PHÁP YẾU TU TẬP 1.- Liên Trì Hội thuộc về thời kỳ quá khứ do Ðức A Di Ðà Thế Tôn Như Lai Giáo Chủ và Ngài đang thuyết pháp cho chúng hội tại Ðại Phật Học Ðường bổn quốc Cực Lạc Tây Phương, độ được các chúng sanh thành Phật nhiều đến vô lượng. 2.- Linh Sơn Hội thuộc về thời kỳ hiện tại, Ðức Thích Ca Như Lai là vị Giáo Chủ, Ngài đã hoá độ vô lượng chúng sanh được giải thoát thành Phật. 3.- Long Hoa Hội thuộc về thời kỳ tương lai, Ðức Di Lặc Tôn Phật sẽ là vị Giáo Chủ cho lần Ðại Hội Phật Pháp nầy. Theo Kinh Di Lặc hạ sanh thì, Ðức Từ Thị Di Lặc đang ngự trên nội diện cõi Ðâu Suất Thiên Cung, khi thời điểm đến tức Ngài hạ sanh vào cõi trần nầy để khai mở Ðại Hội Long Hoa, chuyển sang thời Thánh Ðức, và Ngài hoá độ được vô lượng chúng sanh chứng đến đạo quả giải thoát. Ba lần Ðại Hội Phật Pháp trên đây gọi là Tam Thế Chư Phật. Liên Trì Hội và Linh Sơn Hội đã qua, duy có Long Hoa Hội được Ðức Giáo Chủ Phật Giáo Hoà Hảo cho biết là sẽ đến với nhân loại và đây là lần Ðại Hội Phật Pháp trong thế hệ của chúng ta, ta sẽ là thành viên trong Thánh Hội của Ðức Di Lặc thuyết pháp nếu ta có đủ điều kiện tâm linh trên pháp lý. “Máy diệu huyền chuyển lập Hội Long Hoa” là lời nói cao đỉnh nhầm tái tạo cho ta một đức tin vững mạnh ở tương lai, sống lại Phật Tánh cố hữu nơi chính mình, mình sẽ được vào Thánh Hội Long Hoa và mình cũng sẽ được giải thoát thành Phật như chư Phật đã thành. Nơi đây Ðức Giáo Chủ cho biết huyền cơ máy tạo luôn luôn vận hành chuyển biến không dừng. Bởi :“Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay” để đến thời điểm Ðức Di Lặc hạ sanh khai hội. -Ðã hiểu đại khái về Hội Long Hoa, nhưng không biết Hội Long Hoa bao giờ mới khai mở? -Hội long hoa sẽ mở khi đến thời kỳ cực điểm của nó. Theo Sấm Truyền Giáo Hệ Bửu Sơn Kỳ Hương và Giáo Lý Phật Giáo Hoà Hảo thì Thánh Hội Long Hoa đã hầu kề, không như các Kinh điển Phật Giáo còn xa vời vợi. Nhưng mà gần hay xa cũng do nơi huyền năng của Ðức Giáo Chủ Thánh Hội và các đấng thiêng liêng vận hành chuyển biến. Mỗi vị Phật hay Bồ Tát có thể rút từ vạn kiếp thành một ngày, kéo một ngày thành đến cả vạn kiếp. Cũng như chuyển biến một hột cải thành tam thiên đại thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới rút lại thành trọn trong một hột cải chuyện chẳng phải là việc khó đối với các Ngài. Lại nữa, Hội Long Hoa đến với chúng ta lâu hay mau còn tuỳ thuộc nơi lòng người. nếu lòng mỗi con người đều tha thiết khẩn cầu Di Lặc Phật sớm hạ sanh khai hội để thuyết pháp cứu độ lợi ích quần sanh thì tất là Hội Thánh sớm khai mở. Bằng như lòng người không mong cầu đến Phật, chẳng cầu Thánh Hội, bác phá sự tu hành thì Thánh Hội tất xa vời vợi! Khi được vào Thánh Hội Long Hoa, tức được lợi ích rất là hi hữu, như: 1.Thường thân cận với Ðức Phật Di Lặc và thường được chiêm ngưỡng Chơn Thân hảo tướng của Ngài. Do đó Phật Tánh ta mau lớn mạnh. 2.Thường được Chơn Thân minh chiếu của Phật trùm cả thân mình, do đó mà nghiệp chướng mau tiêu sạch. Từ đó mà mau đến địa vị Pháp Thân. 3.Thường được Ðức Phật Di Lặc giảng nói cho nghe ba thời diệu pháp, từ đó mà được khai ngộ và dẫn đến thành quả Bồ Ðề. 4.Ðoạn lìa sanh tử dứt nẻo luân hồi vĩnh viễn hoà đồng với chư Phật và Bồ Tát. 5.Hằng lợi ích cho các chúng hữu tình trong vạn nẻo, được đền đáp bốn ơn sâu. Ðại cương theo ức niệm mà nói chớ thật thì cái hi hữu, cái đặc biệt cái cao quí khi nào vào Thánh Hội thì mới biết tỏ tường chân xác, kẻ phàm phu hay cả kể đến Thánh Nhân đi nữa cũng không tài nào nói cho cùng tột đặng. “Chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi”: Chọn tức là chọn lựa lừa lọc, trắc nghiệm thử thách qua những hồi cam go Ðạo nạn pháp suy để đem những người đủ đầy đức hạnh, công cao quả dầy lên Thánh Hội Long Hoa. Trên Hội Thánh Long Hoa đã sẵn vị ngôi dành cho người tu niệm tại thế gian nầy, địa vị cân xứng với tài năng hành đạo và chứng đạo của những người con Phật không hơn không kém. -Thế nào gọi là công, thế nào gọi là quả? -Tánh không nhiễm là công, lợi chúng sanh là quả. Tâm hằng niệm Phật là công, rời các niệm năng sở là quả. Lìa các pháp sanh diệt là công, không bỏ các phương tiện pháp là quả. Nếu công thật thì quả tất không hư, bằng công chẳng phải thật thì quả ắc hoàn toàn hư dối. Muốn cho mình được công viên quả mãn tất phải thi ơn bố đức đối với mọi người và bình đẳng thương xót chúng sanh chan chứa mà không niệm mong cầu. Phải có một tinh thần hùng tráng vô uý hộ trì Phật pháp trong hồi đạo nạn để chánh pháp khỏi bị diệt vong hầu chúng sanh được nương tựa Tuệ Giác của chư Phật, soi sáng nẻo vô minh hướng về cao đỉnh giác ngộ. Kẻ tu hành chơn chánh tức phải vì chúng sanh, khổ cho chúng sanh, vui vì thiên hạ. Tu tức phải luôn luôn tỉnh thức, phải tự chủ thân tâm, phải đưa người mê qua bờ giác, tế độ mà không có mong cầu, không tương lai chi cả. “Ban cho xứng vị xứng ngôi”, tức là ban thưởng vị ngôi cho những ai tu hành chơn chính, công đức được viên mãn. Phật, Tiên, Thần, Thánh ban thưởng ngôi vị cho kẻ tu hành cao công quả tức trải qua các cuộc thử lòng để coi ai bền lòng, ai chẳng chặt dạ. Bởi :”Nếu bền lòng vị quả cao thăng, chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh.” Huỳnh Phật Sư xa vắng đã trải dài sáu mươi năm, pháp nạn triền miên không hề chấm dứt, nếu đó không phải những cuộc thử lòng, thế là gì? Ðức Giáo Chủ há chẳng thường mách trước nhiều lần với các cao đồ của Ngài rằng: “Sau nầy thầy có một thời gian xa cách bổn đạo, không một ai biết Thầy ở đâu cả và khi Thầy trở lại những ai lúc Thầy xa vắng mà biết trung kiên với Ðạo, tu hành đúng theo lời Thầy dạy thì được Thầy đưa lên Ðại Hội Long Hoa để coi Phật, Tiên, Thần, Thánh”. (thuật theo Biện Ðài) Ta phải có một tinh thần vô uý để bảo vệ chính pháp trong lúc truân chuyên, cái chánh nghĩa thờ Thầy ta đi cho đến chốn. Ðã tiến hành trên sinh lộ, ta đừng rụt rè thối chuyển bước lui, ta hãy viết trang sử Ðạo đượm nét bi hùng để nêu lên ánh quang minh cho đoàn hậu tấn. “Người đủ các thiện căn giáo truyền Ðại Ðạo”: thiện căn nơi đây có thể chia thành bốn nghĩa: 1.Người tu hành hằng biết quay về với cội nguồn Bản Giác tức không rời thiện căn và nuôi lớn các thiện căn. 2.Chuyên tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, hồi hướng cầu sanh Cực Lạc Quốc tức thiện căn được đầy đủ năm điều: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, và Huệ căn. 3.Giới thể trang nghiêm, giới tướng tinh sạch, lợi chúng hữu tình tức thiện căn sung mãn. 4.Tâm thường trong sạch việc ác tránh xa, đức lành luôn nhiếp tức nuôi lớn Thiện căn. Thiện căn là gốc lành tức là Phật Tánh của ta, nếu biết quay về sống trong biển giác thanh tịnh, hằng lợi khắp chúng sanh, là tự mình hàm dưỡng Thiện căn phúc đức hầu tiến hoá đến ngôi vị Phật. “Giáo truyền Ðại Ðạo”: Bản thể vô sai biệt của ta nó rộng lớn vô biên, sâu xa vô tận. Nó vượt trên không gian và thời gian, trùm cả vũ trụ vạn hữu nên gọi đó là Ðại Ðạo. Nghĩa lý nầy phân làm hai phần: 1.Hành giả đã trải qua sự hành trì đạo đức tích luỹ đầy đủ phúc đức Thiện căn và nhân duyên thời tiết đã đến, được Phật Sư dùng Tâm Pháp của Ngài để truyền trao qua điền tâm của đệ tử. Gọi đó là dĩ Tâm truyền Tâm hay cũng gọi là mật truyền Tâm Pháp. Xưa kia Ðức Thích Ca Như Lai dùng Tâm của Ngài truyền Tâm Ma Ha Ca Diếp, Hoàng Nhẫn dùng Tâm để truyền Tâm Huệ Năng, dứt bặt ngôn ngữ văn tự. 2. Hành giả đạt đến công viên quả mãn trong đắc Tâm truyền, ngoài liễu thông giáo tướng, Phật sư thọ ký được đi truyền bá pháp mầu, hoá tha lợi chúng, tiếp nối Phật Trí lửa hương Tam Bảo. Tóm lại, trong đắc Tâm truyền, ngoài hưng chính pháp, gọi đó là được” giáo truyền Ðại Ðạo”. “Ðịnh ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”: Bình thiên hạ trong thời kỳ khốc liệt của buổi hạ nguơn với lòng người vạn nẻo chia ly, tà thuyết thạnh hành, dị đoan hưng khởi thì nếu không phải là hàng pháp thân ứng thế hay Bồ Tát thị hiện thì có ai làm được cái chuyện khó nhất thế gian nầy. Thiết lập một thế giới thanh bình công bằng trong xã hội, toàn cầu được ấm no hạnh phúc không phải từ nhiều vũ khí tối tân, cũng không phải bởi sức mạnh của đông người, không phải do kỹ thuật cao hay tiền bạc nhiều; mà chính yếu là do nơi nhiều người có được những khối ốc chiếu soi, nhiều bi tâm chan chứa, nhiều đôi mắt cảm thông, nhiều bàn tay thương xót, nhiều đôi chân vững chãi trên bước cứu đời. Thật vậy, nếu một xã hội cấu trúc trên máu lệ chúng sanh thì tất nhiên xã hội ấy sẽ dẫn đến một thế giới đau khổ ê chề, đó chỉ là bả rác cho nhân loại, mà phải hình thành bằng Bác Aùi Từ Bi, bằng khoan dung Hỉ Xả, bằng độ lượng hải hà, bằng bình đẳng vô phân thì mới là chân hạnh phúc, là đại an lạc! Bình định được thiên hạ phải là một người vượt trên mọi người mới kham lãnh lấy trách nhiệm. Nói một cách khác, đứng ra bình định thiên hạ trên toàn cầu tất phải có các dữ kiện tối thiểu là: 1.Phải thành ý chánh tâm, tức lòng trần thường được rột rửa không còn các bụi nhơ trần cấu của tham, sân, si. 2.Phải tu sửa thân phận mình được toàn chơn, mỹ, thiện; sát, đạo, dâm, và các hạnh nết thô bạo chẳng còn. 3.Phải sửa trị trong thân tộc gia đình cho có đạo đức lễ nghĩa liêm sỉ. 4.Phải sửa trị đất nước dân tộc xã hội của mình cho có hạnh phúc ấm no, an cư lạc nghiệp. Huỳnh Phật Sư là hàng Pháp Thân ứng thế, Ngài đã từng hóa hiện với nhiều dạng thân để lập Ðạo và hóa Ðạo; hộ quốc an dân và vun trồng phúc đức thiện căn từ nhiều kiếp. Việc ấy có lần Ngài đã thố lộ: “Tùy cơ pháp chuyển kiếp luân hồi ở nơi hải ngoại để thu thập những điều đạo học kinh nghiệm huyền thâm, lòng mê si đã diệt, sự dị kỷ đã tan mà kể lại nguồn gốc phát sinh trải bao đời giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh cư nơi đất Việt. Những tiền kiếp dẫu sống cũng là dân quan đất Việt, dẫu thác cũng quỉ thần đất Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may mắn gặp minh Sư cơ truyền Phật Pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đà quản đại từ bi, hiềm vì nỗi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ.” “Nghĩ lúc còn làm người trong biển tục, lăn lộn chốn mê đồ mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mầu đà thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe Kinh, ngao du tứ hải, dạo khắp tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo, muôn ngày vô sự lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả Bồ Ðề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần đặng chịu cảnh chê khen?” Ðức Giáo Chủ tuyên ra Thông Ðiệp vừa báo động cho thế giới biết rằng Hội Long Hoa sắp đến hồi cực điểm, vừa tỉnh thức cho mọi người hãy gấp rút lo vun trồng cội phúc để chuyển mình đến vận hội mới trên quốc độ Hoàng Kim Ðức Trị, thái hoà an lạc vô biên. Những ai công viên quả mãn tức được đưa đến thời Thánh Ðức mà an hưởng thái bình, những người đầy đủ phúc đức thiện căn sẽ được đắc truyền Tâm Pháp, Ðắc Ðạo và hoá Ðạo tại thế gian nầy. -Phải có những điều kiện nào để được vào Ðại Hội Long Hoa? -Theo tinh thần Thông Ðiệp Huỳnh Phật Sư đã trình bày tất những kẻ tu hành công cao quả dầy, nhiều thiện căn phúc đức nhân duyên sẽ được thành viên trên Hội Thánh Long Hoa của Ðức Di Lặc. Tóm lại, vào được Hội Long Hoa phải là người hiền lương nhơn ái, lễ nghĩa liêm sỉ, hiếu thuận từ hoà, tôn thờ Sư trưởng, kỉnh tin Tam Bảo, làm lành tránh ác, tác lợi cho các chúng sanh. “ Trở chơn cho kịp Long Hoa, Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.” “ Mở Hội Thánh chọn người trung hiếu.” - Nói Hội Long Hoa do Ðức Di Lặc Tôn Phật khai mở, Ngài là Giáo Chủ và thuyết pháp trong Thánh Hội nầy, nhưng trong Thông Ðiệp của Ðức Huỳnh Giáo Chủ và nhiều nơi trong Giáo Lý Phật Giáo Hoà Hảo đã thố lộ, hình như Hội Long Hoa sẽ được Ðức Huỳnh Giáo Chủ thiết lập. Việc ấy thế nào? - Trong khi Thánh Hội Long Hoa chưa đến thời cực điểm, Ðức Di Lặc dù còn an ngự tại nội diện Ðâu Suất Thiên Cung, nhưng mà Ngài hoá hiện nhiều dạng thân tuỳ duyên hoá đạo để gom góp các con lành hầu đến thời cực điểm Ngài đưa lên Thánh Hội nghe pháp và đắc Ðạo. Các đấng cứu thế như Phật Thầy Tây An và Ðức Huỳnh Giáo Chủ... đều là hoá thân của Từ Thị Di Lặc. Ðức Phật Thích Ca, Ðức Phật A Di Ðà dù không rời Niết Bàn hay Cực Lạc, các Ngài thường hóa hiện nhiều thân để hoá tha lợi chúng. ÐƯỜNG SỐNG “ ÐẠO CỦA CON NGƯỜI KÊU BẰNG” ÐẠO NHÂN”, VÀ NÓ LÀ MỘT CON ÐƯỜNG ÐI TRÚNG THÌ SỐNG, BƯỚC TRẬT TẤT CHẾT.” (Luận Về Tam Nghiệp) Ðường sống là con đường dẫn đến một đời sống an lạc, là sinh lộ hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng mà phải đi trúng mới sống, bằng như đi trật tất là phải chết, như đức huỳnh giáo chủ đã phán quyết nêu trên. “ Ðạo của con người kêu bằng Ðạo nhân”: Ðạo nhân là chi thứ nhì trong lục đạo luân hồi sau Thiên Ðạo, chi thứ năm trong ngũ thừa Phật Giáo. Ðạo nhân là Ðạo của con người, Ðạo làm con người trong tam giới. Một con người đúng với phẩm cách của sự tiến hoá đứng đầu trong vạn vật là phải làm tròn nhân Ðạo. Nhân đạo là thềm bực, là nhân bản, là cương lĩnh, là cốt cán để tiến đến mục đích giải thoát trên lộ trình Phật Ðạo. Muốn làm tròn nhân Ðạo để được tiến xa hơn tức là phải đền trả tứ đại trọng ân; tịnh ba nghiệp chướng thân, khẩu, ý và diệt trừ thập ác. Như Ðức Giáo Chủ Phật Giáo Hoà Hảo đã từng vì đại chúng Ngài phán dạy:” muốn làm tròn nhân – đạo, phải giữ vẹn tứ – ân, nhưng trước hết hãy tránh tam – nghiệp và chừa thập – ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.” Tứ ân là: Aân Tổ Tiên ông bà, cha mẹ; ân đất nước hay cũng gọi là ơn Tổ Quốc giang sơn; ân Tam Bảo tức Phật, Pháp, Tăng; ân đồng bào nhân loại. Bốn đều ân trọng đại nầy được Ðức Giáo Chủ giảng giải rất tinh tường trong quyển thứ sáu, ta xem trong đó sẽ thấy Ngài nói rõ các công ơn và các phương pháp đền đáp công ơn khó nhọc của mỗi ơn cao quí. Aân đức trọng đại của bốn ơn sâu ví như Trời che đất chở ai dễ nói cùng. Nếu như ai thực hành trọn vẹn tất là được siêu diệt con đường sanh tử, phó Hội Long Hoa và được hoàn toàn giải thoát. Bằng như vong ân bội phản bốn ân sâu tất phải bị đọa lạc trầm luân đời đời kiếp kiếp. Như Ðức Huỳnh Giáo Chủ khuyến cáo: “Câu luân lý tứ ân chạm dạ, Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than.” Người có Ðạo Ðức muốn đền đáp bốn ân sâu tức phải hiếu dưỡng ông bà cha mẹ, tôn thờ Tam Bảo, khuôn phò tổ quốc giang sơn, thương yêu và tận tâm giúp đỡ đồng bào nhân loại. Không tội nào nặng bằng tội phụ bạc hủy hoại bốn ân sâu, không phước nào bằng phước báo đền tứ ân trọng đại. Cái tội ác, cái nghiệp chướng, dẫu cho đến thế nào đi nữa mà biết hành xử tứ ân thì các tội trọng kia cũng sẽ lần hồi tiêu sạch. “Ðến ngày biển cạn non mòn, Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn.” Ðức Giáo Chủ cũng đã minh định như thế, ta hãy khắc ghi mãi mãi nơi lòng mình hầu làm tròn câu nhân Ðạo. Tam nghiệp tức là ba nghiệp của thân, khẩu,ý. Từ ba nghiệp chướng ấy mà chúng có thể xuất sanh ra mười việc lành hay mười điều ác. Nếu ba nghiệp thanh tịnh trong sạch thì thường sanh ra mười điều thiện nghiệp lợi các chúng sanh nhân loại, bằng như ba nghiệp nhiễm ô đen tối tất thường sanh ra mười điều độc ác tác hại cho nhân loại chúng sanh tạo thành quả báo đau khổ. Ba nghiệp thanh tịnh tất như Thánh giả cõi Tây Phương , ba nghiệp nhiễm ô tức chúng sanh nơi địa ngục. Thiên đàng hay địa ngục cũng từ nơi ba nghiệp mà hiện hành, ba nghiệp thanh tịnh thì cảnh giới yên vui, ba nghiệp bất thanh tất là cảnh giới đau khổ. Cho nên vấn đề diệt trừ tam nghiệp là việc hành trì tất yếu của người con Phật trên lộ trình sang qua bờ giác. Thập ác là sát hại sanh mạng, trộm cắp của người, tà dục dâm ô bất chánh, lưỡi nói hai chiều, ỷ thị lời nói lấn hiếp kẻ khờ, lời nói độc hại ác đức, nói láo nói huyễn hoặc, ham muốn của cải quyền tước, tánh nóng nảy bức súc, ngu mê đen tối không phân biệt tà chánh giả chơn. Mười điều ác nầy từ nơi ba nghiệp chướng mà phát sanh. Sát sanh, đạo tặc, tà dâm từ nơi thân nghiệp; lưỡng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ từ nơi khẩu nghiệp; tham lam, sân nộ, mê si từ nơi ý nghiệp. Nếu ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh trong sạch thì mười điều lành tức là thiện nghiệp hiện ra tỏ tường. Ðó là Từ tâm phóng sanh, Bi tâm bố thí, tịnh tâm lìa dục từ nơi thân nghiệp; lời nói chơn chánh, lời nói khiêm hạ, lời nói hiền hoà, lời nói chơn thật từ nơi khẩu nghiệp; Xả tâm vô tham,Hỉ tâm vô sân, Huệ tâm vô si từ nơi ý nghiệp. Tóm lại, hễ ba nghiệp thanh tịnh trong sạch tức mười việc lành phát sanh, bằng như ba nghiệp ô nhiễm bất tịnh tức mười việc ác xuất hiện. Tu cốt chỗ trau dồi ba nghiệp cho được tinh minh trong sạch trang nghiêm để hoa giác buông hương ngào ngạt khắp muôn phương lợi chúng hữu tình trong vạn nẻo. Nếu mười việc ác không sanh, mười điều lành xuất hiện, đó là nền móng vững chắc cho toà lâu đài cao đỉnh giác ngộ. Bốn ơn đền trả, ba nghiệp tịnh thanh, thập thiện thường hành ấy là tròn câu nhân Ðạo. Nhân đạo viên mãn tất Phật Ðạo giải thoát, cũng đã hầu kề, hành giả chỉ cần tiến lên một nấc nữa là mãn nguyện. Nhân Ðạo theo sự trình bày trên đây là tư tưởng Việt Phật do Ðức Huỳnh Giáo Chủ truyền dạy. Nhân Ðạo theo Khổng Giáo thì gồm có tam cang ngũ thường và tam tùng tứ đức mà kẻ tu nhơn cần phải xuất xử cho tròn hướng đi căn bản ấy. Tam cang là giữa ba mối Ðạo Vua tôi, cha con, chồng vợ. Còn ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tam tùng tức tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử. Tứ đức tức là công, dung, ngôn, hạnh. Tam cang ngũ thường là của hàng tu my nam tử phải hành xử cho tròn, về thục nữ thuyền quyên thì phải gìn câu tam tùng tứ đức. Ðiều răn cấm thứ nhứt Ðức Giáo Chủ đã từng răn dạy: “Phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.” Và trong quyển thứ ba Ngài cũng bảo: “Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy. Tình duyên chẳng kiếp thì chầy, Chớ đừng cãi lịnh gió mây ngoại tình. Ði thưa về cũng phải trình, Công dung ngôn hạnh thân mình phải trau.” (Sám giảng) -Thế nào gọi là đi trúng? Thế nào gọi là bước trật? -Ði trúng là phải làm tròn nhân Ðạo, tức đền trả bốn ơn sâu, tịnh ba nghiệp chướng và diệt trừ thập ác; tam cang ngũ thường, tam tùng tứ đức cũng phải trau dồi cho trọn vẹn. Bằng như phi luân lý tứ ân, vô luân thường Ðạo nghĩa, tam nghiệp chẳng gìn, thập ác thường phạm, nghĩa là không có nhân Ðạo gọi đó là bước trật. -Thế nào gọi là sống? Thế nào gọi là chết? -Sống có nhiều nghĩa: 1.Trong kiếp hiện sinh đã làm tròn nhân Ðạo, đúng là mẫu người trong xã hội, đến khi bỏ thân xác tứ đại nầy, tức là được thân tứ đại khác, lần lần tiến hoá đến cao đỉnh giác ngộ, không bị mất thân làm con người, gọi đó là sống. 2.Dù đã mất thân trong hiện tại, tứ đại rã tan nhưng mà tên tuổi, sự nghiệp được sống mãi nơi lòng người và sử sách ghi biên chẳng mất nên gọi là sống. 3.Ðã làm tròn nhân đạo tức được vào Thánh Hội Long Hoa và được nghe diệu pháp, chứng nhập pháp thân đồng với chư Phật về sinh mạng và các thứ diệu dụng thần thông, nên gọi là sống. 4.Hành trì theo luân lý tứ ân, tịnh ba nghiệp chướng, diệt trừ thập ác, hồi hướng cầu sanh Cực Lạc Tây Phương, lên ngôi bất thối dứt nẻo luân hồi, sống hoài không chết nên gọi là sống. Chết là trong kiếp hiện tại phi nhân đạo tức là bội phản tứ ân, ba nghiệp đen tối, mười ác thường làm, đến khi mãn kiếp đoạ lạc trầm luân, vong mất thân người muôn đời khó có lại được, gọi đó là chết, là mất thật đáng thương thay! Những bật Thánh thiện trong trần gian nầy thường chết do đại nghĩa hữu ích cho đời nên các Ngài vẫn sống mãi, sống mãi bất diệt. Chúa Ky Tô biết chọn cái chết trên Thánh giá nên tên tuổi và vĩ nghiệp tôn giáo vẫn hằng sống mãi suốt cả thời gian bất tận. Ngài quan Thượng Ðẳng Ðại Thần Nguyễn Trung Trực biết chọn cái chết cho Tổ Quốc, cho giống nòi, cho đại nghĩa báo đáp thâm ân nên Ngài sống mãi bất tử! Sanh được làm người đã là việc rất khó, gặp được Phật pháp lại khó gấp bội lần, đi đúng với đường sống tức làm tròn đạo nhân thì khó hơn chẳng biết bao nhiêu lần. Cái quí giá cái cao đẹp của Ðạo nhân là ta sẽ không bao giờ chết mất, mà vẫn còn hoài mãi mãi để mà tiến hoá lên ngang hàng với chư Phật. Ðáng thay một kiếp người làm tròn nhân Ðạo! Ðường sống Ðạo nhân là lộ trình dẫn đến hạnh phúc an lạc. Ðường sống Ðạo nhân là ánh sáng nhiệm mầu dẫn đến giải thoát. Nhưng mà đi trúng thì mới sống, bằng như bước trật tất là phải chết! Trong trần gian nầy có biết bao người dù đang còn sinh hoạt nói làm, nhưng mà họ đã chết mất đi từ bao giờ, thế mà họ lại chưa hay là họ đã chết mất! Lại có những hạng người dù đã xương tàn cốt rụi thế mà hương thơm còn mãi, sống mãi suốt cả thời gian không mất. Ðời người đúng với ý nghĩa của sự sống là hãy chọn lấy lối đi và đi cho đúng. Thế là đã quí lắm rồi, hạnh phúc lắm rồi! Vui thầy đẹp tớ lắm rồi! TUỆ GIÁC DIỆT LÒNG MA “HÃY LẤY GƯƠM TRÍ TUỆ MÀ DỌN SẠCH MA LÒNG, HÃY LẤY LÒNG KHOAN DUNG MÀ ÐỐI ÐÃI LẪN NHAU, HÃY LẤY LÒNG BÁC ÁI NHÂN ÐẠO MÀ CƯ XỬ VỚI MỌI NGƯỜI. CẦN HIỂU CÁI LÝ VÔ NGà CỦA NHÀ PHẬT. HÃY RÁN SỨC THI HÀNH SẼ CÓ THẦY ỦNG HỘ.” (Lời khuyên bổn đạo) Gươm trí huệ: Nghĩa là cái trí sáng suốt cùng tận của các nhà hành đạo, vượt thoát thời gian. Trí huệ ấy có sức mạnh vạn năng vượt trên các thị dục và cắt đứt mọi sự ràng buộc đen tối nơi thế trần ví như là một thanh kiếm, nên Phật học thường gọi là gươm trí huệ, hay tuệ kiếm. Trí huệ lại có phân làm ba thứ: 1.Văn huệ: Ðây là sự sáng suốt thông minh từ nơi học rộng nghe nhiều về phần giáo nghĩa súc tích diệu pháp lý mầu mà phát sanh trí tuệ sáng suốt, biện luận trôi chảy, trước tác suốt thông và hiểu biết mọi việc ở thế gian người thường không sánh đặng. 2.Tư huệ: Thứ trí tuệ nầy do nơi các hành giả hằng tư duy gẫm đạo quán xét tâm pháp, sắc pháp mà phát sanh. Thứ trí huệ nầy vượt xa hơn văn huệ mọi mặt về hiểu biết và năng trừ tâm bịnh. 3.Tu huệ: Trí huệ cao đỉnh nầy là từ nơi công đức hành trì Phật pháp mà phát sanh. Một khi Thánh trí tu huệ được phát hiện tức bóng tối vô minh biến mất. Ðể được phát sanh cái trí sáng suốt của tu huệ, hành giả tuỳ duyên có thể hành trì các hạnh: 1.Nghiêm trì luật giới cho tinh minh, tánh tướng luật qui phải được nghiêm chỉnh chu đáo, các việc độc ác không cơ hội phát sanh, các việc lành thường được thể hiện lợi chúng hữu tình. Từ nghiêm trì luật giới mà tâm được định, do định mà tâm phát huệ khai. Trí huệ nếu đã phát khai tức là vô minh tự tiêu diệt. Luật qui có nhiều hình thức, rộng hẹp thấp cao, đại tiểu tánh tướng, giới xuất gia, giới cư sĩ tuỳ theo duyên hạnh mỗi chúng sanh phát tâm gìn giữ. Riêng về Phật Giáo Hoà Hảo Huỳnh Phật Sư truyền dạy tám điều răn cấm cho các tín đồ. Tám điều luật qui trong Phật Giáo Hoà Hảo dung nhiếp ngũ thừa(Nhơn, Thần, Tiên, Thánh, Phật). Nếu như ai gìn giữ cho chu đáo trọn vẹn tức là huệ phát tâm khai vô minh quét sạch. Ðiều thứ nhứt đến điều thứ bảy nhiếp bốn thừa, điều thứ tám riêng một Phật thừa. Bởi vì, điều răn thứ tám chỉ dạy gồm có ba tụ: Tụ thứ nhứt “trọn lành”, tụ thứ nhì “trọn sáng”, tụ thứ ba “về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh” của Ðại Thừa Bồ Tát Tạng. 2.Phụng hành Bát Chánh Ðạo. Bát Chánh Ðạo là tám nẻo chơn chánh sáng suốt , là sinh lộ phá vô minh, dẹp tà kiến, khôi phục Tuệ Giác linh minh của Tri Kiến Phật. Bát Chánh là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh ngữ, chánh niệm, chánh định( đọc bài Luận Về Bát Chánh của Phật sư ). Bát Chánh Ðạo trong Phật Giáo Hoà Hảo thuộc về Ðại Thừa tư tưởng luận, hoàn toàn tích cực hàm súc lợi tha đúng với thâm ý của Phật và Bồ Tát. Hành trì Bát Chánh Ðạo tức diệt tận vô minh, Tri Kiến Như Lai sáng soi rực rỡ, được vào biển giác của Phật và hoá giải cho các chúng hữu tình trong vạn nẻo. 3.Chuyên niệm Phật danh. Danh Phật là Giới, là Ðịnh,là Huệ là Giải Thoát, là Giải Thoát Tri Kiến. Danh Phật là Thí, là Giới, là Nhẫn, là Tấn, là Ðịnh, là Huệ. Danh Phật là Bi, Trí, Hùng. Thế nên, chuyên niệm Phật danh tức Tuệ Giác thường chiếu soi, ác kiến vô minh từ từ bị tận diệt. Nghiêm trì Giới Luật, thực hành Bát Chánh và chuyên tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Pháp yếu diệt tận vô minh, hiển bày Tri Kiến của Phật. “Dọn sạch ma lòng”: tức là diệt trừ, quét sạch cái tâm độc hại đen tối của ta cho tận gốc hầu có khôi phục lại mặt Trời Trí Tuệ nơi chính mình. Con dao nơi tâm, thuốc độc nơi tâm, rắn độc nơi tâm, rồng độc nơi tâm, lửa độc nơi tâm, nước độc nơi tâm chúng thường tàn phá huệ mạng của ta một cách khủng khiếp nên gọi đó là ma. Lũ ma trong tâm ta chúng nhiều vô số kể, có nhiều nhóm, nhiều tên không thể nào nói cho hết đặng. Ðây xin lượt kể đơn giản đôi phần để ta ý thức được sự lợi hại của chúng hầu chuyển trừ chúng một cách hữu hiệu. 1.Thập sử phiền não ma. Ðó là: Tham lam của thế góp tom bảo thủ, sân hận nóng nảy phẩn uất câm hờn, si mê đen tối không phân biệt tà chánh giả chơn, ngã mạng cống cao nung chìu bản ngã, nghi ngờ Phật pháp không có đức tin, thấy thân ngũ uẩn là thật, chấp chặt một bên theo lối tà kiến, bảo thủ ý kiến sai lầm không hề buông bỏ, chấp giữ những giới cấm sai lầm đen tối không phải do Phật dạy, thấy biết tà vại sai lầm đen tối dẫn đến đoạ lạc trầm luân. Mười món ma nầy thuộc về tâm pháp, chúng có sức mạnh vạn năng thường chi phối và sai sử tâm linh ta khiến ta thường mất tự chủ, Chúa Tâm Vương vong thất. 2.Thất tình lục dục ma. Nhóm nầy gồm có: Thuận thích thì mừng, nghịch trái thì giận, mất cả quyền lợi thì buồn, tài lợi sung mãn thì vui thích, vừa ý thì yêu thương khắng khít không muốn lìa xa, nghịch ý thì ghét bỏ chẳng muốn gặp nhau, ham muốn những gì ưa thích cho thoả mãn mới yên. Ðó là thất tình, còn lục dục là: Sắc đẹp, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng và tật đố. Mười ba thứ ma lòng nầy vô cùng tai hại, chúng thầm ẩn bên trong che mờ chơn trí của ta, khiến ta ngây ngất điên cuồng trong ảo mộng khổ luỵ muôn đời. Thêm một lần nữa Huỳnh Phật Sư phán dạy: “Thập tam ma diệt bằng trí kiếm, Rứt xong rồi vô sự thảnh thơi.” (Khuyến thiện) 3.Thầm ẩn ma. Thứ ma sự nầy nó thầm ẩn bên trong che mờ Tuệ Kiếm khiến ta mất hết tự chủ, mất hết bản năng giác ngộ và thường tạo nghiệp báo đau khổ ê chề từ luỹ kiếp, không hề có lối thoát. Tên họ bè lũ của chúng được Huỳnh Phật Sư liệt kê như sau: “Thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng.” Tu thân xử kỷ. Mười ba thứ ma lòng nầy chúng thường che mờ Tuệ Giác ta, nên hễ tiêu trừ được chúng tức Trí Huệ ta khôi phục lại một cách tỏ tường. Thập sử phiền não ma, thất tình lục dục ma, thầm ẩn ma tất cả là 36 tên, nhưng mà then chốt đầu mối từ tà kiến tam độc. Huệ Năng từng dạy chúng: “Chơn Như tự tánh là Chơn Phật, Tà Kiến tam độc thật Ma Vương. Lúc tà mê ma tại thân nương, Khi chánh kiến Phật thường tại thể. Tà kiến dấy độc sanh ác tệ, Tức Ma Vương tại thể chủ quyền. Chánh kiến trừ tam độc thân yên, Ma biến Phật thấy liền trước mắt.” (Pháp bửu đàn kinh) Ma lòng chúng thường xuất hiện nơi bóng tối vô minh và khi huệ nhựt chiếu soi đến đâu tức thì chúng tự tan rã đến đó. Thế nên Ðức Giáo Chủ phán dạy:” Hãy lấy gươm trí tuệ mà dọn sạch ma lòng”, hầu có mở bày Tri Kiến Phật. “Hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau”:Người học Phật phải noi theo dấu chơn Phật hầu được tiến hoá ngang hàng bình đẳng với chư Phật, ta hãy khoan dung tức nới rộng vòng tay tha thứ cho những kẻ lầm lỗi bằng đức Hỉ Xả của chư Phật. Những kẻ đã lầm lỗi họ đã biết hối cải ăn năn, nếu ta không độ lượng bằng khoan hồng dung tha được thì ta còn tệ hơn họ. Vì họ đã bỏ được những sai lầm, còn ta chưa bỏ được sự thành kiến cố chấp. Tâm ta phải như cái thùng không đáy chẳng giữ lại một vật gì để được gọi là”Tâm vô tâm, sự vô sự” của tiến trình giải thoát. Ðức Phật há chẳng từng phán dạy: ”Ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô sở chứng, đắc vô sở đắc”. Nghĩa là đạo pháp của Phật lìa tất cả các tướng tu, tướng hành, tướng chứng đắc không chấp giữ một tướng nào. Phật pháp thế mà còn không nên chấp giữ huống là thế gian pháp ư! Bốn đại đức của chư Phật, đức Xả là hạnh đẹp nhất của các đấng Như Lai mà đứa con tinh thần của đức Phật phải gắng gổ phụng hành. Ta hãy lắng nghe Huỳnh Phật Sư chỉ dạy về Ðức Xả của chư Phật: “Ðức Xả:Ngài chẳng chấp một pháp nào trong the-á gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền- trần, tha- thứ hết thảy những ai tối- tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi- danh, tài- sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến- ái.” Chư Phật có bốn Ðại Ðức Và hơn một lần nữa Ðức Giáo Chủ ân cần dạy chúng: “Ta thường nên tập tánh khoan- dung. Thiệt- hành đi đừng có ngại –ngùng, Tha- thứ kẻ lỗi -lầm ngu xuẩn. Và nhẫn -nhịn đừng ham tranh-luận, Khỏi mất lòng tất cả mọi người. Tánh thuần –lương ve ûmặt vui tươi, Vậy mới đáng tín -đồ Phật- Giáo.” (Khuyến Thiện) Khoan dung là đức tánh Phật, người có lòng khoan dung đối với mọi người, tức là kẻ ấy thường sống trong vui tươi hạnh phúc và được mọi người yêu kính thân thương nương tựa, hoà hài xinh đẹp thật là cao quí. “Hãy lấy lòng bác ái nhân -đạo mà cư- xử với mọi người”: Ðó là một thứ tình thương bao la vô bờ đối với khắp nhân loại đại đồng không phân biệt chủng tộc, không phân biệt giai cấp sang hèn. Một thứ tình thương không hy vọng, không mong cầu, đẹp nhất thế gian là tình thương bác ái đại đồng của trái tim nhân đạo. Nhân đạo là con người có trái tim thương yêu mỗi con người với tinh thần bình đẳng chan hoà không đổi chác, không tương lai. Người có nhân đạo, tức có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Hiếu thuận từ hoà, ơn đền nghĩa đáp, phục vụ cho mọi người mà chẳng kể đến công lao, không biết mỏi mòn nhàm chán. Con người được coi là nhân Ðạo, tức đền trả bốn ơn, tịnh thanh ba nghiệp, kiên gìn thập ác, thập thiện bủa khắp lợi chúng hữu tình nêu cao gương bác ái. Nếu hằng đối xử với nhau trên tinh thần hài hoà, bác ái nhân đạo, khoan dung độ lượng thì tất là xây dựng một xã hội thái hoà an lạc tại thế gian. “Hãy lấy lòng bác- ái nhân đạo mà cư- xử với mọi người”, là Huỳnh Phật Sư đưa mọi người trên trái đất nầy đến tận thế giới hạnh phúc an lạc thường hằng, đúng với ý nghĩa của con người tiến hoá trong xã hội. “Cần hiểu cái lý vô ngã của nhà Phật”:Tất cả các pháp đều không có chơn tướng tồn tại, không có cái ngã độc lập mà từ nhân duyên hoà hợp tạm thấy có, nhân duyên tan rã tức tánh không. Cái không cũng không phải là thật không, vì không mà có. Từ nơi ngũ uẩn, tứ đại tổ hợp lại thành thân ta, ngũ uẩn không có chơn tướng, tứ đại giả lập nên nói thân vô ngã. Các pháp cũng từ nhân duyên hoà hợp của năm uẩn, bốn đại mà có hiện hành, thật thì không có chơn tướng tồn tại nên nói là pháp vô ngã. Hiểu được Ðạo lý vô ngã để không chấp giữ thân mạng và các pháp thế gian, hầu có hoà đồng cùng với Chân Ngã thường trụ của Niết Bàn. Một tô nước nếu gìn giữ riêng tư thì nó chỉ là một tô nước tí hon, bằng như không gìn giữ riêng tư đem trút nó xuống biển tức thì nước trong tô hội nhập hoà đồng vào biển nước vô biên không còn hạn cuộc tí hon trong tô nữa. Phật Giáo có học thuyết vô ngã sanh diệt, và Chơn Ngã thường hằng của Ðại Niết Bàn. Nhị thừa chỉ dạy thân mạng và các pháp do nhân duyên hoà hợp mà có,không có chơn tướng tồn tại nên gọi là vô ngã. Ðại thừa thì chủ trương Pháp Thân tức là Chơn Thân vạn pháp không biến đổi, không hư hoại thường hằng, tất cả chúng sanh đều tự sẵn có và bình đẳng với chư Phật. Hiểu lý vô ngã để tu học Phật pháp không tiếc thân mạng không bảo thủ gìn giữ cái giả tướng sanh diệt để chứng nhập vào Chân Ngã Ðại Niết Bàn. Chơn thường, Chơn Lạc, Chơn Ngã, Chơn Tịnh là bốn đức tánh của Ðại Niết Bàn, mà người học Phật cần phải hiểu rõ và hành trì Ðại pháp hầu thể nhập vào cảnh giới cao đỉnh giác ngộ ấy. “Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ”: Ðã hiểu được đạo lý vô ngã vô thường, thân phận con người ảo ảnh như điện chớp sương sa, thì hãy nổ lực hành trì Phật pháp, phải có đức vô uý trên bước hoá tha, phải có tinh thần hùng tráng dũng cảm hộ trì chính pháp chớ để bị diệt. Huỳnh Phật Sư không khi nào xa cách ta, Ngài luôn luôn bên cạnh ta, hộ trì ta, nâng đỡ ta, ta đừng sợ hãi thối bước. Ngài có sứ mạng lập pháp, ta có sứ mạng bảo pháp và hành pháp. Là chí sĩ của lòng từ, là sứ giả của Phật ta phải có tinh thần vô uý, vô công, vô kỷ và vô danh. Mật hạnh, mật tu không một ngày, một tháng, một năm mà trường kỳ cho đến khi nào khôi phục toàn bộ đất tâm thanh tịnh, phục quyền NHÂN CHỦ trọn vẹn, thì ta mới yên ngồi thảnh thơi mà nghe khúc ca chứng đạo của Thầy ban. “Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan- dung mà đối- đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái nhân đạo mà cư- xử với mọi người. cần hiểu cái lý vô -ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ.” Yếu pháp cao quí nầy ta hiểu qua đại cương nghĩa lý sâu mầu, từ nơi bi tâm Huỳnh Phật Sư truyền dạy. Nếu ta cương quyết hành trì tất cả sẽ được hoàn toàn giải thoát yên vui thanh tĩnh nơi cõi Cực Lạc Niết Bàn hầu hoá tha lợi chúng. Gươm trí phải cho tinh nhuệ mới tận diệt được lũ ma lòng, phải khoan -dung và độ lượng, phải bác ái vị tha, phải nhân từ đức hạnh, phải Hỉ Xả chan hoà, phải hi sinh dũng cảm, tiến và tiến mãi không dừng; nhiên hậu Ðức Ân Sư sẽ gia bị đến viên thành bổn nguyện. Nếu không tâm Bồ Tát, Phật pháp cậy nhờ ai? Phật Sư Huỳnh Giáo Chủ, Thừa sắc chỉ Như Lai. Hạ trần khai diệu pháp, Hạnh phúc cho muôn loài! THOÁT KHỔ TỬ SANH “PHÁ NGŨ UẨN RỨT LẦN THAM ÁI, CỘI SÂN SI CŨNG PHẢI TẢO TRỪ. ÐEM VỀ GIÁC TÁNH CHƠN NHƯ, KIM THÂN THỊ HIỆN DỨT TRỪ TỬ SANH”. (Cho ông cò tàu Hảo) Bốn câu Phật học cao đỉnh nầy Ðức Huỳnh Phật Sư viết tại Bạc Liêu năm Nhâm Ngũ. Ngũ uẩn: Cũng gọi là ngũ ấm. Ngũ uẩn hay ngũ ấm nghĩa là năm món che mờ Diệu Minh Chơn Tâm khiến ta bị mê mờ tăm tối, niệm bất giác dấy khởi liên miên. Từ đó mà tạo nghiệp thọ khổ luân hồi đời nầy đời nọ từ luỹ kiếp đến nay và chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Năm món che mờ ấy là:sắc, thọ, tưởng, hành và thức. 1.Sắc uẩn gồm có:Ðất, nước, gió, lửa hợp thành nên gọi là thân tứ đại. Thân tứ đại của ta nó tan hợp, hợp tan ví như là bọt nước trên dòng bể. 2.Thọ uẩn là cảm thọ, nhận lãnh ưng chịu, chấp nhận cái vui, cái khổ, cái thuận, cái nghịch v.v…ví như là bong bóng trên mặt nước. 3.Tưởng uẩn là sự tưởng tượng, nghĩ ngợi đo lường các pháp vui khổ, thuận nghịch, thương ghét, hơn thua….thay đổi không chừng ví như ảnh hiện trong gương. 4.Hành uẩn là những tâm hành, diêu động cuốn theo các pháp ở thế gian không phút giây ngừng nghỉ. Nào là tham, sân, si rồi đến sát,đạo, dâm chuyển biến không dừng ví như là cây lao yếu mềm cứ quật theo ngọn gió. 5.Thức uẩn là sự phân biệt chia chẻ của tâm thức. Khi đến với mắt thì gọi là nhãn thức, khi đến với tai thì gọi là nhĩ thức, khi đến với mũi thì gọi là tỷ thức, khi đến với lưỡi thì gọi là thiệt thức, khi đến với thân thì gọi là thân thức, khi đến với ý thì gọi là ý thức, khi đến với ngã ái thì gọi là Mặt Na thức, khi đến với căn bản tạng thì gọi là tạng thức hay A lại da thức. Sự biến chuyển rung động của thức ấm thật là nhanh chớp nhoáng ví như là ảo thuật. Tóm lại, sắc uẩn ví như phù mạt, thọ uẩn ví như thuỷ bào, tưởng uẩn ví như ảo ảnh, hành uẩn ví như hương giá, thức uẩn ví như ảo thuật. Năm uẩn kết thành thân mạng ta đang sống đây, nhưng mà chúng không có chơn tướng, chúng là trò ảo hoá tan hiệp, hiệp tan nào khác chi mây bay điện chớp sương sa. Năm uẩn nhóm lại thì tạm gọi là thân mạng, năm uẩn chia ly thì tất là không có gì được tồn tại. Mỗi uẩn điều do nhiều nhân duyên hoà hợp mà thành, nhân duyên chi ly tất là không. Như sắc uẩn do đất, nước, gió, lửa hợp mà thành thân ta, nó không có chơn tướng độc lập và tồn tại, bốn uẩn kia cũng như thế. Mỗi uẩn đều không có thật tướng, chơn tướng tồn tại thì thân ngũ uẩn của ta làm gì có được cái thật tướng tồn tại. Nó chỉ là những ảo ảnh ảo hình thấy đó rồi mất đó, có đó rồi không đó, nào khác chi là giấc mộng của Nam Kha. Thân mạng ta tánh tự không, năm uẩn tánh tự không, đến chư duyên muôn pháp tánh tự không. chứng nhập vào tánh không của muôn pháp tức là ta sẽ không còn khổ ách trong thế gian nầy. Bát Nhã Tâm Kinh nói:”Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách”. Nghĩa là nếu như ai dùng tri kiến của mình thấy tận được năm uẩn tánh tự không có thật tướng thì kẻ ấy sẽ không còn mang lấy khổ ách trong thế gian nầy. Ðức Giáo Chủ dạy”phá ngũ uẩn” tức ta hãy tự dùng tri kiến của mình để nhìn thấy thân ngũ uẩn tánh tự không, năm uẩn đều tánh tự không, năm uẩn chỉ là giả duyên hoà hợp không có chơn tướng tồn tại. Hiểu được như vậy và chứng nhập vào nơi diệu lý nầy, tất là ta không còn bị ngũ uẩn che mờ Như Lai Tri Kiến và không còn tạo nghiệp thọ khổ nơi cõi Ta Bà, tức ta đã phá được ngũ uẩn rồi đấy. Nếu nhìn thấy thân ngũ uẩn và các pháp tánh không thì tất là ta tuỳ thuận theo với Bản Giác Chơn Như. Bằng như ta không nhiễm thân mạng và các pháp thì tất là ta thể nhập vào Chơn Như Tâm Bản Giác. Phá ngũ uẩn là pháp yếu Ðại Thừa trên Kinh Bát Nhã được Huỳnh Phật Sư phán dạy thật là hi hữu biết chừng nào! Rứt lần tham ái: Rứt tức là xa lìa tránh thoát. Tham ái tức là tham lam ham muốn về tình ái dâm dục cho thoả mãn dục tánh đê tiện hèn hạ. Tham ái là nguồn gốc khổ đau, nếu tâm tham ái chẳng còn thì trần lao mới chấm dứt. Từ nơi ái, thủ, hữu mới có sanh, lão, tử. Aùi, thủ, hữu chẳng còn thì sanh, lão, tử không do đâu mà có đặng. Một nơi khác Ðức Giáo Chủ cũng đã ngân vang: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt, Lòng Bồ Ðề sắt đá dám kình.” (Diệu pháp quang minh) Tham lam ái dục thân thể hao mòn; tham lam ái dục tâm trí đảo điên; tham lam ái dục vô minh lớn mạnh; tham lam ái dục hắc nghiệp tăng trưởng; tham lam ái dục thác sanh ác đạo. Rất đáng răn chừa đáy lòng tham ái. Phật từng phán dạy: “Ai sống trong đời nầy, Aùi dục được hàng phục, Sầu khổ tự tiêu dần. Ai sống trong đời nầy, Aùi dục chẳng hàng phục Sầu khổ tự đưa đến.” (Kinh Pháp Cú) Ðể tránh thoát sự tham ái dâm dục hành giả hãy tự dùng tri kiến của mình mà thấy rằng: thân người nam nữ điều là bất tịnh, tư tưởng tham ái dâm dục là chủng tử bất tịnh, sẽ dẫn đến cảnh giới bất tịnh thọ khổ liên miên không bao giờ chấm dứt. Cùng lúc hãy chí thiết niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Tất là lòng thanh biển lặng huệ nhựt sáng soi, lòng tham ái xa dần tâm Chơn Như thị hiện. “Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái”, là đức Huỳnh Phật Sư phán dạy: Một hành giả có cưu mang cái nguyện vọng hoá tha lợi chúng, tức phải phá diệt ngũ uẩn và xa lìa tham ái để đi đến con đường giải thoát hầu có được toại nguyện tự giác nhi giác tha trên cao đỉnh Phật học. Bởi vì ngũ uẩn và tham ái là cội nguồn sanh tử luân hồi, nếu không thắng phục và diệt trừ được chúng tất là hồng nguyện khó thành. “Cội sân si cũng phải tảo trừ”: Sân và si là hai trong tam độc, chi thứ chín và thứ mười trong thập ác. Sân tức là sân hận nóng nảy, bực tức câm hờn. Sân tuỳ chỗ sâu cạn, nặng nhẹ mà có nhiều tên gọi khác nhau:Sân, hận, phẩn, nộ. Tên tuy có khác nhưng chung qui cũng là phiền não căn bản, rất tai hại đường tu vì chúng thường tiêu diệt Huệ mạng và sanh trưởng các hắc nghiệp tử sanh ác đạo. Phật Sư đã lên án gắt gao về tội ác sân hận: “Tánh sân nộ thường làm bạo ngược, Nên loài người ở cõi thế gian. Giận hờn nhau thù oán dẫy tràng, Mới có cuộc tranh tài đấu lực. Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức, Mới bị người hềm khích ghét ganh. Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành, Gây nghiệp dữ oan oan tương báo. Trong cơn giận kể gì nhơn đạo, Tỷ như con cọp dữ trên rừng. Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng, Phân từ mảnh mới là thoả dạ.” (Khuyến Thiện) Si : tức là trạng thái đen tối không phân biệt tà chánh giả chơn, thấy tà nói chánh, gặp chánh cho là tà. Si còn có tên khác là vô minh. Vô minh hay mê si thường che mờ Diệu Minh Chơn Tâm, khiến ta phải tâm tối mê say gây tạo các thứ trọng nghiệp thọ báo luân hồi trong ác đạo. Hễ vô minh che mờ căn trí tức niệm bất giác khởi lên đến muôn trùng, rồi từ đó mà nảy sanh vô số các tội ác như: Ngũ nghịch, thập ác, tam độc v.v… về ác mê si Huỳnh Phật Sư phán dạy: “Ác thứ mười đoạn chót Mê Si, Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ. Màn vô minh che mờ căn trí, Nên thường khi nhận nguỵ làm chơn. Lo huyển thân vật chất kém hơn, Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức. Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức, Bịn rịn đời cực khổ tang thương. Khi nói làm ít chịu suy lường, Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác”. (Khuyến Thiện) Hai tên sân hận và mê si được liệt vào hàng đầu các tội lỗi. Chúng thường tương duyên, tương quan mật thiết và kết cấu cùng nhau để kiến thiết con đường ác đạo. Hễ có sân nộ tức là có mê si và có mê si tức là có sân nộ. Có khi từ sân nộ mà có mê si, có khi từ mê si mà có sân nộ hoặc mê si và sân nộ đồng thời xuất hiện, hiệp lực đánh phá Chúa Tâm Vương tơi bời, nếu không được lực lượng của Bi, Trí, Hùng đối phó tức Chúa Tâm Vương phải vong quốc! Trừ tên giặc sân hận phải hành trì đức nhẫn nhục và thể hiện đức Ðại Bi, phá tên ác si mê phải dùng môn Giới, Ðịnh, Huệ. Nếu các phương pháp nêu trên không lui đặng giặc sân si là bởi sức dụng công yếu, ta cần nên chí thiết Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật đến nhứt tâm tất sân si tự tan biến, ánh sáng tuệ giác chiếu soi rực rỡ. Sân si nếu còn, Sầu khổ sẽ đến. Sân si tận trừ, An lạc chan hoà. “Ðem về Giác Tánh Chơn Như”: tức là hướng về nương tựa nơi Phật Tánh cố hữu của mình để sống thật với Bản Giác toàn chơn linh minh tịch chiếu của mình hầu hoà đồng với Tuệ Giác của chư Phật. Ðã lâu rồi, ta đã từ biệt Giác Tánh Chúa Tâm Vương, vong quốc Lạc Bang, mang thân ngũ uẩn, dạo trong tam giới, ăn trái tam độc, uống nước thất tình, vui trong ngũ dục, nghĩ ngơi trong khách sạn lục trần. Thảm thương thay! Ðã lắm lần ta cũng muốn quay về với Chúa Tâm Vương nhưng rụt rè e ngại rằng Chúa Tâm Vương không nhìn, các quan Bi, Trí, Hùng trị tội nên đành phải đánh liều đến đâu hay đó! Nay đã được thuyền từ Huỳnh Phật Sư tế độ, vớt kẻ trầm luân trong bể thảm, chuông pháp ngân vang, đuốc Từ Bi soi sáng, ta hãy lên thuyền Bát Nhã, lèo lái cánh trương, hướng về bổn quốc Lạc Bang, lên bờ Chánh Giác nương tựa Chúa Tâm Vương, vui trong hạnh phúc Ngũ Hương, dạo khắp mười phương chư Phật, hoá giải các chúng hữu tình đồng về ngôi Chánh Giác. “Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”: kim thân tức là Chơn Thân hay Pháp Thân thường trụ. Thị hiện tức là từ nơi chúng sanh phàm tục mà hiện ra tỏ tường các đức tướng Như Lai. Ðức Phật là một con người như các con người nơi thế tục, nhưng Ngài đã hoàn toàn vượt lên trên mọi con người nên các đức tướng Như Lai được phát hiện nơi Ngài. Tâm hành và Tuệ Giác Ngài đã được hoà đồng cùng với chư Phật mười phương trên khắp thế giới. Con đường sanh tử luân hồi được bắt nguồn từ niệm bất giác dấy khởi, khói vô minh che mờ Giác Tánh toàn chơn, từ đó mà tạo nghiệp thọ khổ đời đời kiếp kiếp. Nay nếu thuận theo Giác Tánh, vẹt phá vô minh, đoạn nghiệp sanh tử, hành trì theo chánh pháp Huỳnh Phật Sư truyền dạy tức tự ta dứt nẻo luân hồi, vui nơi Niết Bàn Cực Lạc. “Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái, Cội sân si cũng phải tảo trừ. Ðem về Giác Tánh Chơn Như, Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh.” Tư tưởng Huỳnh Phật Sư là ánh quang minh cao vút trên vô lượng pháp giới khắp mười phương chư Phật, hoà đồng với Tam Thế Phật Tôn, trùm cả chúng sanh nhân loại! Hai câu đầu là cốt tuỷ của các bộ Kinh Bát Nhã và Kim Cang; hai câu sau là yếu chỉ của các kinh”Nhứt Thừa Pháp hoa” và “Ðại Niết Bàn.” Cao quí, thật là cao quí! Sáng soi, thật là sáng soi! Nhiệm mầu, thật là nhiệm mầu, bất khả thuyết, bất khả tư nghì…! Diệu pháp khó nghĩ lường, Phật sư trải tình thương. Ðưa người về bến giác, Khôi phục lại PHÁP VƯƠNG. HIẾU ÐẠO “VẸN MƯỜI ƠN MỚI ÐẠO LÀM CON LÚC SANH SỐNG CHỚ NÊN PHỤ BẠC (Kệ Dân) Hai câu Thánh Kệ nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết hồi năm Kỷ Mão (1939), tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo. Vẹn: Tức là giữ gìn trọn vẹn, vuông tròn không để bị sơ thất lỗi lầm cho đến viên mãn. Mười ơn: Theo Kinh báo hiếu phụ mẫu, Ðức Thích Ca Như Lai thuyết giáo thì, mười ơn phụ mẫu là: 1.Ơn người mẹ giữ gìn thay nhi mang nặng trong thời gian mười tháng thật là khó nhọc, ăn chọn thức, nói chọn lời, làm nhẹ nhàng, đi chậm rãi và nhất là không dám buồn giận ưu phiền để thai nhi không bị ảnh hưởng các tư tưởng xấu. 2.Ơn người mẹ lúc gần sanh đẻ phải cam chịu rất nhiều nỗi đắng cay, đau đớn bởi hài nhi quơ vét tung chòi, lăn lộn để tìm lối chui ra. Nếu thuận thai hỡi còn đỡ bằng mà nghịch thai thì đau đớn biết dường nào! Lắm khi mẹ con đồng tử biệt, hoặc mẹ mất con còn trên bàn phẩu thuật! 3.Công ơn người mẹ khi hài nhi vừa mới lọt lòng, vì quá đổi mừng mà quên đi tất cả sự khổ não đắng cay. Người mẹ đang lúc nhắm mắt, cắn răng nín hơi chịu đựng các việc đớn đau, bổng nghe tiếng khổ a, khổ a … thì vụt nhìn coi con mình có được vẹn toàn chăng, có bất túc ngũ bào chăng. Ồ! Mừng quá mẹ tròn con vuông đấy! 4.Công ơn người mẹ phải ăn cay, uống đắng để được nhiều sữa ngọt cho con, được ú mềm dễ thương. Sữa mẹ đem nuôi dưỡng con nó ảnh hưởng rất lớn lao về tư tưởng cũng như về thể xác. Từ nơi bạch thủy trong thân mẹ làm cho đứa con được đậm đà thấm thía ân tình mẫu tử và nết na cũng ảnh hưởng gần với mẹ. Ngày nay khoa học nhiều phát minh chế nhiều loại sữa hóa học, và vì quá bận về kinh tế, người ta hay cho con dùng sữa hóa chất. Từ đó mà tình mẫu tử nhạt nhẻo và nảy ra nhiều tư tưởng bất hiếu đối với mẫu thân. 5.Công ơn người mẹ vì quá đổi thương con, muốn bảo vệ cho con mình thường được ngon giấc và không bị lạnh lẽo nên hễ con vừa phóng uế ướt át hoặc trời mưa dột ướt thì cấp thời dời đứa con đến chổ khô ráo ấm áp còn người mẹ nằm chổ ướt lạnh. Ôi! Mẹ hiền phải hy sinh cho con đến thế, cao đẹp làm sao! 6.Công ơn người mẹ giặt rửa đồ ô huế hôi tanh cho con từ sơ sanh đến tuổi trưởng thành thật là khó nhọc. Cực khổ đâu màng, nhớp nhơ chẳng kể miễn sao đứa con được sạch sẽ xinh xắn, thế là vui lòng mẹ lắm rồi, thỏa mãn lắm rồi! 7.Công ơn mẫu từ trông nom săn sóc và nuôi dưỡng, giáo dục cho lớn khôn nên người hữu dụng trong xã hội thật là cao quý. Song thân ta chính là cha mẹ nuôi dưỡng ta từ nhỏ đến lớn, có ai là cha nuôi mẹ nuôi hơn song thân ta đặng. Cha mẹ ta chính là giáo sư về đức dục cho ta đó! 8.Công ơn cha mẹ vì quá đổi thương con, muốn đẹp lòng con, muốn con mình được thỏa mãn mà phải tạo các trọng nghiệp như tham lam, sát hại và các ngữ ngôn bất chánh thô bạo, nhất là sân, si. 9.Công ơn đứa con cần phải đi xa nhà thì cha mẹ hằng tựa cửa chờ trông, đến phải quên ăn mất ngủ, từ đó mà đôi khi phải mang lấy bệnh khổ vào thân. Ðến khi nghe tin hay nhìn thấy đứa con về nhà thì cha mẹ mừng đến ra nước mắt, đôi khi phải ôm nhau ấp ủ kể lể sự tình, đang nằm bệnh bỗng dưng con bệnh đã chạy tét đi hồi nào! 10.Công ơn cha mẹ không lường không tột, ví như trời cao, so vào biển rộng hay như đất trọng vô biên ai dễ nói cùng. Không chỉ thương con hồi còn thơ ấu, mà cho đến nên người lứa tuổi trung niên hay cả đến lão niên cha mẹ vẫn thương con như hồi còn nhỏ ở trong gia đình. Ðã là mái tóc bạc phơ, tay đi nương gậy thế mà không quên nhắc đến đứa con quá lục tuần cách biệt phương xa. Nếu còn sanh tiền tức trái tim thương yêu của cha mẹ đối với con vẫn còn, khi nào cha mẹ mất thì trái tim thương yêu cao quí của cha mẹ mới mất. Tóm lại, mười điều ơn sâu thẳm của cha mẹ thể Trời che đất chở không thể nào nói cho cùng tận đặng, chỉ sơ lược thế thôi Kinh xưa phán dạy: “Non thái ơn cha dám sánh tài, Biển sâu là đức mẹ hiền nay. Dù cho một kiếp ta lưu lại, Nói đến ơn kia khó hết rày!” (Tâm Ðịa Quán Kinh) Nói công ơn cha mẹ tức ta cũng phải nghĩ nhớ đến công ơn khó nhọc của Tổ tiên ông bà vì từ nơi Tổ tiên ông bà mới có cha mẹ và cha mẹ ta thọ công ơn ông bà cũng như ta thọ công ơn cha mẹ ta trong hiện tại. Thế nên trong tứ đại trọng ân, ân đầu tiên Ðức Giáo Chủ gọi là ân Tổ tiên cha mẹ. Mười điều ân trọng đại trên đây, Huỳnh Phật Sư phán dạy cần phải: Vẹn mười ơn mới đạo làm con. Thế là, ta phải đền đáp ơn sâu cho trọn vẹn, chu toàn câu hiếu đạo. Quan niệm về hiếu đạo, trong toàn bộ Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo, Huỳnh Phật Sư phán dạy người con chí hiếu, chẳng những hiếu thế gian mà còn phải hiếu xuất thế gian. Không chỉ hiếu theo học thuyết Khổng Mạnh mà còn phải hiếu đạo đúng với Thích Ca Mâu Ni truyền dạy. Người con chí hiếu chẳng những noi gương hiếu của Mạnh Tông mà còn phải được noi gương hiếu của Ngài Mục Liên trong Phật Giáo. Muốn cho hiếu đạo được viên mãn người con Phật phải trải qua các hạnh: Vật chất hiếu, tinh thần hiếu và viên mãn hiếu. 1.Vật chất báo hiếu. Người con có hiếu đạo phải luôn luôn lo cho cha mẹ đầy đủ về đời sống vật chất như: Nơi ăn chốn ở được khang trang sạch sẽ, áo cơm và thuốc men đầy đủ chu đáo. Hãy tìm những đồ dùng mà cha mẹ yêu thích dâng cho cha mẹ dùng để nói lên người con hiếu thảo. Hãy thay cha mẹ làm các việc nặng nề khó nhọc. Hãy biết gìn giữ tài sản của cha mẹ chớ để hư hoại suy sụp. Khi cha mẹ bệnh hoạn ốm đau phận làm con phải hết lòng thuốc thang cơm cháo và nhất là hãy cầu cho cha mẹ được bình an vô sự. Bởi vì: “Mẹ cha là kẻ trọng ân, Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già.” Sám Giảng quyển ba. “Mạnh Tông xưa cũng khóc măng Ðất khô nẩy mục rõ lòng hiếu nhi.” (Sám Giảng quyển ba) 2.Tinh thần báo hiếu. Chỉ biết lo cho cha mẹ về đời sống vật chất đầy đủ, thế rồi tinh thần bị đau khổ vì con thì đâu thể được coi là hiếu tử. Thế nên, người con chí hiếu phải biết giúp đỡ cha mẹ về đời sống tinh thần để cha mẹ được vui lòng đẹp dạ. Hãy luôn luôn vâng lời cha mẹ dạy bảo những việc chính đáng, hãy đãi lịnh cha mẹ khi làm một điều gì dù là việc lớn hay nhỏ, hãy hòa thuận với gia đình cha mẹ và anh chị em, hãy khuyên lơn cha mẹ thuận theo chánh pháp tu hành, hãy khuyên nhắc cha mẹ khi thấy song thân làm việc gì phi đạo đức, hãy tự mình tiến hóa về đức dục và trí dục để cha mẹ đẹp mặt nở mày. “Ở cho biết nhượng biết tùy, Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.” (Sám Giảng quyển ba) 3.Viên mãn hay cứu cánh hiếu. Các điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần đã được đầy đủ cho ông bà cha mẹ, nhưng về sau nếu ông bà cha mẹ ta bị đọa lạc nơi đường khổ thì có được coi là hiếu đạo viên mãn rốt ráo chăng? Hẳn không vậy. Vì, nổi khổ của dòng suối sanh tử luân hồi phải không biết bao nhiêu lần cái khổ tạm thời trong thế nhơn hiện tại. Chính thế mà ta phải lo cho cha mẹ ông bà thoát khỏi khổ tử sanh trong lục đạo. Muốn thế, ta phải phát Ðại Bồ Ðề tâm cầu tu giải thoát để cứu vớt Thất Tổ Cửu Huyền (thất thế phụ mẫu) ra khỏi trần lao sinh tử. Hiếu đạo đâu chỉ làm theo các hạnh thế gian của Tăng Sâm, Tử Lộ, Mạnh Tông mà còn cần phải lo hiếu đạo xuất thế như các ngài A Nan, Mục Liên và các đại đệ tử của Ðức phật. “Mục Liên cứu mẹ bằng nay, Nhờ người hiếu hạnh tâm rày Từ Bi.” (Sám Giảng quyển ba) “Sách có chữ thâm ân dục báo, Phận làm người hiếu thảo noi gương.” “Ấy chẳng qua là đạo luân thường, Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dặm.” (Sa Ðéc) Ngay trong hiện tại nếu ta tu hành đắc đạo tất là ta cứu vớt được ông bà cha mẹ ta trong bảy đời đúng như lời Ðức Huỳnh Giáo Chủ phán dạy: “Ngày nào đắc được lục thông, Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời. Về Cực Lạc thảnh thơi an dưỡng, Ấy là ngày ban thưởng công tu.” (Cho ông có tàu Hảo) Nay dù đã tu hành đắc đạo rồi, nhưng mà công đức còn kém vì không có hạnh nguyện lớn nên không thể đưa Cửu Huyền Thất Tổ mình đến cõi Cực Lạc Tây Phương, tối thiểu cũng đưa đến các cõi vui tươi an lạc như Thiên hay Tiên đạo. Ðúng như lời Phật Sư Huỳnh Giáo Chủ: “Rán tu đắc đạo cứu Cửu Huyền, Thoát chốn mê đồ đến cảnh tiên. Ngỏ đáp ơn dày công sáng tạo, Cho ta hình vóc học cơ huyền.” (Giải thoát Cửu Huyền) Ðạo Phật là đạo hiếu, tu Phật là tu hiếu, con Phật là con hiếu, không một ai bất hiếu mà được gọi là Phật tử. Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật là vị đứng đầu về hiếu đạo và các đệ tử Phật từ Bồ Tát đến Tổ Sư, từ Sa môn đến Cư sĩ đều là hiếu đạo cả. Ðức Phật, Bồ Tát và chư Tổ Sư đều đã thành đạo và hóa độ chẳng những cho Cửu Huyền Thất Tổ mà còn cả đến pháp giới chúng sinh đồng được giải thoát yên vui nơi Phật cảnh. Ðó là ánh sáng tuyệt vời treo gương hiếu đạo. Gần đây, trong thế hệ chúng ta lại có thêm hai vị hiếu Phật đáng được lưu tâm. Ðó là ai vậy? Nếu không phải Ðoàn Phật Sư thế kỷ 19 và Huỳnh Phật Sư thế kỷ 20 thì có ai được người đời tôn vinh đến thế. Thật vậy, Ðức Phật Thầy Tây An và Ðức Huỳnh Giáo Chủ là hai vị Việt Phật đã từng đắc vào hiếu đạo và đã vì chúng sinh mà khai thị” giáo pháp tứ ân, trong đó có ân tổ tiên cha mẹ. Ta nghe lời Ðức Huỳnh Giáo Chủ giảng dạy về việc đền đáp công ơn Tổ tiên cha mẹ: “Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền phật cảnh thoát đọa trầm luân.” “Còn đền ơn tổ tiên là đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.” Aân tổ tiên cha mẹ Hằng năm đến ngày rằm tháng bảy khắp trên mặt địa cầu, nơi nào có thờ Phật là có tổ chức Lễ Vu Lan báo hiếu. Người con tinh thần của Phật thường làm các phúc báo để hồi hướng cầu cho thất thế phụ mẫu được thoát hóa Tây Phương an vui Phật quốc. Phật Giáo Hòa Hảo, mỗi người tín đồ trong đạo mỗi ngày đều có hành lễ cầu nguyện hai thời, với ý nghĩa là đền đáp bốn ơn sâu. Ðiều thứ nhì và thứ ba trong bài Tây Phương ngũ nguyện đặc biệt là hướng cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ ông bà cha mẹ. Như Ðức Giáo Chủ viết: “Nam Mô nhị nguyện cầu: Cửu Huyền Thất Tổ Tịnh Ðộ siêu sanh. Nam Mô tam nguyện cầu: Phụ mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ mẫu quá khứ trực vãng Tây Phương.” Thế là, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mỗi ngày đều có cử hành hai thời khóa lễ cầu siêu báo hiếu. Nếu hằng ngày ta thường tu các hạnh như: Cúng Phật, lễ Phật, niệm Phật trì trai, bố thí và làm các đức lành rồi hồi hướng cầu cho thất thế phụ mẫu được thoát hóa Tây Phương, trong mỗi ngày thường như vậy thì cũng đồng nghĩa với Lễ Vu Lan báo hiếu hằng năm trên thế giới. Hiếu đạo là một trong ba món phước hướng cầu Tịnh Ðộ, Phật thuyết tỏ tường trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Ðịa Tạng Vương Bồ Tát từ nơi tiền kiếp huân tu hiếu đạo mà được vào địa vị Ðại Bồ Tát, từng trụ sứ cõi u minh hoá tha các chúng sanh khổ nơi địa ngục. Hiếu đạo thuộc Ðại thừa giáo môn, người tu có khuynh hướng Ðại thừa ai cũng thích tu về hiếu đạo. Luận về phước, hiếu đạo được liệt vào hàng đầu, luận về tội, bất hiếu bị ghép vào ngũ nghịch. “Vẹn mười ơn mới đạo làm con, Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc.” Quả là lời Thánh Kệ nhiệm mầu, phá ác trồng thiện được Huỳnh Phật Sư huấn thị vô cùng cao quí bế địa ngục, mở Thiên đàng hi hữu!hi hữu! Hiếu thảo với mẹ cha, Phúc đức thể hà sa. Ðem hướng cầu Tịnh Ðộ, Yên ngồi toà bảo hoa. QUAN HỆ TƯ TƯỞNG “SỰ ÐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI HÀNH ÐẠO LÀ CỐT SỬA NHỮNG TƯ TƯỞNG, TÌM CÁCH ÐÁNH ÐỔ TƯ TƯỞNG XẤU XA, ÐEM THAY VÀO NHỮNG TƯ TƯỞNG ÔN HOÀ ÐẠO ÐỨC.” (Tu thân xử kỷ) Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng: Tư tưởng dơ sạch của con người là thế giới khổ vui cho nhân loại, vì tư tưởng là chủng tử. Tư tưởng dơ thì thế giới đau khổ tối tăm, tư tưởng sạch tất thế giới sẽ yên vui hạnh phúc. Tư tưởng lớn là thế giới lớn, tư tưởng nhỏ là thế giới nhỏ. Tư tưởng là Chủ Nhơn Ông dẫn đến những hành động tội phước tốt xấu, thiện ác v.v... Từ nơi tư tưởng mà có mười con đường tương lai: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa Ngục. Chính vì thế mà Aân Sư ta dạy:”Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng”. Tư tưởng dơ thì thấy cảnh vật dơ, bằng như tư tưởng sạch thì thấy cảnh vật sạch. Cổ học tinh hoa có một câu chuyện ngộ nghĩnh như vầy: Thuở nọ có một gã tiều phu đốn củi trên rừng, anh ta chột dạ, nhét cái búa trong bọng cây đi vào bụi tiêu tiện. Khi xong việc, anh ta bước đến chỗ cũ để lấy búa lên rừng, nhưng mà anh không tìm thấy búa đâu cả. Bỗng thấy chàng thanh niên đi quơ củi bên cạnh, gã tiều phu đang có tư tưởng mạnh nghi ngờ rằng nơi nầy chẳng ai đến, ngoài kẻ quơ củi kia ai có thể lấy búa ta. Từ tư tưởng ấy anh tiều phu nhìn thấy thanh niên quơ củi toàn thân điều hiện các tướng trộm đạo đáng khinh bỉ. Trong lúc tức giận, anh tiều phu định đến với thanh niên quơ củi để ăn thua, bất chợt anh nhìn lên , bỗng thấy cái búa nằm trong bọng cây, mừng quá! Anh ta đến nhận búa. Bây giờ anh ta mới thấy rằng:Vì sơ ý,búa để trong bọng cây mà cứ tìm dưới bụi rậm. Khi ấy, anh tiều phu phát sanh tư tưởng rằng: thanh niên quơ củi rất tốt lòng và thật là kẻ tài hoa trang nhã. Bấy giờ tiều phu nhìn thấy thanh niên quơ củi có nhiều văn tướng của một học sinh đáng quí. Chỉ có một thanh niên quơ củi, mà tư tưởng xấu thì thấy thanh niên là kẻ trộm cắp, tư tưởng tốt thì thấy thanh niên là học sinh đáng quí. Ðó là chuyện tư tưởng sạch dơ ngoài xã hội, trong cửa Thiền cũng có tư tưởng sạch dơ và được ghi nhận nơi văn học sử. Sau đây là giai thoại tư tưởng của Tô Ðông Pha và Phật Ấn Hoà Thượng: Tô Ðông Pha là một học sĩ danh nhân Trung Quốc, đã giàu có tột bực, từng đến bảy bà phu nhân, và là nhà Thiền học nổi tiếng. Tô Ðông Pha và Phật Ấn rất thân nhau, từng gặp gỡ và đối đáp qua lại về Thiền học. Một lần nọ, Tô Ðông Pha đến với Phật Ấn Hoà Thượng, vào chùa không thấy Phật Ấn, Ðông Pha bước thẳng vào Thiền phòng, thấy Hoà Thượng toạ Thiền, Ðông Pha phệt ngồi xuống thiền toạ đối diện với Phật Ấn, không lâu Hoà Thượng xả Thiền, Ðông Pha cũng đồng xả tĩnh toạ. Hai người đối đáp với nhau: -Thưa Hoà Thượng, Ngài thấy tôi ngồi thể nào? Ðông Pha hỏi. -Học Sĩ ngồi trịnh trọng thật giống như là ông Phật! Phật Ấn đáp. Ðến phiên Phật Ấn Hoà Thượng hỏi Tô Ðông Pha: -Học Sĩ thấy lão tăng ngồi thể nào? -Hoà Thượng ngồi chần ngần như đống cứt trâu! Phật Ấn lẳng lặng, Ðông Pha cáo từ. Trên đường về Ðông Pha rất đắc ý rằng mình đã thắng cuộc, và ghé lại tư thất của em gái mình là Tô Tiểu Muội, một Phật tử thông tuệ để khoe khoang tự đắc. Ðông Pha vừa gõ cửa vừa gắt giọng: -Tiểu Muội! Tiểu Muội! Tô Tiểu muội vừa đẩy cánh cửa vừa lên tiếng: -Có gì thế hở anh? Ðông Pha đáp: -Anh vừa đến thăm Lão Tăng Phật Ấn Hoà Thượng, qua cuộc đối đáp anh đã đắc thắng đối với Lão Tăng. Mừng quá em ơi! Tô Tiểu Muội gạn hỏi: -Anh với Ðại Lão Hòa Thượng đối đáp thế nào, xin cho tiểu muội biết với? -Anh với Hòa Thượng cùng ngồi Thiền trong Thiền đường, khi xả anh hỏi Hòa Thượng thấy anh ngồi thể nào? Ðược Hòa Thượng đáp: -Học Sĩ ngồi trang nghiêm như là Ông Phật! Ðến khi Hòa Thượng hỏi lại anh: -Học sĩ thấy Lão Tăng ngồi thể nào? Anh đáp: -Hòa Thượng ngồi như đống cứt trâu vậy! Thế rồi Hòa Thượng lẳng lặng, anh ra về. Tiểu Muội với lời rất đoanh thép: -Anh đã đại bại rồi đấy anh ơi! Anh có biết không? Ðại Lão Hòa Thượng là người đã tu chứng rất cao Thiền Ðạo, tư tưởng Ngài rất sạch sẽ, thanh bạch gần như là tâm một vị Phật, nên nhìn đời bao giờ Ngài cũng thấy tất cả như Phật. Trái lại, anh là một học giả, trên văn tự Thiền học tuy rất am tường và suốt thông lý giải, nhưng tâm hồn bụi trần còn vướng, nghiệp chướng đeo mang, tư tưởng trược nhơ bẩn thiểu nên nhìn đời ai cũng tựa đống cứt trâu. Thật đáng thẹn, đáng buồn cho anh đó! Hai chuyện trên đây cho ta thấy rất tỏ tường rằng: hễ tư tưởng trong sạch thì thế giới thanh tịnh thái bình, tư tưởng trược nhơ thì thế giới tối tăm tội khổ. Lọc lừa tư tưởng là công hạnh đầu tiên cho các nhà tu hành như Aân Sư đã phán dạy và đã lược giải như trên. “ Tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa”: Tư tưởng xấu xa tức là hư tưởng đen tối sai lầm dẫn đến đau khổ triền miên bất tận. Các hư tưởng có rất nhiều hình thức khó kê cứu hết đặng. Ðây xin lược kể một số quan trọng để nhận thức hành trạng của chúng được tỏ tường hầu tiện bề chế phục. Hằng ngày trừ khi ngủ, tư tưởng ta thường liên hệ nghĩ ngợi đến các thứ: Công danh, phú quí, tiền tài, sắc dục, ăn ngon, ngủ khoẻ, đắc thất, phải quấy, hơn thua v.v…. Những tư tưởng xấu xa nầy thường che mờ tuệ giác, từ đó mà tạo nghiệp thọ báo luân hồi đời đời kiếp kiếp khó nỗi đặng an. Thế nên, Aân Sư phán dạy hãy tìm cách đánh đuổi chúng để phục hồi Chơn Trí dứt nẻo luân hồi. Tư tưởng xấu xa là bệnh, phương cách đánh đuổi tư tưởng xấu xa là thuốc. Thuốc phải cho đúng bệnh, bệnh phải dùng thuốc cho đúng liều, tức bệnh nhân được phục hồi sức khỏe. Khi mỗi tư tưởng vừa dấy khởi, hành giả phải biết đâu là tưởng chánh, đâu là tưởng tà. Nếu tưởng chánh thì để chúng được phát triển hơn lên, bằng như tưởng tà thì hãy nên tiêu diệt ngay chớ để sinh sôi nảy nở. Các tư tưởng thuộc về phần tà Ðức Giáo Chủ liệt kê tỏ rõ: “Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị dục cám dỗ: Lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng, … cái tư tuởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồn vào những sự ấy, không thể nào thoát ly ra được. Ấy về phần tà.” Chánh tư duy. Các tư tưởng tà, ta dùng tri kiến thấy được chúng là tà, thì đó là ta đã tùy thuận với Lý Tánh. Bằng như dùng Tuệ Kiếm cắt đứt được các tư tưởng tà là ta tự thể nhập vào Lý Tánh tuyệt đối nơi chính mình tức được giải thoát. “Ðem thay vào những tư tưởng ôn hòa đạo đức” : Diệt tất cả các tà tư, hư tưởng bằng cách để trống không thì dễ bị rơi vào thế giới thiên không, nếu hành giả thiếu Tuệ Giác. Chính vì thế mà ta hãy dùng các tư tưởng đạo đức thanh cao, ôn hòa nhã nhặn, bác ái lợi tha, từ bi hỉ xả … để thay thế cho các thứ tạp tưởng xằng xiêng phục hồi đất tịnh. Ðó là phương pháp dùng binh hiền từ dẹp phá binh giặc ác, dùng thuốc đều hòa bệnh khổ, dùng lúa diệt cỏ, dùng nước ngọt đưa nước mặn ra biển. Về tư tưởng chơn chánh là dùng chánh tưởng dẹp tà tư, Ðức Giáo Chủ đã ân cần dạy chúng: “Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm cái chân lý, chân lý ấy là cái đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt. Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng thiêng liêng ban bố phước lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh.” Chánh tư duy. Thời nay chúng sanh phần lớn là huệ cạn tình sâu, nghiệp dầy đức mỏng. Thế mà, khuyến dạy dùng tư tưởng chánh phá tư tưởng tà đó là cao lắm rồi, đâu là việc dễ ư! Ðâu thể độ khắp ba căn cho mãn nguyện. Bởi vì: “ Bể trầm luân khô cạn sáu đàng, Tăng Sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.” (Trao lời cùng ông Táo) Duy có một pháp yếu tu tập giảng tiện hơn hết, bảo đảm hơn hết, đó là chí thiết niệm Nam Mô A Di Ðà Phật để đổi lấy cái tà tư tạp tưởng hầu đất tâm thanh tịnh, huệ nhựt chiếu soi nghiệp chướng tận trừ, vô minh quét sạch, phục hồi Bản Giác Toàn Chơn lên bờ giải thoát là độ khắp ba căn, vớt chúng sanh trong cửu giới. Thế nên, đồng thời là phương pháp diệt trừ tư tưởng xấu xa và cũng là Bát Chánh Ðạo như đã nói trên. Ðức Giáo Chủ phán dạy: “ Chánh tư duy mục ấy thanh cao, Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ, Trên cùng dưới dầu Thầy hay tớ, Cũng tưởng điều trung chánh mới mầu. Việc vui say mèo mả đâu đâu, Hãy dẹp gát nhớ câu lục tự.” (Giác Mê Tâm Kệ) Phật Giáo Hoà Hảo là nền Việt Phật, đi thẳng vào thời đại, trao cho thời đại một Phật chất trinh nguyên, giọt Thánh thuỷ đầu nguồn từ Thích Ca Mâu Ni đến Ðức Huỳnh Giáo Chủ. Nếu xưa kia Ðức Thế Tôn Như Lai chỉ vì khai ngộ cho chúng sanh được vào Tri Kiến Phật, thì ngày nay Huỳnh Phật Sư cũng chỉ vì khai ngộ cho chúng sanh được vào cảnh giới của chư Phật mà mở bày phương tiện pháp mầu đới cơ hoá chúng, không nhất thiết lập lại tất cả những gì mà xưa kia Phật đã nói. Phát huy Thánh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật được không dứt nơi lòng, thì sẽ không có các thứ tà tư tạp tưởng phát sanh đặng. Phật danh làGiới, là Ðịnh là Huệ. Phật danh là Thí, là Giới, là Nhẫn, là Tấn, là Ðịnh, là Huệ. Phật danh là Từ, là Bi, là Hỉ, là Xả. Phật danh là Pháp Thân, là Báo Thân, là Hoá Thân. Thế nên, niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là nhiếp các pháp Ðại Thừa, các hạnh Bồ Tát, các công đức của Như Lai cho nên thanh tưởng được chan hoà, các thứ hư tưởng đâu thể phát sanh ra đặng. Ðã là phương tiện dễ hành mau đến lại khỏi ngại lệch lạc hướng đi, thật vô cùng cao quí cho cái hạnh trì danh hiệu Phật! Niệm Phật danh để thanh lọc tư tưởng hầu được vào Tri Kiến Phật là đặc thắng phương tiện tối yếu tối cần cho những người con Phật muốn vào cảnh giới của chư Phật. -Bát Chánh Ðạo thuộc Ðạo Ðế , tức là pháp tu thiền, cớ sao Ðức Giáo Chủ không dạy các hạnh quán tu, mà khuyên trì danh niệm Phật. Thế có đúng với giáo môn chăng? -Thưa , niệm Phật danh cũng chính là pháp tu Thiền của Ðại Thừa Phật Giáo thì đâu thể cho là không phù hợp Giáo Môn. Hơn thế nữa, Kinh nói: “Một câu Di Ðà ngàn câu giáo nghĩa”. Thế thì, có ngại chi việc niệm Phật không cùng một hướng với giáo môn. Vả lại, Phật Pháp vì chúng sanh, thì nếu khai ngộ được cho người, Thiền Quán hay niệm Phật gì cũng được. -Cùng lúc vừa quán tưởng, vừa niệm Phật có đặng không? -Hai lối tu ấy, hãy nên chọn lấy một pháp để hành trì. Nếu quán tu thấy khó thì dùng phương tiện trì danh, chẳng nên nay hạnh nầy mai pháp khác tức định lực khó thành, dễ sanh thối bước. -Phải niệm Phật như thế nào để mau dứt được các vọng tưởng tà tư? -Khi niệm danh hiệu Phật ta hãy lắng nghe tiếng niệm, hãy tâm khẩu cùng niệm, hãy thiết tha chỗ niệm, hãy bền bỉ trường kỳ. Rồi một mai, mọi thứ hư tưởng sẽ chấm dứt, khi ấy ta sẽ hoàn toàn phù hợp với cảnh giới nhất tâm bất loạn. -Niệm Phật lần chuỗi tốt, hay không lần chuỗi tốt? -Có chuỗi cũng tốt, không chuỗi cũng tốt, cách nào miễn được chánh niệm là được. -Niệm Phật với dụng ý thanh tưởng, không cầu vãng sanh có phải là tu Tịnh Ðộ chăng? -Niệm Phật chỉ vì diệt vọng, thanh tưởng không hướng cầu Cực Lạc thì chưa phải là một hành giả Tịnh Ðộ. Niệm Phật với tín tâm sâu thiết và hướng cầu thoát hóa Tây Phương thì mới là một hành giả Chánh Tông Tịnh Ðộ. -Bài pháp yếu nầy không nói đến việc cầu sanh, mà chỉ khuyên niệm Phật? -Vì bài nầy nói về trọng yếu Thiền hành nên chỉ khuyên niệm Phật mà không đề cập đến việc cầu sanh Cực Lạc. GỞI THÂN LIÊN ÐÀI “Ở TRẦN XỬ TRỌN NGHĨA NHÂN, QUYẾT LÀM TÔI PHẬT GỞI THÂN LIÊN ÐÀI.” (Khuyến Thiện) Hai câu Thánh Kệ nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại nhà thương chợ quán năm 1941. Nghĩa nhân: Là hai trong năm mối đạo làm con người. Ðó là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nghĩa nhân là nền móng căn bản của đạo làm người trong xã hội, có nghĩa, có nhân tức có nhân đạo; không nghĩa không nhân tức không có nhân đạo. Từ ngữ nghĩa nhân có nhiều ý nghĩa: 1.Nghĩa nhân là không tổn hại cho bất cứ một ai. Nếu tổn hại cho bất cứ một loài nào thì đó là kẻ bất nhân, bất nghĩa. Người thân, người sơ, người ân, người oán cũng đều chuộng sống trong hạnh phúc, nên không tâm mưu hại, không tâm bức não. Cả đến các sinh vật chúng chưa tiến được bằng ta nhưng chúng vẫn muốn sống trong hạnh phúc như mình, người có đạo đức nhân nghĩa không làm tổn hại chúng. Dưới ánh mắt người có đạo đức nghĩa nhân không nỡ nhìn thấy các chúng sanh đau khổ, nên không tổn hại, không bức não. 2.Nghĩa nhân là lợi khắp muôn loài. Nghĩa nhân đã không tổn hại, mà còn tác lợi cho muôn loài mới đúng với thực nghĩa của nó. Nếu nghĩa nhân chỉ là không tổn hại thì đó là một đạo lý tiêu cực, mà có được tích cực tức phải tác lợi cho muôn loài. Người có đạo đức nghĩa nhân thích vui theo cái vui hạnh phúc của người, thích nhìn thấy hạnh phúc của người, thích tuỳ hỉ theo cái lợi ích sung mãn của người, còn phần mình thì ít khi nghĩ đến. Lợi mà không tổn thì mới được coi là người có đạo đức nghĩa nhân, bằng lợi mà có tổn thì đâu được coi là kẻ nghĩa nhân trong nền đạo đức luân lý. Lợi khắp muôn loài của đạo đức nghĩa nhân, tức nó được ban ra bình đẳng không phân biệt thân sơ, giai cấp xã hội; không phân biệt màu da thứ tiếng, sang hèn trí ngu; cũng không phân biệt cả đến các loài dị sanh chưa tiến hoá bằng ta. Vì, khắp nhân loại chúng sanh đồng bình đẳng một phật Tánh, một yêu chuộng hạnh phúc như nhau. Huỳnh Phật Sư đang mong đợi những người con tinh thần của Phật được đầy đủ đạo đức nghĩa nhân để đưa lên ngôi vị của tứ Thánh tam thừa mà hưởng lấy quả đức thanh cao. Như đã từng tiết lộ: “Chờ con đầy đủ nghĩa nhân, Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.” (Bóng Hồng) 3.Nghĩa nhân là báo đáp thâm ân. Người mà có đạo đức nghĩa nhân bao giờ cũng ghi nhớ báo đáp cho trọn vẹn. Aân nhân ta không một kiếp mà đã trải qua nhiều đời không một người hay hai ba người mà cộng đồng trong chúng sanh nhân loại. Aân đức từ tinh thần đến vật chất, từ cá thể đến cộng đồng mà ta đã thọ, tất cả gồm có bốn điều: Ðó là ân Tổ tiên ông bà cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào và nhân loại. Công ơn vô bờ của tứ ân trọng đại thật là cao quí, thật là rộng rãi bao la mà người có đạo đức nghĩa nhân phải quyết lo báo đáp, báo đáp cho tròn mới được coi là người có đạo nghĩa, đạo nhân trong cõi thế. 4.Nghĩa nhân là người không vong ân bội nghĩa. Vong ân bội nghĩa là kẻ tiểu nhân, dù họ không bị xã hội nhờm gớm khinh khi cũng sẽ bị lương tâm hành phạt, không bị luật pháp của thế gian hành phạt cũng sẽ bị luật pháp siêu hình của nhân quả báo ứng chẳng kiếp thì chầy. Người đã thấm nhuần đạo đức nghĩa nhân tức không bao giờ có tâm phản phúc, có dạ phụ phàn. Nghĩa nhân là đạo đức làm người đáng được tự hào là tiến hoá hơn vạn vật. Nghĩa nhân là mẫu người trong xã hội đáng được kẻ thế treo gương nương tựa. Tóm lại, nghĩa nhân là nguồn sống, là sinh khí đạo đức của con người trong xã hội. Ðã không tổn hại mà bố đức thi ân, không vong ân bội nghĩa mà hằng báo ân sâu trọn vẹn để đáng được coi là mẫu người đáng tôn đáng quí. Như Aân Sư phán dạy:”Ở trần xử trọn nghĩa nhân,” đã được nhận định và thảo luận nơi bày nầy. “Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên Ðài”: quyết là cương quyết, là nhứt định không còn do dự chần chờ, lần lựa gì hết. Sau khi đã thiết lập nền móng nghĩa nhân của đạo lý con người, bây giờ quyết định tiến hành đến ngôi toà cao óc của Như Lai, đó là:”Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên Ðài”. Tôi Phật: nghĩa là làm quyến thuộc của phật, sống trong nhà Như Lai, ăn cơm Như Lai, uống nước Như Lai, mặc áo Như Lai và đến khi nào hội đủ cơ duyên được Phật thọ ký là ngồi toà Như Lai, và thuyết Như Lai Pháp. Nên nhớ, làm tôi Phật phải là kẻ chí thành, chí chơn như Huỳnh Phật Sư phán dạy mới có hy vọng: “Ðem tâm hồi hướng gốc lành, Làm tôi Phật Tổ chí thành, chí chơn.” (Cho ông tàu Hảo) Gởi thân Liên Ðài: là đem bản chất của mình nhập vào hoa sen, khi hoa nở thì gọi là Liên Nhơn hay Thiện Thượng Nhơn, tức là nhơn dân cuả đức Phật A Di Ðà bên cõi Cực Lạc Tây Phương. Cái đặc thắng, caí hi hữu của những ai gởi thân Liên Ðài là: vô sanh bất thối, không còn bị rơi rụng xuống sáu nẻo phàm, không còn thối xuống hàng nhị thừa mà được nhập lưu vào Ðại Thừa Bồ Tát Tạng trên hàng nhứt sanh. Tuổi thọ bằng với Ðức Phật, không còn sanh, lão, bịnh, chết như cõi Ta Bà. Các thứ như: y, thực, nơi ở và đồ dùng tự hiện vừa với ý người, không bận mưu cầu hay tạo tác chi cả. Trong lúc hoa sen chưa nở, thần thức còn trong hoa sen búp vẫn được thụ hưởng những thù thắng của hoa là: Vi, Diệu,Hương, Khiết. Vi nghĩa là chỉ có chất mà không có hình tướng nên không bị hư hoại. Diệu nghĩa là không hề có khua chạm nhau,chen lấn nhau, không phai màu rữa lá. Hương nghĩa là mùi vị thơm tho khiến cho tăng trưởng các đức tánh: Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Huệ và các đức tướng Như Lai. Khiết là trong sạch không hề bị nhiễm ô trần cấu. Người mà đã gởi được thân vào Liên Ðài là đã hoàn toàn bất thối, nhập lưu Bồ Tát thẳng đến thành Phật giáo hoá chúng sanh đến viên mãn bổn nguyện. Cái chí quyết định gởi thân vào Liên Ðài bên bổn quốc Cực Lạc Tây Phương, cái hạnh đã làm tròn nghĩa nhân nơi cõi thế là ta đã có đủ các dữ kiện căn bản trên bứơc hành trình về bổn quốc Tây Phương. Cũng như khi ta có được chánh phủ cấp phép thông hành xuất dương du học và ngân phí đầy đủ là ta đã có sẵn các điều kiện đi Aâu, Mỹ và nhứt quyết là ta sẽ đến chỗ ta đã định. -Tịnh Ðộ Tông chủ trương Tín, Nguyện, Hạnh là yếu chỉ vãng sanh Cực Lạc, sao nay bảo là làm tròn nghĩa nhân và gởi thân Liên Ðài là điều kiện về Cực Lạc? -Nghĩa nhân trọn vẹn là cái hạnh phước điền, quyết làm tôi Phật gởi thân Liên Ðài, là Tín` và Nguyện chơn thiết. “Ở trần xử trọn nghĩa nhân, Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên Ðài.” Ðức Ân Sư phán dạy trong quyển Khuyến Thiện, đã đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh là yếu chỉ Tịnh Ðộ Tông rồi đấy. -Hạnh tức là trì danh niệm Phật, sao không thấy nói đến, mà chỉ nói nghĩa nhân? -Hạnh có chánh hạnh và trợ hạnh. Chánh hạnh là chấp trì danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà, còn trợ hạnh là hành thiện tu phứơc. Nghĩa nhân trọn vẹn là phước đức rất lớn đã được trồng tỉa nơi điền tâm đã hoàn toàn phù hạp với đất Tịnh Liên Bang, đem hướng cầu Tịnh Ðộ tất sẽ viên thành. Phật tuỳ duyên hoá độ cho kẻ sơ căn chưa có ý chí Ðại Thừa và chưa lánh xa với gia đình trong cõi thế, tức là phải tu theo pháp thế gian để cầu xuất ly tam giới. -Hành giả vừa xử trọn nghĩa nhân,vừa chuyên niệm Nam Mô A Di Ðà Phật hướng cầu Tịnh độ việc ấy thế nào? -Niệm Phật là chánh hạnh vãng sanh, hành xử nghĩa nhân là trợ hạnh, chánh trợ huân tu kết quả sẽ viên thành bổn nguyện. Một hành giả Tịnh Ðộ chuyên niệm Phật cầu sanh, có ai lại thiếu nghĩa nhân bao giờ, và một người nghĩa nhân trọn vẹn thì chắc chắn rằng họ có niệm Phật ít nhiều, chỉ là không chuyên đó thôi. Nghĩa nhân trọn vẹn về An Dưỡng, Niệm Phật nhất tâm toạ Liên Ðài. GIỚI LUẬT “CẦN NHỨT Ở CHỖ GIỮ GIỚI LUẬT HẰNG NGÀY. CÒN SỰ LỄ BÁI LÀ ÐIỀU PHỤ THUỘC, LÀ MÓN TRỢ ÐẠO ÐỂ NHẮC NHỞ CÁC TRÒ NHỚ PHẬN SỰ MÀ LÀM.” (Lời khuyên bổn đạo) Pháp yếu nầy Ðức Thầy viết tại Bạc Liêu, năm Nhâm Ngũ. Xưa kia Ðức Thích Ca Như Lai Thế Tôn sau gần ngót năm mươi năm hoá tha, Ngài tuyên bố với đại chúng rằng chỉ còn ba tháng nữa là Ngài vào Niết Bàn! Ðức A Nan và đại chúng vô cùng buồn thảm! Người ta tự bảo với nhau rằng Ðức Thế Tôn là hướng đạo Sư cho chúng ta, chỉ còn có ba tháng nữa Ngài vào Niết Bàn, ta đã mất đi mặt Trời Trí Tuệ đâu còn vị Thầy hướng đạo cho ta! Khi ấy Ðức Phật nhìn A Nan và đại chúng với tinh thần cảm thông thương mến và bảo rằng: nầy A Nan và đại chúng, các ông đừng lo sau khi Như Lai Niết Nàn không Thầy hướng đạo. Khi Như Lai Diệt Ðộ, Như Lai còn để lại cho các ông cái pháp giới, đó là Thầy hướng đạo cho các ông. Người tu chơn chánh hãy quí trọng pháp giới như trọng Phật. Trong hiện tại, Ðức Huỳnh Phật Sư dù đã vắng mặt, nhưng mà Ngài còn để lại cho ta một pho tàng pháp giới, đó là thầy hướng đạo cho ta, ta hãy biết quí trọng tôn thờ và làm y theo pháp giới mà Ngài đã truyền dạy. Bây giờ ta đi thẳng vào đề tài giảng giải về giới luật. “Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”: Giới là sự ngăn ngừa, răn gìn không để ba nghiệp thân, khẩu, ý dấy khởi và hiện hành, nói năng các điều xấu ác độc hại đen tối. Giới còn có nghĩa là lòng thanh trí sáng không nhiễm các tục trần. Giới lại thêm một định nghĩa nữa là hoà hợp với mọi người, không trống trái nghịch lẫn với nhau. Luật là qui luật, là cấm răn được vị Giáo Chủ đề ra cho các tín đồ gìn giữ. Giới có tánh cách bên trong thuộc Bản Thể, còn Luật có tánh cách bên ngoài của hiện tượng. Giới Luật nói chung là bên trong thanh tịnh, bất nhiễm, bên ngoài không phạm các qui Luật của đạo mà vị Giáo Chủ đã đề ra. Giới luật trong nhà Phật có rất nhiều hình thức: Giới Bồ Tát, giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni, giới Sa Di, giới Cư Sĩ. Bồ Tát giới gồm có tam tụ tịnh giới. Tụ thứ nhứt là nhiếp luật nghi giới, tụ thứ nhì là nhiếp thiện pháp giới, tụ thứ ba là nhiêu ích hữu tình giới. Từ ba tụ tịnh giới nầy mà nảy sanh ra 58 giới luật Ðại Thừa Bồ Tát Tạng trong Kinh Phạm Võng. Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ Kheo Ni giữ 348 giới, Sa Di giữ 10 giới, Cư Sĩ giữ 5 giới hoặc 10 giới( 10 giới là thập ác). Riêng về Phật Giáo Hoà Hảo, Ðức giáo Chủ đề ra tám điều răn cấm để các tín đồ nghiêm giữ hầu tròn trách nhiệm người tín đồ trong Ðạo và dẫn đến sự đắc quả thành công. Không một tín đồ nào không kiên giữ giới luật trong Ðạo mà được coi là tín đồ, dù Ðạo nào cũng thế!. Tông yếu của giới luật là nhiếp thân, khẩu, ý vào Bản Thể thanh tịnh để thể nhập vào Tri Kiến của Như Lai. Ðó là thông điệp căn bản của Luật Tông mà người học Phật cần phải hiểu biết cho tường tận. Giới , Ðịnh, Huệ là tam vô lậu học của học phái Ðại Thừa Phật Giáo. Từ Giới mà được Ðịnh, do Ðịnh mà Huệ nhựt hiện bày tỏ rõ. Tuệ Giác hễ được chiếu soi chan hoà tức hoặc nghiệp được tiêu trừ tận gốc; hoặc nghiệp nếu chẳng còn tức là hoàn nguyên phản bổn. Trong bài nầy không nói về chi tiết của giới luật, mà đặc biệt nhấn mạnh rằng:cần chỗ giữ giới luật hằng ngày của mỗi tín đồ ngoan đạo. Nếu xưa kia Ðức Phật phán dạy A Nan và đại chúng: Người tu chơn chánh phải trọng pháp giới như trọng Phật, thì hôm nay ta phải tôn trọng qui luật và Giáo Pháp của Ðức Aân Sư ta như tôn trọng Ngài hồi chưa vắng bóng. Có tuyệt đối tôn thờ, khuôn phò giới luật ta mới đáng là con tinh thần của Phật, noi theo dấu chơn Phật, thủ hộ pháp giới của Phật Sư và hưng truyền cho đại chúng. Ta hãy ôn lại và nghiệm nghĩ cho thật kỷ càng tám điều cấm răn của Huỳnh Phật Sư truyền dạy, từ điều thứ nhứt đến điều thứ tám; mỗi điều, mỗi câu, mỗi chữ và mỗi dấu coi ta còn có phạm chăng. Cái quý giá của người tu là dám thấy sự tội lỗi xấu xa hèn hạ nơi chính mình và biết sám hối ăn năn. Thấy lỗi người dễ sanh tội lỗi, thấy lỗi mình mới có dịp sám hối ăn năn. Thấy lỗi người ai cho là kẻ trí, thấy lỗi mình mới được gọi là trí tuệ đáng tôn .Trong đạo có hai hạng người đáng được tôn quí. Hạng thứ nhứt: Từ khi qui y vào Ðạo chí đến chung thân, không phạm các điều giới răn thầy dạy. Hạng thứ nhì: Dù đã vi phạm luật qui nhưng mà biết sám hối ăn năn răn chừa các tội lỗi đã vi phạm. Ta đừng xem thường các lỗi lầm nhỏ, những tội lỗi nhỏ dễ phạm trong hằng ngày và từ lỗi lầm nhỏ sẽ dẫn đến tội lỗi lớn lao. Giới trọng, giới khinh điều nào cũng đưa đến tội khổ. Giới tánh, giới tướng luật nào cũng phải nghiêm minh, đừng cho rằng Tướng chỉ là hình thức bên ngoài, tánh mới là quan trọng. Phạm về giới tướng là hình thức thô, thế mà còn khó thấy đặng, nói chi về tánh giới thuộc về hình thức tế nhị bên trong, thiếu trí tuệ dễ nào ai thấy đặng!. Văn học cổ có chép chuyện một phú ông đi trên con đường lầy như vầy: Một vị phú ông rất là trang nhã, mặc bộ đồ trắng tinh, đi dép da, đầu đội nón lá quay tơ, tay nương gậy, tay nắm hai ống quần kéo lên đi trên con đường lầy. Lúc đầu ông ta rất kỹ lưỡng đi chẳm rãi nhẹ nhàng, một phảy bùn nhỏ cũng không cho dính áo quần; nhưng mà đi cho được một đỗi thì vài đóm bùn bún lên làm cho bộ đồ trắng phao bị lem luốc. Khi ấy, ông ta không còn nắm hai ống quần kéo lên nữa và cứ đi, đi một lúc thấy đồ của mình đã bị lấm bùn quá nhiều nên ông ta ngồi đại nơi bùn lầy để nghỉ ngơi một lát. Bấy giờ phú ông đã mệt mỏi, tự nghĩ rằng quần áo dơ là việc bên ngoài, ta cần giữ thân mình cho sạch là được rồi. Thế là phú ông tạm nằm bên lề đường để nghỉ vì đã đuối sức. Ðến khi ông ta bậc ngồi dậy, đứng lên nhìn lại thì chao ôi! Từ đồ đạt bên ngoài, thân thể bên trong, việc nhỏ, việc lớn thảy đều bị lấm ướt đen đúa dơ dáy không còn một chổ nào sạch sẽ tốt đẹp cả! Chuyện ngụ ngôn trên đây cho ta thấy, người tu hành nếu xem thường giới nhỏ hay coi nhẹ giới tướng , thì sẽ dẫn đến phạm các điều giới lớn và giới tánh cũng sẽ không còn. Giới thuộc về thông giáo, dẫu tu Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Tông…gì cũng phải nghiêm trì giới luật. Ðến đây ta có thể đơn cử ra một trong tám điều răn cấm của Ðức Thầy để cân nhắc nghiệm nghĩ coi ta nghiêm trì luật qui trong đạo có được khả quan gì chăng, có còn phạm lỗi lầm không . Ta nên gạn xét điều thứ nhứt: ÐIỀU THỨ NHỨT :” Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường”. Rượu, cờ bạc, á phiện, đàng điếm và tam cang ngũ thường ta có nghiêm giữ trọn vẹn chăng? Còn phạm điều nào không ? ta hãy tự xét! “Ai ai cũng rán xét mình, Nếu còn tính xấu thì rinh ra ngoài.’’ (Sám Giảng quyển ba) Nên nhớ, tất cả các việc đánh bạc có tánh cách ăn thua như: đánh số, cá độ cũng liệt kê về tội cờ bạc. Cờ bạc theo lối cũ như: hốt me, đánh đề, bài cào, đánh phé, tứ sắc ngồi lâu mỏi mệt ít chơi, mà cờ bạc theo kiểu mới là đánh số cá độ mau ăn thua hơn nên dễ phạm đến và cũng mau hết nhà! Rượu ta có giữ được không ? Bia là biến chất của rượu đế, ngày nay thứ nầy rất thông dụng nên dễ phạm vào. Á phiện cạo nồi vét ống như lối cũ ai mà hút chi cho mệt, chỉ cần nuốt vài viên hay phì phà vài điếu thế là được rồi. Thuốc thơm loại nào cũng có pha chế á phiện trong đó cả. Tam cang ngũ thường là cương lĩnh cho nền luân lý đạo đức của con người trong thế gian ta có làm được chưa? Ðã sáu mươi năm kể từ Aân Sư xa cách hay gần 70 năm từ khi Ðức Thầy khai Ðạo, lẽ nào điều răn cấm thứ nhứt ta giữ chưa đủ đầy! Răn cấm thứ nhứt chỉ là sơ hạnh của tiểu quả nhơn thiên nếu chưa xong thì nói chi đến điều thứ bảy và thứ tám là trên tam thừa của hàng xuất thế Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Ðến đây ta hãy trân trọng lắng nghe bao lời phán quyết của Ðức Giáo Chủ về kỷ luật trong Ðạo: “Không người nào được phép xưng mình là người trong Ðạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật lệ trong sự đạo đức, dầu không xin thôi Ðạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Ðạo.” Ðiều kiện vào Ðạo. Tóm lại, Giới là Thầy, giới là Ðạo, nếu ta không giữ Giới tức là ta không có Thầy mà cũng chẳng có đạo đức chi cả. “Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ Ðạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm”: phần trên, cũng trong câu nầy Ðức Giáo Chủ nói về chánh hạnh, chánh tu như đã luận bàn, nơi đây Ngài dạy về trợ hạnh, trợ tu cho các hành giả. Xét ra, tu hành là cốt chỗ nghiêm trì luật qui cho tinh minh, trau dồi thân tâm cho đến toàn chơn, mỹ, thiện và hàm dưỡng các đức tánh Phật cho sung mãn hầu đến chứng chơn giải thoát. Ðó là chánh hạnh, chánh tu của bậc xuất ly tam giới. Còn về việc lễ Phật, cúng Phật, thờ Phật đó là món trợ hạnh, trợ tu vì là món phụ thuộc, nhưng đó là sự nhắc nhở để ta nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của người tu. Lễ Phật là hạnh Phổ Hiền trên giáo pháp Hoa Nghiêm, hạnh Bất Khinh trong Pháp Hoa cao đẳng. Ta phải nương nơi các món trợ Ðạo để cho phần chánh hạnh được lớn mạnh và vững bền. Cái trợ duyên tuy không phải là cốt lõi, nhưng nó tăng thượng duyên cho phần bản chất được sớm hình thành. Nếu ta lấy sự lễ bái cúng dường làm chánh mà không trì giới tinh nghiêm, trao dồi đức hạnh cho thanh cao thì đạo đức cũng do đâu được chứng đắc. Giới đức kiêm ưu là phần Bản Thể của Phật, còn Lễ Phật Tánh không tịch là phần tích của chư Phật. Thể bất ly Tích, Tích bất ly Thể; Thể và Tích tuy hai mà một nhất nguyên bình đẳng. Lại nữa, Thể là Pháp Thân Phật, Tích là Hạnh Phật. Cho nên, trong thì giới đức tinh nghiêm, ngoài thường hành Lễ Phật là chánh trợ huân tu, Tánh Tướng song hành, tâm cảnh hợp nhứt đó là trung đạo. “Tu không cần lạy cần quì…” Và : “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi….” Hai câu nầy để chứng minh cho phần giảng giải trên đây là phải huân tu hai yếu hạnh:Chánh và trợ. Tóm lại, một tín đồ chân chính của Phật Giáo Hoà Hảo là lấy sự nghiêm trì giới luật trang nghiêm làm chánh hạnh, chánh tu, lấy lễ bái Tam Bảo hằng ngày làm trợ tu trợ hạnh, đó là an toàn thanh cao đẹp đẽ nhất. Giới là Phật hiện tiền, Giới là ngọn đuốc Thiên, Giới qui hằng nghiêm giữ, Phật tánh sẽ huờn nguyên.
Pháp Yếu Tu Tập Cuả Cư Sĩ Đàm Liên Tịnh Giả (2) GIỚI LUẬT “CẦN NHỨT Ở CHỖ GIỮ GIỚI LUẬT HẰNG NGÀY. CÒN SỰ LỄ BÁI LÀ ÐIỀU PHỤ THUỘC, LÀ MÓN TRỢ ÐẠO ÐỂ NHẮC NHỞ CÁC TRÒ NHỚ PHẬN SỰ MÀ LÀM.” (Lời khuyên bổn đạo) Pháp yếu nầy Ðức Thầy viết tại Bạc Liêu, năm Nhâm Ngũ. Xưa kia Ðức Thích Ca Như Lai Thế Tôn sau gần ngót năm mươi năm hoá tha, Ngài tuyên bố với đại chúng rằng chỉ còn ba tháng nữa là Ngài vào Niết Bàn! Ðức A Nan và đại chúng vô cùng buồn thảm! Người ta tự bảo với nhau rằng Ðức Thế Tôn là hướng đạo Sư cho chúng ta, chỉ còn có ba tháng nữa Ngài vào Niết Bàn, ta đã mất đi mặt Trời Trí Tuệ đâu còn vị Thầy hướng đạo cho ta! Khi ấy Ðức Phật nhìn A Nan và đại chúng với tinh thần cảm thông thương mến và bảo rằng: nầy A Nan và đại chúng, các ông đừng lo sau khi Như Lai Niết Nàn không Thầy hướng đạo. Khi Như Lai Diệt Ðộ, Như Lai còn để lại cho các ông cái pháp giới, đó là Thầy hướng đạo cho các ông. Người tu chơn chánh hãy quí trọng pháp giới như trọng Phật. Trong hiện tại, Ðức Huỳnh Phật Sư dù đã vắng mặt, nhưng mà Ngài còn để lại cho ta một pho tàng pháp giới, đó là thầy hướng đạo cho ta, ta hãy biết quí trọng tôn thờ và làm y theo pháp giới mà Ngài đã truyền dạy. Bây giờ ta đi thẳng vào đề tài giảng giải về giới luật. “Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”: Giới là sự ngăn ngừa, răn gìn không để ba nghiệp thân, khẩu, ý dấy khởi và hiện hành, nói năng các điều xấu ác độc hại đen tối. Giới còn có nghĩa là lòng thanh trí sáng không nhiễm các tục trần. Giới lại thêm một định nghĩa nữa là hoà hợp với mọi người, không trống trái nghịch lẫn với nhau. Luật là qui luật, là cấm răn được vị Giáo Chủ đề ra cho các tín đồ gìn giữ. Giới có tánh cách bên trong thuộc Bản Thể, còn Luật có tánh cách bên ngoài của hiện tượng. Giới Luật nói chung là bên trong thanh tịnh, bất nhiễm, bên ngoài không phạm các qui Luật của đạo mà vị Giáo Chủ đã đề ra. Giới luật trong nhà Phật có rất nhiều hình thức: Giới Bồ Tát, giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni, giới Sa Di, giới Cư Sĩ. Bồ Tát giới gồm có tam tụ tịnh giới. Tụ thứ nhứt là nhiếp luật nghi giới, tụ thứ nhì là nhiếp thiện pháp giới, tụ thứ ba là nhiêu ích hữu tình giới. Từ ba tụ tịnh giới nầy mà nảy sanh ra 58 giới luật Ðại Thừa Bồ Tát Tạng trong Kinh Phạm Võng. Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ Kheo Ni giữ 348 giới, Sa Di giữ 10 giới, Cư Sĩ giữ 5 giới hoặc 10 giới( 10 giới là thập ác). Riêng về Phật Giáo Hoà Hảo, Ðức giáo Chủ đề ra tám điều răn cấm để các tín đồ nghiêm giữ hầu tròn trách nhiệm người tín đồ trong Ðạo và dẫn đến sự đắc quả thành công. Không một tín đồ nào không kiên giữ giới luật trong Ðạo mà được coi là tín đồ, dù Ðạo nào cũng thế!. Tông yếu của giới luật là nhiếp thân, khẩu, ý vào Bản Thể thanh tịnh để thể nhập vào Tri Kiến của Như Lai. Ðó là thông điệp căn bản của Luật Tông mà người học Phật cần phải hiểu biết cho tường tận. Giới , Ðịnh, Huệ là tam vô lậu học của học phái Ðại Thừa Phật Giáo. Từ Giới mà được Ðịnh, do Ðịnh mà Huệ nhựt hiện bày tỏ rõ. Tuệ Giác hễ được chiếu soi chan hoà tức hoặc nghiệp được tiêu trừ tận gốc; hoặc nghiệp nếu chẳng còn tức là hoàn nguyên phản bổn. Trong bài nầy không nói về chi tiết của giới luật, mà đặc biệt nhấn mạnh rằng:cần chỗ giữ giới luật hằng ngày của mỗi tín đồ ngoan đạo. Nếu xưa kia Ðức Phật phán dạy A Nan và đại chúng: Người tu chơn chánh phải trọng pháp giới như trọng Phật, thì hôm nay ta phải tôn trọng qui luật và Giáo Pháp của Ðức Aân Sư ta như tôn trọng Ngài hồi chưa vắng bóng. Có tuyệt đối tôn thờ, khuôn phò giới luật ta mới đáng là con tinh thần của Phật, noi theo dấu chơn Phật, thủ hộ pháp giới của Phật Sư và hưng truyền cho đại chúng. Ta hãy ôn lại và nghiệm nghĩ cho thật kỷ càng tám điều cấm răn của Huỳnh Phật Sư truyền dạy, từ điều thứ nhứt đến điều thứ tám; mỗi điều, mỗi câu, mỗi chữ và mỗi dấu coi ta còn có phạm chăng. Cái quý giá của người tu là dám thấy sự tội lỗi xấu xa hèn hạ nơi chính mình và biết sám hối ăn năn. Thấy lỗi người dễ sanh tội lỗi, thấy lỗi mình mới có dịp sám hối ăn năn. Thấy lỗi người ai cho là kẻ trí, thấy lỗi mình mới được gọi là trí tuệ đáng tôn .Trong đạo có hai hạng người đáng được tôn quí. Hạng thứ nhứt: Từ khi qui y vào Ðạo chí đến chung thân, không phạm các điều giới răn thầy dạy. Hạng thứ nhì: Dù đã vi phạm luật qui nhưng mà biết sám hối ăn năn răn chừa các tội lỗi đã vi phạm. Ta đừng xem thường các lỗi lầm nhỏ, những tội lỗi nhỏ dễ phạm trong hằng ngày và từ lỗi lầm nhỏ sẽ dẫn đến tội lỗi lớn lao. Giới trọng, giới khinh điều nào cũng đưa đến tội khổ. Giới tánh, giới tướng luật nào cũng phải nghiêm minh, đừng cho rằng Tướng chỉ là hình thức bên ngoài, tánh mới là quan trọng. Phạm về giới tướng là hình thức thô, thế mà còn khó thấy đặng, nói chi về tánh giới thuộc về hình thức tế nhị bên trong, thiếu trí tuệ dễ nào ai thấy đặng!. Văn học cổ có chép chuyện một phú ông đi trên con đường lầy như vầy: Một vị phú ông rất là trang nhã, mặc bộ đồ trắng tinh, đi dép da, đầu đội nón lá quay tơ, tay nương gậy, tay nắm hai ống quần kéo lên đi trên con đường lầy. Lúc đầu ông ta rất kỹ lưỡng đi chẳm rãi nhẹ nhàng, một phảy bùn nhỏ cũng không cho dính áo quần; nhưng mà đi cho được một đỗi thì vài đóm bùn bún lên làm cho bộ đồ trắng phao bị lem luốc. Khi ấy, ông ta không còn nắm hai ống quần kéo lên nữa và cứ đi, đi một lúc thấy đồ của mình đã bị lấm bùn quá nhiều nên ông ta ngồi đại nơi bùn lầy để nghỉ ngơi một lát. Bấy giờ phú ông đã mệt mỏi, tự nghĩ rằng quần áo dơ là việc bên ngoài, ta cần giữ thân mình cho sạch là được rồi. Thế là phú ông tạm nằm bên lề đường để nghỉ vì đã đuối sức. Ðến khi ông ta bậc ngồi dậy, đứng lên nhìn lại thì chao ôi! Từ đồ đạt bên ngoài, thân thể bên trong, việc nhỏ, việc lớn thảy đều bị lấm ướt đen đúa dơ dáy không còn một chổ nào sạch sẽ tốt đẹp cả! Chuyện ngụ ngôn trên đây cho ta thấy, người tu hành nếu xem thường giới nhỏ hay coi nhẹ giới tướng , thì sẽ dẫn đến phạm các điều giới lớn và giới tánh cũng sẽ không còn. Giới thuộc về thông giáo, dẫu tu Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Tông…gì cũng phải nghiêm trì giới luật. Ðến đây ta có thể đơn cử ra một trong tám điều răn cấm của Ðức Thầy để cân nhắc nghiệm nghĩ coi ta nghiêm trì luật qui trong đạo có được khả quan gì chăng, có còn phạm lỗi lầm không . Ta nên gạn xét điều thứ nhứt: ÐIỀU THỨ NHỨT :” Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường”. Rượu, cờ bạc, á phiện, đàng điếm và tam cang ngũ thường ta có nghiêm giữ trọn vẹn chăng? Còn phạm điều nào không ? ta hãy tự xét! “Ai ai cũng rán xét mình, Nếu còn tính xấu thì rinh ra ngoài.’’ (Sám Giảng quyển ba) Nên nhớ, tất cả các việc đánh bạc có tánh cách ăn thua như: đánh số, cá độ cũng liệt kê về tội cờ bạc. Cờ bạc theo lối cũ như: hốt me, đánh đề, bài cào, đánh phé, tứ sắc ngồi lâu mỏi mệt ít chơi, mà cờ bạc theo kiểu mới là đánh số cá độ mau ăn thua hơn nên dễ phạm đến và cũng mau hết nhà! Rượu ta có giữ được không ? Bia là biến chất của rượu đế, ngày nay thứ nầy rất thông dụng nên dễ phạm vào. Á phiện cạo nồi vét ống như lối cũ ai mà hút chi cho mệt, chỉ cần nuốt vài viên hay phì phà vài điếu thế là được rồi. Thuốc thơm loại nào cũng có pha chế á phiện trong đó cả. Tam cang ngũ thường là cương lĩnh cho nền luân lý đạo đức của con người trong thế gian ta có làm được chưa? Ðã sáu mươi năm kể từ Aân Sư xa cách hay gần 70 năm từ khi Ðức Thầy khai Ðạo, lẽ nào điều răn cấm thứ nhứt ta giữ chưa đủ đầy! Răn cấm thứ nhứt chỉ là sơ hạnh của tiểu quả nhơn thiên nếu chưa xong thì nói chi đến điều thứ bảy và thứ tám là trên tam thừa của hàng xuất thế Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Ðến đây ta hãy trân trọng lắng nghe bao lời phán quyết của Ðức Giáo Chủ về kỷ luật trong Ðạo: “Không người nào được phép xưng mình là người trong Ðạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật lệ trong sự đạo đức, dầu không xin thôi Ðạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Ðạo.” Ðiều kiện vào Ðạo. Tóm lại, Giới là Thầy, giới là Ðạo, nếu ta không giữ Giới tức là ta không có Thầy mà cũng chẳng có đạo đức chi cả. “Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ Ðạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm”: phần trên, cũng trong câu nầy Ðức Giáo Chủ nói về chánh hạnh, chánh tu như đã luận bàn, nơi đây Ngài dạy về trợ hạnh, trợ tu cho các hành giả. Xét ra, tu hành là cốt chỗ nghiêm trì luật qui cho tinh minh, trau dồi thân tâm cho đến toàn chơn, mỹ, thiện và hàm dưỡng các đức tánh Phật cho sung mãn hầu đến chứng chơn giải thoát. Ðó là chánh hạnh, chánh tu của bậc xuất ly tam giới. Còn về việc lễ Phật, cúng Phật, thờ Phật đó là món trợ hạnh, trợ tu vì là món phụ thuộc, nhưng đó là sự nhắc nhở để ta nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của người tu. Lễ Phật là hạnh Phổ Hiền trên giáo pháp Hoa Nghiêm, hạnh Bất Khinh trong Pháp Hoa cao đẳng. Ta phải nương nơi các món trợ Ðạo để cho phần chánh hạnh được lớn mạnh và vững bền. Cái trợ duyên tuy không phải là cốt lõi, nhưng nó tăng thượng duyên cho phần bản chất được sớm hình thành. Nếu ta lấy sự lễ bái cúng dường làm chánh mà không trì giới tinh nghiêm, trao dồi đức hạnh cho thanh cao thì đạo đức cũng do đâu được chứng đắc. Giới đức kiêm ưu là phần Bản Thể của Phật, còn Lễ Phật Tánh không tịch là phần tích của chư Phật. Thể bất ly Tích, Tích bất ly Thể; Thể và Tích tuy hai mà một nhất nguyên bình đẳng. Lại nữa, Thể là Pháp Thân Phật, Tích là Hạnh Phật. Cho nên, trong thì giới đức tinh nghiêm, ngoài thường hành Lễ Phật là chánh trợ huân tu, Tánh Tướng song hành, tâm cảnh hợp nhứt đó là trung đạo. “Tu không cần lạy cần quì…” Và : “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi….” Hai câu nầy để chứng minh cho phần giảng giải trên đây là phải huân tu hai yếu hạnh:Chánh và trợ. Tóm lại, một tín đồ chân chính của Phật Giáo Hoà Hảo là lấy sự nghiêm trì giới luật trang nghiêm làm chánh hạnh, chánh tu, lấy lễ bái Tam Bảo hằng ngày làm trợ tu trợ hạnh, đó là an toàn thanh cao đẹp đẽ nhất. Giới là Phật hiện tiền, Giới là ngọn đuốc Thiên, Giới qui hằng nghiêm giữ, Phật tánh sẽ huờn nguyên. TU MAU KẺO TRỂ “PHẢI RÁN TU ÐẶNG MÀ CHẾT, CHỚ ÐỪNG ÐỂ CHẾT ÐẾN MÀ CHẲNG CÓ TU.” (Tư tưởng) Tu : Nghĩa là hành trì Phật Pháp, trau sửa thân tâm, vẹt phá màng vô minh, tiêu trừ nghiệp chướng, xa lìa các thứ sân khuê và ái dục để lần bứơc đến con đường giải thoát cái khổ tử sanh. Phải rán tu, tức là sau khi đã qui y vào Ðạo, ta hãy nổ lực hành trì, gắng gổ hạ thủ công phu, tinh tấn dõng mãnh, không hề thối lui trở bước. Chỉ vì chúng sanh mà tu đó là Ðức Ðại Bi phát hiện, không bị tà kiến làm hại là Ðại Trí chan hoà, tiến mãi không lùi là Ðại dũng mãnh, mong cầu làm Phật là Ðại Bồ Ðề Tâm. Tu mà phải rán tức là trên bứơc tiến thân giải thoát có lắm chuyện chông gai, nhiều cơn thử thách. Dù thế, nhưng mà hành giả phải rán kiên trinh, nhẫn nại để vượt qua, vượt qua cho đến bờ Ðại Giác của Chư Phật! Hãy tự tin mình là Phật sẽ thành, mình sẽ có quốc độ trang nghiêm, mình sẽ hoá độ chúng sanh vô lượng và mình sẽ vào Niết Bàn như Chư Phật. Chết : Là chấm dứt một kiếp người trong hiện tại để chuyển sang kiếp lai sinh. Tất cả chúng sanh trong cõi trần gian nầy ai cũng phải chấp nhận lấy sự chết. Thành, trụ, hoại, không; hay sanh, trụ, dị, diệt là luật tiến hoá của vũ trụ không ai có thể khác hơn đặng. “ Trên dương thế hữu hình tắc hoại”. Một lần nữa, Ðức Giáo Chủ đã xác nhận như thế,” sách Khuyến Thiện” ghi chép tỏ tường. Chết không có nghĩa từ sanh ra đến năm bảy mươi năm hay tám chín mươi năm khi qua đời, mà cái chết nó hết sức là ngắn ngủi chỉ trong một hơi thở thế thôi! Khi ta thở ra mà không hít vào đặng là đã rồi một kiếp! Mỗi một hơi thở của ta là mỗi nhịp độ sanh diệt. Thở ra là sanh, hít vào là diệt và cứ như thế mà thay đổi mãi mãi không dừng. Hơi thở trước dĩ nhiên là trẻ hơn hơi thở sau, hơi thở sau kế đó trẻ hơn hơi thở sau hơn nữa và mãi mãi như vậy cho đến chung thân. Lúc còn trụ thế, một hôm Ðức Thế Tôn Như Lai hỏi các thầy tỳ kheo: -Nầy các Tỳ Kheo, các ông thấy kiếp người được chừng bao lâu? Một trong các tỳ kheo đáp: -Bạch Ðức Thế Tôn, theo chỗ con thấy, một kiếp người khoảng chừng bảy tám mươi năm. Ðức Thế Tôn phán dạy: Ôâng nói thế là chưa đúng. Một Tỳ Kheo khác bạch: -Bạch Ðức Thế Tôn theo như con hiểu thì kiếp người chừng năm sáu mươi năm. Ðức Phật cũng chưa chấp nhận. Một Tỳ Kheo khác thưa: -Bạch Ðức Thế Tôn, kiếp người vài ba mươi năm .Žý kiến nầy cũng chưa được Phật chấp thuận. Vị Tỳ Kheo khác đáp rằng: -Bạch Ðức Thế Tôn con thấy kiếp người thật là ngắn ngủi chỉ đâu vài ba ngày là cùng. Ðức Phật chưa nhất trí. Một vị Tỳ Kheo trẻ nhất trong đoàn Tăng già nầy bạch với Phật: -Bạch Ðức Thế Tôn, lúc chưa xuất gia con tập cỡi ngựa, con bị bạch mã ném con xuống đất khi ấy con vừa thở ra thì con mệt quá sức nên hít vô không đặng, một hồi con mới thở lại bình thường. Theo đây mà con kinh nghiệm để biết, kiếp người chỉ gỏn gọn là một hơi thở! Ðức Phật mĩm cười và dạy chúng: -Ông nói thế là đúng vậy. Tu cũng chết, không tu cũng chết, nhưng mà chết vui, chết khổ thế thôi. Tu chết vui, không tu chết khổ! Người tu từ nơi học Phật mà biết cõi thế vô thường, vạn pháp vô ngã đời chỉ là điện chớp sương sa, tam giới ví như nhà lửa, Ta Bà vốn đại tù ngục thế gian, thân tứ đại ngũ uẩn nào khác chi hoa mười giờ đua nở trong ánh nắng. Thế nên, sống đạm bạc, ở đơn giản, mặc thô sơ để hằng lo tu niệm, trau sửa thân tâm, hàm dưỡng các đức lành cầu giải thoát về nơi Phật quốc hầu lo hoá độ chúng sanh đồng được an vui thoát khổ. Từ chỗ các công hạnh trì trai giữ giới, bố thí tu phước, niệm Phật cầu thoát hóa Tây Phương mà phúc đức thiện căn thù thắng, chướng nghiệp tiêu trừ, vô minh thưa nhẹ, lúc sắp mệnh chung tâm an trí sáng không bị khổ sầu. Lại nhờ tâm lực mạnh, pháp lực sâu, Phật lực nhiệm mầu nhiếp thọ, nên hễ vừa dứt hơi thở uế độ Ta Bà thì tiếp hơi thở của Liên Hoa hoá thân bên Cực Lạc thế giới! Khi vừa đến quốc độ Tây Phương thì được Ðức Từ Phụ A Di Ðà Thế Tôn Như Lai dùng bàn tay mầu nhiệm của Ngài đặt trên đỉnh đầu của Liên Nhơn mà huấn thị rằng : “NGƯƠI ÐỪNG SỢ HÃI, ÐÃ ÐƯỢC SANH VỀ NƯỚC TA”. Rồi từ đây được lên địa vị bất thối thẳng đến thành Phật hoá tha lợi chúng. Ðó gọi là người tu chết vui. Còn người không tu vì không hiểu đạo lý chi cả nên cứ lo danh lợi, tiền tài sắc đẹp, tham sân si lẫy lừng, vô minh tà kiến dày đặc, nghiệp báo phủ vây, lúc gần mệnh chung thân trung ấm thường hiện ra trước mắt, diễn hành các cuộc đau khổ chỉnh ghê! Khiến cho người sắp ly trần nào vừa thương nhà tiếc của, quyến luyến ân tình, thân nhân quyến thuộc, vừa bị ma bịnh bứt ngặt, vừa thấy thân trung ấm hiện hành ôi! Muôn ngàn việc khổ đưa đến cùng lúc, xét coi nỗi khổ là dường nào! Ðến khi từ biệt cõi trần gian, phải bị nghiệp lực cuốn trôi luân hồi trong bể thảm đời đời kiếp kiếp khó nổi đặng yên và cũng chưa biết bao giờ mới chấm dứt, ấy mới hay: “Thiên đường siêu thoát thời thông thả, Ðịa ngục trầm luân ắt đảo điên.” (Tĩnh bạn trần gian) Tu chết vui, không tu chết khổ đã hiển nhiên vậy rồi. Lại còn có hạng người đã tu mà chết khổ mới đáng thương, đáng tiếc chớ!Vì, tu mà còn mê, không trau dồi tâm trí, không gắng gổ công phu hành Ðạo, không nghiên cứu học hiểu lý mầu Phật dạy, đua theo danh lợi hão huyền, sống sang, sống đẹp, ích kỷ hại nhơn, không y lời Phật dạy hành trì đúng với chánh pháp. Ngày qua tháng lại kế đến tuổi già nghiệp báo nhiều bịnh khổ. Rồi đến mệnh chung, chưa biết về đâu, dạo chơi trong lục Ðạo là phần chắc! Ðã là kiếp vô thường ai đâu biết đặng ngày mai! Chi bằng, buông xả muôn duyên thế sự, một lòng hạ thủ công phu, đạm bạc tương dưa, nương nhờ oai lực từ bi hộ trì để được: “Sớm về cõi Phật an thân, Kẻo kiếp phong trần dày gió dạng sương.” (Khuyến Thiện) Ðặc thắng hơn hết, thẳng tắt hơn hết là dùng: TÍN TÂM BẤT THỐI, NGUYỆN LỰC BẤT THỐI, TRÌ DANH BẤT THỐI để trang nghiêm quốc độ Lạc Bang của Ðức Từ Phụ Di Ðà, đến tối hậu cuộc đời quang minh công đức thù thắng ấy hội nhập với quang minh Cực Lạc thành một thể sáng rực bất tận. “Phải rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu.” Quả là tiếng còi giục thúc từ nơi Bi tâm Huỳnh Phật Sư phát ra đánh thức cho chúng sanh biết cõi trần gian là mộng huyễn của kiếp vô thường, hầu gắng gổ lo tu vượt qua sự sống chết, để đến khi tử thần lôi cổ thì sẽ quá muộn màng. Tu tỉnh là chết vui, Không tu là chết khổ. Chẳng nương tựa Di Ðà, Nhờ ai, ai tế độ?! MỘT ÐỜI MỘT ÐẠO “TỪ MANG MỘT TẤM ÁO DÀ, MÙI THIỀN ÐÃ THẮM ƠN NHÀ LỢT PHAI. SỐNG SANH RA PHẬN RÂU MÀY, MỘT ÐỜI MỘT ÐẠO ÐẾN NGÀY CHUNG THÂN.” (Tự Thán) Pháp yếu nầy Huỳnh Phật Sư viết tại Chợ Quán, năm Canh Thìn. Aùo dà: Tức là áo màu dà, một thứ màu mà người tu hạnh xuất gia thường mặc. Màu dà có nhiều tiêu biểu rất đặc biệt: Thứ nhứt: Tiêu biểu cho sự hoà hợp với tất cả nhân loại đại đồng, không phân biệt màu da thứ tiếng, không phân biệt sang hèn và xoá bỏ hết giai cấp xã hội mà chỉ là một tình nhân loại chúng sanh. Vì màu dà do sự hoà hợp của nhiều màu sắc mà thành thứ màu hoại sắc ấy. Thứ nhì : Tiêu biểu cho sự thoát vòng tục luỵ. Người xuất gia là đã từ thân tuyệt dục, quyết chí tu hành mong cầu được đắc thành Ðạo quả hầu lo hoá tha lợi chúng, nên thường mặc đồ dà ấy. Thứ ba: Tiêu biểu cho sự chịu đựng bền bỉ như quả đất, vì màu dà còn được gọi là màu nâu, tức là màu đất. Ðất thường sản sanh các thứ ngũ cốc hoa màu hữu ích cho nhân loại, mà lại vô tâm. Thứ tư: Tiêu biểu cho sắc thái dân tộc Việt Nam. Từ nghìn xưa Tổ Tiên ta hay dùng màu nâu, đến ngày nay miền bắc cũng còn nhiều người mặc đồ nâu để nhớ cội nguồn của dân tộc, dù không phải là người tu xuất gia. Người tu theo hạnh xuất gia đã từng sống trong tinh thần lục hoà, xuất ly thế tục, chịu đựng nhiều gian lao thử thách và không quên cội nguồn dân tộc nên thường phục sức màu dà để cho tâm hồn được gắn bó với tâm linh siêu thượng. “Từ mang một tấm áo dà”: Là nói từ khi Ðức Giáo Chủ mới ra đời khai Ðạo, Ngài thường mặc đồ dà lúc Giảng Ðạo viết Kinh hay phát phù trị bịnh cho bá tánh vạn dân. Lại còn có một ý nghĩa nữa là, từ khi người tu có ý chí xuất ly tam giới, hội nhập với nhân loại đại đồng thì đã mặc đồ dà để tiêu biểu cho tinh thần siêu thượng của người tu xuất thế. Thiền : Ðó là danh từ đặc biệt của Tông môn thường dùng. Thiền một từ ngữ hết sức đặc biệt, vô cùng cao quí, khi bàn đến người ta rất cẩn thận e dè. Tuỳ nơi tri kiến rộng hẹp và sự tu hành cao thấp của mỗi người, mà có nhiều định nghĩa không đồng nhất. Ðây xin đưa ra một số nhận định về ý nghĩa của từ ngữ khá quan trọng nầy : Thứ nhứt : Theo Phật học thông dụng, Thiền nghĩa là tĩnh lự. Tĩnh nghĩa là dừng lại các thứ hư tưởng và tâm hành tạp loạn. Lự là suy gẫm về Ðạo lý , về vũ trụ nhân sinh, về đời sống tâm linh của nhà hành đạo. Từ đó mà các nhà Thiền học thường định nghĩa Thiền là tĩnh lự, là tư duy. Các hành giả Thiền thường ẩn cư nơi các Tòng Lâm núi rừng là để tư duy gẫm Ðạo , tức là chỉ quán. Thứ nhì: Thiền nghĩa là Ðạo lý. Ðạo lý là Bản Thể tuyệt đối của chúng sanh. Bản Thể ấy nó cũng thật có, mà cũng thật không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng có cũng không. Rời tất cả khái niệm phân biệt và ngôn ngữ luận bàn, nhưng mà nó có Tri Kiến đặc biệt của nó. Trong Thiền học thường dùng các từ ngữ:” Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, vô vi bí pháp” là chỉ cho định nghĩa trên đây. Một vị Thầy truyền Thiền cho đệ tử, chỉ dùng tâm mình truyền trực tiếp tâm đệ tử, không dùng bất cứ một thứ phương tiện nào khác. Nên gọi:”VĨ TÂM TRUYỀN TÂM”. Thứ ba: Thiền nghĩa là bất loạn, bất nhiễm. Bên trong đối với tâm hành thường không loạn, bên ngoài đối với các cảnh duyên thường không nhiễm, đó gọi là Ðạo, là THIỀN, là TÂM, là TÁNH, là THÁNH, là PHẬT. “Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực Hiền.” (Tĩnh bạn trần gian) Chữ Thánh trong câu nầy là chỉ cho tứ Thánh quả: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật được Huỳnh Phật Sư ân cần truyền dạy cho các tín đồ của Ngài. Thứ tư: Thiền nghĩa là rời nhị kiến. Thấy có, thấy không là ý thức nhị nguyên. Có và không đều là giả lập, kẹt có hay kẹt không cũng là cái xích xiềng của ý thức hệ tư tưởng rất khó giải trừ. Tri kiến của đấng Toàn Giác, các Ngài nhìn thấy cái có, cái không đều là một thể tánh nhất nguyên bình đẳng. “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, Bát Nhã Tâm Kinh đã hiển thị tỏ tường và Huỳnh Phật Sư cũng đã minh định: “Chuông linh ngân tiếng đại đồng, Ta Bà thế giới sắc không một màu.” Nhị kiến có giải trừ thì ngụm nước Thiền mới có được ít nhiều thưởng thức và mới hi vọng bước vào cái KHÔNG MÔN huyền diệu đặc biệt ấy. “Mùi Thiền đã thắm” là nói hương vị của Ðạo thiền đã súc tích vào ÐIỀN TÂM của nhà học Phật . “Ơn nhà lợt phai”,là nói một khi Thiền Ðạo được xông ướp dầy đặc nơi tâm, thì tất là cái công ơn sanh thành và hiếu Ðạo của thế gian nhẹ hơn là công ơn và hiếu đạo xuất thế trên hàng cao đẳng. Bởi vì: “Ðạo đức gắng công nên cách mặt, Văn chương rèn chí chẳng phai lòng. Ơn nhà tạm gát sau nầy trả, Xin bớt đau lòng bớt ngóng trông.” (Ðức Thầy gởi ông Mười) Hiếu đạo xuất thế nó trùm cả cái hiếu đạo của thế gian, cũng như sinh viên đại học thì trùm cả trung và tiểu học. “Từ mang một tấm áo dà, Mùi thiền đã thắm ơn nhà lợt phai” Là nói từ khi phát khởi cái chí xuất ly tam giới, khoát áo nâu sồng, hoà đồng với nhân loại và súc tích hương vị hoa Thiền, sống trong cộng đồng Tam Bảo lo việc hoá tha thì tất nhiên việc hiếu đạo ở thế gian sẽ phai nhạt và được đặt nặng về hiếu đạo xuất thế rốt ráo trên việc siêu thoát. “Sống sanh ra phận râu mày”: Râu mày là dịch nghĩa của chữ tu mi, tức là người nam tử. Như đã viết: “Sống làm sao vẹn chữ tu mi, Sống vùng vẫy râu mày nam tử.” (Nang thơ cẩm tú) Hàng tu mi nam tử thường có những ý chí lớn, hay làm các việc lớn và có nghị lực rất mạnh để thành đạt các việc lớn. “Một đời một đạo đến ngày chung thân”: Là nói bậc thức giả trước khi qui y vào Ðạo, người ta đã dùng lý trí suy nghĩ về vị Giáo Chủ và giáo lý mà mình sẽ làm theo một cách tường tận và sau khi đã trở thành là một tín đồ, thì phải một dạ thờ Thầy trung kiên với Ðạo, không đặng phản Ðạo vong Sư, bội nghĩa Thầy trò, mà phải một đời một Ðạo. Những kẻ vong Sư phản Ðạo dẫu rằng họ không tự tủi hổ với lương tâm, cũng sẽ bị mọi người khinh khi xa lánh và họ bị luật Ðạo khai trừ thành người ngoại Ðạo. Nếu người xưa từng bảo: Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết không lấy hai chồng, thì người tín đồ trung kiên ngoan đạo đâu thể bỏ Ðạo phản Thầy vong ân bội nghĩa. Xét ra, từ khi Ðức Aân Sư vắng bóng có biết bao lần thử thách cam go, truân chuyên chua chát; tà thuyết hưng khởi, nhiều mối Ðạo ra đời lung lạc nhiều người nhẹ dạ chạy theo. Nhưng ma,ø những tín đồ trung liệt vẫn một dạ thờ Thầy, và vẫn kính ngưỡng tôn thờ ngôi Tam Bảo trần dà thiêng liêng muôn thuở, không thể đổi thay. Dù cho ai đó có lắm của nhiều tiền hay dùng sức mạnh để mua chuộc, ép buộc phải bỏ Thầy, thôi Ðạo chạy theo việc khác, thì người tín đồ ngoan Ðạo cũng vẫn một mực tu hành và trung liệt với Huỳnh Phật Sư Tôn Kính. Ðó mới đáng là người đệ tử trung liệt thờ Thầy nối theo dấu chơn Giáo Chủ. Chạy theo manh nầy mối nọ để đến cuối cùng: Thờ nhiều Thầy chẳng biết thờ ai, theo nhiều Ðạo theo ai cũng không rõ. Thật mù mờ, thật ngớ ngẩn, tiếc thay cho một kiếp tu hành để rồi bị tà kiến gạt gẫm, thật đáng thương! “Sống sanh ra phận râu mày, Một đời một Ðạo đến ngày chung thân.” Mỹ ý rằng: Hàng tu mi nam tử phải xuất xử cho tròn cái đạo Thầy trò, chớ có vong Sư phản Ðạo để phải mất một kiếp tu hành .Hồi Ðức Thầy ở tại Kinh Xáng Xà No nhà ông Hương Bộ Thạnh, Ngài có trả lời một câu hỏi do một tín đồ nêu ra. Câu hỏi như vầy: -Thưa Thầy, nghe Thầy nói sau nầy Thầy lập hội, khi ấy tín đồ của Thầy còn nhiều ít vậy Thầy? -Còn có hai người ! Ðức Thầy đáp. -Thưa Thầy, hai người đó là ai vậy Thầy? -Người trung và người hiếu. Ðứng về mặt xã hội thì người trung là trung với Tổ Quốc, người hiếu là hiếu với mẹ cha. Ðứng về mặt Tôn Giáo thì người trung là trung với Thầy, người hiếu là hiếu với Ðạo. Ðời và Ðạo hợp thành một nghĩa là trung hiếu với Tổ Quốc, với cha mẹ; trung hiếu với Tổ Thầy; với Ðạo pháp. Giai thoại đạo đức nầy đồng nghĩa với câu:” Mở hội Thánh chọn người trung hiếu”(Diệu pháp quang minh). Cái đạo hạnh trung liệt thờ Thầy nếu giữ vẹn tất muôn hạnh đắc thành, bằng như lỗi đạo thờ Thầy thì hạnh nào cũng sẽ hư hoại cả. Hãy nên lưu ý! Một đời tròn trung liệt, Một Ðạo giữ trinh nguyên. Tớ Thầy sẽ hiệp mặt, Sáng soi ngọn đuốc Thiền. LỢI THA NHI HOẰNG PHÁP “ÐẠO DIỆU MẦU GẶP LÚC TRUÂN CHUYÊN, PHẬN MÔN ÐỆ PHẢI LO VUN QUÉN. TẰM SỨC NHỎ CÒN LÀM NÊN KÉN, NGƯỜI KHÔNG LO CÓ THẸN HAY CHĂNG?” (Khuyến Thiện) Pháp yếu nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Chợ Quán, năm Tân Tỵ (1941) Ðạo diệu mầu: Chữ Ðạo có đến nhiều nghĩa, được tạm trình bày như sau: Thứ nhứt : Ðạo là con đường trong sạch, mát mẻ dẫn đến an lạc hạnh phúc, không những cho cá thể một người, một xã hội quốc gia dân tộc, mà cả đến chúng sanh nhân loại đại đồng. Thứ nhì : Ðạo là bổn phận, là trách nhiệm của người cha, người mẹ, người con, người chồng, người vợ, người Thầy, người đệ tử, người vua, người tôi, người trong gia đình, người ngoài xã hội nhất nhất phải cho đúng với đạo nghĩa con người nhằm đưa đến một xã hội an lạc thanh bình. Thứ ba: Ðạo là Tục Ðế, là Chơn Ðế, là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế, tức là Phật Tánh thường hằng bất sanh bất diệt của ta. Diệu mầu: Cái gì quí nhứt, hay nhứt, cao đẹp nhứt thì gọi là diệu. Cái gì thường còn không hư hoại thì gọi là mầu. Diệu mầu là vật quí báo cao đẹp nhứt thế gian và không bị hư hoại, tức là bản chất của Ðạo Ðạo diệu mầu tất là Ðạo Phật do Ðức Thích Ca Như Lai khai sáng tại Aán Ðộ, đã trải dài hơn 25 thế kỷ. Huỳnh Phật Sư thừa sắc chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, hưng truyền Ðạo diệu mầu ấy khoảng giữa thế kỷ 20 tại Việt Nam, đã được 68 năm. Chỉ có Ðạo Phật mới là con đường thoát khổ cho chúng sanh đặng rốt ráo đến bình đẳng với các Ðức Phật nên gọi là Ðạo diệu mầu. Chỉ có Ðạo Phật mới được thường còn bất diệt, không gian vô cùng và thời gian vô tận nên gọi là Ðạo diệu mầu. Chỉ có Ðạo Phật mới độ tận được chúng sanh trong bốn loài: Noãn, thai, thấp, hoá nên gọi là Ðạo diệu mầu. Chỉ có suối nước Từ Bi của Ðạo Phật mới tưới tắt được ngọn lửa của tham, sân, si nên gọi là Ðạo diệu mầu. Chỉ có Ðạo Phật mới đưa xã hội loài người đến quốc độ Hoàng Kim Thánh Ðức hưởng sự thái bình nên gọi là Ðạo diệu mầu. Ðạo Phật là Bản Thể của chúng sanh, nên Ðạo Phật là Ðạo chung cho khắp nhân loại chúng sanh, nên sự diệu mầu của Ðạo Phật không sao nói hết. Truân chuyên: Tức là suy thoái sa sút, mờ ám. Truân chuyên cũng gọi là pháp nạn hay Ðạo nạn. Nghĩa là Ðạo pháp không được truyền bá khuếch khai cho mọi người đồng hưởng, kẻ tu hành không được tự do hành Ðạo và hành hoá nhơn sanh. Sự truân chuyên của Ðạo pháp có khi từ bên ngoài, có khi từ bên trong mà gây ra. 1.Từ bên ngoài là do nơi các học thuyết phi tín ngưỡng Phật Giáo, và các tư tưởng duy vật chủ nghĩa phi Thần, Thánh, Trời, Phật, phi tội phước báo ứng lấn ép khống chế cho Ðạo Phật phải bị truân chuyên chìm đắm khó mà vươn lên đặng. 2.Từ bên trong là bởi người Phật tử không hết lòng với Ðạo pháp, không gắng gổ tu học, không có tinh thần vô uý hộ trì Phật pháp, cứ đeo theo danh lợi hão huyền cho được vinh thân phì da, mượn danh nghĩa của Ðạo để tạo cho mình những địa vị cao sang. Tệ hại hơn hết là không có tinh thần giới luật, không hiểu gì về Phật pháp, không tu mà ham làm lớn trong Ðạo, không có tinh thần trách nhiệm. Ðạo pháp tồn vong chẳng màng đến miễn được danh cao, lợi lớn, quyền to là đặng rồi! Không cần đến chân tu hay không miễn đông người theo là được, dù là người thế nào cũng phải. Không có tinh thần đoàn kết, vì phân hoá dễ kiếm ăn, tìm mọi cách để leo thang chia rẽ. Kêu gọi người làm phước trong khi mình thủ lợi đầy nhà, khuyến bảo người tu trong khi mình chẳng hề biết sửa tánh, la hét người phạm giới trong lúc mình rượu thịt ê chề thì bảo làm sao Ðạo pháp không truân chuyên mờ ám! Vòi sư tử ăn sư tử, vòi người ăn thịt người mới hết gân tận tuỷ! Từ khi Ðức Aân Sư khai Ðạo thì Phật Giáo tại Việt Nam đã sẵn đà truân chuyên từ nhiều chục năm, đến khi Ngài vắng bóng Ðạo pháp gặp phải truân chuyên hơn chẳng biết bao nhiêu lần, và ngay trong hiện tại vẫn bị truân chuyên vô cùng tận, chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo nước nhà! Cũng chưa biết đặng bao giờ Phật Giáo mới được hưng thịnh như các thời đại Lý, Trần để chúng sanh thừa hưởng được nguồn ân của Phật pháp. Môn đệ : Là các đệ tử trong tông môn, tức là Tăng đồ, tín đồ Phật Giáo. Vun quén: Nghĩa là làm cho Phật pháp được hưng thịnh khắp nơi nơi trong bá tánh. “Ðạo diệu mầu gặp lúc truân chuyên, Phận môn đệ phải lo vun quén.” Là Huỳnh Phật Sư vừa đặt cho mình một trách nhiệm phục hưng chánh pháp, vừa khuyến cáo trong khắp đệ tử Phật hãy gắng gỗ chấn hưng Phật pháp giác ngộ trần gian, đừng tư riêng lợi dưỡng, hãy đoàn kết cùng nhau lo hoằng dương chánh pháp. Phật pháp có được chấn hưng thì chúng sanh mới thoát khổ, bởi Phật pháp là sinh khí trong sạch của nhân loại chúng sanh, là đất hồi sinh cho vạn vật tựa nương trên lẽ sống tinh thần. Thêm một lần nữa Ngài cũng đã thống thiết kêu gọi: “Cả tiếng kêu cùng khắp chư Tăng, Với tín nữ thiện nam Phật Giáo. Nên cố gắng trau thân gìn Ðạo, Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành. Làm cho đời hiểu rõ thinh danh, Công Ðức Phật Từ Bi vô lượng.” (Khuyến Thiện) Muốn cho cây Bồ Ðề Phật Giáo được cành lá sum suê đơm bông kết trái để khắp địa cầu được thừa hưởng lợi chung thì mọi người Phật tử cần phải: 1./- Ðắp đất Thiền định vào nơi gốc cho thật kiên cố để gió lục trần đừng làm lay chuyển. 2./- Tưới nước Ðại Bi cho thấm sâu vào gốc để khí hậu phiền não đừng làm bị héo xàu. 3./- Cho ánh nắng Bát Nhã chiếu vào chớ để bóng mát vô minh che khuất khiến không đâm chồi nẩy lá. 4./- Hãy rào giới luật cho khít khao chớ để trâu bò tam độc dậm phá. 5./- Hãy rải phân công đức cho thường để được mau phát triển. 6./- Hãy sát trùng phiền não chớ để sâu ít kỷ hiện vào tàn phá. 7./- Hãy gìn giữ chớ để kẻ gian phi thập sử chặt phá hư hoại. 8./- Hãy có tinh thần vạn năng của vô uý, của Bi, Trí, Hùng bảo vệ cây. 9./- Hãy dám hi sinh can đảm đi truyền bá bông trái của cây Bồ Ðề mà không tiếc mạng. 10./- Hãy coi mình là đứa con tinh thần của Ðức Phật, có bổn phận gìn giữ vĩ nghiệp Thầy, Tổ và khi chết vào nhà Như Lai đồng với chư Phật . Mười việc trên đây nếu mỗi người Phật tử chúng ta thực hành đúng mức thì tức là ta đã vun quén, đã chấn hưng Phật Giáo một cách rất là hữu hiệu, và như thế tức là ta báo đáp phần nào công ơn đối với Phật pháp. “Tằm sức nhỏ còn làm nên kén, Người không lo có thẹn hay chăng?” Với ý nghĩa tằm là loài rất nhỏ, thế mà còn biết lên kén làm ổ kéo tơ đền ơn cho chủ, khi đã thọ lấy mớ dâu xanh. Huống chi là con người vừa khôn ngoan vừa lớn mạnh, đã thọ lấy thâm ơn Tam Bảo khai tâm mở trí biết tỉnh thức tu hành thoát đường sanh tử trần ai, mà lại không biết lo hưng truyền chánh pháp đền đáp công ơn Phật, trả nghĩa Thầy thì há lại không biết hổ thẹn với loài tằm tơ nhỏ bé đó hay sao? Ðể kết thúc pháp yếu nầy, ta hãy nghe lời phán dạy của Ðức Ân Sư về việc đền đáp công ơn Tam Bảo: “Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt dùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Ðạo Ðức đặng cái tinh thần Từ bi Bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới khỏi phụ công trình vĩ đại của Ðức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.” Ân Tam Bảo Ơn Phật rất rộng sâu, Ngài ban trải đạo mầu, Ðưa người qua bờ giác, Hãy đáp đền ơn sâu. ÐỨC TIN GIÁO CHỦ “CHÁNH TINH TẤN DẦU THÀNH HAY BẠI, CỨ MỘT ÐƯỜNG TÍN NGƯỠNG CỦA MÌNH. DẦU CHO AI PHÁ RỐI ÐỨC TIN, TA CŨNG CỨ MỘT ÐÀNG ÐI TỚI.” (Giác Mê Tâm Kệ) Chánh tinh tấn:Nghĩa là tín ngưỡng chơn chánh, tín ngưỡng đúng với sự thật và luôn luôn lướt tới không dừng. Sức mạnh của Chánh Tinh Tấn bởi bắt nguồn từ Bi, Trí, Hùng nên đến vạn năng không có một sức mạnh nào có thể làm trở ngại lui bước. Tinh Tấn có nhiều hình thức, đây xin đưa ra để mà trao đổi hầu có trợ lực cùng nhau trên lộ trình về bến Giác: 1.-Tinh Tấn nghiên cứu sưu tầm học hỏi Kệ Kinh để khai thông tri kiến, để thâm nhập lý mầu trong Phật pháp, hầu có hoằng truyền Phật pháp phổ tế nhơn sanh. Nội điển nếu chẳng am tường thì làm gì giác mê cho đại chúng và chính mình cũng không khỏi bị lưới nghi. Cho nên, Tinh Tấn học Sám Giảng Kệ Kinh, sưu tầm nghĩa lý là đứng vào hàng đầu của người học Phật . “Muốn toan ra độ thế, Phương tiện phải sẵn sàng, Cho người đừng nghi hoặc, Trí họ mới minh quang.” (Pháp Bửu Ðàn Kinh) Tổ Huệ Năng đã xác quyết ý nghĩa cần yếu của việc liễu thông giáo nghĩa Phật Ðà như đã dẫn trên, ta cũng đủ thấy rằng việc Tinh Tấn học giáo điều là cần đến thế nào. 2.-Tinh Tấn hành trì Ðạo pháp. Ðạo pháp nếu có Tinh Tấn hành trì thì mới liễu ngộ chứng chơn, bằng như khi tấn khi thối do đâu mà được kết quả. Ðức Tinh Tấn dạy ta hãy luôn luôn bước tới, đừng nhìn về quá khứ, hãy sống cho hiện tại, hãy nổ lực nơi hiện tại tức là ta đã ban tình thương cho tương lai, ta sẽ không đắc tội với tương lai. Hiểu nếu không hành thì cái hiểu biết kia thành vô trách nhiệm. Cho nên Tinh Tấn học và Tinh Tấn hành cần phải được cân với nhau để được coi là kẻ tri hành hợp nhất. 3.-Tinh Tấn hoằng pháp lợi tha. Phật pháp vốn là sinh khí tinh khiết cho nhân loại. Phật pháp là ánh sáng tuyệt diệu cho nhân loại nương tựa để hướng về nơi cao đỉnh giác ngộ, hội nhập cùng với chư Phật mười phương. Cho nên Tinh Tấn xương minh Phật pháp là điều mà người Phật tử không thể được đặt nhẹ xem thường. Tinh Tấn học Ðạo, hành Ðạo và truyền bá Ðạo mầu là công việc chính yếu của người con Phật, biết nối theo dấu chơn Phật để về nơi quốc độ của Phật . Tinh Tấn là sức mạnh vạn năng vượt qua mọi thử thách khó khăn trên bước hành trì Ðạo pháp, không một nhà hành Ðạo nào thiếu đức Tinh Tấn mà được thành công viên mãn. Từ xưa Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật bởi đức Tinh Tấn mà sớm vào ngôi Chánh Giác thành Phật Thế Tôn, các đệ tử Phật cũng thế. Thành bại: Thành tức là thành công, bại là thất bại. Thành công và thất bại là việc thông thường ở thế gian, dầu đời hay Ðạo cũng thế. Người có chí lớn, hạnh lớn và nguyện lớn thì thành công không tự mãn, thất bại không nãn chí thối lui. Càng thất bại càng có những bài học kinh nghiệm giá trị và càng nung chí thêm hơn. Người ta thường nói thất bại là mẹ đẻ của sự thành công. Thành công trong nhiều thất bại thì sự thành công ấy mới có giá trị cao đẳng. Việc tu hành của ta có nhiều thất bại thì công đức mới thù thắng và mới có nhiều bài học kinh nghiệm cho tương lai. Ðức Phật xưa kia trên bước hành Ðạo và hoá Ðạo Ngài cũng có những thành công và nhiều thất bại. Có lần Ðức Phật bài tỏ với Ngài A Nan rằng: A Nan, lúc đang ngồi trên khổ hạnh lâm, có lần Như Lai định về Hoàng Cung để nối nghiệp Vương và sống với công chúa Gia Du, nhưng mà Như Lai thấy đó là sự thất bại nên cắt đứt tư nghĩ kia và Tinh Tấn trên bước đường tìm cầu chân lý giải thoát. Huỳnh Phật Sư trên bước hành hoá Ðạo pháp Ngài cũng lắm truân chuyên bao lần thất bại và rồi cũng đạt được sự thành công như ngày nay ai ai cũng đã thấy. Sự thất bại của người tu hành có khi từ bên ngoài phá hoại vì không cùng một chánh kiến với họ, có khi từ bên trong bởi ý thức mà có. Lòng thanh trí sáng Tinh Tấn tu hành là thành, vọng trần đen tối giãi đãi thối lui là bại. Bi tâm chan chứa niệm niệm lợi tha là thành, tham lam ích kỷ niệm niệm đen tối là bại. Lòng trần phủi sạch chuyên niệm Phật danh là thành, nhiễm trược đoạ sa niệm trần tán loạn là bại. Khi mới tu thì thành ít bại nhiều, tu được dài lâu thì thành nhiều bại ít, đến khi đắc Ðạo thì chỉ có thành mà không có bại; nhưng mà có bại trên hình thức đó chỉ là sự phá hoại từ bên ngoài việc không đáng kể. Việc thành bại của Huỳnh Phật Sư Ngài đã đi qua và đôi khi cũng đã thố lộ: “Muốn lập Ðạo có câu thành bại, Sự truân chuyên của khách thiền môn. Khắp sáu châu nức tiếng người đồn, Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.” (Sa Ðéc) Phật Thánh mà thất bại là vì hi sinh phần mình hiến thành công cho kẻ khác tham vọng quyền lực và làm thế là để gánh lấy khổ nạn cho tín đồ, cho bá gia bá tánh, chớ thật ra thành hay bại các Ngài đã thấy tận từ chi tiết các pháp trong thế gian. Trên việc hành hoá Ðạo pháp, nếu thất bại mà không thối chí nãn lòng cứ một mực tiến hành thì đại thành công sẽ đến. Như Ðức Giáo Chủ đã nói: “Bại rồi thành lại nên tuồng, Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma Ha.” (Thu đã cuối) Trở lại bốn câu pháp yếu: “Chánh Tinh Tấn dầu thành hay bại, Cứ một đường tín ngưỡng của mình. Dầu cho ai phá rối đức tin, Ta cũng cứ một đường đi tới.” Người tu hành đã có chánh kiến, đức tin đã được từ Tuệ giác chiếu soi, tín ngưỡng trên tinh thần trí tuệ với Bi Tâm thì đó là sức mạnh vô địch tiến mãi, tiến nhanh không để cho lùi bước. Thành công hay thất bại là việc thông thường ở thế gian, không làm cho hành giả thối chí, càng thất bại càng nung chí người tu và càng có ý nghĩa hơn, như vàng vào lửa mới thấy được lượng vàng cao thấp. Càng bị kẻ phi tín ngưỡng phá hoại, càng được un đúc đức tin về Giáo Chủ, về Phật pháp hơn và làm cho ta được thêm nhiều bài học rất có giá trị. Thích Ca Mâu Ni Phật thường bị các nhóm ngoại Ðạo và Ðề Ðạt Sa Môn tìm mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại, nhờ vậy mà Ngài được dâng cao đến tột đỉnh. Chúa Ky Tô nhờ chấp nhận treo thân trên Thánh Giá mà được cả đến hơn một tỷ nhân loại kính ngưỡng tôn thờ như ta thấy, nghe ngày nay. Huỳnh Giáo Chủ nhờ gánh chịu bao lần nghiệt ngã, lắm lúc truân chuyên mà Ðạo Phật Giáo Hoà Hảo có mặt trên khắp trái đất như ngày nay, trong tương lai mối Ðạo bành trướng đến đâu chưa ai có thể lường đặng. Tu mà không chấp nhận sự thử thách truân chuyên thành công cùng với thất bại thì chưa đủ điều kiện trắc nghiệm để biết được giá trị thấp cao của hành giả. Thành công mà tự mãn là thành công trong thất bại, thất bại mà không lùi bước là thất bại trong thành công. Thành công và thất bại là cặp mâu thuẩn tương đối để đưa ta đến đỉnh cao giác ngộ của cực quả Niết Bàn. Cái sức mạnh vạn năng của đức tin Giáo Chủ nó vốn vô hình nên nó vượt trên các thứ lực lượng hữu tướng của thế gian. Kẻ phi tín ngưỡng có thể phá hoại các hình thức tổ chức của tôn giáo thì được nhưng không thể nào tàn phá đặng đức tin nơi lòng người tín đồ và càng phá hoại các hình thức bên ngoài chừng nào thì đức tin bên trong lại càng được un đúc qui mô hơn và bền bỉ hơn. Ðể kết thúc bài nầy ta hãy nghe lời Ðức Ân Sư ta đã phán quyết: “Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là người còn, thân mất người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước có vía, có hồn. Ðời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh khóe gian hùng, bao nhiêu ngón điêu ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược ngang đều được đem ra dùng cả thảy. Vì vậy mục Chánh Tinh Tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật, Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thể lôi kéo được.”… Luận về Bát Chánh. TINH THẦN NHẪN HOÀ “AI CHỬI MẮNG THÌ TA GIẢ ÐIẾC, ÐỢI CHO NGƯỜI HẾT GIẬN TA KHUYÊN. CHỮ NHẪN HOÀ TA ÐỂ ÐẦU TIÊN, THÌ ÐÂU CÓ MANG CÂU THÙ OÁN.” (Giác Mê Tâm Kệ) Pháp yếu nầy Ðức Thầy viết ngay từ năm mới khai Ðạo, tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hoà Hảo. Ðất Ta Bà ta đang ở đây vốn là cõi cam nhẫn, đại nhẫn nếu như ta không nhẫn được thì sẽ không yên ổn giờ phút nào, vì là toàn cảnh thường trái nghịch với lòng người làm cho tinh thần đảo điên xáo trộn. Ðối với người tu hành càng phải nhẫn và hoà trong tình thương nhân loại để hàm dưỡng Thánh thai trên lộ đồ cầu Phật quả. Bài pháp yếu nầy đặc biệt Huỳnh Phật Sư dạy ta về nhẫn hoà trong lẽ sống đạo đức. Giả điếc: Tức là đã nghe rất tỏ tường nhưng mà giả vờ như không nghe biết gì hết, bình thản an nhiên vui tươi mát mẻ. Ðiều nầy kể ra cũng rất khó, việc trái ý nghịch lòng nếu không nghe biết thì chẳng nói chi, nhưng đã nghe biết tỏ tường mà làm như vô sự thì đâu phải là việc dễ làm! Nghe mà như không nghe, thấy mà như không thấy đó là biểu tượng cho tinh thần bình tĩnh sáng chói của hành giả đã cưu mang, đã hấp thụ sự tỉnh thức trong nhà đạo từ lâu. “Ai chửi mắng thì ta giả điếc”, đó là đặc thù về Ðức Xả của chư Phật mà người học Phật phải đem vào lẽ sống đạo đức của mình để thường đặng an tâm tịnh hạnh hầu đạt đến mục đích giải phóng cho thân tâm ra khỏi chốn Ta Bà đau khổ. Ðức Phật xưa kia nhận lời mời của một người Bà La Môn về tư thất của ông ta để thọ trai. Thay vì người ta tử tế để bát cho Ngài, họ lại mạ lỵ mạt sát Phật một cách rất thậm tệ, Ngài vẫn lẳng lặng như không nghe gì hết. Gả Bà La Môn tức giận quát to: Nầy Cồ Ðàm! Vậy chớ nãy giờ ta nói ông có nghe không? Hay là ông giả điếc!? Ðức Phật vẫn bình tĩnh thản nhiên hỏi Thầy Bà La Môn : -Nầy Bà La Môn, nếu như ông đem tặng cho ai vật chi, khi người ta không nhận lãnh thì ông phải làm thế nào? Bà La Môn vừa giận hậm hực vừa đáp: -Thì tôi phải đem món quà ấy về chớ sao! Ðức Phật tiếp lời: -Tất cả những thứ mà ông đem tặng cho Như Lai nẫy giờ Như Lai đã không thừa nhận, ông hãy tự nhận lấy. Thầy Bà La Môn tự biết xấu hổ, Ðức Phật lẳng lặng ra về Tịnh Xá. Ðâu phải mới tu mới giả điếc để qua chuyện, mà cả đến Ðức Phật cũng cần phải giả điếc để hoá giải cho mọi người . Giận : là bực tức câm hờn, nóng nảy sân khuê, bức xúc khó chịu. Giận, hờn, sân, hận tuỳ chỗ nặng nhẹ mà tên có khác nhưng vẫn là phiền não của bất thiện tâm sở cả. Khuyên: Tức là khuyên lơn cân nhắc lẽ thiệt hơn để cho người mê được giác ngộ. “Ðợi cho người hết giận ta khuyên.” Là nói rằng tu hành tìm đường giải thoát, khi nghe đến các việc trái ý nghịch lòng cần phải bỏ qua để tâm mình được yên ổn khỏi bị xáo trộn và để cho kẻ tội khổ nóng giận kia hết cơn phẩn nộ giận hờn mình dùng lời đạo đức hiền hoà khuyên lơn nhắc nhở họ để họ được giác ngộ tu hành hiền lương nhân ái như mình, tuyệt đối không được khấu ó hơn thua với người để mình phải mất đi phẩm cách đạo đức của người tu. Nghe điều quấy, thấy điều nghịch có thể giả điếc, giả đui thì còn dễ dàng hơn là khuyên lơn kẻ quấy biết sám hối ăn năn. Bỏ qua các việc quấy quá lỗi lầm đó chỉ là đức nhẫn nên có phần dễ hơn là khuyên người lầm lỗi, vì đây là hạnh hoà rất khó hơn đức nhẫn rất nhiều mà hành giả phải đem vào nơi cuộc sống cả hai việc. Nhẫn: Nói cho đủ là nhẫn nhục. Nghĩa là an tâm cam chịu các sự trái ý nghịch lòng, không chống trái, không buồn thảm, không bức xúc, không nóng giận, không câm hờn. Nhẫn là Thánh thuỷ rưới lửa sân hận bạo tàn của tam độc chướng thường làm khô héo huệ mạng ta. Nhẫn là đức tánh thanh cao của hàng cao đỉnh Bồ Tát Ðạo, Bồ Tát Hạnh. Nhẫn được liệt vào hàng thứ nhì trong sáu độ của Phật học Ðại Thừa. Về đạo đức nhẫn nhục, một nơi khác Ðức Thầy nhấn mạnh thêm: “Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn.” Như thế đủ biết rằng đức nhẫn nhục quan trọng đến thế nào đối với người tu hành giải thoát. Nhẫn thông thường có ba lực dụng: Thân nhẫn, Khẩu nhẫn và Ý nhẫn. 1.- Thân nhẫn đó là thân thường nhu hoà an ổn không chống trái đánh đập, lấn ép ai; không hành động thô bạo với bất cứ trường hợp nào dầu là đời hay đạo. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi bao giờ cũng gìn giữ oai nghi cho đúng với người học Phật. 2.- Khẩu nhẫn tức lời nói ôn hoà nhã nhặn, mát dịu đẹp đẽ, không khí khái chống trái, không cộc cằn thô lỗ, không ỷ thị hay trớ trêu. Lời nói khi thốt ra phải là ái ngữ và chánh ngữ để cảm hoá cho mọi người . “Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch, Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.” (Khuyến Thiện) Một lần nữa Aân Sư ta đã răn nhắc như thế, người học Phật phải rán kiêng dè. Miệng mà không nhẫn đặng tức công đức dễ bị tiêu mòn, đạo đức cũng không do đâu mà tiến đặng. 3.- Ý nhẫn là tâm ý hãy luôn luôn mát mẻ nhu hoà tỉnh táo, không bức não hay bực tức câm hờn. Thân đã nhẫn, miệng đã nhẫn nhưng nếu ý không nhẫn đặng thì rồi lửa độc của sân nộ sớm muộn gì cũng sẽ khè ra, chừng ấy thân và khẩu cùng đồng tham chiến. Ðùng đùng một trận đá lăn cây ngã, đến chừng hưu chiến, hành giả nhìn lại ôi! Nhà công đức cháy rụi, lính hiền từ ngã lăn, giặc phiền não lan tràn đánh phá dân lành, thâu đoạt tài sản nhân ái vô cùng thảm hoạ đau thương, nhiều năm kiến thiết nay bị rã tan, tiếc thay! Thân, Khẩu và Ý an nhẫn cả ba thì mới đạt đến sự an tâm và trí sáng. Nhẫn phải được cấu trúc từ đức Ðại Bi và Ðại Từ thì mới dẫn đến khai thông Ðại Trí của Bát Nhã ba la mật. Nhẫn chẳng những được đầy đủ cả Thân, Khẩu, Ý mà còn được mở rộng hơn nữa, đầy đủ đến tám điều mà Huỳnh Phật Sư đã đặc biệt truyền dạy. Tám điều nhẫn vừa nói đó là : Nhẫn năng, Nhẫn giái, Nhẫn giả, Nhẫn Hoà, Nhẫn tâm, Nhẫn tánh, Nhẫn đức, Nhẫn thành. 1.- Nhẫn năng nghĩa là hằng kiên Nhẫn, luôn mát dịu nơi lòng, không để các phiền não làm bức não hận phiền. 2.- Nhẫn giái nghĩa là kiên nhẫn gìn giữ các giới răn Phật dạy, không để phạm vào. 3.- Nhẫn giả nghĩa là đối với chòm xóm phải ân cần nhẫn nhịn, không nên chinh mích phiền hà, hơn thua cãi vả. 4.- Nhẫn hoà nghĩa là trong gia đình phải biết nhẫn nhịn ôn hoà đối với cha mẹ anh em, cháu con chồng vợ chớ để buồn phiền. 5.- Nhẫn tâm là phải luôn luôn mát mẻ, bình an nơi tâm, không để lửa sân dấy khởi. 6.- Nhẫn tánh là phải thường an lạc, thanh tịnh, mát dịu từ nơi đức Hỉ Xả phát sanh, chớ để phàm tánh phiền não xen vào làm rối loạn. 7.- Nhẫn đức nghĩa là phải thường an hoà nhẫn nại chớ để đức hạnh bị tiêu mòn bởi cống cao ngã mạng. 8.- Nhẫn thành là hãy kiêng nhẫn trong mọi lãnh vực thành công chớ để lòng tự mãn phát sanh mà phải bị hao mòn hạnh đức. Tám đức tánh nhẫn nói trên gọi là Bát Nhẫn và nếu ai hành trì cho đúng mức tức là cửa Ðạo sẽ được rộng mở bước vào như lời xưa dạy bảo: “Chữ nhẫn là chữ tương vàng, Nếu ai biết nhẫn rộng đàng dễ đi.” Về Ðạo Bát Nhẫn, trong Phật Giáo Hoà Hảo, Ðức Huỳnh Giáo Chủ đặc biệt dạy chúng bằng một bài thơ thất ngôn bát cú sau đây: “Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền, Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên. Nhẫn giả hương lân hoà ý hỉ, Nhẫn hoà phu phụ thuận tình duyên. Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc, Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền. Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự, Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.” (Bát Nhẫn) Nhẫn tâm, nhẫn tánh, nhẫn đức, nhẫn thành là đạt đến mức độ cao siêu của Nhẫn nhục Ba La Mật, bậc hành giả đại thừa trên hàng Bồ Tát Tạng. Hoà :Nghĩa là hợp nhứt và thân thiện với nhau, không phân hoá đối kháng lẫn nhau, không hơn thua nhơn ngã, cùng sống vui tươi chan hoà nơi cửa Ðạo. Chữ hoà hợp với chữ nhẫn thành nhẫn hoà. Nhẫn với hoà tương quan, tương duyên với nhau tạo thành năng lượng sống vô cùng quí giá. Vừa chịu đựng các khổ đau, vừa hội nhập với các khổ đau để biến khổ đau thành những thú vui hạnh phúc an lạc của Hỉ vô lượng tâm, thật là mầu nhiệm. Bởi vậy nhẫn mà thiếu hoà thì đó chỉ là một hình thái tiêu cực, vì chỉ chấp nhận khổ đau(nhẫn), chưa hề biết lấy khổ đau làm nhựa sống(hoà), và chưa từng biết khổ đau chính là hạnh phúc. Nhẫn với hoà khi đã được hợp nhứt thành chất lượng cho nhựa sống thì đó là sự sống nhứt nguyên bình đẳng trên thể tánh vô sai biệt giới của lý tánh tuyệt đối Phật học Ðại Thừa. Chữ hoà trong nhà Phật, được phân làm sáu tầng lớp như: 1.- Thân hoà đồng trụ. Là cùng nhau chung sống không động chạm hơn thua, lấn ép tranh giành lợi thế. 2.- Khẩu hoà vô tranh. Nghĩa là trên ngôn ngữ hoà nhã, không tranh cãi thấp cao bằng lời lẽ thô bạo độc ác. 3.- Ý hoà đồng vui. Là tâm ý hợp nhứt vui tươi trang nhã trên lẽ sống tinh thần đạo đức tiến tu, không buồn phiền than trách. 4.- Giới hoà đồng tu. Là cùng nhau hoà hợp giữ gìn giới luật, không nhơn ngã thấp cao. 5.- Kiến hoà đồng giải. Là hoà đồng kiến giải để tìm diệu lý sâu mầu, không tranh luận thấp cao hơn kém, buồn phiền xích mích. 6.- Lợi hoà đồng hưởng. Nghĩa là khi được việc lợi ích chi cùng phân chia đồng đều thọ hưởng, không giành giựt hơn kém để đến phiền phức vui buồn. Sáu món quà nầy xưa Ðức Phật chế ra cho đệ tử xuất gia của Ngài làm chỉ nam cho cuộc sống nơi chốn Thiền môn tu tỉnh. Sáu hoà cùng với tám nhẫn hiệp lại thành một lối sống đạo đức vô cùng đặc biệt cho những ai quyết chí tu hành cầu làm Phật hầu hoá tha lợi chúng. “Ai chửi mắng thì ta giả điếc, Ðợi cho người hết giận ta khuyên. Chữ nhẫn hoà ta để đầu tiên, Thì đâu có mang câu thù oán.” Pháp yếu nầy được xuất phát từ bi tâm vô lượng và tuệ giác vô biên của Huỳnh Phật Sư. Ðó là sinh khí tuyệt vời, là nhựa sống mầu nhiệm dẫn đến quốc độ trang nghiêm của chư Phật. Trong lúc nhiều khổ ngặt rất khó nhẫn lại được trao truyền đạo đức nhẫn quí giá, trong lúc lòng người vạn nẻo chi ly rất khó hoà lại được ban cho diệu pháp hoà thật là tình thương của Ðức Aân Sư vô lượng vô biên khó mà nói cho tận nguồn tâm của bút giả! Ai sống trong đời nầy , Nếu thường được nhẫn hoà. Aáy về nguồn hạnh phúc, Phật quốc ngự yên vui. TRÁNH ÁC HÀNH THIỆN “ÐIỀU CẦN YẾU LÀ PHẢI: LÀM HẾT CÁC VIỆC TỪ THIỆN, TRÁNH TẤT CẢ ÐIỀU ÐỘC ÁC, QUYẾT RỬA TẤM LÒNG CHO TRONG SẠCH.” (Ðường Trung Ðạo Của Phật) Pháp yếu nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Bạc Liêu năm Nhâm Ngũ. Ðức Thích Ca Như Lai Thế Tôn 49 năm trụ thế, thuyết năm thời Kinh có đến vô lượng pháp môn, đó là tùy duyên phổ hóa độ khắp chúng sanh, nhưng cũng không ngoài việc dạy làm lành, tránh ác và rột rửa tâm tánh cho được thanh tịnh sáng suốt. Một bài Kệ ngắn gọn mà hàm súc ba công hạnh nói trên được các Tăng Ni thường đọc tụng. Ðó là: “Chư ác mạt tác, Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý, Thị chư phật giáo.” Bút giả tạm dịch: Ác duyên các hạnh chớ làm, Những điều thiện hạnh lòng ham thực hành. Giữ tâm thường được tịnh thanh, Ấy là lời Phật ban hành từ xưa. Trong công hạnh giáo dân hóa chúng của Huỳnh Phật Sư thuyết giáo có rất nhiều pháp tu tập đó là Ngài tùy cơ phổ độ cho bá tánh vạn dân, nhưng mà cũng không ngoài cái yếu hạnh làm lành, tránh ác và tịnh lấy tâm mình, vì hễ tâm mình tịnh tức là Phật độ trang nghiêm thanh tịnh và Phật quả cũng do đó mà thành. Pháp yếu nói trên được đem ra bàn luận trong bài nầy để ta tìm hiểu lý nghĩa sâu mầu của Thánh Kinh hầu đem vào nơi cuộc sống. Bây giờ ta đi vào đề luận. “Ðiều cần yếu”: Tức là yếu lý rất cần thiết được liệt vào hàng đầu trong các hạnh tu tập. Yếu lý đó là tránh ác, hành thiện, tịnh lấy tâm mình. “Làm các việc từ thiện”: Từ nghĩa là tâm hiền lành dấy khởi. Thiện tức là đem tài vật cấp cho những kẻ thiếu thốn khổ đau. Làm từ thiện là ban tình thương cho những người đau khổ đang mong chờ người có Bi tâm. Việc lớn việc nhỏ gì cũng vậy, nếu mục đích tác lợi cho nhơn sanh thì gọi đó là từ thiện. Trong các công hạnh từ thiện có nhiều hình thức, xin được liệt kê nơi đây để được nhiều nhận định: Bố thí hạnh, ái ngữ hạnh, lợi hành hạnh, đồng sự hạnh. 1.Bố thí hạnh: Ðạo Phật là Ðạo cứu khổ và ban vui cho các chúng hữu tình. Bố thí là những bàn tay tình thương của Bi tâm chan chứa đem tài nguyên cấp phát cho mọi người đang thiếu thốn về vật chất rất đáng thương tâm. Những thiên tai như địa chấn bão lụt làm mất mùa hoặc bệnh hoạn và bị tàn phá bởi chiến cuộc tạo nên làm cho nhân loại phải gánh chịu biết bao là tai ách. Tất cả chúng sanh đều là con tinh thần của Ðức Phật, bố thí giúp đỡ cho các chúng sanh đau khổ chính là ban ân huệ cho những người con Phật tức là giúp đỡ cho Ðức phật vậy. “Việc nhà quý bạn đã xong, Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.” (Khuyên người giàu lòng phước thiện) Ðã thêm một lần nữa Ðức Giáo Chủ dạy như thế. Thể theo tinh thần siêu thượng của Phật Giáo, trong các việc tu phước phải được xuất phát từ Bi tâm với trí sáng và bình đẳng. Phải vì người mà làm các việc từ thiện và làm với vô công, vô kỷ và vô danh thì việc ấy mới đúng với tâm địa của Ðức Giáo chủ. Bởi vì: “Giúp đời đừng đợi trả ơn, Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng.” (Sám giảng quyển ba) Kinh Kim Cang Ðức Phật cũng đã từng vì đại chúng, Ngài phán dạy rằng: Nếu vì chúng sanh mà thí thì phước đức lớn như địa cầu, còn như vì mình mà thí thì phước đức nhỏ như là hột cải. Và ngài lại dạy thêm rằng: Nếu rời bốn tướng mà thí thì mới được gọi là Bồ Tát, bằng thí mà còn bốn tướng thì không được gọi là Bồ Tát. Thế là, người đứng ra làm việc bố thí phải được xuất phát từ nơi Bi Trí thì mới đạt đến vô cầu của sơ tâm Bồ Tát. 2. Ái ngữ hạnh. Ðó là công hạnh của ngôn ngữ được xuất phát từ nơi Bi tâm của nhà hành Ðạo. Lời nói của tình thương là hướng đến sự ích lợi cho các chúng sanh. Cam ngôn mỹ từ là tiếng nói của con tim tỉnh thức, có thể chuyển được lòng người từ khổ đau đến hạnh phúc, từ ác hại đến hiền lương, từ tối tăm đến sáng suốt. Trong các việc từ thiện, ái ngữ hạnh là đức tánh được nêu cao, vì là việc lợi tha rất trọng yếu. Ái ngữ hạnh thường làm cho yên người lợi chúng, gây thiện cảm cho nhân loại chúng sanh. Ái ngữ là nguồn phát sanh từ Chánh Ngữ của Bát Chánh Ðạo, một Ðạo hạnh hết sức là đặc biệt, Ðức Giáo Chủ không ngớt nhắc đến: “Thứ sáu chánh ngữ liệu toan, Nói năng điều chánh thì an chứ gì.” (Dặn dò bổn đạo) Ðức Phật xưa đã từng dùng ái ngữ hạnh mà cảm hóa các nhóm ngoại đạo và trong hiện tại Ðức Aân Sư cũng dùng ái ngữ mà nhiếp phục đối phương mà làm cho họ thấy được diệu huyền của Phật pháp. Aùi ngữ hạnh là một công hạnh đặc biệt đáng nêu cao trong các công tác từ thiện mà ta hãy cố gắng thực hành cho kỳ được. 3.Lợi hành hạnh. Những sự hành hoạt trong hằng ngày phải hướng đến hữu ích cho mọi người để chúng sanh cùng hưởng, không ích kỷ nhỏ hẹp. Người mà có trái tim thương yêu nhân loại tức mọi hành động đều tác lợi chúng sanh. Lợi hành là đức hạnh thường được treo gương cho hậu thế, vì nhất cử nhất động không được tổn hại cho bất cứ một ai. Bản chất của lợi hành từ nơi chánh nghiệp của Bát Chánh Ðạo. Ðó là đường sống dẫn đến an lạc hạnh phúc cho mình và cho cả chúng sanh nhân loại nữa. “Thứ tư chánh nghiệp mặc dầu, Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.” Dặn dò bổn đạo Những hành hoạt cho cuộc sống hằng ngày vừa lợi cho mình, vừa được hữu ích cho mọi người thì đó được gọi là lợi hành của công tác từ thiện. 4.Ðồng sự hạnh. Cùng với mọi người trên các môi sinh trong xã hội mà lại vượt trên mọi người đồng nghiệp với mình, đáng được mọi người treo gương. Ðành rằng làm để mưu sinh, nhưng mà hướng đến sự hữu ích cho mọi người trong xã hội. Hành nghề đúng với thiện nghiệp, tức là ta đã được góp phần cho công tác từ thiện rất là hữu hiệu đáng được ngợi khen. Làm ăn đúng với chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng là đã hạnh lành hướng thượng cho thế sự noi gương, kết quả mạnh hơn là dùng ngữ ngôn khuyên họ. Bố thí hạnh, ái ngữ hạnh, lợi hành hạnh và đồng sự hạnh thường nhiếp các công tác từ thiện lợi tha nên Phật gọi là tứ nhiếp pháp, tức là bốn phương pháp thâu nhiếp các đức lành. “Tránh tất cả các đều độc ác”: Ðồng thời với các hạnh từ thiện, Ðức Thầy dạy cần tránh những điều độc ác chớ để chúng phát sanh. Hành hạnh từ thiện mà để cho ác hạnh lẫn lộn thì ví như xạ lúa trong cỏ, trồng hoa trong rừng, không thể thu gặt được kết quả. Cho nên, hễ xạ lúa từ thiện thì phải làm cỏ thập ác, trồng hoa tình thương tức phải phá rừng tam nghiệp thì hoa mới tươi đẹp và lúa mới trúng mùa. Tất cả đều độc ác từ tam nghiệp mà sanh thập ác, thập ác là cội nguồn cho tất cả những ác tâm, ác hạnh cho mọi người trong thế gian. Muốn trừ mười điều ác tức phải: không sát sanh, không đạo tặc, không tà dâm, không lưỡng thiệt, không ỷ ngôn, không ác khẩu, không vọng ngữ, không tham lam, không sân hận và không mê si. 1.Không sát sanh. Tất cả chúng sanh đều quý trọng mạng sống và đồng có Phật tánh bình đẳng với Phật, nên ta không thể giết chết mạng sống bất cứ là chúng sanh nào để Từ tâm của ta được lớn mạnh. 2.Không đạo tặc. Mỗi người bị mất của đều sầu khổ đau thương bi thảm, nên ta không được lấy bất cứ vật gì của ai nếu đó không phải là sở hữu của mình để Bi tâm của ta được thêm nảy nở. 3.Không tà dâm. Dâm ô là bất tịnh hạnh, nghiệp mê đen tối tạo khổ tử sanh chẳng những cho mình mà còn cho kẻ khác. Thế nên, tuyệt đối không được phạm ác tà dâm. 4.Không lưỡng thiệt. Lưỡng thiệt là tội ác đáng ghê tởm, làm cho xã hội oán ghét hận thù nhau, hãm hại nhau và nhiều chuyện tác hại vô cùng trong xã hội. Do đó mà ta không được phạm ác lưỡng thiệt. 5.Không ỷ ngôn. Ỷ thị lời nói lấn lướt kẻ hiền là tội thất đức vô liêm Phật tánh tiêu mòn phải bị đọa sa nơi ác đạo. Người tu hành tuyệt đối không được phạm ác ỷ ngôn. 6.Không ác khẩu. Những lời nói tục tằn, thô lỗ, độc ác của khẩu nghiệp thật là trọng đại khó nỗi nói cùng, duyên sanh ác đạo, người đang trồng hoa tươi từ thiện không được phạm vào độc hại ác khẩu. 7.Không vọng ngữ. Có nói không, không nói có là ác vọng ngữ tội báo khó lường, người tu cần tránh hẳn không được phạm vào. 8.Không tham lam. Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế … đã tạo chẳng biết bao nhiêu tội khổ cho linh hồn, đời đời kiếp kiếp thọ báo tử sanh trong lục đạo. Tu hành cầu giải thoát hãy tuyệt đối không đặng tham lam. 9.Không sân hận: Tội ác của sân hận từng tiêu diệt các công đức của kẻ tu hành và là tạo nghiệp trọng đại dẫn đến tử sanh nhiều kiếp đau khổ. Người tu muốn cầu giải thoát không được phạm tội sân khuê nóng giận. 10.Không mê si. Mê si hay vô minh cùng đồng nghĩa là đen tối không phân biệt tà chánh giả chơn, thường tạo các tội ác để rồi bị đọa lạc trầm luân nơi lục đạo. Kẻ tu hành phải diệt ác mê si để mới có thể tiến đến giải thoát. Mười điều ác nếu đã giữ gìn không phạm đến tức các công tác từ thiện mới được lớn mạnh và mới tạo cho ta cái quả phúc cho linh hồn mà Ðức Aân Sư ta đã ân cần truyền dạy. “Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”: Ðáy lòng trong sạch của con người sẽ là thế giới thanh tịnh cho nhân loại. Tâm là chánh báo, quốc độ là y báo, chánh báo trong sạch thì quốc độ trong sạch thanh tịnh, bằng như chánh báo nhiễm ô tất là quốc độ đen tối đau khổ. “Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch” là Ðức Huỳnh Phật Sư dạy trang nghiêm Phật quốc thanh tịnh cho pháp giới chúng sanh tựa nương hạnh phúc. Tâm nhiễm sẽ dẫn đến lục đạo chúng sanh, tâm tịnh tức vượt lên hàng tứ Thánh quả. Chùi lau gội rửa đáy lòng nhiễm trược phải hết sức gắng gổ công phu bằng các hạnh lớn và các nguyện lớn của hàng thượng sĩ thì mới được hi vọng toại nguyền. Tóm lại, làm các hạnh lành, tránh các độc hại và thanh tịnh tâm mình đó là hạnh lớn, là nguyện lớn trên hàng cao đẳng Phật học được Ðức Giáo Chủ truyền dạy thật là hi hữu biết bao cho chúng sanh nhân loại. Người con tinh thần của Ðức Phật, ta hãy noi gương Phật, vâng lời Phật, tu các hạnh Phật để được đồng với chư Phật hưởng quả thanh tịnh Niết Bàn. TU TÂM DƯỠNG TÁNH “HÃY RÁN TU TÂM DƯỠNG TÁNH LÀNH, ÐỪNG CHO MA NGHIỆP VỌNG TÂM SANH.” (Cho Võ Thị Hợi) Pháp yếu nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Sài Gòn, năm Nhâm Ngũ. Tu: Nghĩa là dồi mài trau sửa, rột rửa thân tâm cho được tinh minh, thiện mỹ. Trau sửa thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp cho đừng phát sanh mười điều ác, mà hằng sanh mười việc lành, gọi là tu tam nghiệp. Rèn luyện sáu căn, không để nhiễm sáu trần, hầu sáu thức thanh tịnh thì gọi là tu thập bát giới. Trau sửa rèn luyện cho tinh minh, không đi tám nẻo tà, hằng tiến bước trên tám con đường chánh thì gọi là tu Bát Chánh Ðạo. Tóm lại, tu là trau sửa thân phận mình cho được trọn lành, trọn sáng hầu có đạt đến chứng chơn giải thoát. Về ý nghĩa chữ tu Ðức Aân Sư phán dạy: “Chữ tu chớ khá trể chầy, Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên.” (Sấm Giảng quyển ba) Tâm: Ðứng về phương diện tuyệt đối thì không thể luận bàn, đứng về tương đối thì tâm được chia làm bốn thứ: Nhục đoàn tâm, Duyên lự tâm, Tập khởi tâm và Chơn như tâm. 1.Nhục đoàn tâm. Ðó là nói theo y học tức là trái tim, một trong năm tạng (tâm, cang, tỳ, phế, thận). 2.Duyên lự tâm. Chữ duyên tức là phang duyên theo trần cảnh, còn lự tức tư lự xằng xiêng tà vạy. Thường duyên theo sắc, thinh, hương , vị, xúc và pháp; rồi từ đó mà dấy khởi lên niệm niệm bất giác liên miên làm cho Chơn Như Tâm bị che mờ nên gọi là tâm duyên lự hoặc cũng gọi là vọng tâm. 3.Tập khởi tâm. Nghĩa là nơi chứa nhóm các chủng tử và xuất sanh ra các pháp. Chỗ nầy nhà duy thức học gọi là truyền tống thức. Tâm nầy cất giữ các chủng tử rất chu đáo dẫu trải qua bao lâu cũng vẫn không hư hoại để rồi đưa ra chỗ hiện hành. 4.Chơn Như tâm. Tạm gọi là Bản Thể, Bản Giác, Bản Lai Thanh Tịnh, Diệu Chơn Như, Chơn Tâm, Phật Tánh …tuỳ theo chỗ đứng trong các Tông, các giáo mà tên dùng có khác chớ cũng chỉ là Phật Tánh Chơn Tâm. Nói tu tâm tức là tu dưỡng tâm mình. Nhục Ðoàn tâm, Duyên Lự tâm, Tập Khởi tâm và Chơn Như tâm ta phải cần tu sửa cái tâm nào? Tâm nhục đoàn là khối thịt vô tri có gì phải tu sửa. Còn Chơn Như Tâm thì đã Phật Tánh Chơn Tâm rồi đâu cần sửa nữa. Duy có Duyên Lự tâm và Tập khởi tâm ta cần phải tu sửa đó thôi. Thứ nhất : Tu sửa Duyên lự tâm. Duyên lự tức là vọng tâm, tà tâm, nhiễm tâm v.v… Tâm duyên lự thường ngày nó thường chạy theo các cảnh duyên bên ngoài không một phút giây dừng lại làm cho trí giác bị đen tối mê mờ, tạo thành vô số các nghiệp báo luân hồi từ luỹ kiếp đến nay. Nào là tam độc, thất tình, lục dục, thập xử và các thứ dục lạc nơi thế trần không sao nói hết. 1.Tam độc tức Tham, Sân, Si. Hành giả hãy tự mình dùng tri kiến nhìn tận nơi đáy lòng mình coi tâm thức của mình nó có dấy lên các thứ tham, sân, si chăng. Nếu mình thấy được vọng tâm của mình nó thuộc về món gì thì mình đem thứ thuốc đó mà đối trị chúng. Như tham thì dùng thí độ mà hóa giải chúng, sân thì dùng nhẫn độ mà hàng phục chúng, si thì dùng giới độ mà bình định chúng. Cái tâm vọng tưởng thế trần hễ chúng vừa dấy lên là ta hãy chuyển chúng ngay lập tức chớ để chúng sinh hoạt nhiều thì ta sẽ mất đi tự chủ. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục là y vương thần diệu chế phục tham, sân, si ta hãy dùng ba món nầy mà đem các vọng tâm quay về GIÁC TÁNH CHƠN NHƯ. Ðó gọi là tu tâm vậy. 2.Thất tình là các thứ: Mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn. Hễ quyền lợi đến thì mừng, trái ý nghịch lòng thì giận, không được thủ đắc thì buồn, thỏa mãn nguyện vọng thì vui, hợp với bản ngã thì thương, nghịch với tham vọng thì ghét, vừa ý thuận lòng thì muốn chiếm hữu. Hành giả hãy tỉnh tâm mà xét soi các thứ tâm vọng tưởng, hễ chúng vừa dấy lên một niệm thì hãy dùng TUỆ KIẾM mà cắt đứt đi lòng phàm, chớ để chúng tự tiện hoành hành mà Phật Tánh phải bị chìm sâu nơi biển tục. Bảy mối tình nầy nó là thất quái, chúng tàn phá công đức tu hành của ta một cách rất là khủng khiếp, nếu không hàn phục được chúng tức là đạo nghiệp ta chẳng còn. Chuyển vọng niệm thành chơn tâm thanh tịnh thì đó gọi là tu tâm. 3.Lục dục là sáu thứ dục tình từ bên ngoài là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; hiệp với bên trong là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà có sáu món diêu động dấy khởi nơi tâm hồn. Mắt ưa thích sắc đẹp, tai ưa thích những âm thanh ngọt dịu, mũi ưa thích các thứ hương trần ngào ngạt, miệng lưỡi ưa thích các thứ ngọt ngon béo bùi, thân ưa thích đụng chạm cọ xát các thứ dục cảnh tục trần, ý ưa thích các quyền thế bổng lộc cao sang. Sáu thứ tình dục nầy mỗi khi tâm dấy khởi tự hành giả phải thấy biết chúng cho tỏ tường để hàng phục đem chúng về GIÁC TÁNH TOÀN CHƠN. Sáu món dục nầy nó là sáu tên ăn cướp, chúng thường vơ vét các công đức tu hành của ta, không tận trừ đặng chúng tất đường tu bị đổ vỡ. Ðem chúng về Bản Giác để phục hồi Nhân Chủ ta phải có biện pháp. Hành giả hãy dùng định tâm và trí sáng mà thấy tự tánh mình xưa nay vốn trong sạch, nghe tự tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, ngửi tự tánh mình xưa nay đầy đủ chơn hương công đức, nếm tự tánh mình xưa nay đầy đủ các thứ thiền vị, xúc tự tánh mình xưa nay đầy đủ hảo tướng trang nghiêm, ý trực tiếp sống trong Chân Tướng Thật Tướng tự nơi tâm đã đầy xưa nay không hề có thiếu. Tóm lại, hãy tự sống trong Giác Tánh sẵn có nơi chính mình gạt bỏ hết các giả cảnh bên ngoài để chân tâm thường được thanh tịnh trí giác linh minh, đó là tu tâm vậy. 4.Mười xử là Tham, Sân, Si, Mạng, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến. Ðó là mười thứ phiền não căn bản mà tâm thức ta thường dấy khởi và hiện hành vô cùng khốc liệt. Từ mười phiền não lớn kia mà có đến vô lượng những phiền não nhỏ, chúng chi phối sai xử ta tạo vô số tội lỗi để rồi chúng đưa ta đi vào các cõi khổ trong lục đạo luân hồi. Ðem chúng về “CHƠN NHƯ TỰ TÁNH”, ta hãy dùng tri kiến mà tự thấy rằng tâm ta xưa nay vốn thanh tịnh không có phiền não trần lao, không có nhiễm ô bất tịnh, ta hãy tự sống thật với GIÁC TÁNH mình, hãy tự sống trong ánh sáng của Bản Thể mình không chạy theo trần cảnh, không nô lệ phiền não trần lao, hướng về với Chúa Tâm Vương, khôi phục lại chủ quyền Bản Giác, về ngôi nhà cũ thanh tịnh Niết Bàn. Chuyển thập xử phiền não về “THANH TỊNH TÂM” là hành giả đã tu tâm đấy. Tóm lại, tam độc tâm chẳng còn, thất tình tâm biến mất, lục dục tâm tận trừ, thập xử tâm thâu phục tức là cái tâm duyên lự thành “THANH TỊNH TÂM” hay “CHƠN NHƯ TÂM” đúng với Huỳnh Phật Sư phán dạy: “Ðem về Giác Tánh Chơn Như, Kim Thân thị hiện dứt trừ tử sanh.” (Cho ông Cò Tàu Hảo) Thứ nhì: Tu sửa Tập khởi tâm. Khi chưa tu thì tự tiện thứ gì cũng súc tích cất giữ trong tạng thức và cứ đưa ra một cách thản nhiên không cần xét nét. Ðến khi đã tu thì phải dùng tri kiến mà xét nét kiểm điểm coi thứ nào đáng ghi nhận, đáng cất giữ thì mới được cất giữ; những gì được đưa ra thì mới đưa, những gì không được đưa ra thì thôi, hãy cần giám thị cho kỷ việc xuất nhập hàng hóa nơi điền tâm của mình. Các Quan Ðại Thần của Ðại Trí và Ðại Hùng nghiêm giữ các cửa khẩu không cho nhập cảng vào điền tâm các thứ: Tam độc, thất tình, lục dục, thập xử và cũng cấm nhặt không cho các thứ tệ hại ấy ra thế giới bên ngoài để làm bã rác dơ dấy cho nhân loại. Các thứ hàng hóa được thu thập và xuất khẩu ra ngoài được ấn định: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh, Huệ và Từ, Bi, Hỉ, Xả cùng với Giới, Ðịnh, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Những kẻ gian thương xuất nhập phạm quốc cấm của Chúa Tâm Vương thì sẽ bị các luật sư nghiêm trị đúng với luật tạng mà Ðức Phật đã đề ra. Giám thị được tỏ tường về việc tập hợp và phát khởi thuận theo Bản Giác Toàn Chơn là người biết tu tâm vậy. Vấn đề tu Tâm xin được đi qua, để đến việc dưỡng Tánh. Dưỡng: Tức là hàm dưỡng, nuôi dưỡng, trưởng dưỡng cho được phát triển thêm hơn, lớn mạnh thêm hơn. Tánh: tức là Phật Tánh, vì tánh mà dạy hàm dưỡng thì đâu phải những thứ phàm tánh tạp nhạp của chúng sanh. Nói đến Phật Tánh tức là nói Tánh Ðức vô biên của Phật. Tánh đức của Ðức Phật với tư cách sơ địa học Phật dễ nào ai nói cho cùng tận. Chỉ có thể ta đại cương theo văn tự về các đức tánh căn bản của Ðức Phật như: Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỉ, Ðại Xả, Ðại Trí, Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Hạnh, Ðại Nguyện, Ðại Giác … Sơ Tâm Bồ Tát, Sơ Ðịa Bồ Tát hằng hàm dưỡng các Ðức Tánh Như Lai là tích lũy chủng tử Phật, ngõ hầu được thành Phật đồng với chư Phật. 1.Ðại Từ: Là Phật Tánh hiền lành của Ðức Phật. Phật Tánh ấy thường được thể hiện trong vạn loại chúng sanh bao la không giới hạn, ví như đức tánh hiền từ của người mẹ ban cho các con. Phật luôn luôn dìu dắt, dạy dỗ cho tất cả chúng sanh, không muốn có một chúng sanh nào còn trong bể thảm. Ta hãy nuôi dưỡng Phật Tánh hiền từ nơi tâm mình để rồi ta sẽ được trở thành một vị Phật. 2. Ðại Bi: Ðức Ðại Bi của Phật là một thứ tình thương vô bờ đối với chúng sanh, dẫu rằng có những chúng sanh hung ác đến thế nào Phật cũng dạy khuyên dẫn dắt, nếu chúng không nghe và độc ác hại Phật, chẳng vì thế mà ghét bỏ trái lại Ngài còn thương xót vô cùng. Ta hãy hàm dưỡng Phật Tánh Bi Tâm để ta được như các Ðức Phật. 3.Ðại Hỉ: Ðó là Ðức tánh Chơn Lạc của Phật mà Ngài đã thường thể hiện trong các chúng sanh, dầu thuận hay nghịch cũng thế. Ta có trưởng dưỡng Phật Tánh Hỉ Vô Lượng Tâm của Ðức Phật thì nhất quyết ta sẽ thành Phật. 4.Ðại Xả: Là đức tánh không chấp giữ của Phật. Ngài luôn luôn buông xả các pháp, không chấp giữ một pháp nào, Phật pháp hay thế gian pháp gì cũng vậy. Ðạo pháp của Ðức Phật là hành chỗ không hành, tu chỗ không tu, chứng chỗ không chứng. Ta nên nuôi dưỡng Xả Vô Lượng Tâm của Ðức Phật để ta được lên ngôi Chánh Giác như Phật. 5. Ðại Trí: Tức là Phật Trí vô biên của Ðức Phật. Ngài thường đem Phật Tri Kiến ấy mà khai ngộ cho các chúng sanh để cho mọi người được vào Tri Kiến của Phật. Người học Phật hãy nuôi dưỡng Tri Kiến Phật để mình được như Ðức Phật. 6. Ðại Hùng: là Phật Tánh cương quyết thẳng thắng tiến thủ không dừng bước của Phật. Ðại Hùng cũng tức là tinh thần vô úy của Ðức Phật. Lướt tới, lướt tới mãi mãi phá giặc phiền não, dẹp loạn vô minh và hoá độ chúng sanh vô lượng. Ðứa con tinh thần của Phật ta hãy hàm dưỡng Phật Tánh Ðại Hùng và vô úy của Phật để ta được cùng với Ðức Phật chẳng khác. 7. Ðại Lực: Là sức mạnh vạn năng của Phật, Ngài gánh lấy vô lượng khổ ách cho vạn loại chúng sanh chẳng bao giờ biết mõi mòn nhàm chán. Sức mạnh của Ðại Lực ví như quả đất, chở đến vô lượng chúng sanh và vật chất nặng đến vô biên mà vẫn bình thường không việc chi trở ngại. Nếu muốn có sức mạnh vạn năng như Phật tất ta phải nuôi dưỡng Phật Tánh Ðai Lực của Phật. 8. Ðại Hạnh: Hạnh tự giác, hạnh hóa tha, hạnh lợi tha, … đều vượt trên các Thánh tam thừa, chư Thiên và ngoại đạo nên gọi là Ðại Hạnh. Từ nơi Phật hành trì các pháp lớn mà Ngài được hạnh lớn hóa độ chúng sanh không hề có mỏi mòn. 9. Ðại Nguyện: Phật nguyện vô biên, độ chúng sanh vô lượng và rốt ráo không bỏ bất cứ một ai. Ngài từng phát Ðại Nguyện: “Hữu nhất chúng sanh, Bất thành Phật quả, Ngã thệ bất thành Phật.” Bút giả xin tạm dịch: Nếu còn một chúng sanh, Chưa vào ngôi Chánh Giác, Tất nguyện ta chưa thành Ta thề chẳng thành Phật. Nối theo dấu chơn Phật, Ðức Ân Sư phát Ðại thệ nguyện: “Nếu chừng nào khai thông đại Ðạo, Ðuốc Từ Bi rọi khắp cả nhơn gian. Bể trầm luân khô cạn sáu đàng, Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.” (Trao lời cùng ông Táo) Có hàm dưỡng Phật Tánh Ðại nguyện ta mới xứng đáng là đứa con tinh thần của Ðức Phật và sẽ thành Phật như các Ðức Phật đã thành. 10.Ðại Giác: Từ nơi Ðại Nguyện, Ðại Hạnh mà Ðức Phật lên ngôi Ðại Giác. Ðó là ngôi vị Giác Ngộ vượt trên hàng tam thừa. Ðủ đầy ba hạnh: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn, nên cũng gọi là Viên Giác tức Phật, Thế Tôn, Như Lai … Có hàm dưỡng Phật Tánh Ðại Giác để ta sẽ đến ngôi vị của Phật. Tu tâm là trừ các tội lỗi, phá diệt phiền não, tiêu trừ ác kiến vô minh, chuyển trừ chướng nghiệp. Dưỡng Tánh là hàm dưỡng, trợ trưởng cho Phật tánh Từ, Bi, Hỉ, Xả … được lớn mạnh được bằng với Ðức Phật để ta được vào Phật quả đồng với chư Phật. Tóm lại, Tu tâm và dưỡng tánh là yếu pháp và yếu hạnh, Huỳnh Phật Sư truyền dạy là muốn cho các chúng sanh đồng tu Phật hạnh, đồng ngộ Phật tâm và đồng thành Phật quả. “Ðừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh”: Là mỹ ý Ðức Giáo Chủ dạy rằng: Người tu hành cầu đạo giải thoát chớ để nghiệp báo của lũ Ma nó quấy rối, dấy khởi tâm sanh các việc phi đạo đức, tạo kiếp tử sanh thọ báo luân hồi. Tu là phải cần giữ cho tâm bình, tánh tịnh hầu được huệ nhựt hiện vào, vô minh và phiền não chấm dứt, Phật Tri Kiến nhập vào chấm dứt dòng suối sanh tử. “Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành, Ðừng cho Ma nghiệp vọng tâm sanh.” Quả là pháp yếu tu cầu làm Phật, là những đứa con tinh thần của Ðức Phật, ta hãy quyết tu hạnh Phật, hàm dưỡng Tánh Phật để được vào ngôi Phật. Thế mới chẳng phụ công ơn Ðức Phật và Aân Sư ta đã khổ công giáo truyền. Tu Tâm trừ hoặc nghiệp, Dưỡng Tánh đắc Như Lai. Ân Sư Huỳnh Giáo Chủ, Bi tâm pháp diệu khai. TỪ BI THẮNG HẬN THÙ “VIỆC HUNG ÁC HỄ VỪA THẤP THOÁNG, CHỮ TỪ BI TA DIỆT NÓ LIỀN. SỰ OÁN THÙ ÐÁP LẠI CHỮ HIỀN, THÌ THÙ OÁN TIÊU TAN MẤT HẾT.” (Giác Mê Tâm Kệ) Pháp yếu nầy Ðức Thầy viết tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939). Hung ác: Tức là các việc hung hăng dữ dằn, bạo tợn độc hại. Việc hung ác có nhiều hình thức: Aùc tâm, ác hạnh và ác khẩu. Aùc tâm là sự độc hại ác đức ngầm ngấm bên trong, bên ngoài thì bình thường hình như vô sự. Aùc hạnh là hình thức thô bạo như lấn ép, đánh đập tàn nhẫn. Aùc khẩu là dùng lời lẽ mắn chửi, rủa xả mạ lỵ cộc cằn. Hung ác độc hại bên ngoài không đáng sợ bằng sự độc hại ngầm ngấm bên trong của con người. Con dao cầm tay dễ tránh hơn con dao trong tâm của người độc ác. Cái tâm độc ác của con người độc hại hơn quỉ dữ, rắn độc thật đáng ghê tởm. Vừa thấp thoáng: Tức vừa khởi, mới đem đến cho ta. Giặc mới khởi dễ trừ, ác mới sanh dễ diệt. Từ Bi: Từ là hiền lành, còn Bi là thương xót. Từ Bi là hai đức tánh hiền lành và thương xót chúng sanh của chư Phật. Từ Bi là hai trong tứ vô lượng tâm của các Ðức Phật. Từ nơi đức tánh hiền lành nên thường ban cho chúng sanh những niềm vui và từ nơi đức tánh thương xót mà thường hay cứu khổ cho muôn loài. Cứu khổ ban vui là công việc hằng ngày của chư Phật. Kinh bảo: “ Từ năng giữ nhất thiết chúng sanh chi lạc, Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ.” Bút giả xin tạm dịch: Từ là ban trải niềm vui khắp, Bi nhổ khổ đau cho muôn loài. Hướng đến chúng sanh, Huỳnh Phật Sư phán dạy hai đức Từ và Bi như sau: -“Ðức từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ. Không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não;” -“Ðức bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng.” Chư Phật có bốn đại đức. Cứu khổ và ban vui cho pháp giới, cho vạn vật muôn loài bình đẳng khắp chúng sanh là công hạnh hằng ngày của chư Phật. Ðạo Phật là Ðạo Từ Bi mà cũng là Ðạo Trí tuệ, ánh sáng của Ðạo Phật chiếu đến đâu tức là chúng sanh được cứu khổ, ban vui đến đó. “Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng, Chữ từ bi ta diệt nó liền.” Là Ân Sư dạy bảo rằng: Người tu hành theo Ðạo Phật, khi có các việc hung ác, độc hại đến với ta thì ta hãy lấy Từ bi mà đối xử với họ. Hãy luôn luôn hiền lành và hãy biết thương xót họ, hãy ban cho họ các thứ vui tươi hạnh phúc và hãy nhổ những khổ đau mà họ đang vướng phải. Chỉ có Từ bi mới làm vơi bớt nỗi hận thù, chỉ có cứu khổ ban vui mới được xoa dịu lòng nhân thế. Những kẻ đem đến cho ta các tặng phẩm khổ đau là hạng người đáng thương hại hơn ai hết, vì họ đang bị khổ đau đè nặng, quá bứt xúc nên đem sang bớt cho ta để họ được nhẹ phần nào. Lúc đó nếu mình chấp nhận gánh bớt khổ đau cho họ là họ mang ơn mình hơn bao giờ hết! Từ chỗ bớt khổ được vui nên việc hung ác đối với ta đổi thành gió mát Thanh Lương, thù ra thân, ác nhơn thành bạn lữ, phá hoại thành hộ pháp. “Sự oán thù đáp lại chữ hiền, Thì thù oán tiêu tan mất hết.” Thật vậy, nếu dùng oán hận đáp lại oán hận thì oán hận lớn mạnh thêm hơn, bằng như dùng nhơn đức mà đáp lại oán hận thì oán hận kia mới chấm dứt. Ðề Bà Ðạt Ða là ân nhân thứ nhất của Như Lai, nhờ Ðề Bà Ðạt Ða mà Như Lai sớm được vào ngôi Chánh Giác. Ðó là lời nói hào hùng độc đáo của Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật. Như ai cũng biết Ðề Ðạt Sa Môn là người phá hoại Ðức Phật một cách khủng khiếp, thế mà bảo đó là ân nhân và nhờ y mà Phật mau thành Phật. Tư tưởng và sự hành hóa của Ðức Phật đã vượt lên cao vút, trên tất cả các tầng trời và các Thánh tam thừa vô hạng lượng. Suối từ và nước Ðại Bi Từ Hi Mã Lạp Sơn tuôn xuống sông Tiền Giang và kết tinh nơi Ðức Huỳnh Giáo Chủ, một vị hoạt Phật giữa thế kỷ XX, với gần năm triệu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Ngài là vị Giáo Chủ đã từng đem ân đáp oán, lấy tình thương trả lại hận thù và nhất là: Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh. Tư tưởng sao mà đẹp nhất thế gian! Nếu Ðức Phật trong những tiền thân đã từng vì chúng sanh mà thí vô lượng thân mạng, thì hôm nay Ðức Aân Sư ta cũng đã vì chúng sanh mà gánh lấy nổi khổ ê chề cho nhân loại. Từ Bi cùng với Ðại Hùng, Ðại Lực của Phật nó vượt trên mọi sức mạnh của thế gian. Người ta có thể thắng kẻ thù bằng bạo lực, không ai thắng kẻ thù bằng tình thương của Bi tâm chan chứa, của Từ tâm bủa khắp như chư Phật. Với cái nhìn của tri kiến Phật, các Ngài thấy rõ chơn tướng của thân thù, thương ghét tự tánh không, chúng là trò ảo hóa chỉ là giả lập. Thuận nghịch cũng chỉ là bình đẳng trong Tạng Tánh Như Lai, Như Lai xuất sanh toàn là thanh tịnh pháp hữu ích cho muôn loài, với ai cũng thế. Người con tinh thần của Phật, ta hãy theo dấu chơn Phật ban tình thương cho mọi người với tinh thần bình đẳng, không bị giới hạn thân sơ, ơn oán, nhân ngã, hơn thua. Tình thương của Bi tâm là tình thương của tuệ giác nó không bị lệ thuộc nơi bốn tướng và sáu trần. Chỉ vì tác lợi cho chúng sanh và Phật Tánh như thế không vậy thì không một cách nào khác hơn. “Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng, Chữ từ bi ta diệt nó liền. Sự oán thù đáp lại chữ hiền, Thì thù oán tiêu tan mất hết.” Ðó là pháp yếu vô cùng cao quí, Ðức Giáo Chủ thiết lập quốc độ hạnh phúc cho chúng sanh tại cõi nhân gian nầy. Ðó là đường sống cho bản thân, cho quốc gia xã hội, cho cả đến nhân loại đại đồng trên quả đất nầy. Một thế giới thanh bình không cần đến vũ khí tối tân mà chỉ cần dùng lực lượng của Từ Bi nhân ái, Hỉ Xả và khoan dung. Một thế giới không cấu trúc bằng máu lệ mà hình thành bằng Tuệ Giác và tứ vô lượng tâm của mọi người hợp lại, thì đó mới là tuyệt cảnh an lạc hạnh phúc thường còn cho nhân loại chúng sanh mà Huỳnh Phật Sư đã hằng canh cánh nơi lòng Ngài. -Nói rằng Từ bi thắng hận thù nhưng tại sau xưa kia Ðức Phật dùng Từ bi hoà giải Vua tôi Lưu Ly Vương nhiều lần không đem lại kết quả để đến dòng họ Thích chết sạch vì tay bạo Chúa Lưu Ly. Việc ấy thế nào? -Ðức Thích Tôn dầu là vị Phật nhưng mà Ngài không thể nào chuyển đặng nghiệp báo trọng đại của những người họ Thích không tu. Những người họ Thích tu như Ðức Phật và hầu hết đệ tử Ngài đâu có ai bị Vua Lưu Ly giết. Ðức Huỳnh Giáo Chủ cũng đã minh định: “Ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai hoạ chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên….” Thay lời tựa. Nên nhớ rằng những ai đã tạo nhiều tội trọng sanh tử thì hãy tu đắc đạo mới chuyển đặng nghiệp báo ấy, hoặc tu chưa đắc đạo mà công đức cao thì nghiệp báo kia dầu chuyển chưa hoàn toàn nhưng cũng nhẹ để được tiến tu đến giải thoát sẽ dứt nghiệp. LÝ DUY TÂM “ÐỊA NGỤC CŨNG TẠI TÂM LÀM QUẤY, VỀ THIÊN ÐÀNG TÂM ẤY TẠO RA. CÁI CHỮ TÂM MÀ QỦI HAY MA, TIÊN HAY PHẬT CŨNG LÀ TẠI NÓ” (Giác Mê Tâm Kệ) Pháp yếu mầu nhiệm nầy nói về lý duy Tâm, được Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết hồi năm Kỷ Mão, tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hoà Hảo. Trong đây nói: Ðịa Ngục, Thiên Ðàng, Qủi, Ma,Tiên, Phật đều do tâm mình hiện ra tất cả. Trong các Kinh Ðức Phật từ xưa cũng đã từng phán dạy về lý duy tâm nầy: ”Nhất thiết duy tâm tạo.” ”Duy tâm sở hiện chư pháp,” ”Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” ”Tâm sanh chủng chủng pháp sanh,” ”Tâm diệt chủng chủng pháp diệt.” Từ nơi đáy lòng dơ, sạch của ta mà hiện ra mười pháp giớí : Pháp Giới Phật, Pháp Giới Bồ Tát, Pháp Giới Duyên Giác, Pháp Giới Thanh Văn, Pháp Giới Chư Thiên, Pháp Giới Loài Người, Pháp Giới Tu La, Pháp Giới Súc Sanh, Pháp Giới Ngạ Quỉ, Pháp Giới Ðịa Ngục. 1.Pháp giới Phậthật là pháp giới cao hơn hết. Phật nhiều đến vô lượng thì pháp giới phật cũng nhiều đến vô lượng, vì mỗi một Ðức Phật đều hiện một pháp giới để hoá độ các chúng sanh. Nếu chúng sanh nào thường dấy khởi, ức niệm Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỉ, Ðại Xả, Ðại Trí, Ðại Lực, Ðại Hùng, Ðại Hạnh, Ðại Nguyện, Ðại Giác và phát huy danh hiệu Phật liên miên nơi tâm mình thì sẽ hiện pháp giới thanh tịnh trong sạch trang nghiêm của Phật. 2.Pháp giới Bồ Tát:Bồ Tát thuộc hàng Ðẳng Giác đứng đầu trong tam thừa, hằng hoá độ vô lượng chúng sanh thành Phật Ðạo. Chúng sanh nào thường dấy khởi và liên tiếp ức niệm các hạnh Ðại Thí, Ðại Giới, Ðại Nhẫn, Ðại Tinh Tấn, Ðại Ðịnh, Ðại Trí Tuệ và các hạnh Ðại thừa khác thì sẽ hiện pháp giới Bồ Tát. 3.Pháp giới Duyên Giác: Duyên Giác thuộc nhị thừa, hàng thứ nhì trong tam thừa sau Bồ Tát. Duyên Giác năng lực còn yếu kém chỉ có thể hoá độ một vài người không như Bồ Tát. Nếu như chúng sanh nào từ nơi tâm vô ngã mà ức niệm quán xét mười hai duyên sanh vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc động, thọ cảm, ái, thủ, hữu và tâm hành theo MÔN HOÀN DIỆT như: Bát Chánh Ðạo, thanh tịnh tâm, nhơn từ tâm, vô sân tâm, vô ganh tâm, độ đời tâm, vô não tâm, vô ích kỷ tâm, thiện duyên tâm và niệm Phật tâm thì sẽ hiện pháp giới Duyên Giác. 4.Pháp giới Thanh Văn :Thanh Văn là pháp giơí của A La Hán, quả thứ tư trong tứ Thánh. Thanh Văn là hàng Thánh giả vừa mới được nhập lưu, năng lực rất là yếu kém chỉ có phần tự độ mà chưa hề dám hoá tha cho ai cả. Như ai từ nơi tâm vô ngã mà suy gẫm, quán xét đời vốn là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh. Rồi lại suy gẫm thấy đặng hoặc nghiệp là cội nguồn, là mấu chốt của cái khổ tử sanh trong lục đạo luân hồi. Ðể chấm dứt các nghiệp báo sanh tử hành giả dùng tâm mình quán tu Bát Chánh Ðạo và các pháp trong Ðạo Ðế. Sau hết hành giả được mở khai tuệ giác mà thấy rằng mình đã đoạn trừ nghiệp báo trong tam giới ra khỏi sự sống chết của kiếp vô thường thì cảnh giới Thanh Văn hiện ra và kẻ kia là A La Hán. 5.Pháp giới Chư Thiên. Chư Thiên là hàng đầu trong lục đạo luân hồi. Thiên giới nhiều vui ít khổ. Vui là vui trong khoái lạc của sắc giới và vô sắc giới, khổ là khổ khi gần mãn phúc báo nơi Thiên Giới và sẽ bị đoạ xuống cõi dục giới của trần gian. Nếu như chúng sanh nào dùng thiện tâm mà hành trì thập thiện và thường sống trong sơ Thiền, nhị Thiền, tam Thiền, tứ Thiền và các môn Ðịnh( các pháp Thiền và Ðịnh nầy là của ngoại đạo), thì sẽ cảm đến pháp giới Chư Thiên, về trên Thiên giới. 6.Pháp giới loài người: Người là hàng tiến hoá đứng đầu trong vạn vật, ưu thế hơn Chư Thiên. Bởi người khôn thiên hơn vạn vật và thường có Phật, Bồ Tát giáng sinh nên dễ tiến hoá hơn Chư Thiên và dễ phát tâm Bồ Ðề xuất ly tam giới trong khi các giới Chư Thiên chẳng phải dễ gì mà phát được tâm vô thượng ấy. Như trong hiện tại phát tâm nhơn thừa huân tu về luân lý tứ ân, không phạm mười điều ác và giữ lòng đức hạnh nhơn từ, hiền hoà lễ nghĩa, mến người tu, tin nhân quả báo ứng, kính trọng Phật pháp, hộ trì Tam Bảo thì tất là cảm được pháp giới người và sẽ được làm người trong những kiếp lai sinh. 7. Pháp giới A Tu La. A Tu La là pháp giới đại lực Thần. Chúng sanh nầy có sức mạnh hơn là lực sĩ ở thế gian; thích tranh đấu, nhiều nóng giận và có nhiều thứ thần thông. Nếu như ai dầu đã có biết làm lành tránh ác theo các pháp thế gian, tin có thiên đàng địa ngục, tin có tội phước báo ứng nhưng mà lấy tranh đấu làm nhựa sống, nóng giận là sở trường thì cảm đến pháp giới Tu La và sẽ được về cõi ấy. 8. Pháp giới súc sanh. Ðây là pháp giới của các chúng sanh đang chung sống lẫn lộn với ta mà ai ai cũng thấy biết tỏ tường về môi sinh của chúng. Thương thay cho các chúng sanh trong loài vật quá đỗi ngu mê đần độn chưa được tiến hoá bằng với ta! Ðó là đàn em ta; lúc sống thì ăn nhơ ở bẩn, khi chết bị cắt cổ, mổ bụng, lột da, bằm quyếch, chiên xào, nấu kho đủ thứ! Nhiều khi trong lúc còn sống bắt buộc phải làm các việc nặng nề và bị đánh đập, chửi mắn tàn nhẫn của chủ nhơn phi đạo đức của con người! Chúng sanh nầy làm sao có thể tu được, tội nghiệp thay! Cảm đến pháp giới súc sanh và bị sa vào cảnh giới nầy là bởi lòng người quá đổi đen tối, si mê, đắm chìm trong ngũ dục, thập ác không từ, tứ ân chẳng trả, đảo lộn cang thường, chà đạp luân lý, vô liêm bất chánh, nghĩa nhân chẳng màng, tội phước báo ứng chưa bao giờ có tin đến. Lại còn phá khinh Tam Bảo, tận diệt người tu. Nhơn hư tức quả phải khổ, giống đã là thứ cay thì làm gì được trái ngọt. Tâm là chánh báo, pháp giới là y báo. Chánh báo đã dơ thì đâu thể nào cảm đặng pháp giới trong sạch. 9.Pháp giới ngạ Quỉ. Ngạ Qủi là thế giới của loài Ma đói khát đau khổ. Chúng sanh nầy đầu lớn, bụng to mà cổ lại nhỏ xíu ăn nuốt vật chi cũng chẳng đặng, quá khổ! Ðã vậy, lại còn bị hành hạ vô cùng đau thương thảm khổ! Ðói quá độ nên vật chi cũng muốn quơ nuốt nhưng mà thương ôi! Hễ vừa đưa đồ dùng lên miệng thì vật ấy biến hoá thành lửa cháy tiêu, đã không ăn được lại còn bị lửa ấy đốt cả thân mạng vô cùng đau thương thảm khổ không sao nói cùng! Tại sao chúng sanh đó phải bị sa vào nơi cõi cùng khốn nầy? Vì lúc bình nhựt chúng sanh kia tâm địa quá đổi u mê tâm tối tạo nhiều trọng tội: Tham lam bỏn xẻn, cướp bóc trộm đạo, gạt gẫm người quê, lấn hiếp kẻ hiền không kiên luật pháp, túi tham không đáy, lòng dục chẳng cùng vơ vét góp tom bảo thủ chất chứa đầy tủ chật kho, chưa từng biết thi ơn bố đức cho bất cứ một ai. Tam Bảo không tin, Thần Thánh chẳng kể, hết tham của thế lại cướp đoạt của chùa, trộm vật Tăng Ni, phá hoại Phật Pháp. Ðó là đáy lòng hắc ám nên cảm cảnh giới đen tối của Ngạ Quỉ kia và thân Ma đói nọ chưa biết bao giờ mới được hoá kiếp! 10. Pháp giới Ðịa Ngục A Tỳ: A Tỳ ngục là nơi hết sức đặt biệt, dành cho các tội nhơn đặt biệt đáng lưu tâm. Ðây được trang bị đầy đủ các tiện nghi hành phạt, nào là vạt dầu xôi, nào là lửa hừng hựt, nào là xay quyếch, nào là cưa cắt, nào là chặt bầm, nào là biển lạnh, nào là rắn độc, nào là thú dữ, nào là quỉ xứ……nhiều môn thay đổi hành hạ ngày đêm không dứt, không cho được ngơi nghỉ phút nào! Hành cho đến chết rồi hoàn hồn hồi sinh lại, rồi hành nữa, chết đi sống lại ngày đêm chẳng biết bao nhiêu lần như vậy! Thời gian bị hành phạt nơi A Tỳ nầy cũng chưa biết là bao lâu mà tuỳ nơi sự hối cải của tội nhơn và tuỳ nơi có được cộng hưởng phúc báo của thân nhân, thân hữu nơi cõi trần gian hay không, và có cộng nghiệp ác với người thân đang sống trên cõi thế chăng. Nếu tội nhơn được người thân làm việc phước hồi hướng cầu nguyện cho thì mau được hoá kiếp, bằng vì mình mà người thân làm việc tội ác thì tội nhơn bị tăng thêm thời gian. Khó nổi nói cùng việc phức tạp nơi Ðịa Ngục A Tỳ nầy. -Những tội nhơn bị hành phạt tại Ðịa Ngục A Tỳ nầy hồi sanh tiền tạo nhân gì mà lại bị vào pháp giới đau khổ đặc biệt ấy? -Từ nơi cái tâm đệ nhất mê si ngu tối mà phạm vào các thứ trọng tội là: Tam độc, thập ác và ngũ nghịch nên cảm lấy pháp giới Ðịa Ngục A Tỳ. Ðịa Ngục Thiên Ðàng, Ma Qủi Tiên Phật cũng từ nơi đáy lòng dơ sạch, nhỏ lớn của chúng sanh mà có hiện, như đã trình bày qua mười pháp giới tương lai của chúng sanh. Thanh Ðề là người đã phạm vào ngũ nghịch, thập ác nên bị đoạ vào hắc ám A Tỳ bị hành phạt vô cùng đau khổ. Mục Liên là hiếu tử thiết Lễ Vu Lan cầu mẹ được thoát kiếp đoạ đày nơi Ðịa Ngục. Nhờ công đức báo hiếu Vu Lan mà Thanh Ðề được hoá kiếp tội khổ, sanh lên Thiên giới thừa hưởng phúc báo yên vui. A Xà Thế vì mê si đen tối nghe lời xúi giục của người bạn ác nhơn Ðề Ðạt Sa Môn giết cha, nhốt mẹ để đoạt ngôi phạm ngũ nghịch, thập ác tội đáng sa Ðịa Ngục muôn đời. Ðức Phật đã có một lần phán với A Nan và đại chúng: A Xà Thế đã phạm ngũ nghịch, thập ác phải bị đoạ vào Ðịa Ngục nếu y không đến Như Lai cầu xin sám hối. A Xà Thế nghe được việc thất kinh hồn vía, nhưng mà vì ngạo mạng nên không hề đến Phật cầu xin sám hối. Quan Ðại Thần Kỳ Bà khuyên y cũng không nghe. Tần Bà Ta La bị con sát hại nhưng mà được hưởng phúc báo sanh Thiên khi nhìn thấy đứa con bất hiếu của mình sẽ bị đoạ nơi A Tỳ Ðịa Ngục, Ngài dùng hoá thân xuống thế hiện giữa hư không khuyên con rằng: Nầy A Xà Thế, nếu con không đến Như Lai cầu xin sám hối tất con phải sa vào Ðịa Ngục A Tỳ. Bây giờ A Xà Thế hồi tỉnh lại sau một giấc ngủ của ác kiến vô minh. Ông ta đến ra mắt Ðức Phật, đây là lần đầu tiên để cầu xin với Phật ông ta được sám hối ăn năn các trọng tội mà mình đã phạm. Ðức Phật hoan hỉ chứng minh, nhờ đó mà A Xà Thế khỏi sa vào A Tỳ Ðịa Ngục. Tâm giết cha, hại mẹ là si mê đen tối nên sa Ðịa Ngục. Tâm sám hối lỗi lầm là tỉnh thức sáng soi làm cho Ðịa Ngục tan rã chẳng còn. Nghiệp báo địa ngục là bổi khô của tà kiến, sám hối là lửa tam muội của tuệ giác đốt tận bổi khô tà kiến chẳng còn. Tâm là Ðịa Ngục, tâm là Thiên Ðàng, tâm là Quỉ Ma, tâm là Tiên Phật. Tâm hiện ra mười pháp giới, mười pháp giới nằm trọn nơi tâm ta. Ðó là pháp yếu diệu huyền được Huỳnh Phật Sư khai thị và được đem ra suy gẫm bàn xét trong bài nầy. Bài nầy bút giả gợi ý để được nhiều kiến giải rộng sâu hơn hầu giúp cho những hậu tấn có được nhiều tư tưởng cao quí về học Phật. CHƠN HƯƠNG “CẦU TU CHO ÐẠT NGŨ HƯƠNG, HUƠI GƯƠM TRÍ HUỆ MA VƯƠNG HÃI HÙNG.” (Cho ông cò Tàu Hảo) Pháp yếu mầu nhiệm nầy Ðức Thầy viết tại Bạc Liêu, năm Nhân Ngũ (1942). Cầu tu: Nghĩa là vừa trau sửa thân tâm cho được tinh minh trong sạch, đoạn hoặc, dứt nghiệp chứng Chơn Thường, thoát khổ tử sanh và vừa nguyện cầu Tam Bảo gia bị để mình được kết quả thanh cao. Tu là tâm lực, trí lực; cầu là nguyện lực và Phật lực. Tu là duy tâm , cầu là duy Phật . Tu là tự lực, cầu là tha lực. Cầu tu là nhiếp cả duy tâm, duy Phật, tự lực, tha lực thành một sức mạnh vạn năng hầu tiến nhanh qua bờ Ðại Giác. Pháp yếu nầy Ðức Thầy phán dạy tu cầu đạt đến ngũ hương trong Phật pháp. Ngũ Hương: Nghĩa là năm món CHƠN HƯƠNG cao quí, nhiệm mầu của người tu chứng Ðạo. Năm món Chơn Hương ấy là: Giới Hương, Ðịnh Hương, Huệ Hương, Giải Thoát Hương, Giải Thoát Tri Kiến Hương. 1.Giới Hương. Ðó là tâm thường không ác đức, không độc hại, không lỗi, không quấy. Tâm lợi cho khắp chúng sanh mà lìa bốn tướng, tuyệt sáu trần. 2.Ðịnh Hương. Tức là tâm thường không loạn, tánh thường không nhiễm, bất động như như mà không lìa sở hữu tướng. 3.Huệ Hương. Tuyệt đích tánh thường không nhiễm, trí thường không mờ như gương không bụi vạn vật đồng hiện vào mà chẳng để lại hình ảnh trong minh kính. 4.Giải Thoát Hương. Ðến lúc lòng không dính mắc, không trói buộc tự tại ra vào mà không lưu lại dấu vết như nguyệt hiện dưới đáy sông, như bóng hình trong minh kính. 5.Giải Thoát Tri Kiến Hương. Ðã đến lúc năng sở chẳng còn, trí ngu bình đẳng, Niết Bàn sanh tử là cảnh hiện trong gương, Phật chúng sanh cùng đi trong mộng. Tri Kiến đã được giải thoát thì mới có thể bước vào nhà của Như Lai nhập Tri Kiến Phật. Ðến đây ta nhớ lại lời nói sấm sét của Phật: “Ngã pháp hành vô hành hạnh, Tu vô tu tu. Chứng vô sở chứng, Ðắc vô sở đắc.” Hạnh, tu, chứng, đắc còn không lưu lại dấu vết nơi tâm thì đó quả là Xả Vô Lượng Tâm của Phật. Hương Hải là một Thiền Sư của Việt Nam, Ngài tu và chứng Ðạo tại đảo Tim Bút Loa. Thời Hậu Lê. Vua Lê Dụ Tôn hỏi: Thế nào là ý của Phật? Thiền Sư đáp: “Nhạn hoá trường không, Ảnh trầm hải thủy, Nhạn vô di tích chi ý, Thủy vô lưu ảnh chi tâm.” Tạm dịch Lưng trời cánh Nhạn bay, Biển nước hiện thân rày, Nhạn không tâm lưu dấu, Nước chẳng hình Nhạn bay. Hương Hải là Thiền Sư đắc Ðạo nên đã vượt trên nhị kiến, giải thoát và được hoàn mãn Giải thoát tri kiến hương. Ngài diễn tả thâm ý của Phật trong một bài Kệ ngắn để vua lãnh hội tỏ tường nơi tuyệt đích của Phật học. Ngũ hương xuất phát từ Pháp Bửu Ðàn Kinh, Huệ Năng là vị đề xướng ra diệu pháp ấy. Huỳnh Phật Sư nhắc lại để dạy bảo các tín đồ hãy cầu cho mình tu được đạt năm món Chơn Hương vi diệu. Hằng ngày ta thường dâng hương để cúng Phật, đó là trầm hương chưa đáng giá. Ta hãy dâng năm món Chơn Hương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến Hương để cúng dường cho chư Phật, đó mới chơn công đức và mới đúng với ý nghĩa là đứa con tinh thần của Ðức Phật. Bây giờ ta lần lượt hiểu đến câu kế tiếp của đề giảng giải. Gươm Trí Huệ: Gươm là loại vũ khí dùng để phá giặc mạnh, sát oán tặc, đoạn ràng buộc. Trí Huệ là sự sáng suốt tận nguồn về lý trí, không còn lầm lạc bất cứ là một điều gì của các nhà hành Ðạo chứng đắc. Trí Huệ nầy vượt trên tất cả sự thấy biết của các giới phàm phu, Kinh Phật gọi đó là Trí Bát Nhã. Trí Huệ nầy thường tiêu diệt các loài Ma đen tối vô minh, sát oán tặc phiền não và tiêu diệt nghiệp báo côn đồ nên thường coi như là thanh gươm và ghép với Trí Tuệ thành Gươm Trí Huệ. “Gươm Trí Huệ Từ Bi chớp nhoáng, Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.” (Diệu pháp Quang Minh) “Mài gươm trí cho tinh cho khiết, Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không.” (Giác Mê Tâm Kệ) Nhiều nơi cũng đã nói như thế. Ma Vương: Tức là chúa loài Ma Quỉ thường nhiễu hại những kẻ tu hành. Ma Quỉ hại đời có nhiều hình thức, nơi đây xin đưa ra hai loại đó là: Duy tâm sở hiện Ma và hiện cảnh tác hại Ma. 1.Duy tâm sở hiện Ma là nói tâm độc hại, hung ác, dữ dằn và đen tối của ta đó chính là Ma đáng ghê tởm. Lại tham, sân, si tam độc là Ma; sát, đạo, dâm tam hại là Ma; mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn thất tình là Ma; thân, khẩu, ý, đen tối ác hại tam nghiệp là Ma; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhiễm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp lục tặc là Ma; tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, thập xử là Ma; nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả bốn tướng là Ma … kể mãi chẳng cùng. “Chơn Như tự tánh là Chơn Phật, Tà Kiến tam độc thật Ma Vương.” Tổ Huệ Năng đã chỉ rõ Ma Quỉ nơi tâm ta như thế. “Làm gian ác là Quỉ là Ma, Làm chơn chánh là Tiên là Phật.” Ðức Thầy cũng đã xác nhận Ma lòng như thế. 2.Hiện cảnh tác hại Ma. Ðó là Ma trên cõi Trời Tha Hoá chúng thường hiện để phá hoại những kẻ tu hành. Xưa Ðức Như Lai đã bị chúng hiện thân phá rối khi Ngài đang hành Ðạo. Ðức Phật dùng Bi, Trí, Hùng dẹp chúng, làm chúng tức giận thề rằng dầu hôm nay ta không phá được Ngài nhưng về sau đến đời mạt pháp ta sẽ hiện xuống mà phá hại Ðạo của Ngài cho được mới thôi. “Ðạo gần đắc Ma Vương theo khuấy, Dùng thần thông nghị lực dẹp tan.” (Khuyến Thiện) “Hồi thuở trước Thích Ca Phật Tổ, Ngồi tham thiền bị nó ghẹo hoài. Mà cũng không rúng động đặng Ngài, Nên cố oán phá đời mãi mãi.” (Giác Mê Tâm Kệ) Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã nói rõ về Ma sự như thế. Kinh Ðại Bửu Tích có nói về việc Ma Vương phá hại người tu như vầy: Bảo Thượng Vương Tử là vị khôn ngoan bậc nhất trên giới chư thiên, Ngài vừa phát Ðại Bồ Ðề Tâm định xuất gia tu cầu làm Phật. Khi ấy ánh quang minh của Ngài tung lên thật cao khác thường làm cho thế giới Ma Vương rung chuyển, Ma Vương hiểu biết việc Bảo Thượng Vương tử định xuất gia. Ma Vương nói với chúng Ma của y rằng: Ðã một lần thái tử của Thành Ca Tỳ La Vệ xuất gia tu thành Phật làm cho thế giới Ma của ta bị lu mờ, Ma chúng còn rất ít, thành trì sụp đổ khá nhiều, nay Bảo Thượng Vương Tử đi tu, khi Ngài đắc đạo thì chắc rằng thế giới Ma sẽ hoàn toàn sụp đổ hết, ta phải tìm mọi cách phá việc đi tu của Bảo Thượng cho kỳ được mới thôi. Khi ấy Bảo Thượng Vương Tử dùng thiên nhĩ nghe biết chuyện Ma Vương bàn tính phá mình, Ngài đến ra mắt Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát để xin cầu cứu. Bảo Thượng Vương Tử khi đến với Ngài Văn Thù, được Bồ Tát tiếp xúc vui vẻ. Bảo Thượng Vương Tử bạch với Bồ Tát Văn Thù rằng: Thưa Bồ Tát Ma Vương định đến phá tôi, chúng không muốn tôi đi tu vì lo ngại thế giới Ma sẽ bị sụp đổ toàn bộ khi tôi tu đắc Ðạo. Thưa Bồ Tát, xin Ngài cho lũ Ma Vương vào bụng của Ngài ráo hết cho tôi, kẻo chúng phá người tu chịu không nỗi. Nuốt đi Ngài, nuốt hết chúng Ma cho tôi đi Ngài! Ðể phá quá không ai chịu nỗi! Ngài Văn Thù cười và nói với Bảo Thượng Vương Tử: Mình là người tu hành, mình đã ăn chay thì ăn nuốt Ma sao đặng. Nầy Bảo Thượng Vương Tử, đối với chúng Ma mình đừng nghĩ đến việc phải ăn nuốt nó mà mình phải làm cho nó tu và bắt nó thuyết pháp cho đại chúng nghe. Bảo Thượng Vương Tử vâng lời dạy bảo của Ngài Văn Thù Bồ Tát và ra về nơi Thiên giới. Theo lời Ngài Văn Thù dạy Ngài Bảo Thượng Vương Tử trên đây thì người tu đừng sợ Ma mà hãy coi Ma là người bạn tốt vì chúng tuy hay phá Phật nhưng mà Phật đã nhờ chúng mới hiển những nét đặc biệt của đấng Toàn Giác. “Phật Ma, Ma Phật mới ra vở tuồng.” (Tự Thán) Ðức Thầy cũng đã đồng nhất tư tưởng với Ngài Văn Thù Bồ Tát. “Cầu tu cho đạt ngũ hương, Huơi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng.” Như đã trình bày là Ðức Ân Sư phán dạy người tu nếu đã có cái tâm, cái nguyện lớn rộng độ chúng sanh thì phải cầu cho mình đạt đến ngũ hương tức là đặng vào Tri Kiến Phật, mình có được Tuệ Kiếm tức mình sẽ thiết phục Ma lòng hay Ma Vương gì cũng đặng.
Pháp Yếu Tu Tập Cuả Cư Sĩ Đàm Liên Tịnh Giả (3) NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO “LUẬT NHÂN QUẢ THẬT LÀ CAO VIỄN, SUỐT CỔ KIM CHẲNG LỌT MỘT AI. VẬY TA NÊN LÀM VIỆC THẲNG NGAY, CỨ BỀN CHÍ CÓ NGÀY THÔNG THÔ (Khuyến Thiện) Pháp yếu quí giá nầy được rút ra từ tập Khuyến Thiện mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã viết tại nhà thương Chợ Quán, năm Tân Tỵ(1941). Ðó là một bài pháp thuyết minh về nhân quả nghiệp báo mà Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giáo hoá từ nghìn xưa. Luật: nghĩa là định luật, qui tắc đã định không thể dời đổi xê dịch đặng. Ðây là luật siêu hình nhưng mà bất di bất dịch. Nhân quả: Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là nghiệp, quả là báo. Nhân là chủng tử, quả là hiện sinh. Nhân sanh ra quả, quả trở lại làm nhân, rồi nhân sanh ra quả nữa mãi mãi và mãi mãi không cùng. Nghiệp và báo dính liền nhau từ quá khứ đến hiện tại và tương lai không dứt. Nhân quá khứ kết quả hiện tại, nhân hiện tại kết quả tương lai và cứ như thế từ đời nầy đến đời nọ vô cùng tận. Có khi nhân hiện tại quả hiện tại mà không đợi đến tương lai vì là nhân quá mạnh nên quả dính liền. Nhân quả lại có hai thứ: Cộng đồng nhân quả và biệt lập nhân quả. 1.- Cộng đồng nhân quả là nhân quả nghiệp báo cùng trong một gia đình hay một quốc gia xã hội, cộng tác và cùng nhau cộng hưởng những quả báo tốt xấu, khổ vui. Có khi mình không tạo nhân, chỉ tuỳ hỉ tán đồng với kẻ tạo nhân thì mình bị cộng đồng nhân quả nghiệp báo với họ. 2.- Biệt lập nhân quả là tự mình tạo nhân riêng biệt cá thể và tự mình hưởng lấy quả báo cá nhân mình. Biệt lập nhân quả là mình vừa hành động và vừa tác ý, nếu hành động mà không có tác ý thì chưa đủ gọi là nghiệp. Dầu cho cộng đồng nhân quả hay biệt lập nhân quả gì cũng vậy nếu tâm mình dấy động lên hoặc thiện hoặc ác thì đã đủ nhân tố của nhân quả nghiệp báo, nhưng hành động mà không có tác ý thì chưa đủ nhân tố để gọi là nghiệp. Ðức Phật từng phán dạy: Hành động có tác ý thì mới gọi là nghiệp. Ví như ta vô tình cỡi thuyền lên bãi cát chết sò dẹm chưa thể gọi là tạo nghiệp, nhưng khi ta muốn ăn sò dẹm một bửa dầu chưa ăn thì đã thành nghiệp báo. Thuyết nhân quả nghiệp báo đặc biệt quan trọng lưu tâm chỗ tác ý, vì tác ý đã là điều kiện tất yếu để tạo thành nghiệp báo. Tàng thức của ta chúng huân tập tất cả các thứ chủng tử thiện hay ác rất là cẩn thận, dầu cho thời gian trải qua bao lâu cũng không hư hoại và khi phản ứng lại thì vẫn mạnh bình thường. Nhưng mà cũng có những chủng tử trong tàng thức bị hư hoại vô hiệu không phản ứng đặng và mất luôn. Như mình đã làm một việc độc ác được tạng thức thâu nhận, nhưng mà sau đó tự biết sám hối ăn năn và tạo nhiều thiện nghiệp, trong tạng thức huân tập thiện chủng tư û nhiều làm cho ác nghiệp tan biến không thể báo ứng đặng. Hoặc có khi trước tạo thiện nghiệp , rồi sau đó tạo ác nghiệp quá nhiều làm cho thiện chủng tử bị suy yếu và hư hoại không còn đủ điều kiện phát sinh. Nhân quả báo ứng trải ba thời kỳ rất là phức tạp khó mà thấy và luận cho cùng, đây chỉ tạm đưa ra vài việc trọng yếu bàn giải đó thôi. Nhân quả nghiệp báo có một chiều sâu vô hạng, có một chiều rộng vô biên. Chiều sâu trải đến ba thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai như đã sơ lượt trình bày và chiều rộng giáp khắp sáu đường, ba cõi. Trước xin nói về nhân quả báo ứng trong ba cõi, sau sẽ nói nhân quả báo ứng trong sáu đường. 3.- Nhân quả trong ba cõi là tâm ưa thích các thứ dục và thường đắm chìm trong các dục lạc là nhân, sanh trong Dục Giới là quả. Tâm ưa thích hiện tượng của sắc là nhân, sanh nơi Sắc Giới là quả. Tâm đắm chìm trong vô sắc là nhân, sanh lên Vô Sắc Giới là quả. Ðó là nhân quả của ba cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Ðến nhân quả trong sáu đường là: 1.- Tâm hành và thường sống trong thập thiện và xa lìa các thứ dục là nhân, sanh lên Thiên giới là quả. 2.- Khởi tâm ưa thích và thường hành luân lý Tứ Aân, tránh xa thập ác là nhân, sanh được làm người là quả. 3.- Sân khuê nóng tánh, thích tranh đấu là nhân, sanh lên thế giới A Tu La là quả. 4.- Mê si đần độn, độc hại, đa dục là nhân, sanh vào súc sanh là quả. 5.-Tham lam bỏn xẻn, ác hại là nhân sanh vào Nga ïQuỉ là quả. 6.-Thập ác, ngũ nghịch là nhân sanh nơi Ðiïa Ngục là quả. Nhân quả trong ba cõi, sáu đường đơn giản như vậy, ta hãy coi đó mà chọn lấy nhân quả thanh cao tươi sáng cho mình. Nếu nói nhân quả trong ba cõi, sáu đường mà không nói nhân quả trên bốn hàng Thánh thì hết sức là bi quan tiêu cực. Thế nên, sau đây xin nói đến nhân quả trên bốn hàng Thánh: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. 1.- Tâm thường Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỉ, Ðại Xả, Ðại Trí, Ðại Hạnh, Ðại Nguyện, Ðại Lực, Ðại Hùng, Ðại Giác là nhân, vào ngôi Chánh Giác là quả. 2.- Tâm hạnh thường Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh, Trí Huệ là nhân, lên ngôi vị Bồ Tát là quả. 3.- Quán tu Duyên Sanh là nhân, vào ngôi Duyên Giác là quả. 4.- Quán tu Tứ Ðế là nhân, thành A La Hán là quả. Tóm lại hễ nhân giác thì quả thanh cao trên Tứ Thánh, bằng như nhân mê thì quả hạ liệt dưới sáu nẻo phàm; nhân sạch thì quả Thiên đàng, nhân dơ thì quả Ðịa Ngục. Nhân toàn thiện thì quả toàn thiện, nhân toàn ác tức quả toàn ác. Như hằng ngày ta thường niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Niệm niệm chúng sanh là nhân, làm chúng sanh là quả. “Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Vậy ta nên làm việc thẳng ngay, Cứ bền chí có ngày thong thã” Pháp yếu nầy Ðức Thầy cho biết rằng cái luật nhân quả nghiệp báo nó cao viễn vô cùng và sâu xa vô tận, tuy là vô hình nhưng không hề có thiếu xót một mảy nào dầu là việc rất nhỏ. Người tu hành phải tin nhân quả cho thật chắc chắn, cho thật sâu thẳm để hằng tạo các giống lành hầu được hưởng bông trái cao quí. Ðạo Phật lấy nhân quả làm nồng cốt cho sự tu hành, khi làm một việc chi dầu nhỏ hay lớn gì cũng vậy ta cần phải biết sự kết quả của nó, đó là điều hay nhứt. Khi thấy việc làm được kết quả thanh cao quí báo thì cứ cho nó được phát triển mạnh thêm hơn, bằng như thấy biết việc làm sẽ kết quả xấu xa hèn kém thì hãy chấm dứt không nên cho nó tiếp tục sinh hoạt. Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Cái nhân đáng sợ nên không dám làm chuyện bất lành, cái quả đã tạo rồi thì dẫu cho lo sợi gì cũng không khỏi thọ lấy quả báo đau khổ. Một lời nói bất chánh sẽ thọ quả báo đau khổ dài lâu, một hành động không lành sẽ mang nghiệp nặng nhiều kiếp. Tu là phải chọn lựa cái nhân cao quí trên hàng Tứ Thánh để gieo trồng, lọc lừa những thứ giống hạ liệt đau khổ nơi sáu nẻo phàm, chớ đem gây vào điền tâm hành giả. Ta không cần lựa quả mà hãy lựa nhân, nếu nhân không hư thì tất là quả sẽ chơn thật. Quả Chánh Giác muốn lên tất ta phải trồng nhơn vạn hạnh, cũng như muốn hưởng quả Bồ Ðề thì ta hãy trồng nhân tỉnh thức. Ðó là căn bản cho việc tu hành theo luật nhân quả mà Ân Sư ta đã truyền dạy. LỄ PHẬT CÔNG ÐỨC “SỰ LẠY PHẬT VỐN KHÔNG YÊN TĨNH, ÐẠO CẢM GIAO KHÓ TÍNH KHÔN BÀN. NAY TÔI Ở TRONG ÐẠO TRÀNG, CŨNG NHƯ KẾT CHẶT VÀO ÐOÀN NGỌC CHÂU. MƯỜI PHƯƠNG PHẬT HIỆN BẦU HÌNH ẢNH, CÓ BÓNG TÔI CŨNG SÁNH CÁC NGÀI. TỪ CHƠN CHO CHÍ MẶT MÀY, CÚI ÐẦU LÀM LỄ NGUYỆN RÀY QUI Y.” (Câu chú thường niệm) Bài Mật chú nầy Ðức Thầy dịch từ nguyên tác của bài chú: Năng Lễ, Sở Lễ, tánh không tịch... Trong quyển” Tăng đồ nhà Phật “ mà các vị Tăng Ni thường trì tụng. Lạy Phật : Nghĩa là ta dùng thân tâm trang nghiêm, năm vóc chí tới đất để tưởng niệm công đức của đấng Chí Tôn và nương tựa nơi Ngài. Lễ Phật thuộc trong giáo pháp Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện và Pháp Hoa Bất Khinh Bồ Tát. Lễ Phật có phân nhiều cách với nhiều ý nghĩa như: Ngã mạng lễ, cầu danh lễ, thanh tịnh lễ, bình đẳng lễ và nhập pháp giới lễ. 1.- Ngã mạng lễ là dùng tâm ngạo mạng để lễ Phật, đầu không chí đất và thiếu oai nghi đoan chính trong lúc hành lễ. 2.- Cầu danh lễ là người lễ Phật vì danh vị mà hành lễ, hễ có đông người thấy biết thì lễ nhiều, bằng không thì lễ cho chiếu lệ, với số lượng rất thấp. 3.- Thanh tịnh lễ là người hành lễ với lòng tôn kính và qui mạng Ðức Như Lai, thân tâm điều thanh tịnh năm vóc chí đất. Hành giả thanh tịnh lễ tất là đạt được năng và sở thường không tịch Chơn Tướng Thật Tướng của năng lễ và sở lễ vốn không tướng, tức là tịch diệt. Nên nói: “Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh.” Năng lễ và sở lễ vì là không tướng nên nó rất bình đẳng và hoà nhập với Thật Tướng Chơn Tướng của Chư Phật thành một Bản Thể bình đẳng nhất nguyên. Thanh tịnh lễ là hạnh tu rất đặc biệt của Chư Bồ Tát để cầu làm Phật. 4.- Bình đẳng lễ là dùng tâm bình đẳng mà đảnh lễ Phật. Năng lễ sở lễ bình đẳng, mình và Chư Phật bình đẳng, mình và Chư Bồ Tát bình đẳng, mình và Thánh Nhị thừa bình đẳng, mình và các chúng sanh bình đẳng không năng sở. Hai vị Ðại Bồ Tát Phổ Hiền và Bất Khinh đều hành hạnh bình đẳng lễ. 5.- Nhập pháp giới lễ là dùng tâm nhập vào pháp giới thanh tịnh trang nghiêm của Chư Phật mà đảnh lễ Phật. Ðây là thuộc về lý tánh rất khó hành, hạnh nầy dành cho Chư Bồ Tát tu tập. Năm cách đảnh lễ nêu trên , hai cách đầu ta không thể thực hành vì là ngã mạng và cầu danh. Cách thứ ba, thứ tư và thứ năm ta có thể tuỳ duyên mà áp dụng. “Ðạo cảm giao khó tính khôn bàn” : Ðạo nghĩa là Phật Tánh Chân Tâm. Khi ta dùng tâm không tịch năng sở chẳng còn mà lạy Ðức Phật thì Tâm mình và Tâm Phật cảm thông nhau thành một ánh quang minh sáng rực bất tận. Lúc ta lễ Phật với tâm không tịch, đầu mọp sát đất thì ngã và ngã sở đều tan biến và khi ấy Chân Ngã ta hội nhập Chơn Ngã Phật thành một thể bình đẳng nhất như không còn cách biệt, ví ánh sáng hai bóng đèn nê ong hội nhập khi bật điện. Ta dùng cái bình ngọc để chứa hư không trong đó thì hư không nhỏ xíu, khi ta đập cái bình ngọc bể tan thì hư không trong bình hoà nhập với hư không bên ngoài thành rộng lớn vô biên không ai đo lường đặng. Cái bình ngã tướng của ta khi bị tan biến do ta lễ Phật thì Tánh Chơn Ngã của ta bình đẳng với Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Ðức Phật. Chỗ nầy không thể nói bàn cho cùng tận. Nên nói”Khó tính khôn bàn.” Lễ Phật là để tựa nương Ðức Phật. Lễ Phật là để hoà đồng vào pháp giới của Phật. Lễ Phật là để hội nhập Chơn Ngã vô biên của Ðức Phật. “Phật đài phưởng phất mùi hương, Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.” (Kinh KHUYẾN THIỆN cũng đã dạy lễ Phật như thế) Lễ Phật là tu Bồ Tát hạnh trên giáo pháp Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đâu thể xem thường mà không chí thành đảnh lễ để vào pháp giới của Phật. “Nay tôi ở trong đạo tràng, Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.” Ðạo tràng là nơi tôn nghiêm thờ kính Tam Bảo và chỗ hành đạo. Ðoàn ngọc châu là xâu chuỗi tràng bằng ngọc quí báo, hình ảnh đều hiện vào nơi mỗi hột châu óng ánh xem tuyệt đẹp. Nơi đây nói rằng nay mình tu hành trong môi trường đạo đức thì mình là một hột châu trong xâu chuỗi đạo, mình được tôn quí như bao nhiêu hột ngọc của xâu chuỗi đạo, mình làm đẹp mắt cho mọi người, mình là bảo vật cho chúng sanh nhân loại, mình làm cho chúng sanh không còn thiếu thốn. Ðặc biệt là mình được kết vào xâu chuỗi đạo, mình không còn bị rơi rớt vào nơi tà kiến ngoại đạo, mình không còn bị rụng xuống chốn hố sâu vựt thẳm của dòng suối luân hồi, mình sẽ được thăng hoa đến cao đỉnh như bao nhiêu hột châu quí giá Như Lai. Từ khi ta cất bước đi tu thì ta là một hột châu quí báo được kết vào xâu chuỗi đạo, ta không còn là sỏi đá bị đùa vào hẻm hóc thấp hèn truỵ lạc, không bị đem đổ nơi hố sâu ác hại tam độc mà được đưa lên nơi tôn quí trang nghiêm tinh khiết ngũ hương, tịnh thanh của lục độ, an vui của bát lạc, sáng suốt của tứ trí và cao vút của tứ vô lượng tâm. Nếu ta thấy được sự quí báo của mình là một hột ngọc trong xâu chuỗi đạo thì ta sẽ không xem thường việc đi tu và sẽ được luôn luôn đặt vào hàng đầu trong lẽ sống. Ngọc đã là khó gặp rồi, lại là một tràng chuỗi ngọc mà mình là một trong xâu chuỗi ngọc ấy thì cái sự quí giá cao đẹp làm sao mà nói cho cùng! “Nay tôi ở trong đạo tràng, Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.” Lời nói nhẹ nhàng, mát dịu ấy vừa hiển minh giá trị cao quí của người tu, vừa cho biết những kẻ đã phát cái chí nguyện cầu tu giải thoát thì đã được kết vào xâu chuỗi đạo sẽ không bao giờ phải rơi rụng nơi lục đạo luân hồi. “Mười phương Phật hiện bầu hình ảnh, Có bóng tôi cũng sánh các Ngài” Mình là một hột ngọc trong xâu chuỗi đạo, cho nên những hình ảnh mười phương chư Phật hiện vào trong mỗi hột châu của xâu chuỗi Ðạo thì hình bóng Phật trong hột châu mình cũng được hiện vào và lúc ấy hình bóng ta, hình bóng Phật đồng giao cảm mật thiết và bình đẳng nhau tuy hai mà một. Bây giờ ta được nhìn thấy ta và Phật đồng bình đẳng trong hột chuỗi tâm và đồng được kết vào trong tràng chuỗi đạo, làm vui đẹp cho khắp nhân loại chúng sanh. Cái nầy là sự độc đáo đặc biệt nhất của người tu có hoài bảo hoá tha lợi chúng. Dù chưa thành Phật mà được kết vào xâu chuỗi đạo thì ta đã được nhập lưu vào hàng Thánh giả tất sẽ đến Phật như chư Phật vậy. Nếu có một người phát chí nguyện cầu tu xuất ly tam giới, thì đó là cuộc cách mạng tư tưởng rất là vĩ đại, chấn động đến cả mười phương pháp giới của chư Phật, người đó là viên bảo châu vô giá và được kết vào xâu chuỗi ngọc vô giá của đạo, người đó luôn luôn được quí trọng tôn kính nơi lòng người. “Từ chơn cho chí mặt mày, Cúi đầu làm lễ nguyện rày qui y.” Qui y :Nghĩa là qui mạng, là nương tựa đấng từ tôn tối thắng Thế Tôn Như Lai. Ðức Phật là quả đất vô biên, qui y với Phật là ta đem cây Bồ Ðề Ðạo của mình mà trồng nơi quả đất Tâm của Phật, được đất Tâm Phật un đúc vun quén để cây Bồ Ðề Ðạo của mình được đơm bông kết trái hữu ích cho chúng sanh. Ðất tâm Phật có đến vô lượng cây Bồ Ðề Ðạo được cành lá sum sê, bông trái xinh tươi, bóng che mát rượi, gió chuyển cành khua vang lên tiếng nhạc đắc Ðạo diệu mầu, làm cho chúng sanh lay tỉnh trong những cơn ác mộng vô minh nhiều đau khổ. Lại nữa, qui y với Phật là mình đem hột ngọc quí của mình mà kết vào xâu chuỗi ngọc của Phật, ngọc mình được Phật gìn giữ cẩn thận không khi nào bị đánh rơi vào hố thẳm của ác kiến ngoại đạo mà cũng không bị rụng xuống biển sanh tử luân hồi. Người tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo chẳng những được qui y với Tam Bảo lần đầu mới vào Ðạo, mà còn được qui y với Tam Bảo trong hằng ngày của mỗi thời hành lễ sớm và chiều theo qui tắc đã định. Mỗi lần hành le,ã mỗi lần qui y là mỗi lần ta tự nhắc nhở mình: ta đã qui y đây, ta đã đem viên ngọc của mình kết vào xâu chuỗi Phật, ta được sánh với Phật, ta được nhập lưu vào dòng Thánh rồi, ta hãy làm theo hạnh Phật, nói năng theo Phật, tư nghĩ theo Phật để được thành Phật. Huỳnh Phật Sư dịch bài mật chú nầy là một án văn kiệt tác! Nhìn trước, ngó sau sẽ không có được một lối dịch nào được đặc sắc như thế. Không những văn bút được trang nhã mà tư tưởng lại còn rất sâu xa, làm cho người đọc tụng thấy rõ Phật Tánh cố hữu của mình, gây một đức tin rất mãnh liệt ở Phật Tánh mình bình đẳng với Phật và mình sẽ được thành Phật. Lễ Phật và qui y là công hạnh được nêu cao, được tán dương và khích lệ để mọi người được hướng thượng hành trì. Lễ Phật là Bồ Tát hạnh, qui y là Bồ Tát Ðạo, lợi chúng hữu tình là Bồ Tát Tâm đã được chứa nhóm trong bài mật chú nầy, kẻ đọc tụng và hành trì theo đây là đã từng trồng căn lành với Phật, nhứt quyết là sẽ thành Phật. LẶNG TÂM NGỘ ÐẠO “TU VỚI TỈNH BIẾT LÀM CHẲNG KHÓ, NẾU LẶNG TÂM TỎ NGỘ ÐẠO MẦU.” (Giác Mê Tâm Kệ) Pháp yếu quí giá nầy Huỳnh Phật Sư viết tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hoà Hảo, năm Kỷ Mão. Ðây là một lối tu rất đặc biệt về nội tĩnh để ngộ Ðạo, nhưng mà phải biết mới tiện hành. Thế nên pháp yếu nầy cần hội đủ ba việc: Biết làm, lặng tâm và ngộ Ðạo. Biết: Bên khổng Giáo gọi là Trí Tri, nghĩa là thông đạt, hiểu biết lý sự vạn pháp. Phật Giáo có nhiều lối giải khác nhau vì là nhiều môn phái. Giáo Tông gọi là liễu nghĩa, thiền Tông gọi là đốn ngộ, Tịnh Ðộ gọi là liễu Tông, Luật, Mật… cũng đều có nhận định khác. 1.- Liễu nghĩa của Giáo Tông là hành giả phải liễu đạt về nghĩa lý Kinh, Luật, Luận cho tinh tường thế nào là quyền thiệt, thế nào là đốn tiệm, thế nào là đại tiểu, thế nào thiên viên. 2.- Ðốn ngộ của Thiền Tông là một hành giả Thiền trước phải đốn ngộ tâm mình, tức là hiểu biết đâu là vọng, đâu là chơn ngỏ hầu huân tu Ðịnh Huệ. 3.- Liễu Tông của Tịnh Ðộ là hành giả phải hiểu rõ Tông yếu của Tịnh Ðộ là Tín, Nguyện, Hạnh. Từ nơi thâm Tín Tâm, thâm Hạnh Tâm và thâm Nguyện Tâm tịnh giả tiến hành môn Tịnh Ðộ. Ðặc biệt là, một hành giả dầu tu môn nào cũng vậy đó là phải biết mình. Mình ở trình độ nào, mình có nhân duyên với pháp môn nào và phù hạp với lối tu nào. Nếu không tự hiểu biết mình mà cứ tu và nghe ai bảo thế nào làm theo thế nấy, nay làm vầy, mai làm khác thì khó mong đạt đến viên thành. Cũng như mình muốn khuyên một người tu thì mình phải biết người ấy thuộc trình độ nào, có nhân duyên với pháp môn nào để mình áp dụng cho đúng cơ hợp lý mới được kết quả. Bằng chẳng như vậy thì phải bị cái lỗi trị bịnh phạm thuốc rất là tai hại! Chữ biết rất là quan trọng trong lãnh vực người tu vì là biết làm chẳng khó nên nhiều nơi khác Ðức Thầy cũng đặc biệt lưu tâm cho các tín đồ: “Tu biết cách như đương biết đát, Ðương đát rành đặng dựa xe loan.” “Nếu ai mà biết chữ tu trì, Tâm bình tịnh được thì phát huệ.” “ Ðạo mà biết mùi thơm bát ngát, Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.” Về mặt xã hội, khi người ta muốn thành công bất cứ là việc gì dầu lớn hay nhỏ cũng phải biết mới thâu gặt sự kết quả. Thương mại, kinh tế, ngoại giao, kiến trúc, trị bịnh, viết văn và thợ, nghề… là hình nhi hạ trong thế gian mà còn phải biết mới làm đặng. Nói chi việc tu hành giải thoát thuộc hình nhi thượng xuất thế, thì giá trị của sự hiểu biết là dường nào! Chữ biết trong đề luận nầy được đặc biệt lưu ý là “ biết lặng tâm”, vì hễ tâm lặng tức huệ khai, Ðạo mầu cũng từ đây mà được chứng ngộ. Lặng tâm: Ðó là trạng thái trong nội thể dứt bặt các thứ hư tưởng và những tâm hành tạp loạn, phù hạp với Tam Muội Tâm. Lặng tâm bên Thiền gọi là vô tâm vô niệm, Tịnh Ðộ gọi là nhứt tâm bất loạn, Luật Tông gọi là Thi La Tánh, Mật Tông gọi là một lòng không loạn…. 1.- Vô tâm vô niệm của Thiền Tông là cái đỉnh cao chót vót của các hành giả Thiền, chỉ còn cần bước trên đỉnh ấy một bước là đắc đạo. Như thế vô tâm vô niệm chưa phải là Ðạo, vô tâm vô niệm còn cách với Ðạo một ải quan đặc biệt nữa. Hai chân đã vọt lên khỏi đỉnh núi mà vẫn được dững dưng như mình đứng trên đỉnh núi đó là trạng thái BÌNH THƯỜNG TÂM của những vị Thiền Sư đắc Ðạo. Những cây gậy Thiền mà các Thiền Sư tạm dùng cho đệ tử, nó chỉ là một giai đoạn từ sơ tâm đến vô tâm là phải tự ném nó, không được nương mãi, nếu không xa nó đặng thì phải bị trôi qua một kiếp tu hành! “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Vô vi bí pháp.” Ðó là thông điệp căn bản của Thiền học mà các hành giả Thiền ai cũng nằm lòng. 2.- Nhất tâm bất loạn của Tịnh Ðộ là kết quả rốt ráo Tịnh Tông. Sự nhất tâm đồng nghĩa với vô tâm vô niệm của Thiền, lý nhất tâm là đồng nghĩa với Bình Thường Tâm bên Thiền. Hành giả Tịnh Ðộ phải có đủ ba món tâm: Tín bất thối tâm, Nguyện bất thối tâm, Hạnh bất thối tâm. Ba món tâm nầy là yếu chỉ, là cương lĩnh Tịnh Ðộ. Thứ nhứt: Tín bất thối tâm là hành giả hãy tin pháp tu Tịnh Ðộ, tin Ðức Phật A Di Ðà và 48 Ðại Nguyện tiếp dẫn của Ngài, tin Bổn Quốc Cực Lạc, tin Thích Ca Mâu Ni Phật, tin Huỳnh Phật Sư, tin tâm ta là Phật quyết định ta sẽ vãng sanh thành Phật, không hề bị thối chuyển. Thứ nhì: Nguyện bất thối tâm là lập cái chí nguyện vãng sanh thành Phật, hoá tha lợi chúng, một đời quyết tu Tịnh Ðộ, không thối chuyển, không đổi dời. Thứ ba: Hạnh bất thối tâm là lập hạnh niệm Phật tu hành đến thành quả, không để bị thối bước. Hành giả phải có chí lớn mới đạt được hạnh, nguyện lớn để khỏi bị cái tội nguyện suông, vô ích. Nhất tâm bất loạn của Tịnh Tông là hành giả niệm Phật đến lúc phục được phiền não, niệâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật bất ly tâm, tức tâm tức niệm, tức niệm tức tâm, tâm là niệm, niệm là tâm không chỗ cách hở. Nội tâm không dấy khởi các trần duyên, ngoại cảnh không xâm vào chánh niệm, đó gọi là sự nhứt tâm bất loạn. Cứ như thế mà phát huy Nam Mô A Di Ðà Phật mãnh liệt nơi tâm mình, rồi một ngày nào đó Phật Tánh của ta tự được khai ngộ và đây là lý nhất tâm bất loạn. Khi ấy ta được hoàn toàn đổi mới, và rất phù hạp với chư Phật trên mười phương. 3.- Thi La Tánh của luật Tông là hành giả hãy tự nhiếp thân, khẩu, ý vào Tánh Thể thanh tịnh, không còn dấy lên các niệm quấy ác, độc hại, lỗi lầm. Nhiếp luật nghi, nhiếp thiện pháp và nhiêu ích hữu tình là công hạnh huân tu của hành giả Luật Tạng. 4.- Một lòng không loạn của Mật Tông là dùng Mật chú trì tụng trong tâm, cho đến khi nào Mật chú nơi tâm không còn chỗ hở, các vọng niệm chẳng còn chỗ phát sanh, nghiệp báo chấm dứt và khi ấy được tự tại mà du hí thần thông, dạo chơi trong các cõi siêu hình, hữu ích cho chúng sanh vạn loại. Thiền, Tịnh, Luật, Mật tuy kiến giải chẳng đồng và dụng công có khác nhưng mà chủ đích cũng chỉ để được lặng tâm hầu đặng tỏ ngộ Ðạo mầu đó thôi. Cái quí của Thiền là vô tâm, cái hay của Tịnh là nhất tâm, cái diệu của Luật là Thi La Tánh, cái huyền của Mật là một lòng không loạn để rồi kết tinh lại thành LẶNG TÂM mà đạt Ðạo! “Tỏ ngộ Ðạo mầu”: nghĩa là đắc Ðạo, Kiến Tánh, vào Như Lai Tri Kiến, Niết Bàn, Cực Lạc tức vượt trên ba cõi nhập lưu trên hàng Thánh giả đại thừa. Nhưng nên nhớ rằng được đứng nơi các địa vị quí báu nói trên là hãy được Lặng Tâm vì đây là chánh báo, còn cảnh giới trên Thánh giả nói đó là y báo, nếu chánh báo chẳng thành thì y báo do đâu mà được lập. Nương nơi lời huấn thị của Phật Sư bút giả xin đưa ra đây vài phương tiện tu hành hầu vào cảnh giới Lặng Tâm để được đắc Ðạo. Thứ nhứt: Hãy tự gìn giữ thân, khẩu, ý được trang nghiêm thanh tịnh, không để phát sanh mười việc ác. Thứ nhì: Hãy dùng trí kiến để thấy tận nơi đáy lòng mình để ngăn ngừa gìn giữ sáu căn chớ để đắm nhiễm nơi sáu trần hầu bảo vệ cho tâm mình được yên lặng để tiếp nhận Nguyệt Cảnh hiện vào mầu nhiệm. Thứ ba: Hãy dùng tâm Thâm Tín, Thâm Nguyện, mà chuyên niệm Nam Mô A Di Ðà Phật cho được bền bỉ trường kỳ, cho thiết tha ai khẩn, quá khứ không màng, vị lai chẳng nghĩ, chỉ chết sống với sáu chữ hồng danh. Ðược như vậy không lâu các vọng trần thưa nhẹ, nghiệp báo tiêu dần, vô minh tan biến. Khi ấy nguồn tâm thanh thoát, thảnh thơi, lặng lặng… tỉnh tỉnh… dẫn đến nhứt tâm hay cũng được gọi là Tam Muội. Hành giả Tịnh Tông đến được chỗ nầy tức được nhập lưu Bồ Tát và thường vui Cực Lạc duy tâm, khi vãng sanh sẽ an ngự toà sen trên Thượng Bối. Ba lối tu tập nầy nếu hành giả vừa thanh tịnh tam nghiệp, vừa không nhiễm sáu trần, chuyên tâm niệm Phật thì chắc rằng tâm bình, tánh tịnh Ðạo quả viên thành, chúng sanh hoá độ. LÝ LUÂN HỒI “ GÂY RA LẮM NỢ PHONG TRẦN, LUÂN HỒI SÁU NẺO KHÔN LẦN BƯỚC RA. RÀY TỈNH NGỘ ÁI HÀ QUYẾT DỨT, ÐÈN ÐẠO TÂM SÁNG RỰC SOI ÐƯỜNG.” (Cho ông cò tàu Hảo) Pháp yếu quí giá nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Bạc Liêu, năm Nhâm Ngũ. Gây ra: Tức là tự mình tạo cái nhân để rồi mình hưởng lấy quả báo. Tất cả cái vui, cái khổ trong đời nầy, mình là chủ nhơn tạo ra, không phải việc ngẫu nhiên mà có đặng. Nợ: Là cái nghiệp quả do mình tạo trong quá khứ hoặc ở hiện tại mà kết thành. Nghiệp có nhiều thứ: Hắc nghiệp, Bạch nghiệp, Không hắc không bạch nghiệp. Hắc nghiệp và Bạch nghiệp là nghiệp tương đối tốt xấu trong nhơn Thiên; Không hắc không bạch nghiệp là quả vô vi vô lậu trên hàng Thánh giả của Tam thừa, tứ Thánh. Phong trần: Phong là gió vô minh, trần là bụi phiền não. Vô minh và phiền não kết nạp lại tạo thành nghiệp báo đau khổ vô cùng tận từ luỹ kiếp đến nay. “Gây ra lắm nợ phong trần”: là nói từ nơi tâm hành trái với Giác Tánh, rồi tự mình gây tạo nghiệp báo đau khổ triền miên bất tận. Nghiệp báo từ nhiều đời cộng với hiện tại nhiều còn hơn là rừng núi, nếu chúng có hình tướng thì hư không nầy chứa cũng không hết. Nếu cái tâm trái với Giác Tánh mà tạo nghiệp, thì ta hãy dùng cái tâm ấy thuận theo Giác Tánh tức là ta chuyển nghiệp báo đau khổ kia thành chánh báo trang nghiêm và y báo vui tươi hạnh phúc đâu phải là việc chẳng thể làm. Bởi vì: “Ðịa Ngục cũng tại tâm làm quấy, Về Thiên đàng tâm ấy tạo ra.” (Giác Mê Tâm Kệ) Luân hồi: Luân là chuyển đi, hồi là xoay lại. Luân hồi là chuyển đi và xoay lại mãi mãi trong bánh xe lục Ðạo từ vô lượng kiếp đến nay vô cùng đau đớn chua cay mà nào ai có thấu hiểu cho cùng tận! Sự chết sống của chúng sanh trong lục đạo xương thịt nhiều như núi rừng, nước mắt khổ sầu tràn ra còn hơn là nước biển! Sáu nẻo: Trời, Người, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa Ngục. Sáu con đường nầy chúng sanh cứ quanh quẩn để trả vay, vay trả lẫn nhau không một lối thoát. Nếu không được Phật nhãn thấy biết và khai thị thì có ai hiểu đặng. Ðức Phật đã thấu hiểu cái nỗi khổ của chúng sanh trong lục Ðạo và Ngài còn chỉ cho những phương pháp đi ra khỏi cái vòng lẩn quẩn luân hồi, đó là Bi tâm của Ðức Phật. “ Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”: Là nói những ai là người khôn ngoan sáng suốt hãy bước lần ra khỏi sáu nẻo luân hồi đau khổ kia để được giải thoát ngoài tam giới mà hưởng an vui nơi Cực Lạc Niết Bàn. Nhưng mà khi ta muốn ra khỏi sáu nẻo luân hồi, điều tiên quyết là ta phải thấu hiểu tận tường cái cội rễ của sự sanh tử trong lục Ðạo. Ta đừng sợ hãi, cũng đừng bi quan khi ta đang là kiếp luân hồi, nếu ta biết lấy luân hồi làm nhựa sống tiến hoá thì luân hồi cũng là món trợ Ðạo cho ta đấy. Những nghiệp báo khiến ta bị chuyển luân trong bánh xe lục đạo là con đẻ của vô minh, nếu vô minh được tận trừ thì nghiệp báo tử sanh luân hồi sẽ chấm dứt. Nói diệt vô minh đó chỉ là một từ ngữ thông dùng trong Phật học, chưa đem thi hành trên thiệt tế. Cho nên diệt được vô minh ta phải biết chi mạc vô minh, ta không cho chi mạc vô minh phát hiện trong cuộc sống hằng ngày của mình, rồi tự vô minh sẽ bị tan rã. Lấy kiếp người hiện tại của ta mà nghiệm xét chi mạc vô minh. Nếu tâm ta thường dấy khởi về thập thiện, về thanh tịnh trong sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền thì đó là Bạch nghiệp ta sẽ chuyển lên các cõi Trời mà hưởng phúc báo. Ðây là chi mạc vô minh thứ nhứt về sanh tử. Nếu như trong hiện tại ta thường dấy khởi cái tâm về luân lý tứ ân, một con người đúng với qui cách của con người tiến hoá thì ta sẽ được chuyển trở lại làm người trong mai hậu. Ðây là chi mạc vô minh thứ nhì để hoá kiếp trong lục đạo và chính đó là Bạch nghiệp. Hiện kiếp ta thường dấy cái tâm nhân ngã hơn thua tranh đấu cho thỏa lòng ngã tướng, cho hả dạ sân khuê, cho vừa lòng ích kỷ thì ta sẽ chuyển hoá thành kiếp A Tu La. Ðây là chi mạc vô minh thứ ba, đó là thuộc về Hắc nghiệp. Cái tâm trong kiếp người hiện tại của ta nó thường dấy khởi những niệm đần độn mê si, đa dục, hiếu sát, tham lam ích kỷ, phi đạo lý luân thường, phi lễ nghĩa liêm sĩ, ác nhơn hại chúng thì sẽ chuyển đến súc sanh. Ðây là chi mạc vô minh thứ tư và cũng là Hắc nghiệp. Hiện tại kiếp người của ta nếu thường dấy khởi cái tâm tam độc tham, sân, si và các hạnh sát, đạo, dâm , ích kỷ bỏn xẻn, phá người tu, hại kẻ hiền, không tin nhân quả, chẳng kể báo ứng thì sẽ chuyển đến thế giới Ngạ Quỉ. Ðây là hắc trọng nghiệp, chi mạc thứ năm của vô minh. Khi kiếp người hiện tại thường dấy khởi cái tâm ngu mê đen tối và hiện hành ngũ nghịch, thập ác và các tội nặng khác, suốt đời chẳng biết hối tâm thì bị chuyển đến Ðịa Ngục A Tỳ hành hạ trả lấy quả căn. Ðây là hắc cực trọng nghiệp, chi mạc vô minh thứ sáu làm ta bị luân hồi. Những chi mạc vô minh vừa kê cứu trên đây nếu hiệp chung lại thì gọi là căn bản vô minh, khi ta diệt được các vô minh chi tiết thì vô minh gốc cũng sẽ không còn tồn tại. Hỏi: Nếu diệt hết các tưởng nghĩ về Bạch nghiệp hoặc Hắc nghiệp để không còn chi mạc vô minh thì có bị rơi vào cảnh giới phi tưởng, phi phi tưởng của ngoại đạo không? Ðáp: không! Ta không bị rơi vào cái ngoan không của ngoại đạo. Bởi lẽ, khi ta diệt tận chi mạc vô minh, tức là Bạch nghiệp và Hắc nghiệp không còn tồn tại , cùng lúc ta cho phát khởi cái ý tưởng, cái tâm hành, cái hạnh trong cuộc sống những không hắc không bạch nghiệp. Ðó là chủng tử vô vi vô lậu, nghiệp quả trên hàng Tứ Thánh toát ngoài tam giới, vượt nẻo luân hồi. Vô vi vô lậu nghiệp đó là: “Nhớ từ bi hai chữ ngâm nga, Dầu làm lụng cũng là trì chí.” “Thiền định đặt làm thể , trí huệ đặt làm mạng..” “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa, Vọng cửu huyền sớm tối mới mầu.” “Việc vui say mèo mã đâu đâu, Hãy dẹp gát nhớ câu lục tự.” “Nam Mô A Di Ðà Phật sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên…”` Những công đức Từ, Bi, Hỉ, Xả sáu Ba La Mật, Ngũ Hương,Bát Chánh, niệm Phật Ðức Thầy truyền dạy đó là Phật Ðăng, Thánh Nguyệt đưa chúng sanh trong tam giới thoát nẻo luân hồi . Từ Bi vô lượng, Phật Nguyện vô biên Huỳnh Phật Sư xuất hiện chỉ vì tát biển sanh tử, diệt nẻõo luân hồi cho vạn loại chúng sanh. Khi ấy Ngài mới yên vui nơi thanh tịnh. “ Bể trầm luân khô cạn sáu đàng, Tăng Sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.” (Trao lời cùng ông Táo) Ðại Giác, Ðại Nguyện của Ân Sư được tiếp nối từ Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật làm cho nhựa sống Phật Ðà được tái tạo trong thế hệ chúng ta, ta phải là một sứ giả của Phật, của Thầy hầu tiếp nối dòng suối tâm linh tĩnh thức đã được trải dài gần 26 thế kỷ nay cho được tồn tại mãi mãi trong thời gian bất tận, tát và tát mãi biển sanh tử luân hồi. Bây giờ ta đi đến câu: “Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt” Tỉnh ngộ tức là nay mình đã được giác ngộ, mình đã qui y tu hành tìm đường giải thoát, mình thường thuận với Giác Tánh, mình sẽ lên ngôi Thánh. Aùi hà nghĩa là sự thương yêu trìu mến nhỏ hẹp của nhục dục, hệ phái của lục dục, thất tình, tạo ra sầu hận đau thương vô bờ từ luỹ kiếp. Cái thứ thương yêu của tình ái, của dục tánh con người nó sâu rộng như biển cả, như sông dài nên thường gọi là ái hà. Lại nữa, thứ tình ái của chúng sanh nó là nước ái dục, lúc trời thanh biển lặng các con thuyền nhỏ thích bơi trên nước, vui theo biển, tự cho là đã tự tại, nước nào hại được thuyền ta! Nhưng chao ôi! Bão thất tình, sống lục dục khởi nhanh, thổi mạnh chỉ trong một vài phút các thuyền bé tiêu sạch, nằm sâu nơi đáy biển, chuyển qua thế giới nào cũng chưa rõ! Phần chắc là lục đạo chớ gì!! Các bi tâm mẫu hạm cũng không sao cứu đặng. “Ðắm say một phút cội lành xa, Sớm tỉnh trì tâm chống quỉ tà.” (Thức tỉnh một nữ tín đồ) Chỉ vì một phút sa cơ mà thuyền giác phải bị đắm chìm trong biển ái để rồi phải mang thân trong lục đạo luân hồi thọ khổ biết bao! Chính thế mà Ân Sư khẩn thiết khuyến dạy: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt, Lòng Bồ Ðề sắt đá dám kình.” (Diệu pháp quang minh) Và vì quá nóng lòng nên có lúc phải vang vọng: “Mài gươm trí cho tinh cho khiết, Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không .” (Giác mê tâm kệ) “Tư tưởng lợi danh, quyền tước nghĩa vợ tình chồng…Ấy về phần tà.” (Chánh tư duy) “Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung, Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm.” (Khuyến Thiện) Bây giờ ta đi đến câu: “Ðèn đạo tâm sáng rực soi đường” Nghĩa là Trí Tuệ Bát Nhã sáng soi rực rỡ trên lộ trình qua bờ giác, không để bị rơi vào hẻm hóc tà kiến vô minh, không để sa vào bể ái, không để bị tấp vào bãi rác lợi danh, không để bị lạc nơi núi lửa sân hận mà thẳng một đường giác ngạn hầu có sớm treo gương mầu. Nói một cách khác, đèn đạo tâm là trí đạo mà kẻ tu hành cần phải cho được đồng thời phát triển với tâm đạo thì đường tu mới được tấn hoá và khỏi bị vấp phải lỗi lầm. Trót đã gây tạo nghiệp báo luân hồi trong sáu nẻo, ta phải tỉnh thức và mạnh dạn đoạn tuyệt lòng trần đam mê, luyến ái cảnh duyên ảo ảnh để lần bước đến bờ giải thoát vinh quang hạnh phúc an lạc thường hằng. Ðèn trí cần thấp lên để phá vô minh ác kiến, tận diệt phiền não nơi tâm, soi đường giác cho chúng sanh nương tựa. Tâm tạo nghiệp luân hồi, tâm sẽ chuyển nghiệp báo sanh tử. Lúc mê bị nghiệp chuyển, khi tâm được giác thì phải chuyển các nghiệp mê. Nghiệp là huyễn cảnh của vô minh, hãy cần lấy cái huyễn tâm của Tuệ Giác mà hoá giải chúng. Lấy huyễn trừ huyễn, huyễn tâm và huyễn cảnh chẳng còn tất là Chân Giác Diệu Minh thị hiện, quả báo luân hồi chuyển thành chánh báo, y báo trang nghiêm thanh tịnh. TÂM NGUYỆN HOÁ THA “DỐC TÂM NGUYỆN ÐẾN PHẬT ÐÀI, HIỆP CÙNG CHƯ PHẬT ÐỘ RÀY CHÚNG SANH.” (Cảm Tác) Pháp yếu mầu nhiệm nầy Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Bạc Liêu, năm Nhâm Ngũ. Một yếu pháp chở đầy nhựa sống Ðại Thừa Phật Giáo, nay xin được đưa ra bàn xét những nghĩa lý huyền vi hầu đem vào trong cuộc sống, trách nhiệm của thế hệ hiện tại là như vậy. Dốc tâm: Là dốc hết tâm lực, dồn cả nghị lực, cứng rắn dũng mãnh hướng về Phật, hiệp với Phật hoá độ chúng sanh. Tâm đó được gọi là Bồ Ðề Tâm hay Bồ Tát Tâm. Bồ Tát bao giờ cũng cưu mang tâm địa, trên hướng về Phật, dưới hướng đến chúng sanh và hoá giải cho muôn loài. Chúng sanh khổ Bồ Tát đâu thể yên vui, bao giờ chúng sanh được an vui thì Bồ Tát tuỳ hỉ theo đó mà cùng vui với đại chúng. Dốc tâm nơi đây được nhiếp đủ ba đức tánh: Ðại Bi, Ðại Trí và Ðại Hùng của Bồ Tát Tâm. 1. Ðại Bi là lòng thương xót chúng sanh đang lặn chìm trong bể thảm đang ơi ới cầu cứu, đang trong đợi tình thương và đang mong chờ từ mỗi phút giây thuyền từ đem đến! Ðể đáp lại nguyện vọng của chúng sanh đang kêu than cầu cứu, Bồ Tát hướng cầu Phật gia bị để được viên mãn Bồ Tát hạnh của mình. Bi Tâm vô bờ của Bồ Tát là bao giờ cũng muốn độ tận chúng sanh, nếu còn một chúng sanh chưa được độ là Bồ Tát chưa thành bản nguyện: “… phải nhớ rằng sanh linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế trước hết phải tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc thành Ðạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục luỵ .” Chánh Tinh Tấn Ðó là Bi Tâm chan chứa mà Huỳnh Phật Sư trao cho những người con Phật để phát khởi năng lượng của Bồ Tát Tâm, Bồ Tát Nguyện, Bồ Tát Hạnh. 2.- Ðại Trí là cái nhìn sâu thẳm, cái thấy bao la của tâm địa Bồ Tát. Thấy tận trần lao của chúng sanh đang khổ, thấy rõ Niết Bàn Cực Lạc mà Chư Phật và Bồ Tát hiện thuyết pháp cho các chúng sanh. Bồ Tát từ nơi Ðại Trí mà thấy được vô lượng nổi khổ của chúng sanh trong tam giới, biết được cội rễ của các thứ khổ đau, biết được phương pháp diệt tận khổ đau trả lại sự an vui hạnh phúc. Từ Ðại Trí Bồ Tát không lầm bất cứ việc gì trong cõi thế. Từ Ðại Trí mà Bồ Tát dám đi vào các cõi khổ hoá tha cho đại chúng. Bồ Tát dốc tâm làm một việc gì là được viên mãn không bị thối bước. Với trí sáng tâm tịnh của Bồ Tát thường ban cho chúng sanh những tình thương vô lượng mà không biết mỏi mòn. Như Ðức Thầy thố lộ: “Thương quá sức nên ta bịn rịn, Quyết độ đời cho đến chung thân. Nếu thế gian còn chốn mê tân, Thì ta chẳng yên vui Cực Lạc.” (Giác Mê Tâm Kệ) 3-. Ðaị Hùng là sức mạnh vạn năng của tâm địa Bồ Tát, lướt tới mãi mãi không thối lui, dầu cho có khốn khổ thế nào cũng đành cam chịu miễn là được tác lợi cho chúng sanh là được. Từ Hùng Tâm mà Bồ Tát từng hi sinh thân mạng mình cho chúng sanh được thừa hưởng phúc lợi, chẳng bao giờ có hối tiếc hay nãn lòng. Dốc tâm đến với đức Phật để hoá giải cho chúng sanh đó là việc làm của các bậc Thượng Nhơn Tâm địa Bồ Tát, mà Huỳnh Phật Sư ân cần khuyến hoá. Dốc tâm đến Phật Quốc trang nghiêm để cùng với Ðức Phật hoá độ chúng sanh, nếu không được cấu trúc bằng năng lượng của Ðại Bi, Ðại Trí và Ðại Hùng thì đâu thể thành tựu như nguyện. Thế nên Bi, Trí, Hùng là cơ cấu cho sự dốc tâm cầu Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Ðạo hầu đến Bồ Tát bổ sứ viên mãn. Nguyện : Là hướng đến Ðức Phật cầu xin mong ước nhờ Phật lực hộ trì cho mình được thành đạt viên mãn. Nguyện đến với Ðức Phật để hoá độ chúng sanh tức là Bồ Ðề Tâm đã dấy khởi. Chủng tử Phật sống mạnh và bắt đầu phát triển nhanh đến khi thành quả. Từ nơi Tâm Lực, ta phát khởi Nguyện Lực đó là hai sức lực vạn năng dẫn đến Giác Hạnh viên mãn trên ngôi Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề. Nguyện Lực của Bồ Tát được cấu trúc bằng Bồ Ðề Tâm và Kim Cang Trí nên nó vừa cứng rắn vừa bền bỉ không thể tiêu mòn hư hoại đặng. Còn trong địa vị phàm phu mà nguyện đến Phật để hợp tát với Ngài hoá độ chúng sanh thì đó quả là Ðại Nguyện được kết tụ của Bi, Trí, Hùng của người cầu quả Chánh Giác mà Huỳnh Phật Sư đã huấn thị tỏ tường. Phật Ðài: Là nơi tôn nghiêm Phật ngự, là pháp giới của Phật như câu: “Phật Ðài phưởng phất mùi hương, Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.” Khuyến Thiện. Pháp giới của chư Phật dầu ở cách xa cái cõi Ta Bà ta đang ở đây, nhưng mà hễ tâm ta vừa hướng đến với Phật để nguyện cầu việc gì đó thì Tâm Phật cũng hướng đến ta, hai ánh quang minh của năng nguyện và sở nguyện hợp nhứt thành một Thể Tánh sáng rực bất tận. Khi ấy bản Nguyện ta thành là nguyện Phật và tâm Phật thành bản nguyện ta. Thật là” Ðạo cảm giao khó tính khôn bàn”. Nên nhớ, nếu Nguyện của mình lớn bằng tâm Phật thì nó mới hội nhập với tâm Phật, bằng như Nguyện mình nhỏ xíu thì nó không thể nào hội nhập được với tâm Phật, chỉ có thể nó hội nhập với các Thánh Tam Thừa. Nơi đây Ðức Thầy dạy ta Nguyện đến Phật đài tức Tâm Nguyện ấy có đủ năng lượng hội nhập vào quang minh Tâm của Phật. “Hiệp cùng chư Phật “ :Tất là ta hợp tác với Phật đoàn hoá đạo cho khắp nhân loại chúng sanh. Người ta hợp tác làm ăn coi bộ khó quá, còn mình nguyện hợp tác với Phật để đi hoá đạo sao mà hình như dễ dàng thế? Ðã dễ như vậy mà Phật khuyên hết sức thế còn ít kẻ làm theo, nếu khó như người ta vào thương mại thế giới có ai phát tâm, phát nguyện cho được. Nhưng mà đối với người biết thì là không khó, bằng đối với kẻ không biết thì tất phải khó đến thiên nan vạn nan. Bởi vì: “ Tu với tỉnh biết làm chẳng khó”. “Ðộ rày chúng sanh”: Ðộ là hoá độ, tức đưa chúng sanh từ bờ mê sang bờ giác. Cái Tâm muốn độ chúng sanh quả là Bồ Tát Tâm mới có năng lực hoá tha lợi chúng. Thật vậy hiệp với Phật độ chúng sanh đó là Bồ Tát Hạnh bởi đã cấu tạo từ nơi Bồ Tát Tâm, Bồ Tát Nguyện của hành giả. “Dốc tâm Nguyện đến Phật đài, Hiệp cùng chư Phật độ rày chúng sanh.” Ðó là lời nói được xuất phát từ Bi Tâm và Trí sáng của đấng cứu thế trong thời đại chúng ta. Nếu xưa Ðức Từ Phụ Thích Ca chỉ vì khai thị cho chúng sanh được vào Tri Kiến Phật mà Ngài xuất hiện trên trái đất, thì hôm nay Huỳnh Phật Sư cũng chỉ vì muốn chúng sanh đồng được thành Phật hầu hoá độ chúng sanh mà truyền dạy cho các tín đồ pháp yếu đặc biệt nầy. Làm theo đây tức có đủ Bồ Tát Tâm , Bồ Tát Nguyện và Bồ Tát Hạnh năng lượng dẫn đến Phật quả viên mãn. NIỆM PHẬT “MUỐN NIỆM PHẬT CHẲNG CẦN SỚM TỐI, GHI VÀO LÒNG SÁU CHỮ DI ÐÀ. THÌ HIỀN LƯƠNG QUÊN MẤT ÐIỀU TÀ, ÐẶNG HẠNH PHÚC NHỜ LÒNG CỐ GẮNG.” (Giác Mê Tâm Kệ) Pháp yếu nầy được rút ra từ tập Giác Mê Tâm Kệ mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo, năm Kỷ Mão. Niệm Phật: Tức là niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, Thánh hiệu của Ðức Từ Phụ Di Ðà Giáo Chủ Phật Quốc Cực Lạc Tây Phương. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là pháp yếu hành trì mau được giải thoát thành Phật hoá độ chúng sanh. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là diệu pháp chuyển trừ nghiệp báo trong tam giới được hữu hiệu nhất, phiền não dễ được tiêu trừ nhất, thẳng tắt trên lộ trình sang qua bến giác nhất. “Chẳng cần sớm tối”: Là nói người niệm Phật không nên cô đọng hành trì trong hai thời chiều tối và sáng sớm chỉ vài ba tiếng đồng hồ còn thời giờ kia thì không cần đến việc tu niệm, vì như thế thì khó được thuần thục chánh niệm hồng danh. “Ghi vào lòng sáu chữ Di Ðà”: Là hãy luôn luôn phát huy sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật nơi tâm mình không cho gián đoạn. Niệm trước niệm sau được rắn chắc nối liền, nối liền khi đi đứng, lúc nằm ngồi đều được niệm không dứt, không hở. Ngoài các thời khóa đặc biệt của chương trình hành đạo, hành giả còn cần niệm Phật luôn luôn như trong lúc tĩnh tu đặc biệt trong các sinh hoạt hằng ngày. Cái quý giá của sự niệm Phật là đạt đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm thì nghiệp báo trong tam giới mới được chuyển trừ và như thế mới được tự tại vãng sanh mà cúng dường cho hậu thế. “Thì hiền lương quên mất điều tà”: Là nói khi ta dùng tâm lực của mình mà chấp trì Thánh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật cho có công phu thì tất cả các tà tư tạp niệm của thất tình, lục dục tự biến mất và tâm hồn được an nhẹ, Phật Tánh từ từ hiển lộ những nét hiền lương nhân ái, hảo tướng trang nghiêm, cảm được nhiều người tu niệm. Tâm ta dầu cho xấu ác loạn động đến thế nào, khi ta niệm niệm Di Ðà không gián đoạn thì tâm tự thanh tịnh, trí tự sáng suốt, lòng tự mát dịu, hạnh tự nhu hòa, Pháp Thân tự sống. Lúc nào phiền não dấy khởi mạnh quá ta thử niệm Phật theo lối cao thanh chừng vài mươi phút thì tự được hàng phục, và từ đó sẽ tinh tấn, phấn khởi đạo tâm, không còn bị thối chuyển. “Ðược hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”: Phàm làm chuyện gì cũng thế nếu cố gắng tất sẽ đạt đến thành công. Niệm Phật đâu phải là việc chẳng thể làm, chỉ vì ta chưa tận tâm đó thôi. Ðau khổ vô cùng thế mà mình còn tạo được, còn như hạnh phúc an vui sao lại không biết khắng tâm tạo lấy. Cái khổ Ta Bà do niệm niệm chúng sanh mà có, niềm vui Cực Lạc từ niệm niệm Phật mà thành. Mỗi một câu Di Ðà mỗi một niềm vui hạnh phúc, mỗi một niệm chúng sanh mỗi một đau khổ ê chề. Cái hạnh phúc trì danh không chỉ được lạc trú trong hiện tại tạm thời mà còn được hưởng Cực Lạc nơi Phật Quốc trang nghiêm lên ngôi bất thối dẫn đến thành Phật hoá tha lợi chúng. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Thí, nên tâm hằng niệm hồng danh tức lòng tham chẳng sanh, Phật Tánh Bi Tâm phát hiện. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Giới, ta hằng niệm Thánh hiệu không hở tức ác tâm chẳng dấy khởi, Phật Tánh Từ Tâm được thể hiện chan hòa. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Nhẫn, ta hằng niệm hồng danh tức tánh nóng nảy sân hận bị tiêu diệt không dấy khởi, Phật Tánh hiền lương nhu hòa chan chứa nơi tâm. Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Tấn, ta niệm Phật không rời tức tánh biếng lười mất dạng Phật Tinh Tấn thường thể hiện lòng ta làm cho Bồ Ðề tâm mình được phát triển mạnh. Niệm Phật danh là Ðịnh, ta chí thiết Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật tức là các loạn tưởng lắng xuống, Phật Tánh Thanh Tịnh được thể hiện nơi lòng, khiến ta hằng thảnh thơi không bị các phiền não chi phối. Thánh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật là Huệ, ta chí thiết niệm hiệu Phật tức là ác kiến vô minh không có cơ hội dấy khởi, Phật Tánh Tuệ Giác được hằng chiếu soi làm cho PHÁP THÂN ta từ từ lay chuyển sống lại. Nam Mô A Di Ðà Phật là Từ Tâm vô lượng, ta niệm Phật không rời thì ác tâm tự mất, Phật Tánh Từ Tâm phát hiện nơi lòng mình, mình từ từ gần với chư Phật. Nam Mô A Di Ðà Phật là Bi Tâm vô lượng ta chuyên niệm thánh hiệu không rời tức lòng hung ác chẳng còn dấy khởi, Phật Tánh hiền hòa của Bi tâm thường thể hiện. Nam Mô A Di Ðà Phật là Hỉ Tâm vô lượng, ta niệm thánh hiệu Phật bất ly tâm tức các phiền não buồn bã ưu sầu sẽ không sinh hoạt nơi lòng, Phật Tánh Hỉ Tâm thường xuất hiện làm ta hưởng được lạc trú trong hiện tại hầu phấn khởi Bồ Ðề Tâm trên lộ trình giải thoát. Nam Mô A Di Ðà Phật là Xả Tâm vô lượng, ta niệm Di Ðà tức lòng câu chấp của thành kiến không còn lố bóng nơi ta, Phật Xả Tâm an ngự nơi tâm hồn mình, mình được an nhẹ thanh thoát, thảnh thơi nhàn hạ tiêu dao nơi đất tâm, biến nơi trụ xứ của mình thành Ðạo tràng siêu thượng, những hoa thơm cỏ lạ hiện vào, những chim hót, lá rơi, cây khua, suối đổ thường diễn ra khúc ca chứng đạo! Aân Sư dạy ta “Ghi vào lòng sáu chữ Di Ðà” là khai thị cho ta cái diệu pháp thành Phật được bảo đảm ngắn nhất và dễ hành nhất! Nếu ta hằng phát huy Thánh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật nơi tâm mình với mong cầu thoát hóa Phật Quốc Tây Phương, vào ngôi vị Như Lai bổ xứ hoằng độ chúng sanh thì đó là Bồ Tát Tâm, Bồ Tát Ðạo và Bồ Tát Hạnh trên Phật học Ðại Thừa Phật Giáo. Huỳnh Phật Sư dạy ta “Ghi vào lòng sáu chữ Di Ðà” là khép cửa tam giới, khai lộ hồi sinh nhứt thừa, đưa khách hữu duyên hướng về Phật Quốc trang nghiêm, tiếp tay với Phật để hằng đi khắp các cõi khổ hoá tha lợi chúng. “Ghi vào lòng sáu chữ Di Ðà” Huỳnh Phật Sư dạy ta cũng chính là THÔNG ÐIỆP căn bản của Tịnh Ðộ Tông vậy. THẮNG PHỤC LÒNG MA “LŨ TAM BÀNH TRONG BỤNG CÒN ÐEO, ÐOÀN LỤC TẶC TA MAU SỚM GIẾT.” (Giác Mê Tâm Kệ) Tam bành: Tức là ba nơi chứa nhóm hắc chủng tử, nguyên nhân cấu tạo sanh tử trong tam giới. Ba nơi chứa nhóm là ý thức phân biệt, tâm thức chấp giữ, phàm tánh ham muốn. 1.Ý thức phân biệt: Là khi năm giác quan đối đãi với các trần cảnh bên ngoài, ý thức chứa nhóm các duyên và phân biệt nào là tốt xấu, phải quấy, quý tiện, thuận nghịch, đắc thất… làm cho Tri Kiến Phật của ta bị mờ ám, sự thấy biết không còn đúng với chơn lý. 2.Tâm thức chấp giữ: Là từ nơi phân biệt của ý thức, bấy giờ tâm thức gìn giữ những gì mà lòng mình ưa thích. Bảo thủ khắng chắc, không thể buông bỏ đặng và cho đến chết cũng vẫn đem theo để làm thân hậu báo. 3.Phàm tánh ham muốn: Là luôn luôn ham muốn những thứ mà tâm thức đã giữ gìn, chứa nhóm từ lâu, không sao được đầy đủ. Tánh ham múốn ấy ví như là hư không, tất cả các thứ dục tình nhiều như rừng núi chứa cũng không đầy đặng. Thức phân biệt, tâm cất giữ, tánh gom góp nó lanh như chớp, lẹ như Thần nên cho nó là Tam Bành. Ba tên Thần Bành vừa nói trên nó thường chứa nhóm các chủng tử luân hồi trong Tam Giới khiến ta phải luân chuyển trong lục đạo luân hồi từ lũy kiếp đến nay. Lục tặc: Là sáu tên cướp bốc trợm đạo, chúng thường cướp giựt những trân bảo công đức ta một cách rất khủng khiếp. Tên thật của chúng là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; hiệp lại với sáu tên giặc bên ngoài là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp thường phá hoại tài sản ta vô cùng tàn bạo. Mắt ưa xem sắc đẹp, Tai ưa nghe tiếng hay, Mũi ưa ngữi hương thơm, Lưỡi ưa đồ ngon béo, Thân ưa sự sung sướng, Ý ưa chức phận cao. Từ nơi sáu căn nhiễm với sáu trần mà có huân nhập được sáu món. Ðó là sắc nhập, thinh nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, pháp nhập toàn là những thứ làm cho hư tâm, hoại tánh sa đọa lâu đời nào có ích chi! Tam Bành cấu kết với Lục Tặc thường đánh phá Chúa Tâm Vương, cướp lấy Quốc Bảo: Ngọc Bảo Vương Tam Muội cùng Tuệ Kiếm Quốc Bảo Tiên Vương làm cho ta phải trở thành là kẻ ăn xin trong gia đình lục đạo, ngủ vất dưới xó bếp thất tình, tay sai đắc lực cho ngũ dục, mặt mũi ta bị tô màu ngũ ấm, đâu ai nhìn ra được gương mặt “CHỦ NHƠN ÔNG”! Nhưng rồi ta phải làm thế nào đây? Aân Sư phán dạy: “Ðoàn lục tặc ta mau sớm giết”. Ðúng rồi! Nhưng mà phải giết bằng cách nào? Xét ra, nay Quốc Bảo Tuệ Kiếm, Ngọc Bảo Vương Tam Muội chẳng còn chỉ có mang theo một linh phù hộ mạng, đó là Nam Mô A Di Ðà Phật. Câu mật chú hồng danh này nhiếp được lục thông. Khi nào nhiếp tâm trì tụng mật chú lục tự ấy đến lúc nhứt tâm thì sáu món thần thông phát hiện, khi ấy Tam Bành Lục Tặc tất chẳng còn. 1.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến khai mở thấy các sắc pháp tự tánh là không nên chẳng còn nhiễm sắc trần. Gọi đó là Thiên Nhãn Thông. 2.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến được khai mở nghe các thinh trần tự biết đó là huyễn nên chẳng nhiễm thanh trần. Gọi đó là Thiên Nhĩ Thông. 3.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến được khai mở ta biết được tâm ý của tha nhơn. Gọi đó là Tha Tâm Thông. 4.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến ta khai mở, thấy chư pháp trong tam giới không còn nhiễm ô, bổng về Phật Quốc. Gọi đó là Thần Túc Thông. 5.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến khai mở ta thấy được nhiều kiếp của mình trong quá khứ và thấy rõ tánh tướng trong hiện kiếp nên không bị ô nhiễm sáu trần. Gọi đó là Túc Mạng Thông. 6.Khi ta chí thiết niệm Phật Tri Kiến khai mở thấy được các pháp hữu lậu là vô thường, là khổ, là vô ngã nên tự không ô nhiễm các nghiệp duyên hữu lậu, vượt thoát luân hồi. Gọi đó là Lậu Tận Thông. Trì niệm linh phù lục tự đến được nhất tâm, Khai mở Tri Kiến Phật thì thần thông tự phát hiện đầy đủ sáu món, vượt trên ba cõi, thoát khỏi luân hồi hướng về Phật Quốc Tây Phương chầu Ðức Di Ðà, lên ngôi bất thối, thẳng đến Phật Quả. Tam Bành Lục Tặc bây giờ là thị giả bên cạnh ta và được pháp danh là Tam Minh Lục Thông. Chúa Tâm Vương phục quốc, quốc bảo Tuệ Kiếm cầm tay, ngọc Bảo Vương Tam Muội đeo óng ánh, mặt mũi sáng quắc của “CHỦ NHƠN ÔNG”! Cái hay của việc tu hành là biến ác thành lương, biến Ma thành Phật, chuyển Ta Bà thành Phật Quốc trang nghiêm. Tam Bành biến thành Tam Minh. Bành Thức thành Tha Túc Minh, Bành Tâm thành Túc Mệnh Minh, Bành Tánh thành Lậu Tận Minh. Ðổi Lục Tặc thành Lục Thông đó là diệu dụng, là biết thắng phục được Ma lòng. Khi chưa tu thì sáu căn cảm nhiễm sáu trần liên miên, đến niệm Phật tu hành từ từ sáu căn được nhẹ bớt và khi ta niệm Phật có công phu của nhất tâm bất loạn thì sáu căn trong sạch, sáu trần không nhiễm, sáu thức thanh tịnh trang nghiêm, sáu thông phát hiện. Tam Bành Lục Tặc là hiện tướng của vô minh, vô minh được tận trừ thì Tam Bành Lục Tặc sẽ biến mất. Muốn diệt được vô minh tất phải nương vào con thuyền tự giác. Bởi vì: “Diệt mê si phải nương thuyền giác” mà Ðức Thầy đã phán dạy tỏ tường. Khởi niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là Thỉ Giác, niệm Phật được không gián đoạn là Tương Tục Giác, niệm niệm Di Ðà đến nhất tâm bất loạn là vào Bản Giác. Nếu Giác Tánh được hoàn nguyên tất vô minh bị tận diệt, vô minh bị tận diệt thì hiện tướng của vô minh là Tam Bành Lục Tặc tất cũng sẽ biến hình theo căn gốc của chúng. Như vậy vô minh tức là Giác Tánh, cũng như Tam Bành Lục Tặc là Tam Minh Lục Thông như đã nói trên. Cái mầu nhiệm, cái diệu huyền của phép trì danh niệm Phật là vậy đó. TRÁI TIM TRONG SẠCH “CƯ TRẦN BẤT NHIỄM LÀ NGƯỜI THÁNH, LẪN TỤC ÐỪNG MÊ CHỨNG BỰC HIỀN.” (Luận việc tu hành) Bất nhiễm: Là lòng thường trong sạch, tánh thường thanh tịnh, trí giác linh minh như nguyệt hiện dưới hồ trong, như sum la vạn tượng trong minh cảnh. Bất nhiễm là trạng thái của bình thường tâm, một tâm hồn đã phủi sạch trần ai, những thứ sạch dơ đã không còn tồn trong tạng thức, dưới ánh mắt bao giờ cũng nhìn thấy tất cả các chúng sanh đều bình đẳng Phật tánh với Phật nên bao giờ cũng kính trọng và bao giờ cũng muốn cho tất cả chúng sanh đồng được thành Phật. Bất nhiễm là hình ảnh chứng Ðạo của Thiền Sư, các Ngài thường dạo khắp phố phường, thôn lạc, tham dự các việc xã hội nhân sinh mà lòng vẫn tự nhiên không bám víu các lợi danh, tài sắc và sống rất bình thường không bao giờ lập dị. Bao nhiêu những công án Thiền cũng chỉ để đánh thức các Thiền Sinh được tỉnh thức, để sống với tinh thần Bất nhiễm đúng với quy cách của kẻ tu hành đã được chứng chơn giải thoát. “Cư trần bất nhiễm” là Huỳnh Phật Sư phán dạy cái Ðạo nhập thế cứu đời thì không thể tách xa xã hội mà hãy “hòa kỳ quan”, “đồng kỳ trần” để hóa giải cho nhân sanh đại chúng , nhưng mà lòng chớ để bị bợn nhơ trần cấu. Hãy để cho trái tim được trong sạch và được đập đúng với nhịp nhàng của Bi, Trí và của tỉnh thức. Hãy đem chơn lý Thiền vào cuộc sống, hay nói hãy sống đúng với chân lý Thiền. “Cư trần bất nhiễm” chính đó là THIỀN hay cũng chính đó là ÐẠO. Thiền hay Ðạo tuy là danh từ có khác nhưng cùng đồng một nghĩa là Bản Giác Toàn Chơn Bất Sanh Bất Diệt của ta vậy. Bản Giác Toàn Chơn vốn là vô tướng vì nó không phải là một vật chi, mà đã vô tướng thì lấy cái gì làm chỗ cho bụi nhơ trần cấu bám vào. “Bản Lai vô nhứt vật, Hà xứ nhá trần ai.” (Pháp bửu đàn kinh) Người Thánh: Nghĩa là con người như bao nhiêu người trong xã hội, nhưng mà vượt lên con người vì là bất nhiễm trần, nên gọi là Thánh. Chữ Thánh ở đây là Tứ Thánh quả: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Thanh Văn từ nơi cái tâm vô ngã huân tu Tứ Diệu Ðế mà phá được ngã ái chấp tàng, không còn tập quán nhiễm ô nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; dứt tất cả nghiệp báo trong Tam Giới, thường sống trong Hữu Dư Niết Bàn. Duyên Giác cũng từ tâm vô ngã huân tu Thập Nhị Nhơn Duyên cùng với pháp Hoàn Diệt mà phá được ngã sở chấp, vô minh và phiền não của hai lớp tư hoặc và kiến hoặc tận trừ, chuyển hết nghiệp báo trong Tam Giới, thường an trú trong thanh tịnh Niết Bàn. Bồ Tát từ Bồ Ðề tâm phát khởi huân tu Lục Ðộ vạn hạnh mà không còn nhiễm bốn tướng: Nhơn tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng và hằng lo hóa độ các chúng sanh. Phật là đấng Pháp Vương thường dùng Từ Tâm mà ban vui cho pháp giới chúng sanh, dùng Bi Tâm mà cứu khổ cho muôn loài mà không biết mỏi mòn nhàm chán. Nơi nào có chúng sanh khổ là có Phật hoá hiện đến để nhổ các cái gai khổ và đem lại những an vui hạnh phúc. Phật cũng thường dùng Hỉ Tâm mà ban cho những chúng sanh nghịch ác hại Phật, những sự trái duyên làm trở ngại sự hành hóa của Phật. Cuối cùng Phật dùng Xả Tâm mà buông bỏ, phóng xả tất cả những sự tu chứng, thành Phật, thuyết pháp hóa tha, không chấp giữ bất cứ một hình bóng nào trong Bản Lai Thanh Tịnh. Cái không của Phật đã vượt trên tất cả cái không nhiễm của các Thánh Tam Thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát “Cư trần bất nhiễm là người Thánh” :. Cho ta thấy rằng trong cõi trần gian nầy nếu như ai mê nhiễm bụi trần là chúng sanh, bằng như không mê nhiễm bụi trần là siêu trên hàng tứ Thánh quả. Hay nói gọn hơn: mê nhiễm là chúng sanh, không mê nhiễm là Phật. Ðọc xuống ít câu cũng trong bài thơ bát cú đường luật nầy ta sẽ thấy sự quý báu của trái tim bất nhiễm trong sạch trong cửa Phật: “Phú quý tạo đời thêm mệt xác, Tham danh phế Ðạo trí đâu yên. Sao bằng cửa Phật vui thanh tịnh, Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên.” (Luận việc tu hành) Ở trong cõi trần mà không nhiễm trược tức hương vị ngọt ngào trùm cả Tam Thiên Ðại Thiên thế giới, nhập lưu tứ Thánh quả cao đẹp làm sao, quý giá biết bao! Ðừng mê: Là không để bị vô minh tà kiến che mờ mê muội Chơn Tâm, tạo nghiệp thọ khổ luân hồi. Sống trong cõi tục trần mà không mê tâm, muội tánh dù chưa được trên hàng Thánh giả nhưng mà cũng đáng coi là bực hiền trong thiên hạ. Bực hiền: Là hàng Á Thánh sau Thánh một bậc. Ðệ Tử Ðức Phật xưa có chia thành hai bực Thánh Tăng và Hiền Tăng, nói chung là các bậc hiền Thánh Tăng. Ngài Ca Diếp và các Tỳ Kheo dứt lậu nghiệp vào Thánh quả A La Hán thì gọi là Thánh Tăng. Ngài A Nan và các Tỳ Kheo chưa dứt các lậu nghiệp thì gọi là Hiền Tăng. Có lần Ðức Phật nói với A Nan rằng: Tuy ngày nay ông chưa được vào hàng Thánh giả A La Hán, nhưng sau khi Như Lai Niết Bàn không lâu ông cũng được vào hàng Thánh Tăng A La Hán như các Thánh Tăng kia. Khi Ngài A Nan nghe lời Phật thọ ký về sau mình sẽ dứt lậu nghiệp được vào hàng Thánh quả La Hán, mừng đến sa nước mắt vì biết rằng mình sẽ được như thọ ký của Phật. “Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền.” Ðó là một pháp yếu tu tập rất quý giá trên địa hạt tu hành tìm đường giải thoát của những ai có trái tim thương yêu nhân loại, muốn thoát khổ cho muôn loài. Ở trong trần mà không nhiễm trần, không mê tâm muội tánh là hàng cao đỉnh giác ngộ, nếu không Thánh cũng là bực hiền trong thiên hạ. Không nhiễm của nhị thừa chưa rốt ráo, không nhiễm của Bồ Tát còn bị giới hạn, không nhiễm của Phật mới hoàn toàn rốt ráo viên mãn. Ðức Phật đã đến hành chỗ không hành, tu chỗ không tu, chứng chỗ không chứng, đắc chỗ không đắc nên gọi là “VÔ THƯỢNG CHÁNH ÐẲNG CHÁNH GIÁC.” Nhưng rồi ta phải tu cách nào, hành pháp gì để được không nhiễm, không mê? Theo lời Ân Sư phán dạy thì ta phải: “Giữ tấm lòng bất động như như . Cho hồn linh yên lặng an cư, Thì mới được huờn nguyên phản bổn.” (Giác Mê Tâm Kệ) Một khi đã được huờn nguyên phản bổn tức Tuệ Giác chiếu soi thấy tận thật tướng của chư pháp là giả tướng thì đâu còn cái tâm chấp nhiễm vào nơi các giả tướng kia. Muốn được bất động như như tức ta phải nhiếp tâm trì niệm hồng danh sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật cho thành khẩn thiết tha thì các niệm ô nhiễm trần duyên sẽ bị tuyệt diệt, cảnh giới Tam Muội Tâm thể hiện nơi lòng ta, Pháp Thân ta sống lại, Pháp Nhãn khai mở hoàn toàn phù hạp cảnh giới chư Phật và Pháp Tánh ta bình đẳng với Pháp Giới Tánh chư Phật. Danh Phật tức là Giác Tánh của Phật, ta niệm Phật Danh là thường sống trong Giác Tánh Toàn Chơn của Phật và cũng thường sống trong Giác Tánh thanh tịnh tròn sáng của ta. Danh Phật, Thể Phật, Thể ta nó rất là bình đẳng với nhau tuy ba mà một. Khởi niệm Nam Mô A Di Ðà Phật tức là làm cho Phật Tánh ta dấy khởi và liên hệ mật thiết với Bản Giác Phật, làm cho ánh quang minh Tuệ Giác của Tâm Phật và Tâm ta hội nhập lại thành một dòng tâm Tỉnh Thức sáng rực vô cùng tận! “Nên niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần ai.” Chư Phật có bốn đại đức. Huỳnh Phật Sư đã minh định giá trị và chủ đích của sự trì niệm Phật danh là cao đỉnh như thế. Khi ta chí thiết niệm danh hiệu Phật đến Tam Muội Tâm phát hiện, Pháp Nhãn khai mở thì bấy giờ ta tự thấy Bản Lai Thanh Tịnh của ta xưa nay không phải là một vật gì cả thì đâu có cái gì để chấp giữ mê nhiễm các bụi trần. Cái Tâm năng nhiễm còn chẳng có hình bóng thì cảnh duyên sở nhiễm làm gì có được. Ðã là: “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật… Ngoại quang hình bất chấp kỳ hình.” (Diệu Pháp Quang Minh” Tất đâu còn luận nhiễm cùng không nhiễm mà chỉ luận việc có gắng công niệm Phật hay không đó thôi. Niệm Phật chẳng những là nhiếp Tâm Tông Yếu Chỉ của Phật mà còn huân nhiếp cả Hạnh Ðức của chư Phật. Như ta nhiếp tâm mà niệm Thánh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật cho được chí thành chí thiết thì được huân nhiếp: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh, Huệ sáu Ba La Mật và Từ, Bi, Hỉ, Xả tứ vô lượng tâm của Phật và Bồ Tát. Từ đó Tri Kiến Phật của ta được từ từ khai mở thấy biết được vạn pháp tự tánh không mà ta tự không còn ô nhiễm trong thế gian. Triệt Ngộ là một vị Thiền Sư đắc Ðạo khi nói về sự mầu nhiệm của phép trì niệm Di Ðà, Ngài viết: “Sáu chữ hiệu Di Ðà, Tâm yếu của Phật ta. Dọc năm thời thông suốt, Ngang tám giáo trùm xa.” Sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật nhiếp tất cả Tâm Tông, Giáo Tướng, Hạnh Ðức của Ðức Như Lai thì còn hạnh nào hơn, pháp nào hơn cái hạnh trì danh cho đặng. Giác Minh Diệu Hạnh là vị Bồ Tát chứng đắc về môn niệm Phật Tam Muội. Khi nói về đặc thắng của pháp trì danh niệm Phật, Ngài dạy chúng: “Bớt nói một câu chuyện, Nhiều niệm một câu Phật. Ðánh chết được vọng niệm, Pháp Thân ngươi hiển lộ.” Nếu như ai buông xả mọi việc chỉ cần trì niệm Phật danh đến được Tam Muội chứng vào tức Tâm Chơn Như thị hiện, bụi trần quét sạch, nghiệp chướng chẳng còn, thì tự tiện mà hướng thẳng về pháp giới của Phật và nhập vào Pháp Giới Tánh Di Ðà tức ta là Phật. PHẬT TÁNH BÌNH ÐẲNG “NGÀI BÈN XÉT Ở TRONG PHẬT CHỦNG, CÁC CHÚNG SANH ÐỀU CÓ NHƯ TA. BỊ VÔ MINH VỌNG TƯỞNG VẠY TÀ, NÊN QUAY LỘN TA BÀ CÕI KHỔ.” (Khuyến Thiện) Pháp yếu nầy được rút ra từ tập Kinh Khuyến Thiện mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Chợ Quán, năm Tân Tỵ (1941). Trong đây chứa đựng Phật chất sâu mầu về lý Tánh bình đẳng giữa chư Phật cùng với các chúng sanh và cội nguồn làm cho Phật Tánh của chúng sanh bị che khuất. Ta bình tâm suy gẫm pháp yếu đặc biệt nầy để đem vào cuộc sống hiện sinh của mình. Ngài: Là Ðức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Như Lai Phật. Ngài nguyên là Thái Tử của Thành Ca Tỳ La Vệ (Trung Aán), con của Tịnh Phạn Vương và Ma Gia Hoàng Hậu. Năm 19 tuổi xuất gia, sáu năm tu khổ hạnh, ngồi thiền định dưới cội cây Bồ Ðề trên bờ Rạch Ni Liên Thiền 49 ngày đêm, phút cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Quân một cách oai hùng oanh liệt Ngài vào ngôi Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề thành Phật Thế Tôn. Xét: Nghĩa là Ðức Thế Tôn Như Lai dùng Tri Kiến của đấng Toàn Giác, Toàn Minh mà thấy cái Thật Tướng Chơn Tướng của các pháp thế gian và xuất thế gian một cách tỏ tường như vật nắm trong tay. Nhục Nhãn của chúng sanh rất là cạn hẹp, Thiên Nhãn của chư Thiên còn nhiều giới hạn, Pháp Nhãn trong Tam Thừa chưa thấy rốt ráo, chỉ có Phật Nhãn thành Ðạo của đấng Toàn Giác mới hoàn toàn rốt ráo trọn vẹn về hiện tượng và về Bản Thể của chư Pháp. Phật chủng: Là chủng tử Phật, là Phật Tánh của mỗi chúng sanh, là Thật Tướng, là Chơn Tướng, là Như Lai Tàng, là Bản Thể Vạn Pháp. Phật chủng ấy nó cũng thật có, mà cũng thật không, chẳng phải có, chẳng phải không. Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Lặng lẽ mà hằng sáng soi, trạm nhiên linh minh tịch chiếu. Không thể khái niệm, không thể hình dung bằng những tư tưởng hay giả tướng mà thấy biết đặng. Chỉ trực nhận bằng tâm đắc với quyết tâm hành đạo khi nhân duyên đến. Các chúng sanh: Là nói chung tất cả chúng sanh trong bốn loài: Noãn, thai, thấp, hóa. Từ nơi nghiệp báo bất nhứt mà chúng sanh thọ thân mạng chẳng đồng nhau. Có loài sanh bằng bào thai, có loài sanh bằng trứng, có loài sanh từ nơi lòng đất, có loài sanh bằng sự hoá hiện. Ðều có như ta: Nghĩa là tất cả chúng sanh trong bốn loài dù nhỏ, dù lớn cả thảy đều có chủng tử Phật Tánh bình đẳng với chư Phật, không hơn không kém. Khi ông Hoàng Sĩ Ðạt Ta cất bước đi tu, Ngài nói với Xá Nặc rằng: “Vì chúng sanh thiếu ánh sáng nên ta cần đi tìm ánh sáng cho chúng sanh”. Ðến khi được vào ngôi Chánh Giác Ngài tuyên bố rằng: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu phật Tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình đẳng với chúng sanh”. Ðồng thời đặt triển vọng cho chúng sanh về sự tiến hóa: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Sự thấy biết và lời tuyên thuyết của đấng Ðại Giác Ðại Ngộ đã xác nhận rằng tất cả chúng sanh đều tự có Phật Tánh bình đẳng với Phật và đều được thành Phật như các Ðức Phật đã thành. Cái chủng tử Phật của chúng sanh có đủ các Ðức Tánh Như Lai như: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; Từ, Bi, Hỉ, Xả và Thanh Tịnh Phật Ðộ Trang Nghiêm, chỉ vì chúng sanh chưa tự chứng ngộ đó thôi. Vô minh: Nghĩa là không giác ngộ được Diệu Minh Chơn Tâm, không nhận được Phật Tánh cố hữu của mình. Vô minh còn có nghĩa là trạng thái mê mờ đen tối che khuất Giác Tánh Toàn Chơn, làm cho ta không thấy được đâu là sự thật mà thường nhận ngụy làm chơn, việc chơn cho là ngụy, tà chánh chẳng phân minh, giả thật hằng pha trộn. Vọng tưởng vạy tà: Nghĩa là từ nơi vô minh che mờ Chơn Tánh, niệm bất giác dấy khởi liên miên tạo thành các nghiệp báo tử sanh trong lục đạo luân hồi từ đời nầy, đời nọ không chấm dứt. Các tư tưởng vọng niệm tà vạy chỉ trong vài phút là đã đến vô lượng rồi không sao kể xiết. Nào là công danh, phú quí, lợi quyền; rồi tình dục, sắc đẹp, ân oán, thân thù, phải quấy, đắc thất, hơn thua… không một phút giây ngừng nghỉ. Quây Lộn Ta Bà: Là luân chuyển, chuyển luân trong cõi Ta Bà của Tam Thiên Ðại Thiên thế giới mà ta đang ở đây, bị giam nhốt từ lũy kiếp đến nay và đây cũng chưa biết bao giờ mới dứt! Trời, Người, Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa Ngục ta đều có dạo qua nhiều bận và đều có nếm ít nhiều các thứ khổ lụy đắng cay, nhưng ta không nhớ rõ vì mỗi lần cách ấm mỗi lần muội tánh mê tâm, mỗi lần thoát thai mỗi lần ngu độn. Từ Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, Huỳnh Phật Sư khai thị, tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng với Phật, đều có các Ðức Tánh Như Lai và đều được thành Phật như chư Phật đã thành. Nhưng chỉ vì vô minh mà phải bị mê mờ căn tánh giác ngộ, tạo nghiệp thọ khổ báo luân hồi trong bánh xe lục đạo nơi Ta Bà nầy từ lũy kiếp đến nay. Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc động, thọ cảm, ái, thủ, hữu, sanh và lão tử là chuỗi xích sinh mạng nơi lục đạo luân hồi. Vô minh, hành là nhân quá khứ; danh sắc, lục nhập, xúc động là quả hiện tại; ái, thủ, hữu là nhân hiện tại; sanh, lão, tử là quả tương lai. Nhân quả trong ba thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai của 12 duyên sanh đó là nguyên nhân sanh tử luận Phật Giáo. Một khi vô minh chẳng còn thì hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc động, thọ cảm, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng đều chấm dứt. Vô minh và nghiệp báo đều là hình ảnh của mộng tâm, ta nên dùng mộng pháp để hoá giải cho mộng tâm, một khi mộng tâm được tỉnh thức tức mộng của vô minh và mộng nghiệp báo sẽ không còn. Ta Bà là mộng khổ, Cực Lạc là mộng vui, ta hãy lợi dụng kiếp mộng khổ Ta Bà mà hướng về cõi mộng vui Cực Lạc, khi được chứng lý vô sanh tức Pháp Thân thị hiện thì mộng khổ, mộng vui đều là phương tiện pháp. Pháp yếu nầy Huỳnh Phật Sư khai thị cho ta thấy được mỗi chúng sanh đều có Phật tánh đều bình đẳng với chư Phật và đồng thời cho ta biết cội rễ sanh tử là vô minh và nghiệp báo. Bài kế tiếp ta sẽ được Aân Sư hướng dẫn diệu pháp tu hành để được chuyển trừ vô minh và nghiệp báo để ta được vào Tri Kiến Phật và được thành Phật như chư Phật đã thành. Hoài bảo của Aân Sư là đưa ta ra khỏi cái dòng suối sanh tử luân hồi, đến tận bờ giải thoát của Phật. Ngài là Hướng Ðạo Sư cho ta, ta hãy nương tựa noi dấu chơn Ngài để ta sẽ là dòng sinh mạng trong Phật pháp, tiếp nối suối pháp của Như Lai truyền đạt đến cho tương lai bất tận. TRANG NGHIÊM TỊNH ÐỘ “LÒNG THƯƠNG CHÚNG THUYẾT PHƯƠNG TỊNH ÐỘ, ÐẶNG DẮT DÌU TẤT CẢ CHÚNG SANH. NẾU NHƯ AI CỐ CHÍ LÀM LÀNH, CHUYÊN NIỆM PHẬT CẦU SANH PHẬT QUỐC. CẢ VŨ TRỤ KHẮP CÙNG VẠN VẬT, DẦU TIÊN, PHÀM, MA, QUỈ, SÚC SANH. CỨ NHẤT TÂM TÍN, NGUYỆN, PHỤNG HÀNH, ÐƯỢC CỨU CÁNH VỀ NƠI AN DƯỠNG. CHỈ MỘT KIẾP TÂY PHƯƠNG HỒI HƯỚNG, THOÁT MÊ ÐỒ DỨT CUỘC LUÂN HỒI.” (Khuyến Thiện) Pháp yếu này được rút ra từ tập Kinh Khuyến Thiện mà Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Chợ Quán, năm Tân Tỵ (1941). Bài Trang Nghiêm Tịnh Ðộ nầy được tiếp nối bài Phật Tánh Bình Ðẳng, vì là cùng một hướng. Bài Phật Tánh Bình Ðẳng cho biết sau khi vào ngôi Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề, với Tri Kiến Phật Ðức Như Lai nhìn thấy tất cả chúng sanh đều có Giác Tánh bình đẳng với Phật và nếu như chúng sanh nào tu hành thì cũng đồng được thành Phật như các Ðức Phật đã thành. Song vì con tim hoặc nghiệp phủ che mà phải mê mờ tăm tối thọ quả báo luân hồi trong cõi Ta Bà từ vô lũy kiếp đến nay. Bài Trang Nghiêm Tịnh Ðộ này Aân Sư sẽ khai thị diệu pháp tu hành phá vô minh, trừ nghiệp báo để được giải thoát thành Phật bình đẳng với chư Phật đã được thành Phật. Ðến đây ta đi thẳng vào đề. Lòng thương: Ðó là Ðức Ðại Bi của Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi vị Phật đều có tứ vô lượng tâm, đó là: Từ Vô Lượng Tâm, Bi Vô Lượng Tâm, Hỉ Vô Lượng Tâm, Xả Vô Lượng Tâm. Khi nhìn thấy tất cả chúng sanh đều có đức tánh thành Phật như Ngài, bây giờ đức Phật dấy lên mối Từ Tâm thương xót chúng sanh vô hạng, muốn cho tất cả chúng sanh đồng được thành Phật như chư Phật trong mười phương pháp giới. Chúng: Là nói chung tất cả chúng sanh trong cửu giới. Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, Người, Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa Ngục đó là cửu giới. Trong mười pháp giới trừ Phật ra vì Phật thì không còn nói đến việc tu, chín giới kia đều còn phải tu để lên quả vị Phật. Thuyết: Là Ðức Phật sanh tâm hoan hỉ nói lên những gì mà Bi Tâm thúc đẩy nơi lòng Ngài đã canh cánh từ lâu. Phương: Tức là phương pháp, là hướng đi nhân bản ra khỏi sự sống chết của dòng suối luân hồi. Tịnh độ: Nghĩa là Quốc Ðộ trong sạch, trang nghiêm thanh tĩnh, toàn vui không khổ, không nạn của Ðức A Di Ðà Thế Tôn Như Lai. Cõi ấy thường được gọi là Cực Lạc vì là toàn vui,không khổ. Cũng gọi là Liên Bang vì là toàn dân đều Liên Hoa Hoá Thân quí báu, không vào bào thai mẹ ô uế. Cũng gọi là An Dưỡng Quốc vì là thường còn, không hư hoại. Cũng gọi là Thanh Lương vì là thuận thích với Tri Giác Bồ Ðề. Tịnh Ðộ hay Cực Lạc được trang nghiêm bằng tất cả các công đức thù thắng của Ðức Từ Phụ Di Ðà và chư Bồ Tát cùng nhơn dân trong bổn quốc nên hết sức đặc biệt dẫu cho các quốc độ trên mười phương chư Phật cũng không có một thế giới nào sánh đặng. Những chúng sanh nơi Tịnh Ðộ đều là hàng bất thối và đều là hàng Nhất sanh thành Phật. Bồ Tát và nhơn dân trong Quốc Ðộ Cực Lạc nhiều không thể tính toán mà biết cho cùng đặng. “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Ðộ”: Là nói lòng Ðại Bi của Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài hoan hỉ khai thị bằng lời giảng nói về Chánh Báo và Y Báo bên bổn quốc Cực Lạc Tây Phương để giới thiệu, khuyến hoá chúng sanh hướng về nương tựa cõi Tịnh Ðộ, nương tựa Ðức Phật A Di Ðà để được bảo đảm thành Phật. Từ xưa Ðức Thích Ca Như Lai thuyết giảng về Bổn Quốc Cực Lạc Tịnh Ðộ, các Kinh Ðại Thừa Phật Giáo đều có kiết tập, đặc biệt là Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết Di Ðà Kinh. Ba Bộ Kinh này là căn gốc của pháp môn Tịnh Ðộ, thuần nói về Chánh báo và Y báo Cực Lạc, cùng chỉ dạy thực hành các phương tiện căn bản để được thoát hoá về Phật Quốc trang nghiêm. Tịnh Ðộ là Tông Yếu của Phật, nhưng sở dĩ Ðức Phật thuyết ra là vì Bi Tâm chan chứa muốn cho tất cả các chúng sanh đồng được giải thoát thành Phật được bình đẳng với Ngài. “Ðặng dắt dìu tất cả chúng sanh”: Là nói Ðức Thế Tôn Như Lai vì lòng Bi mẫn mà thuyết ra pháp môn Tịnh Ðộ để cứu vớt tất cả vạn vật chúng sanh, quyết không bỏ rơi một loài chúng sanh nào. Thượng căn hạ cơ, trí ngu phàm Thánh đồng được tế độ về một nẻo Chánh Giác, chỉ có môn Tịnh Ðộ mới mãn nguyện đấng cứu thế xuống trần. Trong vô lượng pháp môn tu tập Ðức Như Lai thuyết xưa kia, hôm nay Huỳnh Phật Sư chỉ nhắc lại Phật thuyết Tịnh Ðộ môn mà không nhắc các môn khác trong phần thuyết giáo nầy. Ðó là điều ta cần phải lưu ý đặc biệt. Bởi lẽ các Kinh Tịnh Ðộ thường nói vào thời mạt pháp các Kinh điển Ðại Thừa điều bị diệt hết chỉ còn tồn tại các Kinh Tịnh Ðộ và sau cùng chỉ còn lưu lại có gỏn gọn là sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật cứu vớt chúng sanh tối hậu. Thời kỳ nào, chúng sanh nào cũng vẫn hành trì pháp môn Tịnh Ðộ được kết quả như nguyện, đặc biệt là thẳng tắt dễ mau mà lại cao đỉnh trên ngôi Chánh Giác, từ phàm phu đến pháp giới Phật và dẫn đến Phật quả viên thành. “Nếu như ai cố chí làm lành”: Là nói phải cố công trì chí làm các việc lành, việc phải hữu ích cho đời. Phật Giáo thường lấy việc làm lành tránh ác làm căn bản dạy đời, Huỳnh Phật Sư cũng thế. “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật Giáo.” Bài tụng này trong Phật Giáo chư Tăng Ni Phật tử ai cũng nằm lòng. Ðối với tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Ðức Huỳnh Giáo Chủ phán dạy: “Làm hết các việc từ thiện, Tránh tất cả đều độc ác, Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.” Muốn làm lành tức phải hành thập thiện nghiệp, vì mười việc lành này nhiếp tất cả việc lành trong các pháp thế gian. Aên ở hiền lành là nuôi dưỡng Phật Tánh cho được lớn mạnh, thiện tánh tức là Phật Tánh, Phật Tánh có được trưởng dưỡng thì Phật quả mới viên thành, Phật Quốc trang nghiêm mới an ngự trên cao đỉnh. Làm lành là tăng thượng duyên cho việc vãng sanh Cực Lạc, nơi đây Ðức Thầy dạy ta phải cố chí làm lành là muốn ta hàm dưỡng chủng tử Phật vào nơi Ðiền Tâm để rồi ta sẽ được thành Phật bên Phật Quốc Tây Phương hầu lo hoá tha lợi chúng. “Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc”: Chữ chuyên nghĩa là thuần nhất làm một việc, không tạp nhạp nhiều hạnh. Phàm làm việc gì nếu chuyên nghiệp thì mới hay, bằng như nhiều việc tạp nhạp tất nghề nào cũng không tinh xảo. Niệm Phật tức là niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Niệm Phật cần chỗ được dứt vọng lặng tâm, bởi lặng tâm tức là chánh niệm, chánh niệm nếu thường hằng thì cảnh giới nhất tâm sẽ đến. Niệm Phật là thanh tịnh tâm, nhứt tâm bất loạn là thanh Tịnh Ðộ, vì mình được nhất tâm thì đã được thể nhập vào cõi duy tâm Tịnh Ðộ dù vẫn còn hiện tiền và khi vãng sanh tức được lên ngôi thượng phẩm bên Bổn Quốc Tây Phương. Nếu chuyên một hạnh trì danh niệm Phật thì dễ được nhứt tâm hơn là hành tạp hạnh. “ cầu sanh Phật Quốc” là phát nguyện, mong cầu được sanh hoá Phật Quốc Tây Phương Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà hầu thoát ly tam giới dẫn đến Phật quả viên thành chúng sanh hoằng độ. Tự mình chí thiết niệm Phật là tâm lực, nguyện cầu Ðức Phật A Di Ðà tiếp dẫn về Cực Lạc là Phật lực. Nếu mình chỉ niệm Phật mà không cầu sanh về Cực Lạc tức không có được Phật lực nhiếp thọ thì không thể về Cực Lạc ra ngoài tam giới chỉ trong một kiếp mà phải trải qua nhiều kiếp, đợi đến khi nào mình diệt tận hoặc nghiệp trong tam giới. Vì muốn chúng sanh tu trong một kiếp mà được hoàn toàn giải thoát luân hồi xuất ly tam giới nên Aân Sư phán dạy Cầu sanh Phật Quốc. Huỳnh Phật Sư phán dạy:” Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc”, đó là thông điệp căn bản của Tịnh Ðộ Tông, không một hành giả chân chính nào của Liên Tông mà không thực hành theo huấn thị đặc biệt ấy. “ Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc”. Hết sức là khúc chiếc, chỉ có một câu gồm bảy chữ mà nhiếp cả yếu chỉ của ba Kinh Tịnh Ðộ để làm chỗ nương tựa cho chúng sanh có khuynh hướng Ðại Thừa của Bồ Tát Tạng và có trái tim thương xót chúng sanh, có tâm hồn hoá tha độ chúng. “Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật, Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc Sanh” Ðây là nói chung trong vũ trụ vạn hữu, không bỏ rơi một loài nào dù cho loài bò bay mái cựa cũng thế, trong vũ trụ nầy trừ bốn quả Thánh, còn lại chúng sanh trong bảy thú đều được cảm hoá về Phật Quốc trang nghiêm. Bảy thú chúng sanh là: Thiên, Tiên, Nhơn, Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa Ngục. Với cái nhìn của đấng cứu thế, Huỳnh Phật Sư thấy rằng dẫu cho chúng sanh nghiệp nặng đến thế nào, hạ liệt đến đâu thì cũng có ẩn tàng Phật Tánh trong đó và sẽ được tế độ về Bổn Quốc Cực Lạc và từ đó sẽ đến thành Phật. Bi Tâm của Phật thật nó chan hoà trong vạn nẻo, ví như là hư không nơi nào cũng có để dưỡng khí cho muôn loài, lợi ích cho vạn vật! Bốn Tám Ðại Nguyện của Tây Phương Giáo Chủ A Di Ðà Phật ví như Trời che Ðất chở, bất cứ chúng sanh nào bất cứ một loài nào nếu khởi cái tâm cầu sanh về Cõi Cực Lạc và chí thiết niệm NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT hoặc niệm nhiều đến nhất tâm bất loạn hoặc niệm ít tối thiểu đến lúc lâm chung chỉ cần mười câu Nam Mô A Di Ðà Phật hay vì quá ư khổ ngặt và thời gian đã hết nên chỉ niệm được một câu Nam Mô A Di Ðà Phật là chung cuộc thì cũng được thoát hoá Tây Phương. Bi Tâm và Bi Nguyện của Ðức Từ Phụ thật vô bờ, vô biên và biệt luận! “Cứ nhứt tâm Tín, Nguyện, Phụng Hành”: Nhứt tâm nghĩa là một lòng không đổi khác, một ý chí không phai màu. Một lòng Tin Tịnh Ðộ, một lòng Nguyện vãng sanh, một lòng thực hành trì danh hiệu Phật, không thay đổi, không phai màu. Tín là tin Ðức Phật A Di Ðà và bốn tám Ðại Nguyện lập Quốc tiếp dẫn của Ngài một cách chắc chắn không bị lung lay, tin Bổn Quốc Cực Lạc là cõi thật có do Ðức Phật Giáo Chủ và nhơn dân trang nghiêm bằng tất cả công đức thù thắng được hoàn toàn bất hoại. Tin Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hoá các Kinh Tịnh Ðộ hoàn toàn không hư dối. Tin Ðức Huỳnh Phật Sư khai thị Tịnh Ðộ môn là yếu pháp hành trì mau đến Phật quả viên mãn, là thắng phương tiện pháp, là thuyền từ tối hậu cho chúng sanh nương tựa qua bờ Ðại Giác của Chư Phật. Tin tâm ta là Phật, ta niệm Phật cầu sanh Cực Lạc là nguyên nhân chính yếu để ta được giải thoát thành Phật. Nguyện tức là phát cái chí nguyện cầu được vãng sanh Cực Lạc, Nguyện được thành Phật, Nguyện hóa tha lợi chúng tiếp nối Phật Trí, tiếp nối dòng suối chánh pháp mãi được luân lưu vô tận kiếp vị lai, Nguyện hành trì pháp mầu Tịnh Ðộ bất thối tâm, Nguyện triển khai pháp môn Tịnh Ðộ cho đại chúng trong hiện tại để được nhiều người thành Phật ở tương lai. Hạnh tức là lập cái hạnh hành trì Tịnh Ðộ, lập hạnh trì niệm Nam Mô A Di Ðà Phật không thối chuyển, niệm niệm cầu sớm được nhất tâm tự tại ra đi về An Dưỡng Quốc để cúng dường Tam Bảo và thí cho chúng sanh trong hậu thế một món quà tinh thần hầu thúc đẩy cho bao người hãy mạnh dạn mà hành trì Tịnh Ðộ, Niệm Phật là nhơn, thành Phật là quả. Nếu ta niệm Phật được bất ly tâm tức nhơn và quả liên hệ mật thiết với nhau, nghĩa là trong lúc ta niệm Phật có cái lý thành Phật liền trong hiện tại. Ðến khi ta niệm Phật được khai ngộ Phật Tánh cố hữu của mình tức khi ấy ta đã được hoàn toàn thành Phật. Hễ ta niệm Phật nhiều thì thành Phật sớm, niệm ít tất thành Phật trể. Tín, Nguyện, Hạnh, là yếu chỉ, là Tâm Tông, là qui dám của pháp yếu Tịnh Ðộ được Huỳnh Phật Sư chỉ dạy tỏ tường, như đã được đem ra thảo luận trong bài pháp yếu nầy. Ðó là thuyền từ, đó là hải đăng, đó là sinh lộ, đó là sinh khí cho chúng sanh đồng nương tựa. “Ðược cứu cánh về nơi An Dưỡng”: Là nói khi đã có Tín Tâm bất thối, Nguyện Lực bất thối, Trì Danh bất thối, thì sẽ được giải thoát rốt ráo về Cực Lạc tức An Dưỡng Quốc của đức Phật A Di Ðà. Tín Lực, Nguyện Lực, Hạnh Lực, tức là Bồ Ðề Tâm, dĩ nhiên là có Bồ Ðề quả. Ðã hội đủ ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh thì dù cho còn nghiệp hay dứt nghiệp gì cũng được đức Phật A Di Ðà tùy nguyện mà Ngài tiếp dẫn về Phật Quốc trang nghiêm Tịnh Ðộ vào ngôi bất thối thoát nẻo luân hồi và thẳng đến thành Phật. Chỉ có môn Tịnh Ðộ mới độ thoát chúng sanh được rốt ráo, chỉ có môn Tịnh Ðộ chúng sanh mới được giải thoát rốt ráo, không còn bị lậu nghiệp cuốn trôi nơi bể thảm. Khi được về An Dưỡng Quốc tức là ta được ảnh hưởng đủ bốn cõi Tịnh Ðộ và được bảo đảm thành Phật không còn thối đọa xuống nhị thừa hay lục đạo luân hồi. “Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng, Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi” Tu theo các môn phái khác phải trải qua đời nầy đời nọ có khi đến hằng vạn kiếp hay ba A Tăng Kỳ mới ra khỏi Tam giới, còn tu môn Tịnh Ðộ chỉ đảm bảo một kiếp nhỏ là vượt ngoài Tam Giới thoát khỏi lục đạo luân hồi lên đủ bốn ngôi bất thối: Hạnh bất thối, Niệm bất thối, Vị bất thối, và Tất cánh bất thối. Cái hi hữu, cái đặc biệt của hành giả Tịnh Ðộ là còn nghiệp báo trong Tam Giới mà được về Phật Quốc và lên đủ bốn ngôi bất thối, nhập lưu Bồ Tát được nghĩa nhất sanh thành Phật thì có pháp tu nào hơn đặng. Mỗi lần thoát thai cách ấm là bị ngu mê, không nhớ được tiền kiếp để tiếp nối tu hành, theo duyên tạo nghiệp, thối đoạ thì nhiều tiến tu rất ít. Tịnh Ðộ Chủ trương chỉ một kiếp hiện tại giải quyết sanh tử luân hồi cho dứt khoát, còn nghiệp, dứt nghiệp đồng được đưa về Phật Quốc Tây Phương và đồng được bất thối dẫn đến thành Phật . Dùng Ðịnh Huệ phục phiền não, phá vô minh, chuyển nghiệp báo trong Tam Giới để chứng Chơn Thường đâu phải là việc dễ làm đối với chúng sanh trong thời cùng cơ tận pháp. Chỉ có Tín, Nguyện, Trì danh để nương nhờ: “Từ Bi oai lực nhiệm sâu, Ðộ con thoát chốn ưu sầu trần ai.” thì mới vạn tu vạn chứng. Thế mới đúng với bản hoài của Huỳnh Phật Sư vì đời Ngài ứng thế. Tiếng nói của Ðức Giáo Chủ tức là tiếng nói của Tây Phương Tam Thánh vì Ngài từ Tây Phương Cực Lạc thừa sắc chỉ của Ðức Từ Phụ Di Ðà phục hưng chánh pháp trong hồi đau khổ nhứt trong lịch sử nhân loại. Nếu ta có lòng thương chúng sanh thật sự thì hãy vâng lời Aân Sư phán dạy hành trì Tịnh Ðộ môn, cầu sanh An Dưỡng Quốc, rồi chèo thuyền bản nguyện vớt kẻ trầm luân đưa lên bờ Ðại Giác hầu hiệp cùng với chư Phật hoá độ chúng sanh cho mãn nguyện. “Nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Ðạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh.” Ðó là lời phán dạy căn bản được Huỳnh Phật Sư ban ra cho các tín đồ tuân thủ phụng hành để viên mãn những ai thao thức hướng cầu Bồ Tát Tâm, Bồ Tát Ðạo và Bồ Tát Hạnh. Nếu như ai dùng thâm Tín, thâm Nguyện, thâm Hạnh của mình một cách chắc chắn, bền bỉ trường kỳ thì đó là đã tự mình trang nghiêm Tịnh Ðộ cho mình và cho pháp giới chúng sanh đồng chung hưởng. Ðức Thầy vì lấp biển sanh tử, khai đường Phật Quốc mà khai thị pháp mầu Tịnh Ðộ Môn, người con tinh thần của Phật hãy noi theo bước chơn của Phật, phải hành trì và truyền bá pháp mầu Phật dạy để tiếp nối Phật chủng, lửa hương Phật Ðạo. ÐỨC KIÊN TRINH “TÍN NỮ THIỆN NAM GÌN MỐI ÐẠO , DẦU CHO LĂN LÓC RÁN KIÊN TRINH. KIÊN TRINH MÀ CHỊU LÚC NÀN TAI, DẪU CÓ GIAN NAN DẠ CHỚ NÀI.” (Tỉnh Bạn Trần Gian) Pháp yếu nầy rút trong bài Tỉnh bạn trần gian Ðức Thầy viết tại Chợ Quán, năm Canh Thìn. Tín nữ thiện nam: là tiếng gọi của Thầy đối với người đệ tử nam nhân và nữ phái. Người nào đã qui y theo Phật Giáo thì gọi là tín đồ hay tín nữ thiện nam. Ðức Phật xưa kia gọi là thiện nam tử thiện nữ nhơn đối với các đệ tử của Ngài. Người được gọi tín nữ thiện nam là đã được nhập vào dòng Ðạo vì đã qui y với Tam Bảo, đã thọ giới tu hành, đến khi tu đắc Ðạo là nhập lưu Thánh giả và hoàn toàn cách ly Ta Bà. Ðã qui y với Tam Bảo tức đã gieo mầm ương giống Phật, sớm muộn gì cũng sẽ thành Phật. Phật thọ ký người nào niệm một câu Phật về sau thành Phật, khi người ta thọ phái qui y tức phải có niệm Phật . Gìn mối Ðạo : Tức là giữ Ðạo chờ Thầy. Gìn giữ Ðạo pháp có nhiều hình thức: 1.-Gìn giữ các giới qui trong Ðạo mà mình đã thọ, đem chân lý Thầy truyền vào nơi cuộc sống của mình làm cho hiển danh Thầy đẹp dạ tớ. 2.-Gìn giữ bảo vệ pháp giới được Thầy lưu lại không cho bị thất lạc và chớ để kẻ ngoại nhân làm hư hoại diệt vong. 3.-Hãy kiết tập và phổ truyền trong khắp nhân gian những Giáo Lý chân truyền của Ðức Giáo Chủ. 4.-Hãy dịch giải hoặc sáng tác những diệu lý sâu mầu để truyền bá trong đại chúng cho nhiều người được hưởng lấy Phật pháp cao sâu mầu nhiệm. 5.-Hãy huấn luyện bằng những môi trường Ðạo học để cho các tín đồ hiểu sâu diệu pháp trong Ðạo đã được Thầy truyền hầu khỏi bị lệch Tông mất gốc. 6.Hãy tổ chức những nơi hành Ðạo có sự bảo trợ trong Ðạo để người có chí lớn được yên ổn tu hành đến đắc Ðạo hầu tiếp nối suối nguồn Phật pháp. Lăn lóc: Là những hồi gió lóc truân chuyên cam go thử thách, Ðạo nạn liên miên đau thương nghiệt ngã. Kiên trinh: Chữ kiên là kiên nhẫn, là trung kiên, là kiên quyết một lòng không thay đổi. Trinh là trinh khiết, là trong sạch, là thanh bạch một dạ sắc son không phai nhạt cái Ðạo thờ Thầy. Kiên trinh là an nhẫn cam chịu những nỗi đau khổ đắng cay, tủi nhục để giữ lấy lòng dạ trinh khiết trong sạch mà vâng thờ đấng Aân Sư tôn kính. Người mà có đức kiên trinh tức không ham danh, hiếu lợi chạy bậy làm xằng vong Sư bỏ Ðạo . Người có đức kiên trinh dầu cho có lắm cảnh gian nan, bao lần thử thách, nhiều phen đau khổ, suốt chịu đoạn trường cũng một mực tiến hành Ðạo pháp mà không thối chí ngã lòng, thay tâm đổi ý. Người có kiên trinh thường lấy khổ não làm chỗ tiến thân, lấy đau thương làm công đức, lấy nghịch duyên làm trợ Ðạo, hội nhập với bao nỗi đắng cay để rèn luyện đức tin, để nuôi lớn tìm lực tự tồn, để tiến thân đến cao đỉnh. Người mà có đức kiên trinh thường lấy bạc đãi phủ phàn, lấy cô đơn đạm bạc để làm khổ hạnh tiến tu. Bởi vì: “Ông nhồi quả cho người hành Ðạo , Lúc nguy nàn thối chí cùng chăng. Nếu bền lòng vị quả cao thăng, Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh.” (Sa Ðéc) _“Phật pháp khai thông khổ hải trùng trùng tâm bất khiếp Trần duyên bế tắt liên đài điệp điệp Ðạo vô cùng.” (cho ông Chung Bá Khánh) “Chánh tinh tấn dầu thành hay bại, Cứ một đường tín ngưỡng của mình. Dầu cho ai phá rối đức tin, Ta cũng cứ một đường đi tới.” (Giác Mê Tâm Kệ) Tất cả sự thành công trong Ðạo phải có đức kiên trinh để vượt qua các sự phủ phàn nghiệt ngã, thử thách cam go, gian nan khốn đốn và tự tồn trong lẽ sống Ðạo đức tu hành của con người tỉnh thức. “Tín nữ thiện nam gìn mối đạo, Dầu cho lăn lóc rán kiên trinh.” Ðó là lời răn nhắc đặc biệt cho các tín đồ phải rán kiên trinh mà giữ Ðạo chờ Thầy, biết rằng sau nầy tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo sẽ gặp vô cùng gian nan thử thách. Ðã răn nhắc vậy rồi mà còn nhồi thêm một lần nữa để lưu ý đặc biệt hơn: “Kiên trinh mà chịu lúc nàn tai, Dẫu có gian nan dạ chớ nài.” Cái nhìn của đấng cứu thế Ngài biết cái chuyện ngày mai tín đồ của Ngài sẽ vô cùng đau khổ tang tốc lệ rơi lả tả nên phải dặn đi dặn lại để được in sâu vào lòng, đặng khi việc đến dửng dưng mà chấp nhận. Xưa nay các vị cứu thế đứng ra chấn hưng Phật pháp tất phải gánh chịu nạn tai, đó là lẽ thường. Ta hãy bình tâm mà lắng nghe lời Aân Sư phán dạy: “Chốn nầy là nơi để cho Thầy tỏ dấu cho hầu hết nhơn sanh biết rằng chấn hưng Phật Giáo thì phải chịu những sự tang thương biến cải và khuyên tín đồ chớ buồn lòng lo lắng, vì Ơn Trên định vậy thôi. Rồi ít lâu có ngày sum hiệp chớ chẳng hề chi cả.” Gởi về cho bổn đạo. Trở về thời điểm khoảng thế kỷ thứ sáu trước kỷ nguyên Tây Lịch, lật lại trang sử Ðạo của Ðức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, ta thấy Ðức Như Lai cũng phải lắm kiên trinh với sự cay cú nghiệt ngã của Ðề Ðạt Sa Môn, của lục sư ngoại đạo để đi hoá giải khắp nơi cho chúng sanh được nhuần ân của Phật . Ta hãy nhìn lên cây Thánh giá dựng trước các nhà thờ để thấy đức kiên trinh của Chúa Ky Tô chấp nhận cực hình để bảo tồn đức tin cho tín hữu Chúa Giáo. Ta hãy lật lại trang sử của Tổ Huệ Năng, ta sẽ thấy được đức kiên trinh của Ngài phải chịu ẩn cư nơi rừng rậm thâm u 16 năm lao nhọc dù đã được chánh truyền Y Bát từ Ngũ Tổ Huỳnh Mai. Ta hãy trở về với Phật sử Bửu Sơn Kỳ Hương để thấy được đức kiên trinh Phật Thầy Tây An, Ðức Phật Trùm, Ðức Bổn Sư hầu có tán dương và nương tựa nơi các Ngài để mà tạo lấy tìm lực tự tồn trong lẽ sống Ðạo đức nơi hiện tại cho bản thân mình. Ta hãy hồi tưởng và chiêm nghiệm bước chân hoá Ðạo của Huỳnh Phật Sư, ta sẽ thấy Ngài là một nhà truyền Ðạo rất nhiệt tình và rất dũng cảm, với tinh thần Bi, Trí, Dũng mà Ngài kiên trinh vượt qua những vô vàn gian lao khốn khó, vô vàn nghiệt ngã đau thương sầu hận và tủi nhục!! Nhờ vậy mà Phật Giáo Hoà Hảo được lớn mạnh phi thường, từ khai Ðạo Ky( Mão, đến vắng bóng Ðinh Hợi chỉ thời gian kỷ lục ấy thế mà đã kết nạp vài triệu tín đồ, rồi đến nay Bính Tuất con số tín đồ đến năm triệu và có mặt rải rác trên khắp trái đất. Lịch sử cho ta thấy được bài học rất quí giá là: chỉ có Từ Bi mới hoá giải được hận thù, chỉ có kiên trinh mới giữ vững được tiết tháo Ðạo đức để khỏi lỗi đạo thờ Thầy. Kiên trinh là nước, hễ càng ngăn sông chặn suối thì nước lại càng vâng lên cao và càng chảy mạnh hơn lúc bình thường . Nhìn lại lịch sử Ðạo nhà đã trải dài 68 năm tu hành và hoá Ðạo, mà cũng 68 năm hết sức kiên trinh, và nay ánh quang minh Phật Giáo Hoà Hảo đã tung lên tận Trời cao và trùm xuống vũ trụ bao la để gieo trồng giống Phật ! ÐẠI NGUYỆN ÐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ “THƯƠNG QUÁ SỨC NÊN TA BỊN RỊN, QUYẾT ÐỘ ÐỜI CHO ÐẾN CHUNG THÂN. NẾU THẾ GIAN CÒN CHỐN MÊ TÂN, THÌ TA CHẲNG AN VUI CỰC LẠC.” (Giác Mê Tâm Kệ) Nguyện là chỉ nam cho lộ trình tiến hoá, mỗi vị Phật xuống thế đều có Ðại Nguyện. Ðức Huỳnh Giáo Chủ trong công cuộc khai Ðạo cứu đời cũng có phát lời Ðại Nguỵên. Nay ta chiêm nghiệm suy gẫm Nguyện lực của Ngài để thấy được Bi Hùng của Ðức Giáo Chủ hầu có tiếp nối hướng đi cao đỉnh ấy. Thương : Là đức Ðại Bi của Phật. Bi Tâm của Phật bao giờ cũng thương xót chúng sanh như mẹ hiền thương con thơ ấu, trông nom săn sóc dưỡng nuôi, bảo trợ và giáo dục cho được trưởng thành. Phật có bốn tâm vô lượng: Từ Tâm Vô Lượng, Bi Tâm Vô Lượng, Hỉ Tâm Vô Lượng, Xả Tâm Vô Lượng. 1.Từ Tâm Vô Lượng là Phật bao giờ cũng có đức tánh hiền lành ban cho chúng sanh những an vui hạnh phúc vô lượng. Phật thường vui trong cái vui của các chúng sanh, Ngài không bao giờ muốn thấy chúng sanh khổ. Chính thế mà Phật thường hoá hiện các cõi khổ để ban vui làm cho chúng sanh vơi bớt khổ đau sầu hận. Ban vui cho chúng sanh là từ nơi Phật Tánh hiền lành của Phật không từ nhân duyên bên ngoài và cũng không một tương lai chi cả. Nếu cần phải hi sinh phần mình để được vui tươi hạnh phúc cho bao kẻ thì Phật sẵn sàng chấp nhận. 2.Bi Tâm Vô Lượng là Ðức Phật luôn luôn có tấm lòng thương xót tất cả chúng sanh, nhổ những cây gai đau khổ cho các chúng sanh và xoa dịu các vết thương lòng cho thường được mát mẻ an ổn. Thương của Phật là Từ Bi Tâm phát hiện nên vừa nhẹ nhàng, vừa mát dịu, vừa sâu thẳm, vừa rộng rãi bao la mà không sự hi vọng nào cả. Người thân, người thù, người hiền, người hung, người thân, người sơ đều được tình thương của Phật bình đẳng mà ban trải không phân biệt. 3.Hỉ Tâm Vô Lượng là Ðức Phật bao giờ cũng có đức tánh an vui của Hỉ Tâm Vô Lượng. Cho nên các cảnh duyên thuận nghịch, thương ghét, khen chê, đắc thất, phải quấy cũng chỉ thường hằng một niềm vui tự tánh Chơn Lạc. Chính cái vui của Phật mà làm cho chúng sanh bớt được các khổ đau sầu hận trả lại sự an lạc phần nào. Phật thường vui lòng chấp nhận những gì đem đến cho Ngài được coi là nghiệt ngã đau thương, miễn chúng sanh đặng hạnh phúc. 4.Xả Tâm Vô Lượng là Phật buông xả tất cả các pháp trong thế gian, không chấp giữ một việc gì dù là thiện ác, công tội, thế gian hay xuất thế gian. Những phương tiện nào Phật dùng để hoá giải cho thế gian đến cuối cùng Ngài cũng xả hết không lưu lại một thứ gì, ví như ảnh hiện trong gương, tuỳ cảnh mà hiện vào, cảnh qua thì không còn lưu lại dấu vết. Cái sâu thẳm vời vợi của Phật Giáo là chỗ Xả Tâm Vô Lượng của Phật. Tứ Vô Lượng Tâm cũng gọi là Bốn Ðại Ðức của chư Phật, Ðức Thầy đã có giải rõ. Chữ thương mà Ðức Thầy dùng nơi đây là tình thương trong Tứ Vô Lượng Tâm của chư Phật . Bịn rịn : Là nói vì thấy chúng sanh quá đau khổ mà Ðức Thầy không sang qua bờ giác của chư Phật. Ðịa Tạng Vương Bồ Tát khi đến Ðịa Ngục, nhìn thấy chúng sanh bị hành hạ đau khổ Ngài động mối bi tâm phát nguyện ở mãi nơi Ðịa Ngục để lo hoá độ những chúng sanh khổ mà không rời khỏi Ðịa Ngục. “Thương quá sức nên ta bịn rịn, Quyết độ đời cho đến chung thân.” Ðó là ý chí Ðại Hùng cùng với tinh thần Ðại Lực phát khởi từ Bi Tâm, Ðức Giáo Chủ phát Ðại Nguyện quyết độ tận chúng sanh cho đến trọn đời không nỡ xa lìa chúng sanh đau khổ. Phật là mẹ hiền của chúng sanh, chúng sanh vui thì Phật mới an vui, bằng như chúng sanh khổ thì Phật chưa đành an vui nơi cõi Tịnh “Nếu thế gian còn chốn mê tân, Thì ta chẳng an vui Cực Lạc.” Thật là Từ Bi vô lượng, Phật nguyện rộng sâu, chí lớn vô bờ độ tận chúng sanh mới mãn nguyện. Ý chí Ðại Hùng, Ðại Lực của Huỳnh Phật Sư ví như Trời che đất chở khó nỗi suy lường. Ý chí của Ngài được tiếp nối từ Ðức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, Ðức Phật xưa kia cũng đã từng kiên quyết:Ta là người đáng xuống Ðịa Ngục, chẳng những xuống Ðịa ngục mà còn thường trú ở Ðịa Ngục, chẳng những thường trú ở Ðịa Ngục mà còn thường làm cho Ðiạ Ngục được trang nghiêm thanh tĩnh. Ðến Ðức Phật A Di Ðà phát 48 lời Ðại Nguyện lập quốc và độ tận chúng sanh, mỗi Nguyện đều nói nếu không được đúng như vậy thì thề không thành Phật . Huỳnh Phật Sư vốn từ Tây Phương Cực Lạc thừa sắc chỉ Ðức Từ Phụ A Di Ðà hoá hiện cõi trần gian. Ngài không quá khứ, cũng không vị lai mà thường có mặt trong hiện tại với chúng sanh, dẫu như thân ta có chết đến bao nhiêu kiếp thì Ngài cũng vẫn không mất. Bởi lẽ phẩm chất Ðại Giác và Ðại Nguyện của Ngài đã hoá hiện thành dân tộc, thành thiêng liêng sông núi nhiệm mầu, thành tinh thần tỉnh thức cho Phật Giáo tại Việt Nam, thành hoa thơm hương quí nơi các Tự Viện Tòng Lâm….nên Ngài được còn mãi! “Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.” Ngài đã xác nhận như thế, Ngài vẫn không rời ta chỉ vì ta chưa hết lòng muốn gặp Ngài đó thôi! Tâm của Phật Sư lớn nên Ngài phát Nguyện lớn và Hạnh lớn hầu hoá độ rộng lớn khắp trong vũ trụ bao la đồng về Phật Quốc trang nghiêm mà hưởng quả Bồ Ðề cao quí. Nam Mô A Di Ðà Phật. Ðàm Liên Tịnh Giả cẩn biên Thạch Thất Ngũ Hồ Sơn Mùa Hạ năm Bính Tuất