và bạc đốt cho người thân dưới địa ngục xài ... - Khách trú: người Tàu sanh sống ở Việt-Nam. - Giấy quần giấy áo: quần áo bằng giấy đốt cho người thân ở điạ ngục xài. --- oOo --- ĐÊM BA MƯƠI Đêm nay mới cũ hiệp hai đàng, Xuân nhựt lễ nầy tại thế gian. Mèo rồng cao thấp chơi cùng giỡn, Đông hạ xuân sang khắp địa hoàng. Bóng trăng vắng mặt, tối tối hoài, Hai giờ hiệp mặt, hai giờ hai. Một đêm mới cũ cùng nhau gặp, Tức cảnh thi văn nhả một bài. Một bài từ cũ mới ngày mai, Tiếng pháo xa xa vẫn đốt hoài. Dân ta nghèo túng về Đạo-đức, Chơi giỡn đua-bơi mãi tối ngày. Một lúc lâu lâu một tiếng đùng, Đúng giờ cũng rước ông bà chung. Từ-bi hai chữ ta ngồi tưởng, Không có xu mua đốt miệng hùn. Hoà-Hảo, đêm 30-12 Kỷ-Mão.NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Xuân nhựt: ngày xuân, ngày tết. - Mèo rồng: năm Kỷ Mão và Canh Thìn. - Địa hoàng: ở đây chỉ vùng đất quê hương. - Hùn: chung nhau góp mỗi người một ít. Hùn tiền đi ăn. Hùn vốn mua bán. Xía vô, cười hùn. --- oOo -- NHỮNG BÀI SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN (1940) CỜ TAM SẮC Tam sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam sắc, Gặp cảnh vong bang ứa ruột-rà.Lúc Đức Thầy ở nhà thương Chợ-Quán, Ngài có gởi về Hòa-Hảo bài dưới đây và dặn bôi bỏ bài trên. Anh em bổn-đạo lúc đó chưa hiểu vì sao Đức Thầy bảo sửa. Bỗng một bữa nọ, Cai-Tổng Pho đến nhà Đức Ông đem vấn-đề thi-văn của Đức Thầy ra nói chuyện, có ý muốn làm khó dễ Đức Ông về bài thi “Cờ Tam sắc” nói trên. Liền đó, Đức Ông bảo ông Hương quản Diệp (ngẫu nhiên có mặt trong lúc đó) đọc bài dưới đây. Nghe xong Cai-Tổng Pho vổ tay nói:“Vậy mà người ta nói lại khác chớ !”. Tam sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn khoan-khoái cõi lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam sắc, Nay hiệp Tây-Đông thể ruột-rà. Hoà-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940).(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chí-Diệp giữ). --- oOo --- ĐẦU NĂM Đầu năm tục lệ gọi ngày mùng, Tiếng pháo đốt hoài cũng thấy chung. Xóm trên xóm dưới cùng nhau đốt, Khúc giữa phần ta mãi nghe hùn. Nghe hùn lỗ nhĩ cũng lùng-tung, Ngày một tiếp xuân mới vô cùng. Mèo lui rồng tới bay vơ-vẩn, Thế-giới chiến-tranh nổ khắp bùng. Mồng một năm nay rõ thiệt Thìn, Hẹn cùng non nước vẫn đinh-ninh. Cố chí tấm lòng gìn đạo-đức, Mặc tình bá tánh chẳng thèm tin. Nam-hải Quan-Âm lấy tịnh bình, Cầm nhành dương-liễu rảy tà tinh. Quyết lòng độ tận trong sanh-chúng, Ai ghét ai ưa cũng mặc tình. Xuân sang ảm-đạm ánh dương mờ, Thệ quyết một lòng chẳng bỏ ngơ. Có sông có núi cùng cây cỏ, Độ tận chúng-sanh khỏi dại khờ. Lòng ta gặp cảnh rối tơ vò, Gan ruột phổi phèo một bộng to. Lo hoài lo mãi không sao xiết, Tiên cảnh chúa tôi vẫn hẹn-hò. Hò-hẹn Phật-Tiên hiệp một ngày, Một ngày thế-giới khỏi bi-ai. Trung-Ương tam cõi đều hòa mặt, Ta mới thảnh thơi trở gót hài. Gót hài muốn trở phải làm sao ? Đạo-đức thâm sâu hãy bước vào. Sớm chiều lo liệu rèn tâm trí, Niệm tưởng Phật Trời thỏa ước-ao. Hòa-Hảo, ngày mồng 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940).(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn- Chí-Diệp giữ) NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Vong bang: mất nước. - Tục lệ: xin xem tr. 83. - Bá tánh: xin xem trang 12. - Lỗ nhĩ: lỗ tai. - Lùng tung: cùng khắp, bừa bãi. - Đinh ninh: tin chắc việc đó phải xảy ra; chắc chắn. - Mặc tình: để tùy ý thích của mỗi người; tùy ý, ai muốn nghĩ sao cũng được. - Nam Hải Quan Âm: tức đức Quan thế Âm Bồ Tát ở Nam Hải.Phổ Đà sơn có đền thờ. - Tịnh bình: bình nước cam lộ của Phật Quan Âm. - Cam lộ: sương quí, tinh hoa của thần linh, thơm ngọt, còn gọi rượu của trời. - Ảm đạm - Ảm: sắc đen đậm. Đạm: lạt. Một sắc đen lờ mờ không đậm hẳn. Chỉ cảnh vật hoặc nói về người. Cảnh vật thê lương, buồn thảm, đen tối. - Độ: xin xem tr. 79. - Thảnh thơi: xin xem tr. 55. - Độ tận: cứu, dìu dắt tất cả không để sót một ai. - Tơ vò: cuộn tơ bị vò rối, chỉ công việc đang rối rắm hay lòng đang rối rắm. - Hẹn hò: hứa hẹn chắc, có ngày giờ, nơi chốn. - Tam cõi-Tam giới: Dục giới-Sắc giới-Vô sắc giới. - Dục giới: Kâmadhâtu hay Kâmavacara (scr) cảnh giới của các chúng sanh ưa thích về ngũ dục (5 ham muốn) sắc dục: (sắc đẹp phụ nữ) thinh dục (tiếng nói), hương dục (mùi hương), vị dục (mùi vị), xúc dục (đụng chạm xác thịt). - Sắc giới: Rûpâdhâtu, Rûpâvacara (scr) trên dục giới, cảnh giới của các đấng không còn ưa muốn, song còn hình thể. Tức cõi của chư Tiên, chư Thánh, tu hành đã thành đạo. - Vô sắc giới: Arûpadhatu (scr). Ở cõi này chư Tiên chỉ còn giữ tâm thức, chớ không còn giữ hình sắc. - Tâm thức: toàn về tinh thần, sự sống về phần hồn. - Ước ao: mong muốn, hy vọng. --- oOo --- ĐỐT PHÁO XUÂN Lẹt-đẹt rồi đây lẹt-đẹt bùng, Đùng-đùng lẹt-đẹt nổ lùng-tung. Lùng-tung lúng-túng dân ta túng, Ngao-ngán cho xuân lão bắt khùng. Đoái thấy xa xa một cái đèn, Ngoài đường trời tối thiệt len-nhen. Tiết xuân buồn-bã vì ngập lúa, Nên phải ăn chơi cách quá hèn. Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940).(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chí-Diệp giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lẹt đẹt: đì đẹt hay lụp bụp là tiếng pháo nổ chậm từng tiếng nhỏ. - Lúng túng: trong chỗ chật chội khó day trở; bối rối, luống cuống. - Túng: thiếu hụt tiền nong; gặp khó khăn về tiền bạc trong đời sống. - Ngao ngán: chán nản, không còn ham muốn. - Len nhen - Lem hem: không trông rõ; lờ mờ. --- oOo --- TỐI MỒNG MỘT Nhuần gội ơn trên rải Đạo mầu, Thương đời chỉ-vẽ nẻo cao sâu. Khai rừng kinh kệ câu huyền-bí, Để cứu nhơn-sanh khỏi thảm sầu. Hương đăng nghi-ngút lễ vọng cầu. (¹) Cám lòng bá-tánh nguyện từ câu. Chí quyết một lời ta độ tận, Dắt chúng lánh xa cảnh mộng sầu. Giữ nguyện đinh-ninh tiếng tạc thù, Làm lành đâu phải tốn tiền xu. Mà sau lại được về Tiên cảnh, Thêm thoát ngục mê chốn Diêm-phù. Diêm-phù chơn Chúa chọn người tu, Hành phạt ác-hung chốn cửa tù. Tiếp nghinh những kẻ lòng nhơn-đức, Hỡi bớ dương-trần hãy rán tu. Rán tu vẹt phá đạo lu-bù, Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu. Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý, Một ngày hội hiệp hết mờ lu. Mờ lu được sáng rắn hóa cù, Hiệp mặt phân trần nỗi ám-u. Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp, Khắp hết thế gian thoát chốn tù. Chốn tù vốn thiệt cõi ta-bà, Tiên cảnh được về mới lánh xa. Chúng sanh chìm đắm trong vòng khổ, Khuyến dạy bởi vưng sắc Ngọc-tòa. Ngọc-Tòa Phật-Tổ nấy sai ta, Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà. Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu-pháp, Cho đời thấy rõ Đạo ma-ha. Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi đa, Bước xuống đi qua bến giác mà. Sao hỡi còn chờ ta réo mãi ? Dân tình xem giảng cứ ngâm-nga. Ngâm-nga việc khổ tới bên a, Bổn phận tu hiền phải lánh xa. Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ, Chớ đừng thi-thố những tài ba. Tài ba khoe sức uổng thây mà ! Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến ca. Tỉnh thức nhơn dân đang mờ ám, Nên làm thi phú đặng ngâm-nga. Ngâm-nga hiểu nghĩa đáng kim ngà, Huyền-bí nhiều lời chỉ thiệt xa. Bổn-đạo rán tìm cho cặn-kẽ, Lòng hiền Phật độ khỏi tinh-ma. Hòa-Hảo, đêm mồng 1 tháng giêng Canh-Thìn. 1.- Đêm ấy ông Hương-Kiểm Chương và anh em ở Hưng-Nhơn (Châu-Đốc) đến dưng bông lễ Phật. Ông Nguyễn thanh-Tân có họa mấy chục bài thi xuân trên đây, nhưng xin miễn đăng. (Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chí-Diệp giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nhuần: mưa tưới khắp. Nhuần gội: nhận ơn mưa móc của đấng bề trên. - Kinh: những bài Đức Phật giảng giải về đạo lý được chư đệ tử gom kết lại. - Kệ: những bài thi ca kể công đức Phật, Bồ Tát. - Huyền bí: khó hiểu, không lấy mắt thường thấy được, không thể dùng trí óc bình thường hiểu và cũng không đủ lời giải thích rõ được. - Thảm sầu: chuyện thật đau đớn buồn rầu. - Vọng cầu: khấn nguyện, cầu xin ơn chư Phật. - Cám lòng: nghĩa ở đây là cảm động về lòng thành của bá tánh. - Tạc thù: mời uống rượu qua lại giữa chủ và khách. Tới lui giao thiệp, đàm đạo với nhau. - Diêm phù: Jambudvipa (scr) tức Diêm phù đề, chỉ trái đất ta (địa cầu) đang sống. - Nhơn đức: hiền lành, tốt bụng, xử tốt với người. - Lu bù: lung tung, lộn xộn, không có thứ tự. Chỉ nền đạo không chơn chánh. - Rắn hoá cù: rắn thành rồng. Cù: giống thú linh (theo tưởng tượng của người Tàu) một loại với rồng, đầu nhỏ hơn đầu rồng, có một gạc. (gạc: sừng). - Phân trần: giải bày cặn kẽ, tha thiết, để người khác hiểu mà thông cảm không nghĩ xấu về mình. - Ám u: đen tối mịt mù. Nghĩa bóng: những băn khoăn, lo buồn về cảnh khổ của nhân gian. - Ta bà: xin xem tr. 98. - Diệu pháp: xin xem tr. 172. - Khuyến dạy: khuyên, dùng lời dịu dàng để người nghe vui vẻ làm theo sự chỉ dạy của mình. - Sắc Ngọc tòa: lịnh của Phật. - Nấy: người, cái vừa nói đến trước đó; người ấy. Chữ nấy ở đây chỉ Đức Phật Tổ. Ví dụ: Thầy nào trò nấy. Cha nào con nấy. - Vạy tà: không ngay thẳng, không chánh đáng; gian manh, xảo quyệt.. - Đạo ma ha: nền Đạo lớn. Ma Ha: xin xem trang 143. - Bến giác: xin xem trang 141. - Réo: gọi to tiếng từ xa, tiếng kêu cao giọng. - Ngâm nga: đọc với giọng khi lên cao lúc xuống thấp và kéo dài. Nghĩa ở đây là ngâm nga chơi chớ không hiểu ý nghĩa. Ngâm nga cho đỡ buồn. - Thi thố: đem hết tài năng, sự hiểu biết ra dùng vào một công việc nào đó. - Tài ba: cái tài, hay, khéo, giỏi, có khả năng... - Nhựt dạ: ngày, đêm. - Khuyến ca: lời ca có ý khuyên dạy, khuyến khích, gắng công, gắng sức. - Tỉnh thức nhơn dân: giảng dạy cho mọi người thấy hiểu điều hay lẽ phải, biết đạo lý. Nghĩa nhà Phật là Giác ngộ. Nghĩa thông thường là thức dậy, tỉnh dậy sau cơn mê; thấy biết mình sai lầm mà cố gắng sửa đổi. - Kim ngà: vàng và ngà. Hai vật quí. - Bổn đạo: xin xem tr. 86.- Cặn kẽ: xin xem tr. 166. --- oOo --- Thầy giáoXOÀI (tức SOÀI tức MẠNH-XUÂN-QUẢ) xướng: Đạo-đức bao nhiêu dám gọi Thần, Bia danh mô-phạm để lừa dân. Trời Âu tấn hóa nhờ khoa-học, Đất Á suy đồi tại biếng thân. Nhồi sọ nhơn-sanh kêu thức tỉnh, Mê hồn bá tánh gọi người ân. Dạy đời mở Đạo mình coi dở, Sánh lại khác xa Việt với Tần. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bia: tấm đá hay sạn đúc, trên khắc chữ với ý ca tụng, kỷ niệm hay đánh dấu. - Bia danh: nêu danh, ghi việc làm nổi danh để tiếng tốt về sau. - Mô phạm: khuôn mẫu, tư cách để làm gương cho người sau noi theo. – Suy đồi: xin xem trang 105. - Tấn hóa: xin xem tr. 89.- Khoa học: xin xem tr. 90. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Ngu muội Khùng Điên chẳng thuyết Thần, Đôi lời cuồng-sĩ gọi lòng dân. Văn-minh lợi dụng nhờ hay học, Giỏi chữ loè đời để lập thân. Ham sướng dương-trần ôi ! khó tỉnh, Ưa vui dân sự chẳng thi ân. Ỷ mình chê chúng rằng hay dở, Ganh ghét hiền nhu thứ ác Tần. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thuyết: nói với nhiều lý lẽ để người nghe theo mình. Việc nêu ra có hệ thống, mạch lạc để lôi cuốn người nghe theo. Bàn chuyện, kể chuyện. - Cuồng sĩ: người học trò điên. Người học thức rộng mà phóng túng, không tùng phục, không vị nể một ai. - Văn minh: xin xem trang 88. - Lợi dụng: nhờ có học tìm đủ cách kiếm tiền dầu phải gây hại cho kẻ khác. - Loè đời: tánh hay làm sang, khoe giỏi. - Hiền nhu: người học nho đức hạnh cao, hiền. - Ác Tần: vua Tần (Tần Thỉ Hoàng - Tàu) đốt sách, chôn sống học trò. -- ··· -- Thầy giáo XOÀI xướng: Biết ai là Thánh biết ai Thần, Học hỏi thầy mô dám dạy dân. Khuyên-nhủ thiện nam nên để tóc, Vỗ-về tín nữ lại tu nhân. Niết-bàn dành để người phàm tục, Trần-thế màng chi cuộc ái ân. Muốn dắt đồng bào qua bể khổ, Đạo mầu xin luyện mấy non Tần. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Mô: đâu, nơi nào, tiếng hỏi nơi chốn: ở mô, nơi mô. - Khuyên nhủ: chỉ dạy, nhắc nhở với lời lẽ dịu dàng mà không có ý bắt buộc. - Thiện nam - Tín nữ: xin xem trang 15. - Non Tần: chỉ núi Tà lơn (núi Popok-vil) thuộc tỉnh Kampot – Miên. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Đâu màng bá tánh gọi danh Thần, Tự giác huyền cơ để giáo dân. Bắt chước ông cha ta để tóc, Noi theo tổ phụ đặng gìn thân. Lòng yêu chi sá lời thô tục, Dạ ái đâu cần chúng đáp ân. Hồng-Lạc chỉ đường qua cảnh khổ, Kìa ai chớ tập tánh dân Tần. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tự giác: xin xem trang. 66. - Huyền cơ: xin xem tr. 11. - Giáo dân: dạy đạo cho dân. - Thô tục: cộc lốc, tục tằn. Lời nói thô tục là lời nói không lịch sự, thiếu lễ độ. - Dạ ái: lòng thương yêu. - Hồng-Lạc - Hồng Bàng, tên triều đại và Lạc Long Quân là Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. -- ··· -- Thầy giáo XOÀI xướng: Mê-tín dị-đoan mới tặng Thần, Noi gương hiền-triết lại chăn dân. Sám kinh lấy nể răn truyền giáo, Giảng dạy là mưu để ấm thân. Khai sáng đứa mù đời trách oán, Làm ngu kẻ trí gọi là ân. Ông ôi ! nay đã bao nhiêu tuổi ? Sao chẳng có lo cuộc Tấn Tần ? NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Mê tín - Dị đoan: xin xem trang 41. - Hiền triết: người học giỏi, thấy xa hiểu rộng có lời hay lẽ phải dạy đời. - Sám - Sấm: lời nói về những việc lớn sẽ xảy ra, có quan hệ tới nước non và vận số của dân tộc, ẩn trong các câu văn tối nghĩa, chỉ hiểu khi chuyện đã xảy ra. Sấm Trạng Trình, Sấm Phật Thầy Tây An. - Nể: kiêng dè, kính trọng. - Truyền giáo: truyền rộng ý nghĩa của tôn giáo. - Mưu ở đây là mưu sinh: cách làm ăn để sống. - Khai sáng: sáng lập, gầy dựng một sự nghiệp. - Tấn-Tần: nước Tấn và nước Tần, hai nước vào thời Chiến quốc ở Trung Hoa, các đời vua thường kết thông gia với nhau để tạo lợi thế chánh trị. Thường dùng chỉ nghĩa chồng vợ. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Lọc lẽ tà tâm ấy gọi Thần, Trượng phu người phải biết thương dân. Nồi cơm thiếu bữa tranh nghề giáo, Trách cá hụt dùng đoạt mối thân. Ở phải giúp giùm sao nói oán ? Ôi thôi, làm mướn chớ rằng ân. Đạo đời chẳng luận người cao tuổi, Xin miễn cho ta cuộc Tấn Tần. -- ··· -- Chẳng phải lòng ta muốn họa thơ, Ví như văn-sĩ đáp lời ngờ. Đạo mầu giữ phận không cao thấp, Ai đọc qua rồi phải bỏ lơ. -- ··· -- Thi phú dầu cho thấu đến tai, Cũng đừng giận-giũi mới là hay. Bóp lòng chìu ý nên lời trả, (¹) Tôn-chỉ người tu sái việc bài. -- ··· -- Tôi làm như thế khác lời tu, Giả dạng nhà nho muốn trả thù. Người xỏ tới mình mình đáp lại, Chớ tình chẳng chịu viết thi ru. Hòa-Hảo, Tết năm Canh-Thìn. 1.- Đức Thầy không muốn trả lời ba bài thi của thầy giáo Xoài, nhưng vì ông giáo Long, người đưa thơ, cố nài-nĩ nên bất đắc dĩ Ngài mới chịu đáp họa. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Trượng phu: người đàn ông có chí khí hơn người. Mạnh Tử định nghĩa như sau:“Giàu sang không làm cho say đắm, nghèo hèn không không làm cho đổi dời, oai võ không làm cho khiếp sợ, ấy mới gọi là trượng phu”. Ca dao: “Đứng trượng phu không thù mới đáng. Bực anh hùng đừng oán mới hay”. Trượng phu cũng là tiếng vợ gọi chồng. - Trách (cá): nồi đất hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình ra, nhỏ hơn cái trã. Ca dao: “Không lấy cũng khuấy cho hôi. Làm cho bể trách vỡ nồi cho coi”. - Thi: bài văn nhiều câu có vần có điệu, có niêm luật, do cảm hứng đặt ra. - Phú: thể văn thời nhà Đường (Tàu) có vần, có đối và theo luật bằng trắc. - Tôn chỉ: xin xem trang 19. - Ru: xin xem trang 54. --- oOo ---
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA (làng Bình-Thủy, Tỉnh Long-Xuyên) xướng: Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm, Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm. Phanh luyện ô kim mong điểm đạo, Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm. Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển, Phật Lão hư không bí khuyết thầm. Thị nhị giáo-sư đoàn thuyết-pháp, Tảo tương thích điển chúng-sanh tầm. Phỏng dịch: - Thỉnh cầu Tiên Phật ban lời ngọc vàng chỉ dẫn. - Tiếng Phạn lưu truyền nghĩa quá cao sâu. - Mong được bực tôn quý chỉ điểm đường đạo lý. - Trong dịp vân du xin dạy cho mở mang tâm trí. - Hai vua Thuấn Nghiêu chịu gian nguy này đến gian nguy khác mới được nổi danh. - Thuyết hư không và huyền bí của đạo Phật và đạo Lão còn thiếu sót chăng ? - Ngài đây là vị thứ hai giảng giải giáo lý nhà Phật. - Dạy kinh điển cho chúng sanh sớm học hỏi tìm tòi. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Mã hồi nhơn diện ngã kim châm, Pháp-giáo phạn-văn bát diệu-thâm. Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo, Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm. Môn-gia khảo sát lai duy hiển, Vị-khí nan thông ký cảm thầm. Ngã thị vô biên nhiên lập pháp, Hòa giai Nam-đỉnh tác thi tầm. Hòa-Hảo, mùng 1 Tết năm Canh-Thìn. Phỏng dịch: - Thoát kiếp ngựa lên làm người, nên giữ tánh người, lời ta muốn nói. - Giáo lý nhà Phật bằng tiếng Phạn thật cao xa. - Chốn Già lam nếu trong sạch thẳng ngay thì sao còn thiếu Đạo đức. - Muốn lòng người tin phục, Phật giáo phải trở về nguồn gốc, là việc làm rất khó. - Cẩn thận tìm hiểu nền đạo lớn trong đời. - Nghĩa lý của kinh văn nếu khó hiểu thì phải chân thành ghi nhớ. - Đây là điều khiến ta lập giáo pháp vô biên này vậy. - Nơi đỉnh núi đẹp phía Nam, ta làm thơ bày tỏ, nên tìm hiểu nghĩa lý bên trong. -- ··· -- Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng: Chúng-sanh tầm đắc đạo nan minh, Bửu-bối trừng tâm thể dụng tinh. Cầm-kiếm đảnh lư an trí thủ, Càn khôn nhựt nguyệt vị đồng linh. Siêu phàm ôn dưỡng âm-dương số, Nhập thánh đề khai thế-tục tình. Thái-Thượng, Thích-Ca luân kiếp giáo, Đơn song đồ-đệ cổ kim minh. Phỏng dịch: - Chúng sanh tìm đạo nhưng khó tường thông. - Lòng ước ao như có được của báu quý. - Nhưng chỉ là kẻ cầm gươm đứng yên trên đất. - Nhìn trời, trăng cùng những ngôi vị trên không. - Ngài là bực siêu phàm hiểu rành âm dương số. - Xin thánh nhơn mở đường dẫn dắt kẻ tục phàm. - Là Thích Ca, Thái Thượng luân phiên giáo hóa. - Hay học trò của một trong hai vị thông suốt việc xưa nay. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Chúng-sanh khố diệt diện nan minh, Ly cấu từ-bi cái thế tinh. Nhan-Thước duyên-do tam diễn thủ, Can trừ danh-vị nã kỳ linh. Ngộ thâm nan liễu âm-dương số, Xác tục trần gian cố dục tình. Thổ phỉ nam lương toàn khuyến-giáo, Tâm tồn ngôn xuất biện kim minh. Phỏng dịch: - Người đời hủy bỏ cái kho chứa trước mặt rõ ràng là điều khó. - Xa lánh cõi đời bụi bặm lòng từ bi đó hơn hẳn thế tình. - Duyên cớ nào Nhan Hồi và Biển Thước phải ba phen gìn giữ lấy mình. - Không để dính dáng đến danh hiệu và ngôi thứ, mới lạ lùng kỳ diệu. - Rất khó khăn tìm hiểu về mạng số con người và sự vận hành của Trời Đất. - Thói quen của con người là lòng ham muốn. - Khuyên răn dạy dỗ tất cả, từ người hiền lành đến bọn giặc cỏ. - Nói rõ ràng những lời trong tim cho người đời nay xem xét và phân biệt. -- ··· -- Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng: Hội trung bửu-cái cổ-kim truyền, Tri giác hư linh kế lập thiên. Siển, triệt phân-minh Châu-Võ kỷ, Âm, dương chuyển luyện Hớn-thê tiên. Lôi-Âm kinh-ký khai đàn-việt, Sơn-Thứu từ tăng phản bổn nguyên. Gia bác na thời di phổ hóa, Huyền-cơ như thử kiếp trần yên. Phỏng dịch: - Xưa nay lọng báu trong đời được truyền lưu. - Linh hồn tri giác tuy không thực nhưng trời sắp đặt tự nhiên. - Chuyện vua Châu vua Võ ghi rành mạch chánh giáo (siển) và tà giáo (triệt). - Dùng phép xoay chuyển âm dương để luyện thuốc tiên thời nhà Hán. - Ghi chép lại kinh ở chùa Lôi Âm để mở mang cho tín đồ nhà Phật. - Các nhà sư tu hiền ở núi Linh Thứu trở về nguồn gốc, tức Phật tánh của mình. - Trong thời gian ngắn đi dạy dỗ khắp nơi.. - Máy trời mầu nhiệm, kiếp người yên trong cát bụi. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Bửu gia nan hối thế-gian truyền, Tam thế hư không tế kiệm thiên. Nhơn ngã hạ-nguơn phân bất kỷ, Qui hồi thượng-cổ bút thê tiên. Chất âm, thinh, sắc phi tiêu-diệt, Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên. Lập chí hiền-nhu đương kế hóa, Thi thần ký chú định hòa yên. Phỏng dịch: - Lời thế gian truyền lại: khó răn dạy nhà quyền quý. - Ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều trống không, hãy cần kiệm để dành giúp đỡ người. - Người thời hạ nguơn phân biệt ngã nhơn. - Thượng nguơn trở lại thấy các bực Thần Tiên. - Âm thanh, sắc tướng chưa diệt dứt. - Đóng cửa mành tre giữ sạch trong. - Lập chí hiền hòa cảm hóa người đời. - Lời thi ghi lại làm theo sẽ bình an. -- ··· -- Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng: Ngọc quang cảnh nội chủ càn-khôn, Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn. Âu-Á chiến-tranh thùy thắng lợi ? Kim lê uổng-tử sắc hà môn ? Hà môn giáp tý giáng lâm trần, Đào-tạo lương-tâm khổ não dân. Xuất-hiện mạng chơn phi quyết chiến, Cấu ai trị địa hội quân thần. Phỏng dịch: - Ngài như ngọc sáng làm chủ đất trời. - Kính Ngài là bực tôn trưởng một trong ba ngôi (Nho - Thích - Lão). - Cuộc chiến tranh Âu và Á ai sẽ được thắng ? - Tại sao để dân hiền chết oan uổng ? - Giáp Tý vị nào xuống trần gian ? - Để dân hiền trong cảnh lầm than. - Chân nhân xuất hiện không gây chiến. - Vua tôi ai người cứu nước khỏi buồn đau. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Thành tha ngũ nội nã càn-khôn, Cái thế vô linh mạng thích tôn. U lịch bá trừ nô bính lợi, Tiền đồ lê dị đắc giang môn. Tam thiên lục bá giáng lâm trần, Khóc tử lang tâm biến họa dân. Tà quái hạ nguơn khai ác-chiến, Ất niên bình thự kiến quân-thần. Phỏng dịch: - Sự chân thành từ trong năm nội tạng (tim, gan, lá lách, phổi, thận) có thể dắt dẫn đất trời. - Đạo của Đức Thế Tôn vô cùng linh diệu. - Non trăm năm là thời kỳ không còn nô lệ. - Tương lai tươi sáng của dân tộc ở cửa sông báu. - Ba ngàn sáu trăm người xuống trần gian. - Lòng dạ lang sói gây cho dân lầm than chết chóc. - Hạ nguơn quỷ tà gây chiến tranh tàn khốc. - Năm Ất hòa bình, trời rạng đông vua tôi gặp gỡ. -- ··· -- Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng: Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương, Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường. Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị, Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương. Mã lai thủ thị danh thương pháp, Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường. (¹) Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu, Tứ minh tam vị hiển văn-chương. Phỏng dịch: - Một lời chấn chỉnh mối giềng non nước Việt. - Quẻ Văn Vương miệng chưa đọc đã tuờng thông. (chiết tự: Trạng Trình). - Lời lành việc thiện trần thế không hai. - Người đi trong tối lòng mờ mịt (chiết tự: Cử Đa). - Ngựa quay về danh tướng giữ thần thương. - Dang tay cứu nạn dân oan khổ (chiết tự Đề Thám). - Làm thơ xin được hỏi quý cao danh. - Ngài phải một trong ba vị tỏ ở thi văn. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương, Háo thắng bi ly đạo khổ tường. Tể tướng Cam phong an diện nhị, Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương. Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp, Phật-lý di khai đại-hội trường. Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu, Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương. Phỏng dịch: - Trở lại chấn hưng Đạo, chuyển hóa mối giềng và phong tục. - Hiếu thắng (tranh hơn thua) là con đường buồn khổ với chia ly. - Như Tể tướng Cam La giữ yên hai mặt (đạo - đời). - Người họ Hàn (Hàn Tín) đã qua bài học về lòng ngay thật. - Đạo Phật ở thế gian rất cao sâu. - Truyền bá giáo lý nhằm khai mở cho người đời. - Ngoài ba trăm năm đó chính là danh hiệu. - Một bút trong rừng văn đã sáng tác ngàn chương. Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn. 1.- Nếu chiết tự 6 câu đầu của bài này thì chúng ta thấy mấy chữ sau đây: Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám. Ông Huỳnh-Hiệp-Hòa muốn hỏi coi Đức Thầy có phải là một trong ba ông đã kể trên đây chăng ? NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Cảm hóa: dẫn dắt người bằng tình cảm, dùng lời lẽ êm dịu, chánh đáng, hoặc cử chỉ, hành động đứng đắn, nhơn từ, biến cải tâm hồn kẻ khác khiến họ trở nên tốt đẹp. - Nghiêu Thuấn - Nghiêu: một vị vua thời cổ của Tàu, một trong Tam Hoàng Ngũ Đế, cũng được gọi là Giao Đường Thị, hay Đường Nghiêu. Ông sinh tại Nhân Phóng Huân hay Nhân Kỳ, là con trai thứ hai của Khốc Đế và Khánh Đô. Ông được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, kinh đô ở Bình Dương (nay thuộc Sơn Tây - Tàu) là vị vua hiền, siêng lo việc nước, hết lòng chăm sóc thương yêu dân. Lòng nhân từ và sự cần cù của vua Nghiêu được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế Trung Hoa khác. Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi vua lúc mới 20 tuổi, chết khi 119 và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người hiền, được ông gả cho hai cô con gái từ trước chớ không theo thói thường cha truyền con nối. Vua Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây. - THUẤN: vị vua thời Trung Hoa cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Tên khi sinh là Diêu Trọng Hoá, cũng gọi Hữu Ngu Thị hoặc Đại Thuấn hay Ngu Thuấn. Ông được Vua Nghiêu gả hai con gái và đưa lên ngôi khi 53 tuổi, đặt thủ đô vương quốc tại Bồ Bản (Sơn Tây hiện nay), là ông vua vừa có hiếu vừa có tài trị nước. Những người phụ tá vua Thuấn vừa nghe gà gáy sáng đã vội vàng trở dậy để làm việc thiện. Vua Thuấn tại vị 48 năm, chết khi 110 tuổi, sau khi trao ngôi báu cho Hạ Vũ. - Hư không - Hư: trống rổng. Không: không có. Không có gì cả. Không thực. - Huyền bí: xin xem tr. 181 .- Giáo pháp: xin xem tr. 20. - Châm ngôn: lời khuyên răn, răn dạy đặt để có vần có điệu dễ nhớ. - Chỉnh đốn - Chỉnh: sửa sang. Đốn: sửa soạn, sắp đặt. Sắp đặt lại để được hoàn hảo. - Bí hiểm: kín đáo, những vấn đề bên trong khó hiểu. --- oOo --- Ông HUỲNG-TRUNG-HÒA xướng: (Thầy ba Tươi ở làng Kiến-An Long Xuyên) Lưng-chừng khó hiểu khách trần-gian, Sớm mặn chiều chay lắm nhộn-nhàng. Đặc đất phấn tình tô láng mép, Cả trời lửa chướng đốt nồng gan. Khéo đam điệu hạnh trêu màu Phật, Đành để xương da nhượm máu phàm. Riêng tưởng trồng gieo rừng bác-ái, Những mong trông ngóng đến Thiên-đàng. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Từ rày đặng nẻo lánh trần-gian, Chẳng hiểu mặn chay mới nhộn-nhàng. Ngao-ngán cho người ôi quá mép, Thương đời mê-muội luống bầm gan. Đạo-mầu chẳng hiểu nên lừa Phật, Hiển diệu ra cơ giác tỉnh phàm. Dạ luống ước-mong đời bác-ái, Quyết lòng chỉ rõ nẻo Thiên-đàng. Hòa-Hảo, mùng 3 Tết Canh-Thìn.NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nhộn nhàng: rộn ràng, lộn xộn, rối rắm. - Hiển diệu: hiện rõ cái hay, sự nhiệm mầu. - Cơ: lời báo trước, việc quan trọng sẽ xảy ra. - Giác tỉnh phàm: giải thích cho người đời bỏ dữ về lành, biết đạo lý, tu hành. --- oOo --- VIẾNG NON ÔNG KÉT (Kéc) Non Tiên gió mát toại lòng thay, Tức cảnh thi văn nhả một bài. Cố tưởng ước mơ về nhược-thủy, Ngặt vì không cánh lấy gì bay. Dắt xác phàm-phu viếng non Đoài, Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay. Chư sơn Bảy núi đều qui tựu, Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày. Nhìn xem cây lá gió lung-lay, Sáng lại lui chơn trở gót hài. Vậy hỡi chư Thần mau nối gót, Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay. Lầu đài núi Cấm lộ nay mai, Thức-tỉnh chúng sanh mới tỏ bày. Khuyên dạy dân tình minh đạo-đức, Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai. Trên non, ngày 14 tháng giêng năm Canh-Thìn.(Đức Thầy đọc bốn bài nầy cho ông Hương-giáo Tập ở Thới-Sơn (Châu-Đốc) viết lại trên non, và khi về nhà, Đức Thầy còn đọc lại cho anh em tín-đồ chép). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chúng sanh: xin xem trang 11. - Minh đạo đức: hiểu rõ đạo đức. - Bồng Lai: theo lời truyền, ngọn núi có Tiên ở. --- oOo --- Ông TÙNG hỏi Đức Thầy: (Ông Tùng ở vàm Cái-Đầm, thôn Hòa-Hảo) Càn-khôn Tạo-Hóa ở một bầu, Kính hỏi thăm Thầy vậy ở đâu ? Sắc ở Tà-Lơn hay núi Cấm ? Cán còn khâu mất cất ở đâu ? -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Cũng biết càn khôn vẫn một bầu, Tây-Phương yêu chúng chẳng ngồi lâu. Sắc của A-Di là Phật-Tổ, Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu ? NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bốn chữ: BỬU – SƠN - KỲ - HƯƠNG: Chữ BỬU là hiệu Phật Vương, Chữ SƠN Phật Thầy tin tưởng phước dư. Chữ KỲ là hiệu BỔN SƯ, Chữ HƯƠNG Phật Trùm, bốn chữ phải mang. (Bốn câu này được lưu truyền trong gia đình tín đồ Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở vùng núi Tượng). -- ··· -- Ông TÙNG hỏi: Cắc-cớ vì đâu khéo vấn-vương, Đem lời Phật Thánh dám bày tường. Thiên-cơ bất khả sao ông nói ? Phật Thánh Tiên Thần dám phô trương. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Vì tình nhơn-loại mới vấn-vương, Thương đời lầm lạc Lão bày tường. Thiên-cơ được lịnh nên ta nói, Phật Thánh phần ta mới bày trương. Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn. --- oOo --- THỜI LAI DIỆN MỤC Hồng nhạn ô qui thán giả hồ, Thi thần đởm khí ngộ hà mô. Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh, Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô. Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng, Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông. Khai cảnh nguyệt đài minh hạ giái, Thời lai diện mục tác hài công. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn. Phỏng dịch: Thời cơ trước mắt. - Muôn vật trong đời đều giả tạm. - Thơ thần, dũng khí cảnh phát sanh. - Đền đài nhà cửa không bền vững. - Khí sắc tổn hao, hy vọng mỏng manh. - Trong tuyệt vọng ba lần thấy trời phủ màu hồng. - Chỉ nền Đạo diệu kỳ của người chuyển kiếp được truyền thông. - Như đài gương ở cung trăng soi chiếu trần gian. - Là thời điểm của người tạo cuộc hài hòa và công bằng. (Ông Nguyễn thanh-Tân có họa hai bài thi trên đây, nhưng xin miễn chép). --- oOo --- Viếng làng MỸ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên) Canh-niên trổi bước thừa-nhàn, Để chơn đến viếng xóm làng Hội-Đông. Về non dạ luống ước-mong, Cảm tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu. Lời thăm cùng khắp đâu đâu, Hương thôn bổn-đạo lo âu mối-giềng. Tu là tu Phật tu Tiên, Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao. Mùa xuân chưa có mưa dào. Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh. Sớm chiều phủi sạch lợi-danh, Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về. Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê, Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây. Tinh-thần hiệp vén ngút mây, Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-nguơn. Lòng thương bá tánh đòi cơn, Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai. Chuông linh giục thúc bên tai, Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng. Hiệp chung một cuộc chi-lan, Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau. Lọc lừa hiểu đặng vàng thau, Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên. Duyên lành rõ được Khùng Điên, Chẳng qua kiếp trước thiện-duyên hữu phần. Làm sao khỏi chốn mê-tân, Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng. Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung, Hiền-nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay. Hội thanh hiệp mặt vui-vầy, Gắng công cố chí lòng nầy chẳng phai. Vinh-hoa dường thể cúc mai, Cuối mùa tàn-rụi lâu dài đặng đâu. Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu, Rạch tim xem được một bầu linh-quang. Mảng còn tư-lự tình-tang, Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dân. Hoá-công chí-thiện cầm cân, Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tường. Sum vầy chiếc nhạn sâm-thương, Nho-văn cảm-kính hiền-lương của người. Se-sua nói nói cười cười, Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua. Trần-gian thiếu trái chi chua, Bây giờ trái ngọt không mua bởi mình. Tới đây cạn lẽ phân-minh, Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia. Tài sơ trí siển nôm-na, Mặc tình chê ghét phận ta ta tường. Thoảng qua mùi diệu phô-trương, Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân. Keo sơn đâu cật liền lưng, Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo. Mừng là mừng việc hay-ho, Lo là lo việc ốc-sò trải qua. Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca, Giác dân hướng thiện chánh tà phân-minh. Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh, Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi. Biển trần lao-lý diệu-vơi, Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi. Nhìn xem tâm não bồi-hồi, Sơ-nhi đã lậu phá mồi vinh-vang. Chừng nào kim phụng hòa-loan, Đông Tây vô lự mới an sự đời. Thừa vưng sắc-lịnh của Trời, Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân. Bấy lâu chạnh cám ô-ngân, Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-dươn. Dập-dồi gió kép mưa đơn, Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn. Bày ra thiên-lý héo-von, Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành. Trải qua một lúc sỏi-sành, Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây. Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây, Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn. Ngày nay đạo-đức chẳng màng, Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua. Biển sông lặn-lội hơn thua, Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu. Phật, nhơn, tạo-hóa một bầu, Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau. Thân nầy sá quản cần lao, Miễn cho bá-tánh được mau an-nhàn. Ngũ niên viễn lự cơ-hàn, Đến chừng qui phục Hớn-Đàng mới yên. Bao-la cảnh Phật cõi Tiên, Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu. Ngũ vân năm sắc năm màu, Kìa qui nọ phụng lao-xao vui mừng. Vang-vầy sấm nổ chuyển-luân, Kiểng-tiên lộ vẻ vui mừng cha con. Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn, Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than. Các nơi liệt-quốc chư-bang, Chúc cầu bình-trị trướng-loan sum-vầy. Bây giờ làm việc tà-tây, Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa. Biết khôn tìm kiếm ma-ha, Một câu lục-tự nhà nhà bình-an. Xa-xuôi đường sá dặm tràng, Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung. Lo bề cúc-dục cội thung, Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời. Bút nghiên tạm gác đợi thời, Chúc cho bá tánh xét đời biết ta. Mỹ-Hội-Đông, ngày 22/1/ Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Canh-niên: năm Canh Thìn. - Thừa-nhàn: nhân lúc rảnh rang, thong thả. - Lụy châu: nước mắt trong như ngọc. - Lo âu: suy tính và lo nghĩ, ray rứt trong lòng. - Mối-giềng: chỉ trật tự, pháp luật, khuôn phép để giữ gìn đạo lý nước nhà. - Mưa dào tức mưa rào, là mưa to và lâu. - Chánh-giác: trí huệ sáng suốt hoàn toàn. - Siêu-việt: quá cao xa, hơn hẳn mọi người. - Tập-đề: chơn lý thứ nhì trong Tứ Diệu Đề, gồm các tập-nhơn sanh ra quả khổ, có nghĩa nguồn gốc, nguyên nhơn sanh ra quả khổ. - Đòi cơn: lắm khi, lắm lúc. - Chác hờn - Chác là chuốc, đem về cho mình, chịu lấy. Chác hờn là chịu lấy, lãnh lấy sự oán hận. - Thạnh-trị: dân chúng sống trong cảnh yên ổn. - Thới-lai: thời yên vui thạnh trị tới. - Chi-lan: tên một thứ hoa mùi thơm trong rừng sâu, thường ví với người quân tử. Hoa chi lan không cần vì ai mà vẫn thơm, thì người quân tử không vì cảnh khốn cùng mà thay đổi đức tánh tốt. - Mê-tân: bến mê, chỗ làm cho người ta lạc lầm. · - Đào-nguyên - Đào: cây đào. Nguyên: nguồn. Ngầm chỉ cảnh Tiên. Theo chuyện kể của Đào Tiềm đời Tấn (Tàu):“Tại huyện Võ Lăng có người thả thuyền đi đánh cá dọc theo khe suối, thấy có hoa đào trôi trên mặt nước, thầm nghĩ chắc đây có dân cư. Thuyền đi mãi, đến một nơi có người khá đông, ăn mặc theo đời nhà Tần. Hỏi thì được biết họ lánh nạn hà khắc của Tần Thủy Hoàng, đến đây đã được mấy đời. Ngư phủ chèo thuyền về thuật chuyện lại với mọi người, sau trở lại tìm chốn cũ không được nữa”. Người ta ngờ ông chài đã lạc vào cảnh Tiên. - Trung-Dung – Trung: giữa. Dung: thường. Mực giữa và luôn luôn không thay đổi. Tư tưởng Trung dung. Tên bộ sách trong Tứ thơ của đạo Nho. - Linh-quang: ánh sáng trí huệ. Ánh sáng Đạo. - Tư-lự: lo nghĩ. - Tình-tang: tiếng đàn, giọng đàn. Tiếng lóng chỉ cảnh âu yếm của trai gái. - Hoá-công - Hóa: tạo,sanh ra. Công: thợ, thợ Trời, là đấng tạo hoá. Theo người xưa, Ông Trời hay Thượng Đế, đấng tạo ra thế giới, muôn loài vạn vật. - Chí-thiện: rất hiền lành, thật tốt. - Sâm-thương - Sâm: sao Hôm. Thương: sao Mai. Sao Hôm lặn mới thấy sao Mai. Hai chữ Sâm Thương chỉ sự cách biệt. (Theo thiên văn Âu châu: sao Hôm sao Mai chỉ là một: Kim tinh Vệ nữ.) - Lý-diệu-Diệu lý: xin xem tr.154.- Quân tử: tr. 167. - Phân-minh: rõ ràng, rành rẽ. - Tài sơ trí siển: ít tài năng, trí tuệ non yếu, nông cạn. Câu nói khiêm nhượng. - Nôm-na: nói nôm na: xin xem trang 139. - Phô-trương: dọn bày, phơi bày ra bề ngoài. - Keo sơn - Keo và Sơn: hai chất dính rất bền chặt. - Đâu cật liền lưng: chỉ sự giao tình khắng khít. Đoàn kết chặt chẽ. - Lao-lý: mất tự do ... Lao: chuồng nuôi thú vật, nhà tù. Lý: ở trong. - Diệu-vơi: có nghĩa ngụp lặn chới với giữa biển khổ minh mông không chỗ bám níu, sắp chết đuối. - Bồi-hồi: bồn chồn, lòng phập phồng không yên. - Sơ-nhi: thưa mà không lọt. Lời xưa:“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. Nghĩa:“Lưới trời lồng lộng, coi thưa mà không lọt qua được”. Nghĩa thứ hai: trẻ mới sanh. - Kim phụng hòa-loan: chim phượng và chim loan hòa hợp nhau. Chỉ sự sum họp vui vẻ. - Vô lự: không lo lắng. Không lo nghĩ. - Ô-ngân: Ô thước (quạ) và sông Ngân. Theo điển tích: Đàn quạ bắc cầu cho chàng Ngưu và nàng Chức gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày mùng bảy tháng bảy Âm lịch. Chim Ô và sông Ngân dùng chỉ sự gặp gỡ, trùng phùng. - Sạ-dươn: hay Sự duyên tiếng dân gian nói trại ra, có nghĩa: lý do sự việc; rõ ràng nguồn gốc. - Dập-dồi hay Dập dồn: chồng chất, chồng thêm, dồn thêm. - Gió kép mưa đơn: Thời tiết xấu, thay đổi bất thường. Chỉ tai họa bất ngờ. - Dẫu có: dầu có. - Viễn lự: lo xa. - Cơ-hàn: đói và lạnh. - Kiểng-tiên: cảnh tiên. Tiếng cảnh dân gian nói trại thành kiểng. - Trướng-loan: màn thêu hình chim loan. Chỉ phòng riêng của phụ nữ. - Tà-tây: xin xem trang 139. - Điêu-ngoa: xin xem tr. 51. - Ma-ha: xin xem tr. 143. - Cội thung: xin xem tr. 139. - Dặm tràng - Dặm trường: đường xa. - Cúc-dục: nuôi dạy. Công cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ con.--- oOo --- Ông NGUYỄN THANH-TÂN (tức Hương Thân ƯỚNG) xướng: Bóng thỏ đà lu rạng mặt rồng, Bốn phương sĩ-tử nhóm càng đông. Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo, Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông. Biển lặng sông trong chờ lịnh chánh, Nhà an nước trị lẽ thiên công. Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật, Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông ! -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng, Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông. Chòm ong còn múa trong the áo, Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông. Mặt đất địa cầu qui lập chánh, Một nền Đạo hạnh lấy tâm công. Văn-nhu áo-não tìm cơ-mật, Sẽ hản việc đời hỡi núi sông ! -- ··· -- Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng: Tiết phong một võ nhứt thân khinh, Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình. Cực vọng nam minh dân tiếp thủy, Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh. Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt, Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình. Kim nhựt phùng chơn tu tận túy, Hưu tương ly-biệt não bình sanh. Phỏng dịch: - Giữa trời mưa gió nhẹ một thân. - Mến đạo học sinh rơi lệ cảm tình. - Phương Nam dân chúng mong nguồn nước mát. - Đất Bắc tranh danh bia đá giành. - Thâu canh hoài vọng hồn non nước. - Tỉnh giấc bơ vơ vạn dặm đường. - Nay gặp chân nhân vô cùng hân hạnh. - Lại buồn chia cách dạ không yên!. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp họa: Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh, Cố viễn hà qua kiến hữu tình. Quí hóa ai thi hà quốc thủy, Đài phi sơn lãnh vị thành vinh. Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt, Tố giả vong bang kỷ tráng trình. Phúc họa trù phong nhiên Bính tí, Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh. Mỹ-Hội-Đông, ngày 22/1 Canh-Thìn. Phỏng dịch: - Đứa dại khờ khi người chí lớn. - Rất cảm tình với kẻ có lòng. - Quý trọng thơ văn giàu tình nước. - Sự nghiệp như đài cao, đỉnh núi. - Khi mây tan tỏ sáng vầng trăng. - Nước mất ai người mạnh dạn lên đường. - Họa phước thạnh suy định rành năm Bính Tí. - Hẹn ngày gặp lại thỏa hoài mong. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Sĩ tử: học trò đi thi. - Non Lịch: câu này Đức Thầy nhắc lòng hiếu thảo của vua Thuấn đối với cha mẹ. Chuyện kể:“Vua Thuấn thuở nhỏ mồ côi mẹ, dầu bị mẹ ghẻ cùng cha và em khác mẹ đày đọa vô cùng cực khổ, nhưng ông vẫn giữ một lòng hiếu thảo với cha mẹ và nhường nhịn em. Khi ông bị cha bắt đi cày ruộng một mình ở núi Lịch, thì voi trong rừng ra kéo cày giùm và bầy chim xuống nhặt cỏ”. - Rừng nhu: rừng nho, chỉ văn chương chữ nghĩa. - The: loại hàng dệt bằng tơ, mỏng và thưa. - Áo não: hết sức buồn. - Hản: xin xem trang 166. - Hoài vọng: lòng tha thiết mong đợi một điều gì. Nhớ nhung, mong mỏi. - Chân nhân - Chơn nhơn: tánh ngay thật, hiền lành sẵn có của mỗi người. Theo nhà Phật, chơn nhơn là thiệt thân trong giả thân. Nói cách khác, Phật tánh sẵn ở mỗi người. Theo Lão giáo: người tu tiên đắc đạo. Người trời sai xuống chăn dân.--- oOo --- Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN xướng: (tức Chín Diệm ở xã Định-Yên, tỉnh Long-Xuyên) Cường-khấu xâm lăng kỷ thập niên, Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên ? Hi-Di ngũ quí kim an tại, Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền. Độc nhãn sa đà tàng Bắc-địa, Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên. Phòng ngu xích vĩ đương kim nhựt, Dẫn lãnh minh lương trứ tổ-tiên. Đại ý bài thơ này theo bản dịch của ông Nguyễn văn Hầu trong quyển “Thất sơn Mầu nhiệm” như sau: “Giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy chẳng biết Ngài là vị Tiên chi xuống trần ? Chứ ngày nay những bực như ông Hi Di (tức Trần Đoàn), ông Khương Thượng Tử Nha… đều ẩn khuất tất cả nơi đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (ám chỉ lá cờ tam sắc) ở cùng khắp đất nước. Nếu Ngài thật là bực anh triết thì xin Ngài hãy đả nó một cây roi thần”. -- ··· -- ĐỨC THẦY họa: Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên, Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên. Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại, Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền. Trình mổ ngộ kim khuê Cổ địa, Xích mi hải hội luật trừng thiên. Vị phi minh đế đồ tôn nhựt, Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên. Tóm lược theo lý giải của Ông Lê văn Phú tự Tho: Câu 1: “Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên” (Thiên: trời, ký: phó thác cho. Lạc Hồng là giống Hồng Lạc. Đắc là được, ngũ niên: 5 năm) nghiã là 5 năm tới sẽ giải quyết xong đám cướp nước. Thầy cho ông Chín bài nầy, ngày 23 tháng Giêng năm Canh Thìn, tức năm 1940, đến năm 1945 (thời gian là 5 năm) Nhựt đảo chánh Pháp, chánh quyền Việt Nam về tay người Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Thầy rõ ràng là ông Phật nên xác nhận không sai ngày nào. Câu 2: “Sơn Trung hồi giả bí danh Tiên” (Trung là giữa. Sơn là 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, ông Vương Thông giải nghĩa: “Chữ Bửu là hiệu Phật Vương, Chữ Sơn, Phật Thầy tin tưởng phước dư. Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư, Chữ Hương, Phật Trùm bốn chữ phải mang”. Đức Thầy nói, Ngài chính là Đức Phật Thầy.“hồi” là trở lại,“giả” là vậy,“bí danh Tiên”: có Tiên trong xác Thầy, nhưng bí danh là tên không thể nói ra). Câu 3: “Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại” nhắc ông Chín, ông Hi Di tức Trần Đoàn, mà ở Việt nam có nhiều ông Trần Đoàn chớ không phải có một ông. Câu 4: “Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.”(Lão là Lão Tử, đạo: đạo Tiên, tiền phong: cái đạo đi trước hết, Bắc ý truyền, Bắc: Bắc kinh chỉ bên Tàu, là ý của ông Lão Tử truyền ra người ta tu đắc đạo không biết bao nhiêu, tại sao ông Chín nói“phổ bất truyền” là nghĩa gì. Đức Thầy cho ông Chín biết, Giáo chủ đạo tiên:Lão Tử, không phải Thái Thượng lão quân. Câu 5: “Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa”. Ý câu này ta có thể hiểu là vì Ân đất nước mà Đức Thầy đã chuyển nhiều kiếp, trong đó có kiếp là Trạng Trình. Ngoài ra, để trả lời câu hỏi của ông Chín: có phải Thầy mở đạo dạy đời là muốn sau nầy làm vua phải không. Đức Thầy dẫn rõ cho ông biết là không phải vậy. Bởi vì như lời ông Mạnh Kha (đời Đông Châu) nói:“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.” Nghĩa là dân mới quý, xả tắc là thứ nhì, còn ông vua thì người đời coi nhẹ. Thầy không muốn làm vua nhưng làm Giáo chủ vẫn hơn, như gương Đức Thích Ca ngày trước, đã từ bỏ ngôi vua để làm một vị Giáo chủ dạy tất cả nhân loại chúng sanh, để đời đời còn nhắc nhở tên tuổi của Ngài, như Thầy cho biết: “Đạo vô vi của Phật ân cần, Nối theo chí Thích Ca ngày trước”. Câu 6:“Xích Mi hải hội luật trừng thiên”.Xích Mi là Trưởng giáo của đạo Tiên thời bấy giờ, thấy Triệu khuông Dẫn đam mê tửu sắc giết em kết nghĩa với mình là Trịnh Ân, nên sai Dư Hồng xuống vấn tội, vây khổn Thọ châu Thành suốt ba năm, khiến Triệu khuông Dẫn mỗi lần nghe đến Xích Mi lão tổ là phải kinh hồn. Vậy thì đi làm Xích Mi phải sướng hơn, làm vua chi mà phải sợ lên sợ xuống. Hải hội là gì ? hải là tựu lại, hội là hiệp, nghĩa là gom góp lại, tụ hiệp lại để ban thưởng cho kẻ có công và trừng trị những người có tội nên gọi là luật trừng thiên, đó là: “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu, Người tu niệm sống đời Thượng cổ”. Rõ hơn nữa là: “Lão đây vâng lịnh Phật tôn, Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành”. Câu 7: “Vị phi minh đế đồ tôn nhựt” Vị: ngôi vị, phi là trái, minh đế: bực Minh Vương, nhưng ai là Minh Vương, vị đó chính là Nguyễn Hoàng. Nhắc lại, Nguyễn Kim có người con gái gã cho Trịnh Kiểm và hai người con trai: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Khi Trịnh Kiểm lên thay quyền cha vợ đã giết Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng sợ quá nên sai người đến hỏi ý kiến Trạng Trình. Được Trạng chỉ:“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Do đó, Nguyễn Hoàng tìm cách vô Nam, khởi đầu từ Hoành Sơn, mở mang bờ cõi lần lần đến Chiêm thành rồi Chân lạp, để chúng ta có được mảnh đất dung thân như ngày nay. Trở lại, đồ là cơ đồ, tôn là cháu, nhựt là ngày. Ngày nay cơ đồ của vị Minh Đế là còn con cháu ở Sài gòn (ám chỉ vua Bảo Đại) tại sao ông Chín không hỏi những người nầy về cờ Tam sắc mà lại hỏi Thầy là nghĩa gì ? Tuy Thầy là ông Phật, ra đời để dạy người ta làm lành, lánh dữ, đưa con người đến nơi giải thoát, nhưng Thầy là người có lòng yêu nước, như lời Ngài cho biết: “Chuyên gở ách xích xiềng thế tục ”, tức là gở ách nô lệ cho chúng ta vậy. Câu 8: “Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên” Thầy cho ông Chín biết, đến lúc hạnh thời sẽ có không biết bao nhiêu cây roi đả thần tiên đánh con cá đuôi đỏ đó. Ông đừng lo rồi đây sẽ có nhiều người đứng lên quét sạch quân xâm lược Pháp. -- ··· -- Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN xướng: Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy, Hướng thiện khử tà chúng bất-tri. Vô tránh vô tranh thiên-hạ thiểu, Toàn trung toàn hiếu thế gian hy. Ái mao vị tiện ngô đồng phụng, Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui. Bất tận tam tâm danh lợi khách, Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi. Phỏng dịch: - Tổ tiên cứu người hoạn nạn, giúp đỡ lúc nguy nan. - Hướng về nẻo lành, trừ kẻ tà gian mà người đời không hay biết. - Không cãi vã kiện cáo, không tranh giành, trong thiên hạ ít người được vậy. - Trung liệt hoàn toàn, hiếu nghĩa tròn vẹn, giữa thế gian hiếm thấy. - Chim phụng quý bộ lông nên thích đậu trên cây ngô đồng nhưng chưa thấy. - Con rùa bởi mến tiếc cặp sừng nên giấu mình sâu trong lòng nước. (Lông phụng, sừng rùa là những vật hiếm có). - Ba món danh lợi trong lòng người là vô cùng tận (Tham – Sân – Si ?) - Sau cùng, nhớ nghĩ sâu xa mãnh liệt về đấng từ bi. -- ··· -- ĐỨC THẦY hoạ: Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy, Lượng trí bồi thành thử tất tri. Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu, Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy. Thí-sanh tán địa liên đài phụng, Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui. Vạn vật an-ninh thông điện khách, Nhứt trường lê-thứ kiến vô bi. Phỏng dịch: - Có ngày ta sẽ dùng roi đó khi đất nước lâm nguy. - Phải dùng trí của người xây thành đắp lũy để hiểu. - Đương đầu với mưa to gió lớn đời không mấy. - Thần Tiên tạm thời ở ẩn xưa nay hiếm thấy. - Rồi cuộc lọc lừa mới biết ai dựa đền phụng đài sen. - Kẻ sĩ phương Nam sẽ gặp vận tốt lành. - Khắp nơi muôn vật sống hài hòa yên ổn. - Và người đời không ai còn thấy đau buồn nữa. -- ··· -- Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN xướng: Gió xuân muôn vật toại lòng rồi, Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi. Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn, Trông chừng dấu nước luống ngùi-ngùi. Ngùi-ngùi trông thấy đám mây xanh, Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành. Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc, Dù ai đấp lũy nguyện bồi thành. -- ··· -- ĐỨC THẦY đáp: Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi, Xa đường nguyện-ước chuyện con tôi. Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả, Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi. Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh, Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành. Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc, Quyết lòng trợ thế với bồi thành. Bồi thành mới phải đạo văn-nhu, Có lẽ ngày kia rắn hóa cù. Lũ-lượt đàn chim bay kiếm ổ, Rán mà theo dõi bớ văn nhu ! Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù, Nước túng dân nghèo lại thiếu xu. Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp, Phân trần cụ lão chuyện người tu. Mỹ-Hội-Đông, đêm 22/1 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Văn nhu – Văn nho: nghĩa ở đây là người đọc sách, người học nho. - Ao tù: nơi nước không thoát ra được, nước dơ. Nghĩa bóng chỉ cảnh bị giam cầm, mất tự do.--- oOo --- Vịnh ông ĐỊA bằng sành (Để tại nhà ông Hai Xòn ở Vàm-Nao - tỉnh Long-Xuyên) Bảnh-chẹ ngồi chơi sướng hởi ông ! Tâm lành sao chẳng tiếp non sông ? Nhơn-dân bốn phía đương đồ-thán, Vui sướng chi mà lại tỉnh không ? Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23/1 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bảnh chẹ (choẹ): ngồi bệ vệ, chễm chệ, nghiêm nghị, coi dưới mắt không có ai. - Đồ thán: lầm than (đói kém), khổ sở.--- oOo --- Viếng làng Phú-An (Châu Đốc) Lưng-chưng một bước lạ làng, Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ. Người đời lòng những ước-mơ, Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa. Đêm khuya còn vắng tiếng gà, Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần. Ô-kim vàng ấy ngàn cân, Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn. Trăm năm ghi-tạc miễu son, Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia. Mặc tình tiếng nọ lời kia, Chẳng màng thế sự đặt bia nhiều lời. Gẫm ra chuyện lạ ở đời, Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân. Xưa kia bạo-ngược nhà Tần, Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu. Ước mong rắn đặng hóa cù, Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu. Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều, Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc ai. Hưng-vong suy-thạnh xưa nay, Cuộc đời vay trả, trả vay đổi dời. Mấy ai trăm tuổi ở đời, Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh ? Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh, Lánh nơi trần tục học-hành đường Tiên. Trả cho rồi nợ tiền-khiên. Đến ngày hiệp mặt kiểng-tiên vui-vầy. Làm sao rõ mặt tớ Thầy, Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường. Bây giờ nạn ách còn vương, Cha làm con chịu nhiều đường gai-chông. Nhiều người kinh-sử lảu-thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê. Kiếm con hiền đức dắt về, Về nơi cõi Phật Tây-Phương an-nhàn. Nợ trần con sớm liệu toan, Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng. Thuyền từ kêu gọi ngóng trông, Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô. Chừng nào thấy được cơ-đồ, Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình. Đến đây thấy cảnh sanh tình, Lòng son đòi đoạn công-trình dạy khuyên. Cứ lo chế ngạo Khùng Điên, Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau. Ngọt bùi lời Đạo thanh-thao, Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi. Vinh-hoa một bả làm mồi, Để câu kẻ dại việc tồi chất lên. Muốn mình lên đặng bực trên, Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền. Giống lành xưa cũng Rồng Tiên, Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng. Mặc tình nghe phải thì dùng, Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi. Buồn đời gát (gác) bút nghĩ suy, Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng. Cầu ngã kiến văn tối thậm đa, Thiện duyên tác phước ý như hà. Phô trương vạn lưọng tam hài tuế, Hội thính na thời kiến thạnh hoa. Viễn lự ô hô chí Lão Bành ! Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh. Hải-qui thế-giái nam hòa vọng, Nguyện dữ như hà dụng thức canh. Kim phụng triều vương viễn khứ đình, Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh. Duyên-do phước thọ lai duy hiển, Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh. Quang minh diện-mục khả hồ sơ, Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ. Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng ? Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ. Phỏng dịch: - Xin gặp mặt để được nghe những điều cao xa. - Nhờ đâu được hưởng phước đức và duyên lành. - Không nên khoe khoang sức tài non trẻ. - Ngày đại hội sáp tới, người đời sẽ hưởng an vui. - Hởi ôi! Lo nghĩ xa xôi cũng chỉ đến tuổi cụ Bành. - Đời sống con người nên gìn khí tiết cao thanh. - Làm trai nuôi chí an bình thế giới. - Ước nguyện đó làm sao sớm đạt thành. - Các triều đại xa xưa từng giữ hòa bình thạnh trị. - Thời buổi vàng son đó đã trôi qua. - Nhờ thiện duyên mới được hiển vinh, phước thọ, - Và kinh sử ghi danh các đấng liệt nữ anh hùng. - Những gương sáng đó xứng đáng truyền lưu. - Chuyện sang giàu như một đám mây trôi. - Thánh nhân quân tử được đời kính trọng vì đức độ và lòng bao dung của các Ngài. - Ơn Trời, thai sen chỉ dành hồn linh các bực tu hiền. Chợ Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Huyền cơ: xin xem trang 11. - Tờ hoa: giấy viết thư ngày trước có vẽ cành hoa trên góc hoặc in hoa lá…. - Tố trần: phơi bày rõ ra. - Ô kim: vàng đen, một loại vàng rất cứng và quí. Ngày xưa dùng ô kim để rèn đúc binh khí, thật bén. - Ghi tạc: khắc, in sâu vào trí nhớ. - Miễu son: nơi thờ các vị anh hùng, những vị có công lớn với nước nhà ... - Thế sự: việc đời, chuyện đời. - Đặt bia: đặt điều rêu rao. - Phân vân: chưa biết tính sao, chưa dứt khoát. - Bạo ngược: làm hung ác, ngang ngược, không cần biết lẽ phải trái; ham chém giết, đối xử ác độc với người, với sanh vật. - Mỹ miều: xinh đẹp, đẹp hào nhoáng bên ngoài. - Hưng vong: phát đạt và suy tàn. - Suy thạnh: suy tàn và phát đạt. - Bành Tổ: theo truyền thuyết – Ông làm quan ở Bành thành đời Đường-Nghiêu (Tàu), tiếp theo đời Ngũ đế (2357-2256 tr. Tây lịch) sống đến 800 tuổi ? - Tiền khiên: điều lỗi lầm ngày trước. - Nạn ách: tai họa, việc rủi ro phải gánh chịu. - Lảu thông: hiểu biết tường tận. - Nghĩa nhơn: xử sự theo đường ngay thẳng, sẵn sàng cứu giúp người yếu thế, hoạn nạn, nghèo khổ. - Tham ô: lòng tham đến độ không biết xấu; lợi dụng quyền hành lấy của công làm của riêng. - Cơ đồ: sự nghiệp lớn, chỉ về đất nước. - Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình: người không lo xa, nhà không người ở.? - Đòi đoạn: nhiều đoạn. Nhiều lộn xộn rối rắm. - Bả: thức ăn trộn thuốc độc để lừa giết thú vật nhỏ như chuột. Cái có sức cám dỗ, lôi cuốn người đến mê muội, thậm chí bị mắc lừa. Ví dụ: bả lợi danh ... - Bỉ bạc: khinh bỉ; bạc đãi, cắt đứt nhơn tình. --- oOo --- Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm – Châu-Đốc Đêm vắng mà sao cảm quá dài, Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai. Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu, Thương thảm cho đời thưởng huệ mai. Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền, Dậm (Dặm) tràng tới viếng mượn ngòi-nghiên. Tỏ tình yêu quí người lương-thiện, Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng. Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Yếu lý: lý lẽ cốt yếu. - Huyền diệu: xin xem trang 9. - Đoái tưởng: tưởng đến, nghĩ đến. - Ngòi nghiên: chỉ văn chương chữ nghĩa. Nghiên là dĩa mài mực tàu. - Lương thiện: người hiền lành, ngay thật, không làm trái đạo lý, luật pháp. - Xích xiềng: dây kim loại nối liền nhau bằng những khoen. Nghĩa ở đây chỉ sự mất tự do. Bị ràng buộc.--- oOo-- TỎ CÂU HUYỀN BÍ Đời đạo liên quan rạng chói ngời, Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi. Thanh minh đạo-đức câu huyền-bí, Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời. Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời, Mà sao dương-thế mảng lo chơi. Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí, Đạo-đức nhiệm sâu Lão khuyến mời. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thẳm: mút tầm mắt, thật xa, thật sâu. - Vơi vơi: vời vợi, xa xôi, minh mông, sâu lắm. - Tuyệt vời: quá sức hay đẹp; hơn tất cả.-- ··· -- TỎ CÂU HUYỀN BÍ tiếp theo. Thiên sanh thiện tánh tác thì gia, Tông-tích cổ kim lượng thử hà. Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp, Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca. Đài phong liễu khước tạo Nam-gia, Thiện-chí hồ thiên thức Ngọc-tòa. Trung-sơn tế-giáng Lư-Bồng kiểng, Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa. BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng, SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang. KỲ sanh tạo giả thi truyền tục, HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang. Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên, Nguyền thuyết thanh-danh tác thiện duyên. Thậm-thâm tối thiểu kim tàng cốc, Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên. Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ, Ngã thứ trung sanh trực thế thờ. Ngỡi khí yên hùng ghi đảm-liệt, Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ. Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi, Vạn năng sĩ-tử hiệp hòa ngôi. Tam-thanh truyện tích ghi biên tự, Khán giả tận-tường liệt võng khôi. Canh niên viễn lự tối thi thần, Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân. Nam thức quân thần cuồng lão-sĩ, Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân. BỬU kiến trừng tâm dụng thể tiên, SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên. KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt, HƯƠNG vị trầm thinh bí kỷ niên. Phú-An, đêm 23/1 Canh-Thìn. Phỏng dịch: - Người mới sanh tánh tự nhiên hiền lành. - Gốc từ Phật giáo của Đức Thích Ca. - Xuống thế gian thời nguơn hạ. - Thầy trở lại trần dạy đạo theo lẽ huyền bí máy trời. - Việt Nam lập quốc nhưng chưa hoàn toàn tự chủ. - Thầy vâng sắc lịnh của Ngọc đài. - Tiếp nối Bửu Sơn Kỳ Hương lập hội chọn bực hiền. - Ra đời tỉnh thức thế nhân là điều kỳ diệu sâu xa. - Chữ BỬU - Phật vương còn ẩn dạng. - Chữ SƠN - Phật Thầy trí tài trùm bốn phương. - Chữ KỲ - Bổn Sư kinh thơ truyền bá cho thế tục. - Chữ HƯƠNG - Phật Trùm, xót xa vì cảnh khổ thế nhân, nhưng phải chờ con sông báu.(Bảo Giang thiên tử xuất - Chờ Chúa Thánh ra đời). - Tiên nhân họp mặt ở Ngũ Hồ báo hiệu điềm lành. - Truyền bá nền đạo lớn gây duyên cho người đời. - Nghĩa tình sâu nặng này lòng luôn giữ kín. - Hãy về với Đạo tu hành để cởi mở nghiệp duyên. - Canh dài, đêm ngắn, thao thức trắng đêm. - Thời thế này ta vẫn phải đợi chờ. - Người anh hùng nghĩa khí, gan liền và bất khuất. - Vẫn không hiểu được sự vận chuyển của máy trời. - Phật Vương sẽ lập lại Thượng nguơn. - Thứ ngôi sắp xếp theo công quả tu hành. - Ba tiếng nổ đánh dấu mở đầu nguơn mới, sử sách sẽ ghi chép theo thứ tự. - Luật nhân quả không hề bỏ sót một ai. - Tháng năm lo nghĩ viết lời thơ sâu xa thần diệu. - Dầu muôn người chống đối rồi cũng phải cuối đầu. - Bấy giờ phương Nam mới biết Đức Thầy. - Theo sự vận hành của tạo hóa, dứt Hạ nguơn thì đến Thượng nguơn - Đời Thượng ngươn người người sống hòa bình thương yêu lẫn nhau. - Muốn thấy điều quý báu (BỬU) trước hết phải giữ lòng trong sạch. - Kẻ sĩ trong núi (SƠN) chịu lịnh trời ra đời lập đạo. - Sự xuống trần này (KỲ) là điều sâu sắc nhiệm mầu. - Tiếp nối Bửu Sơn Kỳ Hương (HƯƠNG) bao nhiêu năm trước. --- oOo --- Cho ông PHAN THANH-LONG Long rày năm mới thiệt là rồng, Mèo-mả bạc-bài bỏ được không ? Hiệu, Khuynh cùng gã mau liền lại, Kẻo để ngày sau chịu não-nồng. Trường học Phú-An, ngày 24/1/Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bạc bài: cờ bạc. - Não nồng (nùng): xem tr. 111. - Mèo mả: xem tr. 113.--- oOo --- DIỆT TIỀN KHIÊN Bồng-Lai như khứ khổ nan truyền, Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên. Quốc-thủy đài chương trung liệt cổ, Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên. Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn, Danh tiên liễu bá định hồi yên. Vị phi lai tục đa ưu lự, Sơn hải điền viên tất tảo nan. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn. Phỏng dịch: Diệt lỗi lầm gây ra từ trước. - Thật khó tin về lời truyền Bồng Lai là nơi tiên ở. - Vì xúc động, viết cho người có duyên lành. - Xưa nay bao đấng anh hùng lo tròn nợ nước. - Ta xuống trần giúp thế nhân diệt trừ tội lỗi gây từ bao kiếp trước. - Đường đến núi linh (đền đài Thất Sơn) xa vạn dặm. - Vị tiên có địa vị lớn đã an bài. - Trở lại thế gian vì nơi đây rất nhiều điều lo nghĩ. - Núi, biển, ruộng vườn sẽ đổi thay. --- oOo --- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC Để chơn đất Bắc Thầy trò, Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao. Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao, Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam. Chúng dân tựu ngũ tùng tam, Kẻ ma người mị kẻ ham người cười. Làng nầy đông-đúc nhiều người, Dân tình cũng được đôi mươi tu-hành. Nhiều người già cả lòng lành, Có nhiều kỳ-lão biết rành tích xưa. Tới đâu cũng ít người ưa, Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành. Trưng bày tích cũ đành-rành, Thiên-cơ đạo-đức tu-hành phận tôi. Dân quê nghe nói hỡi ôi ! Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo. Đâu đây mà có hùm beo, Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì ? Thấy trong lê-thứ cũng kỳ, Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ. Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ, Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm riềng . Cũng không thèm trọng bạc tiền, Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi. Bắc-kỳ dân ít mép-môi, Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề. Thương dân nên chịu nặng-nề, Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao. Tớ Thầy nào nệ cần-lao, Thương dân dạy dỗ xiết bao nhọc-nhằn. Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung-trực người rằng ngu-si. Viết ra mới bốn bài thi, Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên. Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên, Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nghêu ngao: cách hát tùy hứng một mình để giải buồn; hát nghêu ngao chơi. - Xôn xao: ồn ào, nhôn nhao, rộn rịp. Nhiều âm thanh xen lẫn nhau. - Bàn tán: bàn luận rộng và đặt ra nhiều giả thuyết. Vài người nói với nhau về một sự việc nào đó rồi mỗi người đưa ra lý lẽ cốt làm sáng tỏ ý nghĩa. - Tựu ngũ tùng tam - Tùng tam tựu ngũ: hợp nhóm năm ba người – họp từng nhóm nhỏ cùng nhau làm một việc gì đó. - Kẻ ma người mị: kẻ gian manh người xảo trá. - Kỳ lão: người già 60 –70 tuổi. Ngày xưa các kỳ lão thường được vua quan mời hỏi ý kiến về việc nước. - Dỗ dành: dùng lời ngọt dịu làm xiêu lòng người. - Đành rành: rành rẽ, rõ ràng. - Hùng đồ: kế hoạch lớn lao; đường tiến thủ mạnh mẽ. Nghĩa ở đây là một bọn người hung dữ ỷ mạnh không coi ai ra gì. - Cường nghịch: chỉ bọn người chống đối mạnh mẽ; nghịch ngợm chọc phá. - Cười reo: phát cười to lên và kéo dài. - Bá láp: bậy bạ, vu vơ, không ăn thua vào đâu, không dính dáng. - Ghét vơ: có ác cảm vì chuyện không đâu. - Ngẩn ngơ: đờ mặt ra vì việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng. - Xóm diềng - Xóm riềng - Láng giềng: nhà và người một xóm, gần nhau. - Mép môi - Môi mép: tánh người hay nói cao thấp; lắm điều. - Ê hề: nhiều, thừa thãi, bày ra nhan nhản. - Cần lao: xem tr. 34. Nghĩa ở đây: siêng đi dạy Đạo. - Nhọc nhằn: vất vả, cực nhọc. - Tam cang - Tam cương: xin xem trang 104. - Trung trực: trung và ngay thẳng. - Trung: xin xem tr. 46. - Cúng kiếng: xin xem tr. 82.-- ··· -- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tiếp theo I) THƠ rằng: Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn, Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn. Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc, Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn. Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân. Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa, Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân. Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền, Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên. Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế, Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên. Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, Cổ súy lương thần vị phong ca. Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa. Phỏng dịch: - Đến với Đạo của ta không khó khăn như vượt dãy Hoành Sơn. - Vậy mà lắm kẻ chùn bước muốn quay trở lại. - Khai Đạo dắt dìu người đời sống cao quý, đức hạnh, hiền lương. - Rồi có ngày Thần Tiên hội họp giúp đỡ giồi trau đường tu tập - Mây trắng quyện vào nhau như tinh thần cao diệu của vị thần tiên. - Như nhắc nhở quê quán xưa kia của bực dị nhân. - Tiên sinh xuất hiện kiếp này giúp chúa nhà Lê. - Ngài đã cứu độ thế nhân nên đời sau lưu truyền và tưởng nhớ đức ân. - Tu thành đạo được sen đỏ hóa thân về cảnh an vui. - Đến làng Đồng Thạnh gây tạo các duyên lành. - Lời Thánh hiền truyền bá và lưu lại cho đời sau. - Vị Tiên thứ nhất là bực trung thành của Việt Nam. - Người đã xa rời quê hương miền Bắc. - Tôi trung sống thì cao danh vị, chết được tôn thờ. - Đành cam chịu chết để sáng tỏ chí khí hào hùng. - Vì tổ quốc danh thơm bay khắp thế gian. -- ··· -- Bốn bài thơ đã làm xong, Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu. Nghĩ ra mới biết cơ cầu, Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn. Nghiệm suy lời lẽ thiệt hơn, Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng. Nào ta có nói bướng càn, Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay. Từ đây Nam Bắc chuyển quay, Khi đây khi đó ra tài khuyên dân. Tuần-huờn tạo-hóa cầm cân, Ở đây cũng dạy hương-lân đủ đều. Xác nghèo nhà tợ cái lều, Cơ-hàn rách rưới nhiều điều nan nguy. Tuy là gia-trạch hàn-vi, Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa. Nhiều người lối xóm đẩy-đưa, Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài. Nước tràn ruộng lúa lạc-loài, Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai. Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay, Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề. Thày trò ra sức làm hề, Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương. Có nhiều chệt khách Minh-hương, Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu. Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào, Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu. Bởi chưng hung-bạo chẳng tu, Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh. Bắc-kỳ Trung-Quốc giáp ranh, Sao không xem đó tu-hành hiền-lương. Cá không ăn muối cá ươn, Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai. Hát tuồng Trung-Quốc quá dai, Ta bèn bỏ bản hát bài tà-tinh. Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Từ đây nhẫn-nại chống kình làm chi. Bút nghiên lôi lại làm thi, Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Văn nho bàn bạc: các nhà nho học cùng nhau tính toán lo liệu để giải quyết. - Cơ cầu: rắc rối, cao kỳ. Khắt khe nghiệt ngã. - Công hầu: tước Công và tước Hầu, hai tước cao trong năm tước. (Công - Hầu - Bá - Tử - Nam). - Bướng càn: ẩu, càn, cố làm cho được dầu biết là sai là quấy. - Tuần huờn: xem tr. 172. - Giáo truyền: xem tr. 12. - Hương lân: hàng xóm, láng diềng. - Nan nguy – Nguy nan: nguy hiểm, khó khăn. - Gia trạch hàn vi: gia cảnh nghèo nàn. - Đẩy đưa: nói vuốt theo không làm trái ý, mất lòng. - Trùm trưởng: người cầm đầu một nhóm,1 tổ chức. - Biên cương: bờ cõi, ranh giới giữa hai nước. - Minh hương - Minh: nhà Minh. Hương: quê hương. Tức quê hương người lánh nạn nhà Minh. - Thê lương: xin xem trang 139. - Cá không ăn muối cá ươn: Ý từ ca dao:“Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”: Muốn cá khỏi ươn (sình – thúi) người ta phải ướp muối cho mặn. Muốn con khỏi hư cha mẹ phải hết lòng dạy dỗ. Con cãi lời cha mẹ là con hư, là con bất hiếu. - Lâm đường chông gai: gặp phải khó khăn. - Nhẫn nại: cố gắng chịu đựng. - Chống kình: chống cự không chịu thua.-- ··· -- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tiếp theo II) Cổ qui tài tận hận do Tần, Thiện chí tu trì lập vĩ thân. Tồn tại hư vô tầm Bát-Nhã, Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần. Điền tan gia phế tế nhiên hàn, Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang. Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo, Bần phú cơ đồ bất tự sang. Nôn nải kìa ai nhọc mưu cầu, Thê-thảm cho đời nẻo huyền sâu. Kiên-cố của tiền thiên đạo-lý, Cấp hồi ái truất trót canh thâu. Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài, Biên hình liên huệ tất ư giai. Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí, Long trì phi ẩn tạo kiền khai. Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà, Quá khứ trú đình vịnh ngân ca. Thanh tích cổ nhân tân cừ khí, Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa. Phỏng dịch: - Ác như vua Tần, người tài ẩn mặt nước mới mất. - Nên trau giồi và gìn giữ tánh tốt để lập thân một cách vẻ vang. - Chỉ có trí tuệ mới mới tồn tại trong cõi hư vô này. - Hãy dùng trí huệ như phép báu để đạt thành đạo quả. - Cửa nhà hoang phế ruộng rẩy tiêu tan sống cảnh đói nghèo. - Nỗi khổ này đến một cách khác thường chưa từng xảy ra bao giờ. - Nên Thần Tiên xuất hiện mang nghị lực dạy truyền đạo lý và tạo an bình. - Giàu nghèo không hẳn do minh mà còn tùy sự sắp bày của tạo hóa. - Nên biết, nôn nóng chẳng ích gì, chỉ uổng công. - Lẽ trời mầu nhiệm, nỗi khổ đau nói không cùng. - Của tiền không chắc chắn, đạo lý mới vững bền. - Mau hồi tỉnh gạt bỏ chuyện ân ái riêng tư, điều đó khiến suốt canh thâu ta không chợp mắt. - Trời chẳng riêng vị một ai thì đừng chứa cất của tiền không phải do công sức mình làm ra. - Hoa sen hoa huệ hình dáng vừa đẹp vừa sạch trong, nên dọn mình như hai loài hoa ấy thì tốt hơn. - Tiết kiệm của mình, đừng nịnh bợ hay tham lam của người khác. - Như rồng khi bay lượn có lúc phải ẩn hình chỉ vì đợi lịnh ấy thôi. - Dạo chơi viếng cảnh quang nơi đất Bắc. - Nơi có lắm thi ca gợi nhớ nhiều triều đại trong quá khứ. - Chuyện tích người xưa được khảm xa cừ để lưu giữ đời đời. - Theo đó tìm hiểu kỹ chỗ thiếu sót truyền lại cho dân gian. Thâm canh bất mến công hầu, Trông cho lê-thứ gặp chầu vinh-huê. Ở đâu dân cũng còn mê, Tham câu danh lợi khó kề Thần Tiên. Tư lương một mối sầu riêng, Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần. Ngảnh ngao tái chí thi ân, Biện-minh chí hứng đền lân dựa kề. Phỏng dịch: - Người tu ở Long Thiền (Ông Cử Đa) ngôi vị đã sẵn, còn chờ đợi lịnh. - Sẽ trở lại giúp đời thêm lần nữa. - Cho rõ ràng chí hướng người kề cận gác lân. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chầu vinh huê: dịp, cơ hội giàu sang, có chức quyền sống sung sướng mà nhiều người ham muốn; vẻ vang, tốt đẹp. - Tư lương: xin xem trang 116. -- ··· -- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tiếp theo III) Huy hoàng hương nến tự thiên chi, Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ. Lôi chất khai âm vô sắc thí, Ngại hồi bi hiện án tiền phi. Phỏng dịch: - Những vị có công với dân với nước được hương khói phượng thờ, - Thành các bực linh thiêng được đời truyền tụng. - Mấy ai biết được sư vần xoay của trời đất. - Sự việc xảy ra đều có bằng chứng. Rừng thông bên cạnh gần kề, Bôn-phi lê-thứ nhiền bề gian-nan. Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan, Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng. Thấy đời cũng luống động lòng, Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi. Dạo miền thành-thị một khi, Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng. Ca xang thảm cảnh não-nồng, Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi ! Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời, Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ. Người hiền nghe thấu ngẩn-ngơ, Đớn đau sắp đến, bơ-vơ một mình. Muốn xem được hội Long-Đình, Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn. Ở ăn cho vẹn mười ơn, Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải-hoàn. Gắng công khỏi buổi nghèo-nàn, Sum-vầy một cuộc Hớn đàng toại thay. Người nào vẹn được thảo ngay, Dựa kề cửa Thánh đài-mây an nhàn. Khuyên răn cuối xóm cùng làng, Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi. Việc đời nhiều nỗi sầu-bi, Hạ-nguơn đã hết loan-ly cơ-đồ. Bây giờ còn hỡi mờ-hồ, Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau. Thử xem cho biết vàng thau, Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng. Tu hiền như thể phụng rồng, Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay. Bây giờ rán chịu đắng cay, Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên. Đạo đời nào có tư riêng, Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời. Xa-xăm các chỗ các nơi, Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên-tri. Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi, Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề. Tớ Thầy non núi dựa kề, Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên. Quyết lòng rửa sạch tiền-khiên, Ra oai ra lực hùng-yên mới là. Bây giờ còn liệu tây tà, Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân. Nam-thiền báu ngọc châu trân, Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bôn phi: đi mau, đi gắp. - Bơ vơ: lẻ loi không kẻ thân, không nơi nương dựa. - Mười ơn: 1.- Sanh đẻ chịu khổ - 2.- Bồng ẵm giữ gìn - 3.- Uống đắng nhổ ngọt - 4.- Nhường chỗ khô nằm chỗ ướt - 5.- Sanh được con mừng mà quên rầu - 6.- Rửa ráy mọi điều dơ bẩn - 7.- Bú mớm nuôi nấng – 8.- Vì con nhiều khi Cha Mẹ phải làm điều chẳng lành - 9.- Đi xa thì nhớ - 10.- Mẹ thương con không có cái thương nào bằng. - Hớn đàng: Nhà Hớn hay Hán là một triều đại có công dẹp bạo Tần, đem an vui hạnh phúc cho dân nước. Nghĩa bóng chỉ cảnh thanh bình hạnh phúc. - Đài mây: từ chữ vân đài: đài cao tận mây. Theo điển tích: Vua Quang Võ nhà Hán (Tàu) xây đài cao, trong ấy vẽ hình 28 vị công thần. Nghĩa bóng: chỉ cảnh Phật, cảnh Tiên, nơi hoàn toàn yên vui. - Tiên tri: biết trước, đoán được việc sẽ tới. - Ngạo nghễ: phách lối, không coi ai ra gì. - Am: ngôi nhà nhỏ thờ Phật chỉ đủ cho một người ở tu. Ngôi chùa nhỏ - Cốc: chùa nhỏ trong hốc núi. - Hùng yên - Hùng anh - Anh hùng: xin xem tr. 78. - Nam thiền – Nam thành: thành Nam. - Châu trân - trân châu: hột châu (ngọc con trai) quý báu.-- ··· -- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tiếp theo IV) Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng, Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang. Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió, Lòn cuối chờ trông lúc khải-hoàn. Mê-man danh-lợi cõi hồng-trần, Có một hội nầy lập lấy thân. Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên-cần. Huyền-vi cơ Đạo kiến linh kỳ, Tự thán dương-trần tốc kham bi. Vô vị phi liên tâm phế kỷ, Điểm hồng nê địa tự thiên chi. Phỏng dịch: - Căn bản giáo lý đạo Phật huyền vi và mầu nhiệm. - Hãy can đảm chịu đựng để vượt qua những khổ đau ngang trái của cuộc đời cát bụi này. - Đừng bận lòng với các sự việc không cần thiết. - Từ cao sang đến thấp hèn đều giả tạm, không gì bền vững. -- ··· -- Chừng nào thấy được phụng-hoàng, Rồng chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh. Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh, Ngày sau mới thấy phép linh của Trời. Ai ai cũng ở trong đời, Chốn nào không Đạo là đời vô liêm. Xét suy cho cạn cổ kim, Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn. Ta đây ưa ghét mặc tình, Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi. Chừng nào thượng-cổ hồi-qui, Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời. Tu-hành đạo-đức rao mời, Như người ngu dại với đời loạn-ly. Ở sao cho biết tôn-ti, Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời. Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời, Có cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn. Mặc tình ai nói thiệt hơn, Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời. Luân phiên Thầy tớ tách vời, Chẳng nài lao-lý miễn đời bình-an. Tiếng đờn hò liếu cống xang, Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh. Buổi nay nhằm lúc vắng thanh, Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim. Trau dồi (giồi) đúng bực thanh-liêm, Nữa sau mới biết thành kim đền đài. Việc đời nhiều lúc khôi hài, Quyết lòng cho thế một bài học hay. Chuyển miền Nam địa lung-lay, Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời. Thiếu ai mà bị réo mời, Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên-thinh. Trớ-trêu phải mượn kệ kinh, Mặc tình dân-sự biện-minh lẽ nào. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Kiểng: cảnh, phong cảnh.- Xuê xang: xem tr. 138. - Vô liêm: kẻ không trong sạch, không ngay thẳng, hay làm điều xấu - Thượng cổ hồi qui: trở lại đời thượng cổ. - Tôn ti: thứ bực trên dưới theo địa vị xã hội; thứ bực trong gia tộc họ hàng. - Thanh liêm: trong sạch, không tham lam. Không ăn của lót, không ăn cắp của công. - Giáo đời: dạy Đạo cho người đời. - Biện minh: nêu lý lẽ rõ ràng làm sáng tỏ câu chuyện.-- ··· -- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tiếp theo V) THI Thâm-trầm đạo-đức quá thanh-thao, Rừng-rú kệ-kinh cắt khoen rào. Rước đưa sanh-chúng rời bể ái, Thử-thét cho cùng cạn thấp cao. Liên lụy trần mê bể ái-hà, Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca. Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí, Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha. Si lung á giá tọa phú hào, Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao. Thố tử hồ bi ghi chí hứng, Đại-đồng Đạo cả khắp trùm bao. Phỏng dịch: - Khuôn phép, nền nếp và tâm của Thần Tiên luôn vững chắc, - Phật giáo là điểm tựa tinh thần của chúng sanh. - Người mê muội giam mình trong cái lồng phú quí. - Người hiền, thấy xa, sống cao thượng được đời sau quý trọng. - Thỏ chết, chồn còn buồn, người đời sao chẳng thương yêu nhau. - Người hiểu Đạo sống an hòa không phân biệt giai cấp, sắc tộc, quốc gia; người người bình đẳng, tự do và hạnh phúc như nhau. -- ··· -- Toan ly bể khổ, khổ tới à ! Dân-sự an-nhàn sướng dữ a ! Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng, Gội nhuần ân-đức vịnh phong ca. Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi, Chèo lái trương buờm chớ thả trôi. Bến giác bờ mê, mê phải tránh, Ly-biệt hồng trần hỡi ai ôi ! Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa, Được lịnh Thiên-Hoàng nấy sai ta. Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý, Giả dạng Điên Khùng mượn thi ca. Ham vui đào mận chẳng xong rồi, Trung hiếu giữ-gìn phận con tôi. Thế-sự bao la ta chẳng quản, Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi. Nước non náo-nức giống nòi Hồng, Gắng chí kiếm tìm chủ-nhơn ông. Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế, Liệu-lượng thâm tình tợ biển sông. Thay cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly, Muốn gặp bảng son với linh-kỳ. Noi sức bình-sanh quanh nước lửa, Có một ngày chờ hội ứng thi. Hồn thơ Tiên Thánh sánh Đạo mầu, Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu. Tóm tắt ít lời âu diệt chủng, Thế-sự mê hồn lụy song mâu. Cha nọ bồng con vợ khóc oà, Tan nát xóm-diềng khổ dữ a ! Nhà không kẻ ở, ôi ! nói trước, Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha. Lời xưa di tích rõ việc nầy, Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây. Hãy rán nghe lời ta mách trước, Không gìn đạo-đức phải phơi thây. Thương dân xuống bút tay đề, Dặn-dò bá-tánh chớ hề lợt-phai. Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng, Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe. Lam-kiều hữu lộ vắng hoe, Ngục môn không cửa mà hè nhau đi. Thảm cho trẻ hài-nhi liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-biệu (bịu) thê-lương. Phong trần dày-dạn gió sương, Chư bang ham báu hùng-cường đua tranh. Còn một cuộc chiếu manh giành xé, Khắp hoàn-cầu ó-ré mọi nơi. Dòm xem châu ngọc chiều mơi, Sao đời không sớm tách dời cõi mê. Để đến việc thảm-thê thê-thảm, Mắt phàm-trần tường-lãm bi-ai. Cũng đồng cốt-nhục hoài thai, Nên ta rán sức miệt-mài dạy khuyên. Thơ với phú Thần Tiên giáng bút, Bởi cơ trời đã thúc bên lưng. Không tu chừng khổ cũng ưng, Tu-hành gặp cảnh vui mừng toại thay ! Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài, Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai. Tỏ thuyết huyền-vi sanh-chúng rõ, Năng kỳ liên huệ tất biền lai. Phỏng dịch: - Hết hoàng hôn theo luật tuần hoàn, bực tài năng xuất hiện. - Vì thương người đời nên ngày đêm không nghỉ. - Bày tỏ huyền bí nhiệm mầu cho chúng sanh rõ, - Chư vị đức tài, trong sạch như hoa sen hoa huệ đều trở lại cõi đời này. -- ··· -- Tư lương đeo đuổi giấc mộng sầu, Bớ hỡi dương trần khá liệu âu. Nước lửa đến chưn, ôi ! khó nhảy, Co giò phóng riết lọt ngoài sâu. Huyền-cơ đạo-hạnh hãy rán tầm, Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm. Ngàn năm Thích đạo đành chôn lấp, Thương tưởng bá-gia nỗi lạc-lầm. Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến, Sao dân còn tríu-mến trần-mê ? Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê, Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai. Cuộc biến động nay mai nguy ngập, Một hội nầy rán lập thân danh. Kìa kìa các bực công khanh, Miễu son tạc để đành rành chẳng sai. Đất với nước hậu lai vinh-diệu, Đạo lo tròn yểu-điệu tấm thân. Một câu quân lý tứ ân, Ta đừng phai-lợt phong-thần bảng ghi. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn. (Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Khoanh tay rế: cách ngồi vòng hai tay hay ôm hai gối và xỏ bàn tay này dưới cánh tay kia. Cách ngồi của người tỏ ra bất lực trước tình thế vì thiếu điều kiện tiến hành công việc. - Liệu lượng: toan tính, cân nhắc lợi hại, đúng sai trước khi quyết định việc gì. - Lam kiều hay Cầu Lam: cây cầu bắc qua sông Lam, tỉnh Thiểm Tây (Tàu). Bùi Hàng, đời nhà Đường được Tiên dạy đến cầu sông Lam sẽ gặp duyên nợ. Theo lời, Bùi Hàng đến cầu Lam, vào quán nước, bà chủ bảo con gái, tên Vân Anh mang nước ra, Bùi Hàng thấy vừa ý, hỏi xin cưới. Bà mẹ nàng bảo, bà có cối ngọc, nếu Bùi Hàng kiếm được chày ngọc mang đến, bà sẽ gả Vân Anh cho. Bùi Hàng nhờ Tiên cho chày ngọc nên được vợ. Bùi Hàng và vợ sau đều thành Tiên. Nghĩa bóng: người tốt gặp duyên lành. - Lịu địu - Bận bịu: xin xem trang 113 - 139. - Phong trần dày gió dạn sương: từng trải, chịu đựng nhiều thử thách đến mức quen với khó khăn vất vả. Phong trần là gió và bụi. - Hùng cường: sức lực mạnh mẽ, giỏi giắn. - Ó ré: la hét lên, la chát chúa. - Cốt nhục hoài thai: mang thai, có chửa, xương thịt tượng hình trong bụng mẹ. - Miệt mài: xin xem tr. 172.- Tường lãm: xem tr. 112. - Tríu mến - Trìu mến: tr. 121. - Công khanh: tr. 113. - Hậu lai vinh diệu: ngày sau sẽ vẻ vang rực rỡ. - Quân lý: về đạo quân thần, tức tôi đối với vua. - Phong thần - Phong: ban đất đai hay tước lộc cho người có công. Thần: tước hiệu. Theo truyện Phong Thần (Tàu), Khương Tử Nha nhận lịnh Phật, sau khi dẹp vua Trụ, đăng đàn, xét công tướng sĩ, sống hay chết đều được phong thưởng. --- oOo --- GIỌNG KHÀN Lập chí giác dân đến giọng khàn, Cảm tình bổn-đạo ngặt lời khan. Tạm ngưng lý-lẽ trong đôi bữa, Xin chớ bỏ qua rất muộn-màng. Muộn-màng chơn-lý khó bằng an, Thế thái trần mê giải mộng tràng. Hỡi giống Tiên-Rồng mau mở mắt, Kiếm tìm đạo-lý lánh hùm lang. Hòa-Hảo, tháng 2 năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Giác dân: dạy cho dân hiểu biết Đạo, thức tỉnh. - Thế thái: thói đời.- Chơn lý: xin xem trang 36. - Hùm: một loai cọp; giống cọp dữ. - Lang: chó sói. - Mộng tràng: xin xem tr. 173. --- oOo --- Cho Ông Tham-tá NGÀ (Con của Ô. Đốc-phủ Lê-Quang-Liêm tức Bảy) Lòng buồn gặp kẻ xa-xôi, Lân-la đến chốn buôn mồi vinh-hoa. Xả thân tìm kiếm ma-ha, Chẳng nài viễn-vọng dẹp tà nơi tâm. Nay gặp bạn tri-âm tri-kỷ, Cho những điều thiện mỹ cổ lai. Đừng nên sớm vội lợt phai, Xe dây cho chặt mà nài tánh linh. Nền đạo-đức sắc thinh chớ mến, Có thuyền từ đưa đến non Tiên. Cứu người hữu phước thiện-duyên, Về nơi cõi Phật khỏi miền trần ai. Kẻ ác-đức hậu lai khổ thảm, Mắt phàm trần tường lãm hồ binh. Mấy lời dặn bảo đinh-ninh, Gắn-ghi chạm dạ Long-Đình được xem. Mùi đạo-diệu gỏi nem khó sánh, Chốn trà-đình xa lánh vãng lai. Tu hành nào luận mặn chay, Miễn tâm thanh-tịnh gặp ngày an-cư. Nền đạo-đức vị tư bất nhã, Ta đừng phân nhơn ngã mới hay. Nhìn đời thế thái đổi thay, Hết vinh tới nhục lẽ nầy thường xưa. Đời (¹) vật-chất văn-minh chiều-chuộng, Vì thời lai vận bĩ trải qua. Lòng sắt-son đây đó nõn-nà, Tâm não bít bê-tha chậm trễ, Tu với tỉnh bảo toàn thân-thể, Giữ đừng mòn linh tánh mới hay. Nỗi bút-nghiên phận Lão cạn bày, Câu diệu-lý cơ-huyền khó kiếm. Sá chi kẻ dùng lời bao-biếm, Chê Điên Khùng khó kiếm cho ra. Não tâm tràng sớm dứt ái-hà, Nên phải vội lìa xa cõi tạm. Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám, Đạo và đời thăm-thẳm sâu-xa. Diệm Hồng-Liên thơ-thớ (thới) quần ca, Tạo duyên giả phàm gian thân giả. Chớ lấy đó mà tâm buồn-bã, Hiệp hòa nhau chờ đợi năm non. Kìa hỡi ai giữ phận cho tròn, Sau huynh-đệ có ngày hòa-hiệp. Chớ nản chí đường tu bỏ líp, Trổi bước sang gặp Lão thế ngôn. Trổi hùng phong cốt cách duy tồn, Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất. Lão cũng tỏ đôi lời khờ-khật, Câu huyền sâu cho đó ngụ ngôn. Mã song phi viễn-vọng tâm hồn, Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ. Giết cho sạch những loài sâu bọ, Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng. Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông, Sanh hồi thiện đôi câu thành-thật. Đêm vắn tắt vài lời để cất, Gác ngòi nghiên tạm biệt phàm gian. Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn, Để chuyến khác cạn câu hoài vọng. Dậm tràng đó mới chuyến sang chơi, Tỏ ý Thần Tiên khá nhận lời. Huyền-pháp thâm-trầm thơm bất tuyệt, Vô-vi chánh Đạo hỡi người ôi ! Người ôi ! chơn-lý thậm lâu đời, Thâm cảnh diệu-huyền hẹn một nơi. Hòa mặt Trung-Ương tam điệp khách, Đợi chờ thiên-luật mới về ngơi. Về ngơi chốn ấy rõ như lời, Nào Lão có bày chuyện khuấy chơi. Vẽ việc Trời xanh cho đó biết, Một lòng gắn chặt chẳng xa lơi. Xa lơi đạo-đức khổ tâm à ! Học cũ ít bài Lão thiết-tha. Bóng xế tà tây ôi ! lắm thể, Dạ hiền cất bút mượn thi ca. Thi ca nhiều nẻo thậm rồi đa, Hồi tị sứ thần dạy chuyện xa. Lánh thế chẳng bày danh Lão sĩ, Ngày nay các chỗ ngộ cuồng-ca. Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn (trong lúc ban đêm). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lân la: năng đi lại với một người nào. - Vinh hoa: giàu sang, có chức quyền sống sung sướng; vẻ vang, tốt đẹp. - Viễn vọng: trông nhìn xa. - Tri Kỷ: Tri: biết. Kỷ: mình. Kẻ biết rõ tâm sự mình. - Tri âm - Tri: biết. Âm: âm điệu. Nghĩa bóng: bạn bè biết rõ tâm sự của nhau. - Thiện mỹ: xin xem tr. 67. - Thiện duyên: xem tr. 15. - Cổ lai: Cổ: xưa. Lai: đến. Từ câu: Tự cổ lai kim có nghĩa từ xưa đến nay. - Nài: vòng dây dùng xỏ hai chân vào để trèo cây. Ở đây có nghĩa cột, giữ lại. - Sắc thinh: màu sắc và âm thanh. - Trần ai - Trần: bụi. Ai: loại bụi nhỏ. Chỉ cõi đời. - Hồ binh: Hồ: một dân tộc ở phía bắc nước Trung hoa xưa. Ở đây chỉ binh lính nước ngoài. - Đinh ninh: xin xem tr.177. - Nhơn ngã: xem tr. 163. - Long Đình - Long: rồng. Đình: cái đình. Nghĩa bóng: ngôi nhà dùng để rước sắc chỉ của vua. - Đạo diệu: nền Đạo diệu mầu đầy lý lẽ cao sâu. - Trà đình: xin xem tr. 63.- Thanh tịnh: xem tr. 141. - Vãng lai: đi lại. - An cư: Was (scr) thời kỳ ở yên, thời kỳ kiết hạ, tức ở yên một chỗ vào mùa mưa (Was) thường ba tháng, từ 15 tháng 4 tới 15 tháng 7. Lệ an cư khởi từ đời Phật. Vì thời kỳ này là mùa cây cỏ, côn trùng sanh hóa, chẳng muốn hại mạng sống chúng nên Phật ở yên một nơi. Nghĩa thường là ở yên nơi yên chốn. - Vị tư: vì tình riêng bỏ lẽ ngay. - Bất nhã: không lịch sự, vô phép. - Vật chất: xin xem tr. 30. – Văn minh: xem tr. 88. - Thời lai - Thời: buổi, lúc. Lai: đến. Tức đã đến lúc làm một việc gì, gặp thời. - Vận bĩ - Vận: khí số. Bĩ: xấu. Vận bĩ là gặp lúc khí số xấu. Khí số cũng như vận mạng của con người, khi tốt, lúc xấu, khi may lúc rủi. - Sắt son: lời nói, lòng dạ không lay chuyển, vững vàng như sắt, tươi thắm như son, xuất tự lòng son. - Nõn nà: mơn mởn, mượt mà, xinh, trắng đẹp. · - Bê tha: ham chơi bời đến mất hết nhơn cách, sống vất vưởng không thiết đến nhà cửa, làm ăn. - Bao biếm: xin xem tr. 48. – Ái hà: xin xem tr. 125. - Hắc ám - Hắc: đen. Ám: tối tăm. Ảm đạm buồn tẻ. Nơi tối tăm thường làm những điều tội lỗi. - Thăm thẳm: rất sâu, rất xa hoặc cao hút tầm mắt, xa tít tắp, dường như không giới hạn. - Diệm Hồng Liên thơ thới quần ca: cùng nhau hợp đoàn ca vui quanh đám sen hồng rực rỡ.? - Thơ thớ - Thơ thới - Thư thái: thong thả, dễ chịu, thoải mái, không có điều gì suy nghĩ. - Quần ca: cả đoàn cùng ca. Hợp ca. - Thế ngôn: thay lời, nói thay. - Trổi hùng phong cốt cách duy tồn: nghĩa bóng: người tu hành vẫn vững vàng giữ gìn cốt cách, tinh thần đạo đức, dầu trải qua bao khó khăn, nguy hiểm. - Khờ khật: dại ngốc, tối dạ, ít hiểu biết. - Ngụ ngôn: bài văn, bài thơ gói ghém những lời khuyên răn, chỉ dạy. - Mã song phi viễn vọng tâm hồn – Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ: nhìn đôi ngựa phi nhanh, người khách đi xa đêm dài trút cạn nỗi lòng. - Huệ tâm khai ngữ chuyển huyền thông: tâm sáng suốt dùng lời giải điều cao sâu của Phập pháp. - Sanh hồi thiện: nhớ lại việc lành. - Bóng thỏ: bóng trăng, mặt trăng. - Hoài vọng: xin xem tr. 212.- Năm non: xin xem tr. 98. - Huyền pháp: Phật pháp cao sâu huyền diệu. - Thâm trầm: sâu xa kín đáo. - Vô vi: nghĩa thường là không cố ý làm ra, xuôi theo tự nhiên. Tu là dọn sửa lòng chứ chẳng phải tụng kinh mà không hiểu ý nghĩa hay tin tưởng các hình thức bên ngoài. Vô vi: không cố ý tạo tác, không sắc tướng, tất cả là hư không. - Vô vi tức chơn lý, là Niết Bàn. - Thiên luật: luật trời. - Về ngơi: về nghĩ ngơi. - Hồi tị: cáo thối không nhận tiếp rước khách. Tránh để khỏi trở ngại. - Sứ thần: nghĩa thường là đại diện ngoại giao của một nước ở một nước khác để binh vực quyềnlợi kiều dân của mình. - Cuồng ca: lời ca hư hư thực thực.--- oOo --- KHUYÊN NGƯỜI GIÀU LÒNG PHƯỚC THIỆN Mắt nhìn Kỷ-Mão vừa qua, Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm. Ruộng đồng chẳng có rạ rơm, Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng. Canh-Thìn bước tới thiệt Rồng, Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao. Nhà nghèo dạ tợ như bào, Vợ đau con yếu phương nào cho an. Cả kêu cùng khắp xóm làng, Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua. Làng gần chí những tỉnh xa, Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau. Ngày nay tốt phước sang giàu, Xin thương kẻ khó giúp hào một khi. Cậu cô chú bác cùng dì, Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng. Việc nhà quí bạn đã xong, Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn. Lão đây thân khó chẳng sờn, Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha. Ông nào lòng dạ hải-hà, Động tình bác-ái ra mà làm đi. Giúp người đói khó nhu-mì, Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay. Bà nào goá bụa hữu tài, Tiền nhiều đất rộng cò bay mút đồng. Cơn nầy bố thí cho xong, Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia. Ông bang các chợ, xẩm hia, Tiệm hàng thạnh-mậu nhờ dân ruộng vườn. Ngày nay thất-bát khá thương, Tiền-nong chẳng có cơm lường cho qua. Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà, Cả kêu bổn-đạo ai là thiệt tu. Muốn cho rắn đặng hóa cù, Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua. Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát-loạn khó mà yên thân. Phong-trần ai cũng phong-trần, Được sang nhờ của người bần góp thâu. Thấy đời lao lý mà rầu, Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn. Xin quên mấy lúc giận hờn, Ra tay tế-độ nghe đờn Tây-qui. Xây vần trời đất tiết thì, Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai. · Cổ kim hiếm lúc nạn-tai, Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thường. Lớn ròng nạn ách phải vương, Muốn qua truông khổ tìm đường Bồng-Lai. Ngày kia được trở gót hài, Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi. Giàu sang nghèo khó cũng người, Nên ta thương hết dầu cười hay khen. Lòng nhơn xin khá tập rèn, Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa. Thánh hiền roi tích đời xưa, Nhờ tâm từ-thiện người ưa kính thờ. Chết rồi bỏ của bơ-vơ, Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời. Xác phàm có mấy lăm hơi, Hỏi vay có một mà lời đôi ba. Của dư cho mượn mới là, Hảo tâm bố-thí ngọc-tòa được lên. Chê nghèo, giàu nọ đâu bền, Chi bằng bố đức lập nền từ-bi. Con hiền khá sớm hồi-qui, Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân. Dòm xem kẻ khó tảo-tần, Rộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau. Nghèo thời cũng rán cháo rau, Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn. Bần cùng cũng sớm liệu-toan, Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu. Mộ khan thần tỉnh cần triêu, Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên. Ít ai giữ đặng chí bền, Tu theo nước lớn, ròng bèn thả trôi. Tuy xa mà tới mấy hồi, Đất còn lở thét phải bồi tự-nhiên. Thảm thương cho kẻ tá-điền, Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay. No chiều rồi lại đói mai, Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề. Lo tròn cha mẹ nhi thê, Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung. Khá thương những kẻ bần cùng, Tâm lành dư của hãy dùng vào đây. Sột-sột nhà sau mụ vét nồi, Ông chồng quần áo rách lôi-thôi. Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa, Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi. Khua đũa mèo mun ngờ chủ thảo, Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi. Lầm-than đói khó vì tai-ách, Hỡi kẻ sang giàu cứu nạn trôi. Nạn trôi lúa ngập đói còn xa, Điền-chủ mau mau nghĩ tận mà ! Tế-độ dân nghèo trong lúc túng, Giúp dùm kẻ rối buổi vừa qua. Có ăn dư huệ nhờ thân nó, Nghèo khổ bần-phu thảm dữ a ! Nếu đã xả thân tầm đạo-đức, Mở lòng bố thí ngộ thần ca. Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu, Vạn-vật từ nay luống thảm-sầu. Áo-não thương đời đa đói khổ, U-buồn trăm họ vẽ vài câu. Hòa-Hảo, ngày 25/2 Canh-Thìn. (Đức Thầy viết bài nầy để kích-thich lòng bác-ái của những bà giàu có ở xứ xa đến viếng Ngài). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Rạ rơm - Rạ: gốc cây lúa sau khi cắt phần trên có hột. Rơm: thân cây lúa sau khi lấy hết hột. - Điền chủ: chủ đất ruộng. - Hào: chữ hào ở đây có thể hiểu hai nghĩa: Hào là mười xu, tức một cắc, mười cắc là một đồng bạc. Tiền lúc bấy giờ hai hào rưởi có thể mua được một mét vải khá tốt. Hào: nghĩa thứ hai là hào hiệp, tức người rộng rãi, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó.- Hảo lòng: tốt bụng. - Khuyến khích: xin xem tr. 25. - Bác ái: xem trang 20. - Lòng dạ hải hà: lòng dạ rộng như biển sông. · - Nhu mì: hiền; cư xử dịu dàng với người; lời lẽ đứng đắn, lễ phép; nói năng chậm rãi. - Tâm trì - Trì tâm: xem tr. 147. - Lao lý: xem tr. 20. - Góa bụa: người đàn bà chồng chết. - Ông bang: người cầm đầu một nhóm Hoa kiều sanh sống ở Việt Nam. - Xẩm hia: Xẩm: thẩm (tiếng Quảng Đông: thím). Hia: anh (tiếng Triều Châu). - Thạnh mậu: phát đạt dồi dào; sung túc tươi tốt. - Thất bát - thất bác: mất mác, thua lỗ, hư hao. - Tiền nong: tiền bạc, chỉ chung các thứ tiền.- Diêm phù: “Jambudvipa ”- tiếng Phạn - dịch Diêm phù đề, chỉ trái đất chúng ta đang sống. - Giữ bo - Giữ bo bo: giữ chặt không chịu rời ra, không dám ăn xài. - Phong ba: gió và sóng, nghĩa bóng chỉ những xáo trộn lớn: giặc, bão lụt, động đất, bịnh lạ kỳ ... - Bát loạn: xin xem tr. 158. - Tảo tần: xin xem tr. 63. - Người bần: người nghèo. - Ngõ hầu: để rồi, để mà. Ví dụ: Tu hành ngay thật ngõ hầu nhờ kiếp sau. - Tế độ: xin xem tr. 68.- Lầm than: xin xem tr. 16 - Tây qui: về phương Tây, tức về cõi Phật. - Tiết thì – Tiết thời - Thời tiết: khí hậu mỗi mùa. - Bĩ cực: (thời vận) hết sức xấu. Hết sức khổ. - Thới lai: xin xem tr. 206.- Bồng Lai: xin xem tr. 200. - Bằng nay: tiếng dân gian miền Nam, có nghĩa: từ đây, ngày nay, bây giờ. - Lớn ròng - Nước lớn: mực nước dâng cao, đầy sông biển. Nước ròng: nước rút, nước xuống thấp. - Truông: vùng đất hoang cây cỏ rậm rạp. - Thạch Sùng - Vương Khải: xin xem trang 53. - Roi tích: sự tích hay, đẹp để lại cho người sau. - Mấy lăm hơi: không mạnh, không giỏi. Ví dụ:“Sức nó mà mấy lăm hơi, sợ chịu không nổi ba hiệp ...”. · - Hảo tâm: xin xem tr. 35. – Áo não: xin xem tr. 212. - Ngọc tòa: điện ngọc, chỉ nơi Ngọc Hoàng ngự. - Bố đức - Thi ân bố đức: giúp đỡ là hình thức chia xẻ phước đức cho người. - Sang sớt: sang qua sớt lại cho đồng đều. - Gian xảo: gian dối, lừa gạt một cách khéo. - Mộ khan thần tỉnh cần triêu - đại ý: buổi tối hầu cha mẹ cho tới lúc ngủ yên. Sáng sớm đến thăm hỏi cha mẹ xem giấc ngủ hồi hôm có được không. Nghĩa thông thường là chăm sóc cha mẹ. - Bèn: liền đó, làm điều gì đó liền theo một việc vừa xảy ra, ví dụ: "Tôi vừa bước ra cửa, ông ta bèn bước theo; hoặc: Vừa thấy ông ta vấp té, tôi bèn chạy lại đỡ ông ta dậy ". - Lở thét phải bồi: Con sông dài quanh co như rắn bò. Bờ đất nhô ra gọi là doi, chỗ khuyết vô bên kia sông là vịnh. Nước chảy xoi mòn lở phần đất doi mang qua bồi chỗ vịnh bờ bên kia. - Tá điền: người thuê đất làm ruộng. - Ráo tay: là khô tay, là hết sạch, không còn vật gì. · - Gia bần trí đoản: nghèo túng bận lo sáng ăn chiều nên trí óc tối tăm lú lẫn. · - Nhi thê: con và vợ. - Lưng túc: không tiền trong mình. - Não nề: buồn bã, xót xa. - Tâm trung: trong lòng; lòng trung trực thẳng ngay. - Tai ách: việc nguy hiểm, rủi ro có hại cho mạng sống, hay tài sản, danh dự ... - Dư huệ: có thể hiểu là nhờ phước đức nên dư thừa ân huệ, hãy ban bố, chia sớt cho người. - Bần phu: kẻ nghèo. - Thần ca: “Mở lòng bố thí ngộ thần ca”, mở rộng lòng cứu giúp người nghèo khồ, ngày sau sẽ được nghe lời khen (ca tụng) của chư Thần. --- oOo ---
DẶN-DÒ BỔN-ĐẠO Tháng năm mười tám rõ-ràng, Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo. Xuống trần nhằm buổi nạn eo, Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu. Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u, Tây-Phương sắc-lịnh vân-du Nam-kỳ. Mượn nhằm một xác nhu-mì, Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao. Rất buồn bá-tánh biết bao, Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài ! Viết ra Giảng Kệ bốn bài, Giã-từ trần-thế lui hài bôn-phi. An-Nam phong-hóa lễ-nghi, Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn. Mảng lo chế nhạo chống kình, Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương. Ta đây dường thể như lươn, Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu. Sáu trăng Thầy tớ dãi-dầu, Quyết lòng truyền-bá Đạo mầu mà thôi. Bồng-Lai Điên dại có ngôi, Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen. Từ-bi ngọn đuốc mới nhen, Giả như mở cửa mà then còn cầm. Dân tình xài-xể dập bầm, Nào hay ta đã thương ngầm sanh-linh. Xác trần Ta mở oai thinh, Đạo mầu truyền pháp thình-lình không hay. Trớ-trêu con tạo thày-lay, Lôi-Âm sắc lịnh đòi rày hỏi-han. Cúi đầu tâu trước Phật đàng: “Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi. Đầu đuôi tâu lại khúc nôi, Một trăm mới đặng ối thôi mười người ! Mảng lo cao thấp ngạo cười, Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo”. Di-Đà nghe tấu buồn xo, Vạn dân bá-tánh đắn-đo nhiều bề. Làm sao cửa Phật dựa kề, Hung-sùng tàn-ác khó bề dạy khuyên. Thầy Khùng Trò lại hoá điên, Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ ! Tượng xưa dấu cũ còn mờ, Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương. Nói cho bổn-đạo đặng tường, Dạy dân nào có gạt lường chi dân. Chim ô đà dựa cầu Ngân, Người Xưa trở gót mấy lần ai hay. Đời nầy chưa vẹn thảo ngay, Thì là khó thấy mặt mày người xưa. Dạy đời nào quản nắng mưa, Ước mong bá-tánh sớm ưa tu-hành. Đục trong bốn cuốn ngọn ngành, Khuyên đời trau-trỉa chữ lành cho xong. Con người có Tổ có tông, Học hay chữ-nghĩa sao không phượng-thờ? Hiếu trung truyện tích sờ-sờ, Người đời phải biết phượng-thờ mẹ cha. Từ đây ta mắc bôn-ba, Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên. Vạn dân nên trọng Phật Tiên, Dể ngươi lời dạy đọa riêng một mình. Bắc, Nam chờ đợi cuối Thìn, Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta. Viết thêm một khúc ngâm-nga, Dặn dò bổn-đạo vậy mà mấy trương. Ta dầu có cách thôn-hương, Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm. Thích-Ca còn phế tước hàm, Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành. Phật, Tiên dụng kẻ lòng thành, Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm. Trí phàm như chốn sơn-lâm, Dạy dân như phá rừng cầm cho dân. Nào đâu dân có biết ân, Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi. Đây nầy lời lẽ rán ghi, Thương đời nên mới làm thi khuyên đời. Ra đi dặn lại ít lời, Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe. Dầu ai tài phép bày khoe, Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo. Lựa cho phải cột phải kèo, Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm. Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình. Ách trời nạn nước thình-lình, Người hung cứ mãi chống kình với ta. Theo tài học cũ nôm-na, Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu. Lúc nầy chưa thể ngồi lâu, Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn. Tín-đồ cùng các chư-tăng, Từ rày sắp đến nói năng chọn lời. Bớt phiền bớt não cuộc đời, Rán nghe lời dạy vậy thời hành y. Đạo mầu bát-chánh rán ghi, Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn. Luận bàn chơn-lý cho minh, Chuyện chi xét đoán xảo tinh mới là. Thứ nhì chánh-mạng vậy mà, Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai. Thứ ba tư-duy bằng nay, Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu. Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu, Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay. Tà gian tánh ấy tù đày, Của người tham-nhũng nghề nầy chớ ham. Thứ năm tinh-tấn hội-đàm, Sạch trong kỹ-lưỡng mà làm mới ngoan. Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan, Nói năng điều chánh thì an chớ gì ! Thứ bảy chánh-niệm vậy thì, Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm. Thứ tám chánh-định chớ lầm, Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên. Ngồi đâu cũng định mới nên, Đừng cho công việc hớ-hênh với người. Hành y thì đáng vàng mười, Tùy lòng tùy sức của người đời nay. Tu-nhơn hiền-hậu cũng hay, Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh. Rút trong các luật các kinh, ·Tùy lòng không ép làm in giảng nầy. Thấp cao các bực chớ chầy, Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên. Sớm khuya bá-tánh cần chuyên, Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề. Ít lâu ta cũng trở về, Khuyên cùng bổn-đạo chớ hề lãng-xao. Trì lòng chớ có núng-nao, Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần. Mấy lời nhắn lại ân-cần, Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay. Tu-trì nguyện-ước cầu may, Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an-cư. Học câu hỉ-xả đại-từ, Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần. Bôn Nam tẩu Bắc tảo-tần, Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta. Xác trần ta đã rời xa, Bá-gia ở lại vậy mà bình-an. Kìa-kìa anh hố hò khoan, Tình lang về mất hổ-han (hang) mặt-mày. Sớm lo sắp đặt luyện tài, Phật Trời phân định mặt mày mới xinh. Ơn trên lượng rộng thinh-thinh, Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không. Giống hiền như thể gieo bông, Nhụy đơm thơm phức màu hồng xuê-xang. Dân ta dòng giống Tiên-bang, Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung-sùng. Mặc tình bá-tánh có dùng, Ai muốn nghe Khùng chép lấy mà coi. Lấy tâm lấy trí xét-soi, Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào ? Thôi thôi dân chớ hùng-hào, Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô. Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn. (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ám u: ngu tối, mê muội, đen tối mịt mù. · - Vân du: đi đây đi đó không nơi nhứt định. Tiếng dành riêng cho bực tu hành đi dạy đạo. · - Nhu mì: xin xem tr. 261. - Bôn phi: xin xem tr. 241. · - Giảng dân: chỉ dạy đạo lý cho dân. · - Ngao du: thong thả đi dạo chơi. · - Phong hoá lễ nghi: chỉ chung lệ luật, thói quen hay, tốt của nước nhà. - Nạn eo: xem tr. 168.- Văn vật -Văn minh: xem tr. 88. - Vật chất: xin xem tr. 30. – Xài xể: xin xem tr. 48. - Chế nhạo: đem làm trò cười, mỉa mai, nhạo báng làm cho người xấu hổ. - Toan – lo toan: tính trước để làm cho được việc. · - Lấm: dính dơ. Lấm đầu: dơ đầu. · - Dãi dầu: trải thân chịu mọi cực nhọc. - Truyền bá: làm lan rộng cho nhiều người hay biết. · - Sanh linh: xin xem tr. 30.- Trớ trêu: xin xem tr. 51. · - Oai thinh: lẫy lừng danh tiếng. Tiếng tâm vang lừng như sấm sét nổ. · - Con tạo - Hoá công - Tạo hoá - Thợ tạo: thợ Trời, là đấng tạo hoá. · - Thày lay: gánh vác việc người. Can dự, xen vào chuyện người khác dầu không dính dáng đến mình. · - Lôi Âm: ngôi chùa ở Tây Phương, nơi ngày xưa Trần Huyền Trang (Tam Tạng) thỉnh kinh. Nghĩa bóng chỉ Phật. · - Rày: nay, hiện nay, ngày nay, lúc này, bây giờ. - Hỏi han: hỏi cho biết việc này việc kia. · - Ngoan ngạnh: ương ngạnh, cứng đầu, ưa chống đối. - Cừ khôi - Cừ: to lớn. Khôi: đầu. Kẻ cầm đầu một phe, một đảng. · - Tâu - Tấu: tiếng chỉ dành phúc trình, báo cáo, thưa trình với Trời - Phật, Thánh - Thần, vua - chúa. - Khúc nôi: nỗi niềm, tình cảnh. Nói rõ một sự việc. · - Hung sùng: hung hăng dữ tợn. · - Tượng xưa dấu cũ: những di tích của Đức Phật Thầy: kinh giảng, trần điều, bàn thông thiên ... - Chim ô - Cầu Ngân: xem tr. 138. - Trau trỉa: tr. 114. · - Sờ sờ: hiển hiện, rõ ràng trước mắt. - Bôn ba: xin xem tr. 168. – Minh lý: xin xem tr. 105. · - Đọa: rơi xuống chỗ tồi tệ nhứt; thân bị tù đày. · - Xảo tinh - Tinh xảo: cực kỳ khéo léo, tốt đẹp. · - Hớ hênh: lơ đểnh, không chú ý vào việc làm. · - Vàng mười: vàng nguyên chất. Không pha trộn. · - Chầy: chậm trễ. · - Cần chuyên: chú ý vào việc làm, không xao lãng. - Tu trì: lúc nào cũng sửa tánh, rèn lòng, siêng học kinh kệ, làm theo lời Phật dạy, giữ đúng luật lệ đạo. · - Nghĩa sĩ: người đem tài sức ra cứu giúp kẻ nghèo khó, kẻ thế yếu. · - Hổ hang: xấu hổ, mắc cỡ. - Xuê xang: xin xem trang 138. · - Ngỗ ngang: ngang ngược không nghe khuyên dạy. · - Hùng hào: mạnh mẽ và rộng rãi. Nghĩa ở đây là mạnh bạo và ngang ngược. --- oOo --- MUỐN RÕ ĐẠO MẦU Đạo mầu diệt khổ có từ lâu, Thần-Tú ra đời lại góp thâu. Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa, Xá phướn truyền-lưu lấp Đạo mầu. Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu, Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu. Cũng có ngày kia ta giải-thóat, Giải-thoát thì ta rõ đạo mầu. Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà, Ta rán bền lòng Phật chẳng xa. Trong cõi trần-mê còn mong đợi, Thấy Phật trì tâm đến năm gà. · Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thần Tú: tức Đại sư Thần Tú, Giáo thọ, đại đệ tử của đức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Lục Tổ Huệ Năng theo học Ngũ Tổ sau Thần Tú nhưng được Ngũ Tổ truyền Y-Bát, tức tổ thứ sáu. Đại sư Thần Tú đặt nặng về phần hình thức, khác hơn Lục tổ. Đức Lục tổ dạy: "Phật ở lòng mình, tìm kiếm ở núi non vô ích, nên trau sửa và giữ Tâm luôn ngay thẳng, trong sạch không chấp mắc, khi biết rõ Tâm mình, thấy được Tánh mình là thành Đạo".. - Xá - Xá mã - Phướn: xin xem trang 82. - Giải thoát: xin xem tr. 20. - Hằng hà: xin xem tr. 137. --- oOo --- TRÔNG MÂY Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa, Ấy là tại lịnh Ngọc-toà sai Ta. Xuống trần thấy chúng thiết-tha, Vì đâu sắp đến hằng-hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi ? Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. Tây-Vức liên Nam hiệp định phân, Tam giáo qui nguơn viện lý cân. Hùng-anh Phiên-quốc lai hàng-phục, Đinh-Hợi đáo niên tạo thiện nhân. Phỏng dịch: -Tây Vực nối liền với Việt Nam. (VN sẽ có Phật). - Tam giáo (Nho - Phật -Lão) cùng nhau giúp đời, - Các nước chung quanh đều tùng phục. - Đến năm Đinh Hợi người tu hiền được vẻ vang. Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn. (trong khi Đức Thầy cảm-hứng). --- oOo --- LÝ LỊCH THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu, ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu. ĐẠI pháp vô-vi là chơn lý, THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu. Huỳnh long tự thế gần sanh-chúng, Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu. Tiên-cảnh thoát-ly truyền bá kỷ, Năng tầm Phật-lý rạch từ câu. Phỏng dịch: - Đức Thầy xuống trần dạy đạo cho dân. - Thôn Hòa Hảo là Thánh địa của nền Đạo. - Tự mình rời khỏi cõi Tiên để đi truyền bá - Giáo lý đạo Phật từ lời, từ câu một cách rạch ròi. Oai hùm chấn-động một góc trời, Độ chúng ra Kinh rải khắp nơi. Cứu thế chẳng mong ơn ai trả, Nương xác phàm-phu ngõ đợi thời. Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn, Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang. BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí, Tứ hải bất hòa khởi liên giang. Phỏng dịch: - Đức Thầy ra đời dạy đạo theo máy Trời. - Ngài âm thầm tiếp xúc với Thần Tiên. - Kế thừa ý chí BỬU SƠN KỲ HƯƠNG. - Các nước không hòa tạo phe nhóm, kết liên minh. Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn. --- oOo --- · KHUYÊN SƯ VÃI · · Trước đài sen báu ngát hương đăng, · Hai chữ Nam-Mô ấy lẽ hằng. · Thế-sự biếng đua bề lợi-hại, · Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng. · Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh, · Luân-hồi quả-báo rất công bằng. · Mang tiếng xuất gia sao chẳng liệu ? · Đạo-đức xong chưa hỡi chư tăng ? Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Lẽ hằng: lẽ thường. Nghĩa lý 5 hằng: Nhơn - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Xin xem Luân thường tr. 97. · - Siêu thăng: linh hồn không phải đầu thai mà đi thẳng về cõi an vui. - Luân hồi: xin xem tr. 9 . - Quả báo: xin xem tr. 68. · --- oOo --- “XUÂN-HẠ TÁC CUỒNG-THƠ” Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt, Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang. Cầu cho bốn biển bằng-an, Chúc câu lai-thới xóm làng vĩnh-miên. Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục, Đứng trung-thần gạn đục tầm trong. Gìn câu thủ cựu gia phong, Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa. Tơ lòng nhiều đọan đẩy-đưa, Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân. Chúng lấy thuyết vô thần bài-bác, Quyết một ngày thông đạt địa thiên. Chúng sanh nghe thửa lời truyền, Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm. Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ, Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang. Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn, Tử-Kỳ trổi giọng khải-hoàn bốn phương. Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt, Các nước ngoài bán mắc hàng lên, Ơn cha nghĩa mẹ phải đền, Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi. Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ, Thì hết câu ái-ố gièm-pha. Phương Nam rạng ngọc chói lòa, Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài-cung. Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực, Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi. Liên-hoa đua nở nụ cười, Rước tôi lương-đống chào người chơn tu. Thế-gian thoát chốn ngục-tù Thần Tiên hiệp mặt thì cù hoá long. Mắt nhìn thấy thần-thông biến-hóa, Đức Di-Đà hiện chóa hào-quang. Việt-Nam là giống Hồng-Bàng, Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay. Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn, Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên. Thiên-cơ biến-ảo diệu-huyền, Hiệp chung tam cõi dưới miền trần-ai. Bút nghiên hạ viết bài an-lạc, Dẫu cho người dốt nát cũng nghe. Kìa kìa con cuốc gọi hè, Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai. Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế, Mãi chần chờ e trễ kỳ thi. Muôn năm Trời định khắc kỳ, Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan. Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ, Khùng thế thời khùng lộ ngoài da. Ghét dòng con nịnh độc-xà, Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn. Đường gai gốc thiên sơn vạn hải, Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng. Tử-Nha như thể cát-đằng, Tùng-quân dựa bóng vui bằng hưng Châu. Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu, Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương. Trụ kia bạo ác phải nhường, Võ-Vương hữu đức đường đường trị dân. Thì rõ việc Phong-Thần trở lại, Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương. Con lành mau lại Phật đường, Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi. Chớ nóng nảy sân-si hư việc, Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui. Xử phân những đứa vô nghì, Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son. Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo, Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng. Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng, May nhờ Đại-Thánh phi đằng cứu nguy. Lôi-Âm tự đường đi chưa đến, Nên giữa chừng kẻ mến người khinh. Thôi thôi Ta để mặc tình, Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan. Hòa-Hảo, tháng tư năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Sĩ điềm tịnh: người có học luôn bình tĩnh, thản nhiên, ung dung, không bị ngoại cảnh động đến tâm. · - Tiểu nhơn: người tầm thường; người tánh tình hẹp hòi nhỏ mọn, hay làm bậy. - Thời vận hèn: vận xấu rủi, vận đen đủi gặp toàn chuyện không may. · - Nhược thắng cang: dịu dàng thắng tánh cứng cỏi. Người tánh dịu dàng, mềm mỏng dễ thành công hơn người tánh tình cứng cỏi. · - Bằng an - Bình an: mạnh giỏi, yên lành, không trắc trở, không tai nạn. · - Lai thới - Thới lai: xem tr. 206.- Trần ai: xem tr. 254. · - Vĩnh miên: lâu dài, đời đời. · - Thủ cựu: giữ gìn cái cũ. Sống theo nền nếp hay, đẹp của ngày xưa. · - Gia phong: nền nếp tốt, riêng của mỗi gia đình. · - Thuyết vô thần: không tin có Trời-Phật-Thánh-Thần.Không tin có đấng tối cao tạo ra muôn loài vạn vật. Không tin có hồn ma. Không tin quả báo luân hồi. Chủ trương mạnh được yếu thua. - Bài bác: chê bai nhằm gạt bỏ lý lẽ của người. · - Thông đạt địa thiên: thấu rõ việc đất trời. · - Thửa: vậy, thế, như vậy, như thế. · - Tao đàn: nơi hội họp các nhà văn, nhà thơ. · - Bá Nha - Tử Kỳ: đôi bạn tri âm đã giải ở trang 139. Ý nghĩa hai câu trên đây chỉ sự hội hiệp của những vị dày công tu hành sống sót sau này. · - Nghèo ngặt - Ngặt nghèo: khó khăn, nguy hiểm. · - Ái ố: yêu thương và ganh ghét. Thương và ghét. · - Gièm pha: xin xem tr. 156. - Liên hoa: xin xem tr. 69. · - Lưu ly: một loại ngọc quý. Cùng tên thứ ngói tráng men màu sắc rất đẹp. Có hai loại: hoàng lưu ly (lưu ly màu vàng) và thanh lưu ly (lưu ly xanh). Phần lớn cung điện xưa ở Tàu và nước ta, chánh điện lợp ngói hoàng lưu ly, các điện phụ lợp ngói thanh lưu ly. · - Hổ phách: nhựa cây thông chảy ngầm trong đất lâu năm, kết thành khối cứng màu đỏ trong, dùng làm đồ nữ trang. · - Đài cung: đền đài và cung điện. · - Chánh trực: làm chánh đáng, ngay thẳng đúng với đạo lý. · - Náo nức: rộn rịp, hăm hở. - Lương đống: rường và cột nhà. Nghĩa bóng chỉ người tài giỏi có ảnh hưởng đến việc mất còn của đất nước. - Thần thông - Thần: sự linh diệu (hay ho), nghị lực cao siêu không lường được. Thông: không bị ngăn trở. Phật dùng thần thông biến hoá theo ý, theo tâm thức, (tâm thức là toàn thể tinh thần, sự sống về phần hồn) và nghị lực. Thần thông: có khả năng hiểu thấu mọi việc. · - Hào quang: ánh sáng tỏa ra bốn bên. Ánh sáng trí huệ của các bực đắc đạo. - Lăng loàn: hỗn láo, xấc xược, lấn lướt kẻ trên. · - Bỡn: đùa, trêu ghẹo, pha trò hoặc bắt người làm trò cười. · - Thiên cơ - Thiên: Trời. Cơ: máy; chỉ máy Trời. - Biến ảo: thay đổi luôn, không chừng đổi. - Diệu huyền - huyền diệu: xin xem trang 9. - Tam cõi - Tam giới: xem tr.178. - Lung lăng: tr. 113. · - An lạc - An cư lạc nghiệp: cảnh thanh bình, dân có nhà cửa yên ấm, công việc làm ăn vui vẻ. · - Dốt nát: dốt, tối tăm, không biết gì hết. · - Cuốc - chim quốc hay đỗ vũ hoặc đỗ quyên. · - Ông thất thủ Hạ bì: tức Quan Võ hay Quan Công thua trận mất thành Hạ Bì. - Tam Hoàng: Các học giả Trung Hoa không nhất trí với nhau về Tam Hoàng cụ thể là ai. Theo “Sử ký Tư Mã Thiên”, ba vị vua là: - Thiên Hoàng - (trị vì 18.000 năm) - Địa Hoàng - (trị vì 11.000 năm) - Nhân Hoàng - (còn gọi là Thái Hoàng, trị vì 45.600 năm). Theo “Vận Đẩu Xu” và “Nguyên Mệnh Bao” cho rằng ba vị là: - Phục Hi, - Nữ Oa, - Thần Nông. Phục Hi và Nữ Oa là thần chồng và thần vợ, được coi là tổ tiên của loài người sau một trận đại hồng thủy. Cũng như Thần Nông là người đã phát minh ra nghề nông và là người đầu tiên dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Các sách “Thượng thư đại truyện” và “Bạch hổ thông nghĩa” thay thế Nữ Oa bằng Toại Nhân người phát minh ra lửa. Sách “Đế vương thế kỷ” thay thế Nữ Oa bằng Hoàng Đế người được coi là tổ tiên của người Hán. - Nịnh: nói hùa theo, dùng lời lẽ dịu ngọt tâng bốc mong được nhờ nhõi, hoặc gièm siểm để hại kẻ khác. · - Độc xà: rắn có nọc độc cắn chết người. - Thiên sơn vạn hải: xa xôi cách trở, phải vượt qua nhiều núi, nhiều biển. · - Tướng bái đàn đăng – Đăng đàn bái tướng: nhà vua lên đài cao làm lễ trao ấn, tước, như Tể tướng hay tướng soái. Ngụ ý nhận ấn tước phải lạy tạ. · - Tử Nha: tên chữ của Khương Thượng, đại tướng thống lãnh quân đội nhà Châu đời Châu Văn Vương, Châu Võ Vương, lập nên sự nghiệp nhà Châu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và nhân loại. · - Cát đằng: dây bìm và dây mây, hai loại dây leo. Nghĩa bóng là dựa nương vào kẻ khác, và cũng có nghĩa là vương vấn, vương vít. Quấn quít. · - Tùng quân: theo làm lính để đánh giặc. · - Châu: là nhà Châu của Văn Vương , Võ Vương. - Lư bồng: ngôi nhà dựng nơi yên tịnh, đặt lư xông trầm hương, dành các vị tiên hội họp. - Chầu: xin xem tr. 14. - Phong Thần: xin xem tr. 250. - Võ vương tức Châu Võ Vương (Cơ Phát, con của Cơ Xương, Châu Văn Vương) diệt Trụ Vương thành lập nhà Châu, Khương Tử Nha là Tướng Quốc. - Đông Pha: tức Tô Đông Pha (1037–1101), tên Tô Thức. Năm 20 tuổi Ông đỗ Tiến sĩ đời Tống, làm quan trong sử quán thời Thần Tông (1068 – 1085) vì phản đối tân pháp của Tể tướng Vương An Thạch, bị đổi ra Hoàng Châu (nay là Hoàng Giang thuộc Hồ Bắc). Nơi đây ông cất nhà ở sườn phía đông một hòn núi, xưng hiệu Đông Pha cư sĩ. Đến đời vua Triệt Tông, ông được triệu về kinh phong Hàn lâm học sĩ rồi Thượng Thơ bộ binh. Năm 1089, vì nghịch với bọn quyền thần, ông bị giáng làm Tri Châu Hoàng Châu. Tư tưởng của ông phóng khoáng, ngoài đạo lý Khổng-Mạnh còn dung nạp cả tư tưởng hay của Lão và Thích. Thơ văn của ông lưu truyền muôn đời, ngoài ra ông còn nổi danh về nghể vẽ và viết chữ rất tốt. Hai tác phẩm: Tiền Xích Bích Phú, Hậu Xích Bích Phú là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa. - Sân - Si: xin xem tr. 163. – Vô nghì: xin xem tr. 44. - Kiệt: vua nhà Hạ (Tàu), có sức mạnh, giỏi võ nhưng tham ác, ăn xài quá mức, ham rượu và gái, say mê nàng Muội Hỷ bỏ bê việc nước, bị vua Thang đem quân đánh bắt đày ra Nam Sào, dứt nhà Hạ, lập nên nhà Thương mà vua Trụ làm mất sau này. · - Vít tì: vết thẹo, vết nứt, vết trầy. · - Cáo: các loại chồn có vú, ở hang, rất khôn. · - Cầy: giống chồn biết leo cây, rất khôn. - Đại Thánh - tức Đại Thánh Tề Thiên nghĩa là "Thánh lớn bằng trời". Tôn Ngộ Không đòi Ngọc Hoàng phong tước hiệu này và được toại ý. Tôn Ngộ Không: Tên do sư phụ đầu tiên đặt, Tôn theo một từ Hán cổ có nghĩa là "khỉ" và "Ngộ Không" có nghĩa "Giác ngộ được Tính không". Tôn Hành Giả nghĩa là "người tu hành họ Tôn", được sư phụ Tam Tạng đặt cho. Đấu Chiến Thắng Phật Danh hiệu sau khi thỉnh kinh xong, thành chánh quả, được Phật ban. - Phi đằng - Phi: bay. Đằng: vọt lên cao. --- oOo --- TỪ GIÃ BỔN-ĐẠO KHẮP NƠI Canh-Thìn năm thiệt là rồng, Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai. Tháng năm Kỷ-Mão đến nay, Khắp trong bá-tánh gặp bài sám-kinh. Lời văn tao-nhã hữu tình, Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai Ta. Xuống trần Lão dụng khuyến-ca, Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài. Tạm đây Ta mắc lui hài, Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui. Không đành tách gót ra đi, Nên dùng lời lẽ từ thì bá-gia. Thiên đường lộ ấy nào xa, Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền. Dấu Xưa noi tích Thánh-hiền, Thương trần mượn xác bút liền ra cơ. Thấy trong bá-tánh ngẩn-ngơ, Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình. Gẫm trong hai chữ nhục-vinh, Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng. Cúi đầu tâu lại cửu-trùng, Ngọc-Hoàng ban chiếu Lão Khùng giáo dân. · Gái trai lớn nhỏ ân cần, · Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên. · Tây-Phương đua nở hoa liên, · Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa. · Nhắn cùng bổn-đạo gần xa, · Ta về âm-cảnh thiết tha tâm tràng. · Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang, · Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi. · Lang-tâm trắc-nết vô-nghì, · Nhỏ không biết nể kính-vì bề trên. · Nhỏ to lời lẽ chớ quên, · Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu. · Bá gia bá tánh đâu đâu, · Xem lời Ta chỉ về cầu tại gia. · Có đau thì thuốc đó mà, · Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây. · Nay Thầy chịu lịnh về Tây, · Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua. · Dạo trong khắp cõi ta-bà, · Nơi nơi chốn chốn quỉ ma rối loàn. · Chữ rằng: “Nhơn thiện vi nan”, Dầu cho tài trí cũng mang nợ trần. Có đeo bịnh tật vào thân, Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô. Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban. Cám thương bá-tánh tai nàn, Gặp cơn dông-tố nào an lòng nầy. Đờn Ta vốn thiệt không dây, Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa. Từ trên tới dưới thuận hòa, Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu sang. Thầy về tâu lại Phật-đàng, Cúi xin nhỏ phước xóm lành bình yên. Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên, Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu. Muốn xem bốn chữ Long-Châu, Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì. Tu-hành mà mãi nan nghi, Sợ Ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân. Giã từ khắp hết dương-trần, Vân-du chốn cũ lưới Thần bủa ra. Non cao nhiều thứ cáo-xà, Trừ loài độc-địa mới là yên thân. Biết sao cho toại lòng dân, Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa. Xót lòng cậy nước ma-ha, Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm. Thân Khùng đêm vắng khóc thầm, Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an. Từ nay cách biệt xa ngàn, Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy. Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa. Tỉnh say trong giấc mộng hoa, Mơ màng cũng tưởng như Ta bên mình. Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai. Nghe sơ lời Lão cạn bày, Tìm trong não óc gặp ngày bình-an. Kim-lân, Xích-phụng lâm nàn, Cho nên phận Lão đâu yên thân già. Tảo-tần lo liệu năm ba, Biết sao hiệp mặt lòng Già mới nguôi. Mặt ngoài gượng gạo bải-buôi, Chớ trong tim phổi rối nùi như tơ. Tuồng đời như cá trong lờ, Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom. Bao nhiêu tâm não góp tom, Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng. Chừng nào Tôi được hết Khùng, Thì là dân-sự còn dùng làm chi. Bận lòng cạn tỏ vân-vi, Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya. Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa, Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông. Kể ra lại bắt mủi lòng, Ngán đời mua bưởi bán bòng chát-chua. Cứ theo cái thói a-dua, Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi. Vàng kho thêm gánh ích gì, · Thôi Ta than lắm vậy thì thẹn thêm. · Bóng trăng cậy đỡ ban đêm, · Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài. Khùng ngồi nói chuyện quá dai, Bị lòng bác-ái nói hoài chẳng thôi. Thấy đời mặt lọ không bôi, Lại khoe kép giỏi một hồi múa men. Từ nay cửa Khổng gài then, Chờ ta trở lại thì đèn hết lu. Thân Khùng là phận sĩ-phu, Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn. Khôn thì lánh chốn đau đòn, Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa. Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa, Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương. Nhớ qua hồi lúc đời Đường, Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình. Cửu-Thiên còn giấu tại dinh, Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày. Giảng Kinh đọc tụng chiều mai, Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta. Xác trần để lại làng Hòa, Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa Ta lui. Âm-dương cách trở xa-xuôi, Nhắn cùng bá-tanh chớ nguôi tấc lòng. Phận Khùng thân hỡi long đong, Còn lo cho thế hai lòng toan mưu. Ta không gây oán kết cừu, Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì ? Khoa tràng lịnh mở hội thi, Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian. Chớ mình hồn dựa lâm-san, Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì ? Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui, Thế-trần no ấm phú thi an-nhàn. Quân-thần, phụ-tử vinh-vang, Hết lo cay đắng, Khùng an phận Khùng. Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi. Đục trong cạn tỏ khúc nôi, Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng. Lang tâm như thú thiếu lông, Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao. Ra đời chẳng nệ công-lao, Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh. Hiệp chung một cội nhánh-nhành, Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường. Từ-bi tình ấy đọan-trường, Kể qua tích cũ mà lường lòng đây. Như ai có đọc đoạn nầy, Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng. Muốn sao có phép phi đằng, Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn. Rưng-rưng nước mắt hai hàng, Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn. Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn. (Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo. Quả thật, ngày 12-4 Canh-Thìn nhà chức-trách ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc). NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Tao nhã: phong lưu, thanh cao, lịch sự. · - Sắc lịnh: lịnh của một vị cao cấp; lịnh của Phật. · - Khuyến ca: xin xem tr. 183.- Thiện duyên: xem tr. 15. · - Bệ ngọc: ngai vua ngồi cẩn ngọc. Chỉ cảnh sang trọng nơi vua chúa ngự. · - Hồi qui: trở về. · - Cửu trùng: 9 lớp, chín từng, chín bực thềm dưới chỗ vua ngồi. Cũng chỉ vua. · - Chiếu: mạng lịnh của vua. · - Hoa liên: hoa sen. · - Từ hòa: hiền lành thuận thảo. · - Tâm tràng - tâm trường: lòng dạ và ruột. · - Nghinh ngang: ngang bướng, không chịu nghe ai, không kiêng nể ai. · - Từ bi: xin xem tr. 11 và 25. – Ta bà: xin xem tr. 98. · - Lang tâm: lòng dạ độc ác như chó sói. - Trắc nết: tánh hỗn xược, không kể gì đạo đức. · - Nhơn thiện vi nan: làm người hiền rất khó. · - Độ vô: uống vô, uống vào. - Cam lồ - Cam lộ: xem tr. 177. - Lăng loàn: xem 279. · - Dông tố: dông gió lớn. Nghĩa ở đây chỉ các việc không tốt, có nguy hại. · - Bốn chữ Long Châu: BỬU–SƠN-KỲ-HƯƠNG, chỉ nền Đạo của Đức Phật Thầy, xuất phát ở hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. · - Sồng: loại dây leo, củ nâu đen, dùng nhượm vải. · - Nâu: loại dây leo, củ màu nâu đen. Nâu sồng nhượm vải quần áo của nhà tu, cũng chỉ nhà tu. · - Nan nghi - Nghi nan: ngờ vực khó giải quyết. - Gạt gẫm: đánh lừa, lường gạt, nói cho người lầm để kiếm lợi, hay để hại người, hoặc giỡn chơi. · - Vân du: xin xem tr. 269. – Cáo xà: xin xem tr.154. · - Toại lòng: vừa lòng, vui lòng. · - Vinh hoa: giàu sang, có chức quyền sống sung sướng; vẻ vang, tốt đẹp. · - Nước ma ha: ở đây chỉ Đạo Phật. · - Sân Trình: sân nhà ông Trình Di, một học giả lỗi lạc, người Lạc Dương, đời Tống, chú thích Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu, lập một học phái. · - Cửa Khổng: cửa nhà ông Khổng Tử. Nghĩa bóng câu“Cửa Khổng - Sân Trình” chỉ trường học đạo Khổng và chữ nho. · - Kim lân: lân màu vàng ?. · - Xích phụng: chim phượng đỏ ?. - Tảo tần lo liệu năm ba: (theo đồng đạo Lê văn Phú tự Tho, Trưởng Ban Phổ thông Giáo Lý tỉnh Châu Đốc) Năm ba: chỉ con số 5 và số 3 của Tam giáo, vì Tam giáo lấy số 5 và 3 làm căn bản. Đạo Phật có Tam quy Ngũ giới (Tam quy: quy y Phật, Pháp, Tăng. Ngũ giới: cấm sát sanh, đạo tặc, tà dâm, ẩm tửu và vọng ngữ).Đạo Tiên có Tam ngươn (ngươn tinh, ngươn khí, ngươn thần và Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Đạo Thánh có Tam cang (Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang và Ngũ thường: Nhơn, Nghiã, Lễ, Trí, Tín). Vậy, “tảo tần lo liệu năm ba” nghĩa là Đức Thầy đã cực công, lo lắng dạy dỗ, mong chúng ta được thành Đạo, nếu chúng ta hành y theo chân truyền, y theo 8 điều răn (gồm 5+3=8) của Tổ Thầy thì chắc chắn sẽ gặp được mặt Thầy, để “kiếp sau hiệp mặt lòng già mới nguôi.” làm vui dạ Đức Thầy. · - Bải buôi: đãi bôi, mau mắn, vui vẻ, bặt thiệp. · - Lờ: dụng cụ đan bằng nan tre chẻ nhỏ, có hom, đặt dưới nước theo luồng cá đi. Cá vào rồi không ra được vì bị hom chận. · - Hom: dụng cụ đan bằng nan tre vót nhọn giụm đầu vào trong để cá tôm không chui ra được. · - Vân vi: đầu đuôi gốc ngọn sự tình. · - Công trì: trì tâm bền chí lo công phu tu hành. · - Ăn giấy bỏ bìa: Từ thập niên 40 trở về trước, phần đông người hút thuốc điếu ở nhà quê đều vấn (quấn) bằng tay. Giấy hút thuốc tên là giấy quyến, loại giấy nhập cảng, mỏng, trắng, khổ rộng bằng tờ báo, dân ghiền thuốc điếu kêu tờ giấy quyến là “ngọn” giấy, và hay hỏi nhau:“một ngọn giấy anh “ăn” mấy “dun”. Có nghĩa chia ra mấy “dun” để vấn thuốc. Cách chia là xếp tờ giấy rọc theo chiều dài, thường là sáu hay bảy “dun”, chiều cao bằng điếu thuốc – tùy người hút điếu dài hay vắn. Phần bìa tờ giấy quyến độ 5 - 6 ly (0,m005) có một đường viền hơi dày để giữ tờ giấy khỏi rách, trên đường viền đó có mấy lằn mực xanh hay đỏ tùy theo hiệu giấy. Người vấn thuốc xé bỏ phần viền bìa đó – vì hút nghe có mùi khét - nhưng mấy bà nhà quê trách sao“ăn giấy bỏ bìa” ngầm ý chê là phung phí, không tiếc của. Lần lần ý nghĩa câu nói này bị hiểu thành bạc bẽo, quên tình quên nghĩa · - Mủi lòng: động lòng, cảm động. · - Mua bưởi bán bồng: chỉ việc làm ăn, mua bán không ngay thật. Người ta hỏi mua bưởi người bán đưa trái bồng. Bồng cùng họ với bưởi nhưng vị chua. Câu này cùng nghĩa với câu “Treo đầu dê bán thịt chó”. Vì thịt dê mắc tiền hơn thịt chó. · - A dua: nói hùa theo người có quyền thế không cần biết đúng hay sai. · - Từ bi: ở đây chỉ Phật. · - Têm - Têm trầu: là động tác quệt vôi lên lá trầu - vôi nhiều hay ít tùy ý thích - rồi cho vào miệng nhai với miếng cau tươi hoặc cau khô. · - Múa men: động đậy, cựa quậy, vung vẩy tay chơn. Nói mà quơ tay quơ chơn. - Danh diệu: danh tiếng và vinh diệu. Danh tiếng: tiếng tăm đồn đãi nhiều người hay biết. Vinh diệu: vẻ vang rực rỡ. · - Đẩy đưa: xin xem tr. 236. – Thi: xin xem tr. 188. - Hạng Võ: tên Tịch, người đất Cối Kê, lúc nhỏ ham chơi không thích học, chỉ ham võ nghệ. Nhờ có sức mạnh hơn người, cất nổi cái đỉnh nặng 5.000 cân trước miếu Võ Vương, tiếng tăm vang dội. Từ đó Hạng Võ chiêu mộ binh sĩ cùng Lưu Bang chung sức đánh Tần. Hai người ước hẹn nhau ai vào chiếm được đất Hàm Dương trước thì được xưng vương. Lưu Bang đến trước nhưng vì sợ oai của Hạng Võ phải rút binh về đóng ở Bái Thượng. Hạng Võ vào đốt cung A Phòng của nhà Tần lửa cháy ba tháng mới tắt. Hạng Võ xưng Sở Bá Vương và càng hiếu sát hơn, ra lịnh chôn sống ngót 20 vạn binh sĩ và dân chúng. Sau, Hạng Võ thua Hàn Tín, tướng của Lưu Bang đến phải tự tử ở bến Ô giang - Trương Lương: xin xem tr.117. - Long đong: tr. 114. - Nhơn Quí: tức Tiết Nhơn Quý: ngưyên soái của vua Lý Thế Dân, nhà Đường (Tàu, 618 - 907). - Cửu Thiên: tức Bà Cửu Thiên Huyền Nữ hay Cửu Thiên nương nương, một vị nữ thần đời thượng cổ, thầy của vua Hoàng Đế, đệ tử của Nguyên Quân Thánh Mẫu. Lúc Hoàng Đế đại chiến với Xi Vưu ở Trác Lộc, bà hiện xuống tặng binh phù, ấn kiếm cho Hoàng Đế, nhờ đó Xi Vưu mới bị phá. - Ngày rày: tiếng miền Nam, có nghĩa: ngày xảy ra chuyện đang kể; ngày của lúc đó. Ngày này của tháng, năm trước, hoặc sau đó. Từ bây giờ sắp về sau. Chỉ việc từ những ngày qua đến lúc nói; ví dụ: "Anh đi đâu mấy ngày rày?". · - Âm dương: nghĩa ở đây chỉ thế giới của người sống và cõi chết. · - Phiền ưu - ưu phiền: lo rầu, buồn phiền. · - Khoa tràng: trường thi, nơi thi. · - Lâm san: rừng núi. - Phú: xin xem tr. 188. – Khúc nôi: xin xem tr. 270. · - Trớ trêu: xin xem trang 51. · - Sum sê: um tùm, tươi tốt. Cây lá sum sê. - Lá thắm – theo sự tích “Hồng diệp lương môi” (Lá thắm duyên lành). Chuyện đời nhà Đường, nàng cung nữ tên Hàn Thúy Tần rất tài hoa nhưng không được vua yêu, nàng sống trong cung buồn chán, mới viết một bài thơ lên lá, thả trôi theo dòng nước. Bài thơ này được chàng nho sĩ Vu Hựu vớt, và chàng họa lại bài thơ, thả ngược vào cung, không ngờ Hàn thúy Tần cũng nhặt được, nàng giữ bên mình. Mấy năm sau, vua cho một số cung nữ về quê, tình cờ Vu Hựu và Hàn Thúy Tần gặp và cưới nhau, sau mới biết là đã từng quen nhau qua hai bài thơ trôi theo dòng nước. Vợ chồng đầm ấm đến già, kết thúc câu chuyện tình đẹp. - Chim xanh: sứ giả, người đem tin. Theo sách “Hán Võ đế cố sự”: (Tàu) Ngày mồng 7 tháng 7 có con chim xanh bay liệng trước điện, Đông Phương Sóc nói: “Tây Vương Mẫu sắp đến”. Quả nhiên, lát sau bà Tây Vương Mẫu đến với một mâm ngọc đựng 7 quả đào cho Hán Võ đế. - Nói nhăng: nói lung tung chuyện không ích lợi. --- oOo --- TẠM NGƯNG LÝ THUYẾT Gặp buổi gian-truân tiếng nhộn-nhàng, Cảm-tình bổn-đạo sự riêng than. Thầy an nghỉ xác trong đôi bữa, Đây cũng trải qua hết nhộn-nhàng. Nhộn-nhàng già trẻ có lòng lo, Mà ấy chẳng qua ngược gió đò. Đậu lại ít ngày chờ lặng sóng, Tớ-Thầy sẽ gặp việc hay-ho. Hòa-Hảo, ngày 10-4 Canh-Thìn. (Đức Thầy viết bài nầy vì lúc ấy có nhân-viên sở Mật-thám ở Châu-Đốc đến dòm ngó). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Gian truân: lận đận, hết sức khổ sở. - Nhộn nhàng: xin xem trang 199. --- oOo --- “DIỆU-PHÁP QUANG-MINH” (Khùng Điên tự cảm tác) Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng, Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn. Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn, Khắp hạ-giái truyền khai Đạo pháp. Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp, Chấp bút thần tả ít bổn kinh. Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh, Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp. Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp, Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn. Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then, Nên ít kẻ tu-hành đắc Đạo. Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo, Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng. Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn, Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu. Khùng toán biết âm-dương kết-liễu, Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca. Huơi bút thần dẹp lũ cáo-xà, Loài độc-địa toan trừ dứt nọc. Noi tục cổ xác Khùng để tóc, Phải đua chen tập tánh ông cha, Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha, Trừ vật-dục trì chơn bất hoại. Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải, Thương hồng-trần mượn xác tái-sanh. Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh, Nên cấu-xé cùng nhau thảm-não. Sá chi kẻ ngu-si khinh-ngạo, Vì trên đời nhiều hạng khác nhau. Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao, Người bội-phản ghét-vơ đạo-lý. Khùng cảm mến truyền câu hồi vị, Thà làm hiền mà biết non-sông, · Điên như Ta Điên giống Tiên Rồng, Điên gỡ ách xích-xiềng thế tục. Chuông Linh-Khứu ba hồi giục-thúc, Đờn Lôi-Âm khởi điệu êm tai. Con lành duyên khá trở gót hài, Điên quyết chí dắt người lánh tục. Đạo mở cửa bày câu minh-mục, Nước ma-ha tưới tắt lòng phàm. Cõi Trung-Uơng luân chuyển phương Nam, Mở hội Thánh chọn người trung-hiếu. Tử vì nước còn ghi linh miếu, (¹) Thác vì đời thanh-sử danh bia. Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia, Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực. Nước văn-minh chê đồ ấy nực, Mảng trau-tria xác thịt thanh-bai. Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai, Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh. Chén quỳnh-tương gác điều gai ngạnh, Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ. Khi thừa-nhàn trổi giọng ngâm thơ, Bày thi phú than qua thời-thế. Xuống dương-gian thân Điên nào nệ, Chốn hồng-trần đuốc huệ liền khai. Cho nam-nhi sửa mặt râu mày, Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt. Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt, Gái anh-hùng xưa có Trưng-Vương. Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương, (²) Rửa xong hận thù chồng dốc trả. Xưa Châu-Xáng thanh long phải tá, Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên. Nói cho đời rõ biết Khùng-Điên, Điên vận bĩ điên câu ái-quốc. Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc, Đem Đạo lành ban rải nơi nơi. Mảng chờ trông bá-tánh thảnh-thơi, Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo. Rừng bác-ái điên đời biến-ảo, Điên như ta vì Đạo vì dân. Điên tu cầu Quân thánh rải ân, Cho bốn biển dân lành được hưởng. Điên dẹp gác âm-thinh sắc-tướng, Tầm vô-vi kiếm cảnh Niết-Bàn. Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang, Qua Đông-độ vớt người hữu đức. Bể ái-hà gươm linh sớm dứt, Lòng bồ-đề sắt đá dám kình. Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Noi chí ấy sửa sang thời-thế. Trời quá buổi chinh-chinh vừa xế, Chờ ít lâu cũng lặn về Tây. Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy, Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc. Điên đàm-luận ít câu dốt nát, Mong chị anh bàn-bạc thể-nào ? Lời văn thô ý-kiến chẳng cao, Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật. · Đường đạo-đức bước đi từ nấc, Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình. Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh, Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt. Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết, Giải thoát rồi pháp bất khả dùng. Nương gia-đình kính trọng cội thung, Lo nưng-đỡ trong ngày tuổi hạc. Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác, Chén rượu nồng chẳng nếm mà say. Say lê-mê lết-mết tối ngày, Say đạo-pháp say mùi hương khói. Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi, Bể ái-hà rứt bỏ vẹn lau. Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào, Trần-Di ngủ say câu thành-tựu. Quyết đưa chúng về nơi non Thứu, Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên. Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền, Câu không ngạnh chờ non phụng gáy. Thuyền bát-nhã Ta cầm tay lái, Quyết đưa người khỏi bến sông mê. Nên phải đành mang lốt làm hề, Mặc bá-tánh khen chê cũng phải. Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại, Dốc làm sao rõ mặt tang-bồng. Nghiêng hai vai gánh nặng non-sông, Vớt trăm họ lầm-than bể khổ. Ví như loại sanh-cầm hồ thố, Còn thương nhau lại huống chi người. Đứa hai lòng sao chẳng hổ-ngươi, Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ. Dấu bút tích tuông bay theo gió, Học sách chi phỉ báng ông cha. Thấy dân tình xem Giảng ngâm-nga, · Lão xót dạ đôi lời trần-tố. Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ, Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ. Sá chi lời đạo-chích tục thô, Kẻ ngu xuẩn khi người nhân-đức. Danh hiền-sĩ non sông náo-nức, Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu. Thầy Mạnh ra dùng đạo châu-du, Lục thập bát chư-hầu rối loạn. Bực Thánh-nhơn công-lao chẳng chán, Huống chi ta nào dám than-van. Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng, Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết. Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết, Dùng Đạo mầu cứu vớt sanh-linh. Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá-tánh ăn-năn đã muộn. Giảng với kệ ra đà bốn cuốn, Ít có người khám rõ cơ-huyền. Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên, Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng. Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng. Để làm cho mích bụng chị Hằng, Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ. Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná, Hiếm bao người được cá quên nôm. Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm, Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi. Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi, Nỡ phụ phàng vua Tống-Khâm-Tôn. Xem truyện xưa mà bắt hết hồn, Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ. Gã Tần-Cối ít ai còn lạ, Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi. Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ, Dám thiết kế hại tôi lương-đống. Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng, Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san. Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn, Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc. Cảnh gian-nan như Lưu-Hoàng-Thúc, Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân. Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa-ân, Vượt năm ải về thăm huynh-trưởng. Kẻ nghĩa-khí thiên kim vạn lượng, Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen. Xem tích xưa thẹn với bóng đèn, Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa. Coi sự sống như Tiên nưa-nửa, Mê mồi thơm như cá lục-châu. Sao chẳng lo thức-tỉnh quày đầu, Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ. Cấp-Cô-Độc là nhà bá hộ, Còn đành lòng bố-thí xả thân. Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần, Miễn hiểu đạo hơn là châu-báu. Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão, E sau nầy tâm-não đoạn-trường. Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương, Trời đất xử những người bội phản. Phải chổi dậy nương dây hùng-tráng, Chữ đại-hùng đại-lực từ-bi. Vậy mới trang quân-tử nam-nhi, Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo. Đời cũng lắm bao người giá áo, Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm. Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm, Quyết kiếm thế đặng toan lừa-dối Ngọn bút sắt chỉ đường người tối, Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng. Kíp nương theo trực chỉ Tây-Phang, Đến Cực-lạc tìm nơi an-dưỡng. Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng, Lánh ta-bà cõi thế đua chen. Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn, Bạn phản bạn như người Bùi-Kiệm. Trên mặt đất hạng người ấy hiếm, Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng. Nhìn Trịnh-Hâm Lão bắt mủi lòng, · Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh. Viết ít câu cho đời ngâm vịnh, Phận tài sơ xin hãy thứ tha. Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca, Tạm nghiên bút vẽ tranh thế tạo. Trong bá-tánh nhìn xem châu-đáo, Chớ vội-vàng chê Lão ngu-si. Rạch lang-tâm những đứa vô-nghì, Nhắc sơ tích người xưa trong sử. Khuyên bá-tánh vạn dân gìn-giữ, Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình. Đứng trung cang hành thiện truy kinh, Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận. Đã thấy lộ cơ trời báo ứng, Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên. Nợ hồng-trần túc-trái tiền-khiên, Ta quyết dẹp cứu nàn dương-thế. Noi chí đức Hoàng Thang luật chế, Đời không hay những việc xa vời. Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi, Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón. Cảnh thế-tạo càng ngày thỏn-mỏn, Giống vi-trùng thường đục phổi tim. Đến cơn đau phương thuốc phải tìm, Gặp Biến-Thước, Hoa-Đà lai thế. Kim với cổ nhìn xem thế-hệ, Sợ có ngày hoạch tội ư thiên. Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền, Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn. Ai coi qua xin đừng bỏ lảng, Gắng công-trình vạch lá tìm sâu. Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu, Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ. Điên nhơn-nghĩa điên vì Đạo cả, Thôi chào đời khép cửa buồn duyên. Có thiện-căn sớm lại cửa thiền, Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc. Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát. Hòa-Hảo, ngày 10-4 Canh-Thìn.1.- Vì để tránh sự khó dễ của người Pháp, Đức Thầy đã có lần đổi lại là:“Tượng Quan Thánh còn ghi linh miếu”. - 2.- Câu nầy sau lại Đức Thầy có sửa như vầy:“ Đến đời nay còn phụng lửa hương”. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bóng quang âm: ánh sáng (ban ngày) và bóng tối (ban đêm). Nghĩa bóng chỉ thời gian. - Dập dồn: xin xem tr. 209.- Phong hóa: xin xem tr. 105. - Thế Tôn: Lokanatha, Bhagavat (scr) hiệu của Phật Thích Ca. Ngài có đầy đủ đức hạnh, là đấng tôn trọng hơn hết trong các bực chúng sanh, nên được tôn xưng là Thế Tôn.(1 trong 10 danh hiệu của Phật) · - Truyền khai Đạo pháp: khai mở và truyền bá rộng ra nền Đạo Phật. · - Tri phong võ bất kỳ chuyển kiếp: biết thời cơ nên trở lại kiếp này. · - Kim chi ngọc diệp: cành vàng lá ngọc. Chỉ dòng dõi cao quý. · - Khờ khạo: ngờ nghệch, kém trí khôn, chậm chạp trong suy xét. · - Tâm não bắt cuồng: trí óc muốn điên khùng. · - Âm dương kết liễu: biết rõ ràng luật sinh hóa. - Giấc Nam Kha hay Giấc Hoè, chỉ sự mơ ước hảo. Theo chuyện Thuần Vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hoè, bên cạnh có ổ kiến lớn, chiêm bao thấy đến nước Hoè An được vua gả công chúa, phong làm Thái thú quận Nam Kha. Sau đánh giặc thua, bị vua cho về. Giựt mình dậy, thì ra là giấc chiêm bao. Hoè quốc chính cây hoè, quận Nam Kha là nhánh cây gie về hướng Nam, còn tổ kiến, là quân giặc. Vì thế, giấc Hoè hay giấc Nam Kha, là một giấc chiêm bao. · - Trừ vật dục trì chơn bất hoại: từ bỏ các ham muốn vật chất, giữ “tâm”chơn thật không hư hoại. - Hồng trần: xin xem tr. 12.- Chánh trực: xem tr. 279. - Văn vật: Văn minh - Vật chất: xem trang 30 và 88. - Cạnh tranh: đua chen, giành giựt, cố làm sao hơn được người · - Thảm não: thê thảm, não nuột, buồn xót xa. · - Hồi vị: trở về nguyên vị, trở về thứ bực cũ. · - Gỡ ách: Ách là khúc cây cong máng trên cổ trâu, bò để kéo cày. Nghĩa bóng của gỡ ách: tháo bỏ sự kềm kẹp, lấy lại tự do. · - Thế tục: thói tục ở đời, thói quen của mọi người. · - Linh Khứu - Non Thứu hay Linh Thứu tức Linh Thứu Sơn, nơi Phật ngự 350 lần. Nên gọi núi Linh. (lúc trước người ta gọi Thứu Sơn khi Phật Thích Ca chưa ra đời). Gọi Thứu sơn vì nó giống hình con chim Thứu. Chim Thứu đậu núi nầy rất nhiều, nên khi Phật lên đây thuyết người ta mới thêm chữ Linh, thành Linh Thứu Sơn. · - Minh mục - Minh: sáng. Mục: mắt. · - Nước ma ha: ở đây chỉ Phật pháp. · - Thanh sử: sử xanh. Ngày xưa người ta ghi (viết, chép) sự việc xảy ra trong nước, trên thế giới lên những thẻ tre xanh. · - Mũ cánh chuồn: mũ các quan ngày xưa có hai cánh hai bên như cánh con chuồn chuồn. · - Đai: sợi dây dài nịt quanh mình. Cái vòng cứng may luôn trong áo các quan mặc khi chầu vua. · - Giáp: áo giáp của quan quân. · - Hia: giày ống cao mũi quớt của quan ngày xưa. · - Thô kịch: quê mùa, vụng về. · - Thanh bai: xin xem tr. 49.- Quỳnh tương: xem tr. 153. · - Thừa nhàn: nhân lúc rảnh rang. · - Đuốc huệ: ở đây chỉ Phật pháp. · - Thời thế: hoàn cảnh, sự thể trong một lúc. - Giồi - Trau giồi: xin xem tr. 46. – Anh hùng: tr. 78. · - Trinh liệt - Trinh: trung trinh. Liệt: ngay thẳng. Một lòng trung và ngay với vua với nước. Người đàn bà giữ lòng trong trắng ngay thẳng, tiết trinh. · - Tuấn kiệt: bực tài trí nổi trội hơn mọi người. · - Châu Xáng thanh long phải tá - Ngăn Sư Đồ đặng cứu Ngũ Viên: Theo chuyện:“Cuối đời nhà Tùy, Tùy Dương đế là ông vua tham dâm, hiếu sắc, tàn ác cực độ nên bị anh hùng hào kiệt các nơi kéo binh vây đánh. Ngũ viên Thiệu, một trong số tướng lãnh phạt Tùy bị Thượng Sư Đồ rượt đuổi, vì Sư Đồ có con ngựa kỳ dị, tên Hô lôi báo, khi nó hí lên là bao nhiêu ngựa khác run sợ, hoảng chạy, trong lúc nguy ngập đó, Châu Xáng, một thợ săn, muốn cứu Ngũ Viên Thiệu nhưng không có vũ khí, mới chạy vào miễu thờ Quan Công, mượn tạm thanh long đao của Quan Công chận đánh Thượng Sư Đồ cứu Ngũ viên Thiệu. · - Biến ảo: xin xem tr. 279. - Vận bĩ: xin xem tr. 255. · - Quân thánh rải ân: Vua thánh ban ơn. · - Âm thinh: tiếng động, tất cả các thứ tiếng; tiếng tụng kinh ê a, tiếng mõ, chuông, chiêng, trống ... - Sắc tướng: hình tượng, ca múa ... Về thờ cúng, không nên chú trọng và tin tưởng vào hình tuợng, cũng đừng theo lối ca múa ồn ào của hạng đồng bóng, thầy cúng. · - Đông độ: theo Hán văn, cõi đất phương Đông là nước Trung Hoa, vùng chịu ảnh hưởng Phật giáo, để đối với Tây thiên. · - Lòng bồ đề: chỉ lòng dạ từ bi của Đức Thầy. · - Huỳnh hôn – Hoàng hôn: chạng vạng, lúc nhá nhem tối. - Cực Lạc: xem tr. 54.- Trần Di -Trần Đoàn: tr. 154. · - Đàm luận: bàn bạc cùng nhau. · - Dốt nát: dốt, tối tăm, không biết văn chương.(Lời nói khiêm nhượng của Đức Thầy). · - Bàn bạc: tính toán cùng nhau để giải quyết. · - Lời văn thô: lời văn vụng về. Câu nói khiêm nhượng của Đức Thầy.. · - Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật: trong tâm “tâm chơn như” không cảnh vật (âm, thinh,sắc, tướng). · - Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình: bên ngoài không dính các cảnh, các hình tướng. · - Pháp thuyết - Thuyết pháp: lời giảng giải về Phật pháp. · - Bất khả dùng: không (đáng dùng) cần thiết. · - Tuổi hạc: tuổi cao, tuổi già, tuổi người sống lâu như con hạc. · - Lê mê lết mết - Lê mê: buồn bã, dã dượi. Lết mết: quá say; say lết mết. · - Huỳnh Bào: áo vàng, chỉ vua mới có quyền mặc áo vàng. Theo chuyện binh biến ở cầu Trần Kiều. Triệu Khuông Dẩn bị quan quân phục rượu say rồi khoác lên mình Hoàng Bào (áo vàng thêu rồng) tôn quân. Vì lúc đó con của Sài Vinh còn quá nhỏ, không thể nối ngôi cha, giữa khi ngoài biên đang bị giặc mạnh tấn công, cần có người tài ba lãnh đạo đất nước để chống giặc.Vì thế, Triệu Khuông Dẩn đuợc tín nhiệm tôn vương, lập nên nhà Tống, là Tống Thái Tổ. · - Thành tựu: xong xuôi, nên việc. · - Ngõ hội quần Tiên - Ngõ: có nghĩa: hầu, để. Để chư Tiên hội hiệp. · - Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền – Câu không ngạnh chờ non phụng gáy: trước khi về giúp Châu Văn Vương, Khương Tử Nha từng ngồi câu bên bờ sông Vị, chờ phụng gáy ở non Kỳ. Vì đoán biết thời cơ sắp đến, Ông câu với lưõi câu không ngạnh, cũng chẳng có mồi, chủ ý chờ Châu Văn Vương đến đón. · - Thuyền bát nhã: Bát nhã: Prajnâ (scr) tiếng Phạn, là Huệ, Trí huệ. Danh từ đặc biệt về Phật pháp. Bát Nhã Thoàn là thuyền Bát nhã. Theo nhà Phật, đời là biển khổ, con người ngụp lặn trong biển khổ, Phật và Bồ Tát dùng thuyền Bát nhã cứu độ, đưa chúng sanh qua bến bờ an lạc, giác ngộ. - Chí quân tử: chí của người tài đức trong xã hội, người xử sự cao đẹp. - Tang bồng: xin xem tr.167. - Hổ ngươi: xin xem tr. 55. - Lầm than bể khổ: đói khổ, chịu nhiều khổ cực trong cuộc sống. Theo nhà Phật, đời là biển khổ. · - Sanh cầm hồ thố: loại thú biết bay với chồn, thỏ. · - Thùa thẹn: mắc cở, xấu hổ. - Phỉ báng: nói những điều hư xấu làm nhục người. · - Trần tố: thưa gởi việc oan ức, kêu oan bày tỏ cho rỏ ràng. · - Đức Khổng Thánh: đức Khổng Tử. · - Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ: - Cuồng: điên khùng. - Quyến: có tính cao khiết, không để nhơ danh. Đức Khổng Tử tự cho mình là người điên, nhưng người điên cao thượng. Lời ngài nói khiêm nhường. - Giả: chén ngọc. - Hồ: cái hồ khảm ngọc, được dùng đựng đồ cúng tế. (Ngài cũng tự ví mình như những đồ quý báu ấy). · - Đạo chích: tên một kẻ trộm thời xưa. · - Tục thô - thô tục: cộc lốc, tục tằn. Lời nói thô tục là lời nói không lịch sự, thiếu lễ độ. · - Ngu xuẩn: đần độn, u mê, tối dạ. · - Nhân đức: hiền lành, xử sự tốt với mọi người. · - Hiền sĩ: xin xem tr. 150.- Náo nức: xin xem tr. 279. - Chiến Quốc Xuân Thu - Chiến quốc: tên một thời đại kéo dài từ Châu Uy Liệt Vương thứ 23 cho đến Tần Thủy Hoàng gồm thâu 6 nước. Lúc bấy giờ nhà Châu suy vi, 7 nước: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy gây chiến với nhau nên gọi là chiến quốc, có nghĩa các nước đánh với nhau. Xuân thu: (722-479 tr.TC) Thời đại nhà Châu (TH) dời đô về phía Đông, các vua suy nhược, khiến chư hầu (các nước nhỏ) kẻ xưng công, người xưng bá, tranh giành đất đai, đánh nhau không ngớt, khiến nhân dân khổ sở. Đức Khổng Tử ở vào thời đại hỗn độn ấy, làm sách Sử ký nước Lỗ, kể những việc xảy ra từ đời Lỗ Ẩn Công năm đầu đến Lỗ Ai Công năm 14, cộng 242 năm, gọi là sách Xuân thu mà đời sau gọi là kinh Xuân thu. · - Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du: tức Mạnh Kha (372-289 trước TC) một vị đại hiền thời Chiến Quốc, người đất Châu, thuộc tỉnh Sơn Đông ngày nay (Tàu), người có công làm sáng tỏ đạo Nho được đời sau tôn trọng xem là bực Á thánh, (vị Thánh thứ hai) sau đức Khổng Phu tử. · - Thập bát chư hầu: 18 nước nhỏ thời Chiến Quốc. · - Than van: kêu rêu, than mà có ý trách móc. · - Sanh linh: xem tr. 30. - Cơ huyền - Huyền cơ: tr. 11. - Đặng chim bẻ ná - Được cá quên nôm: câu thành ngữ này chỉ hạng người bạc bẽo, quên ơn bỏ nghĩa. · - Trương-Bang-Xương - Tống Khâm Tôn: năm 1127, dưới triều vua Tống Khâm Tôn (Triệu Hoàn) niên hiệu Tĩnh Khang, triều đình thối nát. Nước Kim đang ráo riết chuẩn bị tấn công Đại Tống. Không nghe lời can gián của một số trung thân, Khâm Tông chấp nhận nghị hòa một cách nhục nhã với Kim, chịu những điều hòa ước bất bình đẳng. Tuy vậy, người Kim vẫn tiếp tục đánh phá kinh đô Đại Tống, phủ Khai Phong. Năm 1127, Kim phế Thái thượng hoàng Huy Tông Triệu Cát và Khâm Tôn (Triệu Hoàn) xuống làm thứ dân, bắt giải hai vị vua này, cùng rất nhiều quan lại, phi tần về Kim. Kim lại lập Trương Ban Xương lên làm hoàng đế, đặt quốc hiệu là Sở. Bắc Tống từ đây diệt vong. Một số cựu thần Bắc Tống chạy xuống phía nam, tôn Triệu Cấu lên ngôi, hiệu là Cao Tông, sử gọi đó là nhà Nam Tống. · - Nhơn ngỡi - Nhơn nghĩa: xin xem tr. 82. - Tần Cối: (1090 - 1155) Thừa tướng của nhà Tống ở Trung Quốc, người bị dân Trung Quốc xem như một Hán Gian, bởi ông là người đã ngầm liên kết với giặc Kim, quyết diệt tướng Nhạc Phi. Tần Cối thuyết phục vua Tống Cao Tông triệu hồi cấp tốc Nhạc Phi về kinh đô bằng thập nhị kim bài (tức 12 miếng vàng đại diện cho sự ủy quyền của vua) phát trong một ngày, vì không muốn Nhạc Phi đem quân tấn công kinh đô nước Kim. Nhạc Phi và con trai là Nhạc Vân, bị hành quyết tại đình Phong Ba. Món bánh giò cháo quẩy của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu hành tội. - Nhạc Phi: hiệu Bàn Cử, người đời Tống, phò vua Cao Tông, vừa dẹp giặc cướp trong nước, vừa chống giữ giặc Kim xâm lăng, lấy lại nhiều đất và thành trì đã mất. Nhạc Phi định đánh rốc qua Kim, nhưng bị tên gian thần Tần Cối muốn hoà với giặc Kim nên xin vua xuống chiếu triệu Nhạc Phi về. Nhân lúc thắng trận, Nhạc Phi không chịu hòa. Tần Cối nói gièm với vua là Nhạc Phi mưu phản, rồi xuống 12 đạo kim bài triệu Nhạc Phi về bắt bỏ ngục và xử tử. Lúc nhỏ, Nhạc Phi được mẹ xâm trên lưng bốn chữ “Tận trung báo quốc” vì muốn con mình hết lòng trung với vua với nước. · - Thiết kế: tính toán xếp đặt việc làm có thứ tự để gài cho người thua trí mình. - Lương đống: xin xem trang 279. · - Hiến Đế - Họ Đổng (Đổng Trác): vị vua thời Đông Hán bị thao túng bởi quyền thần Đổng Trác. Đổng Trác người huyện Lâm Thao quận Lũng Tây (nay là huyện Mân tỉnh Cam Túc).Lợi dụng sự hỗn loạn trong triều đình nhà Đông Hán, Đổng Trác từ miền Tây Bắc kéo quân về kinh thành Lạc Dương kiểm soát toàn bộ triều chính, mở đầu một cuộc nội chiến trên toàn lãnh thổ Trung Hoa. Đổng Trác bức bách vua Hán Thiếu Đế (Lưu Biện) nhường ngôi cho em là Trần Lưu Vương Lưu Hiệp, tức Hán Hiến Đế, phế Thiếu Đế làm Hoằng Nông Vương rồi giết sau đó không bao lâu. Năm 190 liên minh 18 sứ quân do Viên Thiệu cầm đầu, ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng Trác. Dưới áp lực này, Đổng Trác phải phò Hiến Đế chạy về phía tây, tới Trường An vào tháng 5 năm 191. Đổng Trác cho đào bới lăng tẩm các vua và mồ mả công khanh để vét lấy châu báu. Người dân Trung Hoa kết tội Đổng Trác là một tên trộm đào mộ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sau Đổng Trác chết vì mỹ nhân kế của Vương Tư Đồ, do Điêu Thuyền thủ diễn. - Tư Đồ thiết lập Liên hoàn: Vương Doãn, chức Tư Đồ, đại thần của Hán Hiến Đế. Doãn có cô con gái nuôi tên Điêu Thuyền, là một người đẹp trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc. Tư đồ Vương Doãn dùng“mỹ nhân liên hoàn kế” gả Điêu Thuyền một lúc cho hai cha con Đổng Trác và con nuôi Trác là Lữ Bố. Với biệt tài, Điêu Thuyền ly gián cha con nhà họ Đổng. Lã Bố ghen giết Đổng Trác. Mưu sĩ Lý Nho của Đổng Trác biết trước sự nguy hiểm của Điêu Thuyền, nhưng không sao can thiệp được, chỉ biết than: "Bọn ta đều chết về tay người đàn bà này ". · - Lưu Hoàng Thúc: tức Lưu Bị, người cùng họ với vua Hán Hiến Đế, nhưng ở bực chú nên được gọi là Hoàng thúc. · - Viên Thiệu: tướng chỉ huy 18 sứ quân kéo quân về đánh Đổng Trác. · - Quan Công Hầu vượt năm ải: Quan Công, em kết nghĩa của Lưu Bị, nhân lúc thế yếu bị thua trận, anh em lạc nhau, Quan Công phải phò hai chị dâu - vợ Lưu Bị - tạm nương nhờ với Tào Tháo. Khi hay được tin Lưu Bị, Quan Công nhất định tìm anh, mặc dầu ông rất được Tào Tháo trọng đãi. Quan Công phải vượt năm ải, chém sáu tướng của Tào Tháo đưa hai chị dâu về với anh. - Nghĩa khí thiên kim vạn lượng: chí khí và nghĩa hiệp. Người lúc nào cũng sẵn sàng cứu giúp kẻ nghèo khó, thế yếu, hành động này quí giá hơn ngàn vàng. - Thiên kim vạn lượng: Chỉ giá trị cao quí. Thiên: ngàn. Kim: vàng. Theo Sử ký Hạng Võ. Hạng Võ hỏi: “Ta nghe nhà Hán mua cái đầu ta với giá thiên kim và một cái Ấp có vạn nhà”. Đời nhà Hán Thiên Kim tức một cân vàng, đáng giá một vạn đồng tiền. · - Tiên nưa nửa: nửa Tiên nửa tục. · - Cá lục châu: cá chốt, loại cá tra, cá vồ ăn tạp. - Cấp Cô Độc: tên thật là Sudatta (Tu-Đạt-Đa), người Savatthi (Xá-vệ) là vị thí chủ quan trọng nhất thời Đức Phật còn tại thế. Ông chuyên làm từ thiện xã hội, nuôi dưỡng, châu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên được đời tặng danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp-Cô- Độc) Một lần có việc, ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau đón Đức Phật quang lâm. Nghe danh đã lâu, nay sắp được nhìn tận mắt, nóng lòng, không thể chờ đợi đến ngày mai, ngay đêm khuya, ông băng rừng đến Sitavara ra mắt Đức Phật và được cảm độ từ ấy. Trước sự thách thức của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), ông đem những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã gây được sự ngưỡng mộ của Thái tử Jeta đối với Đức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta cúng, ông xây dựng tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành từ ngôi tịnh xá ở Savatthi này, được nhận biết nhờ câu kinh "Xá Vệ, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc Viên ..."). · - Bá hộ: tước hàm của triều đình ban cho các nhà giàu từng giúp tiền, giúp lúa nuôi lính. - Bố thí xả thân: do lòng tốt giúp của tiền cho người nghèo đói hay bị tai nạn, không nghĩ đến sự hồi báo cả việc liều thân giúp người không kể nguy hiểm. · - Tâm não đoạn trường: lòng buồn ruột đứt. · - Họa ương: xin xem trang 154. · - Hùng tráng: mạnh mẽ, cường tráng hào hùng. · - Đại hùng: dũng khí lớn và sức mạnh tinh thần. - Đại lực: sức mạnh, ý chí thật vững chắc. - Giá áo – Túi cơm: Giá treo áo, túi đựng cơm. Chỉ hạng người tầm thường, ngoài việc ăn hại ra chẳng làm nên chuyện gi có ích cho xã hội. · - Gậy kim cang: nghĩa bóng chỉ Phật pháp và lòng từ bi. · - Thiền trượng: gậy của nhà tu. Chỉ Phật pháp. · - Trực chỉ: đi thẳng đường không quanh quẹo. - Bùi Kiệm: theo truyện Lục Vân Tiên của Cụ Đồ Chiểu:“Kiều Nguyệt Nga, bạn gái của Lục vân Tiên, vì giữ trinh tiết nên nhảy sông tự tử, nhờ Phật Bà Quan Âm cứu rồi được Bùi ông đem về nuôi và nhận làm nghĩa nữ. Bùi Kiệm, con trai Bùi Ông, cũng là một trong nhóm bạn kết giao với Vân Tiên, sau khi thi rớt về, gặp Nguyệt Nga đang tá túc ở nhà, bèn ngon ngọt dụ dỗ, định làm trò sàm sở nhưng bị Nguyệt Nga cự tuyệt rồi bỏ trốn”. Nói tên Bùi Kiệm là ám chỉ người không giữ tình nghĩa bạn bè, học hành dốt nát còn ham mê sắc dục. · - Tiên mù: hay tin mẹ chết, Lục Vân Tiên khóc đến mù mắt. - Trịnh Hâm: là một trong nhóm bạn kết giao với Vân Tiên, như Bùi Kiệm, trong truyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Trịnh Hâm tánh tình độc ác, trước khi hại Vân Tiên, trói tiểu đồng bỏ trong rừng rồi xô Vân Tiên xuống sông, trong lúc Vân Tiên mù mắt vì khóc mẹ. Nhắc tên Trịnh Hâm ngầm chỉ con người lòng dạ ác độc, chơi với bạn rồi phản bạn. - Trọng yếu: rất quan trọng và thật cần thiết. · - Ngâm vịnh: vừa làm thơ và ngâm thơ. - Tài sơ trí siển: câu nói hai vế, có nghĩa ít tài năng, trí tuệ non yếu, nông cạn. Câu nói khiêm nhượng. · - Hùng ca: lời ca hùng hồn giục lòng yêu nước. · - Thế tạo: tình thế của cuộc đời do tạo hóa bày ra. · - Châu đáo: hoàn toàn, cẩn thận, làm đến nơi đến chốn, không sơ xuất điều gì. · - Hành thiện truy kinh: làm hiền theo kinh điển dạy. · - Thảo thuận: thuận hòa, đối xử tốt không để mất lòng nhau. · - Báo ứng: đáp lại, dội lại. Trước kia làm lành thì sau này hưởng an vui, thảnh thơi. Trước kia làm ác thì sau này vướng phải tai nạn, khổ sở. - Túc trái: nợ xưa, nợ thiếu từ đời trước đời này trả. · - Tiền khiên: xin xem tr. 224.- Thiện căn: xem tr. 12. · - Hoàng Thang luật chế: mệnh lệnh, phép tắc của nhị vị Hoàng Đế và Thành Thang, hai vị vua hiền đức ngày xưa (Tàu). · - Tơi – Cho tơi: áo tơi che mưa. · - Thỏn mỏn: mòn lần, sa sút đến kiệt sức, kiệt quệ. - Biến Thước: tên Tần Hoãn tự Việt Nhân, người châu Mạc, Bột Hải (nay là huyện Nhiệm Khâu, tỉnh Hà Bắc) là một "thần y", ông tổ của Đông y, sống vào thời vua Huỳnh Đế. - Hoa Đà tự Nguyên Hóa (?-220), vị lương y nổi tiếng trong lịch sử Tàu, được xem như thần y, và là một trong những ông tổ của Đông Y. Theo tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Hoa Đà chữa bệnh cho Quan Võ (Quan Công) bằng cách mổ vai để nạo chất độc do mũi tên ghim vào trong lúc Quan Võ vẫn thản nhiên đánh cờ tướng. Hoa Đà biết áp dụng kỹ thuật gây mê bằng một hỗn hợp rượu và thảo dược, gọi là ma phí tán từ 1600 năm trước khi người phương Tây biết dụng kỹ thuật này trong phẫu thuật. Cũng theo tiểu thuyết Tam Quốc, Tào Tháo khi nghe Hoa Đà khuyên nên mổ sọ để cạo chất độc, nghi Hoa Đà muốn giết mình, nên nhốt ông vào ngục rồi giết chết. Hoa Đà vì cảm kích người gác ngục chăm sóc mình, nên truyền sách cho. Tuy nhiên, vợ người gác ngục sợ chồng mình theo nghề y sẽ có kết cuộc bi thảm như Hoa Đà, nên đốt quyển sách đó, vì vậy, tất cả sách của Hoa Đà về nghề y thất truyền. Hoa Đà được cho là người sáng tác ra Ngũ Cầm Hí, tập luyện dựa theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim. · - Thế hệ: dòng dõi nối tiếp của một họ. Lớp người cùng sống chung một thời. · - Hoạch tội ư thiên: sợ có ngày mắc tội với Trời. · - Vạch lá tìm sâu: bới móc, tìm kiếm lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác. Chỉ tánh hẹp hòi của người. Nghĩa ở đây, Đức Thầy khuyên nên đọc thật kỹ rồi lắng lòng tìm hiểu ý nghĩa trong Kinh Giảng. · - Mưa ngâu: Tương truyền vào ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, đám quạ đen (dịch từ chữ Ô thước) dưới trần bay lên, con nầy cắn đuôi con kia làm thành cái vòng móng đội sông Ngân Hà, làm thành cây Cầu Ngân để Ngưu Lang và Chức Nữ từ hai bờ sông bước lên gặp nhau, vì nhớ thương tha thiết nên mừng mừng tủi tủi, những giọt nước mắt của hai người rơi xuống trần biến thành đám mưa rắc rắc kéo dài khoảng 15-20 phút, người đời gọi là mưa Ngâu (hay mưa Ngưu), vậy, mưa Ngâu là mưa gặp gỡ. (Xin xem thêm Chim Ô - cầu Ngân trang 138). · - Sương Đông hạ: Khi Hoàng Hậu Ma-Da mang thai Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta là trước mùa Đông, rồi đến mùa Hạ mới sanh. Theo đồng đạo Lê văn Phú tự Tho, Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý Tỉnh Châu Đốc: Sương là chỉ cho nước, nước chỉ cho Đạo tức là phải theo cái Giáo lý của Đức Thích Ca từ phụ mà tu hành. Đông Hạ còn một ý khác, ngày 25 tháng 11 là Đản sanh của Đức Thầy nhằm giữa mùa Đông, và ngày ĐứcThầy ra đời dạy Đạo là 18 tháng 5 năm 1939, đúng giữa mùa Hạ. (Đức Thầy đản sanh vào mùa Đông, ra đời cứu thế vào mùa Hạ) cho nên Đức Thầy dạy chúng ta phải sớm hứng giọt sương Đông Hạ, tức Giáo lý PGHH. · - Cửa thiền: cửa chùa, ở đây chỉ Đạo Phật. --- oOo ---